• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Việt Nam thời dựng nước

Lê hy tông ( 1676 – 1705)

Niên hiệu : Vĩnh Trị ( 1676 – 1680)
Chính Hòa ( 1681 – 1705)


Lê Hy Tông có tên là Duy Cáp ( có sách chép là Duy Hợp), là con thứ của Thần Tông và là em của Gia Tông. Khi Thần Tông qua đời, ông còn nằm trong bụng mẹ mới được 4 tháng. Thần Tông dặn dò Tây vương Trịnh Tạc bảo hộ, sau này cho Duy Cáp nối ngôi. Lúc Gia Tông chết Duy Cáp lên 13 tuổi, được Tây vương phò lên ngôi vua. Lấy ngày sinh làm “ Thiên minh thánh tiết”, nhà vua tuân giữ cơ nghiệp có sẵn, rũ tay áo mà hưởng cuộc thịnh trị. Kỷ cương thì chấn hưng, thưởng phạt thì nghiêm túc và công minh, phần nhiều các công khanh đều xứng đáng với chức vụ, trăm quan kính giữ phép tắc chế độ, nhân dân yên nghiệp làm ăn. Đó là các năm dưới niên hiệu Vĩnh Trị ( 1676 – 1680) và Chính Hòa ( 1680 – 1704). Người đời bấy giờ ca ngợi là thời chính trị bậc nhất thời Trung Hưng. Tháng 4 năm Ất Dậu ( 1705), sau khi ở ngôi 30 năm. Vua ban chiếu truyền ngôi cho Hoàng Thái tử Lê Duy Đường rời sang ở cung khác. Nhường ngôi rồi vua còn vui sống cảnh nhàn 12 năm nữa mới mất, thọ 54 tuổi.
 
Lê dụ tông ( 1705 – 1728)

Niên hiệu: Vĩnh Thịnh ( 1706 – 1719)
Bảo Thái ( 1720 – 1729)


Vua húy là Duy Đường, con trưởng Lê Hy Tông, được nhường ngôi năm Ất Dậu ( 1705). Sau khi lên ngôi đổi tên niên hiệu là Vĩnh Thịnh.

Bấy giờ thừa hưởng cơ nghiệp Thái Bình, không xảy binh đao vì chiến tranh Trịnh – Nguyễn tạm dừng. Trong nước vô sự, triều đình có làm được nhiều việc. Pháp độ được đầy đủ, kỷ cương thi hành được hết. Xứ xa lạ thì dân lễ vật tỏ lòng thành, Trung Quốc thì trả lại đất. Nhà vua rũ tay áo, ngồi ở trên, không phải khó nhọc mà mọi việc đâu ra đấy. Khi nói đến cuộc thịnh trị lúc bấy giờ người phải kể đến công lao giúp chính của chúa Trịnh Cương, Trịnh Cương cùng với các bồi tụng và tham tụng. Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Cơ đều là người giúp việc rất đắc lực và liêm khiết, họ chủ trương cải cách trên nhiều lĩnh vực, kinh tế - tài chính, thi cử, tổ chức hành chính và quan lại…Nhưng các cải cách đó chưa thu được kết quả thì Trịnh Cương qua đời. Ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Dậu ( 1729). Nhà vua nhường ngôi cho Thái Tử Duy Phương rồi ra ở cung Kiền thọ, xưng là Thuận Thiên thừa vận Hoàng thượng, khi đó vua 49 tuổi. Như vậy vua Lê Dụ Tông làm vua được 24 năm, đặt niên hiệu hai lần. Vĩnh Thịnh ( 1705 – 1719) và Bảo Thái ( 1720 – 1729). Tháng Giêng năm Tân Hợi ( 1731). Thái Thượng hoàng mất, thọ 52 tuổi.
 
Hôn đức công ( 1729 – 1732)

Niên hiệu: Vĩnh Khánh

LÊ THUẦN TÔNG ( 1732 – 1735)
Niên hiệu :Long Đức


Sau khi Hoàng Thái tử Lê Duy Phương được vua cha nhường ngôi, ban lời chiếu khá dài nói về công lao khai sáng của Lê Thái Tổ, công cuộc Trung Hưng và vai trò của các chúa Trịnh…rộng ban ân điển 5 điều cho thần dân cả nước. Nhưng ngôi vua của Lê Duy Phương không đứng vững, vì sau khi Trịnh Cương mất, Trịnh Giang lên nối nghiệp chúa thì tình hình lại thay đổi.

Nguyên do là, trước con trưởng của vua là Lê Duy Tưởng đã 28 tuổi, được ở ngôi đông cung đã 10 năm, lẽ ra phải được truyền ngôi. Nhưng Duy Tưởng còn có một người em khác là Duy Phương, 19 tuổi do chính phi Trịnh thị ( con gái Trịnh Cương) sinh ra. Trịnh Cương muốn bỏ người con cả để lập cháu ngoại của mình lên ngôi, mới quanh co làm ra lời bàn phong quan, ban tước, rồi ép vua Dụ Tông phải nhường ngôi cho Duy Phương, Duy Phương lên ngôi, ngay lập tức tôn mẹ là Trịnh thị lên làm Hoàng thái hậu và lại tiếp tục lấy một chính phi họ Trịnh làm Hoàng hậu. Nhưng khi Trịnh Giang lên cầm quyền, muốn tỏ rõ uy quyền, Giang bỏ hết các phép tắc của cha. Các chính sánh thuế khóa tài chính mà Trịnh Cương cho thi hành từ các năm 1720 – 1730 đều bị hủy bỏ. Về việc định ngôi vua cũng vậy, tháng 8 năm Nhâm Tý ( 1732) Trịnh Giang truất thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trang xuống làm quận quân, vu cho vua có tư tình với các cung phi của người khác, Trịnh Giang ép vua ra ở cung riêng. Những thứ cung đốn cho vua dùng đều bị bớt xén đi, rồi truất vua xuống là Hôn Đức Công, dời đến ở một ngôi nhà bên ngoài thành, buộc phải thắt cổ chết vào tháng 9 năm Ất Mão ( 1735)

Giết vua rồi, Giang cho dẫn 12 người con của Dụ Tông vào phủ đường để xem mặt, Duy Tường là con trưởng, đáng được lập làm vua, Giang liền sai viên quan bảo vệ Duy Tường đến cung Từ thọ, làm lễ cáo thái miếu lập lên làm vua, tức là vua Thuần Tông.

Duy Tường lên ngôi đổi niên hiệu là Long Đức, đại xá trong nước, tha bỏ thuế thiếu, tha những tiền để chuộc tội còn thiếu chồng chất, viên quan nào bị lầm lỡ bị truất bãi đã lâu, đều cho xem xét dùng lại. Nhưng Duy Tường làm vua không được lâu, chỉ bốn năm sau. Vua mất, thọ 37 tuổi, quần thần dân tôn hiệu là Thuần Tông Giản hoàng đế.
 
Lê ý tông ( 1735 – 1740)

Niên hiệu: Vĩnh Hựu

Sau khi Thuần Tông Giản hoàng đế mất, Trịnh Giang cho lập Duy Thận, con thứ 11 của Dụ Tông, em của Thuần Tông lên ngôi. Mặc dù Thuần Tông cũng có con đã lên 19 tuổi, nhưng Trịnh Giang cho rằng Duy Tiên ( con Thuần Tông tuổi đã trưởng thành và nhận thấy Duy Thận là cháu ngoại bà thái phi họ Vũ ( mẹ của Trịnh Cương, bà của Trịnh Giang), trước kia vẫn nuôi nấng Thận ở trong phủ, thân cận yêu thương và có phần dễ kiềm chế hơn. Thế là Giang quyết định cho Duy Thận khi đó mới 17 tuổi lên nối ngôi. Bầy tôi trong triều không ai dám nói gì cả, Duy Thận lên ngôi lấy niên hiệu là Vĩnh Hựu.

Dưới thời cầm quyền của Trịnh Giang, tình hình trong nước lại mất ổn định, Giang là kẻ vô cùng bạo ngược, không việc gì là không làm, sát hại công thần, tự cho thi tiến sĩ ở phủ đường…, giết vua nọ lập vua kia…Vì thế tháng 12 năm Mậu Ngọ ( 1738) một người tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật và Duy Quý ( con Lê Dụ Tông), Duy Chức ( con Hy Tông) cùng với một số quần thần bàn mưu đốt kinh thành nhưng việc không thành, họ phải vượt biển chạy vào Thanh Hóa. Giang cho quân đuổi theo nhưng không kịp. Sau vụ đó, Duy Mật bèn chiếm cứ miền thượng du vùng Tây Nam chống nhau với nhà Trịnh ròng rã trong 30 năm.

Từ ngày làm việc bạo nghịch giết vua, Trịnh Giang lấn quyền vua ngày một quá quắt, thêm vào đó lại chơi bời dâm dục không còn mức độ nào cả, vì thế Giang mắc chứng bệnh kinh phí, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan là Hoàng Công Phụ đánh lừa Giang, chúng đào đất làm cung thưởng Trì dưới hầm cho Giang ở. Từ đó Giang không bước chân ra ngoài, Công Phụ cùng đồ đảng của hắn càng có dịp chuyên quyền, lũng loạn triều chính. Các quan đại thần kế tiếp nhau người bị giết, người bị phạt. Chính sự trái ngược, thuế khóa nặng nề, lòng dân mong cho chóng nổi lên loạn lạc. Lúc ấy, hàng loạt cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra ở khắp nơi. Vùng Hải Dương có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Vũ Trác Oánh, ở vùng Sơn Nam có Hoàng Công Chất…Họ đều lấy danh nghĩa phò Lê. Dân ở vùng Đông Nam, người đeo bừa, người vác gậy đi theo, chỗ nhiều đến hơn vạn, chỗ nhỏ cũng hàng ngàn hàng trăm. Quân khởi nghĩa vây các ấp, các thành, triều đình không thể ngăn cấm được.

Trước tình hình đó Trịnh thái phi là Vũ thị ( vợ Trịnh Cương, mẹ Trịnh Giang và Trịnh Doanh) cho triệu Nguyễn Quý Cảnh và một số quần thần khuyên Trịnh Doanh đứng ra thay Trịnh Giang để trừ hoạn nạn trong cung phủ. Năm Canh Thân ( 1740) Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, tháng 5 năm ấy Doanh ép vua truyền ngôi cho Duy Diên, con trưởng của Thuần Tông. Tôn nhà vua lên làm Thái Thượng hoàng, như vậy Ý Tông ở ngôi được 5 năm, khi nhường ngôi mới 21 tuổi. Nhường ngôi rồi Ý Tông đến điện Càn Thọ, được 19 năm thì chết, thọ 40 tuổi.
 
Lê hiển tông ( 1740 – 1786)

Niên hiệu : Cảnh Hưng

Hiển Tông tên thật là Duy Diên, là Thái tử của vua Thuần Tông, nhưng vì chú là Duy Thận và Duy Mật khởi nghĩa chống họ Trịnh chuyên quyền, vì thế Duy Diên bị Trịnh Giang truất ngôi Thái tử và bị giam cầm từ lâu. Chúng ta biết Duy Tường ( Thuần Tông). Duy Thận ( Ý Tông) và Duy Mật đều là con của vua Lê Dụ Tông. Duy Diên là con trưởng của Duy Tường nên phải gọi Duy Thận và Duy Mật là chú. Sau khi Trịnh Doanh lên thay ngôi chúa của Trịnh Giang mới sai người thả Duy Diên và lập lên làm vua, ép vua Ý Tông phải nhường ngôi cho cháu dòng đích. Trong tờ chiếu nhường ngôi của vua Ý Tông có đoạn viết. Nghĩ phương xa có nhiều kẻ mạnh, lòng càn rỡ, muốn cho trong ngoài bờ cõi được yên vui, thì chính là theo lễ nên tôn dòng con trưởng, để trọng tôn thống, mà thu phục lòng người. Sau khi Ý Tông lên làm Thái Thượng Hoàng ra ở điện Càn thọ, số xã dân cung phụng được lấy bằng 1/3 trong số chính phần của các vua Lê thời kỳ này.

Theo mô tả của các sách sử còn lại, Duy Diên râu rồng, mắt phượng, trước là con trưởng nhưng vì ở vào hoàn cảnh nguy hiểm, bị ngờ vực, thường đã nếm trải nhiều gian khổ. Vua lên ngôi báu lúc mà trong nước gặp nhiều khó khăn. Bốn phương quân khởi nghĩa nổi lên liên tục không lúc nào yên. Nhưng nhờ có tài giúp đỡ của Minh vương Trịnh Doanh nên 10 năm sau đất nước đã trở lại bình yên, dân yên cư lạc nghiệp, người bấy giờ cũng ca ngợi là thời Thái Bình. Phải nói Lê Hiển Tông là ông vua trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Số năm trị vì của ông lên tới gần nửa thế kỷ - 47 năm. Bí quyết của ông vua này là sống nhàn hạ và không quan tâm đến chính sự, mọi việc đều do nhà chúa quyết định từ Trịnh Doanh sau đến Trịnh Sâm. Dưới thời Doanh, vì Doanh tin vào phúc đức của nhà vua nên cố gắng tôn lập và dựa vào. Sau này khi Trịnh Sâm lên cầm quyền chính, lần bức vua ngày càng quá đáng song vua vẫn đối xử một cách bình thường. Lúc nào vua cũng tỏ ra thâm trầm kín đáo, người ta không thấy góc cạnh. Vua thường nói “ Trẫm rũ áo chắp tay nhờ nghiệp đã sẵn, cần gì đọc sách, chỉ hát múa, ăn chơi để tiêu khiển mà thôi”.

Tháng Giêng năm Giáp Thân ( 1764) vua cho tập Duy Vĩ làm Thái tử, năm Đinh Hợi ( 1767), Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm làm Nguyên soái tĩnh đô vương. Tháng 3 năm Kỷ Sửu ( 1769) Sâm truất ngôi Thái tử của Duy Vĩ rồi bắt giam vào ngục.

Thái tử Duy Vĩ lúc nhỏ đã rất thông minh, nhanh nhẹn, xem thông các sách kinh, sử. Đối với sĩ phu Thái tử có thái độ rất ôn hòa lễ độ, thần dân ai cũng mến vọng Thái tử. Trịnh Doanh rất trọng tài của Thái tử, đem con gái trưởng là Tiên Dung quận chúa gả cho Thái tử. Song trong lòng Thái tử vẫn bực tức về nỗi nhà Lê bị lấn quyền, rất muốn thu nắm quyền cương, khi đó Trịnh Sâm cũng đang là thế tử, đối với Thái tử vẫn đem lòng ghen ghét về địa vị và tài năng. Sự việc càng trở nên nghiêm trọng hơn khi một hôm Thái tử và Sâm cùng ở phủ đường, được chúa Trịnh ban cho ăn cơm và bảo ngồi cùng một mâm, lúc ấy vợ Trịnh Doanh là Nguyễn thị can ngăn đi vào nói “ Thế tử và Thái tử có danh phận vua tôi, lẽ nào được ngồi cùng một mâm? Nên phân biệt làm hai chiếu”. Sâm đổi nét mặt, bước ra về, nói với người ngoài rằng “ Ta với Duy Vĩ hai người, phải một chết một sống, quyết không song song cùng đứng được”.

Khi Sâm được lên ngôi chúa, việc đầu tiên là Sâm bàn cách để hãm hại Thái tử, việc này Sâm bàn với Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Duy Đĩnh, cuối cùng họ vu cho Thái tử thông dâm với người phủ thiếp của Trịnh Doanh, rồi đem tội trạng ấy tâu bày với nhà vua và xin bắt Thái tử giam vào ngục. Mặc dù Thái tử đã chạy vào trong nội điện của nhà vua thế mà vua cũng không dám cứu con mình, chỉ ôm lấy Thái tử mà khóc rồi để cho người của Trịnh Sâm bắt giam. Trước khi bị tống vào ngục. Thái tử quát vào mặt bọn quan lại nhà Trịnh. “ Bỏ vua này, lập vua khác, bạo nghịch giết vua, là việc làm đã quen của nhà bay, chứ ta có tội gì đâu? Việc này đã có sử xanh chép để ngàn đời” Trịnh Sâm giả thác mệnh vua, truất Thái tử làm thứ dân rồi giam vào ngục. Tháng 8 năm Kỷ Sửu ( 1769), Trịnh Sâm cho lập Duy Cận là con thứ của vua làm Thái tử.

Tháng 12 năm Tân Mão ( 1771) Sâm sai giết Thái tử Duy Vĩ, tháng Giêng năm Quý Mão ( 1783) lập Duy Khiêm làm Hoàng thái tôn, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng công. Việc này do binh lính tam phủ làm, chả là lúc Thái tử Duy Vĩ bị hại, Duy Khiêm ( con trai trưởng Duy Vĩ) lúc đó mới 6 tuổi, cùng với các em là Duy Trù và duy Chi đều bị bắt giam đến lúc quân lính tam phủ nổi lên, họ rước Duy Khiêm về nội điện lập làm Hoàng thái tôn. Thấy Duy Khiêm trở về, Trịnh thái phi Nguyễn thị ( vợ Trịnh Doanh, người xã Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, mẹ đẻ của Tiên Dung quận chúa, người ủng hộ việc lập Duy Cận), sợ Duy Cận mất ngôi Thái tử, bèn sai quan hoạn là Liêm Tăng đến bắt ép Duy Khiêm sang chầu, để toan bí mật giết đi. Duy Khiêm từ chối không được, sa nước mắt khóc mà đi, khi ra đến đường bị quân tuần sát ngăn lại, biết được mưu hại giết Duy Khiêm quân lính làm ầm ĩ, yêu cầu tra cứu cho ra những người lập mưu giết hại Duy Khiêm, họ lùng tìm hoạn quan Liêm Tăng nhưng không thấy, ngờ Duy Cận là chủ mưu. Lúc ấy Duy Cận đang chầu Trịnh thái phi, trượng để ở ngoài phủ đường, quân lính liền đập phá tan nát. Duy Cận sợ, phải thay đổi quần áo rồi lẻn về cung, lúc này Trịnh Khải đã lên thay Trịnh Sâm. Khải biết việc này do Thái phi gây ra, nhân dụ dỗ quân sĩ chớ làm huyên náo, rồi lập tức hạ lệnh cho bầy tôi trong triều xin vua cho lập Duy Khiêm lên làm Hoàng thái tôn. Lúc đó Duy Khiêm đã 18 tuổi, bắt Duy Cận làm tờ biểu nhường ngôi, rồi truất Cận làm Sùng Nhượng công.
 
Lê mẫn đến ( 1787 – 1789)

Niên hiệu : Chiêu Thống

Tên là Duy Khiêm ( còn có tên là Duy Kỳ), cháu đích của vua Hiển Tông, con của Thái tử đã mất Duy Vĩ, Duy Khiêm được quân tam phủ đưa từ nơi bị giam cầm về Trịnh Khải lập làm thái tôn, truất ngôi Thái tử của Duy Cận. Trước khi vua Hiển Tông mất đã cho gọi Thái tử Duy Khiêm vào trối lời truyền ngôi. Thái tử vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh, lúc đó Nguyễn Huệ đã cưới công chúa Ngọc Hân. Ông có hỏi về việc các Hoàng tử, công chúa rất khen Duy Cận là người tốt, Nguyễn Huệ muốn bàn luận lại việc lập người nối ngôi, triều đình lo sợ, không biết làm thế nào được, các người trong họ tông thất đều trách móc công chúa làm hại mưu kế lớn của xã tắc. Công chúa sợ, trở về xin với Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ nhận lời, bèn phò thái tôn lên ngôi Hoàng đế, đổi tên là Duy Kỳ, lấy niên hiệu là Chiêu Thống. Khi Nguyễn Nhạc ra Thăng Long, Lê Chiêu Thống đem trăm quan thân hành đón tiếp ở ngoài cửa Nam Giao. Sau khi cùng Nguyễn Nhạc đàm đạo việc nước vua Lê xin cắt đất cho Nguyễn Nhạc để khao quân, Nguyễn Nhạc từ chối. Rồi Nguyễn Nhạc cùng vua Lê ước hẹn đời làm láng giềng hòa hiếu.

Những khi Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuan thì hào mục ở các nơi nổi dậy cát cứ, họ Trịnh cùng Trịnh Bồng trở lại Thăng long tự lập làm Nguyên soái Yến đô Vương và lấn át nhà vua như trước, khiến cho triều đình rối ren, chém giết lẫn nhau, Nguyễn Huệ lại phải kéo quân ra Bắc dẹp nội loạn, chiêu tập các cựu thần văn võ nhà Lê, lấy Sùng Nhượng công Lê Duy Cận đứng giám quốc và Ngô Văn Sở quản lĩnh binh chúng rồi kéo quân về Nam.

Để khôi phục lại Lê Chiêu Thống, tháng 7 năm Mậu Thân ( 1788) Hoàng thái hậu sang nhà Lê thanh xin quân cứu viện.

Sau khi lấy được Thăng Long, dựa vào thế quân Thanh vua Lê đã trả thù tàn bạo những người đã theo Tây Sơn, vì thế không khí trong kinh ngoài trấn đều rất chán nản, rời rạc và lo sợ.

Mồng 1 Tết năm Kỷ Dậu ( 1789), quân đội Sơn Tây do Hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh. Các tướng nhà Thanh sống sót bỏ chạy về nước kéo theo vua bán nước Lê Chiêu Thống cùng bầy tôi 25 người.

Nhà Lê mất, sau 5 năm sống lưu vong nhục nhã và phẫn uất trên đất Thanh, tháng 10 năm Quý Sửu ( 1793), Lê Chiêu Thống chết ở Yên Kinh ( Trung Quốc), thọ 28 tuổi. Tháng 8 năm Giáp Tý ( 1804), triều Nguyễn đã cho đưa thi hài Lê Chiêu Thống về nước, chôn tại lăng Bàn thạch. Trên bài vị thờ tại lăng đề là Nghị hoàng đế.

Tháng 2 năm Giáp Thân ( 1884) niên hiệu Kiến Phúc thứ nhất nhà Nguyễn truy đặt tên cho Lê Chiêu Thống là Mẫn đế. Đây là ông vua cuối cùng của triều Lê.

Như vậy, nhà Lê Trung Hưng từ Trang Tông đến Chiêu Thống trải 18 đời và 265 năm trị vì.

Nhà Hậu Lê tồn tại song song với nhà Mạc từ năm 1533 – 1592, và với Trịnh Nguyễn từ năm 1592 – 1789. Đây là giai đoạn của nạn nội chiến Nam – Bắc triều và Trịnh – Nguyễn phân tranh gây nên bao cảnh đau thương thảm khốc trong nhân gian.

16 đời vua Lê nối tiếp nhau.
Trang Tông ( 1533 – 1548)
Trung Tông ( 1548 – 1556)
Anh Tông ( 1556 – 1573)
Thế Tông ( 1573 – 1599)
Kính Tông ( 1600 – 1619)
Thần Tông ( 1619 – 1643 và 1649 – 1662)
Chân Tông ( 1643 – 1649)
Huyền Tông ( 1663 – 1671)
Gia Tông ( 1672 – 1675)
Hy Tông ( 1676 – 1704)
Dụ Tông ( 1705 – 1728)
Hôn Đức Công ( 1729 – 1732)
Thuần Tông ( 1733 – 1735)
Ý Tông ( 1735 – 1740)
Hiển Tông ( 1740 – 1786)
Chiêu Tông ( 1787 – 1789).
 
Triều tây sơn ( 1778 – 1802)

THÁI ĐỨC HOÀNG ĐẾ ( 1778 – 1793)
Niên hiệu: Thái Đức


Tổ tiên anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, khoảng những năm 1653 – 1657 quân Nguyễn đánh ra Đàng ngoài, chiếm được 7 huyện của trấn Nghệ An, khi rút về Nam họ đem theo rất nhiều dân ở các huyện trên vào sinh sống ở các vùng đất mới phía nam để khẩn hoang. Ông tổ của Tây Sơn cũng bị quân Nguyễn bắt và an sáp ở ấp Tây Sơn Nhất ( nay là thôn An Khê, phủ Hoài Nhân, Bình Định). Từ đó họ đổi sang họ Nguyễn.

Đến đời Nguyên Phi Phúc lại dời ấp sang Kiên Thành, huyện Tuy Viễn ( Tuy Phước, Bình Định). Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng sinh được ba người con trai, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Gia đình ông làm nghề buôn trầu, cuộc sống cũng khá giả.

Anh em Nguyễn Nhạc cũng có được đi học và đã có thời gian theo học thầy giáo Hiến. Giáo Hiến nguyên là môn khách của Trương Văn Hạnh, ngoại hữu dưới thời Nguyễn
Phúc Thuần ( 1765 – 1777). Sau vì Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, Giáo Hiến sợ bị liên lụy phải chạy vào Quy Nhơn, mở trường dạy học ở ấp Yên Thái. Lúc đó quyền thần Trương Phúc Loan tác oai tác phúc, lòng người ai cũng căm ghét, hàng ngày được học với Giáo Hiến, anh em Tây Sơn lại được thúc giục bởi những câu sấm đầy khích lệ. Tây khởi nghĩa, Bắc thụ công, Giáo Hiến còn nói cụ thể hơn.

Anh là người Tây Sơn, hãy cố đi!

Nguyễn Nhạc xuất thân làm biện lại ( Thu thếu ở một trạm thuế trong vùng), nhưng vụ thuế năm Tân Mão ( 1771), thu được bao nhiêu Nguyễn Nhạc đánh bạc hết sạch. Để tránh sự truy tố của nhà cầm quyền. Nhạc bỏ trốn cùng hai em vào ở núi thượng Đạo, ấp Tây Sơn, dựng trại, lập đồn, xưng hùng khởi nghĩa. Cơ nghiệp triều Tây Sơn bắt đầu từ đây.

Theo anh em Tây Sơn là những người can đảm đã từng bôn ba, bị cuộc sống dồn nén, xô đẩy đến bước đường cùng phải cầm vũ khí. Lại có cả những người thuộc các dân tộc miền thượng du vùng nam Trường Sơn…Bước đầu nghĩa quân đã có vài nghìn người, Anh em Tây Sơn thường sai quân đi cướp của những nhà giàu trong vùng rồi phân phát cho dân nghèo, bấy giờ trong vùng Quy Nhơn có Huyền Khê là một tay giàu có, ngầm giúp họ một tay về tài chính. Nhờ đó Tây Sơn mộ lính sắm khí giới và theo đuổi mục tiêu còn cao hơn, lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ Hoàng tôn Dương.

Mùa thu năm Quý Tỵ ( 1773), Tây Sơn đem quân ra đánh ấp Kiên thành, đặt chia cơ quan cai quản trong vùng họ kiểm soát. Chúa trại nhất Nguyễn Nhạc kiểm soát hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn, Chúa trại nhì Nguyễn Thung phụ trách huyện Tuy Viền, còn Chúa trại huyện ba Huyền Khê cung cấp lương thực quân nhu…Họ không chỉ mở rộng vây cánh ở trong vùng như chiêu dụ những tay lục lâm. Nhưng Huy và Tứ Linh mà còn liên lạc với nước ngoài, mật ước với nữ chúa Chiêm Thành đem quân sang đánh ở trại Thạch Thành làm thế ỷ giốc. Công việc sắp đặt mà mưu mô ban đầu do Nguyễn Nhạc, một con người có cơ trí và đóng vai trò chủ động. Bằng mưu kế trá hàng của Nguyễn Nhạc, quân Tây Sơn chỉ trong một đêm đã lấy được thành Quy Nhơn, sau đó tiến đánh Quảng Ngãi. Dưới chiêu bài tôn phò Đông Cung Dương họ đánh chiếm được Phú Yên. Năm Bính Thân ( 1776), Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương, đúc ấn vàng, phong cho hai em. Nguyễn Huệ làm phụ chính, Nguyễn Lữ làm thiếu phó. Những người có công theo giúp cũng theo thứ tự ban thưởng, Tây Sơn vương đóng đô tại thành Đồ Bàn, trữ lương thực, luyện binh lính, kiểm duyệt tướng sĩ, thu dùng những tay hào kiệt, lực lượng phát triển nha chóng.

Giảng hòa với quân Trịnh, Năm Đinh Dậu ( 1777) Nguyễn Nhạc được phong làm Quảng Nam trấn thủ tuyên úy Đại sứ Cung Quốc công. Từ đó quân Tây Sơn dốc toàn lực tấn công quân Nguyễn ở phía Nam, hai đạo quân thủy bộ do Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cần đầu rần rộ tiến vào Gia Định, Nguyễn Phúc Thuần và Đông Cung Dương đều bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát.

Năm Mậu Tuất ( 1778) sau khi đã giết được chúa Nguyễn, đánh tan lực lượng của chúa Nguyễn ra khỏi cõi, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế, thành lập một vương triều mới, đặt niên hiệu là Thái Đức, phong Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.

Lúc bấy giờ thấy vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc lấy hiệu bằng hai chữ “ Thái Đức”, có người hiếu sự, đoán chiết tự hai chữ “ Thái” và chữ “ Đức” mà phán rằng. “ Ba người tranh một nước”, “ mười bốn năm nữa sẽ mất”. Có người còn đoán vận mệnh nhà Tây Sơn bằng câu “ Thập nhị thiên cường, kỳ cường mạc ngự” ( mạnh mười hai năm, cái mạnh ấy không ai chống nổi).

Thế là lúc khởi binh năm Tân Mão ( 1771) đến năm Nguyễn Nhạc lên ngôi năm Mậu Tuất ( 1778) anh em nhà Tây Sơn phải chiến đấu trong vòng 8 năm trường.

Năm Giáp Thìn ( 1784) quân đội Tây Sơn đã đánh tan hai vạn thủy binh với 300 chiến thuyền giặc Xiêm ở Định Tường. Năm Bính Ngọ ( 1786), theo lệnh của Hoàng đế Nguyễn Nhạc, Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem đại quân ra hạ thành Thuận Hóa của quân Trịnh tháng 5 năm Bính Ngọ ( 1786) và một tháng sau – ngày 25 tháng 6 quân đội Tây Sơn đã tiến vào cố đô Thăng long, thực hiện khẩu hiệu “ phù Lê diệt Trịnh”.

Sau nhiều chiến thắng lẫy lừng, uy danh của Nguyễn Huệ ngày càng vang dội. Nghe tin Nguyễn Huệ lấy được thành Thăng Long, Nguyễn Nhạc cả sợ, cho rằng Nguyễn Huệ giữ quân ở ngoài, khó bề kiềm chế nổi, liền lấy 500 quân binh Phú Xuân chọn thêm quân tinh nhuệ đi gấp ra Bắc. Vua Lê biết tin vua Tây Sơn thân hành ra Thăng Long, đem trăm quân ra ngoài cõi để đón. Nguyễn Nhạc thúc quân đi mau, sai người đến hẹn với vua Lê hôm khác sẽ đến ra mắt. Còn Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón tiếp và tạ tội tự chuyên của mình. Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc nói.

Tướng ở bên ngoài, nếu gặp việc biến thì cứ tự ý mà làm cũng được, Bắc Hà có thể lấy được, mà ông lấy ngay được, đó là nhờ thần diệu trong phép dùng binh…Nhưng mà mình đi đánh nước khác, kéo quân vào sâu nếp cũ của họ như thế, tránh sao khỏi thù oán của muôn họ. Anh luôn luôn lo ngại đến việc bất ngờ có thể xảy ra, vì vậy phải lật đật ra ngay đây để nghĩ kế đỡ ông.

Tới phủ, Nguyễn Huệ dắt công chúa Ngọc Hân ra chào và nói hết cả sự tình với anh, vua Tây Sơn khen.

Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam “ muôn đăng hộ đối” mối nhân duyên thật đẹp! – Rồi lại bảo công chúa rằng.

Người quý giá như thế này, thực không hổ là cô em dâu của anh ta.

Hai anh em ôn tồn trò chuyện thân mật như anh em nhà thường dân vậy. Hồi lâu, công chúa các từ lui ra, Nguyễn Huệ sai quậy màn ở cung chính tẩm, mời anh vào nghỉ, còn tự mình thì chuyển ra ngủ ở Gác Kỳ Lân.

Quân lính của Nguyễn Huệ đem đi trước đây, các đội ngũ đều đã thay đổi. Nay Nguyễn Huệ đem binh phù nộp cả cho anh, vua Tây Sơn nắm được binh quyền trong tay rồi, bèn bố trí lại đội ngũ y như cũ. Từ đó tướng sĩ chỉ tuân theo mệnh lệnh của nhà vua.

Buổi lễ gặp mặt hai vua diễn ra ngay sau đó tại bãn doanh của vua Tây Sơn, Nguyễn Nhạc đứng chắp tay trên thềm, sai Nguyễn Huệ ra đón

Hoàng thượng năm nay xuân thu độ bao nhiêu?

Viên quan đi theo đáp ngay vua Lê, rồi nhân đó tiếp rằng.

Quốc quân họ Lê chúng tôi gặp phải họ Trịnh lấn quyền lộng thổ, mũ dép đảo lộn đã lâu, may nhờ thánh thượng là bậc chí nhân đại nghĩa, sai tướng ra quân, vì quốc quân chúng tôi mà chỉnh đốn lại cơ đồ… rồi xin cắt mấy quận áp khoa thưởng quân sĩ.

Vua Tây Sơn đáp rằng.

Vốn vì họ Trịnh chuyên chế, cho nên mới làm việc tôn phò nhà Lê, nếu là đất của họ Trịnh thì một tấc tôi cũng không để, còn như đất của nhà Lê thì một tấc tôi cũng không dám lấy, chỉ mong tự hoàng phân phát rường mối nhà vua, giữ yên trong cõi, đời đời hòa mục giao bảo với nước láng giềng, như thế là phúc đức cho cả hai nước vậy.

Từ sau cuộc tiếp kiến đó, lòng người Bắc Hà mới yên, hết ngờ sợ quân Nguyễn Nhạc.

Sau khi từ Bắc Hà trở về, tháng 4 năm Đinh Mùi ( 1787) Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía nam ra làm ba, từ núi Hải Vân trở ra Bắc thuộc Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, đất Gia Định thuộc về Đông Định vương Nguyễn Lữ, Nguyễn Nhạc đóng ở Quy Nhơn tự xưng là Trưng vương hoàng đế.

Từ đó Nguyễn Nhạc tự mãn với sự giàu sang phú quý đã đạt được, không lo gì đến thời cuộc, chỉ lao vào con đường hưởng lạc, anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ mâu thuẫn trong việc chia của, chia đất, đem binh Quy Nhơn trong vài tháng, Nguyễn Nhạc đóng chặt thành cố giữ và cầu viện Đặng Văn Trấn từ Gia Định về giải vây. Nhưng mới đi đến Phú Yên, Đặng Văn Trấn bị quân Nguyễn Huệ bắt được, Nguyễn Nhạc bèn ở trên thành gọi Huệ mà bảo rằng.

Nồi da nấu thịt, lòng em sao nỡ làm thế?

Rồi hai anh em hướng vào nhau mà khóc, giảng hòa, lấy Bản Tân làm giới hạn, từ Quảng Ngãi trở vào Nam Nguyễn Nhạc làm chủ, từ phủ thăng, phủ Điện trở ra Bắc do Nguyễn Huệ làm chủ. Từ đấy anh em phòng bị lẫn nhau, không còn để ý đến miền Nam nữa, Nguyễn Lữ tài hèn sức yếu bỏ thành Gia Định chạy về Quy Nhơn rồi mất. Trong khi Nguyễn Huệ phải đem quân ra đánh quân xâm lược thanh, Nguyễn Nhạc ở phía nam không lo phòng bị, để quân Nguyễn Ánh lấy Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh…Thể của Nguyễn Nhạc ngày càng yếu, chĩ bo bo giữ được các thành Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Phú Yên mà thôi.

Khi vua Quang Trung mất năm Nhâm Tý ( 1792), Nguyễn Nhạc cũng không thể ra viếng em trai được vì quân đội của Nguyễn Quang Toản ngăn cản và lo phòng bị tấn công.

Một năm sau khi Nguyễn Huệ Quang Trung từ trần, năm Quý Sửu ( 1793) Nguyễn Ánh vây thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc đang ốm, sai con là Bảo đem quân chống giữ, tình hình rất nguy ngập, Nguyễn Nhạc viết thư cầu cứu Quang Toản. Quang Toản sai các tướng Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn, Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi và 30 chiếc thuyền chiến chia đường tiến vào cứu viện. Quân Nguyễn Ánh phải rút lui. Các tướng của Quang Toản vào thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc sai đem vàng bạc mỗi thứ một mâm khao quân. Thái úy của Quang Toản là Phạm Công Hưng bèn biên kê kho tàng, thu lấy giáp đinh và giữ thành. Trước việc làm đó, Nguyễn Nhạc uất quá thổ ra máu mà chết, Quang Toản phong cho các con Nguyễn Nhạc là Bảo làm Hiếu công, cắt cho huyện Phù Ly để làm ấp ăn lộc, gọi là Tiểu Triều, Mẹ Bảo nói với con rằng “ Khai thác cõi đất đều là công của cha mày, nay chỉ ăn lộc có một huyện, nếu sống mà chịu nhục chẳng thà chết còn hơn”

Từ đó Bảo có chí muốn hàng quân Nguyễn Ánh, bị quân của Quang Toản bắt được, cho uống thuộc độc chết.

Như vậy Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm.
 
Quang trung hoàng đế

NGUYỄN HUỆ ( 1789 – 1792)
Niên hiệu : Quang Trung


Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu ( 1752), là em của thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú thơm, là em thứ hai trong nhà. Trong ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm nổi trội nhất, tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn mọi vật trong đêm tối.

Dưới quyền của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc, ông được phong Long Nhương tướng quân khi mới 26 tuổi. Là một tay thiện chiến, hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy, Nguyễn Huệ nhanh chóng trở thành vị tướng trụ cột của vương triều Tây Sơn, khi mà vua Thái Đức đang phải lo củng cố xây dựng triều đình, thì Nguyễn Huệ là người được trao cầm quân đánh Đông dẹp Bắc. Tất cả những chiến thắng lớn vang dội của quân Tây Sơn gắn liền với tên tuổi của vị tướng trẻ tài ba này.

Đem quân ra Thăng Long lật nhào họ Trịnh chuyên quyền, Nguyễn Huệ tỏ ý tôn quyền nhà Lê, cùng với thuộc tướng là Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vào điện Vạn thọ tiếp kiến vua Lê. Lê Hiển Tông trân trọng mời Nguyễn Huệ ngồi ở sập bên giường ngự mà hỏi thăm an ủi, Nguyễn Huệ thưa.

Tôi vốn là kẻ áo vải Tây Sơn, nhân thời thế mà nổi dậy. Bệ hạ tuy không cho cơm ăn, áo mặc, nhưng tôi ở cõi xa, bấy lâu vẫn kính mến thánh đức. Bữa nay được nhìn thấy mặt trời, đủ khỏa được tấm lòng khao khát, họ Trịnh vô đạo, hiếp đáp hoàng gia, nên trời mượn tay tôi một trận phá ngay được, ấy là nhờ ở oai đức của bệ hạ.

Vua Lê ôn tồn đáp.

Ấy là võ công của tướng quân cả, chứ quả nhân nào có tài đức gì!

Nguyễn Huệ khiêm tốn thưa.

Tôi chỉ tôn phò, đâu dám kể tới công lợi, việc ngày nay đã xảy ra như thế thật bởi lòng trời xui nên hết thảy…Thế là trời có ý xui bệ hạ phấn chấn kỷ cương, thống nhất bờ cõi, từ giờ trở đi, mong bệ hạ cầm cương, nảy mực, khiến cho trong ấm ngoài êm, tôi đây cũng được nhờ.

Vua Lê sai các cựu thần Trần Công Sáng, Phan Lê Phiêu, Uông Sĩ Điển ra tiếp chủ súy Tây Sơn, sau cuộc gặp gỡ này, thiên hạ yên lòng, chợ lại họp, ruộng lại cày, tình hình trong nước dần dần ổn định.

Theo lời Nguyễn Hữu Cảnh chỉ vẽ, Nguyễn Huệ xin vua Lê chi thiết lễ triều đại điện Kính thiên để Huệ dâng sổ sách quân dân, tỏ cho toàn thiên hạ rõ việc tôn phò đại thống. Cử chỉ này của Nguyễn Huệ khiến ông vua cao tuổi Lê Hiển Tông vô cùng xúc động, chứng kiến việc ban bố chiếu thư “ thống nhất”.

Đáp lại công lao của chủ súy Tây Sơn, vua Lê sai sứ sang tận doanh quân thứ phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyễn Súy Dực chính Phù vận Uy Quốc công Nguyễn Huệ sai người sang cảm tạ vua Lê theo đúng nghĩa lễ nhưng trong lòng không vui, Nguyễn Huệ nói với Nguyễn Hữu Chỉnh rằng.

Ta mang vài vạn quân ra đây, một trận dẹp yên Bắc Hà, vậy thì một thước đất, một người dân bây giờ không phải của ta thì ai vào đây nữa? Dẫu ta muốn xưng đế, xưng vương chi chi, ai còn dám làm gì nổi ta? Thế mà ta còn nhường nhịn không làm, chẳng qua hậu đãi nhà Lê đó thôi, danh mệnh Nguyên Súy, Quốc công có làm cho ta thêm hơn gì? Các đình thần Bắc Hà muốn lấy nước miếng cho cái danh hão, chực lung lạc ta sao? Đừng bảo ta là máu mọi, được thế đã lấy làm vinh rồi đâu! Ta không nhận lấy, chắc người ta bảo thất lễ, ta nhận mà không nói ra, người ta lại cho là ta không biết gì!

Dứt lời, Nguyễn Huệ hầm hầm tức giận, nhờ có Nguyễn Hữu Chỉnh là tay khéo dàn xếp, Huệ mới nguôi lòng. Sau khi trở thành phò mã nhà Lê, Nguyễn Huệ không trực tiếp can dự vào nội bộ triều Lê vì còn giữ tiếng. Khi vua Lê bị bệnh nặng, công chúa Ngọc Hân giục phò mã Nguyễn Huệ vào thăm song ông từ chối.

Tôi chẳng sớm thì chày rồi cũng về Nam, việc nước không dám dự đến. Vả, tôi xa xôi tới đây, chắc người ngoài Bắc hãy còn chưa tin mấy, nếu vô nội thăm hỏi vua cha, một mặt xa giá chầu Trời, chẳng hóa ra tự mình chuốc lấy cái tiếng hiềm nghi không bao giờ giãi tỏ được?

Vào một đêm mưa to, gió dữ của tháng 7 năm Bính Ngọ ( 1786) thành Thăng Long nước ngập đến một thước, vua Lê Hiển Tông qua đời ở tuổi thọ 70. Trước khi nhắm mắt p6ng còn kịp trối lại cho Hoàng tôn Duy Kỳ.

Quân bên ngoài đóng ở đây, truyền nối là việc quan trọng, cháu nên bàn cùng Nguyễn súy ( Nguyễn Huệ), chứ đừng tự tiện làm một mình.

Trái với những người muốn lập Hoàng tôn Duy Kỳ, công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng quang của Duy Kỳ. Cả triều đình nao núng ngờ vực, các tôn thất nhà Lê cho rằng công chúa Ngọc Hân cố tình làm lỡ việc lớn của triều đình và bảo sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nhân nhượng mà nói lại với Nguyễn Huệ thu xếp cho Duy Kỳ được nối ngôi.

Đến ngày lễ thành phục của nhà vua quá cố Lê Hiển Tông ở nội điện, Nguyễn Huệ thực hiện đầy đủ nghi lễ của phò mã. Rể mặc áo tăng trắng, đứng trong điện dự lễ. Thấy viên tiểu lại có cử chỉ bất kính trong lúc làm lễ, Nguyễn Huệ lập tức sai lôi ra chém. Từ đó, triều thần khiếp sợ và nghi lễ được cử hành hết sức tôn nghiêm. Ngày đưa linh cữu Vua xuống thuyền về Thanh Hóa để an táng, Nguyễn Huệ mặc tang phục đi xuống tận bến sông, lại sai bộ tướng là Trần Văn Kỷ và Nguyễn Hữu Cảnh mặc áo tang trắng đi hộ tống đến lăng Bàn Thạch. Mặc dù vừa mới trải qua binh đao, tang phục tuy đơn sơ, nhưng nghi lễ thì đầy đủ và trang trọng khác thường. Xong tang trở về, Nguyễn Huệ tự hào nói với công chúa Ngọc Hân.

Tiên đế có hơn 30 người con, thế mà không người nào bằng một mình nàng là gái, trong việc tang tiên đế mình với các anh em khác, ai hơn nào?

Một thời gian sau Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam, rồi được phong làm Bắc Bình Vương.

Lần ra Bắc thứ hai năm Mậu Thân ( 1788), khi Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh thành chạy ra ngoài Bắc, Bắc Bình Vương cũng đã nghĩ đến chiếc ngai vàng bỏ trống, đã triệu tập các cựu thần nhà Lê để tính việc, song không thuận lợi. Ông cho tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà đưa những danh sĩ có tên tuổi đã được Bắc Bình Vương trọng dụng như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích ra đảm đương công việc. Trí thức Bắc Hà lần lượt ra giúp Bắc Bình Vương như Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn.

Sau khi đã lập Sùng Nhượng công Lê Duy Cận lên làm Giám quốc, sắp đặt các quan coi việc Bắc Hà, một lần nữa Nguyễn Huệ lại rút quân về Nam. Trước khi trở về Nam, Bắc Bình Vương đã dặn bảo cận thần rằng.

Đại Tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân là nanh vuốt của ta. Chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Hộ tộ thị lang Trần Thuận Ngôn là tâm phúc của ta. Lại bộ thị lang Ngô Thì Nhậm tuy là người mới, nhưng là bậc tân thần, ta coi như khách. Nay ta giao cho hết thảy các khanh mọi việc quân quốc, coi quản 11 trấn trong toàn bạt. Hễ có điều chi, ta cho cứ được tiện nghi làm việc. Song các khanh cần phải họp bàn với nhau, chứ đừng phân bì kẻ mới người cũ, miễn sao làm cho được việc ta mới yên lòng.

Thế rồi không đầy 6 tháng sau, Bắc Bình Vương đang ở thành Phú Xuân thì được tin Lê Chiêu Thống đã dẫn quân đi xâm lược Mãn Thanh vào chiếm đóng kinh thành Thăng Long, quân đội Tây Sơn do Đại Tư mã Ngô Văn Sở chỉ huy phải tạm rút lui về đóng ở Tam Điệp – Biện Sơn chờ lệnh. Nguyễn Huệ lại lần thứ 3 ra Thăng Long, lần này ông ra Bắc với tư cách là Quang Trung hoàng đế, thể theo lời khuyên của tướng lĩnh và mong mỏi của ba quân cùng thần dân. Bắc Bình Vương cho chọn ngày, lập đàn tế trời đất, thần sông, thần núi và lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân, ngay hôm đó kéo cả quân bộ, quân thủy ra Bắc diệt quân xâm lược Thanh, giải phóng Thăng long và Bắc Hà.

Dự tính trước mọi khả năng tiếp theo của thời cuộc, vua Quang Trung đã nói với quan quân ngay trước khi bước vào chiến dịch.Nay tôi tới đây, thần đốc việc binh, chiến thủ ra sao đã có phương lược sẵn. Chỉ nội 10 ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh. Song, ta nghĩ, nước Thanh lớn hơn nước ta gấp 10 lần, Thanh bị thua tất lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật lòng không phải là phúc cho trăm họ, lòng ta không nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa binh tranh, việc từ lệnh đó, ta giao cho Ngô Thì Nhậm.

Đúng như dự kiến và lời hứa của vị tổng binh, ngày 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu ( 1789) quân đội của Hoàng đế Quang Trung đã vui vẻ ăn tết khai hạ tại thành Thăng Long. Hoa đào làng Nhật Tân còn đang nở rộ đón chào chiến thắng.

Việc binh giao lại cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân, việc ngoại giao và chính trị giao cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích, lần thứ ba Nguyễn Huệ ra Bắc rồi lại về Nam. Lần này với tư thế là Hoàng đế, Quang Trung tiến hành gấp rút việc xây dựng kinh đô mới ở Nghệ An, nơi từ xưa là quê gốc của anh em Tây Sơn và trong con mắt của Quang Trung là trung gian Nam và Bắc. Mặt khác, theo kế hoạch ngoại giao đã được Quang Trung vạch ra, bình thường mối giao bang với nhà Thanh. Triều đình Quang Trugn đã buộc xứ Thanh phải vào tận Thuận Hóa phong vương cho Nguyễn Huệ, rồi Hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của Vua Càn Long nhà Thanh. Dưới thời trị vì ngắn ngủi của vua Quang Trung, nhiều chính sách về xã hội, chính trị được ban hành khá độc đáo, mở rộng những triển vọng cho một xã hội năng động hơn. Song chưa được bao lâu, căn bệnh đột ngột và hiểm nghèo đã cướp đi cuộc sống của ông vua đầy tài năng, có những dự định lớn lao, mới ở tuổi 40.

Năm Nhâm Tý ( 1792), sau nhiều lần bắn tin rồi lại gửi thư trực tiếp đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên cùng nàng công chúa Bắc quốc và mượn đất đóng đô, vua Quang Trung đã sai đoàn sứ bộ do Vũ Văn Dũng làm chánh sứ sang triều kiến vua Thanh Càn Long. Trong một cuộc bệ kiến của sứ thần Vũ Văn Dũng ở Ỷ Lương các, những yêu cầu của vua Quang Trung đã được vua Thanh chấp thuận. Vua Càn Long đang chuẩn bị cho công chúa khuê các sang dẹp duyên cùng Quốc vương nước Nam, Quảng Tây được hứa sẽ nhường cho Quốc vương phò mà đóng đô để cho gần “ Thánh giáo”. Giữa lúc sứ thần đang mừng vui vì sắp hoành thành một trọng trách quá sức của mình, thì được tin sét đánh. Vua Quang Trung từ trần, mọi việc đều bị gác lại, Vũ Văn Dũng đành ôm hận trở về. Rồi từ đó, việc xin lại đất Lưỡng Quảng chỉ là câu chuyên lịch sử mà cơ đồ của vương triều Tây Sơn cũng dần dần tan theo giấc mộng xuân của nàng công chúa Mãn Thanh. Một chiều đầu thu, vua Quang Trung đang ngồi bỗng thấy hoa mắt, sầm tối mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi đó là “ huyễn vận” còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Khi tỉnh dậy được, nhà vua triệu trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua dặn Trần Quang Diệu và các quần thần.

Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam ngày nay. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử ( Nguyễn Quang Toàn) là người có tư chất, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định ( Nguyễn Ánh) là quốc thù, mà thái Đức ( Nguyễn Nhạc) thì tuỗi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô ( Vinh ngày nay) để khống chế thiên hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu.

Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý ( 1792) vào khoảng 11 giờ khuya, Quang Trung từ trần, ở ngôi 5 năm, thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Vũ hoàng đế. Thi hài ông được an táng ngay trong thành, tại phủ Dương Xuân. Sau này khi Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân đã sai khai quật mồ mả lên để trả thù.

Nguyễn Quang Toàn lên nối ngôi, sai sứ sang nhà Thanh báo tin và xin tập phong. Vua Càn Long thương tiếc tặng tên hiệu là Trung Thuần, lại thân làm một bài thơ việc và cho một pho tượng, 300 lạng bạc đến để sửa sang việc tang. Sứ nhà Thanh sang đến tận mộ ở Linh Đường ( mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì ( Hà Nội) để viếng.
 
Bắc cung hoàng hậu

LÊ NGỌC HÂN

Ngày xưa các vua chúa thường có rất nhiều vợ, không rõ Quang Trung có bao nhiêu vợ khi làm chủ từ Bắc Hà đến cõi Nam. Theo tài liệu để lại, có thể nói đến hai Hoàng hậu của vua. Chính cung Hoàng hậu và Bắc cung Hoàng hậu, bà Chính cung Hoàng hậu họ Phạm, người phủ Quy Nhơn, là chị cùng mẹ khác cha với Hình bộ thượng thư Bùi Văn Nhất và Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Khi Quang Trung đăng quang năm Kỷ Dậu ( 1789) thì bà cũng được lập làm Chính cung Hoàng hậu, bà sinh được 3 con trai, hai con gái. Nguyễn Quang Toàn là con đầu, được làm Thái tử, con thứ là Nguyễn Quang thùy được phong làm Khanh công lĩnh Bắc thành tiết chết thủy bộ chư quân. Con trai thứ ba là Nguyễn Quang Bàn được phong làm Tuyên công lĩnh thanh Hoa đốc trấn tổng lý dân sự.

Đại Nam thực lục, biên niên sử của triều Nguyễn còn chép những người con khác của Nguyễn Huệ, tháng 5 năm Tân Hợi ( 1801) khi kinh đô Phú Xuân thất thủ cho đến khi Nguyễn Ánh lấy được cả Bắc Hà, quân Nguyễn Ánh còn bắt được anh em Quang Toản có tên là. Quang Cương, Quang Tự, Quang Điện, Thất Quang Duy…

Song, trong số các bà vợ, người được Nguyễn Huệ yêu quý nhất là Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Nàng được phong Bắc cung Hoàng hậu vào dịp Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, khi mới 18 tuổi, hai năm sau đám cưới được tổ chức linh đình tại Thăng Long. Lúc đầu chỉ là sự sắp đặt theo mưu đồ chính trị, theo lối “ Mỹ nhân kế” mà Nguyễn Hữu Chỉnh là người bày đặt, nhưng về sau, cuộc tình của họ lại rất tốt đẹp, trai anh hùng gặp gái thuyền quyên.

Với thế mạnh như chẻ tre, năm Bính Ngọ ( 1786), Long Nhương tướng quân tiết chế Nguyễn Huệ xuất hiện ở thành Thăng Long trong hào quang chiến thắng. Quân Trịnh thua chạy tan tác, vua Lê thì ở tuổi “ cổ lai hy” vốn an phận với cương vị bù nhìn mặc cho các chúa Trịnh tác oai tác phúc. Ông tướng trẻ mới 34 tuổi xuất hiện làm cho kinh thành xao động. Nguyễn Huệ muốn gì? Lấy ngai vàng của vua Lê đối với Huệ không phải là khó ! Song Huệ đã làm đúng như lời tuyên bố ban đầu, diệt Trịnh phò Lê. Vua Lê nghĩ đến việc ban cho Huệ chức tước vào bậc cao nhất trong triều. Nguyên súy Uy quốc công, vậy thì còn gì để vừa lòng một viên tướng chiến thắng nếu không phải là ngọc ngà châu báu hay một bóng giai nhân. Đón biết suy nghĩ của chủ tướng, Nguyễn Hữu Cảnh đã giả ý vua Lê “ muốn gả một công chúa cho chủ súy Tây Sơn để lấy chỗ dựa lúc tuổi già”. Nguyễn Huệ với giọng hăng hái đầy tự nhiên nói.

Xưa nay những kẻ chinh phục xa nhà, tình khuê phòng rất cần thiết. Hoàng thượng cũng xét đến chỗ ấy kia à? Ừ ! Em vua nước Tây làm rể vua nước Nam “ mô đăng hộ đối” như thế, tưởng cũng không mấy người có được.

Biết Nguyễn Huệ đã bằng lòng, Nguyễn Hữu Chỉnh liền vào cung tâu hết với vua Lê. Lúc đó nhà vua đã 70 tuổi vẫn còn 5, 6 người con gái chưa lấy chồng. Trong số các nàng công chúa, chỉ có nàng Ngọc Hân là đẹp và nết na hơn cả. Vua Lê cưng chiều nàng và cho học hành đủ cả cầm kỳ thi họa. Nhà vua vẫn thường tự nhủ.

Con bé này ngày sau nên gả làm Vương phi, không nên gả cho hạng phò mã tầm thường.

Nghe Chỉnh nói đến việc dùng kế mỹ nhân, vua Lê đã nghĩ ngay đến cô con gái cưng, nhưng vẫn cẩn thận bảo với Nguyễn Hữu Chỉnh.

Con gái chưa chồng trẫm còn nhiều, nhưng chỉ có mình Ngọc Hân là có chút nhan sắc. Tuy nhiên, thói thương yêu con vẫn là thiên lệnh, chưa biết ở mắt người ngoài thì sao. Ngươi hãy ở đây, để trẫm cho đòi cả ra cho mà coi qua, rồi tùy người lựa người nào xứng đáng thì giúp cho thành việc đi. Khi đã nhìn thấy các công chúa. Chỉnh cũng nhất trí với nhà vua, chọn nàng Ngọc Hân gả cho Nguyễn Huệ với niềm tin rằng Huệ khó có thể cầm lòng được khi đã gặp nàng.

Khi nghe Chỉnh nói về nàng công chúa Ngọc Hân tuổi vừa đôi tám, xinh đẹp tuyệt trần, xin cho được nương bóng nhà sau hầu hạ lược khăn cho người dũng tướng, thì Nguyễn Huệ rất vui và thật thà nói.

Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết gái Bắc Hà, nay cũng xin thử một chuyến xem có tốt không.

Rồi Huệ lại nói giọng đầy nghiêm túc và cảm động.

Tôi xin kính lạy dưới bệ Hoàng thượng vạn tuế? Ở khe núi hẻo lánh xa xôi tới đây, há dám đường đột như vậy? Bây giờ may sao lại được bám vào lá ngọc cành vàng, thật là mối duyên kỳ ngộ ngàn năm mới có. Kẻ có khe núi này xiết bao mừng rỡ.

Thế rồi đám cưới của chủ súy Tây Sơn với nàng công chúa đất Bắc được tổ chức trọng thể tại Thăng Long thành.

Công chúa Ngọc Hân lúc mới về với Nguyễn Huệ còn e thẹn, sau rồi cũng quen. Hôm vào làm lễ yết các vị tiên đế ở nhà thái miếu, Nguyễn Huệ và công chúa Ngọc Hân gióng kiệu cùng đi, lễ xong lại gióng kiệu cùng về. Nguyễn Huệ lấy làm hãnh diện mà hỏi công chúa.

Con trai con gái nhà vua, đã có mấy người được vẻ vang như nàng?

Nhà vua ít lộc, các con trai con gái cũng thanh bạch nghèo khó, chỉ riêng thiếp có duyên, lấy được lệnh công, ví như hạt mưa, bụi ngọc bay ở giữa trời được sa vào chốn lâu đài như thế này, là sự may mắn của thiếp mà thôi.

Nguyễn Huệ nghe nàng nói, rất hài lòng và càng yêu quý nàng hơn.

Thế rồi ngày Nguyễn Huệ phải về Nam đã đến, nàng công chúa lần đầu tiên đi xa phải từ biệt người thân và hoàng gia cùng kinh thành Thăng Long, theo chồng vào Phú Xuân. Bà sinh được hai người con, một trai là Nguyễn Văn Đức và một gái là Nguyễn Thị Ngọc. Vua Quang Trung yêu quý Ngọc Hân không chỉ vì sắc đẹp, nết na mà coi trọng nàng ở tài văn chương nhạc họa và cả những kiến thức về thời cuộc của quốc gia. Tình yêu của họ ngày càng nồng thắm, người dân kinh thành Thăng Long cứ mỗi mùa xuân đến ngắm hoa đào đỏ thắm lại nhớ đến cành đào xuân năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung áo bào còn vương mùi thuốc súng vội cho ngựa trạm đem cành đào Nhật Tân vào Phú Xuân tặng người vợ yêu quý báo tin chiến thắng.

Họ chỉ sống hạnh phúc được trọn 6 năm, vua băng hà lúc tuổi còn nhiều hứa hẹn…Ngọc Hân đau xé lòng khóc chồng bằng bài “ Ai tư vãn”

Buồn thay nhẽ ! Sương rơi gió lọt
Cảnh đìu hiu thánh thót sâu sa!
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mệ.

Buồn thay nhẽ! Xuân về hoa nở!
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong?
Quyết liều mạng vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại giữ lòng nào e!

Con trứng nước thương vì đôi chút
Chữ tình thân chưa thoát được đi
Vậy nên nấn ná đợi khi…
Hình thì tuy ở phách thì đã theo…

Nguyễn Quang Toàn lên nối ngôi, họ ngại chuyên quyền, nội bộ triều Tây Sơn lục đục rồi mất. Ngọc Hân và hai con phải đổi tính danh sống lẫn vào đời với dân chúng ở Quảng Nam. Không lâu sau, bị phát hiện và bị bắt, Ngọc Hân uống thuốc độc quyên sinh, hai con bị thắt cổ chết, đó là năm Kỷ Mùi ( 1799) khi bà mới 29 tuổi ( Theo Phan Phúc Trực trong Quốc sử di biến đến năm Giáp Tý ( 1804) Lê Ngọc Hân mới mất tại quê mẹ ở làng Phù Ninh ( Làng Nành) huyện Đông Ngạn ( Bắc Ninh). Người Quảng Nam lấy trộm được xác con và hai cháu ngoại đem về mai táng tại làng rồi cho dựng miếu thờ. Gần 50 năm sau, dưới thời thiệu Thị nhà Nguyễn, miếu bị đổ nát. Một tú ông người làng Nành nhớ công lao của Chiêu Nghi họ Nguyễn đối với dân làng đã quyên tiền tu sửa ngôi miếu. Không ngờ, có tên phó tổng cùng làng vốn thù riêng với ông tú, đã cất công vào Huế tâu vua về việc thờ “ ngụy Huệ”. Triều đình Huế liền hạ lệnh triệt phá ngôi miếu, quật ba ngôi mộ, vứt hài cốt xuống sông. Ông tú kia bị trọng tội, Tổng đốc Bắc Ninh Nguyễn Đăng Giang cũng bị giáng chức.
 
Cảnh thịnh hoàng đế

Niên hiệu: Cảnh Thịnh ( 1792 – 1801)
Bảo Hưng ( 1801 – 1802)


Quang Trung mất ở tuổi 40 mà các con còn nhỏ, Quang Toản là người con trưởng cũng mới lên 10. Bình sinh Quang Trung đã lập Quang Toản lên Thái tử, sự lụa chọn này có lẽ là chính xác. Trước khi mất, Quang Trung đã nhận xét về Thái tử như sau.

Thái tử là người có tư chất, nhưng tuổi hãy còn nhỏ.

Năm Quý Sửu ( 1793) Quang Toản chính thưc lên ngôi vua, lấy hiệu là Cảnh Thịnh, sai Ngô Thì Nhậm sang nhà Thanh báo tang và xin sắc phong. Vua Thanh vốn đã sắc phong cho Quang Toản làm Thái tử khi vua Quang Trung còn sống nên lập tức xuống chỉ phong Toản làm An Nam Quốc vương. Án sát Quảng Tây được lệnh làm sứ thần đến Bắc Thành, Quang Toản cũng sai người đóng giả nhận thay. Sứ thần nhà Thanh có biết việc ấy song không có phản ứng gì.

Quang Toản lên ngôi vua, vẫn để hai em Quang Thùy và Quang Bàn giữ tước vị, dùng cậu là Bùi Đắc Tuyên làm Thái sư Giám quốc trông coi mọi việc trong nhà, Thái Úy Phạm Công Hưng giữ việc quân, Trung thủ phụng chính Trần Văn Kỷ làm ở Trung thư cơ mật, và Trần Quang Diệu giữ việc văn thư lệnh thị. Quang Toàn tuổi còn nhỏ, mọi việc quyết định bởi Bùi Đắc Tuyên. Từ đó Đắc Tuyên ngày càng chuyên quyền, trong ngoài đều oán. Đại thần trong triều ngoài trấn đều nghi kỵ lẫn nhau, Quang Toản không ngăn chặn nổi chỉ đành khóc mà thôi. Giữa lúc đó lại có cận thần gièm pha rằng, oai phong của Trần Quang Diệu quá lớn, mưu đồ cướp ngôi…Quang Toản tin là thật, liền rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu, Trần Quang Diệu gửi mật thư vào Quy Nhơn hẹn với Lê Văn Trung đem quân ra phế hạ Quang Toản, lập Quang Thiệu lên ngôi. Việc không thành, Quang Thiệu bị giết, Lê Văn Trung bị chém, con rể Lê Văn Trung là Lê Chất sợ hãi, bỏ Tây Sơn sang hàng Nguyễn Ánh. Về sau Lê Chất đem quân của Nguyễn Ánh ra đánh thắng Tây Sơn tịch thu hết quân trang, quân dụng.

Năm Canh Thân ( 1800) Nguyễn Ánh vượt biển ra đánh thành Quy Nhơn, tướng Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng. Nguyễn Ánh chiếm thành Quy Nhơn đổi là trấn Bình Định, giao cho Võ Tánh và Ngô Tòng Chu giữ thành. Quân Tây Sơn bao vây nhiều tháng mà không hạ được vì Võ Tánh và Ngô Tòng Chu liều chết giữ thành.

Năm Tân Dậu ( 1801) Nguyễn Ánh ra đánh Phú Xuân, Quang Toản dốc sức chống giữ không nổi, Phú Xuân bị chiếm, Quang Toản phải chạy ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng. Tháng 8 năm đó, Quang Toản đem bốn trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc và quân Thanh Nghệ vào đánh Nguyễn Ánh lại thua, vội rút về Thăng Long.

Ngày 16 tháng 6 năm Nhâm Tuất ( 1802) Nguyễn Ánh ra đánh Thăng Long, khí thế rất mạnh, Quang Toản cùng em là Quang Thùy bỏ thành chạy theo hướng Bắc, bị thổ hào Kinh Bắc bắt được, đóng cũi đưa về Thăng Long. Quân Tây Sơn đến đây hoàn toàn tan rã, mùa đông năm đó ( 1802) Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo tế miếu, trả thù Tây Sơn cực kỳ tàn bạo và hèn hạ. Quang Toản và người thân bị hành hình…ấp Tây Sơn đổi thành ấp An Tây, mọi dấu ấn Tây Sơn đều bị họ Nguyễn xóa sạch.

Quang Toản lên ngôi vua năm Quý Sửu ( 1793) đến năm Nhâm Tuất ( 1802) thì mất, ở ngôi 10 năm, chết ở tuổi 20. Triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh Thịnh ( 1778 – 1802) tồn tại được 25 năm.

1> Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc ( 1778 – 1793)
2> Quang Trung Hoàng đế Nguyễn Huệ ( 1789 – 1792)
3> Cảnh Thịnh Hoàng đế Quang Toản ( 1793 – 1802) .
 
Dòng dõi chúa trịnh ( 1545 – 1786)

THẾ TỔ MINH KHANG
THÁI VƯƠNG TRỊNH KIỂM ( 1545 – 1570)


Trịnh Kiểm người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Tục truyền rằng. Kiểm mồ côi cha từ nhỏ và rất có hiếu với mẹ. Nhà nghèo nhưng mẹ Kiểm có sở thích rất trái cảnh, bà chỉ thích ăn thịt gà luộc mà lại chỉ ăn hai đùi và lườn, không biết cách nào có gà để mẹ ăn. Kiểm phải đi ăn trộm gà của hàng xóm, xóm mất nhiều gà, giận lắm, sau truy ra biết thủ phạm là Trịnh Kiểm. Họ liền cùng nhau bắt Kiểm đem cáo quan huyện, Kiểm làm một bài thơ trần tình, không biết thơ Kiểm viết thế nào mà quan thương tình tha cho. Từ đấy dân làng càng thù ghét mẹ con nhà Kiểm. Họ nghĩ rằng chỉ tại bà mẹ già mà Kiểm phải đi ăn trộm, một hôm nhân lúc Kiểm vắng nhà, họ bèn cùng nhau bắt bà mẹ vứt xuống một cái vực gần nhà dìm chết đuối. Kiểm về, không thấy mẹ đâu, bổ đi tìm đến sáng ra thấy chỗ vực mối đã đùn lên thành đống gò. Kiểm buồn lắm bỏ làng ra đi, vào nương nhờ, làm gia thần vị quan Nguyễn Kim.

Mặc dù không được học hành nhiều song Kiểm rất thông minh, can đảm và mưu lược hơn người, Nguyễn Kim mến tài, đem con gái cưng là Ngọc Bảo gả cho Kiểm. Từ đấy nhiều việc quan trọng, Nguyễn Kim thường giao cho Kiểm, Kiểm được cầm binh mã sang Ai Lao đón vua Lê Trang Tông. Nhà vua thấy ông có tướng mạo khác thường, phong ông làm Đại tướng quân, tước Dục Quận công vào nã Kỷ Hợi ( 1539), khi đó Trịnh Kiểm 37 tuổi.

Năm Ất Tỵ ( 1545) Nguyễn Kim trên đường hành quân ra đánh Bắc triều ở miền Sơn Nam đến Yên Mô ( Ninh Bình) thì bị hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, Quyền hành lọt vào tay Trịnh Kiểm. Khi được vua Lê chính thức trao toàn quyền thống lĩnh binh mã với tước Thái sư Lạng quốc công, Kiểm tự thấy chưa đủ lực lượng tấn công Bắc triều, liền rút quân về củng cố lực lượng, lập hành tại vua Lê ở đồn Vạn Lại ( huyện Thụy Nguyên, Thanh Hóa). Nhiều nhân sĩ tài giỏi đã tìm đến hành tại giúp vua Lê trong đó có Trạng Bùng, Phùng Khắc Khoan và Lương Hữu Khánh.

Vua Lê Trang Tông tuy ngồi ở ngôi chí tôn, nhưng quyền hành đều do Trịnh Kiểm nắm giữ.

Năm 1548, Trang Tông mất Trịnh Kiểm cho lập con lớn của Trang Tông là Huyên lên ngôi lấy hiệu là Trung Tông, vua Trung Tông cũng chỉ ở ngôi được 8 năm thì mất khi mới 22 tuổi, không có con nối ngôi. Trịnh Kiểm muốn nhân dịp này tự lập làm vua. Biết tiếng Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm đang về ẩn dật ở làng Cổ Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương ( nay thuộc Hải Phòng) là người uyên bác về y, nho, lý, số, được người đời bấy giờ coi là bậc tiên tri, Trịnh Kiểm cho người đến hỏi ý kiến. Trạng Trình trả lời bằng cách ngoảnh mặt bảo đầy tớ rằng.

Năm ngoái mất mùa, thóc giống không tốt, đi tìm giống cũ mà gieo mạ!.

Rồi ông sai đầy tớ ra chùa bảo tiểu quyét chùa và dâng hương để ông ra chơi. Ra chùa, ông bảo chú tiểu.

Giữ chùa thờ phật thì ăn oản.

Sứ trở về Thanh Hóa, thuật lại từng lời nói cử chỉ của Trạng Trình. Trịnh Kiểm hiểu ra nên không thực hiện ý định cướp ngôi nhà Lê nữa mà đi tìm người cháu của Lam Quốc Công Lê Trừ ( anh ruột Lê Lợi) tên là Lê Duy Bang lập lên làm vua. Việc đó xảy ra vào năm Bính Dần ( 1556). Kiểm từ đó càng tỏ ra chuyên quyền, tìm cách hãm hại anh em họ Nguyễn, Nguyễn Uông đã bị giết, còn lại em là Hoàng cũng đang bị ganh ghét. Năm Mậu Thân ( 1558) Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ Thuận Hóa, Trịnh Kiểm đồng ý ngay với hy vọng Hoàng sẽ gặp khó khăn ở miền “ Ô châu ác địa”, không ngờ từ đó mầm sống của một cuộc phân tranh mới đã xuất hiện!

Nam triều từ khi có Trịnh Kiểm cầm quân càng tỏ ra mạnh lên khiến Bắc triều không thể xem thường, vua Mạc từng sai đại tướng của mình là Mạc Kính Điển đem quân đánh vào Thanh Hóa tới 10 lần. Ngược lại, quân Trịnh cũng kéo ra đánh đến Sơn Nam trước sau 6 lần. Có lần ( vào năm Kỷ Mùi 1559) Kiểm huy động tới 6 vạn quân đánh các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Kinh Bắc, Lạng Sơn rồi vòng xuống Hải Dương theo chiến lược phá hàng rào trước, đột nhập vào Đông Kinh sau. Lần ấy Trịnh Kiểm đã tưởng nắm được thắng lợi trong tay, thì lại được quân Mạc đánh thọc vào bản doanh vua Lê ở Thanh Hóa, Trịnh Kiểm phải vội rút quân về cứu hậu phương.

Dưới thời Trịnh Kiểm cầm quân, Nam triều đã lấy được các huyện Yên Mô, Yên Khang, Phụng Hóa, Gia Viễn. Năm Kỷ Tị ( 1569) vua Lê gia phong cho Kiểm làm thượng tướng thái quốc công và tôn là thượng phụ. Cũng năm đó Trịnh Kiểm ốm nặng, dân biểu xin trao lại binh quyền cho vua Lê. Vua Lê sai con trưởng của Trịnh Kiểm là Trịnh Cối nắm binh quyền.

Tháng 2 năm Mậu Ngọ ( 1570) Trịnh Kiểm mất, truy tôn làm Minh khang thái vương, thụy là Trung Huân.

Như vậy Trịnh Kiểm mở đầu sự nghiệp nắm quyền của họ Trịnh trong 25 năm, trải giúp ba đời vua, thọ 68 tuổi.
 
Thành tổ triết vương

TRỊNH TÙNG ( 1570 – 1623)

Theo thứ tự chính thống nối ngôi chúa thuộc về Trịnh Cối, là con bà vợ cả. Nhưng Trịnh Cối ham mê tửu sắc, ngày càng kiêu ngạo càn rỡ, các tướng dưới quyền Cối ngày một lìa xa. Vì thế chỉ sau khi Trịnh Kiểm mất, tháng 4 năm Canh Ngọ ( 1570), các tướng của Trịnh Kiểm như Lê Cập Đệ, Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Bách, Phan Công Tích đem quân bản độ đến với Trịnh Tùng, yêu cầu Tùng lên thay Trịnh Cối, Trịnh Tùng là con thứ của Trịnh Kiểm với Ngọc Bảo, con gái Nguyễn Kim. Trịnh Tùng khôi ngô, có tài thao lược, biết cách lấy lòng các tướng sĩ, được Trịnh Kiểm rất yêu mến. Nhưng vì là con thứ nên Tùng chưa dám tranh quyền với Trịnh Cối, được các quan quân tôn phò, Tùng buộc phải cùng họ đem quân và voi chạy đến hành tại Yên Trường và yết kiến vua Lê Trịnh Tùng khóc và tâu.

Anh thần Cối say đắm tửu sắc, mất lòng mọi người, sớm muộn thế nào cũng sinh loạn, lại ngày đêm lo cướp chính quyền và ấn kiếm của thần, nên thần phải chạy trốn, đêm đến cửa khuyết tốt cáo, xin thánh thượng thu nạp cho.

Nhà vua nói.

Khi thượng phụ ( Trịnh Kiểm) còn sống, không đến nỗi thế, làm thế nào bây giờ?

Phúc Lương hầu Trịnh Tùng cùng với Lê Cập Đệ mật tâu dời hành tại vào cửa Vạn Lại, chia quân ra canh giữ đề phòng Trịnh Cối. Hôm sau Trịnh Cối đích thân đốc các tướng đem hơn 1 vạn quân đuổi theo bao vây ở ngoài, hai bên cầm cự nhau vài ngày, sai người đưa thư đi lại chửi bới lẫn nhau. Cuộc tranh giành kéo dài đến 7 ngày trời, vua Lê phải cho sứ ra chiêu dụ các tướng ở bên ngoài và khuyên giảng hòa. Phía Trịnh Cối trả lời.

Không ngờ ngày nay bọn ta thành ra ở dưới người khác. Bao giờ vua bắt được người ở trong thành đưa ra ngoài thì mới hòa được.

Vua Lê biết không thể dùng lời lẽ hòa giải được bèn sai các tướng ra sức phòng giữ, Trịnh Cối thấy mãi không phá được thành, ngần ngại, tự lui quân về dinh Biện Thượng, họp các tướng sĩ lại nói.

Trong cửa quan có quân Tùng, ngoài cõi có giặc Mạc, ta ở quãng giữa, nếu có sự biến cấp thì khó mà chống lại được.

Sau đó hạ lệnh cho quân chia giữ những nơi xung yếu.

Biết anh em họ Trịnh đem quân đánh nhau để tranh ngôi chúa, tháng 8 năm Canh Ngọ ( 1570), vua Mạc sai Mạc Kính Điển đem đại quân 10 vạn người và 700 chiến thuyền đánh vào Thanh Hóa, quân Mạc tiến như vũ bão vào tận cửa Linh Trường, Chi Long, Hội Triều. Quân Mạc đóng dinh trại tại Hà Trung, hai bên bờ sông khói lửa liên tiếp kéo dài tới 10 dặm. Trịnh Cối lo sợ vội đem vợ con và các thuộc tướng đến hàng quân lính Mạc. Mạc Kính Điển chấp thuận và phong Cối làim Trung Lương hầu, các quan đi theo Cối thì được phong tước công.

Thế quân Mạc ngày càng mạnh, tình hình rất nguy kịch, vua Lê sắc phong Trịnh Tùng làm trưởng quận công tiết chế thủy bộ chủ dinh, cầm quân đánh Mạc. Bản thân vua Lê cũng tạm làm tướng chỉ huy một đội quân kéo ra đóng tại huyện Đông Sơn, nhờ đó tranh thế của quân Nam triều lại khởi sắc, mấy lần quân Bắc triều tấn công vào thanh không thắng được. Mạc Kính Điển lại rút quân ra Bắc, Trịnh cối cùng mẹ và vợ con với hơn 1.000 quân chạy theo quân Mạc.

Quân Bắc Triều rút rồi, nội bộ Nam triều lại lục đục, Lê Cập Đệ muốn giết Trịnh Tùng để giành quyền lại cho họ Lê. Mấy lần bày mưu mời Trịnh Tùng xuống thuyền uống rượu ngắm trăng, nhưng Tùng biết nên việc không thành. Lê Cập Đệ bị Trịnh Tùng giết, vua Lê thấy thế trong lòng không yên, lại nghe các quan rèm pha rằng.

Tả tướng binh quyền to lắm, bệ hạ khó lòng cùng đứng được. Vua đang đêm đem 4 hoàng tử chạy vào thành Nghệ An, đó là năm Nhâm Thân ( 1572)

Trịnh Tùng cho đón hoàng thứ 5 của vua Lê là Duy Đàm lập làm vua. Vua Lê phong Tùng làm Đô tướng Tiết chế các xứ thủy bộ chủ dinh kiêm quản bình chương quân quốc trọng sự. Tùng nắm trọn quyền trong triều, ngoài trấn, vua Lê chỉ là bù nhìn.

Từ khi Tùng nắm trọn binh quyền, lực lượng phía Nam triều mạnh lên nhiều, quân Trịnh lại bắt đầu mở cuộc tấn công ra Bắc.

Tháng 9 năm Giáp Thân ( 1584) Trịnh Cối chết trên đất Bắc Triều, vua Mạc sai người đến làm lễ viếng, lại sai đưa linh cữu về trả cho họ Trịnh. Trịnh Tùng cũng sai quân ra đón cữu về quần ở chân núi Quân Yên huyện Yên Định, đặt lễ cúng, dân biểu xin vua Lê than tội, truy tôn Cối là thái phó trung quận công, cho con là Trịnh Xuân để tang bác.

Sau hơn 10 mở cuộc các cuộc tấn công ra Bắc, cuối cùng Trịnh Tùng đã đánh bại được quân nhà Mạc, khôi phục được kinh thành Thăng Long, trong một cuộc vây quét dư đảng của nhà Mạc, quân Trịnh Tùng dồn quân Mạc còn khá đông nhưng không tụ lại được mà chỉ hoạt động lẻ tẻ ở các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc.

Năm Ất Mùi ( 1595), Trịnh Tùng vào Thăng Long bắt đầu tổ chức bộ máy cai trị quy mô của bậc đế vương. Tùng cho đóng một cỗ xe rất lộng lẫy theo mẫu Nguyễn Hoàng thiết kế, hai bánh xe trang sức bằng ngọc ngà, trên xe làm mui sơn then, hai bên có lan can bằng ngà, bốn vách sơn son thếp vàng, có các thang nhỏ để lên xuống, dùng 4 lực sĩ đẩy xe. Tùng sai sứ sang nhà Minh xin sắc phong vua Lê là An Nam đô thống sứ…Còn Tùng thì buộc vua Lê phong cho mình làm Đô nguyên súy tổng quản quốc chính thượng phụ, tước Bình An vương. Tùng quy định cho vua Lê được thu thuế 1.000 xã ( gọi là lộc thượng tiến) và 5.000 quân lính túc vệ, 7 con voi và 20 chiếc thuyền rồng.

Trịnh Tùng cho lập phủ liêu riêng gồm đủ cả lục phiên tương đương với lục bộ của triều vua. Phủ chúa toàn quyền đặt quan, thu thuế, bắt lính. Vua chỉ có mặt trong những dịp long trọng đặc biệt như tiếp sứ Tàu mà thôi. Từ đấy bắt đầu “ vua Lê – Chúa Trịnh”. Con chúa Trịnh cũng được quyền thế tập gọi là thế tử.

Trước sự hống hánh, lộng quyền của chúa Trịnh vua Lê Kính Tông không chịu nổi bèn cùng với con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân mưu giết Trịnh Tùng. Công việc bại lộ, Trịnh Tùng bức vua thắt cổ chết giữa tuổi 32. Tùng cho Thái tử Lê Duy Kỳ lên thay ngôi vua, lấy hiệu là Lê Thần Tông.

Bấy giờ liều thuốc rất nhiều người dân sớ can ngăn Trịnh Tùng phải nghĩ đến dân vì dân là gốc của nước. Trong số đó có Nguyễn Duy thì làm quan ở Ngự sử đài đã mấy lần dân sớ can ngăn chúa Trịnh. Tục truyền rằng. Trong phủ chúa có một cái kiệu, kiểu cách và sơn vẽ rất lộng lẫy, một hôm Nguyễn Duy đứng bên cạnh, chợt giả ốm vật vào trong kiệu, cấm khẩu không nói được câu gì. Chúa sai người đưa quan Ngự sử về phủ, sáng hôm sau Duy thì vào khải rằng.

Thần hôm qua ngộ cảm, đội ơn chúa thượng bao dung. Cái kiệu ấy thần đã trót ốm nằm lên rồi, không tiện lại tiến phụng nữa. Xin sẽ sắm cái đẹp đẽ khác dâng nộp.

Chúa Trịnh hiểu ý, không trách hỏi nữa.

Một lần khác, Nguyễn Duy thì xin phép chúa về nghỉ ở quê là xã Thanh Lãng ( Phúc Yên). Lúc đó chúa Trịnh đang yêu một bà phi người làng Mông Phụ ( Ba Vì – Hà Tây) bà phi ấy được yêu chiều nên uy thế khá lớn. Duy thì vẫn nói xa để khuyên răn chúa, nay nhân dịp quan Ngự sử đi vắng, chúa ngự thuyền rồng lên “ kinh lý” Sơn Tây, tiện đường rẽ vào làng nhà bà phi. Thuyền chúa qua hạt Yên Lãng, Duy thì ngồi chờ rồi phục lạy ở bến sông mà khóc. Chúa thấy lạ hỏi thì ông nói.

Bốn phương không có giặc giã, sao vì một người đàn bà mà làm nhọc đến 6 quân, như vậy quốc thể còn là gì nữa.

Rồi quan Ngự sử ra lệnh cho quân sĩ không được bơi thuyền tiến lên, hễ ai trái lệnh sẽ lấy quân pháp trị tội. Chúa vì thế phải hồi loan.

Năm Quý Hợi ( 1623) Bình An vương Trịnh Tùng bị cảm, sai các quan bàn việc chọn thế tử. Triều thần đều bảo là thái Bảo quận công Trịnh Xuân giữ chức phó. Biết tin này, ngày hôm sau Trịnh Xuân đem quân và voi vào phá Nội phủ cướp lấy voi ngựa, vàng bạc châu báu rồi bắt Trịnh Tùng phải dời ra ngoài thành rồi phóng lửa đốt phủ chúa, lửa cháy lan khắp kinh kỳ. Trịnh Tráng cùng em là Trịnh Khải đem vua chạy ra ngoài. Trịnh Tráng họp các quan văn võ ở chợ Nhân Mực huyện Thanh Trì bàn việc đối phó với Trịnh Xuân. Lúc đó Trịnh Tùng đã quá ốm yếu, sai em ruột là Trịnh Đỗ dụ Trịnh Xuân đến Quán Bạc ( xã Hoàng Mai, huyện Thanh Trì) để trao cho đại quyền. Xuân đến, mồm ngậm cỏ, phủ phục ở sân. Trịnh Tùng kể tội Xuân là kẻ loạn thần tặc tử, truyền lệnh cho Bùi Sĩ Lâm chặt chân Xuân cho đến chết. Còn Trịnh Đỗ em Trịnh Tùng, sai con trai mình là Trịnh Thạc đi đón thế tử Trịnh Tráng đến gặp Trịnh Tùng. Thế tử Trịnh Tráng cùng với Thạc cưỡi chung một con voi. Thấy vậy, thuộc tướng của Tráng cho biết là cha con ông chú ( Trịnh Đỗ) đang có âm mưu hại Trịnh Tráng, Tráng nghe được mới bảo Thạc cứ về dinh trước rồi tự mình đem quân chạy về đóng ở Ninh Giang.

Ngày 20 tháng 6 năm Quý Hợi ( 1623), Trịnh Tùng mất tại quán Thanh Xuân, huyện Thanh Oai. Trịnh Tráng cho đón linh cữu về Ninh Giang phát tang rồi sai 13 chiếc thuyền đưa linh cữu theo đường thủy về táng ở Thanh Hóa. Trịnh Tráng cũng rước vua Lê về Thanh Hóa để lo việc dẹp loạn.

Như vậy là trong 20 năm nắm quyền, Trịnh Tùng đã đánh bại được nhà Mạc, khôi phục lại cơ đồ nhà Lê, nhưng cũng bắt đầu từ đây một kiểu cai trị tồn tại song song cả vua lẫn chúa.

Chúa Trịnh Tùng ngự ở Thăng Long 33 năm nữa, tổng cộng cả quãng đời chinh chiến lẫn hòa bình, Trịnh Tùng cầm quyền 53 năm, khi mất đã 47 tuổi.
 
Văn tổ nghị vương trịnh tráng ( 1623 – 1652)

Dư đảng của họ Mạc do Kính Khoan đang chiếm cứ đất Cao Bằng nghe tin Trịnh Tùng chết, các con đánh nhau giành ngôi chúa, liền từ Cao Bằng kéo xuống Gia Lâm, người theo đông đến hàng vạn. Trịnh Tráng phải rước vua Lê chạy vào Thanh Hóa.

Tháng 8 năm Quý Hợi ( 1623) Trịnh Tráng đem quân ra phá tan quân của Kính Khoan ở Gia Lâm, Kính Khoan một mình chạy thoát thân, trốn vào núi. Kinh thành lại được yên, Tráng lại rước vua Lê trở lại kinh đô. Mùa đông năm đó ( 1623) vua Lê phong Nguyên súy thống quốc chính thanh Đô vương cho Trịnh Tráng.

Trịnh Tráng lên nắm quyền ở phủ chúa là lúc quan hệ giữa họ Trịnh và họ Nguyễn trở nên căng thẳng. Tạm yên mặt Bắc, Trịnh Tráng lại phải lo đối phó mặt Nam, lúc này ở Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã ra mặt chống đối chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Trịnh Tráng nhiều lần lấy danh nghĩa vua Lê đem quân đi đánh Phúc Nguyên nhưng quân Nguyễn lợi dụng địa hình hiểm trở, lắp lũy đài chống cự quyết liệt, quân Trịnh không làm gì được, phải rút về. Khi lên nắm chính quyền Trịnh Tráng đã cao tuổi ( 47 tuổi), từng trải việc quân và việc đời nên trong chính sách cai trị. Tráng khéo léo và mưu mô hơn cả chúa trước, để thắt chặt thêm quan hệ giữa nhà chúa với nhà Lê, Trịnh Tráng đem con gái của mình ( trước đã lấy chồng được bốn con với chú họ của vua Lê) gả cho vua Lê, ép vua lập làm Hoàng hậu. Vua Lê đành chịu chấp nhận việc đó.

Năm Ất Dậu ( 1645), Trịnh Tráng tuổi đã già, xin vua Lê phong cho con thứ hai là Tây quận công Trịnh Tạc làm Khâm sai tiết chế các xứ thủy bộ chủ dinh chương quốc quyền, tả tướng Thái úy Tây Quốc công. Trịnh Tạc được chọn thay quyền cha giữ ngôi chúa, sau quyết định này vài hôm, Trịnh Tráng bị cảm mạo, các con là Trịnh Sầm, Trịnh Lịch vì không được cha truyền ngôi bèn nổi loạn. Sau cả hai người con này đều bị bắt chém. Thời kỳ cầm quyền, Trịnh Tráng có chút công lao ngoại giao đáng kể là vua Minh từ chỗ chỉ phong tước An Nam đô thống sứ cho các vua Lê Trung Hưng, đến nay đã chịu phong cho Lê Thần Tông ( đã nhường ngôi cho con lên làm Thái thượng hoàng), làm An Nam quốc vương vào mùa đông năm Tân Mão ( 1651) lại phong Trịnh Tráng làm phó vương. Có sự kiện này là bởi vì nhà Minh đang bị Mãn Thanh tấn công xâm lấn, từ phương bắc phải chạy xuống phía nam, cầu có đồng minh giúp đỡ.

Năm Đinh Dậu ( 1657), Trịnh Tráng mất, trải qua 30 năm cầm quyền ở phủ chúa, được vua Lê phong đến hết mức, thượng chúa sư phụ Công cao thông đoán nhân thánh thanh vương, chết 81 tuổi.
 
Hoằng tổ dương vương

TRỊNH TẠC ( 1653 – 1682)

Trịnh Tạc là con thứ hai mà lại được cha chọn làm Nguyên súy chưởng quốc chính Tây Định vương từ năm Quý Tị ( 1653) khi Trịnh Tráng còn đang sống. Sự đảo lộn giữa Trịnh Tạc và Trịnh Toàn đã tạo nên một mâu thuẫn ngấm ngầm giữa Toàn và Tạc, lúc này cuộc chiến giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài đang ngày càng một quyết liệt. Trịnh Toàn đang nắm giữ binh quyền ở Nghệ An. Năm Bính Thân ( 1656) Trịnh Tạc sai Căn là con trai cả làm thế tử lãnh chức Tá quốc dinh phó đô tướng thái Bảo Phú quận công đem quân vào Nghệ An tăng viện cho Trịnh Toàn và cũng để kiềm chế Trịnh Toàn. Ngày 16 tháng 4 năm Đinh Dậu ( 1657) trước khi qua đời, Trịnh Tạc cho người triệu Toàn về kinh đô mưu sát. Bộ hạ Toàn sợ bị vạ lây đã chạy sang hàng quân Nguyễn ở Đàng Trong, riêng Toàn không biết phải làm sao, đem toàn bộ voi ngựa, khí giới đến cửa quân của Trịnh Căn xin cháu đoái thương. Trịnh Căn không dám quyết định nói.

Việc đã như thế, nên phải về kinh đợi mệnh, Toàn miễn cưỡng phải về kinh. Trịnh Tạc sai đình thần tra hỏi tống ngục cho đến chết, quyền hành từ tay Trịnh Toàn được chuyển hết vào tay Trịnh Căn. Căn đóng quân ở Nghệ An.

Từ chúa Trịnh Tạc trở đi, vua Lê cho phép các chúa Trịnh vào chầu không phải lạy, tờ chương tấu không phải đề tên, đặt chỗ ngồi ở bên tả nhà vua mỗi khi thiết triều. Sau thắng lợi dẹp được Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng tháng 9 năm Đinh Mùi ( 1667), Trịnh Tạc tự nhân công lao của mình bao trùm tất cả, càng lấn lướt vua Lê, tư gia phong Đại nguyên soái thượng thư thái phụ Tây vương.

Năm Nhâm Tí ( 1672), Trịnh Tạc ép vua Lê đem quân vào đánh quân Nguyễn một trận đánh lớn ở châu Bắc Bố Chính. Quân Trịnh chiếm được lũy Trấn Ninh, Trịnh có nhiều tướng giỏi như Trịnh Căn, chỉ huy quân thủy, Lê Thời Hiến chỉ huy quân bộ. Trịnh huy động đến 3 vạn quân vượt sông Gianh đánh vào cửa Nhật Lệ. Quân Nguyễn ra sức chống đỡ nhờ vào hệ thống thành kiên cố. Tháng 12 năm Nhâm Tí ( 1672), Trịnh Tạc rút đại binh về chỉ để lại Lê Thời Hiến trấn giữ Nghệ An. Từ đó hai phía Đàng Ngoài và Đàng Trong tạm dừng binh đao, lấy sông Gianh làm giới hạn.

Trở về kinh đô, Trịnh Tạc bắt đầu để ý đến bộ máy cai trị theo lối “ chính quy”. Văn thần phải thay phiên nhau vào ứng túc trực tại phủ chúa để làm công việc, việc này gọi là nhập các. Dưới sự tham gia, cố vấn của tham tụng phụ Phạm Công Trứ, một loạt chính sách mới về thuế khóa, ruộng đất được ban hành để giải quyết hậu quả chiến tranh.

Nhưng cũng vào thời kỳ này, bắt đầu xuất hiện nạn kiêu binh. Lính thanh Nghệ cậy có công lao trong chiến trận sinh ra kiêu ngạo, phóng túng, nổi loạn giết bồ tụng Nguyễn Quốc Trinh, cướp phá nhà tham tụng Phạm Công Trứ. Kinh thành trở nên náo loạn.

Tháng 7 năm Giáp Dần ( 1674), Trịnh Tạc xin vua Lê tiên phong cho con là Trịnh Căn làm Nguyên soái, tước Định Nam vương, nắm toàn quyền thay cha. Trịnh Căn tự xưng là phó vương.

Năm Tân Dận ( 1682), Trịnh Tạc mất, con là Trịnh Căn nối giữ ngôi chúa. Trịnh Tạc nắm quyền 25 năm, trải qua bốn đời vua Lê. Thần Tông, Huyền Tông, Gia Tông và Hy Tông, thọ 77 tuổi.
 
Chiêu tổ khai vương

TRỊNH CĂN ( 1682 – 1709)

Trịnh căn là con trưởng của Trịnh Tạc, lúc còn nhỏ bị phạm tội phải giam vào ngục. Về sau nhờ khéo vận động Trịnh Căn được tha.

Dưới thời Trịnh Căn, chiến tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài đã tạm dừng. Vì thế, chúa Trịnh cũng có điều kiện để củng cố bộ máy cai trị ở Đàng Ngoài. Giúp cho việc cai trị của chúa Trịnh lúc đó có nhiều người đỗ đạt cao, danh vọng lớn như Nguyễn Danh Nhọ, Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Tông Quai, Đặng Đình Tướng…Ở Trung Quốc, nhà Thanh đã lên cầm quyền, muốn mở rộng ảnh hưởng ban đầu xuống phía nam. Họ tỏ ra có nhiều thân thiện với triều đình Lê – Trịnh, tháng 9 năm Mậu Tí ( 1683) nhà Thanh sai sứ sang ban cho vua Lê dòng đại tự “ trung hiếu chủ bang” ( có lòng trung thành hiếu kính để giữ nước). Đây là sự tri ân nhà Lê đã từ chối không cứu viện cho Ngô Tam Quế, bầy tôi phản nghịch chống nhà Thanh. Vua còn sai sứ ban lễ phẩm cho việc tế Huyền Tông và Gia Tông, Trịnh Căn đã làm được một số việc đáng chú ý.

Năm Giáp Tý ( 1684) hạ lệnh cho quan lại vi hành thị sát dân tình. Trong lệnh chúa Trịnh viết.

Thương yêu dân chúng là việc đầu tiên trong chính sự, dân chúng có người vì quan sở tại hà khác, bọn quyền quý ức hiếp, có người vì oan ức phải phiên tán tha hương, họ cần được cổ vũ thương yêu mới phải.

Bằng nhiều cố gắng ngoại giao, chúa Trịnh bã đã buộc nhà Thanh trả lại một số thôn ấp vùng biên giới. Mặc dù vậy, lợi dụng chiến tranh Trịnh – Nguyễn, vùng biên giới nước ta không được chú ý đến, quan lại trấn thủ và thổ hào từ bên kia biên giới xâm lấn khá nhiều đất đai. Trịnh Căn đã có ý thức đòi lại đất, nhưng chưa được bao nhiêu.

Năm Quý Dậu ( 1693) Chúa Trịnh cũng bắt đầu chỉnh đốn lại thể văn thi ở các khoa trường và bắt đầu đặt quan chức quản lãnh thổ công việc ở Quốc Tử Giám, làm sổ “ tu tri” để quản lý mọi mặt các xã thôn trong nước.

Trịnh Căn cũng rất quan tâm đến việc chuẩn bị cho người kế nghiệp, nhưng về việc này
Chúa gặp rất nhiều lận đận. Năm Giáp Tí ( 1684), Trịnh Căn phải phong cho con thứ là Bách làm tiết chế thay cho con cả là Vĩnh đã chết. Bách được quyền mở phủ đệ riêng và chuẩn bị thay thế cho cha. Không may, năm Đinh Mão ( 1687) Trịnh Bách lại chết sớm. Trịnh Căn lại phong cho Trịnh Bính là cháu nội đích tôn ( con Trịnh Vĩnh). Sau 6 năm, năm Quý Mùi ( 1703), Trịnh Bính cũng chết, Trịnh Căn lại phải phong cho chắt nội ( con cả của Trịnh Bích) là Trịnh Cương làm tiết chế An Quốc công, lúc vừa 18 tuổi. Việc truyền ngôi cho dòng đích này được các quan đại thần như Nguyễn Quý Đức và Đặng Đình Tường ủng hộ. Song cũng vì thế mà phủ chúa lại một phen lục đục. Tháng 3 năm Giáp Thân ( 1704), Trịnh Luân và Trịnh Phất làm phản mưu giết Tiết chế Trịnh Cương lấy lý rằng Luân và Phất là con Trịnh Bách tiết chế đã chết, có quyền được nối ngôi, huống chi Cương chỉ là chắt. Sau nhờ mật tâu kịp thời của Nguyễn Công Cơ nên qua được, Luân và Phất bị giết, Nguyễn Công Cơ được thăng Hữu thị lang bộ Công.

Năm Kỷ sửu ( 1709) Trịnh Căn mất, chắt là Trịnh Cương lên nối ngôi, Trịnh Căn giữ phủ chúa 28 năm. Nhiều sử gia đương thời bình rằng, “ Về chính trị, thưởng phạt rõ ràng, mối rường chỉnh đốn, sửa sang nhiều việc”. Dưới thời Trịnh Căn, nhiều danh sĩ, người tài ở Bắc Hà được trọng dụng. Đời tư của Trịnh Căn cũng không có gì đáng chế. Mất lúc 77 tuổi, truy tôn là Khang Vương, hiệu là Chiêu Tổ.
 
Hy tổ nhân vương trịnh cương

( 1709 – 1729)

Trịnh Cương là con trưởng của Tấn Quang vương Trịnh Bính, là chắt của Trịnh Căn, được chon để nối nghiệp chúa. Sự lựa trọn này là vừa theo nguyên tắc trực hệ vừa do hai đại thần có tiếng thời Lê – Trịnh là Nguyễn Quý Đức và Đặng Đình Tướng tiến cử. Năm Kỷ Sửu ( 1709), Trịnh Căn mất, Trịnh Cương nối ngôi gia phong là Nguyên soái tổng quốc chính An Đô vương.

Tháng 9 năm Giáp Ngọ ( 1714) Trinh Cương lại được tiến phong Đại Nguyên soái tổng quốc chính thượng sư An vương. Nhân dịp tiến phong, Trịnh Cương vào bái yết thái miếu và chầu vua Lê ở điện Vạn thọ. Đây là cử chỉ Trịnh Cương tỏ ra biết giữ mối quan hệ vua Lê chúa Trịnh, không quá mức lấy quyền như các chúa trước. Đáp lại, Lê Dụ Tông kính trọng Cương khác thường, cho tấu sớ không phải đề tên.

Thời kỳ ở ngôi chúa, Trịnh Cương rất chăm chỉ lo toan việc trị nước. Chúa trọng dụng ba đại thần rất trẻ có tài là Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Cơ và Nguyễn Công Hãng. Cùng với các quan này, đặt biệt là với Nguyễn Công Hãng, Trịnh Cương bàn định và ban hành hàng loạt về cải cách thuế khóa, áp dụng phép thuế Tô Dung Điệu học của Trung Quốc, nhằm hạn chế bất công trong thuế má để lại từ trước. Sử ghi rằng có lần, nửa đêm, nghĩ đến việc cải cách, Trịnh Cương sai người đến đánh thức hai quan tể tướng là Công Hãng và Anh Tuấn và mời vào phủ bàn việc. Có lúc làm việc kéo dài đến quá trưa.

Có lần bàn về nghi thức triều phục cho các quan, quần thần khuyên Trịnh Cương dùng áo màu vàng để tiếp kiến bầy tôi. Cương từ chối vì cho rằng màu vàng chỉ dành cho vua, mình là chúa, dùng màu tía để phân biệt với triều quan là được.


Gia tộc họ Trịnh đều có quân riêng, Trịnh Cương ra lệnh giải tán, chỉ giữ lại một lực lượng thống nhất do phủ chúa cai quản nhằm đề phòng các thân thuộc đánh nhau tranh giành quyền lực. Sau đó, Trịnh Cương tổ chức lại quân ngũ phủ chúa, đặt sáu quân doanh, lựa chọn đinh tráng từ bốn trấn và binh lính thanh Nghệ. Mỗi doanh biên chế 800 người, bổ dụng 6 tướng chia nhau thống lĩnh. Đầu năm 1724, Trịnh Cương được thay nhà vua tế bàn Nam Giao song không đứng vào chỗ vua Lê làm lễ, người đương thời rất tin phục Cương.

Trịnh Cương rất chú trọng đến việc bổ dụng và làm trong sạch đội ngũ quan lại. Năm Giáp Thìn ( 1724), theo lời bàn của Nguyễn Công Hãng, chúa cho phép dân chúng được yết bảng góp ý kiến quan lại địa phương. Bố cáo gửi các địa phương có ghi rõ. “ Những điều yết lên bảng phải xuất phát từ lễ công bằng, cả loạt đều cùng một giọng. Người nào yết phép theo ý riêng mình, khen chê bậy bạ sẽ bị trị tội.

Một việc hiếm xảy ra trong chế độ phong kiến là tổ chức thi lại để loại trừ kẻ bất tài nhờ chạy chọt mà đỗ đạt. Năm Bính Ngọ ( 1726), Nguyễn Công Cơ tâu lên chúa rằng, chuyện thi cử có nhiều nhũng lạm, phần lớn con em nhà quyền quý đỗ hương cống, không có thực tài, Trịnh Cương hạ lệnh cho thi lại, đánh hỏng 28 người, trong đó có con tham tụng Lê Anh Tuấn, con Huân quận công Đặng Đình Giám, con nuôi nội giám Đỗ Bá Phẩm…Bọn này được giao xuống cho pháp đình xét hỏi và trị tội nặng. Nguyễn Công Cơ vì dám nói thẳng, được thăng chức thiếu bảo.

Tháng 10 năm Đinh Mùi ( 1727) Trịnh Cương phong cho con là Trịnh Giang làm tiết chế, tước Uy quận công, mở phủ đệ riêng gọi là phủ Điện Quốc. Trịnh Cương còn soạn bài văn “ bảo huấn” để ban dạy Trịnh Giang.

Về già, Trịnh Cương thường đi tuần du vãn cảnh các nơi, cho sửa dựng nhiều chùa núi Độc Tôn và Tây thiên để đến du ngoạn. Cổ Bi vốn là đất nổi tiếng vùng Kinh Bắc, tiếp giáp xã Như Kinh là quê mẹ của Trịnh Cương nên chúa về thăm luôn. Chúa còn cho xây phủ đệ mới tại đó, lấy tên là phủ Kim Thành và có ý định đóng phủ chúa ở đấy.

Năm Kỷ Dậu ( 1792) Trịnh Cương đi chơi chùa Phật Tích rồi Như Kinh, bị bệnh, chết ngay tại đó, quan quân bí mật đưa về phủ phát tang. Vị chúa có nhiều tân huyết với công cuộc cải cách kinh tế, chính trị này mất ở tuổi 44, cầm quyền 20 năm.

Về sau, con cháu truy tôn chúa là Nhân vương, hiệu là Hy tổ.
 
Dụ tôn thuận vương trịnh giang ( 1729 – 1740)

Trịnh Giang là con cả Trịnh Cương, khi đang còn làm Thế tử, phó của Giang là Nguyễn Công Hãng đã dân một sớ nhận xét rằng. Giang là người ươn hèn, không thể gánh vác được ngôi chúa, Trịnh Cương đột ngột mất, Trịnh Giang với tư cách thế tử lên nối ngôi chúa.

Tháng 4 năm Canh Tuất ( 1730), Giang tự phong là Nguyên soái, thống quốc chính Uy Nam vương. Sau khi lên ngôi, Trịnh Giang tôn bà nội là thái phi Trương thị ( vợ Trịnh Bính, người xã Như Kinh, huyện Gia Lâm, mẹ Trịnh Cương), làm thái tôn phi, mỗi khi truyền đạt lời của thái tôn phi thì gọi theo húy chỉ, tôn mẹ đẻ làm thái phi ( người xã Mi Thử, huyện Đường Yên), truy tôn ông ngoại là Tuấn quận công Vũ Tất Tố lên Tuấn Trạch công và đích mẫu Trịnh thị ( vợ cả của Trịnh Cương nhưng không có con, đã mất), làm thái phu nhân, lập đền thờ ở kinh đô.

Năm Tân Hợi ( 1731) vì có điềm tai dị ( Nhật thực) chúa hạ lệnh cho bầy tôi trình bày ý kiến về chính sự. Bùi Sĩ Tiêm đưa ra 10 điều, lời lẽ rất thống thiết, tâm huyết, chỉ trích những mục nát trong bộ máy cai trị lúc bấy giờ, vì thế bọn quyền thần rất ghét Tiêm. Sớ đến tay Giang, quyền thần lại nói gièm thêm, Giang giận lắm, tước bỏ hết quan tước, đuổi sĩ Tiêm về quê. Sau một thời gian ngắn, Tiêm mất.

Trịnh Giang là người thích âm nhạc và văn chương. Năm Nhâm Tý ( 1732), Giang cho chế nhạc dùng tỏng phủ đường để “ làm tô điểm cho thời thái bình”. Từ đó ngày chúa ra coi chầu, phường nhạc sắp hàng ở phủ đường. Khi ra hai bên cửa phủ vừa mở thì nhạc cũng được cử lên. Các quan văn võ lạy xong thì ngừng tiếng nhạc, khi chúa đi tuần du hoặc xuất hành việc quân thì bắn ba phát súng. Chúa đi ra ngoài thì có cờ lệnh, phường nhạc chia nhau đi trước dẫn đường.

Trịnh Giang cũng thích văn nghệ, những buổi không có triều hội, thường mời các quan vào thi tung ăn yến trong lầu gác của chúa, lúc thì vui chơi ở nhà Dưỡng Chính, khi thì bình văn ở đình Bát Giác, Tây Tụng, Phượng Các. Vào dịp đó, Trịnh Giang thường cho bầy tôi xem các văn bản xưa, những bài thơ do Giang tự làm, bàn bạc nghĩa sách, bình luận nghĩa văn. Có khi còn bàn về cả cách viết lối chân lối thảo hoặc triện. Có khi hứng, chúa xướng vần rồi bảo các quan làm thơ, hoặc tìm các bức thư, các bài ký, tụng, minh, châu, chiến, chế rồi về vịnh cảnh vật. Ai trúng thì khen thưởng ngay trước mặt chúa và các quan. Chúa còn sai sưu tầm thơ văn, chia ra mục loại, rõ cả họ tên tác giả để dễ tra cứu. Cao Huy Trạc, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Trác Luân, Dương Mại, Nguyễn Đức Huy, Nguyễn Kiều vì văn thơ hay, được chúa rất yêu quý! Vì thế, nhiều nho thần được khích lệ.

6 năm giữ quyền binh, năm Bính Thìn ( 1763) Trịnh Giang phong cho em là Doanh 17 tuổi làm Tiết chế bộ thủy quân, chức Thái úy, tước Ân Quốc công, cho mở phủ Lượng Quốc. Mỗi tháng 3 lần, Doanh thay Giang triều kiến trăm quan ở Trạch Các để nghe tâu trình công việc. Giang rảnh tay vào ăn uống, chơi bời, Giang cho xây dựng rất nhiều cung quán, chùa chiền rất nguy nga và tốn kém. Chùa Hồ Thiên, hành cung Quế Trạo, Từ Dương, phủ đệ ở các làng họ ngoại như làng Tử Dương, làng Mi thử. Nhân việc xây cất này, bộ hạ của chúa tỏa đi bốn phương bắt cống nộp, vì thế người làm ruộng, người đi buôn mất hết cơ nghiệp.

Xây cất xong cung quán chùa chiền, Trịnh Giang càng thích du ngoạn phong cảnh. Người bấy giờ đã bảo. Các chùa cổ, danh sơn chỗ nào cũng có vết xe, dấu ngựa nhà chúa. Từ khi giao binh quyền cho em, Giang càng trễ nải công việc triều đình. Chúa thường đóng hành ở cung Quế Trạo ( huyện Quế Dương, Bắc Ninh) quê hương của nội giám Hoàng Công Phụ, thỉnh thoảng mới về cung rồi lại tuần du phương Bắc, Hoàng Công Phụ là hoạn quan được Giang tin yêu nên càng lộng quyền.

Vì nghi ngời lính thanh Nghệ, không muốn dùng làm thị vệ hầu xe chúa. Công Phụ tuyển chọn lính tráng toàn là người làng để dễ bề kiểm soát và sai khiến. Thế là các quan không biết chúa ở đâu mà tìm. Gặp việc quân chính sự khẩn cấp thì không biết kêu ai vì Trịnh Doanh chỉ tạm nhiếp chính không dám quyết. Việc triều chính vì thế rối tung.

Trịnh Giang lao vào ăn chơi dâm loạn nên sức khỏe ngày càng kém sút, Giang còn mắc tội loạn dâm với cung nữ của cha là Kỳ Viên họ Đặng, sau Vũ Thái phi biết chuyện, bắt ép Đặng thị phải tự tử. Một hôm bất ngờ Trịnh Giang bị sét đánh gần chết. Từ đó mắc bệnh “ Kinh quý” ( chứng tâm thần bất định, hoảng hốt và hay sợ hãi). Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ nói dối rằng, đấy là vì dâm dục mà bị ác báo. Muốn không bị hại chỉ có cách là trốn xông đất. Nhân đó bọn chúng đào đất, làm hầm cho chúa, gọi là cung thưởng Trì. Từ đó Trịnh Giang ở hẳn dưới hầm, không hề ra ngoài. Thế là Hoàng Công Phụ càng có điều kiện để lộng quyền, quan quân muốn trừ khử lũ hoạn quan này, nên khắp các vùng dân chúng đã nổi lên. Hải Dương có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Sơn Nam có Hoàng Công Chất… dân quê đeo bừa, vác cuốc đi theo rất đông, có nơi đến hàng vạn người, triều đình bất lực, không chịu nổi.

Trước tình hình nguy ngập ấy, thái phi Vũ Thị đã cùng triều thần bàn cách lập Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang để trấn an lòng người. Năm Canh Thân ( 1740) Trịnh Doanh thay quyền ngôi chúa, lấy hiệu là Minh Đô Vương, tiến tôn Trịnh Giang làm thái thượng vương. Như vậy, Trịnh Giang cầm quyền được 10 năm ( 1730 – 1740) sau đó ở cung thưởng Trì them 20 năm nữa mới mất, thọ 51 tuổi, truy tôn là thuận vương hiệu là Dụ Tổ.
 
Nghị tổ ân vương trịnh doanh ( 1740 – 1767)

Trịnh Doanh là con thứ ba của Trịnh Cương, Giang lên cầm quyền ở phủ chúa đã lâu mà chưa có con, thấy em là Doanh có tài văn võ lược mới phong làm Khâm sai tiết chế các xứ thủy bộ chủ quân, Thái úy Anh Quốc công, cho mở phủ đệ riêng để phòng có người nối ngôi. Vì không thiết gì đến chính sự nên từ năm Bính Thìn ( 1763) Giang đã giao quyền nhiếp chính cho Doanh. Quan hệ anh em Giang và Doanh là tốt đẹp, không có gì đáng phàn nàn. Có điều là hoạn quan Hoàng Công Phụ lại ganh ghét Doanh vì Doanh sáng suốt, quả quyết, có tài văn võ và còn rất trẻ mà đã được quyền nhiếp chính, được lòng các quan trong ngoài. Công Phụ đã tìm cách hạn chế quyền lực của Doanh. Phụ hạ lệnh cho triều quan muốn tâu bài việc gì với Doanh, không dùng chữ “ bẩm” mà phải dùng chữ “ Thân” ( trình). Phụ chỉ cho Doanh dùng một căn nhà nhỏ ở phía nam phủ chúa gọi là nhà “ để”.

Biết Công Phụ muốn hại mình, Doanh không khé giữ gìn kín đáo và nín nhịn. Trịnh thái phi họ Vũ cho triệu các triều thần Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Công Thái, Trịnh Đạc, Vũ Tất Thận, Nguyễn Đình Hoàn họp bàn trừ khử bè đảng Hoàng Công Phụ, và đưa Trịnh Doanh lên ngôi chúa.

Lợi dụng lúc Hoàng Công Phụ đem toàn quân bản bộ ra dẹp cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển ở ngoài, Nguyễn Quý Cảnh đem hương binh vào kinh bảo vệ phủ chúa và vào chầu vua Lê, xin ra chỉ thị đưa Trịnh Doanh lên ngôi chúa. Sau đó, hương binh của Quý Cảnh đến giết hết bè đảng của Hoàng Công Phụ. Trật tự trở lại trong phủ chúa, Trịnh Doanh khi đã có quyền lực trong tay liền ban hành nhiều quyết định, hợp với lòng người, được quần thần và dân chúng ủng hộ. Chính sách cai trị dưới thời Trịnh Doanh khá chắc chắn và hoàn chỉnh. Nhiều sắc chỉ được ban hành dưới thời Trịnh Cương ( đã bị Giang bỏ) nay được dùng lại. Doanh cũng là một viên tướng có tài cầm quân, trong vòng 10 cầm quyền. Trịnh Doanh lần lượt đã đánh tan và dẹp yên các cuộc khởi nghĩa khắp nơi. Đất nước tạm lắng nạn hỗn loạn, đặc biệt là quân thanh Nghệ mà sau này hậu quả tai hại nảy sinh là nạn kiêu binh. Chúa sau Trịnh Doanh đã phải hứng chịu hậu quả ấy. Hơn nữa, do dẹp loạn bằng mọi giá, Trịnh Doanh mắc vào một sai lầm không thể tha thứ là đốt hết sổ sách thư từ, thu nhặt hết chuông khánh các chùa chiền để đúc binh khí.

Trịnh Doanh cũng chăm chỉ lo việc chính sự, cho đặt ống đồng ở cửa phủ để nhận thư từ dân chúng tố cáo việc làm sai trái của quan lại, định lệ các quan từ tạp phẩm nhất đến nhất phẩm, mỗi ngày lần lượt thứ tự hai người vào phủ chúa để hỏi về chính sự và mưu sách việc quân việc nước.

Năm Ất Hợi ( 1755), vua Lê gia phong cho Trịnh Doanh là thượng sư thượng phụ anh đoán văn trị võ công Minh vương. Tháng 12 năm Ất Hợi ( 1755), Trịnh Doanh muốn thiên đô sang Gia Lâm, bèn hạ lệnh sửa sang xây dựng cung miếu ở Cổ Bi. Tuy vậy, vẫn chưa dọn sang vì Doanh vốn say mê chính sự.

Một điều chú ý là mỗi khi tuyển chọn và cất nhắc quan lại. Trịnh Doanh rất coi trọng thực tài – Chúa là người đầu tiên quy định, bất cứ ai, trước khi Lại bổ sung cất nhắc, phải dẫn vào phủ đường yết kiến để chúa trực tiếp hỏi về việc làm, ai có khả năng mới trao cho quyền. Chúa thưởng phạt rất công minh, nhiều danh sĩ xuất thân khoa bảng được trọng dụng, tiêu biểu là Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ…

Lịch sử ghi nhận những năm Trịnh Doanh cầm quyền ở Bắc Hà là những năm đất nước ổn định và thịnh đạt.

Tháng giêng năm Đinh Hợi ( 1767), Trịnh Doanh mất, con là Trịnh Sâm nối ngôi. Hai mươi tuổi Trịnh Doanh lên nắm quyền, mất lúc 48 tuổi, ở phủ chúa 28 năm.
 
Thái tổ thịnh vương trịnh sâm ( 1767 – 1782)

Trịnh Sâm là con trưởng của Trịnh Doanh, năm Ất Sửu ( 1745) Sâm được lập làm Thế tử. Trịnh Doanh tỏ ra cận trọng trong việc nuôi dạy con, bổ dụng hai tiến sĩ danh tiếng là Dương Công Chú và Nguyễn Hoàng làm tư giảng cho Trịnh Sâm. Tháng 10 năm Mậu Dần ( 1758) Trịnh Doanh phong cho con là Sâm làm Tiết chế thủy bộ chư quân. Thái úy, Tĩnh Quốc Công, mở phủ Lượng Quốc và hết thảy công việc triều đình được giaon hẳn cho Sâm.

Mùa xuân năm Đinh Hợi ( 1767), Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm nối ngôi, tiến phong là Nguyên soái Tổng quốc chính, Tĩnh đô vương.

Trịnh Sâm là người cứng rắn, thông minh, quyết đoán. Từ nhỏ, Sâm đã được học đến nơi đến chốn, có đủ tài văn võ, đã xem khắp kinh sử và biết làm thơ. Lên ngôi chúa, từ kỷ cương triều nội đến chính sự cả nước. Trịnh Sâm cho sửa đổi lại vì cho rằng phép tắc các triều trước là nhỏ hẹp, nay Sâm muốn làm to rộng hơn, nên phần nhiều tự quyết đoán, không nệ theo phép cũ.

Tại triều, ngay đầu năm Sâm lên ngôi, em là Trịnh Lệ mưu giết để thoát đoạt. Lệ cũng là người sáng suốt, có cơ mưu và trí dũng. Gặp lúc cha chết, Lệ mật hẹn với Dương Trung Khiêm và Nguyễn Huy Bá làm gia khách định ngày giết Sâm. Việc bị lộ, Phạm Huy Cơ và đồ đảng bị giết, Trịnh Lệ bị tống giam.

Sau khi lên ngôi chúa, Trịnh Sâm đã tìm cớ sát hại Thái tử Duy Vĩ. Năm Kỷ Sửu ( 1769), sau hai năm lên ngôi vì ghen ghét tài năng, đức độ và địa vị của Thái tử Duy Vĩ. Sâm đã vu tội cho Thái tử, sai người bắt giữ, truất ngôi và tống giam đến chết trong ngục.

Năm Canh Mùi ( 1770) sau khi đánh tan Lê Duy Mật, buộc Duy Mật tự tử, Trịnh Sâm khiêu mãn, cho mình có công lớn, bốn cõi yên ổn hơn hẳn mọi đời chúa trước, nên tự tiến phong là Đại nguyên soái tổng quốc chính, thượng sư thượng phụ, Duệ đoán văn công võ Tĩnh vương.

Năm Giáp Ngọ ( 1774) để khuếch trương thêm thanh thế, Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc làm thống tướng đem quân vào Nam đánh chúa Nguyễn. Để tăng thêm thanh thế cho binh sĩ Nam chinh, tháng 10 năm đó. Sâm thân cầm quân kéo vào thuận Hóa. Quân Trịnh chiếm được thuận Hóa và đặt quan cai trị đất Thuận Quảng – Trong đó có Lê Quý Đôn, tác giả sách “ Phủ biên tạp lục”.

Tháng 9 năm Nhâm Dần ( 1782) Trịnh Sâm mất, thọ 44 tuổi, 16 năm ở ngôi chúa.
 
Tuyên phi đặng thị tuệ và điện đô vương trịnh cán.

Đặng thị Huệ quê ở làng Phù Đổng, huyện Đông Anh ( nay là Hà Nội) là một nữ tỳ phục vụ trong phủ chúa. Trịnh Sâm sau khi đã dẹp yên các cuộc khởi nghĩa lớn, bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ, dần dần sinh bụng kiêu căng, xa xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thỏa thích.

Một hôm, tiệp dư Trần Thị Vinh sai nữ tỷ Đặng Thị Huệ bưng một khay hoa đến trước mặt chúa. Thị Huệ, mắt phượng mày ngài, vẻ người rất xinh đẹp và hấp dẫn. Chúa Trịnh trông thấy đem lòng yêu mến đặc biệt, thị Huệ ngày càng được chúa yêu. Ả nói gì chúa cũng nghe và có việc gì cũng nói với thị Huệ. Từ đó, Huệ được sống cùng một nơi với chúa, y như vợ chồng nhà thường dân. Xe kiệu quần áo của Huệ đều được sắm sửa như đồ của chúa.

Thị Huệ ngày càng lộng hành, hễ có chuyện không vùa ý là xây xẩm mặt mày, kêu khóc thảm thiết khiến chúa rối lòng. Trịnh Sâm có ngọc dạ quan, chiến lợi phẩm của một trận đánh phương Nam, vẫn treo ở đầu khăn làm đồ trang sức. Một hôm thị Huệ lấy tay mân mê viên ngọc, Chúa nói.

Nhè nhẹ tay kẻo sây sát!

Thị Huệ liền ném viên ngọc xuống đất, tru tréo khóc la.

Ngọc này chả là cái gì sất ! Chẳng qua vào Quảng Nam kiếm trả chúa hạt khác là cùng, sao chúa nỡ trọng của khinh người làm vậy?

Đoạn thị Huệ bỏ ra ở cung khác, từ chối không gặp chúa nữa, Trịnh Sâm phải dỗ dành mãi, Huệ mới chịu làm lành với chúa.

Để chiều lòng người đẹp, mỗi năm cứ đến tết trung thu, từ mấy tháng trước, chúa cho lấy gấn trong cung phát ra, làm hàng trăm hàng nghìn đèn lồng, cái nào cũng tinh xảo tuyệt vời, mỗi cái giá đến mấy chục lạng vàng. Bắc cung có hồ Long Trì, rộng nửa dặm, ngát hương súng. Ven bờ hồ san sát hàng mấy trăm cây phù dung để treo đèn. Sóng, trăng dập dờn, trông xa tựa như hàng vạn ngôi sao sáng.

Nội thị từ tam phẩm trở lên, chít khăn mặc áo đàn bà, bày hàng ở mép đường bán tạp hóa cùng hoa quả, chả, nem, rượu chẳng thiếu thứ gì, chồng chất như núi. Cung nhân qua lại mua bán, vừa mua vừa cướp, nào cần hỏi giá, đua nhau hát ghẹo, tiếng cười vang dậy trong ngoài.

Nửa đêm, chúa ngự kiệu đến hồ, xuống thuyền. Quan hầu và các phi tần gõ ván hò reo, đi lại rộn rịp và lên đênh trên sông nước. Lúc đàn khi sáo, ca hát rộn ràng khiến người ta liên tưởng như đang chơi ở cung trăng nghe nhạc thiên đình. Chúa hả hê, mãi gà gáy mới về.

Khi Huệ có thai, chúa sai người lễ bái khắp các chùa, mong sinh con thánh. Năm Đinh Dậu ( 1777) Huệ sinh con trai, chúa yêu dấu khác thường lấy tên của chúa thủa nhỏ đặt cho con là Cán, tỏ ra nó giống mình. Cán được 1 tuổi, tướng mạo rất khôi ngô đối đáp gãy gọn. Biết chúa cưng chiều Cán, thị Huệ âm mưu cướp ngôi thế tử cho Cán.

Nguyên trước đó, một quý phi tên là Ngọc Hoan đã sinh con trai đặt tên là Tông. Sâm không yêu Ngọc Hoan nên không muốn lập làm Thế tử, mặc dù Trịnh Tông đã 15 tuổi. Tông rất khôi ngô nhưng chúa chẳng chú ý chăm lo dạy bảo, việc học tập của Tông đều giao phó cho các quan. Đến tuổi, Tông được ra ở riêng, chúa cũng lờ luôn. Ngôi Thái tử chưa định nên lòng thì người ly tán, chia hai phe, phe Trịnh Tông, phe Trịnh Cán. Đặng thị Huệ tìm được người có thế lực trong phủ chúa là Huy quận công Hoàng Đình Bảo. Hai người này câu kết với nhau để mưu lập Trịnh Cán lên ngôi chúa.

Thế tử Tông thấy chúa lạnh nhạt với mình như vậy, lại biết được âm mưu của Đặng thị Huệ và Quận Huy, bắt giam hai mẹ con thị Huệ, để giành ngôi chúa về mình. Không ngờ Trịnh Sâm lại khỏi bệnh, việc bị lộ, thế tử Tông chịu tội giam biếm truất làm con thứ. Từ đó phe cánh của thị Huệ ngày càng mạnh. Triều quan phần lớn hùa theo thị Huệ.

Huệ có em trai là Đặng Mậu Lân, Lân nhờ thế chị mà được tước lộc, ỷ thế chị, làm càn. Quần áo, xe cộ của Lân đều rập theo vua chúa. Hàng ngày Lân đem vài chục tay chân cầm gươm vác giáo nghênh ngang khắp kinh ấp cướp bóc, cưỡng hiếp phụ nữ giữa phố phường. Chúa biết làm ngơ. Thị Huệ còn hỏi con gái yêu của chúa cho em trai mình, chúa không bằng lòng, nhưng vì nể thị Huệ mà phải nghe theo. Theo rồi, cuộc hôn nhân đã được tiến hành nhưng Đặng Mậu Lân không được phép sống chung với chúa. Để chiếm đoạt công chúa Lân giết luôn cả viên tướng tâm phúc bảo vệ công chúa. Thế mà nhờ Huệ can thiệp, Lân không bị giết, chỉ phải đày đi xa.

Thị Huệ hối thúc Trịnh Sâm lập Cán lên ngôi thế tử. Bề tôi Trịnh Sâm cũng a dua hùn vào, Sâm đã định lập Cán, nhưng mẹ Sâm là Trịnh thái phi Nguyễn Thị can ngăn nên Sâm chưa quyết. Sâm nói.


Thà lập Cán hoặc trao ngôi chúa cho Trịnh Bồng ( con Trịnh Giang – con ông bác) còn hơn lập Trịnh Tông đứa con bất hiếu.

Sau đó, do thúc giục của Huệ, Trịnh Sâm lập Cán làm thế tử, dù Cán mới lên 5. Sâm dùng Quận Huy làm thầy dạy Can.

Sâm bị bệnh trĩ, luôn ở trong cung không bao giờ đi ra ngoài. Đặng thị ý định xếp đặt công việc, gài tay chân giữ những cương vị then chốt trong phủ chúa. Cán là thế tử còn nhỏ, bọn họ càng lộng quyền.

Trong dân chúng, lan truyền.

Trăm quan có mắt như mờ
Để cho Huy quận vào sờ chính cung.

Năm Tân Sửu ( 1781), bệnh tình của Sâm nặng thêm và qua đời, thị Huệ thông đồng với Quận Huy lập Cán lên ngôi. Thị Huệ thông đồng với Quận Huy lập Cán lên ngôi chúa. Tuyên phi Đặng thị Huệ nghiễm nhiên trở thành điều khiển triều chính giúp con. Lòng người lo sợ, từ phủ chúa ra kinh thành, thôn dã, ai cũng biết chắc họa loạn sẽ xảy ra.

Tháng 10 năm Tân Sửu ( 1781), binh lính Tam phủ nổi loạn, truất ngôi Cán, giáng xuống Cung quốc công, đập phá nhà cửa, giết Đình Bảo cùng thân thuộc phe cánh. Họ đón Trịnh Tông lên ngôi vương, phong là Nguyên soái Đoan Nam vương. Từ đó, kiêu binh ngày càng càn rỡ, không ai trị nổi. Phe Đặng thị Huệ bị truy lùng và trả thù. Huệ bị truất xuống thứ nhân, sau uống thuốc độc chết, Trịnh Cán bị giáng, ra ở phủ Lượng Quốc, ốm bệnh chết, ở ngôi được một tháng.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top