• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Việt Nam thời dựng nước

Hàm nghi ( 8/1884 – 8/1885)

Niên hiệu : Hàm Nghi

Hàm Nghi tên thật là Ưng Lịch, em ruột Kiến Phúc, sau khi Kiến Phúc bị giết, Ưng Lịch mới 13 tuổi và được đưa lên ngôi ngày 1 tháng 8 năm Giáp Thìn ( 1884). Lúc đó , hòa ước Giáp Thân ( 6 – 6 – 1884) đã được ký kết. Lễ đăng quang của Hàm Nghi không được Nam triều thông báo cho Khâm sứ Pháp tại Trung kỳ, vì thế, Rê – na không thừa nhận vua mới. Chúng yêu cầu mời các đại thần cơ mật sang tòa Khâm sứ để bàn định nghi thức gặp gỡ giữa vua Hàm Nghi và đại diện tối cao của chính phủ Pháp song Tôn thất thuyết từ chối. Tướng Đờ Cuốc – xy dọa sẽ đem quân sang bắt. Trước tình thế không thể trì hoãn, nửa đêm ngày 7 tháng 7 năm Ất Tị ( 1885) Tôn Thất Thuyết ra lệnh tấn công bất ngờ vào đồn Măng Cá và đồn Pháp cạnh tòa Khâm sứ. Quân Nam đánh rất hăng hái, song vũ khí quá thô sơ và giao liên non kém nên chỉ mấy giờ sau, bị thất bại. Kinh thành Huế thất thủ. Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tập hợp tàn quân chức sẵn ở cửa Chương Đức vào cung đón vua và tam cung chạy ra khỏi hoàng thành, xa giá ra Quảng Trị, Đạo Ngự có hơn ngàn người, phần đông các đại thần, ông hoàng bà chúa, già có, trẻ có, đi kiệu, đi ngựa và đi bộ. Hoàng tử Chánh Mông cưỡi ngựa vì chạy nhanh, tiền vàng trong người rải khắp các dọc đường. Có bà chúa ôm con khóc sướt mướt trên kiệu. Hàm Nghi ngồi kiệu lâu, kêu mệt, phải chuyển sang nằm võng.

Qua hai ngày đi đường, đoàn ngự ra đến Quảng Trị - Tình quan Quảng Trị ra ngoài thành rước nhà Vua và tam cung vào ngự ở hành cung. Chiều 8 tháng 7 năm 1885 theo lệnh của Từ Dụ Hoàng thái hậu, văn võ đại thần họp ở thành cung. Theo ý Từ Dụ Hoàng thái hậu có mang ba tháng và bị sảy thai. Sau hai năm ở đảo Rêuuyniông, vì không hợp thủy thổ, khí hậu, bị đau ốm luôn, mẹ, vợ và em Vua cùng nhau trở về Tổ quốc. Năm 1925, Duy Tân đã gửi thư về cho Hội đồng chứng nhận để bà đi lấy chồng khác. Lúc đó, bà mới 27 tuổi, nhưng cương quyết thủ tiết với chồng.

Sau khi đã ly dị bà Vàng, Duy Tân đã lấy đi một người phụ nữ địa phương, từ 1929 đến 1939, sinh được 4 con, ba trai, một gái. Rồi không rõ bà vợ này đã chết hay bỏ nhau, cựu hoàng lại lấy một người ở thủ đô Xanh - Bơ – noa và sinh được một gái.

Trong chiến tranh chống phát xít 1939 – 1945, Duy Tân tình nguyện ra nhập quân đội của « nước Pháp tự do » và khi đồng minh chiến thắng, ông cũng được giải ngũ với hàm thiếu ta không quân. Việc làm này của ông bị vua cha Thành Thái phản đối kịch liệt. Tháng 10 thống Pháp Đờ Gôn trở về Việt Nam, nhưng bị tai nạn máy bay và mất trên đường đi thăm vợ con ở đảo Rêuyniông, thọ 48 tuổi. Không có miếu hiệu.
 
đồng khánh ( 10/1885 – 12/1888)

Niên hiệu : Đồng Khánh

Sau khi đày Hàm Nghi sang Angieri, thực dân Pháp bàn với đại thần cơ mật Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình lập Kiến Giang quận công làm vua mới.

Kiên Giang quận công tên thật là Ưng Đường, sinh ngày 12 tháng 1 năm Giáp Tý ( 1864) con trưởng của Kiên quốc công Hồng Cai, mẹ là Bùi thị. Năm Ất Sửu ( 1865) lên hai, được đưa vào cung làm con nuôi thứ hai của Tự Đức. Năm Quý Mùi ( 1883) được sắc phong là Kiến Giang quận công. Ngày 19 tháng 9 năm Ất Tị ( 1885) dưới quyền bảo trợ và quyết định của Giám quốc người Pháp, Ưng Đường được lập lên làm vua lấy hiệu là Đồng Khánh. Ngay từ đầu, vua đã trở thành công cụ trong tay người Pháp. Lễ ước vua mới từ Phu Văn Lâu vào điện Càn thành do Đờ - Cuốc – xy và Săm – pô dẫn đầu. Dọc đường rước vua đi qua có lính Pháp canh bồng súng và lính Nam vác gươm giáo đứng bảo vệ. Lên ngôi, Đồng Khánh không quên người đã tạo dựng cho mình nên ban liền ba đạo dụ phong Đờ - Cuốc – xy tước « Bảo hộ quân vương », phong Săm – pô tước « Dực quốc công ». Đồng Khánh còn nhờ Đờ - Cuốc – xy chuyển tới tổng thống Pháp bức thư điện cảm ơn nước Đại Pháp đã hết lòng vun trồng cho mình và cam đoan sẽ mãi mãi giữ trọn tình giao hảo giữa hai nước. Từ đó, ngày nào. Vua cũng tiệc tùng với các quan chức cao cấp Pháp, nhất là sau khi đã cưới con gái Nguyễn Hữ Độ.

Đồng Khánh càng thân Pháp thì phong trào Cần Vương chống Pháp càng lan rộng khắp nơi. Thực dân Pháp đã phải thừa nhận. « Chưa hề ở xứ nào, thời nào có một ông vua bị thần dân oán ghét như vua bù nhìn Đồng Khánh ! » Đồng Khánh cũng tự thú nhận. « Không đời nào tôi có thể tin rằng Hà Tĩnh, Quảng Bình trung thành với tôi, vì hai tỉnh ấy có nhiều sĩ quan quá ! ».

Song đời làm vua của Đồng Khánh không được lâu, ngày 22 tháng 12 năm Quý Mùi ( 1888), Đồng Khánh chết bệnh tại chính điện Càn thành ( Huế), mới 25 tuổi, ở ngôi 3 năm, có 9 người con ( 6 nam, 3 nữ). Được tôn miếu hiệu Cảnh Tôn thuần Hoàng đế.
 
Thành thái ( 1/1889 – 7/ 1907)

Niên hiệu : Thành Thái

Sáu người con trai của Đồng Khánh đều còn quá nhỏ. Vâng ý chỉ của Lưỡng Tôn Cung ( Nghi thiên chương Hoàng hậu – vợ Thiệu Trị và Lệ Thiên anh Hoàng hậu – vợ Tự Đức) triều đình đón người con thứ 7 của Dục Đức ( đã bị phế truât là Hoàng tử Bửu Lân khi đó mới 8 tuổi lên làm vua.

Chuyện kể rằng, khi triều quan đến nhà rước Hoàng tử vào hoàng thành làm lễ đăng quang thì mẹ là Từ Minh đi vắng. Ông hoàng bé bỏng run sợ, nói.

Các ông đến làm chi ? Bắt tôi à ? Các ông muốn làm chi thì làm nhưng phải đợi ả tôi ( mẹ tôi) về đã.

Khi Từ Minh về, biết chuyện con mình bị bắt đi làm chi thì làm vua, bà òa khóc, nghẹn ngào nói.

Lạy các quan ! Xin các quan tha cho mẹ con tôi ! Tôi không bao giờ quên cái chết vô cùng thê thảm của chồng tôi ( tức vua Dục Đức). Tôi cũng không quên rằng các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc đã bị giết và vua Hàm Nghi thì bị đi đày.

Sau một hồi khuyên giải của hàng xóm có mặt lúc đó. Từ Minh mới kể cho người ta bế con lên kiệu rước đi. Sau đó 3 giờ, chú bé Bửu Lân trở thành hoàng đế Thành Thái.

Thành Thái thông minh, lên 4 – khi vua cha bị truất – đã phải sống ở ngoài thành với bà con lao động chia sẻ gian khổ với những người nghèo khó trong cảnh nước mất nhà tan. Vì thế, làm vua, tuy mới 10 tuổi. Thành Thái đã sớm có ý thức về quốc sự và rất ham hiểu biết. Vua thích đọc các tân thư chữ Hán của Trung Quốc và Nhật Bản. Nhờ đó, Thành Thái có tinh thần tự cường dân tộc và đầu óc cải cách. Song mọi dự định cách tân đất nước của vua đều bị thực dân Pháp ngăn chặn.

Khâm sứ Pháp lo ngại một điều là Thành Thái rất gần dân, thương dân và hay vi hành. Có lần Thành Thái đi chơi bộ trên cầu Gia Hội, sắp gặp một người vác tre. Quân lính vội chạy lên trước, dẹp đường, vua bảo.

Cứ để cho người ta đi ! Mình dân không phải là dân, vua không phải là vua, tại sao dẹp người ta ?

Nhiều chuyến săn bắn ở Cổ Bi ( cách Huế khoảng 30 km) Vua thường ghé vào chơi các làng dọc sông Bồ. Vào làng, vua cho trả chiếu ngồi giữa đất, dân làng bu lại xem. Nếu lính đuôi, vua không cho và hỏi dân muốn gì ? Dân bảo muốn xem bắn. Vua liền giương súng bắn cho họ xem.

Khâm sứ Pháp và quần thần Nam triều xu nịnh rất muốn truất ngôi của Thành Thái để thay bằng vua bù nhìn khác. Họ phao tin, nhà vua bị điện hạ uy thế. Khâm sứ Lê – véc – cơ rất tức tối sau nhiều lần nhà vua không làm theo ý hắn. Ngày 29 tháng 7 năm 1907 ( bắt đầu từ đây không dùng ngày âm lịch vì sang thế kỷ 20), Lê – véc – cơ nói thẳng với Vua. Nhà vua không chịu thành thật cộng tác với chính phủ bảo hộ thì từ này mọi việc đều do Hội đồng thượng thư tự quyết đoán. Nhà vua đã hết quyền hành và không được ra khỏi nơi Đại Nội dành cho riêng vua.

Ngày 3 tháng 9 năm 1907, triều thần được lệnh của Pháp vào điện Càn Thanh dân vua dự thảo chiếu thoái vị với lý do sức khỏe không đảm bảo, xin tự nguyện rút lui. Xem xong bản dự thảo, Thành Thái nhếch mép cười, ghi ngay hai chữ « phê chuẩn » quay lưng đi vào.

Ngày 12 tháng 9 năm 1907 thực dân Pháp cho áp giải vào Sài Gòn rồi đưa đi quản thúc tại Capsaint Jacques, đến năm 1916 thì đày ra đảo Réunion cùng với con là Duy Tân.

Như vậy Thành Thái làm vua được 18 năm, phế truất năm 18 tuổi. Sau 31 năm bị đày, năm 1947, ông được phép trở về Tổ quốc nhưng buộc phải ở lại Sài Gòn để Pháp dễ bề kiểm soát. Mãi đến tháng 3 năm 1953, thực dân Pháp mới cho ông về thăm lăng tẩm cha mẹ, ông bà ở Huế sau lại phải trở vào Sài Gòn. Thành Thái mất tại Sài Gòn ngày 24 tháng 3 năm 1954, con cháu đưa ông về chôn ở Huế, thọ 74 tuổi. Không có miếu hiệu.
 
Duy tân ( 1907 – 1916)

Niên hiệu : Duy Tân

Gạt xong Thành Thái, thực dân Pháp định dùng con của Thành Thái là Hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi lên làm vua để dễ bề thao túng. Chúng không ngờ được rằng vị vua trẻ này còn có thái độ chống lại kiên quyết và tích cực hơn vua cha.

Từ khi còn nhỏ, vua đã có những việc làm và lời nói cương nghị, chống Pháp rất quyết liệt. Có lần, ngồi câu trước bến Phu Văn Lâu cùng với thầy học là Nguyễn Hữu Bài, vua ra vế đối.

« Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần »

Nguyễn Hữu Bài đối lại :

« Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đến đó »

Mắt đượm buồn, vua nói : Hóa ra thầy là người cam chịu bó tay trước số mạng. Theo ý trẫm, sống như thế thì buồn lắm. Phải có ý chí vượt qua gian khổ, khó khăn để tiến lên thì mới số có ý nghĩa.

Cuối năm 1916, được một tổ chức cứu nước giúp đỡ, Duy Tân đã bí mật gặp hai nhà chí sĩ của Việt Nam Quang phục hội ( Phan Bội Châu chủ xướng) là Trần Cao Văn và Thái Phiên bàn mưu khởi nghĩa đánh Pháp. Vua đã chủ động tham gia và quyết định đẩy ngày khởi nghĩa lên sớm hơn để khỏi lỡ thời cơ. Không may, bị lộ, Duy Tân bị giặc Pháp bắt tại một ngôi chùa ở Quảng Ngãi ngày 6 tháng 5 năm 1916 cùng nhiều chiến sĩ cứu nước khác, Giặc dụ dỗ, Duy Tân khẳng khái trả lời.

Nếu các ngươi dùng bạo lực bắt ta thì cứ bắt, còn ta, nhất định không về !

Toàn quyền Pháp ở Hà Nội đích thân ra gặp và dụ dỗ vua trở lại coi tôi là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi thư tín và chính kiến với chính phủ Pháp.

Không chấp nhận được, toàn quyền Pháp lệnh cho Khâm sứ đưa Duy Tân vào tạm giữ ở đồn Mang Cá và giao cho Nam triều trong một tuần phải thuyết phục được nhà vua thay đổi chính kiến. Cuối cùng, không chịu khuất phục thực dân Pháp và tay sai, Duy Tân đã bi lưu đày sang đảo Rêuyniong, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu đều bị chém đầu.

Theo vua đi đày có Hoàng mẫu Nguyễn Thị Định. Hoàng quý phi Mai Thị Vàng và em ruột là Mệ Cười mới 12 tuổi. Lúc theo chồng lên đường bà Mai Thị Vàng đã có mang 3 tháng và bị sảy thai, sau hai năm ở đảo Rêuyniong, vì không hợp thủy thổ, khí hậu, bị đau ốm luôn, mẹ, vợ và em vua cùng nhau trở về Tổ quốc. Năm 1925, Duy Tân đã gửi thư về cho Hội đồng dân tộc kèm theo giấy ly hôn bà Mai Thị Vàng, xin hội đồng chứng nhận để bà đi lấy chồng khác. Lúc đó, bà mới 27 tuổi, nhưng cương quyết thủ tiết với chồng.

Sau khi đã ly dị bà Vàng, Duy Tân đã lấy một người phụ nữ địa phương, từ 1929 đến 1939, sinh được 4 con, ba trai, một gái. Rồi không rõ bà vợ này đã chết hay bỏ nhau, cựu hoàng lại lấy một người ở thủ đô Xanh bơ noa và sinh được một người con gái.

Trong chiến tranh chống phát xít 1939 – 1945, Duy Tân tình nguyện gia nhập quân đội của « nước Pháp tự do » và khi đồng minh chiến thắng, ông được giải ngũ với hàm thiếu tá không quân. Việc làm này của ông bị vua cha là Thành Thái phản đối kịch liệt, tháng 10 thống Pháp Đờ Gôn trở về Việt Nam, nhưng bị tai nạn máy bay và mất trên đường đi thăm vợ con ở đảo Rêuyniong, thọ 48 tuổi. Không có miếu hiệu.
 
Khải định ( 1916 – 1925)

Niên Hiệu : Khải Định

Khải Định tên thật là Bửu Đảo, còn gọi là Hoàng thân Phục Hóa, con Đồng Khánh, sinh năm 1884. Từ 1907, sau khi phế truất Thành thái, thực dân Pháp đưa Bửu Đảo lên ngôi vua để nối tiếp dòng vua bù nhìn Đồng Khánh. Khi giải quyết vấn đề này, nhiều đình thần tỏ ý không muốn đặt lên ngai vàng một người « vô hậu » ( tuyệt tự). Pháp đành phải chấp nhận Duy Tân, Duy Tân bị đi đày, Pháp đưa Bửu Đảo lên ngôi, lấy miến hiệu là Khải Định, 32 tuổi.

Đây là một ông vua bù nhìn mạt hạng. Nhân dân Huế đã truyền miệng câu ca phổ biến về Khải Định.

« Tiếng đồn Khải Định nịnh tây,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư »

Tháng 4 năm 1922, trước ngày sang Pháp dự hội chợ Mác – xây, Khải Định cho làm lễ sắc lập Nguyễn Vĩnh Thụy làm Đông cung Hoàng thái tử. Ngay sau khi trở thành người kế vị, Vĩnh Thụy 10 tuổi, được trao cho Khâm sứ Sác – lơ mang về Pháp đào tạo.

Ngày 20 tháng 5 năm 1922, Khải Định sang Pháp dự hội chợ thuộc địa Mác – xây. Đây là lần đầu tiên, một ông vua triều Nguyễn sang nước ngoài. Sự kiện này giúp thực dân Pháp tô vẽ cho công cuộc chinh phục và khai hóa của họ ở thuộc địa. Chuyến đi của Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm lật tẩy bộ mặt phản dân hại nước của hắn trước công luận Pháp. Đáng chú ý hơn là cả những bài báo đanh thép của Nguyễn Ái Quốc cùng vở kịch « Con rồng tre » được công bố, biểu diễn tại Pháp và bản « Thất điều trần » của Phan Chu Trinh .

Tháng 9 năm 1924, Khải Định tổ chức lễ tứ tuần đại khánh ( mừng thọ tuổi 40 ) rất lớn và tốn kém. Hầu hết các tỉnh Bắc kỳ, Trung kỳ phải gửi tặng phẩm về mừng vua. Sau lễ mừng thọ này, ngân sách Nam triều kiệt quệ, Khải Định chỉ lệnh tăng thêm 30% thuế.

Tứ tuần đại khánh được 1 năm thì Khải Định qua đời vào ngày 6 tháng 11 năm 1925, lễ tăng kéo đến 31 tháng 1 năm 1926.

Khải Định có 12 vợ nhưng vô sinh. Đông cung thái tử Vĩnh Thụy là con của người khác, được vua nhận làm con mình. Vì thế, lúc Vĩnh Thụy còn nhỏ và đang đi tu nghiệp tại Pháp, người ta đã thay bằng một hội đồng phụ chính có sự can thiệp của Toàn quyền Đông Dương.
 
Vị hoàng đế cuối cùng

Niên hiệu : Bảo Đại ( 1926 – 1945)

Tiểu sử và sự nghiệp

Thuở nhỏ


Ông hoàng Bảo Đại tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (阮福永瑞), còn có tên Nguyễn Phúc Thiển (阮福晪), tục danh "mệ Vững"[1] sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 (ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu) tại Huế, là con của vua Khải Định và bà Từ Cung Hoàng Thị Cúc. Về thân thế của Bảo Đại vẫn còn nhiều nghi ngờ, vì vua Khải Định bị mang tiếng là bất lực và không thích gần đàn bà [2].

Ngày 28 tháng 3 năm 1922, Vĩnh Thuỵ được xác lập Đông cung Hoàng Thái tử. Ngày 15 tháng 6 năm 1922, Vĩnh Thuỵ cùng vua cha Khải Định sang Pháp để thưởng ngoạn cuộc triển lãm hàng hóa tại Marseille, Pháp. Tháng 6 năm 1922, Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ Jean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và cho ăn học tại học ở trường Lycée Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École libre des sciences politiques), Paris.

Tháng 2 năm 1924, Vĩnh Thụy về nước để dự Lễ Tứ Tuần Đại Khánh vua Khải Định, đến tháng 11 năm 1924 trở lại nước Pháp để tiếp tục học.

Vua Khải Định mất ngày 6 tháng 11 năm 1925, Vĩnh Thụy về nước thọ tang vua cha và ngày 8 tháng 1 năm 1926, Vĩnh Thụy được tôn lên kế vị làm vua lấy niên hiệu Bảo Đại. Tháng 3 cùng năm, Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục học tập. Từ niên khóa 1930, Bảo Đại theo học trường Khoa học Chính trị (Sciences Po). Đến tháng 9 năm 1932, Bảo Đại hồi loan về nước.

Lên ngôi

Bảo Đại mặc trang phục hoàng đế thời nhỏ

Vua Bảo Đại ngày phong vương

Tháng 9 năm 1932, Bảo Đại hồi loan trở về nước, chính thức làm vua. Bảo Đại đã cải cách công việc trong triều như sắp xếp lại việc nội chính, hành chính...Bảo Đại đã cho bỏ một số tập tục mà các tiên vương đã bày ra như thần dân không phải quỳ lạy mà có thể ngước nhìn long nhan nhà vua khi nhà vua tới, mỗi khi vào chầu các quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ bắt tay vua, các quan ta cũng không phải quỳ lạy... Bảo Đại đã cho các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài về hưu, sắc phong thêm 4 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải và Ngô Đình Diệm. Ông thành lập Viện Dân biểu để trình bày nguyện vọng lên nhà vua và quan chức bảo hộ Pháp và cho phép Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ được thay mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính quyền bảo hộ, tháng 12 năm 1933, Bảo Đại ngự du Bắc hà thăm dân chúng.

Ngày 20 tháng 3 năm 1934, Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương Hoàng hậu. Đây là một việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến vua Khải Định, các vợ vua chỉ được phong tước Vương phi, sau khi mất mới được truy phong Hoàng hậu. Ông là nhà vua đầu tiên thực hiện bỏ chế độ cung tần, thứ phi. Cuộc hôn nhân này cũng gặp phải rất nhiều phản đối vì Nguyễn Hữu Thị Lan là người Công giáo và mang quốc tịch Pháp.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, ngày 11 tháng 3 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam.

Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng Kim và ngày 12 tháng 5 giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam.

Thoái vị

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 25 tháng 8, Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh buộc Bảo Đại phải thoái vị. Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, Huế vào chiều 30 tháng 8, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là ông Trần Huy Liệu. Ông trở thành "công dân Vĩnh Thụy". Trong dịp này, ông có câu nói nổi tiếng "Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ".

Tháng 9 năm 1945, ông được Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mời ra Hà Nội nhận chức "Cố vấn tối cao Chính phủ Lâm thời Việt Nam", ông là một trong 7 thành viên của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chí Minh đứng đầu.

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 16 tháng 3 năm 1946, ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh thăm viếng Trung Hoa, nhưng ông không trở về nước, mà về Côn Minh rồi Hương Cảng. Tại Côn Minh, ông đã tiếp xúc với nhiều giới chính trị, trong đó có người Mỹ. Đại Tướng Marshall, đại diện Hoa Kỳ, đã đem bản giao ước với Bảo Đại về trình Tổng thống Harry S. Truman. Bảo Đại bèn viết thư về nước xin từ chức "Cố vấn tối cao" trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Làm Quốc trưởng

Năm 1947, cựu trùm mật thám Pháp ở Đông Dương là Cousseau đã tiếp xúc với Bảo Đại tại Hồng Kông, ngỏ ý mời ông về nước nắm quyền, hình thành nên "giải pháp Bảo Đại" để chống lại cuộc chiến giành độc lập của phong trào Việt Minh. Ngày 24 tháng 4 năm 1948, thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân và Trần Văn Hữu cũng bay tới Hồng Kông để gặp Bảo Đại xin thành lập Chính phủ Lâm thời cho Việt Nam, ngày 15 tháng 5, Bảo Đại gửi thông điệp cho tướng Xuân, tán thành sự thành lập Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam do tướng Xuân điều khiển "để giải quyết vấn đề Việt Nam đối với Pháp và dư luận Quốc tế".

Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Bảo Đại đã gặp gỡ Cao ủy Pháp Bollaert ở vịnh Hạ Long, trên chiến hạm Duguay Trouin, bản tuyên ngôn Việt - Pháp được công bố, theo đó nước Pháp thừa nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam.

Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập một chính quyền Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam, đứng đầu là Bảo Đại. Bảo Đại yêu cầu Pháp phải trao trả Nam Kỳ cho Việt Nam và Pháp đã chấp nhận yêu cầu này.
Người Pháp làm lễ trao ấn kiếm cho Quốc trưởng Bảo Đại (3 tháng 3 năm 1952)

Ngày 24 tháng 4 năm 1949, Bảo Đại về nước. Hai tháng sau, vào ngày 14 tháng 6, Bảo Đại tuyên bố tạm cầm quyền cho đến khi tổ chức được tổng tuyển cử và tạm giữ danh hiệu Hoàng đế để có một địa vị quốc tế hợp pháp. Ngày 20 tháng 6 năm 1949, thủ tướng Nguyễn Văn Xuân đệ đơn từ chức, Chính phủ Lâm thời Nam phần tuyên bố giải tán. Ngày 21 tháng 6, thỏa ước Elyseé được công bố.

Ngày 1 tháng 7 năm 1949, Chính phủ Lâm thời của Quốc gia Việt Nam được thành lập theo sắc lệnh số 1-CP của thủ tướng, tấn phong Bảo Đại là Quốc trưởng, trung tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng[3] (Có tài liệu ghi Bảo Đại là Quốc trưởng kiêm Thủ tướng, Nguyễn Văn Xuân là phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng[4]). Tháng 1 năm 1950, Bảo Đại chỉ định Nguyễn Phan Long làm Thủ tướng. Ngày 27 tháng 4 năm 1950, giải tán chính phủ Nguyễn Phan Long và ủy nhiệm Thủ hiến Trần Văn Hữu thành lập chính phủ mới. Chính phủ do Trần Văn Hữu làm Thủ tướng tồn tại đến ngày 6 tháng 6 năm 1952 thì phải cáo lui, nhường chỗ cho Nguyễn Văn Tâm lên làm thủ tướng cùng thành phần tổng, bộ trưởng đa số là người do Pháp đào tạo.

Ngày 20 tháng 11 năm 1953, hoàng thân Bửu Lộc từ Pháp về Sài Gòn lập chính phủ thay thế chính phủ Nguyễn Văn Tâm. Thời gian này, Quốc trưởng Bảo Đại sống và làm việc tại biệt điện ở Đà Lạt. Xung quanh nơi ở của Bảo Đại có cả một trung đoàn Ngự lâm quân bảo vệ và có cả một đoàn xe riêng gọi là "công xa biệt điện", lại có cả một đội máy bay riêng do các phi công người Pháp lái phục vụ.

Ngày 11 tháng 1 năm 1954, Chính phủ mới do Bửu Lộc thành lập trình diện Bảo Đại nhưng đến ngày 16 tháng 6 năm 1954, Bửu Lộc từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm về nước, ngày 6 tháng 7, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới.

Sau Hiệp định Genève 1954, Pháp phải rút khỏi Đông Dương, chính quyền và quân đội Quốc gia Việt Nam tập kết ở miền Nam Việt Nam chờ tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam.

Ngô Đình Diệm tiến hành cải tổ chính phủ lần thứ nhất vào ngày 24 tháng 9 năm 1954 và lần thứ hai vào ngày 10 tháng 5 năm 1955.

Tháng 9 năm 1954, tướng Nguyễn Văn Hinh không chịu dưới quyền chỉ huy của Ngô Đình Diệm nên đánh điện sang Pháp nhờ Bảo Đại can thiệp. Bảo Đại điện về Sài Gòn triệu tập Diệm sang Cannes gặp Bảo Đại để bàn lại việc sắp xếp nhân sự nhưng Diệm không đi. Bảo Đại quyết định điện về Sài Gòn cách chức thủ tướng của Ngô Đình Diệm.

Tuy nhiên, ngày 4 tháng 10 năm 1955, Ủy ban trưng cầu dân ý thành lập đưa ý kiến đòi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại và đưa Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Quốc trưởng. Đến ngày 26 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm được suy tôn lên chức vị Quốc trưởng, và với 5.721.735 phiếu truất, Quốc trưởng Bảo Đại bị phế truất và bắt đầu cuộc sống lưu vong tại Pháp cho đến ngày tạ thế.[5]

Cuộc sống lưu vong

Cựu hoàng Bảo Đại tại Paris

Ông sống tại Cannes, sau đó chuyển đến vùng Alsace. Bảo Đại giao du với Jean de Beaumont, cựu nghị sĩ Nam Kỳ, một tay săn bắn có hạng. Bị cơ quan thuế để mắt tới, không còn tiền tài trợ của chính phủ Pháp, ông phải bán dần tài sản của mình. Năm 1963, Nam Phương Hoàng hậu qua đời ở Chabrignac. Năm 1982, khi đã tiêu pha hết cả tài sản, Bảo Đại kết hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém Bảo Đại hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946). Bảo Đại nhập đạo Công giáo lấy tên thánh là Jean-Robert.

Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại, Bảo Đại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân. Trong chuyến đi này ông đã nhận tên cha để làm lại giấy khai sinh cho những người con ngoại hôn trước đây không ghi tên cha. Tại thị trấn Sacramento, ông được tặng chiếc chìa khóa vàng tượng trưng cho thị trấn này. Ông cũng được bà thị trưởng thành phố Westminster, California tặng danh hiệu "công dân danh dự" của thành phố.

Tang lễ

Mộ cựu hoàng Bảo Đại tại Nghĩa trang Passy Paris.

Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua thọ nhất nhà Nguyễn. Ông qua đời ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Quân y viện Val-de-Grâce, hưởng thọ 84 tuổi. Ông cũng là một phế đế sống thọ nhất trên thế giới thời hiện đại. Trước đó ông có nhận lời về tham dự Hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) được tổ chức tại Hà Nội vào 1997.

Đám tang Bảo Đại được điện Elysée đứng ra lo liệu đầy đủ và trang trọng. Về phía gia đình, ngoài bà quả phụ Vĩnh Thụy Baudot có hoàng tử Bảo Long và các công chúa cùng đến tiễn đưa thân phụ, ngoài ra còn có bà Didelot (chị ruột của bà Nam Phương), tuy đã 90 tuổi nhưng cũng tới dự. Linh cữu Bảo Đại được đưa từ Quân y viện Val de Grace tới thánh đường Saint Pierre de Chaillot để làm lễ cầu hồn. Ông được an táng tại nghĩa trang Passy, quận 16, Paris, khá gần tháp Eiffel. Đám tang Bảo Đại được nhà nước Pháp cử một tiểu đội lính lê dương quân phục trắng, gù đỏ trên vai, bồng súng, một sĩ quan cầm quốc kỳ Pháp đi đầu và tiểu đội lính cầm súng đi hai bên linh cữu. Chính phủ Pháp có cử đại diện đến dự lễ, chia buồn và tiễn đưa. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi điện chia buồn đến tang quyến và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã gửi vòng hoa viếng.

Trả lời BBC về sự kiện này, bà Monique nói "Ngày hôm nay tôi rất đau buồn. Dĩ nhiên rồi, trước hết và trên hết là vì chồng tôi vừa qua đời. Nhưng hôm nay trang sử của triều Nguyễn Việt Nam cũng được chấm dứt. Tôi cầu nguyện cho chồng tôi".[6]


Nguồn Internet.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top