• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Việt Nam thời dựng nước

Trần dụ tông ( 1341 – 1369)

Niên hiệu : Thiệu Phong ( 1314 – 1357)
Đại Trị : 1358 – 1369)

Hiến Tông không có con nên việc truyền ngôi báu do Thượng hoàng xếp đặt. Thượng hoàng Minh Tông có 7 con trai : Hiến Tông Vượng, Cung Túc vương Dục, Cung Đình vương Trạch, Dụ Tông Hạo, Cung tĩnh vương Nguyễn Trạch, Nghệ Tông Phủ, Duệ Tông Kính.

Hiến Tông mất, Thượng hoàng lập người con tên là Hạo, sinh năm Bính Ngọ ( 1336) lên làm vua, hiệu là Dụ Tông. Những năm đầu, mọi quyền bính đều do Thượng hoàng Minh Tông điều khiển. Bởi thế, dù có mất mùa dân đói nhưng việc chính trị còn có nền nếp. Từ năm 1358 trở đi, Thượng hoàng mất, các cựu thần như Trường Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng không còn, triều đình bắt đầu rối loạn. Bọn gian thần kéo bè, kết đảng lũng đoạn triều chính. Chu Văn An dâng « Thất trảm sớ », xin chém 7 gian thần nhưng vua không nghe, ông liền bỏ quan về dạy học. Đã thế, vua Dụ Tông ham chơi bời, rượu chè, xây cung điện để đánh bạc, mở tiệc bắt các quan thi nhau uống rượu, ai uống 100 thăng thì thưởng cho hai trật .v…v. Khiến cho triều đình rối nát, loạn lạc nổi lên như ong. Nhân dân cực khổ trăm bề.

Bên ngoài, nhà Minh mới đánh bại nhà Nguyên còn bận sửa sang việc nước chưa dòm ngó đến Đại Việt. Trái lại, Chiêm thành thấy nhà Trần suy yếu, có ý coi thường, muốn đòi lại đất Thuận Hóa. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga mấy lần đem quân đánh phá thành Thăng Long khiến triều Trần nhiều phen khốn đốn.

Năm Kỷ Dậu ( 1369) vua Dụ Tông mất thì bão táp đã nổi lên ở cung đình. Nguyên do, Dụ Tông không có con trai. Triều đình lập Cung Định vương là anh Dụ Tông lên làm vua nhưng bà Hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con nuôi của Cung Túc vương và Dương Nhật Lễ lên ngôi. Nguyên mẹ Nhật Lễ là một đào hát, lấy một kép hát bội là Dương Khương có thai rồi mới bỏ Dương Khương mà lấy Cung Túc vương sinh ra Nhật Lễ. Nay lên làm vua, Nhật Lễ muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần rồi giết bà Hoàng thái hậu cùng Cung Định vương. Cung Tĩnh vương vốn nhu nhược thấy thế bỏ chốn lên mạ Đằng Giang.

Trước tình hình nội chiến rối ren, các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh về bắt giết Nhật Lễ rồi rước Cung Tĩnh vương về làm vua, tức vua Trần Nghệ Tông.
 
Trần nghệ tông ( 1370 – 1372)

Niên hiệu : Thiệu Khánh

Cung Tĩnh Vương sinh năm Ất Sửu ( 1324) do các tôn thất nhà Trần phò giúp, lên ngôi năm Canh Tuất ( 1370).

Nghệ Tông làm vua chưa được bao lâu đã phải lao đao chạy giặc. Nguyên do, khi Nhật Lễ bị giết, mẹ Nhật Lễ chạy vào Chiêm thành cầu cứu vua Chế Bồng Nga đem quân đánh Đại Việt. Quân chiêm vượt bể vào cửa Đại An tiến đánh Thăng Long. Quân Trần không đánh nổi, phải bỏ kinh thành. Vua Nghệ Tông chạy sang Đông Ngàn ( Đình Bảng – Bắc Ninh) lánh nạn. Quân Chiêm vào thành đốt sạch cung điện, bắt đàn bà con gái, lấy hết vàng bạc châu báu rồi rút quân về.

Vua nhu nhược, bất lực không điều khiển nổi triều chính phải giao cho Hồ Quý Ly nhiều quyền hành. Hồ Quý Ly có hai người cô lấy vua Minh Tông. Một người là Minh Từ hoàng hậu sinh ra vua Nghệ Tông, một người là Đôn Từ Hoàng hậu sinh ra vua Duệ Tông. Vì vậy, Nghệ Tông tin dùng phong cho Hồ Quý Ly làm khu Mật Đại Sứ, lại gia tước Trung Tuyên hầu.

Năm Nhâm Tí ( 1327) Nghệ Tông truyền ngôi cho em là Kính rồi về phủ thiên Trường làm Thái Thượng hoàng.
 
Trần duệ tông ( 1327 – 1377)

Niên hiệu : Long Khánh

Trần Kính sinh năm Đinh Mùi ( 1337) lên ngôi lấy hiệu là Duệ Tông, lập em họ là Hồ Quý Ly là Lê thị làm Hoàng hậu.

Duệ Tông quyết đoán hơn nhưng không thể làm gì được gì vì quyến bính vẫn do Thượng hoàng Nghệ Tông nắm giữ.

Năm Giáp Dần ( 1374) vua cho mở khoa thi tiến sĩ thay cho thi thái học sinh, lấy được 50 người ban cho áo mũ vinh quy.

Việc nổi cộm nhất dưới thời Duệ Tông là chiến tranh với Chiêm thành, năm Bính Thìn ( 1376), quân Chiêm sang đánh Hóa Châu ( Nghệ An). Thấy Chiêm thành luôn xâm phạm bờ cõi Đại Việt, vua Duệ Tông quyết thân chinh đem quân đi trừng phạt, vua sai quân dân Thanh Hóa, Nghệ An vận tải 5 vạn thạch lương vào Hóa Châu rồi rước Thượng hoàng dự lễ duyệt binh. Có lẽ vì sợ, Chế Bồng Nga sai người sang cống 15 mâm vàng. Nhưng quan trấn thủ Hóa Châu là Đỗ Tử Bình ỉm đi, rồi dân sớ nói dối rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn, vô lễ, xin vua cử binh đi đánh. Được tin ấy, vua Duệ Tông sai Quý Ly dốc vận lương thực đến cửa biển Di Luân ( Quảng Bình )rồi tự dừng quân một tháng để luyện tập quân sĩ tốt. Đến tháng Giêng năm Đinh Tị ( 1377) tiến quân vào cửa thị Nại ( Quy Nhơn) đánh lấy đồn Thạch Kiều và động Kỳ Mang rồi tiến vào Đồ Bàn, kinh đô vua Chiêm. Chế Bồng Nga lập đồn giữ ở ngoại thành, cho người trá hàng nói Chế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn, xin tiến binh ngay. Duệ Tông tưởng thật, truyền lệnh tiến binh vào thành. Đại tướng Đại Việt là Đỗ Lễ can mãi vua không nghe. Khi quân Việt đến chân thành Đồ Bàn, quân Chiêm từ 4 phía đổ ra đánh. Quan quân thua to. Vua Duệ Tông chết trong đám loạn quân. Bọn Đỗ Tử Bình lĩnh hậu quân, hèn nhát không đem quân lên cứu. Hồ Quý Ly cũng bỏ chạy. Thế mà về đến kinh Hồ Quý Ly không hề bị trách cứ. Đỗ Tử Bình chỉ bị giáng suống làm lính mà thôi.
 
Trần phế đế ( 1377 – 1388)

Niên hiệu : Xương Phù

Thượng hoàng Nghệ Tông được tin vua Duệ Tông chết trận bèn lập con Duệ Tông là Hiền, sinh năm Tân Sửu ( 1361) lên nối ngôi, hiệu là Phế Đế. Nhưng mọi quyền bính vẫn do Thượng hoàng nắm giữ.

Nước Đại Việt những năm này bị Chiêm thành quấy nhiễu, cướp bóc dũ dượi.

Sau khi giết được vua Duệ Tông, Chế Bồng Nga huy động quân Chiêm tiến đánh và cướp pháp Thăng Long.

Năm Mậu Ngọ ( 1378), quân Chiêm lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng cướp bóc Thăng Long lần nữa.

Năm Canh Thân ( 1380) rồi năm Nhâm Tuất ( 1382) quân Chiêm lại xâm phạm bờ cõi Đại Việt. Nhưng hai lần này chúng bị đánh bại.

Tháng sáu năm Quý Hợi ( 1383), vua Chiêm thành Chế Bồng Nga lại đem quân tiến đánh Đại Việt.

Thượng hoàng Nghệ Tông sai tướng Mật Ôn giữ ở Châu Tam Kỳ ( miền Quốc Oai – Hà Tây), nhưng Mật Ôn thua trận bị bắt sống. Thượng hoàng sợ hãi sai Nguyễn Đa Phương ở lại giữ kinh thành còn mình và vua Đế Phế chạy sang Đông Ngàn. Có người thấy vậy níu thuyền lại xin Thượng hoàng cứ ở lại kinh sư mà chống giặc. Nhưng Thượng hoàng không nghe, lần nữa quân Chiêm lại tàn phá Thăng Long. Vậy mà khi giặc rút về, Thượng hoàng và vua không lo việc phòng bị chống giặc mà chỉ lo mang của cải đi chôn giấu.

Và, cứ để kho tàng trống rỗng vì chiến tranh, nhà vua đã tăng sưu thuế, hơn thế nữa, nhà vua bắt mỗi suất đinh mỗi năm phải đóng 3 quan tiền thuế. ( Thuế thân sinh ra từ đấy) khiến cho muôn dân ngày càng khổ cực.

Trong khi ấy, ở phương Bắc, nhà Minh bắt đầu dòm ngó Đại Việt. Năm Giáp Tý (1384), Minh Thái Tổ sai sứ sang Đại Việt đòi gấp 5.000 thạch lương cho quân Minh ở Vân Nam, cùng nhiều cống phẩm quý giá khác.

Trước tình hình quốc chính rã rời, nhiều tôn thất nhà Trần chỉ lo cho cá nhân mình, xin về trí sĩ. Ví như Trần Nguyên Đán biết trước Hồ Quý Ly sẽ cướp ngôi nhà Trần bèn kết làm thông gia với họ Hồ, mong cho con cháu được phú quý và toàn tính mạng. Khi Thượng hoàng đến thăm Trần Nguyên Đán hỏi việc nước, Nguyên Đán không dân được kế hay, ngoài lời khuyên thuần túy về cách ứng xử.

Xin bệ hạ thờ nhà Minh như cha, yêu nước Chiêm thành như con, thì quốc gia sẽ không việc gì, mà lão thần chết cũng không hẩm.

Thượng hoàng Nghệ Tông vẫn hết lòng tin Hồ Quý Ly trung thành với triều Trần, đã traoc cho Quý Ly gươm và cờ đề « Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức » . Nhưng vua Phế Đế đã thấy rõ âm mưu thoát đoạt của Hồ Quý Ly. Vua bàn với các quan tâm phúc tìm cách trừ khử để tránh hậu họa. Hồ Quý Ly biết âm mưu đấy đến van xin với Thượng hoàng.

Cổ lai chỉ bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi cháu bao giờ.

Thượng hoàng nghe lời Quý Ly xuống chiếu trách vua Phế Đế trẻ con, lại có ý làm hại kẻ công thần, làm nguy xã tắc nên giáng xuống làm Minh Đức đại vương và lập Chiêu Định Vương là con Nghệ Tông lên nối ngôi.

Thấy Thượng hoàng mê muội, một số tướng toan đưa quân vào điện cứu vua Phế Đế. Nhưng vua viết hai chữ « Giải pháp » ý không muốn trái lệnh Thượng hoàng. Sau đó vua Phế Đế bị thắt cổ chết, các tướng đồng mưu giết hại Hồ Quý Ly đều bị sát hại.
 
Trần thuận tông ( 1388 – 1398)

Niên hiệu : Quang thái

Nghệ Tông Thượng hoàng nghe Quý Ly, giết Phế Đế rồi lập con út của mình là Chiêu Định vương sinh năm Đinh Tỵ ( 1377) lên làm vua, tức là vua Thuận Tông.

Hồ Quý Ly gả con gái Khâm thánh cho Thuận Tông rồi chuyên quyền, gài tay chân thân tín nắm giữ những chức vụ then chốt trong triều đình và trong quân đội. Thực trạng đó khiến lòng dân hoang mang, bất phục, nên loạn lạc nổi lên nhiều nơi. Kiệt liệt hơn cả là cuộc nổi dậy của nhà sư Phạm Sư Ôn ở Quốc Oai ( Sơn Tây) đã khởi binh tiến đánh kinh sư, khiến Thượng hoàng, vua Thuận Tông cùng triều đình phải bỏ chạy lên Bắc Giang. Phạm Sư Ôn giữ kinh sư ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Về sau Sư Ôn bị một bộ tướng của triều đình là Hoàng Phùng thế đánh bắt được.

Năm Kỷ Tị ( 1389) Chế Bồng Nga đem quânh tiến đánh Đại Việt. Vua sai Hồ Quý Ly đem quân cự chiến. Nhưng Quý Ly thua trận phải chạy rút, cuối năm ấy Chế Bồng Nga lại tiến vào sông Hoàng Giang để đánh chiếm Thăng Long. Thượng hoàng sai đô tướng là Trần Khát Chân đem binh đi chặn giặc, Trần Khát Chân khóc lóc và lạy rồi ra đi, Thượng hoàng cũng khóc. Xem thế đủ thấy vua tôi nhà Trần đã khiếp nhược đến cùng cực. Trần Khát Chân đem binh đóng ở Hải Triều ( vùng Hưng Nhân, Thái Bình và Tiên Lữ , Hưng Yên)

Tháng giêng năm Canh Ngọ ( 1390), Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa của Trần Khát Chân. Bấy giờ có hàng binh Chiêm thành do Khát Chân hay dấu hiệu đặc biệt của chiếc thuyền chở Chế Bồng Nga trong số cả trăm chiếc thuyền đang tiến vào trận địa, Khát Chân hạ lệnh tập trung mọi loại vũ khí bắn vào thuyền ấy. Chế Bồng Nga trúng tên chết, quan quân được thể tiến ra đánh, quân Chiêm đại bại. Khát Chân lấy đầu Chế Bồng Nga đem dâng triều đình. Tướng Chiêm thành là La Ngai đem quân tàn về nước chiếm lấy ngôi vua Chiêm. Hai người con Chế Bồng Nga chạy sang hàng Đại Việt, được vua Trần trọng dụng.

Trừ xong giặc Chiêm thành, Hồ Quý Ly càng thao túng triều đình. Những người không ăn cánh với mình, trừ con cái Trần Nguyên Đán. Quý Ly đều xui Thượng hoàng giết đi, nhiều Hoàng tử, thân vương bị sát hại. Sĩ phu có người dân sớ tâu với Thượng hoàng rằng Hồ Quý Ly có ý muốn dòm ngó cơ nghiệp nhà Trần, Thượng hoàng lại đưa sớ cho Quý Ly xem. Bởi vậy, các trung thần không ai dám tâu bày gì nữa.

Nhưng rồi Thượng hoàng cũng nhận ra sự lông hành của Quý Ly. Một hôm, Thượng hoàng gọi Quý Ly vào trong điện bảo rằng.

Nhà ngươi là thân tộc, cho nên bao nhiêu việc nước trẫm đều ủy thác cho cả. Nay quốc thể suy nhược, trẫm thì già rồi, ngày sau con trẫm có nên thì giúp, không thì nhà ngươi tự làm lấy.

Quý Ly cởi mũ, khấu đầu mà thề rằng.

Nếu hạ thần không hết lòng hết sức giúp nhà vua thì trời tru đất diệt. Vả ngày trước Linh Đức vương ( Phế Đế) có lòng làm hại nếu không có uy linh của bệ hạ thì nay thần đã ngậm cười dưới đất, còn đâu ngày nay nữa mà mài thân nghiền cốt để báo đền vạn nhất. Vậy hạ thần đâu có ý gì khác, xin bệ hạ tỏ lòng ấy cho và đừng lo gì.

Tháng Chạp năm Giáp Tuất ( 1394) Thượng hoàng Nghệ Tông mất, trị vì được 3 năm, làm Thái Thượng hoàng 27 năm, thọ 74 tuổi. Người đương thời cho Nghệ Tông là ông vua « chí khí đã không có, trí tuệ cũng hèn kém, để cho gian thần lừa đảo, giết hại cả con cháu họ hàng, xa bỏ những trung thần nghĩa sĩ, cứ tin dùng một Quý Ly cho được quyền thế đến nỗi làm xiêu đổ cơ nghiệp nhà Trần ».

Nghệ Tông mất rồi, Quý Ly lên làm Phụ chính thái sư, dịch sách để dạy vua, thâu tóm trọn quyền binh trong triều ngoài lộ. Để dễ đường thoát đoạt. Quý Ly quyết định đời đô vào Thanh Hóa, xây thành Tây Đô ( xã Yên Tôn, Vĩnh Lộc). Năm 1397 bắt vua Thuận Tông phải dời kinh về Tây Đô, tháng ba năm sau. Quý Ly ép vua nhường ngôi để đi tu. Thuận Tông buộc phải nhường ngôi cho con rồi đi tu ở cung Bảo thanh tại núi Đại Lai ( Thanh Hóa).
 
Trần thiếu đế ( 1398 – 1400)

Niên hiệu : Kiến Tân

Hồ Quý Ly bắt vua Thuận Tông nhường ngôi cho Thái tử Án lúc đó mới 3 tuổi lên kế nghiệp tức là vua Thiếu Đế, Hồ Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt đại vương rồi sai người giết Thuận Tông, con rể mình.

Triều Trần lúc đó có thái Bảo Trần Hãng, thượng tướng quân Trần Khát Chân lập hội tế mưu trừ Quý Ly. Việc bại lộ Hồ Quý Ly cho giết tất cả 370 người. Sau đấy, Hồ Quý Ly lại xưng ra Quốc Tổ chượng hoàng ở cung Nhân thọ, ra vào dùng nghi vệ thiên tử. Đến tháng Hai năm Canh Thìn ( 1400) Hồ Quý Ly bỏ Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, lật đổ nhà Trần lập nên nhà Hồ.

Như vậy, triều Trần kể tử Thái Tông Trần Cảnh đến Trần Thiếu Đế, là 12 vua, trị vì được 175 năm.

Cơ nghiệp nhà Trần bắt đầu suy vi từ vua Dụ Tông và Nghệ Tông, Dụ Tông thì chơi hoang, không lo đến chính sự, làm loạn cả kỷ cương phép nước làm dân nghèo nước yếu. Nghệ Tông thì bạc nhược không phân biệt hiền gian để kẻ cầm quyền thần được thể làm loạn, tự mình nối giáo cho giặc khiến cơ nghiệp nhà Trần tan vỡ.

Các đời vua Trần ( 1225 – 1400)
1> Trần Thái Tông ( 1225 – 1258)
2> Trần Thánh Tông ( 1258- 1278)
3> Trần Nhân Tông ( 1258 – 1278)
4> Trần Anh Tông ( 1293 – 1314)
5> Trần Minh Tông ( 1314 – 1329)
6> Trần Hiền Tông ( 1329 – 1341)
7> Trần Dụ Tông ( 1341 – 1369)
8> Trần Nghệ Tông ( 1370 – 1372)
9> Trần Duệ Tông ( 1372 – 1377)
10 > Trần Thuận Tông ( 1388 – 1398)
11 > Trần Thiếu Đế ( 1398 – 1400)
 
Triều hồ ( 1400 – 1407) và nước đại ngu

Hồ Quý Ly ( 1400)

Niên hiệu : Thánh Nguyên


Vào cuối thế kỷ XIV, đất nước ở trong tình trạng rối ren. Triều Trần đã trở nên ruỗng nát, bị lung lay tận gốc. Nhân hoàn cảnh đó, Hồ Quý Ly, một quý tộc có vây cánh và thanh thế trong triều, đã mất dần quyền lực nhà Trần rồi đến năm 1400, phế truất hẳn vua Trần lập ra một vương triều mới. Triều Hồ.

Hồ Quý Ly dòng dõi người ở Triết Giang, Trung Quốc. Từ đời Ngũ Quý sang Việt Nam sống ở Quỳnh Lưu (Nghệ An) sau chuyển ra Thanh Hóa.

Hồ Quý Ly tham dự vào chính sự nhà Trần khoảng 28 năm. Sau khi bức vua Trần rời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quân thần trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh thìn ( 1400) Quý Ly truất ngôi của Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu ( Nguyên họ Hồ dòng dõi nhà Ngu bên Trung Quốc nên Quý Ly đặt quốc hiệu như vậy. Ngu còn có nghĩa là an vui). Quý Ly làm vua chưa được một năm, bắt trước tục nhà Trần, nhường ngôi cho con thứ Hồ Hán thương rồi làm Thái Thượng hoàng cùng coi việc nước.

Trong đó khoảng 35 năm nắm quyền chính ở triều Trần và triều Hồ Quý Ly đã từng bước tiến hành một cuộc cải cách rộng lớn về mọi mặt.

Về mặt hành chính, Quý Ly đổi các lộ xa làm trấn, đặt thêm các chức Anh Phủ phó sứ. Trấn thủ phó sứ cùng các chức khác ở các châu huyện.

Ở các lộ thì đặt những chức quan lớn như Đô hộ, Đô thống, thái thú quản cả việc quân sự và dân sự. Quý Ly còn đặt các chức Liêm phóng sứ tại mỗi lộ để dò xét tình hình quân dân.

Về mặt kinh tế, cái cách quan trọng nhất của Hồ Quý Ly là phép hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy và đổi mới chế độ thuế khóa. Đó là những cải cách tiến bộ nhằm tước giảm thế lực của bọn quý tộc Trần, giải quyết tình trạng kiệt quệ tài chính của triều đình. Theo phép hạn điền, trừ đại vương và trưởng công chúa, mỗi chủ đất chỉ được giữ 10 mẫu trở xuống, số ruộng thừa phải sung công, nghĩa là khôi phục chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. ai có tội được phép lấy ruộng mà chuộc tội.

Về văn hóa xã hội, Hồ Quý Ly phản đối lối học sáo rỗng, nhắm mắt học vẹt nói lời của cổ nhân để xét việc trước mắt. Năm Nhâm Thân ( 1392), Quý Ly soạn sách Minh Đạo gồm 14 thiên đưa ra những kiến giải xác đáng về Khổng Tử và những nghi vấn có căn cứ về sách « Luận ngữ » một trong những tác phẩm kinh điển của nho gia.

Hồ Quý Ly cũng có hoài bão xây dựng một nền văn hóa dân tộc. Ông trọng dụng chữ Nôm, dịch Kinh thi ra Nôm để dạy hậu phi, cung nữ, ông còn quan tâm đến việc mở thêm trường học ở các lộ phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông và định lại phép cho có quy củ.

Về mặt xã hội, Quý Ly mở « Quảng Tế Như » một loại bệnh viện công, chữa bệnh bằng châm cứu và lập kho báu thóc rẻ cho người nghèo. Việc ông cho ban hành cân, thước, đấu, thưng để thống nhất đo lường cũng góp phần làm tăng thêm giá trị văn minh của đời sống xã hội.

Quý Ly đã thực hiện những cuộc cải cách ấy, với một quyết tâm cao, một tài năng xuất chúng và một bản lĩnh phi thường. Và dù những cải cách đó có ý nghĩa tích cực nhưng nhìn chung toàn bộ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và những đòi hỏi cấp thiết của dân tộc. Chính sách cải cách của nhà Hồ có hạn chế bớt thế lực họ Trần nhưng lại làm lợi riêng cho họ Hồ nhiều hơn là lợi ích quốc gia. Vì vậy ông đã thất bại, cái mà ông làm ra không bằng những bài học ông để lại. Bài học lớn nhất, dẫn đến thất bại của ông là để mất lòng dân. Quý Ly đã tiến hành cải cách và đoạt chính bằng quyền lực tàn bạo. Trong cuộc tàn sát các tôn thất nhà Trần và những người không ăn cánh.

Quý Ly giết một lúc 370 người, gián tiếp và trực tiếp nhiều vua, và còn tiếp tục tàn sát trong nhiều năm sau, làm cho người quen biết nhau « chỉ nhìn nhau bằng mắt không dám nói chuyện với nhau bằng lời. Người đương thời cho Quý Ly là gian giảo. Một triều vua như vậy khó đứng vững.
 
Hồ hán thương ( 1401 – 1407)

Niên hiệu : Thiệu Thành ( 1401 – 1402)
Khai Đại ( 1403 – 1407)

Hồ Quý Ly có mối tình rất lạ với Công chúa Nhất Chi Mai. Tương truyền : Hồ Quý Ly lúc hàn vi thường theo người cha nuôi họ Lê đi buôn đường biển. Một lần thuyền chở theo hàng ghé vào bờ Quý Ly thấy bãi biển có ai vạch lên cát câu thơ.

Quảng Hàn cung lý Nhất Chi Mai.

Quý Ly nhẩm thuộc lòng lấy câu thơ đó, đến khi Quý Ly làm quan, một hôm hộ giá vua Trần đi chơi, nửa chừng ghé vào tránh nắng ở điện Thanh Thử, thấy trước điện rất nhiều cây quế, vua liền ra câu đối.

Thanh thử điện tiền thiên thụ quế.

Các quan cùng đi lúng túng chưa kịp đối thì Quý Ly nhớ lại câu thơ trên bãi biển năm xưa, bèn đọc luôn.

Quảng Hàn cung lý Nhất Chi Mai.

Cả hai câu ghép lại thành hai vế đối nhau rất chỉnh .

Thanh thử điện kia ngàn gốc quế
Quảng Hàn cung nọ một cành mai.

Nghe xong các quan đền phục tài Hồ Quý Ly. Vua Trần càng kinh ngạc hơn bởi nhà vua có một công chúa đặt tên là Nhất Chi Mai. Nàng ở trong cung cấp không ra đến ngoài. Vua hỏi Quý Ly.

Nhà ngươi làm sao biết được trong cung tả ta có công chúa tên Nhất Chi Mai, tòa lầu của công chúa là cung Quảng Hàn do chính ta đặt tên ?

Quý Ly cứ thực tâu lại việc trước, vua cho là chuyện lạ, duyên trời đã định, bèn gả công chúa Nhất Chi Mai cho Quý Ly.

Nhất Chi Mai sinh được 2 con trai thông minh, có tên là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương.

Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con thứ Hồ Hán Thương nhưng vẫn tự mình quyết đoán mọi việc.

Biết trước nhà Minh trước sau cũng đánh Đại Ngu nên Hồ Quý Ly tập trung sức lo việc võ bị, chuẩn bị đối phó với giặc. Quý Ly thường hỏi các quan.

Ta làm thế nào để chho có 100 vạn quân để đánh giặc Bắc ?

Hỏi tức là đã trả lời, Quý Ly lập ra hộ tịch bắt mọi người cứ 2 tuổi lên phải kê khai, ai ẩn náu phải phạt. quả nhiên hộ tịch làm xong, số người từ 15 tuổi đến 60 hơn gấp mấy lần trước. Quân số do vậy tăng lên nhiều.

Quý Ly đặc biệt chú trọng luyện tập thủy binh để giữ mặt sông mặt biển. Ông cho đóng những con thuyền lớn bên trên lát ván để đi lại dễ dàng, khoang dưới cho người chèo lái rất lợi hại. Ở các cửa bể và những nơi hiểm yếu trên các sông lớn, ông cho đóng cọc, hình thành những trận địa mai phục quy mô.

Về biên chế quân đội, Quý Ly phân chia Nam Bắc gồm 12 vệ. Đông Tây chia ra 8 vệ, mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân có 30 đội, trung quân 20 đội. Mỗi doanh có 15 đội, mỗi đoàn có 10 đội, ngoài ra còn 5 đội cấm vệ quân. Tất cả do một đại tướng thống lĩnh.

Năm Ất Dậu ( 1405) sau những năm tháng ngoại giao mềm mỏng, chịu lép không kết quả, cha con Hồ Quý Ly phải đứng trước thử thách hiểm nghèo. Đối phó với quân xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly giao cho con cả là Hồ Nguyên Trừng chỉ huy đắp thành Đa Bang, lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạc Hạc ( Việt Trì) và đưa quân đóng giữ các nơi. Nhưng đúng như Hồ Nguyên Trừng nói « Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không mà thôi » Chính vì họ Hồ không được lòng dân nên khi Trương Phụ và Mộc thạch đem 20 vạn bộ binh, kỵ binh và hàng chục vạn phu dịch sang xâm lược nước ta, triều Hồ đã thất bại.

Trước các mũi tiến công của địch, đội quân nhà Hồ có chặn đánh ở một vài nơi rồi rút về giữ phòng tuyến Nam sông Hồng. Quân Minh thừa cơ hội đã tập trung binh lực vượt sông Hồng đánh chiếm thành Đa Bang. Cuối năm Bính Tuất ( 20 -1470) thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ cũng tan vỡ nhanh chóng. Từ Đa Bang ngày 22 – 1- 1407, quân địch tràn xuống chiếm đóng kinh thành Thăng Long. Quân nhà Hồ lại một lần nữa rút lui xuống miền hạ lưu sông Hồng. Và sau một vài trận phản công thất bại, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đem bọn thuộc hạ chạy ra biển rồi vào Thanh Hóa.

Đến Lỗ Giang ( sông Mã) quân Minh đuổi kịp, quân Hồ lại một phen tan tác. Tướng Hồ là Ngụy thức thấy thế nguy cấp, bèn tâu.

Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin bệ hạ tự đốt đi mà chết còn hơn.

Hồ Quý Ly giận lắm, bắt ngay Ngụy thức chém rồi chạy vào Nghệ An. Quân Minh tiếp tục đuổi theo, đến Kỳ La ( Kỳ Anh – Hà Tĩnh) cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt. Lúc đó là tháng 6 năm Đinh Hợi ( 1407)

Nhà Hồ làm vua từ năm Canh Thìn ( 1400) đến năm Đinh Hợi ( 1407) được trọn 7 năm thì sụp đổ. Nước ta lại nằm trong vòng đô hộ nhà Minh.
 
Hồ nguyên trừng

Hồ Nguyên Trừng là con cả của Hồ Quý Ly không chỉ là vị tướng tài mà còn là một công trình sự lỗi lạc, được coi là ông tổ của nghề súng thần công Việt Nam. Việc ông lập một một tuyến chống giặc bắt đầu bằng cứ điểm then chốt Đa Bang ( Ba Vì ) kéo dài theo bờ Nam sông Đà, sông Hồng cho đến song Ninh ( Nam Hải) rồi lại tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình đến Bình than dài trên 400km, đã tỏ rõ ông là một nhà quân sự kiệt xuất. Hồ Nguyên Trừng cũng sáng tạo ra cách đánh độc đáo, ông cho đúc nhiều dây xích lớn chăng qua những khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phục trang bị bằng hỏa lực mạnh, từng khiến cho thủy binh giặc nhiều phen khiếp đảm. Tuy vậy, nói đến Hồ Nguyên Trừng người ta thường nhắm nhiều đến công sáng chế ra súng « Thần cơ » của ông.

Thời ấy, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Nhờ thông minh tuyệt với khả năng suy nghĩ phi thường, Hồ Nguyên Trừng đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền, trên cơ sở đó, phát minh, chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá sấm sét. Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng « Thần cơ ». Súng thần cơ của Nguyên Trừng có đầy đủ các bộ phận cơ bản của loại súng là một ống đúc bằng sứ hoặc đồng. Phía đuôi súng là một ống đúc kín có bộ phận ngòi cháy ở chỗ nhồi thuốc nổ. Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn, người ta nhồi thuốc súng phía đáy rồi đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn ghép bằng sắt và chì. Súng thần cơ có nhiều loại, loại nhỏ dùng cho bộ binh bắn xa áng chừng 700 mét, Hồ Nguyên Trừng đặc biệt cho chế tạo nhiều loại thần cơ gọi là « Thần cơ pháo ». Thần cơ pháo thực chất là súng thần công cỡ lớn được đặt cố định trên thành hoặc trên xe kéo cơ động. Quân Minh bao phen kinh hoàng về loại súng này mà không hiểu nổi. Nhưng cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại vì không được dân ủng hộ, trong lúc quân giặc giương cao cờ « phù Trần diệt Hồ ». Giặc Minh bắt được nhiều súng thần cơ, bắt được cả nhà sáng chế ra nó. Trong « Vân Đài loại ngữ », Lê Quý Đôn nhắc đến một tình tiết. Quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng.

Nếu nhớ lại rằng vào thời Hồ Nguyên Trừng, thế giới còn đang thai nghén về súng đại bác thì chúng ta càng tự hào về những sáng chế của ông.

Triều đại Hồ tồn tại trong 7 năm ( 1400 – 1407) với 2 đời vua.

1> Hồ Hán Hồ Quý Ly ( 1400)
2> Hồ Hán Thương ( 1401 – 1407)
 
Triều hậu trần (1407 – 1413)

GIẢN ĐỊNH ĐẾ ( 1407 – 1409)
Niên hiệu : Hưng Khánh.


Trương Phụ bắt được cha con Hồ Quý Ly đem về Kim Lăng, Quý Ly bị giam cầm một thời gian rồi đày đi làm lính ở Quảng Tây, còn con cháu và tướng sĩ thì được tha, nhưng phải ở lại đất Trung Quốc. Vua Minh còn truyền lệnh cho Trương Phụ bắt thêm những người có tài vương võ, giỏi toán pháp, thầy đồ, thầy bói, thầy thuốc kể cả những điền lực mặt mũi khôi ngô, gân sức khỏe mạnh của Đại Việt đưa sang Kim Lăng, ban thưởng hàn phẩm và sử dụng họ. Như vậy, chân tướng xâm lược của vua quan nhà Minh đã được phơi bày. Chúng trương cờ « Phù Trần diệt Hồ » chỉ là một chiêu bài, một thủ đoạn xâm lược. Kết thúc màn kịch này, nhà Minh giả treo bảng gọi con cháu nhà Trần ( nhằm bắt giết họ) rồi ép quan lại Đại Việt và các bô lão làm tờ khai rằng.

Họ Trần không còn ai nữa và đất An Nam vốn là đất Giao Châu ngày trước, nay xin đặt quân hiệu như cữ.

Ngay khi ấy, nhà Minh chia nước ta ra làm 17 phủ, 5 châu, bổ nhiệm quan cai trị.

Thời gian này có Giản Định Vương Trần Quỹ, con thứ vua Trần Nghệ Tông chạy giặc đến vùng Yên Mô ( Ninh Bình) tập hợp bộ hạ xưng là Giản Định hoàng đế dấy binh chống lại nhà Minh, khôi phục triều Trần. Nhưng vì quân Trần mới tuyểm mộ chưa kinh qua trận mạc nên bị quân Minh đánh thua, phải chạy vào Nghệ An. May nhờ có Đặng Tất, quan nhà Trần cũ đã ra hàng Minh đang làm tri châu ở Châu Hóa đem quân ra Nghệ An giúp sức. Rồi Nguyễn Cảnh Chân, Trần Nguyệt Hồ, những tướng giỏi, cùng đem quân theo phò Giản Định Đế. Địa bàn của vua Trần được mở rộng từ Nghệ An trở vào. Từ đây, tháng Chạp năm Mậu Tý ( 1408) Giản Định Đế hội tất cả quân Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa tiến đánh Đông Đô. Đến Ninh Bình, các quan thuộc và hào kiệt các nơi theo về rất đông.

Hay tin ấy, Mộc Thạch đem 4 vạn quân từ Vân Nam sang phối hợp với với quân từ Vân Nam sang phối hợp với quan Đô trưởng là Lữ Nghị quyết một phen sống mái. Quân Minh đến bến Bô Cô thì gặp quân Trần, một trận đánh ác liệt đã xảy ra. Vua Giản Định tự cầm trống thúc quân, tướng sĩ quân Trần tả xung hữu đột, phá được quân Minh, chém được Lữ Nghị, đuổi Mộc Thạch đến thành Cổ Lộng ( Ý Yên, Nam Định). Vua Giản Định muốn thừa thắng đánh tràn ra lấy Đông Quan ( Đông Đô), nhưng tướng Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân ngăn lại, muốn các lộ về hội đủ mới có thể đè bẹp được giặc. Vua Giản Định không cho là phải nghe lời gièm pha nên đem Đặt Tất và Nguyễn Cảnh Chân giết đi. Quân Trần thấy vua giết những người có công, chán nản, nhiều người bỏ trốn, con Đặng Tất là Đặng Dung, con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị, thấy thân phụ bĩ giết đều bỏ vua Giản Định, đem quân về Thanh Hóa rước Trần Quý Khoáng vào La Sơn ( Hà Tĩnh), tôn lên làm vua, hiệu là Trùng Quang.
 
Trùng quang đế ( 1409 – 1413)

Niên hiệu : Trùng Quang

Ngay sau khi được tôn lên làm vua, Trần Quý Khoáng sai tướng là Nguyễn Súy ra đánh, bắt được Giản Định Đế đem về Nghệ An, Quý Khoáng tôn Giản Định lên làm Thái Thượng hoàng cùng lo việc khôi phục cơ nghiệp của nhà Trần.

Lúc này vua Minh thấy Mộc Thạch bại trận liền sai Trương Phụ và Vương Hữu đem đại binh sang cứu viện. Quân Trần do Thượng hoàng Giản Định đóng ở Bình than lo việc chống giặc. Trương Phụ tiến đánh, Giản Định không chống nổi, đem binh quyền chạy đến Mỹ Lương ( Nho Quan, Ninh Bình) thì bị bắt, giải về Kinh Lăng. Cánh quân của Trùng Quang cũng bị thua phải bỏ Bình than chạy vào Nghệ An. Trương Phụ đánh Nghệ An, Trùng Quang phải chạy vào Hóa Châu. Vua Trùng Quang sai Nguyễn Biểu ra mắt Trương Phụ xin cầu phong, Trương Phụ liền bắt Nguyễn Biểu, Nguyễn Biểu tức giận chỉ mặt Trương Phụ, mắng rằng.

Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại còn nói thác đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp. Trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm cách vơ vét của cải, ức hiếp ân sinh. Chúng hay thật là đồ ăn cướp hung ngược.

Trương Phụ tức giận sai đem trói Nguyễn Biểu dưới sông cho đến chết.

Năm Quý Tị ( 1413) khi quân Trương Phụ đến Nghệ An, cha con quan Thái Phó nhà Hậu Trần là Phan Quý Hữu và Phan Quý Liên xin ra hàng, tiết lộ tất cả tất cả nội tình và nơi ẩn nấp của vua Trần. Bởi vậy, Trương Phụ quyết định tiến vào Hóa Châu mặc Mộc Thạnh can ngăn.

Tháng Chín năm ấy, quân Trương Phụ vào đến Thuận Hóa, quân Trần do Đặng Dung chỉ huy đã vào được thuyền của Trương Phụ Toan bắt sống hắn. Nhưng do không biết mặt, nên Trương Phụ kịp nhảy xuống sông, lấy thuyền con chạy thoát. Sau đấy biết quân Trần rất ít, Trương Phụ huy động lực lượng tiến đánh. Đặng Dung không chống nổi phải bỏ chạy. Từ sau trận thua ấy, vua Trùng Quang các tướng Trần phải ẩn nấp trong rừng và đều bị bắt giải về Trung Quốc. Giữa đường vua Trùng Quang Trần Quý Khoáng và tướng Đặng Dung nhảy xuống biển tự tử.

Nhà Hậu Trần tồn tại được 7 năm thì mất.

Trải hai đời vua.

1> Giản Định Đế ( 1407 – 1409)
2> Trùng Quang Đế ( 1409 – 1413)
 
Kỷ thuộc minh ( 1414 – 1417)

Nếu tính từ năm Bính Tuất (1407), quân Minh bắt được cha con Hồ Quý Ly giải về Kim Lăng, cho đến khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hoàn toàn thắng lợi năm Mậu Thân ( 1428) thì nước ta bị giặc Minh chiếm đóng trong 20 năm. Nhưng trong thực tế ách đô hộ của nhà Minh chỉ được yên ổn trong khoảng 4 năm ( 1414 – 1417). Bởi vì sau thất bại của nhà Hồ nhân dân Đại Việt quy tụ dưới ngọn cờ của các cuộc nổi dậy đều xưng đế nên sử gọi đó là Hậu Trần ( 1407 – 1417). Nhưng sau các cuộc đánh dẹp bằng hình sự, tháng 4 năm Giáp Ngọ ( 1414). Tổng binh Trương Phụ, Mộc Thạch và thị Lang Binh bộ nhà Minh là Trần Hiệp bắt đượ Trùng Quang Đế, Nguyễn Súy, Đặng Dung giải về Bắc, trên đường đi, vua tôi nhà Hậu Trần đã nhảy xuống biển tự tử để tỏ rõ khí phách, thì nhà Hậu Trần chấm dứt từ đây. Quốc thống thuộc về nhà Minh. Sử gọi là Kỷ thuộc Minh.

Tháng 8 năm đó ( 1414) Mộc Thạch, Trương Phụ, Trần Hiệp về nước, việc cai trị được trao cho viên quan văn là Hoàng Phúc, Hoàng Phúc có học vấn cao, tính tình điềm đạm, vì vậy mà hắn đã thực hiện một chính sách cai trị khéo léo, mềm mỏng nhưng vô cùng thâm độc.

Ngoài việc bóc lột kinh tế, đàn áp bằng quân sự như Trương Phụ, Mộc Thạch vẫn làm, Hoàng Phúc còn dùng chính sách văn hóa để đồng hóa dân Việt.

Nắm quyền cai trị được gần một tháng, tháng Chín năm đó ( 1414) Hoàng Phúc bắt các phủ huyện, châu dựng văn miếu, lập đàn tế lễ hàng năm thờ xã tắc Phong Vân, Sơn Xuyên và các thần theo phong tục Trung Hoa. Hắn còn đặt ra luật cấm trai gái nước Việt phong tục phương Bắc. Cũng tháng 10 năm ấy theo lời của tham nghị Bành Đạo Tường, Hoàng Phúc đã mở trường học danh tiếng Trung Hoa và ra sức lôi kéo mua chuộc sĩ phu, thầy thuốc, tăng đạo để phục vụ nền đo hộ.

Năm Ất Mùi ( 1415) Hoàng Phúc cấp lộ phí, cho người đi theo phục dịch và bắt các quan cai trị các địa phương phải đón tiếp long trọng những người Việt sang Kim Lăng phong chức tước để về nước làm việc cho chính quyền đô hộ.

Đến đầu năm Bính Thân ( 1416) các quan lại cao cấp người Việt phục vụ nhà Minh lại được đưa sang Kim Lăng để thay chứng chỉ của Tổng Binh bằng giấy vàng của bộ lại để nhận ra quan chế của thiên Triều.

Ngoài việc đào tạo và mua chuộc các quan chức, Hoàng Phúc còn thực hiện âm mưu thiêu hủy những bi ký của những người Việt từ trước để lại, một số có giá trị lớn chúng đưa về Bắc. Hàng năm nhà Minh còn bắt các địa phương Đại Việt phải cống nạp những nho sinh trẻ, những thợ thủ công lành nghề để đưa về Kim Lăng, hòng hủy diệt dân tộc Đại Việt.

Cũng từ chính sách này mà Hoàng Phúc đã thu nạp và đào tạo được không ít nhân tài, thấm nhuần văn hóa Trung Hoa để phục vụ chính sách cai trị của chúng.

Mặc dù vậy, bọn cai trị vẫn không thể đồng hóa được nhân dân Đại Việt. Một số quan lại phản động quay lại đàn áp dân chúng, bóc lột nhân dân đến thậm tệ, nhưng cũng không ít những sĩ phu yêu nước vẫn ngấm ngầm hoạt động chống giặc, vẫn có những người nông dân tự quy tập quanh mình những người yêu nước chống giặc. Chính vì vậy mà trong thời gian giặc minh xâm lược có rất nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra.
 
Phong trào nghĩa binh « áo đỏ »

Phong trào này xuất hiện ở Thái Nguyên vào năm Canh Dần ( 1410). Nghĩa quân thường mặc áo đỏ và chiến đấu rất dũng cảm.

Từ Thái Nguyên phong trào « Áo đỏ » lan rất nhanh khắp vùng Việt Bắc, Tây Bắc vào đến miền núi Thanh Nghệ ( ngày nay). Nhưng đội nghĩa binh « Áo đỏ » đã gây chi địch nhiều thiệt hại làm cho chúng không thể đặt được chính quyền trên miền rừng núi nước ta.

Khởi nghĩa Lam Sơn.

Và đến đầu năm Mậu Tuất 91418). Lê Lợi cùng với những người đồng chí, chính thức dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn kêu gọi người hưởng ứng đánh giặc cứu nước.

Để hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ năm ( 1419 – 1420) đã có nhiều cuộc dấy binh nhỏ, song điển hình có hai cuộc nổi dậy đáng lưu ý, đó là cuộc nổi dậy do nhà sư Phạm Ngọc ở chùa Đồ Sơn lãnh đạo và cuộc nổi dậy của nô tỳ và dân nghèo vùng ven biển Đông – Bắc khiến cho quân giặc ở đồn Bình than, thành Xương Giang phải nhiều phen khốn đốn.

Các cuộc nổi dậy trên tuy ngắn ngủi song cũng góp phần không nhỏ cùng với khởi nghĩa Lam Sơn chấm dứt 20 năm đô hộ của giặc Minh trên đất nước ta.
 
Triều lê sơ ( 1428 – 1433)

LÊ THÁI TỔ ( 1428 – 1433) LÊ LỢI

Niên hiệu : Thuận Thiên

Ông tổ dựng nghiệp đầu tiên của họ Lê ở Lam Sơn – Thanh Hóa là Lê Hối. Vốn là một người chất phát, hiền hậu, ít nói nhưng cụ lại là nguòi hiểu biết sâu xa, « có thể đoán biết sự việc từ lúc còn chưa hình thành ». Lúc đầu gia đình cụ sống ở thôn Như Áng, chuyên làm ruộng và sống khá phong lưu. Một hôm cụ đi dạo chơi trong rừng, thấy có nhiều chim tụ họp bay lượn vòng quanh núi Lam Sơn. Biết đó là nơi « đất lành chim đậu », cụ liền dọn nhà đến ở đấy. Sau ba năm khai phá ruộng vườn, chăm lo cày cấy, cơ nghiệp nhà cụ ngày càng phồn thịnh. Đến đời ông nội rồi đời cha Lê Lợi cũng tiếp nối và phát triển được cơ nghiệp của tiền nhân. Người cha sinh ra Lê Lợi húy là Khoáng, là người có chí khí và hào hiệp, thường nuôi dưỡng tân khách, thương yêu dân chúng, chu cấp người nghèo, giúp kẻ hoạn nạn khó khăn, vì thế cả vùng đều kính phục.

Lê Lợi sinh ngày mồng 6 tháng 8 năm Ất Sửu ( 10 tháng 9 năm 1385) là con trai thứ ba và cũng là con út trong nhà. Ngay từ khi còn rất trẻ, Lê Lợi đã tỏ rõ là người thông minh dũng lược, đức độ hơn người. Vẻ người đông đẹp tươi hùng vĩ, mắt sáng miệng rộng, sống mũi cao, xương mí mắt gồ lên, bả vai tả có bảy nốt ruồi, bước đi nhẹ nhàng, khoan thai, tiếng nói vang như tiếng chuông. Cả nhà đặt hy vọng vào người con trai út này, còn các bậc thứ giả biết ngay là một người phi thường. Truyền thuyết kể rằng.

Lớn lên Lê Lợi làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, được hồn sư ông mặc áo trắng hiển hiện chỉ cho ngôi huyệt phát « đế vương » ở động Chiêu Nghi. Sau đó có một phường chài là Lê Thận, bắt được một lưỡi gươm cũ, khi đưa vào tay Lê Lợi thì thanh gươm không phải mài mà sáng như gươm mới. Trên thanh gươm có khắc hàng chữ triện, Lê Lợi biết là thanh gươm quý. Hai ngày sau nữa lại bắt được cái chuôi kiếm ở gốc cây đa, có khắc hình con rồng, con hổ và hai chữ « Thanh thúy », đem lắp vào lưỡi kiếm đã bắt được thì vừa vặn không sai chút nào.

Từ đó ông càng tin rằng vận nước đã được trao vào tay mình, càng chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nuôi chí và chờ thời vận.

Lúc đó quân Minh đã đánh bại cha con Hồ Quý Ly, bắt cha con họ Hồ đưa về Kim Lăng, rồi đặt nước ta thành quận huyện. Lê Lợi ngầm có chí khôi phục non sông, nên hạ mình tôn người hiền, bỏ tiền ra nuôi binh sĩ, chiêu nạp anh hùng hào kiệt khắp nơi. Những hào kiệt ấy như, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu và Lê Xa Lôi đều nối tiếp nhau quy phục, Lê Lợi kính cẩn đón tiếp, cùng bí mạt mưu khởi nghĩa.

Mùa xuân năm Mậu Tuất ( 1418), Lê Lợi cùng với những người đồng chí chính thức dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nước kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng dưới cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu nước. Với lực lượng ban đầu không quá 2.000 người, cơm ăn thì sớm tối không được hai bữa, áo mặc đông hè chỉ có một manh, khí giới thì thật tay không, phải đối địch với một quân đội đông đảo có trang bị đầy đủ của giặc. Nghĩa quân nhiều lần bị vây khốn. Có lần bị vây chặt, Lê Lai đã phải đóng giả Bình Định Vương Lê Lợi để mở đường cứu chúa…Song với lòng tự tin sắt đá vào vận mệnh của sự hợp trí hợp mưu của nhân tài đất nước, nghĩa quân đã vượt qua mọi thử thách để duy trì và mở rộng địa bàn. Sau 10 chiến đấu gian khổ « nằm gai nếm mật » bằng lối đánh « lấy ít địch nhiều », cả vây thành và diệt viện, bằng những chiến thắng quyết định ở Chi Lăng – Xương Giang, Cần Trậm tiêu diệt hàng chục vạn viện binh giặc, cuối cùng quân đội Lam Sơn đã buộc giặc Minh trong các thành Đông Quan, Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh phải đầu hàng.

Ngày 16 tháng Chạp năm Đinh Mùi ( 1427), tại một địa điểm ở gần thành Đông Quan, Vương Thông – viên tướng chỉ huy đội quan xâm lược Minh đã phải tuyên thệ : xin rút hết quân về nước. Bình Định Vương Lê Lợi còn cấp 500 chiến thuyền giao cho bọn phương chính – Mã Kỳ đi đường thủy, 2 vạn con ngựa và lương thực cho bọn Sơn thọ, Hoàng Phúc dẫn hai vạn quân đi đường bộ. Trước đó, một chiều mùa đông năm Đinh Mùi ( 1427), trước khi lên đường, Phương chính, Mã Kỳ tới đại bản doanh của Lê Lợi ở Bồ Đề ( Gia Lâm – Hà Nội), để xin cáo biệt. Hai viên tướng này lưu luyến ở lại tiếp chuyện Lê Lợi, Nguyễn Trãi suốt cả một buổi chiều. ( Theo Đại Việt Thông sử của Lê Quý Đôn. Đại Việt sử ký toàn Thư thì chép Vương Thông cùng Lê lợi nói chuyện từ biệt suốt một đêm).

Khi chia tay, Bình Định Vương sai sắm trâu rượu, trướng vẽ và lễ phẩm hậu tựa hai viên tướng nước láng giềng. Khi ấy, các tướng sĩ và nhân dân kinh đô đều thâm thù sự tàn ác mà người Minh đã gây ra, mọi người đều một lời khuyên Lê Lợi nhân dịp này giết chết cả đi, nhưng Bình Định Vương rất bình tĩnh, tỉnh táo mà dụ rằng. Việc phục thù trả oán, là thường tình của mọi người, nhưng không ưa giết người, là bản tâm của người nhân. Huống chi người ta đã hàng, mà mình lại giết chết, thì còn gì bất tường hơn nữa. Ví bằng giết đi cho hả giận một lúc, để gánh lấy tiếng xấu giết kẻ hàng đến muôn đời, chi bằng hãy cho sống ức vạn mạng người, để dứt mối chiến tranh muôn thuở, công việc sẽ chép vào sử sách, tiếng thơm sẽ truyền mãi tới ngàn thu, há chẳng lớn ư !.

Ngày 29 tháng 12 năm đó, bại binh giặc bắt đầu rút, đến ngày 3 tháng 1 năm Mậu Thân ( 1428) những bóng dáng cuối cùng của quân Minh đã quét sạch khỏi bờ cõi.

Về phía nhà Minh khi đó, ngoài tác động của những trận đánh của nghĩa quân Lam Sơn, phải kể đến một quyết định tỉnh táo của vua Minh khi ông ta nói với quần thần rằng : « Những kẻ bàn tán, không hiểu ý muốn dứt việc can qua, tất cho răng nghe theo thỉnh cầu của An Nam là không oai hùng. Nhưng nếu được nhân dân yên lành, thì trẫm không e ngại những lời đó ? ».

Thế là sau hai mươi năm phải sống dưới ách đô hộ ngoại bang, đất nước lại giành được độc lập.

Do sức ép của nhà Minh và cũng là sách lược mềm dẻo của lãnh tụ Lam Sơn, trên danh nghĩa Lê Lợi vẫn phải xin cầu phong cho con cháu họ Trần là Trần Cảo làm vua. Nhưng năm Mậu Thân ( 1428), Trần Cảo – tự cho mình không có côn gì trong cuộc giải phóng đất nước mà giữ lại ngôi vua vẫn thường áy náy không yên, bèn cưỡi thuyền ra biển, chạy vào Châu Ngọc Ma ( Thanh Hóa). Quân của Lê Lợi đuổi kịp dẫn trở về, cho uống thuốc độc chết, triều đình nhà Lê sai làm tang lễ rất hậu theo nghi lễ một ông vua.

Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân ( 1428) Lê Lợi chính thức lên ngôi vua tại điện Kính thiên, thành Đông Đô ( tức Hà Nội), xưng là Thuận Thiên thừa Duệ và Anh Vũ đại vương, đặt tên nước là Đại Việt, đổi niên hiệu, đại xá thiên hạ, ban bài cáo Đình Ngô. Khi đó. Khi đó ông đã 43 tuổi. Đây là sự mở đầu một thời kỳ độc lập, lâu dài nhất trong lịch sử nước ta. Để không gây sự căng thẳng với nhà Minh, Lê Lợi chưa xưng đế mà chỉ xưng vương. Ông nói một cách khiêm nhường.

Những vị vua có công đức lớn như các vua Vũ, thang, Văn…Thời Tam đại, mà cũng chỉ xưng vương thôi, huống chi trẫm tài đức mỏng manh, đâu dám nói đến hiệu hoàng đế. Nay chỉ xưng vương thôi cũng đã là quá rồi, Nhưng thực ra, đó chỉ là sách lược ngoại giao vì lúc đó nhà Minh vẫn sai sứ sang đòi tìm lập con cháu họ Trần. Triều đình của vua Lê đã là một triều đại độc lập với đầy đủ bề thế của bậc đế, nhưng nhà Minh cũng vẫn chỉ phong làm « quyền thủ An Nam quốc sự » mà thôi.

Mặc dù chỉ ở ngôi ngắn ngủi được có sáu năm nhưng những việc làm của ông vua này có ý nghĩa đặc nền móng vững chắc cho cả một triều đại và nền độc lập phồn vinh của quốc gia Đại Việt. Việc làm đầu tiên của Lê Thái Tổ là bàn định luật lệnh. Nhà vua ra lệnh cho các quan. Tư không, Tư đồ, Tư mã, thiếu úy. Hành khiển bàn đinh luật lệnh trị quân dân, cho người làm ở lộ biết mà trị dân, người làm tướng biết mà trị quân, để răn dạy cho quân dân đều biết là phép tắc. Nhờ cố gắng đó, hai năm sau ( 1430) Lê Thái Tổ đã ban cho những điều luật đầu tiên của triều đại mình.

Một công việc khác không thể thiếu được đối với bất kỳ một triều đại mới lên sau hàng chục năm chiến đấu gian khổ để giành độc lập và lập nên vương triều là đại hội các tướng và các quan văn võ để định công ban thưởng, theo công lao cao cấp mà định thứ bậc, ban biểu ngạch công thần. Đáng chú ý là trong đợt phong này, Nguyễn Trãi được làm quan Phục hầu, Trần Nguyên Hãn làm Tả tướng quốc và Phạm Văn Xảo làm thái bảo, các ông này đều được cho lấy họ vua.

Từ những đơn vị hành chính theo chế độ quận huyện của nhà Minh, nhà Lê lại chia đơn vị hành chính nước ta thành 5 đạo, đặt các chức Vệ quânm, Tổng quản, Hành khiển…Ở xã đặt xã quan. Bộ máy hành chính này sẽ ngày càng được hoàn chỉnh vào các đời vua sau, nó thực sự giúp cho việc quản lý và điều hành đất nước.

Một đất nước sống chủ yếu bằng nông nghiệp, việc phục hồi phát triển nông nghiệp cũng được Lê Thái Tổ đặc biệt quan tâm. Ngay từ năm đầu lên ngôi, ông đã cho khiển kê hộ khẩu, làm sổ điền, sổ hộ, đặt cơ sở để tiến hành chế độ quân điền.

Để tuyển chọn nhân tài và củng cố bộ máy cai trị, nhà Lê không chỉ quan tâm đến việc càu hiền bằng cách tiến cử mà còn đặt ra các khoa thi. Dưới thời Lê Thái Tổ đã bắt đầu mở khoa thi để lựa chọn những nhân tài. Vua Lê Thái Tổ còn đặc biệt quan tâm đến việc bình định và củng cố miền biên cương phía Bắc và Tây Bắc. Nhà vua từng đích thân cầm quân tiến thẳng vào tận sào huyệt một lực lượng chống đối, đặt đất đó thành châu huyện và ghi vào bản đồ quốc gia.

Về mặt đối ngoại, Lê Thái Tổ nhiều lần cử các đoàn sứ bộ sang Trung Quốc để đặt mối bang giao bình thường với nhà Minh, khéo léo giải quyết những sách nhiễu của nhà Minh về việc lập con cháu nhà Trần và vấn đề tù binh chiến tranh…

Là một ông vua sáng nghiệp, đã từng đích thân phát hết gai góc, bừa phẳng bạo tàn, thường lấy áo giáp làm đồ mặc, nội cỏ làm nhà cửa, trải bao nỗi nguy hiểm, xông pha trước giáo gươm mới quyét sạch phong trần, dựng nên cơ nghiệp, nên ông rất lo cho các con ông « không có công lao như ta mà được hưởng cơ nghiệp của ta » sẽ làm hỏng mất sự nghiệp. Lê Thái tổ đã từng nói : Phàm những ông vua nối ngôi, dinh dưỡng trong cung điện thường được yên vui, không biết lập chí…Bên cạnh ông lúc đó lại có rất nhiều công thần khai quốc vừa có công to vừa có tài năng đã được thử thách và rèn luyện qua gian khổ…Trước tình hình ấy, những năm cuối đòi mình, vì quá lo cho người nối nghiệp là ấu chúa mà Lê Thái Tổ đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng.

Nghi kỵ và sát hại công thần. Đây là sai lầm lớn nhất mà trước khi nhắm mắt xuôi tay chính nhà vua cũng đã tự nhận ra và ông đã dặn lại Hoàng Thái tử nối ngôi rằng. Trẫm gặp thời tao loạn, dựng nghiệp gian nan, hơn hai mươi năm mới nên nghiệp lớn, những nỗi đau khổ của nhân dân, thảy đều biết, những đường gian nan trong thế sự, thảy đều trải qua, thế mà đến khi lên ngôi, lòng người thực hay giả, cũng chưa dễ gì tỏ tường, những việc nghi ngờ, cũng chưa dễ gì phán đoán. Như vậy đạo làm vua không khó ư ? Hướng chi con, đương thời tuổi trẻ, nối nghiệp gian nan, nghe biết càng nông, tư lường chưa thấu. Vậy nên dốc lòng kính cẩn, như giẫm trên băng mỏng vực sông, thờ trời đất nên hết lòng, cung phụng tôn miếu nên tròn đạo hiếu, thân ái anh em, hòa mục tông tộc, cho tới việc đối xử trăm quan và muôn dân, thảy đều nghĩ sao cho phải đạo. Chớ đổi phép cũ của tiên vương, chớ bỏ cách ngôn của tiên triết, chớ gần thanh sắt mà chuộng tiền tài, chớ thích đi săn mà ham dâm đãng, chớ nghe lời gièm mà xa người can thẳng, chớ dùng t6n tiến mà bỏ cựu thần. Lời trăn trối của Thái Tổ thật sâu sắc và thấm thía như lời dạy của tất cả những cha có chí hướng đối với con mình. Sau khi vua trao ấn báu truyền ngôi cho Hoàng Thái tử, ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu ( 1443) nhà vua băng hà ở Tẩm điện, hưởng thọ 49 tuổi. Vua Lê Thái Tổ có hai người con trai là Quận Ai Vương Tư Tề là con của Trịnh Thần Phi và Hoàng Thái tử Nguyên Long là con của Phạm Thị Ngọc Trần. Nhà vua truyền ngôi cho con thứ là Hoàng Thái tử Nguyên Long.
 
Thái tổ phạm hoàng hậu

Bà họ Phạm, húy là Ngọc Trần, người xã Quần Lại, huyện Lôi Dương, Thanh Hóa. Bà là một trong số các bà vợ của Lê Lợi. Khi Lê Lợi mới khởi nghĩa đánh giặc Minh phải di chuyển luôn, không ở yện một chỗ nào, bà lặn lội theo hầu, trải nhiều gian khổ. Bà sinh ra Nguyên Long ( vua Thái Tông sau này) vào mùa đông năm Quý Mão (1423), tức vào năm thứ 6 của cuộc khởi nghĩa.

Năm Ất Tỵ ( 1425) Bình Định Vương Lê Lợi vây thành Nghệ An, khi đến thành Trào Khẩu ở Hưng Nguyên, nơi có đền thờ thần Phổ Hộ. Ban đêm nhà vua nằm mộng thấy có vị thần đến bảo rằng : « Tướng quân cho tôi một người thiếp, tôi sẽ xin phù hộ tướng quân diệt giặc Ngô, làm nên nghiệp đế ». Hôm sau Bình Định Vương gọi các bà vợ đến, hỏi. Có ai chịu làm vợ vị thần không ? Sau này khi ta lấy được nghiệp nước sẽ lập con của nguòi ấy làm thiên tử. Các bà không ai nói gì, chỉ có bà họ Phạm khảng khái quỳ thưa : « Nếu minh công giữ lời hứa, thì thiếp nguyện xả thân. Ngày sau làm nên nghiệp lớn chớ phụ con thiếp », nhà vua khen ngợi và thương cảm, nói với các bà tôn, nhận theo lời hẹn đó. Khi ấy Nguyên Long mới lên 3 tuổi, bà liền cho người hầu bế ẵm nuôi nấng. Nhà vua sai làm lễ tế thần dùng bà làm vật tế. Đó là vào ngày 24 tháng 3 năm Ất Tỵ ( 1425). Khi Lê Lợi đã bình định được thiên hạ, lên ngôi vua, bảo với quần thần rằng : « Bà ấy đáng làm chúa cả trăm vị thần nước ta, không ai dám trái ». Bèn sai người rước quan tài về an táng ở Thanh Hóa. Đi đến xã Thịnh Mỹ thì trời tối, chưa kịp qua sông phải ngủ trọ ở chợ, đến đêm mối đùn lên quanh tài một đống đất cao, biên thành nấm mồ. Sứ giả lấy làm lạ trở về tâu vua, vua chợt hiểu ra, nói : Đó là vị thần đã làm theo lời hẹn, bèn bảo cứ để quan tài ở đó, dựng điện Hiếu nhân để thờ, đồng thời dựng miếu, đặt thần chủ ở Nam Kinh để cúng tế. Đến năm Kỷ Dậu ( 1429), nhà vua cử quận vương Tư Tề là con trưởng đã lớn làm quốc vương, tạm coi việc nước, Tư Tề là người đã từng lăn lộn từ những này đầu của cuộc khởi nghĩa, đã từng cùng với Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan làm con tin để thực hiện việc hòa ước với Vương Thông. Năm Nhâm Tý (1432) Quốc Vương Tư Tề đã đem quân đi đánh Châu Phục Lễ, bức hàng tù trương là Đèo Cát Hãn và con y là Đèo Mạnh Vượng. Cuối đời, vua Lê Thái Tổ nhiều bệnh, chính sự của nhà nước đều giao cho Vương quyết định. Nhưng vì Vương mắc chứng bệnh cuồng, giết bừa các tỳ thiếp, dần dần không hợp ý vua…Vua rất lo nghĩ đến trách nhiệm của người thừa kế. Một hôm giữa trưa nằm ngủ, chợt mộng thấy bà Hoàng hậu Phạm Ngọc Trần than trách rằng. Nhà vua phụ công của thiếp, từ hồi mới khởi nghĩa đã đem thiếp cho vị thần. Nay được thiên hạ rồi, mà ơn thánh chẳng được hưởng. Vua tỉnh dậy, bồi hồi xúc cảm bèn cho lập Nguyên Long làm con đích ( Hoàng Thái tử). Khi Lê Thái Tổ mất, Nguyên Long được nối ngôi lấy hiệu là Thái Tông. Tháng 6 năm Giáp Dần ( 1434) truy tôn mẹ là Phạm Ngọc Trần làm cung từ quốc thái mẫu, thờ phụng ở thái miếu. Tháng 2 năm Đinh Tỵ ( 1437), truy tôn làm Cung từ Quang Thục quốc thái mẫu. Tháng 12 năm Đinh Tỵ ( 1437) truy tôn làm Hoàng Thái hậu.
 
Lê thái tông ( 1434 – 1442)

Niên hiệu : Thiệu Bình ( 1434 – 1439)
Đại Bảo ( 1439- 1442)


Lê Thái Tông tên húy là Nguyên Long, sinh ngày 20 tháng 11 năm Quý Mão ( 1423), là con thứ hai của Thái Tổ. Lên ngôi vua ngày 8 tháng 9 năm Quý Sửu ( 1433), lấy hiệu là Thiệu Bình. Khi lên ngôi vua mới 11 tuổi, nhưng không cầm mẫu hậu che rèm nghe việc mà tự mình điều hành tất cả công việc triều đình. Các nhà viết sử ai cũng nhận xét « Vua tư chất sáng suốt tinh khôn, khi cầm quyền chính, trong ngăn ngừa kẻ cường thần, ngoài dẹp yên các man động. Trọng đạo, chuộng Nho, đặt khoa thi chọn kẻ sĩ, chế lễ nhạc, rõ chính hình, văn vật rực rỡ đủ cả, đáng khen là vua hiền ». Chính dưới triều vua Thái Tông, vào năm Thiệu Bình thứ 5, tổ chức thi Hương ở các đạo và năm sau tổ chức thi Hội tại Kinh đô. Từ đó mở đầu ra lệ cứ ba năm một lần thi làm lệ thường. Cũng chính dưới thời vua này, vào năm Nhâm Tuất ( 1442), bắt đầu ra lệnh dựng bia ghi tên các tiến sĩ.

Thái Tông lên ngôi khi còn quá trẻ lại phải đối phó với một tình hình triều đình rất phức tạp. Mâu thuẫn và chia rẽ giữa hai lực lượng chính, Một bên là các công thần khai quốc đứng đầu là đại sư đồ Lê Sát, Lê Ngân. Với một bên là quan lại có khoa bảng, mặc dù vậy Thái Tông vẫn có đủ bản lĩnh để không cho các đại thần hoàn toàn thao túng, ông cũng biết nghe lời can đúng đắn của các ngôn quan như Nguyễn Thiên Tích, Bùi Cầm Hồ để không khôi phục quan tịch cho Trịnh Hoành Bá theo lời xin của Đại tư đồ Lê Sát khi bọn chúng có tội bị đuổi và xóa khỏi sổ quan từ thời vua cha. Và bởi lời Thái Tổ dặn lại rằng. Bọn Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá, Lê Đức Dư…Tuy có tài, nhưng không nên dùng lại. Vì thế khi Lê Sát xin phục chức cho bọn này,vua Thái Tông không nghe. Khi vua 15 tuổi đã biết xét đoán công việc mà Lê Sát vẫn còn tham quyền cố vị ( lẽ ra khi vua đã trưởng thành, quan nhiếp chính phại tự biết rút lui). Thái Tông rất bất bình và tìm cách loại trừ quyền thần Lê Sát, Sát bị bãi chức tước, cho tự tử ở nhà, vợ con và điền sản bị sung công, những người thuộc bè đảng của Lê Sát cũng đều bị bãi chức, đồng thời nhà vua cho phục chức các quan Bùi U Đài, Bùi Cầm Hồ…

Một trong những sự kiện bi thảm nhất dưới triều Lê là cái chết đột ngột của vua Thái Tông và kéo theo nó là vụ oán oan nghiệt giáng xuống Nguyễn Trãi và gia đình ông vào tháng 8 năm Nhâm Tuất ( 1442) mà người đời vẫn gọi là vụ án Lệ Chi Viên ( vụ án vườn vải).

Ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất ( 1442) vua đi tuần ở miền Đông, duyệt quan ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 vua về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định ( nay thuộc huyện Gia Lương – Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40 được vua Thái Tông yêu quý vì sắc đẹp, văn chương hay, luôn được vào hầu bên cạnh vua. Khi về đến Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà, lúc này vua mới 20 tuổi. Các quan bí mật đưa thi hài vua về, ngày mồng 6 tháng 8 đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ giết vua, ngày 12 tháng 8 năm đó ( 1442), các đại thần nhận đi mệnh là Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ cùng với Lê Liệt, Lê Bôi đã tôn Hoàng tử Bang Cơ lên nối ngôi. Nguyễn Trãi và gia đình bị án chu di tam tộc.

Lê Thái Tông trị vì trong 9 năm, đặt niên hiệu hai lần.

Thiệu Bình ( 1434 )
Đại Bảo ( 1440 – 1442)
 
Lê nhân tông ( 1443 – 1459)

Niên hiệu – Đại Hòa ( 1443- 1453)
Diên Ninh ( 1454 – 1459)


Vua Lê Thái Tông mặc dù mới có 20 tuổi, nhưng khi mất đi đã kịp để lại bốn người con trai do bốn bà vợ sinh ra. Bà Chiêu nghi họ Dương sinh ra Lệ Đức hầu. Nghi Dân. Bà thần phi họ Nguyễn sinh ra Hoàng tử Bang Cơ ( sau là vua Nhân Tông), bà Tiệp Dư họ Ngô sinh ra Tư thành ( sau là vua Thánh Tông) và một bà vợ khác sinh ra Cung vương Khắc Xương.

Như vậy, vua Lê Nhân Tông cũng không phải là con trưởng của vua Thái Tông. Ông Húy là Bang Cơ, là con trai thứ ba của Thái Tông. Mẹ là Tuyên từ Hoàng thái hậu họ Nguyễn ( sau này mới phong), húy là Anh, người làng Bố Vệ huyện Đông Sơn ( Thanh Hóa). Bang Cơ sinh ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu ( 1441), đến ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu ( 1441) được lập làm Hoàng Thái Tử, và ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất ( 1442) được lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Hòa. Khi lên ngôi vua mới lên hai tuổi, thái hậu phải buông rèm nghe chính sự, tạm quyết đoán việc nước. May thay Thái hậu là người tận tâm bảo hộ, tín nhiệm đại thần, theo dùng phép sẵn có, trong khoảng hơn 10 năm giúp ấu chúa, trong nước bình yên. Tháng 11 năm Quý Dậu ( 1453), vua 12 tuổi, có thể tự coi được chính sự. Thái hậu trả quyền chính cho Vua rồi lui về ở cung riêng. Khi tự mình ra coi chính sự. Vua đổi niên hiệu là Diên Ninh, đại xá cho thiên hạ. Người đời bấy giờ hết lời ca ngợi đức độ và tài năng của Vua và thái hậu. Bài văn bia Mục Lăng do Nguyễn Bá Kỷ sau có ghi : Vua thần sắc anh tuấn, dung dáng đúng đắn, mỗi khi tan chầu, thân đến Kinh Diên đọc sách, mặt trời xế bóng về tây mới thôi. Khi đã thân coi chính sự thì tế thần kỳ, thờ tôn miếu, đối với thái hậu hết lòng hiếu lễ, đối với anh em hết lòng thân yêu, hòa thuận với họ hàng, kính lễ với đại thần, tôn chuộng nho thuật, xét lời gần, nghe lời xa, chăm sóc chính sự, cẩn thận thưởng phạt, trọng việc nông trang, chuộng nghề gốc rễ, hết lòng thương dân, không thích xây dựng, không ham săn bắn, không gần thanh sắc, không hám tiền của, hậu đối với người, bạc đối với mình, bên trong yên tĩnh, bên ngoài thuận lòng, răn cấm tướng ngoài biên không gây hấn khích. Đến khi Chiêm thành hai lần cướp Hóa Châu thì sai tướng đem quân đi đánh, giết được vua Chiêm là Bí Cai, nước lớn sợ uy, nước nhỏ mến đức. Phàm chính sự đều noi theo phép cũ, đều có phép sẵn, sai đình thần họp bàn tất cả rồi mới thi hành, cho nên chính trị hay giáo hóa tốt, khắp ra bốn biển, trăm họ mến đức, đời được Thái Bình.

Chính dưới thời vua Nhân Tông, năm Quý Hợi ( 1455), triều đình sai Phan Phù Tiên biên soạn Đại Việt sử ký, viết tiếp cuốn sử của thời Trần từ Trần Thái Tông cho đến khi người Minh về nước.

Nhưng mặc dù là một ông vua nhân từ và sáng suốt, nhưng vì không nghe theo nguyên tắc dòng đích nên mùa đông năm Kỷ Mão ( 1459) Lạng Sơn Vương Nghi Dân ( là anh vua Nhân Tông) đang đêm bắc thang vào tận trong cung cấm. Vua và Tuyên từ Hoàng thái Hậu bị giết, khi đó vua mới 19 tuổi, ở ngôi được 17 năm, đặt liên hiệu hai lần.

Nghi Dân tự lập làm vua, nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa giết bọn phản nghịch, giáng Nghi Dân xuống tước hầu rồi tìm lập một người con khác của Thái Tông lên làm vua, đó là vua Lê Thánh Tông.
 
Lê thánh tông ( 1460 – 1497)

Niên hiệu : Quang Thuận ( 1460 – 1469)
Hồng Đức ( 1470 – 1497)

Lê Thánh Tông là một trong những ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các ông vua Việt Nam ( 38 năm ). Nhưng điều đáng nhớ không phải vì ông ở ngôi lâu ( Lê Hiển Tông ở ngôi 47 năm ), mà vì những đóng góp của triều vua này vào đời sống mọi mặt của quốc gia Đại Việt thời ấy.

Lê Thánh Tông tên tự là Tư Thành, lại có tên nữa là Hạo, là con trai thứ và cũng là con út của vua Thái Tông, sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất ( 1442). Mẹ là bà Ngô Thị Ngọc Dao, con gái của thái Bổ Ngô Từ, một torng những công thần khai quốc cùa nhà Lê, người làng Động Bàng, huyện Yên Định ( Thanh Hóa). Có nhiều chuyện kể rằng Lê Tư Thành được sinh ra bên ngoài cung cấm, tại chùa Huy Văn ( phía trong ngõ Văn Chương, đường Hàng Bột, Hà Nội). Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ nên đến năm lên 4 tuổi, mẹ Nhân Tông buông rèm nghe chính sự, mới cho đón Tư Thành về phong làm Bình Nguyên vương, cho ở nhà Phiên để hàng ngày cùng vua Nhân Tông và các phiên vương khác họ tập tại tòa Kinh Diên.

Tư Thành sớm có tư chất đế vương, chăm chỉ học tập, dáng dấp đoan chính, thông tuệ hơn người. Vì thế mẹ Nhân Tông càng quý và coi Tư Thành như con đẻ của bà, còn vua Nhân Tông thì cho là người em hiếm có.

Khi Nghi Dân, con cả của Thái Tông trước đó bị biếm truất rồi âm mưu thoát đoạt đã giết mẹ con Bang Cơ ( vua Nhân Tông) lên ngôi vua, lại phong Tư Thành làm Gia Vương và vẫn cho ở nhà Tây để trong nội điện. Khi Nghi Dân bị lật đổ, trong triều có người lập bàn Tư Thành làm vua, nhưng một viên quan là Lê Lăng can rằng : Tư Thành còn có một anh nữa là Cung vương Khắc Xương, không nên bỏ anh lập em, dẫm lại vết xe đổ Nghi Dân - Bang Cơ. Triều thần đến đón Cung vương song ông này từ chối. Khi đó mới rước Tư Thành lên ngôi, bấy giờ ông mới tròn 18 tuổi.

Trị vì đất nước được 38 năm, đến cuối năm Hồng Đức thứ 27 năm Bính Thìn ( 1496) vua bị mệt nhưng vẫn tự giải quyết các việc quan trọng. Tháng Giêng năm sau vua càng mệt nặng rồi mất. Cho đến trước khi qua đời, vua vẫn tỉnh táo, trước đó một hôm còn ngồi ghế ngọc truyền ngôi cho con và làm một bài thơ tuyệt mệnh.

Tấm thân bảy thước nay tuổi đã năm mươi,
Gan dạ như sắt giờ đã hóa ra mềm,
Gió thổi ngoài song, hoa vàng tàn tạ,
Sương sa trước sân, liễu xang gầy đi
Trong suốt bầu trời biến mây bay phơi phới
Tỉnh giấc mộng kê vàng, đêm dài dằng dặc
Tiếng người, dáng người trên chốn bồng lai đã xa cách hẳn
U hồn như vàng như ngọc có vào giấc mộng được không.

Lê Thánh Tông thọ 56 tuổi và là một trong những ông vua có khá nhiều vợ và nhiều con. 14 người con trai và 20 người con gái. Sử thần Vũ Quỳnh đời Lê đã từng nhận xét…Tiếc rằng vua nhiều phi tần quá nên mắc bệnh nặng, trường lạc Hoàng hậu thì bị giam lâu ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được đến hầu bệnh, bèn ngầm đem thuốc độc trong tay sờ vào chỗ lở, bệnh vua vì thế lại nặng thêm.

Nhưng nhìn toàn cục, cuộc đời ông vua này là một cuộc đời hoạt động sôi nổi trên rất nhiều lĩnh vực mà mặt nào cũng tỏ ra xuất sắc. Người đương thời từng nhận xét. Vua tư trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, mà thánh học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển sách. Các sách kinh sử, lịch toán, các việc thánh thần, cái gì cũng tính thông. Văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học. Chính bản thân Lê Thánh Tông cũng rất tự ý thức về sự cần mẫn chăm lo trau dồi tri thức, bỏ công sức mình vào việc cai trị đất nước. Ông từng viết.

Lòng vì thiên hạ những sơ âu
Thay việc trời dám trễ đâu
Trống dời canh còn đọc sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.

Nhờ đó mà dưới thời trị vì của ông vua này, quốc gia Đại Việt đã đạt được sự phát triển rực rỡ về mọi mặt.

Lê Thánh Tông là người tha thiết với chủ quyền quốc gia. Ông từng nói câu nói nổi tiếng « Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng. Chính dưới thời Lê Thánh Tông, bản đồ đầu tiên của quôc gia Đại Việt được hoàn thành. Những hành động xâm phạm biên giới bằng mọi hình thức của nhà Minh cũng như của các tập đoàn thống trị Chiêm thành, Bồn Man, Lão Qua đều đã được tích cực giải quyết hoặc giáng trả kịp thời, không để một chút đất đai lọt vào tay kẻ khác.

Bộ máy nhà nước trung ương tập quyền dưới triều Lê Thánh Tông đạt đến mức hoàn bị, từ trung ương xuống đến xã. Thế lực của đại quý tộc bị hạn chế, thay vào đó là sự tham chính của tầng lớp sĩ phu nho giáo được tuyển lựa bằng con đường thi cử.

Về lập pháp, đây cũng là triều đại đã cho ra đời bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang tên hiệu vua Lê Thánh Tông. Các triều đại trước đây : Lý, Trần đều đã có biên soạn luật của mình, song vì chiến tranh, loạn lạc đã bị mất hết vì thế luật Hồng Đức còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất trong lịch sử luật pháp thời phong kiến nước ta.

Dưới triều Lê Thánh Tông, cũng là thời kỳ mà tư tưởng trọng nông và chế độ quân điền được ban bố và thi hành đầy đủ nhất. Các đời sau chỉ lấy đó làm mẫu mực

Việc giáo dục thi cử dưới thời ông vua này cũng được coi là thịnh đạt nhất trong lịch sử giáo dục và khoa cử thời phong kiến Việt Nam. Việc học do nhà nước tổ chức đẩy mạnh, đồng thời việc học trong dân gian do tư nhân mở trường cũng được khuyến khích. Nhà vua cho mở rộng nhà thái học và trường Quốc Tử Giám. Các tiến sĩ thi đỗ ngoài việc được khắc tên vào bia đá ( đã được bắt đầu từ năm 1442 thời Lê Thánh Tông) và được dự lễ xướng danh rất long trọng, được treo tên trên bảng vàng và cấp ngựa, ban áo mũ cờ biểu để vinh quy…

Bản thân vua Lê Thánh Tông cũng là một nhà văn hóa lớn. Ông là một nhà thơ và là người rất chăm lo đến việc trước thuật, trong thời ông, nhiều công trình biên soạn có tầm cỡ được tiến hành. Đại việt sử ký toàn thư hoàn thành năm Kỷ Hợi ( 1479) Thiên Nam dư hạ tập một công trình có tính báck khoa lớn đầu tiên, hơn 100 bài thơ của Nguyễn Trãi cũng được sưu tầm vào thời gian này. Lê Thánh Tông là người đã giải cái oan của Nguyễn Trãi, cho tìm con cháu còn sống sót và ra lệnh sưu tầm thơ văn của Ức Trai.

Lê Thánh Tông tự lậyp ra hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi thơ văn nhất nước thời đó gọi là « Tao Đàn nhị thập bát tú » do chính Lê Thánh Tông làm Nguyên soái. Khối lượng sáng tác của Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn rất lớn, và nó có vị trí đặc biệt.

Lê Thánh Tông không chỉ là một ông vua đầy tài năng và nhiệt huyết với tất cả các thành tựu nổi bật dưới thời trị vì của ông mà tên tuổi không thể mờ trong lịch sử và nền văn hóa nước nhà.

Lê Thánh Tông làm vua 38 năm đặt niên hiệu hai lần.
 
Lê hiến tông ( 1497- 1504)

Niên hiệu : Cảnh Thông

Vua Lê Hiến Tông tên húy là Tranh, lại có húy là Huy, là con trưởng của Thánh Tông, sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ ( 1461), mẹ là Trường Lạc thánh từ Hoàng thái hậu, họ Nguyễn, húy là Hằng, người ở hương Gia Mưu ngoại trang, huyện Tống Sơn ( Thanh Hóa), con gái thứ hai của Thái úy Trình quốc công Đức Trung.

Tranh là con cầu tự ở am Từ Công ( Từ Đạo Hạnh), trên núi Phật tích, sinh ra đã có dáng vẻ thiên tử, mũi cai, mặt rồng, vẻ người đứng đắn, đẹp đẽ khác thường được Thánh Tông yêu quý lắm. Năm Quang Thuận thứ 3 - năm Nhâm Ngọ ( 1462) Tranh được lập làm Hoàng Thái Tử.

Vua cha ở ngôi tới 38 năm nên Thái tử ở ngôi Đông cung lâu cung lâu ( 36 năm), vì thế khi được nối ngôi, ông đã ở tuổi chín chắn và từng trải ( 36 tuổi). Trong thời gian 7 năm cầm quyền chính, ông không có gì sáng tạo so với triều vua trước. Trước một ngôi sao sáng chói thì ông vua con này chỉ là một cái bóng. Vả chăng chính vua Hiển Tông đã từng nói. Thánh tổ gây dựng trung châu, hoàng phụ ta trong trị ngoài dẹp. Ta tuân giữ phép cũ…Chẳng qua chỉ là người làm ruộng thêm cho sáng tỏ ra…mà thôi. Sử gia Vũ Quỳnh, người cùng thời thì nhận xét. Vua thông minh, trí tuệ hơn người mà nhân từ ôn hòa, không làm nghiêm trọng sự việc lâu. Thường khi ta chầu vui vào, lại đem các đại sĩ phu hỏi về chính sự hay dở, lấy lời nói dịu dàng, nét mặt vui tươi, dỗ cho nói ra, cho nên biết hết tình người dưới, phá hết sự che lấp. Kẻ hạ thần có lầm chỉ răn quở qua loa, không nỡ đánh roi làm nhục. Cách cai trị nhàn hạ ung dung, chưa từng lộ ra lời nói sắc mặt tức giận mà thiên hạ răm rắp nghe theo.

Ông là người chú trọng đặc biệt đến việc làm thủy lợi, chăm sóc bảo vệ đê điều. Mỗi xá cho đặt một mỗi trưởng chuyên trông coi việc nông trang, làm ruộng, trồng dâu chăn tằm, cũng dưới thời vua này cho phép quân đội và công tượng thay phiên nhau tháng 6, tháng 10 chia một nửa về làm ruộng. Ông cũng chú ý đến giáo dục quan lại chống thói quan liêu và tham nhũng…

Lê Hiến Tông trị vì 7 năm nhưng ông là vua cuối cùng của triều Lê Sơ còn giữ được thành tựu từ thời Thái Tổ gây dựng.

Lê Hiến Tông cũng là ông vua đầu tiên của triều Lê lại có hướng trở về với đạo Phật, ông cho xây dụng các điện thượng Dương, Giám Trị, Đỗ Trị, Trường Sinh làm chỗ nghỉ ngơi, đọc sách và ăn chay. Tuy nhiên ông cũng không tránh được lời phê của sử thần là đã ham nữ sắc quá nhiều để đến nỗi bị bệnh nặng. Ông mất ngay23 tháng 5 nămk Giáp Tý( 1504) thọ 44 tuổi, Lê Hiến Tông có 6 hoàng tử, con trưởng là An Vương Tuân, con thứ hai là Uy mục đế Tuấn, con thứ 3 là Tự hoàng thuần, con thứ tư là thông Vương Dung, con thứ năm là Minh Vương Trị và con thứ 6 là Tư Vương Dưỡng.
 
Lê túc tông ( 1504)

Niên hiệu : Thái Trinh

Sau 76 năm kể từ khi Lê Thái Tổ lên ngôi sáng lập triều Lê đến hết đời Lê Hiến Tông, nhà Lê trải qua một chặng đường đi lên, để lại trong lịch sử dân tộc nhiều bậc vua hiền, nhiều ông vua sáng, nhiều thành tựu rực rỡ về mọi mặt. Song từ sau đó, nhà Lê bước vào thời kỳ suy vong với những ông vua mà với thời gian không thể tẩy xóa được tiếng xấu.

Sau khi Hiến Tông qua đời, người kế vị ông là con trai thứ ba tên là Thuần năm đó 17 tuổi. Đúng là Hiến Tông đã chọn được người kế vị xứng đáng, vua Lê Túc Tông là người dốc trí ham học, thân người hiền, vui điều thiện, đáng là vị vua giỏi giữ nghiệp Thái Bình. Mẹ là Trang thuận Hoàng thái hậu họ Nguyễn, húy là Hoàn, người làng Bình Lăng, huyện Thiên Thi ( Hưng Yên ). Lên ngôi ngày 6 tháng 6 năm Giáp Tý ( 1504), đến tháng 11 năm đó vua sai sứ thần Nguyễn Bảo Khuê mang các biểu xin phong vua mới, nhưng sứ thần chưa qua khỏi cửa ải biên giới thì đã phải đổi tờ biểu khác, báo tang vua mới và xin phong cho vua tiếp theo, bởi Túc Tông đã qua đời.

Khi bị ốm nặng, biết mình khó qua khỏi, vua Túc Tông cho gọi các quần thần đến để chỉ định người nối ngôi thay cho mình là con thứ hai của Hiến Tông tên là Tuấn. Ông còn dặn, con thứ hai của Hiến Tông tên là Tuấn, người hiền minh nhân hiếu, có thể nối ngôi chính thống…Nếu thân vương nào tiếm ngôi trời thì người trong nước giết đi. Túc Tông mất ngày 7 tháng 12 năm Giáp Tý ( 1504), làm vua được 6 tháng.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top