• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Việt Nam thời dựng nước

Lý Thần Tông

Niên hiệu : Thuận Thiên ( 1128 – 1138)
: Thiên Chương Bảo Tự ( 113 – 1137)


Vua Lý Nhân Tông không có con trai lập con của hoàng đệ là Sùng Hiền hầu Dương Hoán lên làm Thái tử, nay kế vị ngôi Hoàng đế tức là vua Thần Tông.

Thần Tông vừa lên ngôi liền đại xá cho các tù phạm và trả ruộng đất tịch thu của quân dân ngày trước. Vua thực hiện chính sách ngụ binh ư nông, cho binh lính đổi phiên cứ lần lượt 6 tháng một lần được về làm ruộng. Do vậy, sản xuất nông nghiệp phát triển. Dân no đủ nên giặc giã cũng ít, Thần Tông làm vua được 10 năm, thọ 23 tuổi.
 
Lý Anh Tông ( 1138 – 1139)

Niên hiệu : Thiệu Minh ( 1138 – 1139)
: Đại Đinh ( 1140 – 1162)
: Long Chính Bảo Ứng ( 1163 – 1173)
: Thiên Cảm Chí Bảo ( 1174 – 1175)


Vua Lý Thần Tông có 2 con trai là thiên Lộc và thiên Lộ, Thần Tông mất, triều đình tôn Thái tử thiên Lộ lên làm vua, hiệu là Anh Tông.

Lý Anh Tông kế vị ngôi vua mới có 3 tuổi. Bởi vậy thái hậu Lê thị cầm quân nhiếp chính. Lê thái hậu lại tư thông với Đỗ Anh Vũ, cho nên mọi việc lớn nhỏ trong triều đều nằm trong tay vị đại thần họ Đỗ này cả. Đỗ Anh Vũ được thể ra vào cung cấm, kiêu ngạo, coi thường các đình thần. Thấy Anh Vũ lộng quyền, các quan Vũ Đái, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc và Dương Tự minh bàn mưu trừ khử. Việc bại lộ, tất cả bị Anh Vũ giết hại. May thay triều đình lúc đó có nhiều tôi giỏi như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên tham vọng của Đỗ Anh Vũ bị chặn lại. Tô Hiến Thành chẳng những giúp vua đánh Đông dẹp Bắc, giữ cho nước được yên mà còn luyện tập cho quân lính, kén chọn những người tài giỏi cho làm tướng, coi quân trị dân. Bởi vậy, nước Đại Việt hồi ấy trở nên hùng mạnh.

Năm Tân Mão và năm Nhâm Thìn ( 1171 – 1172) vua dầy công đi qua những vùng núi non hiểm trở quan sát sinh hoạt của dân rồi sai quan lại tập bản đồ nước Đại Việt.

Khi biết mình sức đã yếu, vua phong cho Tô Hiến Thành làm thái phó Bình chương quân quốc trọng sự, và phong gia tước vương, đồng thời ủy thác Thái tử là Long Gàn cho Tô Hiến Thành giúp dạy.

Anh Tông mất, trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi, đổi niên hiệu 4 lần.
 
Lý Cao Tông ( 1176 – 1210)

Niên hiệu – Trịnh Phù ( 1176 – 1202)
- Thiên Tư Gia Thụy ( 1186 – 1204)
- Thiên Gia Bảo Hựu ( 1202 – 1204)
- Trị Bình Long Ứng ( 1205 – 1210)


Vua Anh Tông mất, Thái tử Long Càn chưa đầy 3 tuổi lên ngôi. Bà Chiêu Linh thái hậu muốn lập con cả của mình tên là Long Xưởng lên làm vua bèn đem vàng bạc đút lót cho vợ Tô Hiến Thành. Nhưng Tô Hiến Thành nhất định không nghe cứ theo di chiếu lập Long Càn, tức vua Lý Cao Tông.

Phò tá được Cao Tông làm vua nhưng vì tuổi già, Tô Hiến Thành luôn đau yếu. Thương ông, có quan Tham tri chính sự là Vũ Tán Đường, ngày đêm hầu hạ nâng giấc. Đến khi bà Đỗ thái Hậu ( mẹ Cao Tông) đến thăm hỏi.

Ông đau yếu nếu có mệnh hệ nào, ai thay ông được?

Tô Hiến Thành tâu.

Đã có quan Gián nghị đại phu Trần Trung Tá.

Thái hậu ngạc nhiên.

Vũ Tán Đường hết lòng vì ông, sao không cử ông ta?

Tô Hiến Thành tâu.

Tâu Hoàng thái hậu ! Nếu thái hậu hỏi người hầu hạ thì xin cử Tán Đường, còn hỏi người tài ba giúp nước tôi xin cử Trần Trung Tá.

Mặc dù người đương thời vì Tô Hiến Thành như Gia Cát Lượng đời Tam Quốc bên Tàu, nhưng khi ông bị mất rồi, triều đình không theo lời ông dặn, cứ cử Đỗ Yến Di làm phụ chính và Lý Kính Tu làm đế sư. Triều đình bắt đầu suy.

Đến khi Cao Tông lớn lên, trực tiếp cầm quyền trị nước thì lại ham mê săn bắn, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ phải phục dịch khổ sở, nên trộm cướp nổi lên như ong.

Năm Bính Thìn ( 1208) ở Nghệ An có Phạm Du làm phản chiêu nạp bọn côn đồ đi cướp phá của dân. Vua Cao Tông sai quan Phụng ngự là Phạm Bỉnh Di đi dẹp. Bỉnh Di đem quân đánh được Phạm Du, tịch biên gia sản, đốt phá nhà cửa của hắn. Phạm Du cho người về kinh lấy vàng đút lót các quan trong triều rồi vu cho Bỉnh Di làm việc hung bạo, giết hại người vô tội. Triều đình cho Phạm Du vào triều kêu oan, nghe lời Phạm Du, vua Cao Tông triệu Bỉnh Di đi hồi triều rồi bắt giam ngay. Hay tin, một tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân phá cửa thành vào cứu Bỉnh Di. Thấy biến, Cao Tông vội cho giết Bỉnh Di rồi đem gia quyến chạy lên vùng Tam Nông ( Phú Thọ). Thái tử Sảm thì chạy về Hải Ấp ( làng Lưu Xá – Hưng Hà – Thái Bình). Quách Bốc đem xác Bỉnh Di mai táng rồi vào điện tôn hoàng tử Thẩm lên làm vua.

Thái tử Sẩm chạy về Hải Ấp vào ở nhà Trần Lý, làm nghề đánh cá, thấy con gái Trần Lý là Trần Thị Dung khỏe mạnh, xinh đẹp bèn lấy làm vợ và phong cho Trần Lý tước Minh Tự, Tô Trung Tự, cậu Trần Thị Dung chức Điện tiền chỉ huy sứ.

Anh em họ Trần mộ quân giúp Thái tử Sảm khôi phục kinh thành rồi lên vùng Tam Nông rước Cao Tông về cung. Cao Tông về kinh được một năm thì mất ( 1210) trị vì được 35 năm, thọ 38 năm, đổi niên hiệu 4 lần, thờ ở đền Đô.
 
Lý Huệ Tông

Niên hiệu : Kiến Gia ( 1211 – 10/ 1224)

Thái tử Sảm là con trưởng của vua Cao Tông, sinh năm Giáp Dần 91194) khi vua Cao Tông mất Thái tử Sảm lên nối ngôi lấy hiệu là Huệ Tông rồi sau quan quân đi đón Trần Thị Dung về phong làm Nguyên phi. Lúc ấy Trần Lý đã bị quân cướp giết, con thứ là Trần Tự Khánh làm Chương Tín hầu và Tô Trung Tử làm Thái úy thuận Lưu Bá.

Vốn không ưa Nguyên phi Trần Thị Dung, lại thấy họ Trần nắm giữ binh quyền,, Đàm thái hậu, mẹ vua Huệ Tông ra mặt hắt hủi Thị Dung. Trần Tự Khánh thấy em mình bị đối xử tệ bạc, liền đem quân về kinh xin vua rước Thị Dung đi. Lý Huệ Tông nghi Tự Khánh phản nghịch, giáng Thị Dung xuống làm ngự nữ. Tự Khánh thấy vậy, thân đến quân môn xin lỗi và vẫn xin rước đi. Huệ Tông càng nghĩ, vội cùng với Khánh lại phát binh đi rước về, Huệ Tông sợ hãi, rước thái hậu về Bình Hợp. Đàm thái hậu cho rằng họ Trần muốn làm phản thường chỉ mặt Thị Dung xỉ vả và xui Huệ Tông bỏ thuốc độc toan giết Thị Dung, nhưng vua đều cản được. Thường đến bữa ăn vua ăn một nửa, một nửa dành cho người đẹp và ngày đêm luôn giữ bên mình không cho đi đâu. Về sau, thái hậu làm dữ quá , Huệ Tông đang đêm đem Trần Thị Dung trốn đến nhà tướng quân Lê Mịch và cho đòi Trần Tự Khánh đến chầu. Tự Khánh đem quân đến hộ giá Vua về kinh. Huệ Tông phong cho Thị Dung làm hoàng hậu, Trần Tự Khánh làm Phụ chính và người của Tự Khánh là Trần Thừa làm nội thị phán thủ.

Tháng chạp năm Quý Mùi ( 1223), Trần Tự Khánh mất, vua Huệ Tông cho Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy, và năm sau, giao cho em họ Hoàng hậu là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Từ đó, mọi việc trong triều đều do vị tướng trẻ Trần Thủ Độ định đoạt.

Vua Huệ Tông về cuối đời thường hay rượu chè say khướt ngủ cả ngày, không quan tâm đến việc triều chính. Vua không có con trai. Hoàng hậu Trần Thị chỉ sinh được hai công chúa. Người chị là Thuận Thiên công chúa đã gả cho Phụng Kiều vương Trần Liễu, con cả của Trần Thừa. Người em là Chiêu Thánh, công chúa tên thật là Phật Kim, mới 7 tuổi, được lập làm Thái tử.

Tháng mười năm Giáp Thân ( 1224) Lý Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu Thánh công chúa rồi vào ở chùa Chân Giáo, sau mất ở đó.

Huệ Tông trị vì được 14 năm.
 
Lý Chiêu Hoàng ( 1225)

Niên hiệu: Thiên Chương Hữu Đạo

Chiêu Thánh công chúa còn có tên thật là Phật Kim sinh vào tháng 9 năm Mậu Dần ( 1218)

Chiêu Thánh công chúa lên ngôi năm Giáp Thân ( 1224) tức là Lý Chiêu Hoàng. Vua còn nhỏ nên quyền binh ở cả Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ đưa các cháu vào cung cấm nắm giữ các chức vụ lớn nhỏ. Trần Bất Cập làm Cận thị thủ lục cục, Trần Thiêm là Chi hậu cục, Trần Cảnh làm Chánh thủ ( đội trưởng đội hậu cần).

Trần Cảnh là con thứ hai của Trần Thừa, lúc đó mới lên 8 tuổi, cùng tuổi với Lý Chiêu Hoàng. Một lần Trần Cảnh bưng nước rửa mặt cho vua, Chiêu Hoàng thấy Trần Cảnh đem lòng yêu mến. Từ đó, mỗi khi vui chơi, Chiêu Hoàng đều gọi Trần Cảnh đến cùng chơi. Có hôm Trần Cảnh bưng chậu nước đứng hầu. Chiêu Thánh rửa mặt, lấy tay té nước ướt cả mặt Cảnh. Đến khi Cảnh bưng khăn thì vua bà lấy khăn ném cho Trần Cảnh. Khi về nhà Trần Cảnh đã kể riêng với Thủ Độ, Thủ Độ nói.

Nếu thực sự như thế thì Họ ta làm vua chăng? Hay chết cả họ chăng?

Hôm khác Chiêu Hoàng lại lấy khăn ném cho Trần Cảnh, Cảnh quỳ lạy.

Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh.

Chiêu Hoàng cười.

Tha cho ngươi ! Nay ngươi đã biết nói khôn đó!

Cảnh lại về nói với Trần Thủ Độ. Sợ việc tiết lộ thì bị giết cả. Thủ Độ đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấp. sai đóng cửa thành và các cửa cung. Các quan vào chầu đều không được vào. Thủ Độ loan báo.

Bệ hạ đã có chồng rồi.

Các quan đều nói. Đó là việc tốt, xin cho chọn ngày vào chầu. Thế là ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu có chiếu của Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh và ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu ( tháng 1- 1225) Chiêu Hoàng thiết triều ở điện thiên An ngự trên giường báu, các quan mặc triều phục lạy ở sân rồng. Chiêu Hoàng chút bỏ áo ngự, khuyên mời Trần Cảnh lên ngôi vua. Sau ba lần nhún nhường làm phép, Trần Cảnh lên ngai vàng chính thức làm Hoàng đế. Nhưng sau đó, bất hạnh đã đến với Chiêu Hoàng, lúc này là Hoàng hậu Chiêu Thánh. Nguyên do lấy nhau hơn chục năm, Chiêu Thánh vẫn không sinh nở gì. Thủ Độ lo sợ vua Thái Tông Trần Cảnh tuyệt tự, không kẻ nối dõi ngôi vua, bèn lấy Thuận Thiên chị ruột Chiêu Thánh, vợ Trần Liễu ( anh ruột Trần Cảnh), lúc này đang co mang ép gả cho Trần Cảnh. Sau đó, Thủ Độ ép Thái Tông phải bỏ Chiêu Thánh mà lập Thuận Thiên làm Hoàng hậu. Chiêu Thánh đau khổ, ẩn sâu trong cung, toan dứt nợ trần tục.

Nhưng may thay 29 năm sau, khi tròn 40 tuổi. Hạnh phúc lại đến với Chiêu
Hoàng. Mùng một tết năm Mậu Ngọ ( 1258), sau khi đánh tan quân xâm lược của nhà Nguyên lần thứ nhất, vua Thánh Tông đặt đại lễ ở chính điện, có lệnh gả Chiêu Hoàng cho Lê Phụ Trần, một đại tướng có công lớn trong cuộc kháng chiến vừa qua. Lần này Chiêu Hoàng tìm thấy hạnh phúc thật sự, bà sinh được hai người con. Lê Tông sau được phong tước Vị hầu và Ngọc Khê sau được phong là ứng thụy công chúa.

Chiêu Hoàng mất năm 60 tuổi. Tương truyền tóc bà vẫn đem nhánh, môi vẫn đỏ như son, đôi má vẫn một màu hoa đào.

Triều Lý tồn tại trong 215 năm thì tan rã. Trải 9 đời vua.

Lý Thái Tổ ( Lý Công Uẩn)(1010 – 1028, 19 năm)
Lý Thái Tông 1028 – 1054 ( 27 năm)
Lý Thánh Tông 1054 – 1072 ( 17 năm)
Lý Nhân Tông 1072 – 1127 ( 56 năm)
Lý Thần Tông 1128 – 1138 ( 10 năm)
Lý Anh Tông 1138 – 1175 ( 37 năm)
Lý Cao Tông 1176 – 1210 ( 35 năm)
Lý Huệ Tông 1211- 1225 ( 14 năm)
Lý Chiêu Hoàng 1224 -1225 ( 1 năm)
 
Hoàng hậu Trần Thị Dung

Trần Thị Dung là con gái Trần Lý, em của Trần Thừa, vị Thượng hoàng đầu tiên của triều Trần. Năm 1209, Hoàng tử Sảm chạy loạn về Hải Ấp thấy Trần Thị Dung có sắc đẹp bèn lấy làm vợ, tháng 11 năm Canh Ngọ ( 1210) hoàng tử Sảm lên ngôi vua lấy hiệu là Huệ Tông. Trần Thị Dung được lập làm Nguyên phi. Đến giữa năm Bính Tý ( 1216), được sắc phong làm Hoàng hậu. Vốn không yêu Huệ Tông, lại thấy Huệ Tông chỉ ham mê sắc dục không thiết đến triều chính nên Trần Thị Dung càng chán vua và cảm mến Trần Thủ Độ lúc đó là Thái sư. Tháng 12 năm Ất Dậu ( 1225), nhà Lý mất ngôi, triều Trần nắm quyền thì tháng 8 năm Bính Tuất ( 1226), tân triều đã thu xếp cho mối tình giữa Thái sư Trần Thủ Độ và Hoàng hậu triều Lý Trần Thị Dung. Cả triều đình nhà Trần vào ngày cưới của đôi lứa ấy, hội vui được tổ chức thâu đêm suốt sáng. Trần Thị Dung sau đó được phong làm Linh Từ quốc mẫu đã có công chỉ huy giới hoàng tộc chủ động rút khỏi kinh thành trong lần giặc Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ nhất ( 1257), sau đó, đảm nhận việc lo liệu thu nhặt sắt thép, khích lệ các thợ rèn đêm ngày rèn binh khí cung cấp cho quân Trần. Trong trận phản công chiến lược Đông Bộ Đầu tháng 12 năm Đinh Tý ( 1 – 1258), đuổi giặc về nước của dân tộc có một phần của bà.
 
TRẦN THỦ ĐỘ

Trần Thủ Độ người có công khởi dựng triều Trần, sinh năm Giáp Dần ( 1194) ở làng Lưu Xá ( Hưng Hà – Thái Bình). Ông đã nổi lên là người có tài xuất chúng trong số những người con ưu tú khác của họ Trần, giúp triều Lý đánh dẹp các thế lực cát cứ, khôi phục cơ nghiệp nhà Lý. Ông ít được học nhưng có bản lĩnh, thẳng thắn và quyết đoán. Cuối triều Lý, các vua ăn chơi, sa đọa, kinh tế suy thoái, thiên tai, mất mùa đói kém liên tiếp xảy ra. Lợi dụng cơ hội đó, các thế lực phong kiến nổi lên chống lại triều đình, đánh giết lẫn nhau, cướp bóc bừa bãi. Ngoài biên thùy, đế quốc Nguyên Mông đang tung hoành đánh Kim, diệt Tây Hạ, chiếm Triều Tiên, sửa đại binh xâm lược Tống và Đại Việt.

Trong lúc ấy, vua Lý Huệ Tông vô tránh nhiệm truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới 8 tuổi rồi bỏ đi tu ở chùa Chân Giáo. Bởi vậy, Trần Thủ Độ đã thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho Trần Cảnh là hợp lẽ. Làm cuộc đảo chính thay đổi triều đại mà không xảy ra đổ máu và đảo lộn lớn trong nước, chứng tỏ Trần Thủ Độ là chính trị sáng suốt, khôn ngoan.

Sau khi lên ngôi vua, Trần Thái Tông phong cho Trần Thủ Độ làm Thái sư nắm giữ mọi binh quyền. Trong một thời gian ngắn, Trần Thủ Độ đã thu phục được các thế lực đối địch, tổ chức lại bộ máy hành chính từ trung ương đến cấp xã. Có lần duyệt hộ khẩu, Linh Từ quốc mẫu muốn xin riêng cho một người làm chức Câu dương ( một chức dịch trong xã). Ông ghi tên họ quê quán. Duyệt đến xã ấy, hỏi tên đương sự, đương sự mừng rỡ chạy đến, Trần Thủ Độ nói.

Ngươi vì công chúa xin cho được làm Câu dương, không thể ví như Câu dương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt.

Đương sự kêu van xin thôi, hồi lâu Trần Thủ Độ mới tha cho. Từ đấy không ai dám nhờ cậy việc riêng nữa.

Trần Thủ Độ đề cao tư tưởng pháp trị, định ra luật lệ quy chế hành chính và gương mẫu thực hiện. Sử ghi, có lần, Linh Từ quốc mẫu ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm bị người quân hiệu ngăn lại. Về nhà, Linh Từ quốc mẫu than.

Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu ấy khinh nhờn như thế.

Thủ Độ sai quân đi bắt về. Người quân hiệu chắc là phải chết. Khi đến nơi, nghe người quân hiệu kể lại ngọn nguồn câu chuyện. Thủ Độ nói.

Người ở chức thấp mà biết giữ phép nước, như thế ta còn trách gì nữa – Nói rồi lấy vàng lụa thưởng cho người ấy.

Là người có công, có tài, nắm giữ trọn binh quyền, vua cũng không dám trái ý. Có viên quan nhân lúc vào chầu vua Thái Tông, ứa nước mắt tâu.

Bệ hạ tuổi còn trẻ mà Thái sư Trần Thủ Độ quyền nghiêng chân chúa, không biết rồi tiền đồ xã tắc sẽ ra sao? Hạ thần lấy làm lo lắng.

Vua bảo Thủ Độ.

Trẫm biết thượng phụ chỉ có tấm lòng son vì nước chứ không có bụng dạ riêng nào. Vậy mà kẻ kia thấy ông nắm giữ trọn binh quyền, dám ngờ vực xằng tâu với trẫm là đáng lo ngại về việc thượng phụ chuyên quyền có thể không hay cho xã tắc. Đó là lời nói hại đến nghĩa tôi vua và tình cảm chú cháu giữa thượng phụ và trẫm.

Trần Thủ Độ trầm ngâm suy nghĩ rồi tâu.

Kẻ kia nói vậy mà đúng. Thật quả có chuyện chuyên quyền. Thế mới biết một trăm người vâng dạ không bằng một người nói thẳng. Trong đám quan lại chỉ duy nhất có người này là ngay thẳng bạo dạn, dám nói những điều người khác chỉ dám nghĩ. Vậy, một triều thịnh vượng là phải khuyến khích người nói thật.

Nói xong, Thủ Độ xin phép vua lấy mấy tấm lụa và mấy trăm quan tiền thưởng cho viên quan nọ.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thủ Độ đóng vai trò quan trọng. Tháng 12 năm Đinh Tý ( 1 – 1258), quân Mông sau khi tiêu diệt nước Đại Lý ( Vân Nam), đã tiến vào lưu vực sông Hồng. Thế giặc rất mạnh, trên cá mặt trận, quân Đại Việt không địch nổi phải rút lui. Vua Thái Tông và quần thần phải bỏ Thăng Long rút xuống phía nam. Vua ngự thuyền nhỏ đến thăm em ruột là Thái úy Trần Nhật Hạo hỏi kế, Nhật Hạo lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ “ nhập Tống”. Vua rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Thủ Độ nói.

Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo.

Vào lúc gay go nhất của cuộc chiến, câu trả lời đanh thép của Thủ Độ đã giữ vững tinh thần quyết đánh thắng của quân dân Đại Việt. Ông thực sự trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến và là người lãnh đạo cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu, buộc giặc phải rút chạy về nước.

Sử sách phong kiến thường coi Trần Thủ Độ như một quyền thần vô học, có tài mà không có đức, có công với triều Trần, nhưng có tội với triều Lý. Lý do đưa ra là việc Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Chuyện rằng năm Nhâm Thìn ( 1232) nhân làm lễ Tiên hậu nhà Lý ở thôn thái Đường ( Đông Ngàn – Bắc Ninh), Thủ Độ sai làm nhà lá ở trên các hố để đến khi các tôn thất nhà Lý vào tế thị bị sụp cả xuống, rồi lấy đất đổ lên chôn sống hết. Nhưng trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên cũng chú giải rằng “ việc này chưa chắc đã có thực”

Trần Thủ Độ mất tháng Giêng năm Giáp Tý ( 1264) thọ 71 tuổi.
 
TRẦN THỪA

Trần Thừa sinh năm Giáp Thìn ( 1184), vị Thượng hoàng đầu tiên của triều Trần là con của Trần Lý, anh ruột Trần Tự Khánh và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung.

Ông tổ của Trần Thừa là Trần Kính vốn ở Đông Triều, nối đời làm nghề đánh cá, trên đường đi tìm đất làm ăn sinh sống đã cắm sào, dừng chân ở Tức Mặc ( Nam Định). Kính lấy vợ ở Tức Mặc sinh ra Trần Hấp mới tìm sang Hải Ấp ( Thái Bình), nơi giáp ranh các sông Nhị Hà và sông Hải Triều, là vùng đất cổ trù phú rồi định cư ở đó. Nhờ có công phò tá triều Lý, khôi phục được kinh thành, năm Bính Tý ( 1216), Trần Thừa được vua Lý Huệ Tông phong làm Nội thị phán thủ. Năm Quý Mùi ( 1223) khi Trần Tự Khánh mất, vua phong cho Trần Thừa làm Thái úy phụ chính.

Khi Lý Chiêu Hoàng làm vua, Trần Thủ Độ đã nghĩ ngay đến việc truyền ngôi cho Trần Cảnh, con trai thứ của Trần Thừa, bèn thưa với Trần Thừa việc ấy, Trần Thừa ngần ngại.

Chúng ta với thái hậu và Chiêu Hoàng là chỗ họ ngoại chí thân, nay làm cái việc tranh đoạt ấy tôi e chẳng khỏi mang tiếng với hậu thế.

Trần Thủ Độ phân trần.

Tôi xem diện mạo Trần Bố ( Trần Cảnh) mũi cao, hai gò má trội đúng là long chuẩn long nhan. Tính lại rộng rãi, biết thương người, có khí độ của vị Thái Bình thiên tử. Vả chăng, thời thế lúc này chỉ có họ Trần thay ngôi nhà Lý mới cứu được vận nước suy vi. Trời cho mà không lấy sẽ phải chịu tai ương. Xin đại huynh nên nghĩ kỹ.

Trần Thừa bảo Thủ Độ.

Mọi việc tùy chú định liệu, làm sao cho thành sự thì làm. Hóa nhà làm nước hay đến phải diệt tộc cũng ở một chuyện này đó.

Khi Trần Cảnh lên ngôi vua, nhiều đảng loạn mượn cớ phù Lý chống Trần nổi lên ngày càng nhiều, Trần Thủ Độ mời Trần Thừa làm Thượng hoàng, lo giúp Thái Tông Trần Cảnh điều khiển triều đình để Thủ Độ rảnh tay dẹp loạn. Không đầy một năm, Thủ Độ đã vừa đánh dẹp vừa thu phục được các đảng giặc để trở lại nắm triều chính. Thượng hoàng Trần Thừa yên vị có người tài năng trông coi việc nước, mặc sức lao vào thú săn bắn. Vùng Từ Sơn còn lưu truyền một câu chuyện tình của Thượng hoàng với cô thôn nữ xinh đẹp có tên là Tần. Sáng ấy Trần Thừa cùng lính tùy tùng về châu Cổ Pháp để săn chim. Xế chiều Trần Thừa bắn trúng một con bạchtrĩ. Mũi tên không trúng vào chỗ hiểm nên bạc trĩ vẫn đủ sức sà xuống bay chuyền từng đoạn, Trần Thừa phi ngựa đuổi mãi đến nỗi đám linh tùy tùng bị lạc. Đến khu rừng quang không thấy bóng chim nữa. Thất vọng định quay về thì ở một đồi sắn gần đó có một cô thôn nữ khỏe mạnh, xinh đẹp đang vừa làm vừa hát. Trần Thừa tìm đến, khi thấy Trần Thừa, cô gái sợ hãi, luống cuống vì sự ăn mặc trễ tràng của mình. Sự e lệ càng khiến cô gái thêm vẻ quyến rũ. Cô biết Trần Thừa là người quyền quý. Niềm tin vào người quyền quý khiến cô gái không thấy sợ hãi. Vị Thượng hoàng đắm đuối ngắm cô gái, hỏi thăm gia cảnh cô. Cô tên là Tần, cha mất sớm, chỉ còn mẹ già. Trần Thừa giãi bài tình yêu nồng nàn của mình. Cô gái phần vì khiếp nhược chỉ e lệ mà không dám chối từ. Chiều ấy đám lính tùy tùng không tìm thấy chủ. Bởi vì, Trần Thừa đã về nhà Tần, ép cô gái phải chiều chuộng mình.

Sáng hôm sau, Trần Thừa từ biệt gia đình lên ngựa về kinh. Linh cảm một điều hệ trọng sẽ xảy ra, Tần chạy theo níu áo Trần Thừa khóc như mưa. Cô nói tới trách nhiệm của người đã làm chồng cô một đêm. Trần Thừa thề thốt sẽ quay lại và để làm tin, ông đã rút kiếm cắt một miếng áo tím của mình trao cho cô gái. Ông đã dặn cô nếu có bề nào sẽ tìm ông ở kinh sư. Rồi năm tháng qua đi, Trần Thừa đã quên bẵng hình bóng và những kỷ niệm sâu sắc với cô thôn nữ trong khu rừng săn ấy. Còn Tần, cô đã lo đúng điều xảy ra, cô đã mang thai. Chịu búa rìu dư luận nhưng cô không về king sư tìm Trần Thừa, vì cô biến rằng vị Thượng hoàng yêu cô thì đã quay trở lại. Rồi cô sinh được một bé trai khỏe mạnh. Đứa bé được đặt tên là Trần Bà Liệt. Lớn lên, Bà Liệt theo học một lò vật và khỏe mạnh ít người địch nổi.

Năm ấy kinh sư có giải vật lớn nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp nước. Vua Thái Tông và Thượng hoàng đều đến xem. Đô Liệt cũng về dự. Sau cả tuần thi vật đô Trâu ( khỏe như trâu) đã lần lượt hạ hết các đối thủ. Đô Liệt xin vào tỉ thí. Ngay từ đầu, đô Trâu đã phải gờm sức khỏe của Đô Liệt. Trống thúc dồn dập, keo vật sôi động. Bỗng sau miếng đánh trượt, Đô Liệt bị đô Trâu dùng miếng hiểm vít được cổ xuống, mong giết chết một địch thủ đáng gờm. Trong cơn vật lộn điên cuồng để thoát khỏi chết ngạt, chiếc khăn trên đầu Đô Liệt tung ra. Một vạt áo tía rất lạ nằm trên thảm cỏ bê bết đất. Thượng hoàng Trần Thừa đã nhận ra vạt áo ấy. Ông hạ lệnh ngừng ngay keo vật, quên hẳn địa vị của mình đến ôm lấy Liệt, đứa con mà ông đã phũ phàng bỏ rơi mẹ nó. Trần Bà Liệt được giữ lại ở kinh sư và được nhận là con Thượng hoàng.
 
Triều Trần ( 1225 – 1400)

TRẦN THÁI TÔNG 91225 – 1258)

Niên hiệu – Kiến Trung ( 1225 – 1231)
Thiên Ứng Chính Bình ( 1232 – 1250_
Nguyên Phong ( 1251 – 1258)


Trần Cảnh sinh năm Mậu Dần ( 1218) cùng tuổi với Lý Chiêu Hoàng.

Nhờ Trần Thủ Độ thu xếp, Lý Chiêu Hoàng đã lấy Trần Cảnh và nhường ngôi cho Trần Cảnh năm 1225, lên làm vua, lấy miếu hiệu là Trần Thái Tông. Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Thánh Tông đã được 12 năm, tức là đã 19 tuổi mà vẫn chưa có con, trong khi triều Trần cần kíp phải có hoàng tử. Bởi vậy, Trần Thủ Độ bắt vua Thái Tông bỏ Chiêu Thánh giáng xuống làm công chúa, rồi đem người chị của Chiêu Thánh là Thuận Thiên vợ của Trần Liễn, đã có thai vào làm Hoàng hậu, Trần Liễn tức giận đem quân làm loạn. Vua Thái Tông cũng đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử ( Quảng Ninh) tỏ ý phản đối. Trần Thủ Độ đem quân thần tới đón về. Thái Tông từ chối, nói rằng.

Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc.

Nói mãi không chuyển, Thủ Độ ngoảnh lại nói với các quan.

Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đấy.

Nói đoạn, truyền lệnh xây cung điện ở nhà chùa Phù Vân. Vị quốc sư ở chùa vào van lạy Thái Tông về triều. Thái Tông bất đắc dĩ phải theo xa giá về kinh.

Được ít lâu, Trần Liễu biết không địch nổi, đang đêm giả làm người đánh cá lẻn lên thuyền ngự xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ hay tin, tuốt gươm toan xông đến định giết Trần Liễu. Thái Tông lấy thân che cho anh, xin Thủ Độ tha cho Trần Liễu. Trần Thủ Độ quẳng gươm xuống, nói.

Ta là con chó săn thôi. Chưa biết anh em hay ai nghịch ai thuận.

Vua Thái Tông tha cho Trần Liễu, cắt đất cho An Sinh làm thái ấp và phong cho làm An Sinh Vương.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đầu năm Đinh Tý ( 1 – 1258), Thái Tông biết dựa vào Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn ( tức Hưng Đạo Vương, con của Trần Liễu) để lãnh đạo nhân dân Đại Việt quyết chống giặc. Bản thân Thái Tông cũng tự làm tướng đi độc chiến, xông pha tên đạn.

Tháng 12 năm Đinh Tý ( 21 – 1 – 1258), vua Thái Tông cùng Thái Tử Hoảng đã chỉ huy quân Trần phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long.

Trần Thái Tông đã trở thành ông vua anh hùng cứu nước. Nhưng Thái Tông được sử sách lưu truyền những tư tưởng sâu sắc, một cốt cách độc đáo, là tác giả Khóa hư lục, một cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ nước ta.

Trong văn bản Khóa hư lục có bài « Tự thiền tông nam chỉ » của Trần Thái Tông viết. Ông kể lại sự việc năm 1236 đang đêm bỏ cung điện vào núi và lý do trở về. Ấy là khi Thái sư Trần Thủ Độ thống thiết nói.

Bệ hạ ở tu cho riêng mình thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao ? Vì để lời nói suông mà báo đời sau thì bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ ? Do đấy, trẫm cùng các vị quốc lão về kinh, gắng lại lên ngôi.

Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại nêu vấn đề « quốc gia xã tắc » là thước đo giá trị mỗi người, bất kể họ ở cương vị nào. Nghe theo quốc gia xã tắc. Trần Thái Tông đã trở về triều để 22 năm sau lãnh đạo nhân dân Đại Việt phá tan quân Nguyên. Trần Thái Tông là người có tính cách đặc biệt. Lúc làm vua thì thân làm tướng đi đánh giặc « xông vào mũi tên hòn đạn », làm vua nhưng xem thường vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc. Ông là gương mặt văn hóa đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam.

Mùa xuân năm Mậu Ngọ ( 1258), Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoàng, một cách tập sự cho Thái tử quen việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng hoàng để cùng coi việc nước.

Thái Tông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.
 
Trần Thánh Tông ( 1258 – 1278)

Niên hiệu : Thiệu Long ( 1258 – 1272)
Bảo Phù ( 1273 – 1278)


Vua Thái Tông có 6 người con. Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang ( Thực ra Quốc Khang là con của Trần Liễu với Thuận Thiên. Vì khôn là con đẻ của Thái Tông nên không được nối ngôi), Thái tử Hoảng, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật và các công chúa Thiều Dương, Thủy Bảo.

Mùa xuân năm Mậu Ngọ ( 1258), Thái tử Hoảng sinh năm 1240 lên ngôi lấy hiệu là Thánh Tông.

Thánh Tông là vị vua nhân từ, trung hậu. Vua hay nói với tả hữu.

Thiên hạ là của cha ông để lại nên để cho anh em cùng hưởng phú quý.

Bởi vậy, trừ các buổi thiết triều vua mới phân biệt trên dưới, còn thường ngày vua cho các hoàng thân vào điện ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, thật hòa hợp thân ái.

Đối nội, vua các dốc lòng xây dựng đất nước Thái Bình, thịnh trị. Vua quan tâm đến việc giáo hóa dân, khuyến khích việc học hành, mở những khoa thi chọn người tài và trọng dụng họ. Do vậy, dưới triều vua Thánh Tông, không chỉ có các ông hay chữ mà còn có những trạng nguyên tài giỏi như Mạc Đĩnh Chi. Bộ Đại Việt Sử ký, bộ quốc sử đầu tiên của nước ta, được Lê Văn Hưu hoàn thành vào năm Nhâm Thân ( 1272).

Vua còn quan tâm đến dân nghèo bằng việc ra lệnh cho các vương hầu, phò mã chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc để khai khẩn ruộng hoang, lập trang hộ. Trang điền có từ đấy. Vì vậy, 21 năm làm vua đất nước không có giặc giã. Nơi nơi dân chúng yên ổn làm ăn.

Về đối ngoại, lúc này nhà Nguyên đã thôn tính xong nước Tống rộng lớn nhưng chưa đủ sức đánh Đại Việt. Khi vua Thái Tông nhường ngôi cho Thánh Tông, vua Mông Cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh Tông. Nhà Nguyên không còn bắt Đại Việt thay đổi sắc phục và rập theo thể chế nhà nước chúng, nhưng lại bắt vua ta cứ 3 năm phải một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại ba người cùng các sản vật, sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu vật lạ khác. Vua Nguyên còn đòi đặt quan Chưởng ấp để đi lại, giám sát các châu quận Đại Việt, thật ra là để nắm tình hình mọi mặt, toan đặt cương thường cho nước láng giềng. Vua Trần Thánh Tông thừa biết đã xâm lược của nhà Nguyên, nên tuy bề ngoài thuần phục, nhưng vẫn khẩn trương tuyển mộ binh lương, luyện quân sĩ sẵn sàng đối phó. Năm Bính Dần ( 1266) vua Nguyên cho sứ sang giục cống nạp. Vua Thánh Tông sai sứ sang xin miễn việc cống người và bãi bỏ việc đặt quan giám sát. Vua Nguyên bằng lòng bỏ việc cống người nhưng lại bắt tuân thủ 6 điều khác. Vua phải thân vào chầu, phải cho con em sang làm con tin, nộp sổ hộ khẩu, phải chịu việc binh dịch, phải nộp thuế má và cứ giữ lệ đặt quan giám trị.


Vua Đại Việt lần nữa thoái thác không chịu. Năm Tân Mùi ( 1271) vua Mông Cổ Hốt Tất Liệt nhân đổi quốc hiệu là Đại Nguyên đòi vua Thánh Tông vào chầu. Vua Thánh Tông các bệnh không đi, chúng cho sứ sang tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, vua Thánh Tông trả lời rằng. Cột ấy lâu ngày đã mất.

Nhìn chung, vua Trần Thánh Tông thựv hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng rất kiên quyết, nhằm bảo bảo vệ danh dự của Tổ quốc, ngăn chặn từ xưa mọi sự dòm ngó, tạo cớ xâm lược của nhà Nguyên.

Năm Đinh Sửu ( 1277) Thái Thượng hoàng Trần Thái Tông mất ở phủ thiên Trường ( Tức Mặc). Năm sau, vua Thánh Tông nhường ngôi cho con là Thái Tử Khâm rồi về ở phủ thiên Trường làm thánh Thượng hoàng.

Vua Thánh Tông trị vị được 21 năm, làm Thái Thượng hoàng được 3 năm, thọ 51 tuổi.
 
Trần Nhân Tông (1279 – 1293)

Niên hiệu – Thiên Bảo ( 1279 – 1284)
Trùng Hưng ( 1285 – 1293)


Vua Thánh Tông có ba con, Thiên Thụy công chúa, Thái tử Khâm và Tả Thiên Vương Đức Việp. Năm Kỷ Mão ( 1279), Thái tử Khâm sinh năm Mậu Ngọ ( 1258) kế vị ngôi vua, lấy hiệu là Nhân Tông.

Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, quyết đoán, được sử sách ngợi ca là vị anh hùng cứu nước. Thời gian Nhân Tông trị vì, nước Đại Việt đã trải qua những thử thách ghê gớm.

Ngay sau khi Nhân Tông lên ngôi vua, nhà Nguyên liền sai Lễ bộ thượng thư sang sứ Đại Việt, Sài Thung đến kinh thành, lên mặt kiêu ngạo, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh rồi cho người đưa thư trách vua Nhân Tông tự lập ngôi vua và đòi phải sang chầu thiên triều.

Vua sai đại thần ra tiếp. Thung không thèm đáp lễ, vua mời yến, hắn không thèm đến.

Năm Nhâm Ngọ ( 1285) vua Nguyên lại cho sứ sang dụ.

Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải đưa vàng ngọc sang thay, và phải nộp hiền sĩ, thầy âm dương bói toán, thợ khéo tay, mỗi hạng hai người.

Nhân Tông cho chú họ là Trần Di Ái và bọn Lê Tuân, Lê Mục sang thay mình. Vua Nguyên bèn lập Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, Lê Mục làm Hàn lân học sĩ, Lê Tuân làm thượng thư lệnh và sai Sài Thung dẫn 1000 quân đưa bọn ấy về nước. Hay tin, Nhân Tông sai tướng đem quân lên đón đường đánh lũ nghịch thần. Sài Thung bị tên bắn mù một mắt, trốn chạy về nước, còn lũ Trần Di Ái bị bắt, phải tội đồ làm lính. Thấy không thể thu phục được vua Trần, nhà Nguyên liên tiếp phát động hai cuộc chiến tranh xâm lược vào các năm 1258 và 1287, toan làm cỏ nước Nam. Trong hai lần kháng chiến này. Nhân Tông đã trở thành ngọn cỏ kết chặt lòng dân, lãnh đạo nhân dân Đại Việt vượt qua bao khó khăn, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi huy hoàng.

Sau 14 năm làm vua, Nhâ Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông rồi làm Thái Thượng hoàng và đi tu, trở thành thủy tổ phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhân Tông thực sự là một triết gia lớn của Phật học, giúp triết học Phật giáo Việt Nam phát triển rực rỡ, thể hiện được đủ trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông là tinh thần thực tiễn, chiến đấu và táo bạo. Theo sách Tam Tổ thực lực, một học trò của Nhân Tông.

Như thế nào là Phật ?

Nhân Tông đáp.

Như cám ở đáy cối.

Lần khác một học trò hỏi.

Lúc giết người không để mất thì làm như thế nào ?

Khắp toàn thân là can đảm. Nhân Tông đáp.

Anh hùng cứu nước, triết nhân, thi sĩ là phẩm chất kết hợp hài hòa trong con người Nhân Tông. Về phương diện thi sĩ, Nhân Tông còn có tâm hồn thanh cao, phóng khoáng, một cái nhìn tinh tế, tao nhã. Vua từng viết.

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
( Xã tắc hai lần mệt ngựa đá
Non sông nghìn thủa vững âu vàng)

Trần Nhân Tông qua đời năm Mậu Thân ( 1308) tại am Ngọa Vân núi Yên Tử ( Đông Triều – Quảng Ninh)
 
Hưng Đạo Đại Vương

TRẦN QUỐC TUẤN

Trần Quốc Tuấn ( 1228 – 1300) là một danh nhân kiệt xuất của dân tộc đồng thời là thiên tài quân sự cổ kim của thế giới.

Ngay từ nhỏ, Trần Liễu đã kén, những thầy giỏi dạy cho Trần Quốc Tuấn, ký thác vào con hội đủ tài văn võ, mong trả mối thù sâu nặng năm nào.

Lớn lên, Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, đọc rộng các sách cả văn lẫn võ. Trong đời mình, Quốc Tuấn đã trải qua một lần gia biến, ba lần nạn nước. Nhưng ông lại càng tỏ ra là người hiền tài, một vị anh hùng cứu nước. Ông luô đặt lợi nước lên trên thù nhà, vun trồng cho khối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần, tạo cho thế nước ở đỉnh cao ngàn trượng đủ sức đè bẹp quân thù. Trong lần quân Nguyên sang xâm lược lần thứ hai, thấy rõ thiếu ngành trưởng, ngành thứ xung khắc, giữa ông và Trần Quang Khải không chung sức chung lòng thì kẻ có lợi chỉ là quân giặc. Bởi vậy, Quốc Tuấn đã chủ động giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải, tạo nên sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hùng mạnh.

Chuyện kể rằng, một lần ở biển Đông, Quốc Tuấn đã mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Trần Quang Khải, vĩnh viễn xóa bỏ mối hiềm khích giữa hai người, đầu mối của hai chi họ Trần. ( Quốc Tuấn là con Trần Liễu, Trần Quang Khải là con Trần Cảnh). Lần khác, Quốc Tuấn đem việc xích mích dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý kích ông nên cướp ngôi của chi thứ. Ông nổi giận rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và những người tâm phúc van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng.

Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thần này nữa.

Trong kháng chiến, ông luôn hộ giá bên vua, tay chống gậy bịt sắt. Dư luận xì xào sợ ông giết vua. Ông liền bỏ phần bịt sắt, chỉ chống gậy để tránh hiềm nghi, làm yên lòng quân dân.

Ba lần chống giặc, các vua Trần đều giao cho ông quyền Tiết chế ( Tổng tư lệnh quân đội), vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính vì vậy tướng sĩ hết lòng tin yêu ông. Đạo quân cha con ấy trở thành đôi quân bách chiến bách thắng.

Trần Quốc Tuấn là bậc tướng trụ cột triều đình. Ông đã soạn hai bộ binh thư. Binh Thư yến lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc. Khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược, Trần Quốc Tuấn viết « Hịch tướng sĩ », truyền lệnh cho các tướng, dạy bảo họ sẽ thắng bại, tiến lui. Hịch tướng sĩ rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định văn chương của một bậc « đại bút).

Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng gồm đủ tài đức.

Là tướng nhân, ông thương dân thương quân, chỉ cho họ con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng dũng, ông xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, tạo nên những trận như Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời. Là tướng trí, ông bày tỏ trước quân lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông sẽ gặp họa. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên, ông đều được giao trọng trách điều sát binh mã và đều lập được công lớn.

Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm và hỏi.

Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao ?

Ông đã trăng trăn những lời tâm huyết, sâu sắc, đúng cho mọi thời đại.

Thời bình phải khoam thư sức dân để làm kế lâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước.

Mùa thu tháng Tám, ngày 20 năm Canh Tý ( 1300) « Bình Bắc đại nguyên soái » Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời ông dặn, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ. Vua gia phong cho ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông lúc sinh thời.
 
Thượng tướng Thái sư

TRẦN QUANG KHẢI

Trần Quang Khải ( 1241 – 1294) là con trai vua Trần Thái Tông ( Trần Cảnh).

Dưới triều vua Trần Thánh Tông ( cạnh ruột Quang Khải), Trần Quang Khải được phong tước Chiêu Minh đại vương. Năm Giáp Tuất ( 1274), ông được giao chức Tướng quốc Thái úy. Năm Nhâm Ngọ ( 1282), dưới triều vua Nhân Tông, Trần Quang Khải được cử làm thượng tướng Thái sư, nắm toàn quyền nội chính. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba, Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai, sau Trần Quốc Tuấn đã chỉ huy quân Trần đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và Thăng Long, những trận then chốt nhằm khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5 năm Ất Dậu ( 1285).

Bên cạnh năng lực quân sự, Trần Quang Khải còn là một nhà thơ có vị trí không nhỏ trong văn học sử Việt Nam. Ông là tác giả « Lạc Đạo » đã thất truyền và theo lời bình của Phan Huy Chú, thơ ông Thanh thoát, nhàn nhã, sâu xa, lý thú. Đọc bản dịch bài thơ « Vườn Phúc Hưng » của Quang Khải, thấy rõ hơn tâm hồn ông.

Phúc Hưng một khoảnh nước bao quanh
Vài mẫu ruộng quê đất rộng thênh
Hết tuyết chòm mai hoa trắng xóa
Quang mây đỉnh trúc sắc tươi xanh
Nắng lên mời khách pha trà nhấp
Mưa tạnh sai đồng giở thuốc nhanh
Báo giặc ải Nam không khói lửa
Bên giường một giấc ngủ ngon lành.

Trần Quang Khải, một cuộc đời lớn, vừa làm thủ tướng, vừa làm tướng, vừa đánh giặc vừa làm thơ.
 
Chiêu văn đại vương

TRẦN NHẬT DUẬT

Trần Nhật Duật ( 1253 – 1330) con trai thứ tư Trần Thái Tông, người có công lớn trong việc chỉ huy quân Trần đánh thắng giặc Nguyên, từng được phong Thái úy quốc công với Chiêu Văn đại vương, từ bé đã nổi tiếng là ông hoàng hiếu học và sớm lộ thiên tri, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người. Có thể nói, tuổi trẻ của Trần Nhật Duật là những năm tháng miệt mài rèn luyện để thành tài. Vì vậy, Nhật Duật nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng. Uy tín của vị vương còn vang dội cả nước ngoài do sự hiểu biết sâu rộng về các nước láng giềng. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm thành, Nhật Duật chẳng những chỉ sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy mà còn vang dội cả nước ngoài do sự hiểu biết sâu rộng về các nước láng giềng. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm thành. Nhật Duật chẳng những chỉ sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy mà còn am hiểu nhiều mặt của các nước đó, kể cả phong tục, tập quán của họ. Đối với các dân tộc trong nước, Nhật Duật không chỉ hiểu tiếng mà còn hiểu cả về người.

Mới ngoài 29 tuổi, Nhật Duật đã được triều đình nhà Trần giao đặc cách trách những công việc về các dân tộc có liên quan. Vua Nhân Tông thán phục, thường nói đùa « Chiêu Văn vương có lẽ không phải người Việt mà là hậu thân của giống Phiên, Man ». Tiếp xúc với các sứ thần triều Nguyễn, có lần Nhật Duật đã vui vẻ, tự nhiên trò chuyện suốt cả một ngày, khiến cho sứ Nguyên khăng khăng cho rằng Nhật Duật là người Hán ở Chân Định ( gần Bắc Kinh) sang làm quan bên Đại Việt. Hiển nhiên, Nhật Duật phải khổ học công phu và phải hết sức kiên trì mới đạt được kết quả ấy. Câu chuyện sau đây tỏ rõ Nhật Duật chẳng những chỉ giỏi các thứ tiếng mà còn là một nhà dân tộc học lỗi lạc.

Ngày ấy, vua quan triều Trần được tin chúa đạo Đà Giang ( thuộc miền Tây Bắc ngày nay) Trịnh Giác Mật tụ họp phe đảng nổi lên cự lại triều đình. Tin dữ trong nước đến cùng lúc nhà Nguyên đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Cần phải dẹp ngay mối bất hòa trong nước. Người đảm đang trong trách này không ai khác hơn Nhật Duật. Thế là vị vương trẻ 27 tuổi dưới cờ hiệu « Trấn thủ Hà Giang » làm lễ Ra quân lên đường.

Hay tin, chúa Hà Giang họp đám đầu mục bàn kế cự chiến. Trịnh Giác Mật định ám hại viên tướng trẻ triều Trần nên sai người đưa thư dụ Nhật Duật : « Giác Mật không dám trái lệnh triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến. Giác mật xin ra hàng ngay ». Muốn thu phục được Giác Mật. Nhật Duật mặc các tướng can ngan, một mình một ngựa đến đến trại Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp đi hầu. Thản nhiên đi giữa lớp lớp gươm giáo và đám lính sắc phục kỳ dị cố ý phô trương uy hiếp của Giác Mật. Nhật Duật nói với chúa đạo bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục của dân tộc Đà Giang.

Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đây thì nóng tai phải.

Từ Giác Mật đến các đầu mục đền sững sờ kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói và tục lệ của Nhật Duật. Rồi mâm rượu được bưng lên. Chúa đạo nheo mắt thách thức, đưa tay mời. Chỉ có quả bầu cắt đôi sóng sánh rượu và đĩa thịt nai muối. Nhật Duật không chút ngần ngại cầm thịt ăn rồi nhai vừa ngửa mặt, cầm gáo rượu bầu từ từ dốc vào mũi hết sức thành thạo.

Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên. « Chiêu Văn vương là anh em với ta »

Nhật Duật từ tốn « Chúng ta xưa nay vẫn là anh em ». Rồi sau đấy, theo lệnh Nhật Duật, tiểu đồng mở tráp ra lấy những chiếc vòng bạc sáng lóa trao cho từng đầu mục Đà Giang. Những người cầm đầu đạo Đà Giang chỉ còn biết hoan hỉ đón lấy tặng phẩm kết nghĩa theo đúng tục lệ của họ từ tay viên tướng triều đình mà họ vừa nhận là anh em. Chúa đạo Đà Giang đã quy thuận. Sức mạnh của dân tộc như được nhân lên.
 
An Tư Công Chúa

An Tư là con gái út vua Thần Thái Tông. Ngày nay không ai biết nàng sinh và mất năm nào. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chỉ ghi.

Sai người đưa công chúa An Tư đến cho Thoát Hoan là có ý làm giảm bớt tai họa cho nước vậy.

Ngày ấy, khoảng đầu năm Ất Dậu ( 1285), quân Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long, Thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông đã đi thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn thuyền ngự thì đưa ra vùng Ngọc Sơn để đánh lạc hướng giặc. Nhưng quân Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9 – 3 thủy quân giặc đã bao vây Tam Trĩ suýt bắt được hai vua. Chiến sự buổi đầu bất lợi. Tướng Trần Bình Trọng lại hy sinh dũng cảm ở bờ sông thiên Mạc. Trước thế giặc mạnh, nhiều tôn thất nhà Trần như Trần Kiện, Trần Lộng, kể cả hoàng thân Trần Ích Tắc đã mang gia quyến chạy sang trại giặc. Trần Khắc Chung được sai đi sứ để làm chậm tốc độ tiến quân của giặc không có kết quả, trong lúc đó, cần phải có thời gian để củng cố lực lượng, tổ chức chiến đấu. Bởi vậy, Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải dùng đến kế mỹ nhân. Vua sai đem dâng em út của mình cho Thoát Hoan. Công chúa còn rất trẻ, vì nước, An Tư từ bỏ cuộc sống êm ấm, nhung lụa trong cung đình vĩnh biệt bạn bè để hiến dâng tuổi trẻ, đời con gái, kể cả tính mạng mình. An Tư vào trận chỉ có một mình, không một tấc sắc. Hiểu rõ nạn nước, cảnh mình, nàng chấp nhận gian khổ, tủi nhục,. kể cả cái chết.

An Tư sang trại giặc không phải với tư cách đi lấy chồng mà là vật cống nạp, dâng hiến, cũng là một người nội gián. Do vậy, sự hy sinh ấy thật cao cả. Ở trại giặc, làm vợ Thoát Hoan, An Tư đã sống ra sao, làm được những gì, không ai biết. Nhưng tháng 4 năm ấy, quân Trần bắt đầu phản công hầu khắp các mặt trận, khiến cho quân Nguyên đại bại, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn qua biên giới.

Sau chiến thắng các vua Trần làm lễ tế lăng miếu khen thưởng công thần, truy phong thần các tướng lĩnh. Nhưng không ai nhắc đến An Tư. Vậy, công chúa còn hay mất. Nàng được mang về Trung Quốc, hay đã chết trong đám loạn quân. Trong cuốn « An Nam chí lược » của Lê Trắc, một thuộc hạ của Trần Kiện theo chủ chạy sang nhà Nguyên, sống lưu vong ở Trung Quốc có ghi.

Trước, Thái tử ( chỉ Thoát Hoan) lấy người con gái nhà Trần sinh được hai con.

Người con gái họ Trần này phải chăng là công chúa An Tư. Chưa có chứng cứ rõ ràng khẳng định điều ấy. Dù triều Trần và sử sách có quên nàng thì các thế hệ đời sau vẫn dành cho nàng sự kính trọng, thương cảm. Khoảng trống lịch sử sẽ được lấp đầy bằng tình cảm của người sau.
 
Công chúa phụng dương

Công chúa Phụng Dương ( 1244 – 1291) là con Tướng quốc Thái sư Trần Thủ Độ, mẹ là phu nhân Bảo Châu. Từ nhỏ Phụng Dương đã nổi tiếng thông minh và rất mực hiền hậu. Vua Thái Tông Trần Cảnh yêu mến đem về cung nhận làm con nuôi, cho hiệu là Phụng Dương. Từ đó, Phụng Dương trưởng thành trong hoàng cung như một nàng công chúa.

Lớn lên Phụng Dương được gả cho thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải. Nghi lễ đúng như con gái vua đi lấy chồng. Nhưng thật không may cho Phụng Dương, lúc ấy Thái sư Trần Quang Khải đang say mê một người thiếp nên nhạt tình với vợ mới. Chuyện đến tai Trần Thủ Độ khiến ông nổi giận cho gọi con gái về hỏi han cặn kẽ rồi không cho phép Quang Khải được làm như thế. Ở phủ tể tướng, Quang Khải có nhiều thê thiếp nhưng về danh nghĩa, Phụng Dương là Chánh phi, tuy nhiên, Phụng Dương đối xử với các thê thiếp của chồng hết sức bao dung. Bà ân cần chỉ bảo cho họ cách làm ăn, cư xử. Hoặc họ làm điều gì khiến Quang Khải la mắng thì Phụng Dương lại nhẹ nhàng khuyên giải để họ biết lỗi mà sửa. Trần Quang Khải bàn việc nước, bà lo quán xuyến việc nhà, cư xử với người già, người trẻ có phép tắc, sắp xếp công việc đâu ra đấy, nên tiền tài không hao phí mà vẫn sinh lợi khiến chồng rất hài lòng.

Đi lấy chồng, nhưng Phụng Dương vẫn phụng dưỡng cha mẹ chu đáo. Khi cha mất, bà đích thân lo cơm nước hầu hạ mẹ hệt như một cô gái thường dân nết na hiếu thảo.

Năm Giáp Thân ( 1284) quân Nguyên xâm lược nước ta. Thái sư và bà xuôi thuyền cùng triều đình về thiên Trường. Thình lình nửa đêm có chiếc thuyền bốc cháy, nghe tiếng hoản loạn, ai nấy tưởng giặc đến nơi rồi. Bà bình tĩnh đánh thức Thái sư dậy, đưa lá mộc che tên cho chồng. Bà được Thái sư thực sự yêu phục.

Cuối đời, thượng tướng Thái sư về nghỉ ở trang riêng tại phủ thiên Trường. Bà theo về rồi mất ở đấy năm 47 tuổi. Nhân cách của bà được chính Thái sư đánh giá.

Làm điều thiện, nói điều nhân, sống nết na, chết lưu danh, vượng phu ích tử.
 
Trần Anh Tông ( 1293 – 1314)

Niên hiệu : Hưng Long

Vua Anh Tông có ba người con. Anh Tông Thuyên, Huệ võ vương Quốc Chẩn và công chúa Huyền Trân.

Năm Quý Tị ( 1293).Nhân Tông truyền ngôi cho con cả là Thái tử Thuyên. Thái tử Trần Thuyên sinh năm Bính Tý ( 1276) lên làm vua lấy hiệu là Anh Tông, vua Anh Tông lúc đầu hay uống rượu, nhiều đêm lén ra ngoài để đi chơi, khiến triều đình lo lắng. Một lần uống rượu say quá. Thượng hoàng Nhân Tông từ Thiên Trường về kinh, các quan ra đón rước mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá quay về hạ chiếu cho đại thần văn võ tới thiên Trường hội nghị. Khi tỉnh dậy, biết chuyện, Anh Tông hốt hoảng vội vàng chạy đuổi theo. Vừa ra ngoài cung, vua gặp một người trẻ tuổi là Đoàn Nhữ Hài. Vua nhờ Nhữ Hài thảo một bài tạ tội rồi cùng với chàng trai hay chữ xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ thiên Trường, Thượng hoàng xem biểu dần dần nguôi giận, răn dạy một hồi rồi tha lỗi cho con. Về đến kinh sư, Anh Tông mến tài cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự sử trung tán và từ đó không uống rượu nữa. Noi gương Anh Tông biết sửa mình, các đại thần, kể cả giới hoàng tộc không dám lơ là việc nước. Do vậy, việc triều chính từ đó kỷ cương phép tắc đâu vào đấy.

Anh Tông cũng là vị vua thông minh, hóm hỉnh. Trước đó, các vua Trần có lệnh lấy tràm vẽ rồng vào đùi, Anh Tông muốn bỏ lệ đó. Thượng hoàng thấy vậy, nói.

Dòng dõi nhà Trần vẫn vẽ mình để nhớ gốc ngày xưa, nhà vua phải theo tục lệ đó mới được.

Anh Tông vâng lệnh, nhưng khi Thượng hoàng không chú ý, vua lờ đi không cho vẽ.

Khi Anh Tông đau nặng, Hoàng hậu cho đi gọi thầy tăng về để làm lễ xem việc sinh tử, Anh Tông gạt đi.

Thầy tăng đã chết đâu mà biết được sự chết ?

Năm Giáp Dần ( 1314) Anh Tông nhường ngôi cho Thái tử Mạnh rồi về làm Thái Thượng hoàng ở phủ thiên Trường đến năm Canh Thân ( 1320) thì mất. Anh Tông trị vì 21 năm, thọ 54 tuổi.
 
Công chúa huyền trân

Tháng 3 năm Tân Sửu ( 1301), Thượng hoàng Trần thành. Để tăng thêm quan hệ hòa hiếu giữa hai nước Việt – Chiêm thành, Thượng hoàng hứa gả con gái cho vua Chiêm. Bởi vậy, năm Bính Ngọ ( 1306), sau khi nhận lễ vật gồm hương quý, của lạ vàng bạc cầu hôn, vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân, Chế Mân đem đất châu Ô, châu Lý làm vật dẫn cưới và phong Huyền Trân làm Hoàng hậu. Việc công chúa nước Việt kết hôn với vua Chiêm, trở thành hoàng hậu nước Chiêm là hợp lẽ, môn đăng hộ đối, chưa kể, cuộc hôn nhân ấy là cái cầu giao hảo chính trị, xóa bỏ hiềm khích, hận thù để hai dân tộc được sống bình yên. Nhưng triều Trần không nhất trí, nhiều người nặng đầu óc kỳ thị dân tộc lên tiếng phản đối. Họ làm thơ quốc âm chê cười vua Trần, tiếc nàng công chúa sắc nước hương trời. Nhưng cũng nhiều người, trong đó có Trần Khắc Trung cho là việc tốt đẹp nên làm. Chỉ tội cho Huyền Trân, nàng đâu đã biết gì về đất nước và vị vua ấy.

Huyền Trân về Chiêm thành thì hai châu Hoan, Châu Ái ( Thanh Hóa – Nghệ An) cũng rầm rộ kéo nhau vào tiếp nhận hai châu Ô, Lý, châu Ô đổi thành châu Thuận, châu Lý đổi thành châu Hóa. Nhân dân thường gọi chung là thuận Hóa.

Về Chiêm thành được 11 tháng, Huyền Trân sinh được con trai thì Chế Mẫn chết, theo tục lệ Chiêm thành, Hoàng hậu phải lên giàn hỏa thiêu chết theo. Vua Trần sợ công chúa bị hại, sai Trần Khắc Chung quan Nhập nội thành khiển thượng thư tả bộc xạ và An phủ sứ Đặng Văn sang tìm cách cứu nàng về.

Tháng 10 năm Đinh Mùi ( 1307) hai sứ giả đến kinh đô Chiêm làm lễ viếng, nhân đó nói rằng.

Nếu để Hoàng hậu lên giàn thiêu ngay thì sợ trong đàn chay sẽ không có người đứng chủ. Chi bằng hãy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn ở ven trời đón linh hồn về rồi hãy vào giàn thiêu.

Người Chiêm nghe có lý, nghe theo. Nhân đó, Khắc Chung đã dùng thuyền nhẹ cướp công chúa rong thẳng ra bể. Không rõ vì mang ơn cứu mạng hay giữa Huyền Trân với Khắc Chung đã có lời hẹn từ trước mà con thuyền đưa công chúa từ Chiêm thành về Đại Việt loanh quanh trên biển gần một năm ròng. Bất chấp mưa to gió lớn của biển khơi, búa rìu dư luận và phép tắc của triều đình, con thuyền của Huyền Trân và Khắc Chung vẫn lênh đênh trên biển say đắm và thơ mộng.

Tháng 8 năm Mậu Thân ( 1308) nghĩa là sau 10 tháng, thuyền của Huyền Trân và Khắc Chung về đến Thăng Long. Vua Anh Tông thương em gái nên không đả động gì đến chuyện ấy, cũng không một lời trách cứ Khắc Chung. Nhưng trong tôn thất nhà Trần không phải không có người phản đối. Đặc biệt các nhà nho đương thời xem mối tình sử của Khắc Chung và Huyền Trân là một việc xấu, đáng chê trách.
 
Trần minh tông ( 1314 – 1329)

Niên hiệu : Đại Khánh ( 1324 – 1323)
Khai Thái ( 1324 – 1329)


Năm Giáp Dần ( 1314) Thái tử Mạnh, sinh năm Canh Tý ( 1300) lên nối ngôi lấy hiệu là Minh Tông. Minh Tông có lòng nhân hậu, hay thương người nhưng xét việc chưa minh. Năm Ất Mão( 1315) vua định lệ cấm người trong họ không được kiện cáo nhau. Năm Quý Hợi ( 1323) mở khoa thi thái học sinh chọn người tai ra giúp nước. Nhờ biết tôn trọng kẻ sĩ nên vua Minh Tông đã có dưới trướng mình những hiền thần như Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An giúp rập. Tuy nhiên do quá tin vào bọn nịnh thần, vua đã giết oan Huệ võ vương Quốc Trượng ( bố vợ ) mình. Trần Quốc Chẩn thân sinh ra Hoàng hậu Lệ Thánh ( vợ Minh Tông). Ông có công mấy lần đánh giặc tan quân Chiêm thành gây hấn. Nhưng vì lúc ấy Hoàng hậu chưa sinh Hoàng tử nên trong việc trọn Thái tử triều thần phân ra làm hai phái chủ trương trái ngược nhau, một phái do Trần Quốc Chẩn đứng đầu muốn chờ Hoàng hậu sinh con trai rồi sẽ lập Thái tử. Một phái do Văn Hiến hầu và Trần Khắc Chung xin lập Hoàng tử Vượng là con một qúy phi làm Thái tử. Việc chưa ngã ngũ thì Văn Hiến hầu cho tên Trần Nhạc là đầy tớ của Quốc Chẩn 100 lạng vàng, xui nó vu cáo cho Quốc Chẩn mưu làm phản. Vua Minh Tông liền cho bắt Quốc Chẩn giam ở chùa Tư Phúc. Nhân đó Trần Khắc Chung xin vua trừ Quốc Chẩn đi lấy cớ « bắt hổ thì dễ thả thỉ khó ». Minh Tông nghe theo, không cho Quốc Chẩn ăn uống gì cả. Biết cha mình khát. Hoàng hậu Lệ Thánh phải lấy áo nhúng nước mặc vào rồi vắt ra cho uống. Cuối cùng Quốc Chẩn bị chết, Sau đó người vợ lẽ của Trần Nhạc ghen với vợ cả tố cáo sự thật. Nỗi oan được giải nhưng người trung thần đã chết.

Minh Tông làm vua đến năm Kỷ Tị ( 1329) thì nhường ngôi cho Thái tử Vượng, về Thái Thượng hoàng.
 
Trần hiến tông ( 1329 – 1341)

Niên hiệu : Khai Hựu

Thái tử Vượng sinh năm Kỷ Mùi ( 1319), mới 10 lên nối ngôi, hiệu là Hiến Tông trị vì nhưng việc điều khiển triều chính, kể cả việc dẹp loạn Ngưu Hồng ở Đà Giang, đánh quân Ai Lao xâm phạm bờ cõi đều do Thượng hoàng Minh Tông đảm nhận.

Hiến Tông làm vua đến năm Tân Tị ( 1341) thì mất, ở ngôi được 13 năm, thọ 23 tuổi.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top