• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Việt Nam thời dựng nước

Lê uy mục ( 1505 – 1509)

Niên hiệu : Đoan Khánh

Túc Tông không có con nối nghiệp nên trước khi mất đã truyền ngôi lại cho người anh thứ hai của mình là Tuấn, Tuấn còn có tên húy nữa là Huyên, sinh ngày 5 tháng 5 năm Mậu Thân ( 1488), là con của Chiêu Nhân Hoàng thái hậu họ Nguyễn, húy là Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn ( nay thuộc Đông Anh – Hà Nội). Bà lúc nhỏ mồ côi cha, nhà nghèo, tự bán mình cho người ở phủ Phụng Thiên ( Hà Nội), vì nhà người ấy có tội, bà lại bị sung làm nô tỳ nhà nước, do đó được đưa vào hầu Quản Ninh hoàng hậu, khi ấy Hiến Tông còn làm Thái tử, thấy nàng có sắc đẹp, để lòng yêu rồi lấy làm phi. Bà phi này sinh ra Tuấn rồi mất sớm.

Sau khi vua Túc Tông qua đời, trong triều có nhiều phái tranh ngôi báu, Thái hoàng thái hậu ( mẹ của Hiền Tông, bà của Túc Tông) thì muốn lập Lã Côi Vương vì bà cho rằng Tuấn là con của kẻ tỳ thiếp không xứng đáng được nối ngôi, trong khi đó mẹ nuôi của Tuấn là Kính Phi ( họ Nguyễn người xã Hoa Lăng, huyện Thủy Đường) và nội thần Nguyễn Nhữ Vi muốn lập Tuấn ( tức Uy Mục). Ý định của thái hoàng thái hậu không thành, sau khi lên ngôi, Uy Mục sai người giết thái hoàng thái hậu và một loạt các đại thần đã không ủng hộ mình như Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật…

Uy Mục lấy hiệu là « Quỳnh lâm động chủ ». Từ lúc lên ngôi Uy Mục trở nên người ham rượu chè, gái đẹp, thích giết người. Phó sứ nhà Minh là Hứa thiên Tích khi sang sách phong, trông tướng mạo Uy Mục đã đề ra hai câu thơ :

An Nam tứ bách vận vưu trường
Thiên lý như hà giáng quỷ vương ?

( Vận nước An Nam còn dài bốn trăm năm, ý trời sao lại sinh ra vua quỷ ?)

Đêm nào Uy Mục cũng vào cung cùng với cung nhân uống rượu vô độ, ai say thì giết. Quyền hành trong triều rơi vào tay họ ngoại, phía Đông thì làng Hoa Lăng ( quê của mẹ nuôi, phía Tây thì làng Phù Chẩn ( quê mẹ đẻ), đều chuyên cậy quyền thế, dìm hãm thần liêu, có khi vì tư ý mà giết hại sinh dân, có khi dùng ngón kín mà yêu sách tiền của, phàm súc vật hoa màu của dân gian đều cướp cả, nhà dân ai có đồ lạ vật quý thì đều đánh dấu chữ vào để lấy. Uy Mục còn ra lệnh cho giết hết những người Chiêm bị bắt làm gia nô trong các điền trang của thế gia, công thần.

Sự tàn bạo quá đáng của Uy Mục đã gây nên một làn sóng bất bình trong hàng ngũ quan lại, dòng dõi họ Lê. Tháng 11 năm Kỷ Tỵ ( 1509), được sự giúp đỡ của Nguyễn Văn Lang ( bà con với Trường lạc hoàng thái hậu - người đã bị Uy Mục cho đánh thuốc độc chết), Giản tu Công Oanh giả xưng là Cẩm giang vương dựng cờ chiêu an. Họ đề cử Lương Đắc Bằng thảo tờ hịch dụ các đại thần và các quan rằng « Bạo chúa Lê Tuấn, phận con thứ kém hèn, làm nhơ bẩn nghiệp lớn, lần nữa gần được 5 năm, tội ác đã đến muôn vẻ. Giết hại người xương thịt, dìm hãm các thần liêu…Tước đã hết rồi mà thưởng bậy không ngớt, dân đã cùng rồi mà vơ vét không thôi…Tiêu tiền như bùn đất, bạo ngược ngang với Tần Chính… » Từ Tây Đô, Giản Tu Công Oanh đem quân chiếm lại Đông Kinh ( Hà Nội ), bắt được và bắt Uy Mục tự tử tháng 12 năm Kỷ Tỵ ( 1509) Giản Tu Công Oanh cho người lấy súng lớn, đặt xác Uy Mục vào miệng súng, súng nổ làm tan hài cốt, chỉ lấy tro tàn đem về chôn tại quê mẹ Uy Mục là làng Phù Chẩn. giáng Uy Mục xuống làm Mẫn Lệ Công. Đến năm Đinh Sửu ( 1517) mới được truy tôn là Uy Mục đế.

Như vậy Uy Mục đế ở ngôi 5 năm, thọ 22 tuổi. Sử thần Triều Lê Bàn rằng. Mẫn Lệ Công tín nhiệm ngoại thích, bạo ngược vô đạo, giết hại tôn thất, tàn hại nhân dân, tự chuốc họa diệt vong, chẳng cũng đáng sao !
 
Lê tương dực ( 1510 – 1516)

Niên hiệu : Hồng Thuận

Lê Tương Dực húy là Oách, lại có tên nữa là Trừ, là cháu nội Lê Thánh Tông, con thứ hai của Kiến Vương Tân. Ông sinh ngày 25 tháng 6 năm Ất Mão ( 1455). Mẹ là Huy từ kiến Hoàng thái hậu, họ Trịnh húy là Tuyên, người làng Thủy Chú, huyện Lôi Dương ( tức Thọ Xuân, Thanh Hóa). Dưới thời vua Hiến Tông, ông đường phong là Giản Tu Công, đến khi Uy Mục đế giết hại công thần và người tôn thất, ông cũng bị bắt giam, nhưng may chốn thoát chạy vào Tây Đô ( Thanh Hóa). Tháng 11 năm 1509, ông cùng với Nguyễn Văn Lăng và các quần thần đem quân ra Đông Kinh giết Uy Mục rồi tự lập làm vua.

Sau khi lên ngôi tháng giêng năm Canh Ngọ ( 1510), bàn công những người ứng nghĩa, ông cho Nguyễn Văn Lăng làm Nghĩa Quốc công, những người khác như Nguyễn Hoàng Dụ, Trịnh Duy Đại và Trịnh Duy Sản cũng được phong chức tước khác nhau.

Một việc làm đáng chú ý duy nhất của vua Tương Dực là ban « Trị bình bảo phạm », gồm 50 điều vào tháng 4 năm Tân Mùi ( 1511), trong đó nêu lên việc củng cố kỷ cương, giáo hóa, cẩn thận hình phạt để ngăn ngừa lòng dân, khắc phục tình trạng rối loạn mục nát do đời Đoan Khánh gây ra. Song ngoài việc làm trên, Lê Tương Dực không thi thố thêm được việc gì cụ thể để khắc phục tình trạng đất nước ngày càng thêm hỗn loạn. Các cuộc nổi dậy của các lực lượng phong kiến địa phương ngày càng lan rộng…

Không những thế, bản thân Lê Tương Dực cũng lao vào con đường ăn chơi trụy lạc, chẳng thế mà tháng Giêng năm Quý Dậu ( 1513) chánh sứ nhà Minh là Trần Nhược Thủy và phó sứ là Phạm Huy Tăng sang phong cho Tương Dực làm An Nam quốc vương đã thấy Tương Dực mà nhận xét « Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lệch, tính thích dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không bao lâu ».

Quả vậy, tháng 5 năm Giáp Tuất ( 1514) vua nghe lời tâu vua Hiệu úy Hữu Vĩnh, giết chết 15 vương công, cho gọi các cung nhân của Mẫn Lệ công và triều trước để gian dâm. Năm Bính Tý ( 1516). Vua cho đắp thành mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ, chùa thiên Hoa…Chắn ngang sông Tô Lịch…Lại làm điện hơn trăm nóc, đóng thuyền chiến, sai bọn nữ sử cởi truồng trèo thuyền ở Hồ Tây cùng vua chơi vui đùa, lấy làm thích thú.

Bấy giờ, trước tình hình đó, các thế lực phong kiến địa phương như Trần Cảo nổi lên, Trịnh Duy Sản nhiều lần can ngăn. Vua không nghe lại còn đem Sản phẩm ra đánh bằng trượng, Duy Sản bàn cùng với quần thần khác như Lê Quảng Độ, Trịnh Chí Sâm mưu việc phế lập. Tháng 4 năm Bính Tý ( 1516), Trịnh Duy Sản sai người đâm chết Tương Dực, đem thiêu xác, Khâm Đức Hoàng hậu cũng tự nhảy vào lửa mà chết. Quân sĩ đem quan tài về chôn ở lăng Ngự thiên, giáng Tương Dực xuống làm Ẩn Linh vương.

Như vậy Tương Dực ở ngôi được 7 năm, thọ 24 tuổi.

Sử thần bàn rằng. Linh Ẩn vương gian dâm với vợ lẽ của cha, để tang cha mẹ ít, mượn tên của anh để cướp nước, xa hoa dâm dục quá độ, hình phạt thuế khóa nặng nề, giết hết các thân vương, giặc cướp nổi dậy khắp nơi, đương thời gọi là vua lợn, điềm nguy vong đã hiện ra vậy !
 
Lê chiêu tông ( 1516 – 1522)

Niên hiệu : Quang Thiệu.

Vua húy là Y, lại có tên nữa là Huệ, cháu bốn đời của Lê Thánh Tông, cháu đích tôn của Kiến vương Tân, con trưởng của Cẩm giang vương Sùng. Mẹ là Hoàng hậu Trịnh Thị Loan, người xã Phi Bạo, huyện Thanh Chương ( Nghệ An). Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm Bính Dần ( 1506), khi Trương Dực đế bị giết năm Bính Tý ( 1516), không có con nối, quan đại thần là Lê Nghĩa Chiêu, Trịnh Duy Sản đón lập lên làm vua, khi đó ông mới 11 tuổi. Nhưng khi đó kinh thành bị tàn phá, Trịnh Duy Sản phải rước vua vào Tây Kinh, Trần Cảo thấy kinh thành bỏ không đã chiếm lấy và tự xưng làm vua. Thấy vậy, triều đình sai Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Tuy…vây đánh Trần Cảo, Trần Cảo phải chạy lên đất Lạng Nguyên ( Lạng Sơn).

Triều Lê sau khi dẹp tan được loạn Trần Cảo thì nội bộ càng lục đục, đánh giết lẫn nhau. An Hòa hầu Nguyễn Hoàng Dụ và Vĩnh Hưng bá Trịnh Tuy đem quân đánh nhau liên miên. Dân chúng khổ sở cảnh loạn lạc, đầu rơi máu chảy. Giặc bên ngoài chưa yên, các quan thần đánh lẫn nhau, giết nhau dưới cửa khuyết, máu giây đầy chốn kinh sư, mặt trời vàng tối, vận nước ngày một suy.

Trước tình hình đó, Nho giáo ngày một suy vi, nhường chỗ cho Phật giáo và Đạo giáo cùng các thứ ma thuật ngày càng phát triển.

Trong đó các thế lực phò lập vua, mỗi người đều có mưu đồ riêng. Càng về sau, bằng tài năng quân sự nổi bật và sự khôn khéo thâu tóm quyền hành. Mạc Đăng Dung đã ngày càng trở thành một nhân vật cột trụ trong triều. Vua Lê Chiêu Tông phải tự thân hành đến phủ đệ của Mạc Đăng Dung gia phong cho ông làm thái phó…Quyền uy của Mạc Đăng Dung ngày một lớn, người người đều hướng về họ Mạc Đăng Dung cho con gái nuôi vào hầu vua thực ra để dò xét coi giữ. Con trưởng của Đăng Dung là Đăng Doanh làm chức Dục Mỹ hầu trông coi điện Kim Quang. Từ đó Đăng Dung đi bộ thì che lọng phượng dát vàng, đi thủy thì thuyền rồng dây kéo, ra vào cung cấp như đi vào chỗ không người, không kiêng sợ gì…

Trước tình cảnh ấy, vua Chiêu Tông mưu ngầm với Trịnh Tuy tìm cách để triệt hạ thế lực của họ Mạc. Kế hoạch bại lộ, vua bỏ chạy khỏi kinh thành, Mạc Đăng Dung bèn cùng với các quần thần khác lập em của Chiêu Tông tên là Xuân lên ngôi vào ngày 1 tháng 8 năm Nhâm Ngọ ( 1522). Chiêu Tông thì bị giáng xuống làm Đà Dương vương rồi bị giết. Như vậy Chiêu Tông ở ngôi được 7 năm, thọ 26 tuổi.
 
Lê cung hoàng

Niên hiệu : Thống Nguyên

Vua mới có tên là Xuân, còn có tên nữa là Khánh, cháu bốn đời của Thánh Tông, là em cùng mẹ với Chiêu Tông, sinh ngày 26 tháng 7 năm Đinh Mão ( 1507). Khi Chiêu Tông chạy khỏi hoàng cung, Mạc Đăng Dung lập ông lên làm vua, lúc đó 16 tuổi, vì sợ Chiêu Tông ở ngoài hiệu triệu binh mã về đánh nên Mạc Đăng Dung không dám đóng tại kinh thành mà phải đón Hoàng đệ Xuân về Gia Phúc ( Hải Dương) và chuyển hết của báu trong thành về đấy, phong quan tiên tước cho các quan. Sau khi đánh bại các cánh quân Cần Vương của Chiêu Tông, mùa xuân năm Quý Mùy ( 1523) Đăng Dung đưa vua Cung hoàng về đóng ở thành dinh Bồ Đề, cho các quan vào chầu. Năm đó, triều đình vẫn cho mở khoa thi hương, thi hội ở bãi giữa sông Nhị. Vua ra đầu đề « Về đạo làm vua làm thầy ». Nhưng bất chấp đạo làm tôi, tháng 7 năm đó, Đăng Dung dùng chiếu lệnh của Cung đế, phế bỏ vắng mặt Chiêu Tông xuống tước Đà Dương vương. Năm sau, Giáp Thân Đăng Dung tự mình thăng lên tước Bình Chương quân quốc trọng sự thái phó Nhân quốc công. Tháng 10 năm Ất Dậu ( 1525) Đăng Dung tự làm đô tướng dẫn tất cả thủy lục quân vào đánh Thanh Hóa. Vua Chiêu Tông bị bắt đưa về kinh sư, và bị giết vào tháng 12 năm Bính Tuất ( 1526).

Sau sự kiện bi thảm đó, Mạc Đăng Dung rút lùi về Cổ Trai, nhưng trong thực tế vẫn chế ngự triều đình. Năm Đinh Hợi ( 1527), Mạc Đăng Dung tự thăng tước Thái sư An Hưng vương, gia thêm cử tú. Tháng 4 năm Đinh Hợi ( 1527), Cung hoàng sai Trùng dương hầu Vũ Hữu, Lan xuyên bá Phan Đình Tá và Trung sứ Đỗ Hiếu Đễ cầm cờ mao tiết mang kim sách và mũ áo ô lọng, đại ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, tán tía đến làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng Vương. Mạc Đăng Dung đón tiếp sứ bộ của nhà vua, ở bến đò An Tháp, huyện Tân Minh ( Tiên Lãng, Kiến An ngày nay). Vua còn tặng Mạc Đăng Dung bài thơ « Chu công giúp thành Vương » có ý khuyên Mạc Đăng Dung hãy giúp vua và triều đình theo gương Chu Công đời xưa.

Mặc dù được vua ân sủng hậu đãi và giao phó trọng trách, Mạc Đăng Dung vẫn không chịu dừng lại ở tước vương, mà vẫn chớp thời cơ giành ngôi cho họ Mạc. Ngày 15 tháng 6 năm Đinh Hợi ( 1527), Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào kinh bắt vua phải nhường ngôi, giáng vua Lê xuống làm Cung vương, bắt giam Vua cùng với Hoàng thái hậu ở cung Tây Nội, sau đó vào tháng bắt buộc thái hậu và Cung vương phải tự tử. Trước khi chết, Thái hậu khấn trời rằng. « Đăng Dung là kẻ bề tôi, manh tâm cướp ngôi, lại giết mẹ con ta, con cháu mày sau này cũng thế ». Mạc Đăng Dung sai đem xác hai mẹ con nhà vua bày ra quán Bắc Sơn, rồi đem về chôn ở lăng Hoa Dương, huyện Ngự Thiên ( nay thuộc xã Mỹ Xá, huyện Hưng Hà, Thái Bình) theo nghi lễ của thiên tử và Hoàng hậu. Như vậy là Cung Hoàng ở ngôi được đúng 5 năm, thọ 21 tuổi.

Nhận xét về ông vua này, sứ thần triều Lê đã viết « Lúc ấy vận nước đã suy, lòng người đã lìa, tài vua lại vào hạng kém, có thể dẹp yên sao được ».

Như vậy là triều Lê kể từ Lê Thái Tổ lên ngôi ( 1428) đến Cung Hoàng ( 1527) gồm 10 đời vua, cả thảy đúng 100 năm. Nếu tính cả thời gian Lê Lợi dấy quân xưng là Bình Định vương năm Mậu Tuất ( 1418) cộng là 110 năm, đây là thời kỳ vua Lê nắm được trọn quyền cai trị đất nước. Các nhà sử học thời Lê Sơ để phân biệt với Lê Trung Hưng về sau.

Các đời vua triều Lê Sơ đã trải qua :
1> Lê Thái Tổ ( 1428 – 1433)
2> Lê Thái Tông ( 1434 – 1442)
3> Lê Nhân Tông ( 1443 – 1459)
4> Lê Thánh Tông ( 1460 – 1497)
5> Lê Hiến Tông ( 1497 – 1504)
6> Lê Túc Tông ( 1504)
7> Lê Uy Mục ( 1505 – 1509)
8> Lê Tương Dực ( 1510 – 1516)
9> Lê Chiêu Tông ( 1516 – 1522)
10>Lê Cung Hoàng ( 1522 – 1527)
 
Triều mạc ( 1527 – 1592)

MẠC ĐĂNG DUNG ( 1527 – 1592)

Niên hiệu : Minh Đức


Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương ( Hải Dương). Cụ tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi, một người nổi tiếng về văn chương đã thi đậu trạng nguyên dưới thời Trần, làm quan đến chức nhập nội hành khiển, thượng thư môn hạ tả bộc xạ. Ông đã từng đi sứ sang Trung Quốc, đối đáp rất thông minh, nhà Nguyên phải nể phục. Đĩnh Chi sinh ra Dao, làm quan Tư hình Viện đại phu, Dao sinh bốn người con trai tên là : Địch, Thoan, Thúy và Viễn, người nào cũng có tài năng và sức khỏe. Cuối đời nhà Hồ vì bất đắc chí họ đem con em đến hàng giặc Minh rồi ra làm quan cho nhà Minh. Đến đời các ông Tung, Bình đến Hịch thì không có ai hiển đạt. Hịch lấy con gái Đặng Xuân người cùng làng, tên là Đặng Thị Hiến, sinh được ba trai. Mạc Đăng Dung là trưởng, rồi đến Đốc, và Quyết, hai em của Mạc Đăng Dung đều làm quan, khi Mạc Đăng Dung lên ngôi vua thì phong cả hai em tước vương.

Đăng Dung sinh giờ Ngọ ngày Nhâm Tý ( 23 ) tháng 11 năm Quý Mão ( 1483). Thời trẻ Đăng Dung có sức khỏe lại khôi ngô, tương truyền bà họ Nhữ ( có tham vong muốn có người chồng đế vương) trông thấy Mạc Đăng Dung khi còn hàn vi, dung mạo của Mạc Đăng Dung khiến bà kinh ngạc mà than rằng : « Lúc trẻ chẳng gặp nhau, ngày nay đến đây làm gì » bởi bà biết Mạc Đăng Dung sẽ làm vua, mà bà đã có chồng rồi. Bà họ Nhữ đó về sau chính là mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan, từ một thanh niên nghèo, sống bằng nghề đánh cá, Mạc Đăng Dung đi dự thi môn đấu vật, trúng đô lực sĩ, được sung vào chân túc vệ chuyên cầm dù theo vua. Nhưng Mạc Đăng Dung tiến rất nhanh trên con đường làm quan, năm Tân Mùi ( 1511) mới 29 tuổi đã được phong tước Vũ Xuyên bá. Năm Bính Tý ( 1516), triều đình sai Mạc Đăng Dung làm trấn thủ Sơn Nam, gia phong Phó tướng Tả đô đốc. Trải qua ba đời vua Lê, Mạc Đăng Dung được phong Thái sư Nhân Quốc công rồi đến An Hưng vương. Lợi dụng lúc vua Lê ươn hèn, các quan trong ngoài đều tranh giành xâu xé lẫn nhau, Mạc Đăng Dung âm thầm tranh ngôi vua. Tháng 6 năm Đinh Hợi ( 1527), Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai lên kinh sư ép vua Lê nhường ngôi, lúc này triều Lê đã quá mục nát, mất lòng dân nên số đông hướng về Mạc Đăng Dung đã ra đón Mạc Đăng Dung về kinh. Trong tờ chiếu nhường ngôi của vua Lê ( tất nhiên là người của Mạc Đăng Dung viết) có nói lý do của việc nhường ngôi. Vua Lê hèn kém, đức mỏng, không gánh nổi ngôi trời. Mệnh trời và lòng người hướng về người có đức và người đó, trong thời điểm này, chỉ có Mạc Đăng Dung : Là người tư chất thông minh, đủ tài văn võ, bên ngoài đánh dẹp bốn phương đều phục, bên trong trị nước trăm họ yên vui, công đức lớn lao, trời người đều quy phục. Hôm tuyên đọc tờ chiếu nhường ngôi cũng là lúc Mạc Đăng Dung xem Hoàng đế, ban lệnh đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu mới như mọi ông vua khác khi lên ngôi. Vua Lê bị giáng truất xuống làm cung vương bị tống giam cùng với thái hậu ở cung Tây Nội rồi bị giết chết.

Những ngày sau Mạc Đăng Dung ra ngự ở chính điện, tế trời đất ở Nam Giao, dựng tôn miếu, lấy Hải Dương làm Dương Kinh, lập cung điện ở Cổ Trai, truy tôn ông tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi làm « Kiến thủy Khâm minh văn hoàng đế ». Mạc Đăng Dung muốn tỏ một điều « không phải cứ con vua mới được làm vua », ông cho sửa mộ của cha mình thành Lăng ( cho nên về sau nơi ấy gọi là sứ Mả Lăng). Ông cho lập con trai trưởng là Đăng Doanh làm Thái tử, phong em trai là Quyết làm Tín vương, truy phong em trai là Đốc làm Từ vương, cả ba người em gái đều được phong công chúa. Em gái lớn tên Ngọc là Trang Hoa công chúa, thứ đến tên Huệ là Khánh Diệm công chúa và em út Ngọc Di là Tú Hoa công chúa. Cùng với việc phong tước cho con, anh em họ Mạc, vua còn phong tước cho một loạt bầy tôi có công tôn phò.

Về đối ngoại, để tranh thủ nhà Minh, vua Mạc sai sứ đem biểu sang Yên Kinh nói :

Con cháu họ Lê không còn ai thừa tự, cho nên di chúc lại cho Đại thần họ Mạc tạm quản việc nước, để yên dân.

Nhà Minh sai người sang dò xét thực hư, Mạc Đăng Dung cùng các bầy tôi khác dùng vàng bạc lót những viên tướng biên thùy nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ của họ. Vì thế, năm Kỷ Sửu ( 1529) hai anh em Trịnh Ngung và Trịnh Ngang là cựu thần nhà Lê chạy sang cầu viện nhà Minh song không thành. Hai viên quan đó đều chết già trên đất Trung Hoa.

Đề hoàn thiện việc thiết lập một triều đại mới, Mạc Đăng Dung không những phải chống chọi với phản ứng của đông đảo các cựu thần nhà Lê mang nặng đầu óc trung quân, mà phải trọn những người trẻ tuổi gánh vác việc nước. Vì vậy bắt trước các vua Trần, tháng 12 năm Kỷ Sửu ( 1529) Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Đăng Doanh làm vua được 3 năm, lúc này mới 46 tuổi.
 
Mạc đăng doanh ( 1530 – 1540)

Niên hiệu : Đại Chính

Đăng Doanh là con trưởng của Đăng Dung, dưới thời Quang thiệu nhà Lê, Đăng Doanh được phong tước Dục Mỹ hầu, giữ điện Kim Quang. Khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, Đăng Doanh được phong làm Thái tử được 3 năm thì lên ngôi vua. Tháng Giêng năm Canh Dần ( 1530) Đăng Doanh làm lễ đăng quang, đổi niên hiệu là Đại Chính, tôn bà nội là Đặng thị làm thái Hoàng thái hậu, tôn cha là Đăng Dung làm Thái Thượng hoàng. Trước hết Đăng Doanh dựng một ngôi điện nguy nga ở làng Cổ Trai cho Đăng Dung ở, mỗi tháng hai lần vào ngày 8 và 22. Đăng Doanh dẫn quần thần tới trình yết, Đăng Dung tuy về sống cảnh điền viên ở Cổ Trai nhưng ngụ ý là trấn giữ một vùng đất quan trọng làm ngoại viện cho Đăng Doanh và vẫn định đoạt những việc quan trọng của quốc gia. Từ khi Đăng Doanh lên ngôi vua, cũng là lúc ở Thanh Hóa lực lượng trung hưng của nhà Lê do Nguyễn Kim cầm đầu đã nhóm họp và ngày càng lớn mạnh Đăng Doanh nhiều lần trực tiếp cầm quân vào đánh, nhưng không thắng nổi. Quân Lê triều do Nguyễn Kim chỉ huy dựa vào rừng núi Thanh Hóa giáp với Lào để để cố giữ và nuôi dưỡng lực luọng. Mùa xuân năm Quý Tỵ ( 1533) các cựu thần nhà Lê lập Lê Trang Tông lên ngôi vua tại Lào rồi sai sứ vượt biển sang nhà Minh cầu viện. Nhà Minh đưa quân sang đánh nhà Mạc, trước tình hình đó, Mạc Đăng Dung liền sai người mang thư đến tỉnh Vân Nam giải thích lý do họ Mạc lên ngôi và bảo Lê Ninh chỉ là con của Nguyễn Kim mạo xưng họ Lê mà thôi. Thấy rõ đây là cơ hội tiến đến đánh Đại Việt, vua Minh sai tướng Cừu Loan đem một đoàn quân lớn áp sát biên giới phía Bắc nước ta. Như vậy, nhà Mạc rơi vào thế bị ép từ hai mặt : Bắc là nhà Minh và Nam là nhà Lê. Tuy nhiên, trong 10 cầm quyền của Đăng Doanh đã làm được khá nhiều việc mà sử nhà Lê cũng ghi nhận.

Đó là việc rất đều đặn cứ 3 năm một lần tổ chức các kỳ thi Hội, thi Đình để chọn nhân tài. Dưới triều Mạc nhiều trí thức có danh tiếng đã ra thi đỗ đạt cao như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giác Hải, Nguyễn Thiến…Thời Mạc Đăng Doanh trị vì ít nhất có 10 năm đất nước khá bình yên. Phía Bắc nhà Minh cũng chỉ có ý đe dọa, phía Nam quân đội trung hưng nhà Lê chưa đủ mạnh để đưa quân ra Bắc. Để dẹp bọn trộm cướp, Đăng Doanh đưa ra một kế sách này, vua ra lệnh cấm dân chúng các sứ không được mang gươm giáo, dao nhọn và các binh khí đi ngoài đường. Nếu kẻ nào trái lệnh, cho pháp ty bắt trị tội, từ đấy, những người đi buôn bán chỉ đi tay không, không phải đem khí giới tự vệ. Trong khoảng mấy năm luôn thêm được mùa, trộm cắp biệt tăm, súc vật chăn nuôi tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ mỗi tháng kiểm tra một lần, dân bốn trấn đều được yên ổn.

Đăng Doanh chỉ làm vua được 10 năm thì mất, người kế nghiệp Đăng Doanh là Mạc Phúc Hải, Đăng Doanh có 7 con trai, ngoài Phúc Hải được nối ngôi còn con thứ hai là Phúc Tư, phong là Ninh Vương, thứ 3 là Kính Điển phong Khiêm vương, thứ 4 là Lý Tường, thứ 5 là Lý Hòa, thứ 6 là Hiệp Cung và thứ 7 là Đôn Nhượng, phong Ứng vương.

Phúc Hải lên ngôi đặt tên thụy cho cha là Thái Tông khâm triết hoàng đế.
 
Mạc phúc hải ( 1541 – 1446)

Niên hiệu : Quảng Hòa

Cuối đời Mạc Đăng Doanh, quan hệ với nhà Minh lại trở nên căng thẳng, tình hình ở phía Nam cũng nguy cấp. Quân đội Lê trung hưng sau 7 năm chiêu luyện binh mã đủ sức để đánh chiếm Nghệ An và hai năm sau Quý Mão ( 1543) đã kiểm soát được cả Tây Đô ( Thanh Hóa). Mạc Đăng Dung phải trở lại Đông Kinh đưa cháu nội là Mạc Phúc Hải lên nối ngôi năm Tân Sửu ( 1541)

Lúc này, ở Trung Quốc, Minh thế Tông đem việc Nam chinh ra luận bàn, rất nhiều quan lại nhà Minh dâng sớ can vua nên mềm dẻo mà giải quyết việc biên giới phía nam. Rút bài học thất bại của các đời vua trước. Hộ bọ thị lang Đường Trụ dân sớ trình bày 7 điều không nên đánh An Nam, cho rằng các đời vua trước chưa bao giờ thắng lợi ở An Nam kể từ Mã Viện đến Thái Minh Tông…Thị lang Phan Trân lại nói : « Mạc Đăng Dung cướp ngôi Lê cũng như Lê cướp ngôi Trần vậy, nếu Đăng Dung chịu dâng nộp cống thì coi như được »

Vua Thế Tông nhà Minh và lũ triều thần bàn đi bàn lại hàng tháng trời, rút cục vẫn muốn nối chí Minh thành Tổ là chiếm nước Nam làm quận huyện như trước. Vua Minh cử Cửu Loan làm Đô đốc, Mao Bá Ôn làm tham tán quân vụ phụ trách việc đánh dẹp. Hồ Liên, Hộ bộ thị lang và Cao Công thiều đi đốc thúc quân lương ở các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. Quân xâm lược đang ngấp nghé ở biên thùy phía Bắc, nguy cơ một cuộc chiến tranh rất bất lợi cho nhà Mạc là có thật. Nhưng Mạc Đăng Dung cũng biết được nội bộ triều Minh không nhất trí trong việc đánh An Nam, qua viên tướng giữ Châu Liêm và Trương Nhạc, vua Mạc biết là có thể thoát ra khỏi cuộc chiến tranh bằng giải pháp hòa bình. Các tham chính nhà Minh đòi Mạc Đăng Dung phải đích thân đến cửa quân, nộp đấtr dựng mốc, bỏ đế hiệu đã tiếm xưng và theo chính sóc và niên lịch của nhà Minh.

Đó cũng là cái cớ để cho Cừu Loan và Mao Bá Ôn vốn ngoại chinh chiến xuống phương Nam bãi binh, rút bài học từ cha con họ Hồ, Mạc Đăng Dung tuy lúc này đã nhường ngôi cho con tiếp sau là cháu, trở về sống cảnh điền viên ở Cổ Trai, vẫn phải chấp nhận yêu cầu trên , tự trói mình trước phủ quân Minh ở trấn Nam Quan, trả lại 4 động, xin nội phụ…Ông già Mạc Đăng Dung mặc dù lòng không muốn vẫn phải gắng sức cuối cùng chịu nỗi nhục ( khổ nhục kế) để con cháu ông tránh khỏi một cuộc chiến tranh khốc liệt mà chắc chắn là tốn rất nhiều xương máu của cả hai bên.

Sau sự kiện quá sức đó, trở về Cổ Trai sống những ngày còn lại, chẳng bao lâu thì Mạc Đăng Dung mất, đó là một ngày thu tháng 8 năm Tân Sửu ( 1541). Như vậy Mạc Đăng Dung làm vua được 3 năm, làm Thái Thượng hoàng 12 năm, thọ 59 tuổi. Ông có để lại di chúc, không làm đàn chay cúng Phật, khuyên Phúc Hải phải nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm và xã tắc là trọng.

Tháng 10 năm ấy Mao Bá Ôn về đến Yên Kinh tâu với vua Minh việc Mạc Đăng Dung đã tự trói mình dâng lễ hàng ở cửa ải, xin tuân theo chính sóc ( chính sóc, các ngày mùng 1 và rằm hàng Tháng, ngày đăng quang của nhà vua). Nếu xem Mạc Đăng Dung là kẻ có tội đầu hàng mà chưa có thể khinh suất cho tước và đất, thì hãy than tội cho con cháu là Phúc Hải…Còn như Lê Ninh tuy tự xưng là con cháu nhà Lê nhưng tung tích chưa rõ ràng…Thế là tháng 3 năm Nhâm Dần ( 1542) nhà Minh phong Mạc Đăng Dung làm An Nam đô thống sứ ty và cho một quả ấn bạc và cũng tháng 12 năm đó ( 1542) Mạc Phúc Hải lên trấn Nam Quan hội khám và nhận lại lịch đại thống của nhà Minh, một đạo sắc phong nhà Minh lại phong cho Mạc Phúc Hải được lập tướng của ông làm An Nam đô thống sứ ty.

Thời Mạc Phúc Hải, theo lời bàn của thiếu sứ Mạc Ning Bang, đã tiến hành việc chia cấp lộc điền, đặc biệt ưu tiên binh sĩ – một lực lượng quân sự to lớn được nuôi dưỡng để chống lại Nam Triều.

Trong khi đó, tại Nam Triều, quân binh do Lê Trang Tông tự làm tướng đã kéo ra Yên Mỗ ( Ninh Bình), Thái sư Hưng Quốc công Nguyễn Kim bị đánh thuộc độc chết đột ngột, quyền hành lọt vào tay con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm. Lực lượng phía Nam triều ngày càng được củng cố. Mạc Phúc Hải lại thường say mê hát xướng, thích chơi chọi gà, ít quan tâm đến triều chính, mọi mặt giảm sút. Song Phúc Hải làm vua không lâu, ngày 8 tháng 5 năm Bính Ngọ ( 1546), Phúc Hải chết, ở ngôi 6 năm, về sau truy tôn là Hiến Tông Hiển hoàng đế.
 
Mạc phúc nguyên ( 1546 – 1561)

Niên hiệu – Vĩnh Định ( 1547)
Cảnh Lịch ( 1548 – 1553)
Quảng Bảo ( 1554- 1561)


Phúc Nguyên là con trưởng của Phúc Hải, nối ngôi vào tháng 5 năm Bính Ngọ ( 1546). Vì vua mới nối ngôi còn nhỏ tuổi nên mọi công việc triều chính do người chú Khiêm vương Mạc Kính Điển quyết đoán. Nhưng triều Mạc đến đây bắt đầu lục đục, nguyên do khi Phúc Hải mất, tướng nhà Mạc là Phạm Tử Nghi mưu lập Hoàng vương Chính Trung ( là con thứ của Đăng Dung) lên làm vua, việc không thành. Mạc Phúc Nguyên sai Kính Điển và Nguyễn Kính đem quân đi bắt Chính Trung dời về xã Hoa Dương ( xã Trác Dương, Hưng Nhân, Thái Bình), nhưng bị Tử Nghi đánh thua. Sau vì thế Tử Nghi đem Chính Trung ra chiếm cứ miền Yên Quảng rồi trốn vào đất Minh, thả quân đi bắt người cướp của ở Quảng Đông, Quảng Tây, người Minh không thể kìm chế được. Sau họ phải thu xếp cho Chính Trung an cư ở xứ thanh Viễn, hàng năm cấp phát lương thực.

Vì lục đục nội bộ, Chính Trung ở đất Minh đem việc Nguyễn Kính chuyên quyền tâu lên Viên đốc phủ nhà Minh. Nhà Minh nhờ Phúc Nguyên không phải là dòng dõi nhà Mạc, đưa thư đòi khám xét. Vừa mới dẹp xong dư đảng của Tử Nghi ở Hải Dương, Mạc Kính Điển và Lê Bá Ly phải hộ tống Mạc Phúc Nguyên lên cửa Trấn Nam, dùng mọi lời lẽ thuyết phục, được quan chức Lưỡng Quảng bằng lòng cho tập tước, đó là năm Kỷ Dậu ( 1549)

Sau sự kiện ấy có người dâng sớ khuyên Mạc Phúc Nguyên phải biết tự mình trông coi chính sự vì đã lớn tuổi rồi. Dù vậy, Phúc Nguyên không đủ sức điều hành việc nước, phải nhờ cậy vào Lê Bá Ly. Năm Kỷ Dậu ( 1549), vua Mạc phong cho Lê Bá Nghi làm Thái tử, Phung Quốc công, từ đó Bá Nghi trở thành người nắm giữ binh quyền và triều chính, uy thế ngày một lớn, con em trong nhà Bá Ly đều đảm nhiệm trọng trách lớn của triều đình. Và mâu thuẫn giữa các quần thần lại nổi lên, Phạm Quỳnh, Phạm Dao, cả hai cha con trước kia là tôi tớ Lê Bá Ly nay có chút vinh hiển lại ghen tức gièm pha. Mạc Phúc Nguyên đã tin theo Phạm Quỳnh, và thế là cha con Lê Bá Ly đem bộ tướng và quân gia hơn 1 vạn nghìn người trốn vào Thanh Hóa xin hàng vua Lê. Từ đó, phần lớn mưu thần mãnh tướng bỏ nhà Mạc chạy theo Lê. Thanh thế quân Trung Hưng ngày càng trở nên mạnh mẽ. Mạc Phúc Nguyên thấy vậy lấy làm lo sợ, trao hết binh quyền cho chú là Mạc Kính Điển, tự mình rút bảo vệ xứ miền Đông.

Tháng 7 năm Đinh Tị ( 1557), Mạc Phúc Nguyên sai Kính Điển đem quân vào đánh Thanh Hóa. Phạm Quỳnh, Phạm Dao đánh Nghệ An, Quân Mạc thua to, Mạc Kính Điển phải liều nhảy xuống sông, bơi vào ẩn nấp tại hang núi chịu đói, chịu khát suốt 3 ngày, may gặp được người đánh cá cứu sống. Thừa thắng quân Lê – Trịnh huy động hơn 5 vạn quân thủy bộ tổ chức cuộc tấn công ra Sơn Nam, nhưng bị thua, quân Trịnh tan vỡ, bỏ thuyền chạy bộ. Quân Mạc lại sai tướng chẹn lối về, quân Lê – Trịnh chết đến quá nửa, hàng chục viên tướng bị giết, thuyền bè khí giới bỏ lại vô kể.

Đến năm Kỷ Mùi ( 1559) quân Lê – Trịnh lại mở cuộc tấn công ra Bắc, đánh phá các tỉnh hậu phương của Mạc như Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Kinh Bắc, Hải Dương… Mạc Phúc Nguyên phải rút vào phòng thủ, bên ngoài thành Thăng Long đóng trại dọc phía tây sông Nhi, dinh trại liên tiếp, thuyền bè nối hiệu, ngày thì gióng trống báo tin, đêm thì đốt lửa làm hiệu. Bị quân Trịnh đánh trực tiếp vào các huyện Đông Triều, Giáp Sơn, Chí Linh, quân Mạc phải ra huyện Thanh Trì.

Tháng 12 năm Tân Dậu ( 1516), giữa lúc cuộc chiến Trịnh – Mạc đang gay go quyết liệt nhất thì Mạc Phúc Nguyên chết vì bị bệnh đậu mùa. Ông vua trẻ này ở ngôi được 18 năm. Đặt niên hiệu 3 lần.
 
Mạc hậu hợp ( 1562 – 1592)

Niên hiệu : Thuần Phúc ( 1562 – 1565)
Sùng Khang ( 1566 – 1577)
Diên Thành ( 1578 – 1585)
Đoan Thái ( 1586 – 1587)
Hưng Trị ( 1590)
Hồng Ninh ( 1591 – 1592)


Mạc Hậu Hợp là con cả của Phúc Nguyên, sinh năm Nhâm Tuất ( 1562). Khi lên ngôi mới hai tuổi phái lấy Ứng vương Mạc Đôn Nhượng ( con trai Mạc Đăng Doanh) làm phụ chính. Năm ấy ( 1562), họ Mạc ngờ thái bảo Văn Quốc công Phạm Dao có lòng khác bèn giết đi.

Năm Giáp Tý ( 1564), con trưởng của Mạc Kính Điển là Đoan Hùng vương Mạc Kính Chỉ ngầm tư thông với mẹ kế, việc bại lộ, phải giáng xuống làm thứ dân. Mạc Kính Điển cho lấy con thứ là Mạc Kính Phu làm Đường An Vương, giao giữ việc binh. Đến khi Kính Điển chết, vua Mạc lại cho Kính Chỉ phục lên tước Công, nhưng không cho giữ binh quyền.

Năm Bính Dần ( 1566) Mạc Mậu Hợp dời về quán ở Bồ Đề, sai Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Giáp Hải và Đông các hiệu thư Phạm Duy Quyết lên địa đầu Lạng Sơn đón sứ thần Lê Quang Bí về nước. Nguyên là vào năm Mậu Thân ( 1548) Quang Bí được cử đi sứ lo việc cống tiến hàng năm. Ông đến Nam Ninh, bị người nhà Minh ngờ là quan giả mạo, bắt phải chờ để tra xét thực hư. Nhưng rồi Quang Bí cứ phải lưu tại sứ quán chờ minh xét, bấy giờ Phúc Nguyên mấy năm liền bỏ việc cống nên không dám tâu xin. Đến năm Quý Hợi ( 1563) viên quan ở Lưỡng Quảng mới sai người đưa Quang bí 25 lạng bạc để thưởng công lao và tiếp tục cuộc hành trình của sứ bộ. Khi Quang Bí tới Bắc Kinh lại bị lưu giữ chờ đợi ở sứ quán. Mặc dù chờ đợi rất lâu nhưng Quang Bí vẫn kính cẩn giữ mệnh chúa, không tỏ bực tức. Thấy vậy viên Đại học sĩ nhà Minh là Lý Xuân Phương vừa nể phục vừa thương tình mới tâu vua Minh cho dân nộp lễ phẩm và cho Quang Bí về nước. Cuộc đi sứ của Quang Bí chiếm kỷ lục về thời gian đi sứ trong lịch sử ngoại giao nước Nam, cả đi về và chờ đợi hết 18 năm. Lúc ra đi tóc mây xanh mướt, khi trở về râu tuyết bạc phơ ! Người nhà Minh ví ông như Tô Vũ xưa đi sứ sang Hung nô !

Về đến Đông Kinh, Bí được phong Tô Quận công.

Tháng 10 năm Quý Dậu ( 1573), Mạc Mậu Hợp mới 12 tuổi, từ đến Bồ Đề qua sông vào Đông Kinh, đắp thành ở ngoài cửa Nam, dựng một ngôi điện bằng tranh trẻ để ở. Thế rồi năm Đinh Sửu ( 1577), Mạc Dậu Hợp 16 tuổi, lấy con gái của Cẩm y thư vệ sự Phú Sơn hầu Vũ Văn Khuê là nàng Vũ thị Hoành làm vợ, lập làm Chính phủ.

Vào thời điểm này, ở phía Nam triều, Trịnh Kiểm đã chết, binh quyền vào tay Trịnh Tùng. Vua Lê và Trịnh Tùng sống với nhau khá hòa thuận, chính sự được chỉnh đốn, quân sĩ tinh tráng khỏe mạnh, khí thế đang lên. Còn phía Bắc triều, sau khi vào Đông Kinh, Mạc Hậu Hợp ham chơi bời, say đắm tửu sắc, không để ý gì đến việc nước. Rất nhiều sớ của các quan khuyên răn Mạc Mậu Hợp bớt dâm dục chơi bời, nhưng vô hiệu.

Ngày 21 tháng 2 năm Mậu Dần ( 1578), Mạc Mậu Hợp bị sét đánh vào cung, liệt nửa người, chữa mãi mới khỏi. Lúc này rất nhiều người trước kia hy vọng những gì tốt đẹp ở vương trình mới, đã ra thi thố tài năng giúp việc, đều chán nản, muốn rút về ở ẩn.

Thấy Giáp Trừng là người hết lòng, Mạc Mậu Hợp phong chức thượng thư Lại bộ Luân Quận công. Ơng kiên quyết từ chối…nhưng Mạc Mậu Hợp không chấp nhận.

Tháng 10 năm Canh Thìn ( 1580), Mạc Kính Điển, người có uy quyền danh vọng và là trụ cột của triều đình Mạc qua đời, lòng người hoang mang. Chính bệnh hiểm nghèo, khó bề tránh khỏi bại vong, quan lại hèn nhát, cơ hội và vô trách nhiệm chỉ ham đục khoét làm giàu. Triều thần thì không hiến được kế sách gì để chống lại địch. Ứng vương Mạc Đôn Nhượng giữ quyền phụ chính quyết định mọi việc nhưng lại về sống ở Dương kinh, vì thế việc triều bê bối không ai quyết đoán. Các quan có việc đến yết kiến bẩm báo, vua không giải quyết nổi. Còn quan phụ chính thì khó gặp. Từ đó triều thần trễ nải, không tới công đường, tránh né không chịu bàn việc.

Hàng đống sớ tấu tâm huyết gửi lên khuyên Mạc Mậu Hợp thay đổi chính sự, song vô hiệu.

Năm Tân Tỵ ( 1581), Mạc Mậu Hợp lại bị chứng bệnh « thông manh », mắt mờ không rõ, sau chữa mãi mới khỏi. Khỏi bệnh, Mậu Hợp lại lao vào ăn chơi. Năm Nhâm Ngọ ( 1582), Mậu Hợp cho dựng một ngôi điện, gọi là điện Giảng học, danh nghĩa là vậy thực ra đấy là nơi yến tiệc, chơi bời. Ngôi điện vừa làm xong thì một buổi tối hỏa hoạn, cháy rụi. Năm Đinh Dậu ( 1585), Mạc Mậu Hợp vào ở hẳn trong kinh thành Thăng Long, sai tu sửa kinh thành, xây dựng với quy mô lớn, công việc xây dựng rất khẩn trương ( xong trong 1 năm ). Vào thành, Mạc Mậu Hợp chỉnh đốn xe ngựa, mở triều ban văn võ…Thăng Giáp Trừng, Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lên các chức vị cao sang nhất, nhưng họ viện lý do từ chối hoặc xin nghỉ việc. Ngay cả ông chú của Mạc Mậu Hợp là Mạc Đôn Nhượng cũng xin giải nhiệm.

Năm Đinh Hợi (1587), Mạc Hậu Hợp lại một lần nữa tu bổ gia cố thành Thăng long và chỉnh trang các đường phố. Họp lại các xứ Tây ( Sơn Tây) và xứ Nam ( Sơn Nam) đắp lũy đất, trồng tre gai chạy suốt từ sông Hát xuống Hoa Dinh dài chừng vài trăm dặm. Đây là công trình phòng ngự của Mạc Hậu Hợp, sau đó theo lời khuyên của Giáp Trừng, vua Mạc còn cho đắp thêm ba lũy đất ở bên ngoài thành Đại La từ Nhật Chiêu qua Tây Hồ và Cầu Dền đến tận bến Thanh Trì. Các lũy này cao hơn thành cũ Thăng long tới vài trượng, rộng 25 trượng, 3 lần hào, cắm chông gai, bao vây thành ngoài.

Nhiều việc trái luân thường đã xảy ra trong triều thần họ Mạc. Năm Canh Dần ( 1590), vợ Mạc Kính Chỉ không chịu kém chồng, tư thông và ẩn trốn tại nhà Hoàng Quận công, là tướng dưới quyền chồng mình. Việc vỡ lở, cả hai đều bị giết. Chính sự triều đình Mạc Hậu Hợp ngày càng đổ nát, binh lực suy yếu, lòng người ly tán.

Giữa lúc đó, quân đội Lê – Trịnh tấn công liên tiếp vào hậu cứ quân Mạc. Có lúc đã phải huy động lực lượng chống trả đến 10 vạn quân, nhưng nhà Mạc vẫn thua trận, Mạc Mậu Hợp lại bỏ kinh thành Thăng Long sang Bồ Đề, chia quân giữ phía Bắc sông Cái để tự vệ.

Khốn đốn là vậy mà Mạc Mậu Hợp vẫn lao vào ăn chơi trác táng. Thấy Nguyễn Thị Niên, con gái của Nguyễn Quyện, vợ trấn thủ Nam đạo Sơn quận công, Bùi Văn Khuê, em gái Hoàng hậu xinh đẹp, Mạc Mậu Hợp đem lòng yêu mến và muốn « mía ngọt đánh cả cụm », bèn ngầm tính kế giết Bùi Văn Khuê – một tướng tài thống lĩnh toàn bộ lực lượng thủy quân của Mạc – để cướp vợ Khuê. Biết âm mưu ấy, vợ Văn Khuê mật báo cho chồng. Văn Khuê đem quân bản bộ về giữ hạt Gia Viễn, chống lại lệnh vua Mạc, Mạc Mậu Hợp mấy lần vời không được phải cho quân tướng đến hỏi tội Văn Khuê. Văn Khuê, một mặt đem quân chống giữ, mặt khác cho con là Bùi Văn Nguyên vào hàng quân Trịnh rất mừng, thu nhận ngay và cho quân ra cứu Văn Khuê. Thế là thủy quân, chỗ mạnh nhất của binh lực nhà Mạc do Bùi Văn Khuê nắm giữ đã lọt vào tay quân Trịnh, Trịnh Tùng được Văn Khuê giúp rập rõ ràng chiến thắng đã ở trong tay ! ư.

Cái mà Trịnh Tùng thiếu là thủy quân, nay đã có Bùi Văn Khuê, Tùng liền mở một loạt nhiều đợt tấn công bằng đường thủy xuống vùng Kinh Dương của nhà Mạc. Ngày 25 tháng 11 năm Nhâm Thìn ( 1592), thủy quân Trịnh gồm 300 chiếc thuyền đánh vào huyện Kim Thành, Mạc Mậu Hợp bỏ chạy, quân Trịnh thu được rất nhiều vàng bạc của cải, đò dùng và con gái, bắt thái hậu mà Mạc giải về Thăng Long. Tới sông Bồ Đề, thái hậu nhà Mạc nhảy xuống sông tự vẫn. Mạc Mậu Hợp sợ đến mức phải trao hết quyền binh cho con trai là Toàn lên làm vua còn mình thì chạy chốn.

Quân Trịnh thừa thắng phá tan quân của Mạc Kính Chỉ ở Tân Mỹ thuộc Thanh Hà, thu chiến thuyền và khí giới vô kể. Nhà cửa và các phủ Hạ Đồng, Nam Sách, Kinh Môn, lửa cháy rực trời, dư đảng của nhà Mạc kéo nhau đến doanh trại quân Trịnh xin hàng.

Mạc Mậu Hợp chạy trốn tại một ngôi chùa ở huyện Phượng Nhãn ( Bắc Ninh). Quân Trịnh sục tới, dân địa phương cho biết Mạc Mậu Hợp đóng giả sư ông, đến ẩn ở chùa Mô Khuê đã 11 ngày. Quân Trịnh đến chùa, thấy Mạc Mậu Hợp nghiễm nhiên ngồi xếp bằng, đang tụng kinh. Lính Trịnh gạn hỏi, Mạc Mậu Hợp giả bộ ấm ớ đáp. Bần tăng tu hành từ hồi còn trẻ tuổi ở am mây này chén muối đĩa rau hàng ngày trai dưỡng, thắp hương thờ phật, công đức chuyên làm. Quân sĩ thấy nhà sư ăn nói hoạt bát, khéo léo, biết chắc là Mạc Mậu Hợp liền bắt giữ ngay. Mạc Mậu Hợp biết không thể thoát được, bèn thú thực. Mấy ngày nay, tôi ẩn nấp trong rừng rậm, quá đói khát, dám xin một bình rượu uống cho đã, quân sĩ cấp cho bình rượu. Uống xong, Mạc Mậu Hợp ngậm ngùi than rằng.

Nghiệp chướng quá sâu ! Nay cầu làm một người dân thường, cũng không thể được. Tội lỗi chỉ vì tổ tiên đã làm sự giết vua cướp ngôi, đến nỗi con cháu ngày nay phải mắc tội nặng như vậy. Mong tướng sĩ dẫn tôi đến trước hoàng đế, để bày tỏ thực tình. Đó là lòng tôi rất mong muốn.

Quân Trịnh dùng voi chở Mạc Mậu Hợp và hai kỹ nữ, giải về kinh sư. Sau đó, Mạc Mậu Hợp phải chịu treo trống ba ngày, xong chém đầu ở bãi cát Bồ Đề, thủ cấp hiến hoàng đế nhà Lê ở hành tại Vạn Lại xứ Thanh Hóa, bị đóng đinh đem bêu ngoài chợ.

Mạc Mậu Hợp lên ngôi lúc 2 tuổi, ở ngôi 29 năm, khi chết 31 tuổi.

Con trai Mạc Mậu Hợp là Toàn, được Mạc Mậu Hợp nhường ngôi, tự xưng là Vũ An, nhưng không được nhân tâm ủng hộ, thế cô, ngầm trốn cũng bị quân Trịnh bắt được đem chém đầu tại bến thảo Tân.

Như vậy là họ Mạc từ Đăng dung đến Mạc Mậu Hợp truyền ngôi được 5 đời thì mất, tổng cộng được 66 năm.

Sau đó con cháu nhà Mạc rút lên Cao Bằng, theo sấm Trạng Trình, họ Mạc còn kéo dài được đến 96 năm nữa mới bị mất hẳn. Về sau, con cháu nhà Mạc không xưng đế mà chỉ trấn thủ ở vùng núi phía Bắc. Sử nhà Lê chép vào tháng 7 năm Giáp Ngọ ( 1694), Đà quốc công nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn trước khi qua đời để lại thư khuyên Mạc Kính Cung rằng. Nay họ Mạc khí vận đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời. Dân ta vô tội mà mắc tội binh đao, sao lại nỡ thế. Bọn ta nên tránh ở nước khác, chứa nuôi uy sức, chịu khuất đợi thời, xem khi nào mệnh trời trở lại mới có thể làm được. Rất không nên lấy sức chọi sức, hai co hổ đánh nhau tất có một con bị thương, không được việc gì. Nếu thấy quân họ đến thì nên tránh, chớ có đánh nhau, cốt phải giữ cẩn là hơn. Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta, để đến nỗi dân ta phải chịu lầm than, đó cũng là tội không gì nặng bằng.

Đến năm Mậu Thìn ( 1688), những dư đảng cuối cùng của nhà Mạc mới bị triều Lê – Trịnh dẹp yên.

Các đời vua Mạc

1> Mạc Đăng Dung ( 1527 – 1529)
2> Mạc Đăng Doanh ( 1530 – 1540)
3> Mạc Phúc Hải ( 1541 – 1546)
4> Mạc Phúc Nguyên ( 1546 – 1561)
5> Mạc Mậu Hợp ( 1562 – 1592)
 
Triều hậu lê ( lê trung hưng

NAM – BẮC TRIỀU ( 1533 – 1593)

LÊ TRANG TÔNG
Niên hiệu : Nguyên Hòa


Năm năm sau, kể từ ngày bị Mạc Đăng Dung giành ngôi vua, đến năm Quý Tỵ ( 1533), nhà Lê lại được dựng lên, mặc dù Vua ở đất Lào nhưng đã có niên hiệu, các nhà chép sử gọi đó là thời Lê Trung Hưng ( Hậu Lê)

Lê Trang Tông, húy Ninh, lại có tên nữa là Huyến là con của Chiêu Tông, cháu xa đời của Thánh Tông. Mẹ là Phạm Thị Ngọc Quỳnh, người sách Cao Trì, huyện Thụy Nguyên ( nay là Ngọc Lạc – Thanh Hóa). Khi Đăng Dung bức Chiêu Tông về kinh thì Duy Ninh chạy về Thanh Hóa, mới 11 tuổi, Lê Quán ẵm chạy sang Ai Lao đổi tên là Huyến. Lúc đó tướng cũ là Chiêu Huân công Nguyễn Kim mật mưu khôi phục, sai Trịnh Duy Thuần cùng Trịnh Duy Sản triệu tập thần dân cũ, đón Duy Ninh lập nên làm vua, bấy giờ 19 tuổi.

Năm Quý Tị ( 1533) tháng Giêng, Duy Ninh lên ngôi ở đất Ai Lao, đặt nguyên hiệu là Nguyên Hòa, tôn tướng quân Nguyễn Kim làm thượng phụ Thái sư Hưng quốc công chưởng nội ngoại sự, lấy hoạn quan là Đinh Công làm thiếu úy hưng Quốc công… Lấy lại Sầm Hạ là nơi hành tại, giao kết với vua Ai Lao là Sạ Đẩu để nhờ vả quân, lương, mưu việc lấy lại nước, sai Trịnh Duy Liêu sang Minh tâu tố Đăng Dung tiếm loạn, chiếm giữ kinh thành, ngăn trở đường tiến công. Nhà Minh sai Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm tổng đốc quân vụ. Binh bộ thượng thư Mao Bá Ôn làm tham tán quân vụ, đem quân sang đánh Mạc.

Tháng 12 năm Canh Tý ( 1540), Nguyễn Kim kéo quân từ Ai Lao về nước đánh Nghệ An, nhiều hào kiệt theo về giúp Trung Hưng. Cuối năm Quý Mão ( 1543), nhà Lê chiếm được Tây Kinh, tướng Dương Chấp Nhất của nhà Mạc phải đầu hàng. Từ đó trong nước dần dần hình thành hai miền chịu sự khống chế của hai lực lượng đối lập. Thanh Hóa, Nghệ Anh trở vào thuộc vua Lê dưới sự giúp đỡ của các tướng họ Nguyễn rồi họ Trịnh ( Nam triều), vùng Bắc Bộ trong đó có cả kinh thành thuộc quyền Mạc ( gọi là Bắc triều). Từ đó bắt đầu một cuộc nội chiến tàn khốc kéo dài gần 50 năm ( 1545 – 1592) gọi là nội chiến Nam – Bắc triều. Năm Quý Tỵ ( 1545) Nguyễn Kim đem quân tiến đánh Sơn Nam, đến huyện Yên Mỗ thì bị hàng tướng của Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm nắm giữ binh quyền, tiếp tục sự nghiệp tranh chấp với nhà Mạc. Từ đó họ Trịnh thế tập nắm giữ binh quyền, mở đầu thời kỳ vua Lê chúa Trịnh sau này. Trịnh Kiểm có toàn quyền định đoạt việc quân ở ngoài cũng như việc nội triều, tất thảy đều tự quyết sau mới tâu vua.

Năm Bính Ngọ ( 1546), Trịnh Kiểm lập hành tại vua Lê ở Vạn Lại ( Thọ Xuân, Thanh Hóa), lấy danh nghĩa là Phù Lê diệt Mạc, nhiều hào kiệt, danh sĩ đương thời lại tìm vào Thanh Hóa như Lương Đắc Bằng, Phùng Khắc Khoan.

Năm Mậu Thân ( 1548) Lê Duy Ninh mất, thọ 34 tuổi, ở ngôi 16 năm, quần thần dâng tên hiệu Lê Trang Tông, Trịnh Kiểm cho lập Thái tử là Duy Huyền lên nối ngôi. Sử gia Phan Huy Chú nhận xét, vua lấy trại Sầm Hạ làm nơi hành tại, phong Chiêu Công Huân ( Trịnh Kiểm) làm Thái sư Hưng quốc công, lưu lại phụ chính, đi lại các động người Man, khoảng gần 10 năm, dọn dẹp cỏ rậm lập nên triều đình, thế nước lại nổi lên…Cơ nghiệp Trung Hưng thực sự bắt đầu từ đây.
 
Lê trung tông ( 1548 – 1556)

Niên hiệu : Thuận Bình

Tên thật là Huyên, con lớn của Trang Tông, tính tình khoan rộng, thông suốt, có mưu lược đế vương. Năm 1548 Trang Tông mất, Huyên được lập lên nối ngôi khi mới 15 tuổi, lấy hiệu là Trung Tông. Công việc trong triều đều giao cho Lượng quốc công Trịnh Kiểm quyết định. Năm Quý Sửu ( 1553) vua dời hành tại đến xã Yên Trường ( trên tả ngạn sông Chu, thuộc Thọ Xuân, Thanh Hóa), bản doanh của Trịnh Kiểm, năm sau, Giáp Dần ( 1554) lại dời đến xã Biện thượng ( tức Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, trên sông Mã) là nơi Trịnh Kiểm ở với mẹ khi còn nhỏ. Cũng năm đó nhà Lê bắt đầu đặt chế khoa để chọn nhân tài, kỳ thi năm Giáp Dần ( 1554) lấy đỗ 5 đện nhất giáp Chế khoa xuất thân và 8 người đệ nhị giáp Chế khoa xuất thân. Vì quan niệm nhà Lê là chính thống, lúc đó nhiều nhà nho dự thi và làm quan với nhà Lê như Định Bạt Tụy – Chu Quang Trứ…Nhà Lê cũng thu hút được một số tướng giỏi như Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận…bỏ nhà Mạc vào phò giúp, nên thế lực ngày càng mạnh.

Tháng Giêng năm Bính Thìn ( 1556) vua băng hà khi mới 22 tuổi, không có con nối, Trịnh Kiểm và các đại thần bàn rằng, nước một ngày không thể không vua, bèn sai người đi tìm con cháu họ Lê lập nên.
 
Lê anh tông ( 1556 – 1573)

Niên hiệu : Thiên Hữu ( 1557)
Chính Trị ( 1558 – 1571)
Hồng Phúc ( 1572 – 1573)


Lê Anh Tông tên húy là Duy Bang, là dòng dõi nhà Lê. Trước đó, anh thứ hai của Lê Thái Tổ tên là Trừ, Trừ sinh ra Khang, Khang sinh ra Thọ, Thọ sinh ra Duy Thiệu, Duy Thiệu sinh ra Duy Khoáng. Duy Khoáng lấy vợ người hương Bố Vệ huyện Đông Sơn sinh ra Duy Bang, khi Lê Trung Tông mất, không có con nối. Thái sư Trịnh Kiểm cùng với các đại thần tìm được Duy Bang đang sống ở hương Bố Vệ ( phía Nam thành phố Thanh Hóa), đón về lập làm vua, khi đó ông đã 25 tuổi.

Khi Trịnh Kiểm còn sống, mọi quyền hành trong triều đều do Trịnh Kiểm quyết định, vua chỉ việc nghe theo. Các trận đánh lớn với quân Mạc đều do Trịnh Kiểm chia quân điều khiển. Ngay cả khi Lê Duy Hàn là em vua ngầm có chí khác lẻn vào cung lấy trộm ấn báu, bị bắt, vua xá tội cho, đến khi Duy Hàn phạm tội giết người, vua cũng giao cho Trịnh Kiểm toàn quyền xét xử.

Cũng trong thời gian này Nguyễn Hoàng nhờ chị gái là Ngọc Bảo ( vợ Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn thủ xứ thuận Quảng. Lúc đó Ngọc Bảo sinh được con trai ( Trịnh Tùng) có tướng mạo đẹp và tài lạ hơn người, được kiểm soát hết sức yêu dấu, vì thế lời xin của Nguyễn Hoàng được chấp nhận.

Tháng 2 năm Canh Ngọ ( 1570) Trịnh Kiểm ốm nặng rồi mất. Anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh nhau giành quyền bính. Lúc này tình hình nhà Lê bị chia rẽ và suy yếu. Nhưng vua Lê Anh Tông đã trực tiếp điều hành, dàn xếp các mâu thuẫn này. Các tướng họ Lê như Lê Cập Đệ cũng tỏ ra có năng lực và lập được nhiều chiến công, chính bản thân Lê Anh Tông cũng nhiều lần cầm quân ra trận. Mặc dù Lê Anh Tông vẫn tín nhiệm và trao binh quyền hành cao nhất cho Trịnh Tùng tước Trưởng quận công nắm giữ binh quyền nhưng nhiều lần vua vẫn tự làm đô tướng thống đốc đại đem binh quân cùng Trịnh Tùng ra đánh nhà Mạc ở phía Bắc. Quan hệ giữa vua và cháu có phần hòa thuận, song tháng 3 năm Nhâm Thân ( 1572), Lê Cập Đệ ngầm có chí khác, rủ Trịnh Tùng đi thuyền ra giữa sông mưu giết, Trịnh Tùng biết được, nên việc không xong. Từ đấy hai nhà thù oán nhau, bên ngoài giả cách hiệp sức nhau để đánh Mạc, bên trong đều ngó nhau, đề phòng thích khách. Sau đó Trịnh Tùng lập mưu giết Lê Cập Đệ. Một số quần thần như Cảnh Hấp và Đình Ngạn nói với vua rằng. Tể tướng nắm binh quyền to như vậy, bệ hạ khó lòng đứng được. Vua nghe nói thế, vừa sợ vừa ngờ, bèn ban đêm chạy ra ngoài cùng với 4 Hoàng tử đóng ở thành Nghệ. Trịnh Tùng cùng với bề tôi lập con thứ 5 của vua Anh Tông là Duy Đàm lên ngôi và sai Nguyễn Hữu Liên đi đón vua cũ. Khi về đến Lôi Dương ( Thanh Hóa) Anh Tông bị giết chết.

Như vậy Lê Duy Bang ở ngôi 16 năm, thọ 42 tuổi, đặt niên hiệu 3 lần, Thiên Hựu ( 1557), Chính Trị ( 1558 – 1571) và Hồng Phúc ( 1572 – 1573).
 
Vua lê – chúa trịnh

LÊ THẾ TÔN ( 1573 – 1577)
Niên hiệu : Gia Thái ( 1573 – 1577)
Quang Hưng ( 1578 – 1599)


Vua Anh Tông có 5 người con trai, bốn người anh đã chạy cùng cha vào Nghệ An, còn lại Duy Đàm là con trai thứ 5, sinh tháng 11 năm Đinh Mão ( 1567), được nuôi ở Quảng Thị, huyện Thụy Nguyên. Khi Anh Tông chạy ra ngoài, Duy Đàm còn thơ ấu không đi theo được. Tả tướng Trịnh Tùng lập lên nối ngôi, mới 7 tuổi. Trịnh Tùng cho tìm danh nho vào dạy học cho vua, vua học ngày càng tấn tới, hiểu biết rộng cả việc trong sách vở và việc ngoài đời.

Tháng 8 năm Canh Thìn ( 1578) vua cho khôi phục lệ thi Hội để lựa chọn nhân tài, cho Nguyễn Văn Giai và 3 người nữa đỗ tiến sĩ xuất thân, Lê Quang Hoa và một người khác đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.

Sau gần 50 năm chiến tranh Nam – Bắc triều, với trên 38 trận đánh lớn nhỏ, hàng chục vạn dân lành bị súng lính và bị đẩy vào các cuộc tàn sát khủng khiếp.

Có những trận mỗi bên quân số lên tới 10 vạn người. Hai bên giằng co khá quyết liệt. Đến năm Tân Mão ( 1591), tiết chế Trịnh Tùng mở một cuộc hành binh lớn đánh trận quyết định ở Đông Kinh, bắt được Mạc Mậu Hợp, chiếm lại được kinh thành. Tháng 2 năm Quý Tỵ ( 1593), sau khi sửa sang lại được kinh thành, cung điện, Trịnh Tùng cho đón vua Lê từ hành cung Vạn lại ( Thanh Hóa) ra kinh thành Thăng Long ( Đông Kinh).

Ngày 16 tháng 4 năm Quý Tỵ ( 1593) Vua lên chính điện coi chầu, trăm quan đến chào mừng, đánh dấu sự nghiệp Trung Hưng của nhà Lê đã hoàn thành. Vấn đề đặt ra tiếp theo là công việc ngoại giao đối với nhà Minh. Sau nhiều cố gắng ngoại giao, đặc biệt là tài đối đáp thơ phú của Phùng Khắc Khoan và phái bộ sang Yên Kinh, năm Mậu Tuất ( 1598), vua Minh phong cho Lê Duy đàm là An Nam đô thống sứ, sắc phong và ấn bạc được sứ nhà Minh trực tiếp đưa sang.

Cùng lúc đó thổ quan nhà Minh nhận hối lệ của Mạc Kính Cung, đệ tâu vua Minh cho Kính Cung trở lại thị trấn Cao Bằng. Tháng 3 năm Kỷ Hợi ( 1599), Tả Giang nước Minh là Trần Đơn Lân sai vương Kiến Lập đem ngựa tốt, đại ngọc, mũ xung thiên sang tặng tiết chế Trịnh Tùng, xin kết tình láng giềng.

Công cuộc Trung Hưng đã hoàn thành, lại được các quan thiên triều trọng vọng, Trịnh Tùng tự xưng làm Đô nguyên súy Tổng quốc chính thượng phụ Bình An vương và định lệ cấp lộc cho vua Lê chỉ được thu thuế một ngàn xã, cấp cho 5.000 lính làm quân túc vệ, 7 con voi và 20 chiếc thuyền rồng. Còn lại quyền hành trong nước đều do Trịnh Tùng toàn quyền quyết định, vua chỉ ngồi chắp tay không làm gì, chỉ giữ lại đại cương. Từ đây thực sự bắt đầu thời kỳ mà sử gọi là Vua Lê Chúa Trịnh.

Ngày 24 tháng 8 năm Kỷ Hợi ( 1599), vua băng, thọ 33 tuổi, ở ngôi được 27 năm.
 
Trịnh – nguyễn phân tranh

LÊ KÍNH TÔNG ( 1600 - 1619)
Niên hiệu: Thuận Đức ( 1600)
Hoằng Định ( 1601- 1619)


Vua Kính Tông húy là Duy Tân, là con thứ của Thế Tông. Khi vua Thế Tông băng, Bình An vương Trịnh Tùng cùng với triều thần cho rằng Thái tử ( anh của Duy Tân) tính không thông minh, bèn lập con thứ là Duy Tân, khi đó mới 11 tuổi, Duy Tân có tướng mạo hùng vĩ, được triều thần đưa lên ngôi ngày 27 tháng 8 năm Kỷ Hợi ( 1599), đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Đức, lấy năm Canh Tý ( 1600) làm năm Thuận Đức thứ nhất.

Từ năm này, bước sang thế kỷ XVII, tình hình chính trị trong nước lại chuyển biến theo một cục diện mới. Ở ngoài Bắc, về cơ bản họ Trịnh với tài năng quân sự và thái độ cứng rắn của Trịnh Tùng đã cơ bản dẹp tan được chính quyền nhà Mạc ở kinh đô và đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng các dư đảng của nhà Mạc thì vẫn nổi lên khắp các tỉnh trung du và miền núi Việt Bắc. Nhà Lê Trịnh vẫn phải nhiều lần phái những đội quân lớn do thái phó thanh quận công Trịnh Tráng và các thuộc tướng Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Cảnh Kiên, Tạ Thế Phúc, Nguyễn Khải, Nguyễn Hắc, Nguyễn Duy Thì… đem quân đánh Mạc. Cũng vào thời này vấn đề tranh giành quyền lực và xung đột giữa họ Trịnh ở Đàng ngoài và họ Nguyễn ở Đàng trong bắt đầu đặt ra với việc Nguyễn Hoàng tự ý bỏ vào Thuận Quảng. Nhân cơ hội ấy dư đảng của nhà Mạc lại nổi lên.

Trong tình hình đó, vua Lê Kính Tông cùng với Trịnh Xuân ( con thứ của Trịnh Tùng), mưu giết Trịnh Tùng nhưng không thành, Trịnh Xuân bọ giam vào nội phủ, còn vua Kính Tông thì bị bức thắt cổ chết ngày 12 tháng 5 năm Kỷ Mùi ( 1619). Đổi niên hiệu hai lần.
 
Lê thần tông ( 1619 – 1643)

Niên hiệu: Vĩnh Tộ ( 1620 – 1628)
Đức Long ( 1629 – 1634)
Dương Hòa ( 1635 – 1643)

Vua Thần Tông húy là Duy Kỳ, cong trưởng của Kính Tông. Mẹ là Đoan từ Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh, con gái thứ của thượng phụ Bình An vương Trịnh Tùng, sinh ra Duy Kỳ vào ngày 19 tháng 11 năm Đinh Mùi ( 1607). Như vậy, Duy Kỳ là cháu ngoại của Bình An vương Trịnh Tùng. Khi vua Kính Tông bị buộc thắt cổ chết, Bình An vương tôn lập cháu ngoại của mình là Duy Kỳ lên làm vua, khi đó mới 12 tuổi, Duy Kỳ có tướng mạo đế vương. Sống mũi cao, mặt rồng, thông minh, học rộng, mưu lược sâu sắc, giỏi văn chương. Đây cũng là ông vua có quan hệ thật đặc biệt với nhà chúa, cùng với nhà chúa một nhà vui thuận em ái.

Tháng 7 năm Quý Hợi ( 1623) nhân dịp Bình An vương Trịnh Tùng mất, Trịnh Xuân một lần nữa lại đem quân nổi lên định tranh ngôi chúa, vương thế tử Trịnh Tráng cùng vua đem quân về Thanh Hóa lo dẹp loạn.

Năm Canh Ngọ ( 1630) Vua lấy con gái là Trịnh Thị Ngọc Trúc lập làm Hoàng hậu. Việc lấy Ngọc Trúc đã để lại tiếng xấu cho vua sau này, chẳng là trước đó Ngọc Trúc đã lấy chú họ của vua là Cường công quận Lê Trụ, sinh ra được 4 người con, rồi Lê Trụ bị lỗi phải giam trong ngục, Vương lại đem Ngọc Trúc dâng vua. Vua lấy vào cung, triều thần như Trạng nguyên Nguyễn Thực, Nguyễn Danh Thế nhiều lần can vua, vua không nghe, và nói “ Trót đã xong việc, lấy gượng vậy”.

Tháng 1 năm Quý Mùi ( 1643) vua nhường ngôi cho con là Lê Duy Hiệu sau 25 năm làm vua, tự lên làm Thái Thượng hoàng, còn Hoàng hậu họ Trịnh làm Hoàng Thái hậu.
 
Lê chân tông ( 1643 – 1649)

Niên hiệu : Phúc Thái

Duy Hiệu được vua cha nhường ngôi từ lúc lên 13 tuổi, lấy hiệu là Chân Tông, trong thời gian Chân Tông ở ngôi, có một việc đáng chú ý là vào năm 1646, vua Minh cho sứ thần sang phong cho Thái Thượng hoàng làm An Nam quốc vương. Triều Lê Trung Hưng kể từ Lê Trang Tông đến đây mới được nhà Minh phong tước vương, trước đó chỉ làm An Nam đô thống sứ.
 
Lê chân tông

Niên hiệu: Khánh Đức ( 1649 – 1652)
Thịnh Đức ( 1653 – 1657)
Vĩnh Thọ ( 1658 – 1661)
Vạn Khánh ( 1662)


Năm Kỷ Mão ( 1649), ở ngôi được 7 năm, Duy Hiệu chết không có con nối, Thái Thượng hoàn lại cầm quyền chính, tiếp tục triều Lê Thần Tông.

Năm Nhân Dần ( 1662) vua Thần Tông bị bạo bệnh, xuống chiếu đổi niên hiệu làm Vạn Khánh năm thứ nhất. Cũng nhân dịp này vua cho đổi ngôi Thái tử. Chẳng trước đó vì chưa có con nối ngôi, vua phải lấy Duy Tào ( con riêng của Hoàng hậu Trịnh thị ) làm Hoàng thái tử. Nhưng sau đó Thần Tông có con đặt tên là Vũ lên 9 tuổi. Vua cho lập Duy Vũ làm Hoàng Thái tử, phế Duy Tào làm thứ nhân, theo về họ mẹ.

Ngày 22 tháng 9 năm Nhâm Dần ( 1662), vua băng. Như vậy, vua Thần Tông nhà Lê là ông vua thứ hai sau Lê Thánh Tông, có số trị vì dài tới 38 năm. Song đặc biệt hơn, Lê Thần Tông trị vì 25 năm, truyền ngôi lại cho con rồi lên làm Thái Thượng hoàng, khi con chết không có người nối, lại ra làm vua thêm 13 năm nữa, khi mất thọ 56 tuổi. Ông vua này trị vì trải ba đời vương bên phủ chúa Trịnh. Từ Bình An vương đến thanh vương Trịnh Tráng rồi đến Tây Vương Trịnh Tạc. Đời bấy giờ cho vua Thần Tông là bậc vua giỏi, nhưng có chế ỏ hai điểm.

Chốn cung đình không có đế độ và mê hoặc Phật giáo
Lần thứ hai làm vua Thần Tông đặt niên hiệu 4 lần.

Khánh Đức ( 1649 – 1652)
Thịnh Đức ( 1653 – 1657)
Vĩnh Thọ ( 1658 – 1661)
Vạn Khánh ( 1662)
 
Lê huyền tông ( 1663 – 1671)

Niên hiệu : Cảnh Trị

Huyền Tông tên là Duy Vũ, con Thần Tông, em của Chân Tông, khi Thần Tông mất Vũ mới lên 9 tuổi, Tân vương Trịnh Tạc theo di mệnh lập lên, Duy Vũ là con do Phạm Thị Ngọc Hậu, người làng Quả Nhuệ, huyện Lôi Dương ( Thọ Xuân, Thanh Hóa) sinh ra.

Năm Ất Tỵ ( 1665) mặc dù Duy Vũ mới 11 tuổi, nhà vua cũng sách lập chính cung Trịnh Thị Ngọc Áng làm Hoàng hậu, Trịnh Thị Ngọc Áng là con gái thứ của Tây vương Trịnh Tạc. Khi nhà vua lên ngôi đón vào trong cung, lấy làm Hoàng hậu.

Bấy giờ ở bên Trung Quốc, nhà Minh đã mất, nhà Thanh lên, tháng 3 năm Đinh Mùi ( 1667) nhà Thanh sai sứ sang phong cho vua An Nam quốc vương. Vua Lê sai chánh sứ Lê Hiệu, phó sứ Dương Hạo và Đồng Tôn Trạch sang nhà Thanh nộp lễ cống hàng năm và tạ ơn việc tặng bạc lụa. Đây là lần đầu tiên nước ta có quan hệ ngoại gia với triều Thanh.

Ở ngôi được 9 năm, ngày 15 tháng 10 năm Tân Hợi ( 1671) vua băng, lúc này mới có 18 tuổi, không có con nối. Nhà sử học Phan Huy Chú viết. Vua Thần Thái nghiêm trang, tư chất khoan hậu, ngồi chắp tay giữ nghiệp trước, trong nước yên trị.
 
Lê gia tông ( 91672 – 1675)

Niên hiệu: Dương Đức ( 1672 – 1673)
Đức Nguyên ( 1674 – 1675)

Vua húy là Duy Cối, con thứ của Thần Tông, trước đấy, khi Thần Tông băng. Hoàng Thái tử Duy Cối ( có sách chép là Duy Khoái) mới lên hai tuổi, vương Trịnh Tạc và vương Thị là Trịnh Thị Ngọc Lung đón về nuôi ở trong vương phủ, dạy bảo hun đức, giúp nên đức tính. Khi Huyền Tông băng không có con nối, Trịnh Tạc bèn xuống chỉ cho Tiết chế phủ và các đại thần văn võ trăm quan lập Hoàng đệ Lê Duy Cối lên ngôi vua, khi đó ông mới 11 tuổi. Vua làm lễ đăng quang vào ngày 19 tháng 11 năm Tân Hợi ( 1671), lấy niên hiệu là Dương Đức, tôn chính phi của vương là Trịnh Thị Ngọc Lung làm Quốc thái mẫu.

Năm Giáp Dần ( 1674) Vua tôn phong thân sinh mẫu là Lê Thị Ngọc Hoàn ( quê ở xã Phúc Lộc, huyện Thụy Nguyên, Thanh Hóa) làm Chiêu Nghi.

Nhà vua diện mạo khôi ngô, thân thể vạm vỡ, tính khoan hòa, có độ lượng của một ông vua. Vua ở được 4 năm, mất lúc 15 tuổi, không có con nối.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top