• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Việt Nam thời dựng nước

Mai Hắc đế ( 722)

Năm Nhâm Tuất( 722) đời vua Huyền Tông nhà Đường, ở Hoan Châu nổ ra cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Mai Thúc Loan quê Mai Phụ, Thạch Hà, Hà Tĩnh, không ai còn nhớ năm sinh ngày mất của ông. Chỉ biết rằng, thủa nhỏ Mai Thúc Loan nghèo lắm, mẹ phải đi làm mướn cho nhà giàu và kiếm củi nuôi con. Đã thế, cậu bé lại chịu tiếng xấu không cha ( Sách Thiên Nam Ngữ Lục chép : Mẹ Mai Thúc Loan xem nấu muối bị một làn khói muối ngũ sắc bao lấy mình mà có Thai.). Nhưng Mai Thúc Loan cũng sớm bộc lộ thiên tư thông minh, sáng ý kỳ lạ và có sức khỏe tuyệt vời.

Lớn lên, Mai Thúc Loan làm lụng, lo toan giúp mẹ đủ việc. Chú bé hết đi làm mướn cho bọn hào phú lại theo mẹ vào rừng kiếm củi. Rồi một tai nạn khủngg khiếp diễn ra giữa buổi hai mẹ con đi kiếm củi trong rừng sâu. Khi nghe tiếng kêu thét của mẹ, kịp đến thì mẹ đã chết gục bên vũng máu cạnh một con hổ lớn đang gầm gừ, quần đảo cắn xé man rợ. Hờn căm ngút trời, Mai Thúc Loan xông vào đánh nhau với mãnh thú, buộc con vật đang say mồi, hung tợn phải bỏ chạy. Từ đó, Mai Thúc Loan sống cuộc đời mồ côi, cày thuê ở mướn cho các hộ trong làng. Nhà nghèo, Mai Thúc Loan không được học hành mà chỉ học lỏm để biết chữ,nghĩa hiểu sách.

Lớn lên, Mai Thúc Loan là một chàng trai có sức khỏe phi thường. Thúc Loan là đô vật lừng danh, từng ăn giải cạn ở nhiều nơi.

Theo phường săn học rồi trở thành thợ săn lành nghề, nhiều lần Thúc Loan giết được chúa sơn lâm khiến dân trong vùng khâm phục. Vì vậy, mọi người suy tôn Mai Thúc Loan làm chức « Đầu phu », thủ lĩnh quân sự địa phương của làng.

Châu Hoan ngày ấy luôn bị giặc Chà Và ( Gia – va), Côn Lôn ( Mã Lai) cướp phá, nhất là ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường, làm cho dân vô cùng cực khổ.

Đặc biệt, nạn cống quả lệ chi ( quả vải) là một gánh nặng khôn cùng đối với nhân dân Hoan Châu. Nguyên do ở Trường An, vua Đường có một nàng ái phi, thường gọi là Dương Quý Phi nhan sắc tuyệt vời mà tính tình cũng thật thất thường. Dương Quý Phi thích ăn quả lệ chi xinh xắn, chỉ ở An Nam mới có. Nên vua Đường bắt dân An Nam phải cống vải.

Mùa vải năm Nhâm Ngọ ( 722) Mai Thúc Loan cùng đoàn phu phải gánh vải đi nộp cống. Đoàn người gánh vải đầm đìa mồ hôi mà vẫn phải lê từng bước trên đường. Gần trưa, Mai Thúc Loan cho mọi người nghỉ chân bên rừng, cái khát cháy cổ hành hạ đoàn phu. Một dân phu bứt một quả vải ăn cho đỡ khát. Quả vải chưa kịp đưa lên miệng đã bị một tên lính Đường đi áp tải xông tới, vung cán mã tấu đánh vào đầu. Khi tên lính Đường lần nữa định đánh ông già, thì hắn đã bị đánh chết tươi. Sự việc xảy ra nhanh như chớp. Bọn giặc cậy có binh khí hò hét vung đao, kiếm xông vào Mai Thúc Loan lập tức thổi bùng lên khí thế vụ bạo động thành một cuộc dấy nghĩa.


Vị thủ lĩnh trẻ được tôn thành một vị anh hùng, đã hiệu triệu trăm họ hưởng ứng nghĩa lớn và chọn Rú Đụn, còn gọi là Hùng Sơn làm căn cứ. Không để cho giặc rảnh tay, Mai Thúc Loan quyết định ra quân trước, đánh thẳng vào Châu Trị mở rộng địa bàn Hoan Châu cho cuộc khởi nghĩa.

Mai Thúc Loan phát hịch kể tội giặc Đường và kêu gọi mọi người Việt đứng lên giữ gìn non sông. Từ căn cứ Hùng Sơn, Mai Thúc Loan mở rộng địa bàn, xây thành Vạn An với quy mô của một kinh thành. Từ đây Mai Thúc Loan tìm cách liên kết với các thủ lĩnh và nhân dân các châu miền núi, với Champa để có thêm lực lượng chống quân Đường. Trước khi tiến đánh phủ đô hộ ngoài Giao Châu. Mai Thúc Loan được quân dân tôn phong lên ngôi hoàng đế lấy vương hiệu là Mai Hắc Đế ( vua Đen họ Mai). Và, chỉ trong một trận ác chiến, Mai Thúc Loan đã chiếm được phủ thành Tống Bình ( Hà Nội ), đuổi tên trùm đô hộ Quang Sở Khách tháo chạy về nước, lấy lại giang sơn. Đất nước ta lại được giải phóng nhân dân khắp nơi nô nức theo Mai Hắc Đế, lực lượng nghĩa quân tới hàng chục vạn người.

Nhưng lúc này nhà Đường còn mạnh. Vua Đường huy động 10 vạn quân ồ ạt theo đường hiểm đánh ập vào thành Vạn An. Không đương nổi đội quân xâm lược hung hãn, Mai Hắc Đế phải rút vào rừng, sau bị ốm rồi mất. Nghĩa quân tan vỡ, quân Đường tàn sát nhân dân ta vô cùng dã man, xác người đắp thành gò cao. Tội ác tày trời này của giặc chỉ làm tăng thêm lòng căm thù của nhân dân nước Việt.

Nhân dân nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ, đề thơ ca tặng người anh hùng.

Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng
Vạn An thành lũy khói hương xông
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức
TRăm trận Lý Đường phục võ công

Đường đi cống vải từ đây dứt
Dân nước đời đời hưởng phúc chung.
 
Phùng Hưng – Bố Cái đại Vương ( 791- 802)

Năm Đinh Mùi ( 767) truyền thống chính trị của nhà Đường trên đất Việt bắt đầu suy yếu. Năm Đại Lịch thứ hai đời Đường Đại Tông có giặc Lôn Côn và Chà Và vào quấy nhiễu. Quan kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi chỉ còn biết giữ thành chờ cứu viện. Vua Đường sai Cao Chính Bình đem quân sang đánh tan giặc ở Cửu Chân, sau đó y được giữ chức đô hộ An Nam. Cao Chính Bình ỷ thế ra sức tàn sát, cướp bóc, vơ vét của cải của dân ta, khiến người người đều căm giận. Nhân cơ hội đó Phùng Hưng cùng hai em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh hiệu triệu dân Việt nổi lên chống lại nhà Đường.

Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi cực tộc, hào trưởng đất Đường Lâm ( thuộc Ba Vì, nay thuộc thị xã Sơn Tây – Hà Tây). Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh, một người hiền tài đức độ, từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, sau đó ông trở về quê, chí thú làm ăn trở nên giàu có, nuôi trong nhà hàng ngàn nô tỳ. Phùng Hạp Khanh có một người vợ họ Sử, một lần sinh ba. Phùng Hưng khôi ngô khác thường. Trong ba anh em, Phùng Hưng có sức khỏe và khí phách đặc biệt. Ông được sử sách và nhân dân truyền tụng về tài đánh trâu, giết hổ ở đất Đường Lâm. Kể rằng, có lần ông đánh được hai con trâu mộng đang húc nhau. Lần khác, bằng mưu kế, ông đương dầu với hai con hổ khét tiếng trong vùng, giết chết mãnh thú, trừ họa cho dân. Vì được dân sẵn lòng mến phục nên khi Phùng Hưng trương cờ dấy nghĩa mưu việc lớn, nhân dân theo về rất đông. Chỉ trong một thời gian ngắn, nghĩa quân lên tới vài vạn người. Quân giặc ở châu Đường Lâm và các vùng phụ cận không đương nổi những cuộc công phá sấm sét phải tháo chạy. Phùng Hưng xưng là Đô Tổng chia quân đi trấn trị những vùng hiểm yếu. Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Khi tiến công, khi thế thủ, cuộc chiến diễn ra hơn 20 năm. Năm Tân Mùi (791), Phùng Hưng cùng các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần chia ra làm 5 đạo bất ngờ vây đánh thành Tống Bình. Cao Chính Bình đem 4 vạn quân ra nghênh chiến, sau 7 ngày đêm xung sát, quân giặc núng thế phải lui vào thành cố thủ. Nghĩa quân Phùng Hưng thừa thắng hò reo bủa vây 4 mặt thành. Thấy quân mình bị chết nhiều, Cao Chính Bình lo sợ phát ốm rồi chết, Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì vào phủ đô hộ điều khiển việc nước được 7 năm thì mất. Con trai là Phùng An lên nối ngôi, thể theo lòng ái mộ của nhân dân tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương. Phùng An nối nghiệp được hai năm thì bị vua Đường cử Triệu Xương đem quân sang đánh bại.

Phùng Hưng mất nhưng nhân dân không nguôi nhớ tiếc ông. Truyền hình nhân dân gian kể. Phùng Hưng rất hiển linh. Ông thường hiện hình giúp dân lúc hoạn nạn. Dân làng cho là linh ứng, lập miếu để thờ tự tại Đường Lâm. Sau này, Phùng Hưng cũng hiển linh giúp Ngô Quyền đánh thắng giặc ở sông Bạch Đằng. Vì vậy, Ngô Quyền cho lập đền thờ ông rất lớn. Ở Quảng Bá ( Hà Nội ), Triều Khúc ( Hà Tây). Ở Đại Ứng, Phương Trung, Hoạch An ( Thanh Oai – Hà Tây)…v.v đều có đền thờ ông.
 
Thời Kỳ Tự Chủ Họ Khúc Dấy Nghiệp

Khúc Thừa Dụ ( 960 – 907)

Sau khi đánh bại Phùng An, bọn quan lại nhà Đường sang cai trị Giao Châu càng tham tàn, độc ác nên lòng dân càng oán thù. Chúng chỉ nghĩ đến việc vơ vét của cải nhiều nên hai lần giặc Nam Chiếu sang đánh, giết hơn 15 vạn dân Giao Châu, quan quân nhà Đường đều bỏ chạy.

Năm Giáp Thân ( 864) Cao Biền đem đại quân sang đánh mới đuổi được giặc Nam Chiếu. Vua Đường đổi An Nam làm Tĩnh Hải, phong Cao Biền làm Tiết độ sứ. Cao Biên cho đắp thành Đại La ở bờ sông Tô Lịch, chỉnh đốn mọi việc. Sử chép Cao Biền dùng phép phù thủy khiến thiên lôi phá những thác ghềnh ở các sông để cho thuyền bè đi được. Tục lại truyền rằng, Cao Biền thấy Giao Châu ta nắm đất đế vương, bèn cho phá những nơi sơn thủy hữu tình, cốt triệt long mạch.

Năm Đinh Mão ( 907) nhà Đường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu tranh nhau làm vua, mỗi nhà mấy năm, gọi là đời Ngũ Quý hay Ngũ đại.

Nhân cơ hội ấy, ở Giao Châu có Khúc Thừa Dụ quê ở Cúc Bồ ( Ninh Thanh – Hải Dương) là một họ lớn nổi dậy lãnh đạo nhân dân Giao Châu khôi phục quyền tự chủ của đất nước, Khúc Thừa Dụ vốn là một hào phú, tính khoan hòa hay thương người, được dân chúng kính phục. Năm 905, Khúc Thừa Dụ một quân tiến công thành Tống Bình ( Hà Nội ) đuổi giặc về nước rồi tự xưng là Tiết độ sứ. Thế cùng, nhà Đường buộc phải công nhận Khúc Thừa Dụ là người đứng đầu đất Việt. Ngày 7 tháng 2 năm Bính Dần ( 906), vua Đường phong cho ông Tĩnh Hải quân tiết độ sứ tước Đồng bình chương sự. Khúc Thừa Dụ là người mở đầu cách cư xử khôn khéo với bọn phong kiến phương Bắc : « Độc lập thật sự, thần phục danh nghĩa ».Về hình thức vẫn giữ nguyên cách tổ chức của chính quyền đô hộ nhưng thực chất chính quyền ấy là chính quyền tự chủ. Tất cả bọn quan lại phương Bắc bị bãi bỏ, thay bằng người Việt, Khúc Thừa Dụ phong cho con là Khúc Hạo chức « Tĩnh Hải quân Tư mã quyền tri lưu hậu », chức vụ chỉ huy quân đội và sẽ thay thế cha.

Khúc Thừa Dụ làm tiết độ sứ được non một năm thì mất ngày 23 – 7 năm Đinh Mão (907), giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.
 
Khúc Hạo ( 907 – 917)

Giống như nhà Đường, nhà Hậu Lương cũng buộc phải công nhận Khúc Hạo làm « An Nam đô hộ sung Tiết độ sứ ». Nối nghiệp cha, Khúc Hạo đề ra nhiều cải cách quan trọng nhằm xây dựng một nền tảng độc lập, thống nhất của dân tộc. Khúc Hạo chia cả nước ra thành 5 cấp hành chính : Lộ, phủ, châu, giáp, xã. Giáp và xã là cấp hành chính cơ sỡ lần đầu tiên được đặt ra với Quản giáp và phó tri giáp ( cấp giáp). Chánh lệnh trưởng và Tá lệnh trưởng ( cấp xã). Cả nước lúc đó có 314 giáp. Suốt thời Bắc thuộc, chưa lúc nào bọn đô hộ nắm được các tổ chức cơ sở ấy. Có thể xem Khúc Hạo là người đầu tiên xây dựng hệ thống chính quyền thống nhất từ trung ương đến địa phương.

Khúc Hạo còn sửa đổi lại chế độ điền tô, thuế má và lực dịch nặng nề của thời Bắc thuộc. Sách Việt sử thông giám cương mục đã tóm tắt việc làm của Khúc Hạo như sau : Bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng ( quản giáp)trông coi, chính sự cốt chuộng khoan dung giản dị, nhân dân đều được yên vui.


Cùng thời gian này là Lưu Ẩn ở Quảng Châu đóng phủ trị ở Phiên Ngung được 4 năm thì mất. Em là Lưu Cung lên thay. Được ít lâu, nhân bất bình với nhà Hậu Lương, Lưu Cung tự xưng đến, đặt quốc hiệu là Đại Việt. Đến năm Đinh Sửu ( 917) cải quốc hiệu là Nam Hán.
 
Khúc Thừa Mỹ ( 917- 923)

Năm Đinh Sửu ( 917) Khúc Hạo mất, truyền ngôi lại cho con là Khúc Thừa Mỹ, Khúc Thừa Mỹ nhận chức Tiết độ sứ của nhà Lương, chứ không thần phục nhà Nam Hán. Vua Nam Hán muốn bành trướng lãnh thổ, nhân cơ hội ấy năm Quý Mùi ( 923) sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang bắt được Khúc Thừa Mỹ rồi sai Lý Tiến sang làm thứ sử cùng Lý Khắc Chính giữ Giao Châu.
 
Dương đình Nghệ Và Kiều Công Tiễn ( 931-938)

Năm Tân Mão ( 931), Dương Đình Nghệ, một tướng của Khúc Hạo ở đất Ái Châu ( Thanh Hóa), mộ quân đánh đuổi Lý Khắc Chính và Lý Tiến, chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết độ sứ. Được 6 năm, Dương Đình Nghệ bị người nhà tướng là Kiều Công Tiễn, hào trưởng đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Nền độc lập mới giành được sau đêm trường Bắc thuộc lại bị đe dọa.

Thấy thảy nhân dân Giao Châu đều căm giận, muốn trừ tên phản phúc để trừ hậu họa, Kiều Công Tiễn cho người sang cầu cứu chúa Nam Hán.
 
Triều Ngô ( 939- 965)

NGÔ QUYỀN PHÁ QUÂN NAM HÁN TIỀN NGÔ VƯƠNG (939 – 944)


Ngô Quyền là bộ tướng của Dương Đình Nghệ sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (897) ở Đường Lâm - Ba Vì – Hà Tây ( Nay thuộc Thị xã Sơn Tây). Cha Ngô Quyền là Ngô Mân, một hào trưởng có tài. Lớn lên trên quê hương có truyền thống bất khuất, nơi sản sinh và nuôi dưỡng người anh hùng dân tộc Phùng Hưng. Ngô Quyền sớm tỏ rõ chí khí phi thường hiếm thấy. Vốn thông minh, có thân thể cường tráng, lại thường xuyên tập luyện võ nghệ nên tiếng tăm Ngô Quyền lan rộng cả một vùng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư mô tả Ngô Quyền « Vẻ khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có trí dũng, sức có thể nhấc vạc, giơ cao ». Vì có tài nên Dương Đình Nghệ giao cho Ngô Quyền cai quản đất Ái Châu và gả con gái cho.

Trong 5 năm ( 934 – 938), Ngô Quyền đem lại yên vui chho đất Ái Châu, tỏ rõ là người có tài đức.

Khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại, và vua Nam Hán là Lưu Cung cho con là Vạn Vương Hoằng tháo đem quân sang xâm lược nước ta. Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng để trừ nội phản, diệt ngoại xâm. Từng hâm mộ tài đức của Ngô Quyền, hào trưởng từ nhiều nơi đem binh về với Ngô Quyền.

Đầu màu đông năm Mậu Tuất ( 938), Ngô Quyền đem quân vượt qua đèo Ba Dội, tiến như vũ bão vào Đại La, bắt giết tên nội phản Kiều Công Tiễn, bêu đầu hắn trước cổng thành. Thù trong đã diệt xong, Ngô Quyền rảnh tay đối phó với giặc ngoài.

Đem quân xâm lược nước ta, chưa biết thắng bại ra sao, Lưu Cung đã phong cho con tước Giao vương ( tước vương đất Giao Chỉ ), Lưu Cung còn đích thân đốc quân ra đóng ở trấn Hải Môn để sẵn sàng chi viện.

Để chống lại giặc mạnh, Ngô Quyền đưa ra kế hoạch độc đáo. Ông cho bố trí cọc nhọt bịt sắt cắm xuống lòng sông Bạch Đằng. Khi nước triều lên ông cho quân ra khiêu chiến, quân Nam Hán đuổi theo, thuyền giặc vào bên trong hàng cọc, đợi khi thủy triều xuống sẽ dốc toàn sức tiêu diệt địch bằng một trận quyết chiến nhanh gọn.

Tháng 12 năm Mậu Tuất ( 938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng. Chúng nghênh ngang tràn vào trận địa mai phục của Ngô Quyền. Bị đánh bất ngờ nên chỉ trong một thời gian ngắn thuyền giặc bị đắm gần hết, quân giặc bị chết quá nửa, máu chảy loang đỏ khúc sông, Hoằng tháo cũng bị đâm chết tại trận. Tin thất trận ở Bạch Đằng cùng với tin Hoằng tháo bị giết khiến vua Nam Hán kinh hoàng phải khóc lên, thu nhặt tàn quân rút chạy. Vua Nam Hán trước tiên là Nham sau đổi tên là Thiệp, rồi sau đó vì có rồng trắng hiện lên nên đổi là Cung. Bị thất trận, vua Nam Hán cho tên Cung là xấu và đổi tên khác là Yểm, tức Lưu Yểm.

Sau chiến thắng, Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chức Tiết độc sứ, đóng đô ở Cổ Loa ( Hà Nội ). Để củng cố trật tự triều chính, Ngô Quyền đặt ra các chức quan văn võ, quy định nghi lễ trong triều đình. Đáng tiếc, thời tại của Ngô Quyền quá ngắn ngủi, chỉ được 6 năm ( 939 – 944 ) thì mất, thọ 47 tuổi.
 
Dương Tam Kha

Thời trẻ Ngô Quyền lấy con gái Dương Đình Nghệ. Khi Ngô Quyền lên ngôi vua, Dương thị được lập làm Vương hậu, khi sắp mất, Ngô Vương ủy thác cho con là Ngô Xương Ngập cho Dương Tam Kha là em Dương Hậu. Lợi dụng cháu còn nhỏ, Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu, tự xưng là Bình Vương. Ngô Xương Ngập thấy biến, chạy trốn vào trang Nam Sách ( Hải Dương) vào ẩn nhà Phạm Lệnh Công. Dương Tam Kha sai quân đi đuổi bắt, Phạm Lệnh Công đem Xương Ngập trốn trong núi. Dương Tam Kha bắt em Xương Ngập là Ngô Xương Văn nuôi làm con nuôi.

Năm Canh Tuất ( 950) nhân có loạn ở Sơn Tây, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn cùng tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh thạc đem quân đi đánh. Đến Từ Liêm, Ngô Xương Văn mưu với hai tướng đem quân trở về bắt Dương Tam Kha. Ngô Xương Văn nghĩ tình cậu cháu không nỡ giết chỉ giáng Tam Kha xuống làm Chương Dương công.
 
Hậu Ngô Vương ( 950 – 965)

Ngô Văn Xương gạt bỏ Dương Tam Kha xưng là Nam Tấn Vương và sai người tâm phúc đi đón anh là Ngô Xương Ngập về cùng trông coi việc nước, Ngô Xương Ngập xưng là thiên Sách vương. Cả hai anh em đều là vua, sử gọi là Hậu Ngô Vương.

Làm vua được ít lâu, thiên Sách vương nghĩ cách trừ Nam Tấn vương để một mình làm vua. Âm mưu đó chưa kịp thi hành thì năm Giáp Dần ( 954) thiên Sách vương mất.

Đến lúc này, thì lực nhà Ngô ngày một suy yếu, thổ hào các nơi xưng là sứ quân ra sức chống đối buộc Nam Tấn vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Năm Ất Sửu ( 965), trong một trận giao chiến ở Thái Bình ( Đường Lâm, Sơn Tây), Nam Tấn vương không may bị bắn chết, làm vua được 15 năm. Con thiên Sách vương là Ngô Xương Xí nối nghiệp làm vua về giữ đất Bình Kiều ( Thanh Hóa).

Như vậy, triều Ngô bắt đầu từ Ngô Quyền, qua Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn đến Ngô Xương Xí, truyền được ba đời, kéo dài 26 năm. Đến Ngô Xương Xí trong nước cá cả thảy 12 sứ quân, gây ra loạn lạc nồi da nấu thịt kéo Dài hơn 20 năm, 12 sứ đó là :

1. Ngô Xương Xí, giữ Bình Kiều,(Triệu Sơn Thanh Hóa)
2. Đỗ Cảnh thạc giữ Đỗ Động Giang ( Thanh Oai – Hà Tây)
3. Trầm Lãm giữ Bố Hải Khẩu( Kỳ Bố - Thái Bình )
4. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu ( Bạch Hạc – Phú Thọ)
5 Nguyễn Khoan giữ Tam Đái ( Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc)
6. Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm ( Hà Tây)
7. Lý Khê giữ Siêu Loại ( Thuận Thành – Bắc Ninh)
8. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du ( Bắc Ninh)
9. Lữ Đường giữ Tế Giang ( Văn Giang – Hưng Yên)
10 . Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt ( Thanh Trì – Hà Nội)
11. Kiều Thuận giữ Hởi Hồ ( Cẩm Khê – Phú Thọ )
12. Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu ( Hưng Yên)

Những sứ quân ấy cứ đánh lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến cho nhân dân vô cùng khổ sở. Về sau, Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư dẹp loạn sứ, quy giang sơn về một mối, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh.
 
Nhà Đinh Và Sự Thống Nhất Nước Nhà

ĐINH TIÊN HOÀNG (968 – 979)
Niên hiệu : Thái Bình ( 970 – 979)

Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, Châu Đại Hoàng ( Hoa Lư – Ninh Bình), con Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giữ chức thứ sử Châu Hoan. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với trẻ chăn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau.

Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách lại có tài thao lược nên khi Bộ Lĩnh dựng cờ dấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rât đông. Nhưng vì bất hòa với chú, Bộ Lĩnh cùng con là Đinh Liễn sang ở với sứ quân Trần Minh Công ở Bố Hải Khẩu ( Vũ Thư – Thái Bình ).

Thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô, có chí khí. Minh Công trao cho Bộ Lĩnh giữ binh quyền. Khi Trần Minh Công qua đời, Bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương. Năm Tân Hợi ( 951) đời hậu Ngô vương, Nam Tấn vương cùng thiên Sách vương đem quân đến đánh nhưng cả hai đều bị đại bại phải rút quân về. Đến khi nhà Ngô mất, Đinh Bộ Lĩnh dụ hàng được các sứ quân Ngô Xương Xí, phá được đỗ Động của Nguyễn Cảnh Thạc. Từ đó, Đinh Bộ Lĩnh đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn thắng vương. Chỉ trong một năm, Đinh Bộ Lĩnh đã bình được các sứ quân, lập thành nghiệp đế.

Năm Mậu Thìn ( 968) Vạn thắng vương lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cổ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàng quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công, Lê Hoàn làm thập Đạo tướng quân ( tổng chỉ huy quân đội) và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương.

Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ với nhà Tống năm Nhâm Thân ( 972) Đinh Tiên Hoàng sai còn là Đinh Liễn mang đồ vật sang cống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ.

Từ đó nước ta giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Đinh Tiên Hoàng đã dẹp loạn sứ quân. Nhưng nhìn chung nhiều nơi vẫn chưa tuân theo luật lệ của triều đình. Bởi vậy để răn đe kẻ phản loạn. Đinh Tiên Hoàng đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo trong vườn, tuyên cáo rằng ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hoặc cho hổ báo ăn thịt. Dù chưa phải dùng hình phạt ấy nhưng mọi người đều sợ oai, phép nước được tuân thủ.

Nhưng rồi Đinh Tiên Hoàng phạm sai lầm bỏ trưởng lập ấu, cho con út là Hạng Lang làm
Thái tử. Con trưởng là Nam Việt vương Đinh Liễn đã theo Tiên Hoàng đi trận mạc từ thủa hàn vi, không được kế vị, tức giận, sai người giết Hạng Lang đi. Hoạn loạn gây nên ngay trong hoàng tộc.

Năm Kỷ Mão ( 979) Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị tên Đỗ thích giếtt chết. Đỗ thích trước làm Lại, đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm vua, bèn định bụng hại minh chủ. Một hôm, Đỗ thích thấy vua Đinh say rượu nằm trong cung bèn lẻn vào sát hại rồi tìm giết nốt con cả là Đinh Liễn. Triều thần bắt được Đỗ thích đem xử tội và tôn Vệ vương Đinh Toàn lên làm vua.

Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.
 
Phế Đế ( 979 – 980)

Đinh Tiên Hoàng có ba người con trai : Đinh Liễn, Đinh Toàn ( có sách gọi là Đinh Tuệ) và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn và Đinh Hạng Lang đã chết, mặc nhiên Đinh Toàn kế nghiệp ngôi vua. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy vua còn nhỏ quyền bính nằm cả trong tay thập đạo tướng quân Lê Hoàn, lại nghi Lê Hoàn tư thông với Dương thái hậu ( Dương Vân Nga) nên cử binh mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết sạch. Giữa lúc ấy, nhà Tống nghe tin Đinh Tiên Hoàng mất, các đại thần nước Việt phân liệt, tranh chấp gay gắt, có nguy cơ nội chiến, muốn thừa thế sang lấy nước Việt mới đại hội binh ở gần biên giới. Lê Hoàn sai Phạm Cự Lượng làm đại tướng đem binh chống giữ. Trước lúc tiến quân, Phạm Cự Lượng họp cả quân sĩ ở trong điện nói rằng.

Bây giờ quân địch sắp vào cõi mà vua thì còn bé, lấy ai mà thưởng phạt cho chúng ta. Dẫu chúng ta có hết sức lập được chút công nào thì rồi ai biết cho ? Chẳng bằng nay ta tôn thập đạo tướng quân lên làm vua rồi ra quân vẫn chưa muộn.

Quân sĩ nghe nói đều hô vạn tuế.

Dương Vân Nga thay con cầm quyền trị nước cũng thấy rõ chỉ có thập đạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng gỡ rối được tình hình nghiêm trọng cần kíp lúc này. Huống chi ý chí quân đội cũng muốn tôn người chỉ huy của họ lên ngôi tối thượng, thay cho vị vua 6 tuổi là con Dương Vân Nga. Bởi vậy, Dương Vân Nga lấy chiếc long bào choàng lên vai Lê Hoàn trong tiếng hò reo dậy trời của quân sĩ. Sự tỏ ý nhường ngôi của
Dương Vân Nga trong hoàn cảnh ấy, đã biểu hiện thái độ chính trị sáng suốt của một người, thức thời, có tầm nhìn xa, trông rộng xứng đáng được coi là anh hùng.

Đinh Toàn chỉ làm vua được 8 tháng, sử gọi là Phế Đế rồi tồn tại với tước vương ( Vệ vương) có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm Tân Sửu ( 1001) trong cùng dịp vua Lê Đại Hành ( Lê Hoàn) đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cẩm Thủy, Thanh Hóa, Đinh Toàn bị trúng tên hy sinh trên chiến thuyền vào tuổi 27.

Như vậy triều Đinh làm vua được 2 đời, cả thảy 14 năm. Lê Hoàn lên làm vua, Dương Vân Nga trở thành hoàng hậu.
 
Nhà Tiền Lê ( 980 – 1009)

LÊ ĐẠI HÀNH ( 980 – 1005)

Niên hiệu : Thiên Phúc ( 980 – 988)
: Hưng Thống ( 989 – 993)
: Ứng Thiên ( 994 – 1005)

Lê Hoàn sinh năm Tân Sửu ( 941) ở Xuân Lập – Thọ Xuân – Thanh Hóa ( về quê hương của Lê Hoàn còn có thuyết cho rằng ở Hà Nam), trong một gia đình nghèo khổ « Bố dỡ đó, mẹ xó chùa ». Cha họ Lê, mẹ là Đặng Thị Sen đều lần lượt qua đời khi Lê Hoàn còn nhỏ tuổi. Bởi vậy, ngay từ bé, Lê Hoàn phải làm con nuôi cho một vị quan nhỏ, người cùng họ. Lớn lên, Lê Hoàn đi theo Nam Việt vương Đinh Liễn, dù chỉ là lính thường nhưng trí dũng khác thường, tính tình phóng khoáng nên được cha con Đinh Bộ Lĩnh yêu mến. Trong công cuộc đánh dẹp các sứ quân, Lê Hoàn tỏ là người có tài nên được Đinh Bộ Lĩnh giao cho trông coi 2000 binh sĩ. Đến khi dẹp yên các sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh. Lê Hoàn được phong chức thập đạo tướng quân, Điện tiền đồ chỉ huy sứ ( tổng chỉ huy quân đội kiêm chỉ huy đội cấm vệ) của triều đình Hoa Lư. Lúc này Lê Hoàn vừa tròn 30 tuổi.

Tháng 10 năm Kỷ Mão ( 979), cha con Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ thích giết hại, Đinh Toàn 6 tuổi lên ngôi vua, Lê Hoàn làm nhiếp chính, trong một tình thế đầy khó khăn. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp nổi loạn nhưng đã bị Lê Hoàn dẹp tan. Ngô Nhật Khánh, phò mã nhà Đinh, bỏ trốn vào Nam rước vua Châmp cùng hơn nghìn chiếnthuyền toan cướp kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão đắm hết. Tháng 7 năm Canh Thìn ( 980) đại quân Tống theo đường thủy bộ xâm lược Đại Cồ Việt. Lê Hoàn lúc này đã lên ngôi hoàng đế tức Lê Đại Hành, vừa triển khai lực lượng chiến đấu vừa sai sứ đưa thư cầu hòa, vua Tống đòi Dương Vân Nga và con là Đinh Toàn sang chầu. Tình thế bức bách, Lê Hoàn buộc phải cho quân đánh giặc quyết bảo vệ đất nước. Ông đã tái tạo một Bạch Đằng, sáng tạo một Chi Lăng, thắng lớn trên cả hai mặt thủy bộ, giết tướng giặc Hầu Nhân Bảo, diệt quá nửa quân Tống, buộc vua Tống phải xuống chiếu rút lui quân.

Đại thắng năm Tân Tỵ,( 981) đã mở đầu kỷ nguyên Đại Việt bách thắng bọn phong kiến phương Bắc.

Không chậm trễ, Lê Hoàn dốc sức chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên trong, Lê Hoàn chống cát cứ, xây dựng cơ sở của nề kinh tế. Đối với bên ngoài ông thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo khôn khéo nhưng quyết bảo vệ nền độc lập của đất nước. Ông là vị vua nội trị, ngoại giao đều xuất sắc. Chuyện rằng : Năm Canh Dần ( 990) vua Tống sai Tống Cảo dẫn đầu đoàn sứ mang chiếu thư sang phong cho Lê Hoàn hai chữ « Đặc tiến ». Vốn biết nhà Tống hống hách, ngạo mạn Lê Hoàn thay đổi cách đón tiếp. Ông sai Đinh Thừa Chính mang 9 chiếc thuyền và 300 quân sang tận Liêm Châu ( Quảng Đông – Trung Quốc ) để đón sứ rồi bảo vệ đoàn sứ đến Đại Cồ Việt. Tháng 10 năm Canh Dần ( 990), đoàn sứ Tống đến kinh đô Hoa Lư trong cảnh tưng bừng khác lạ, dưới sông, thuyền chiến tinh kỳ tan sát, các sườn núi, quân lính võ phục chỉnh tề, gươm giáo sáng lòa, trên các cánh đồng, hàng trăm con trâu bò rong ruổi đen giặc, bụi bay mù mịt. Sứ Tống không thể không thấy sự hùng mạnh, giàu có của nước Việt.

Theo nghi lễ của Tống triều, sau khi nhận chiếu thư của « Thiên triều », vua các nước chư hầu phải « lạy », nhưng Lê Hoàn lấy cớ ngã ngựa, bị đau chân, không chịu « lạy ». Tống Cảnh đành phải chấp nhận.

Sau bữa tiệc vui, Lê Hoàn cho người khiêng 100 con trăn lớn, dài vài trượng đến quán dịch nói với sứ Tống.

Nếu sứ thần ăn được thịt thì vua tôi sẽ cho người làm cỗ để mời.

Sứ Tống khiếp đảm từ chối.

Lần khác, Lê Hoàn cho dắt hao con hổ dữ để sứ thần thưởng ngoạn. Sứ thần lại một phen toát mồ hôi.

Trước khi bọn Tống Cảo về nước, Lê Hoàn bảo họ.

Sau này nếu có quốc thư thì nên giao nhận ngay ở đầu địa giới, không phiền sứ thần đến đây nữa.

Năm Quý Tỵ ( 1005) vua Lê Hoàn mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm. Theo thông lệ, khi vua mất chưa đặt tên thụy thì gọi là Đại Hành. Trường hợp vua Lê Hoàn lấy Đại Hành làm thụy hiệu là vì Lê Ngọa Triều và triều thần không đặt tên thụy cho ông.
 
Lê Trung Tông ( 1005)

Vua Lê Đại Hành có 4 hoàng tử là Long Du, Ngân Tích, Trung Tông Long Việt và Lê Đĩnh Long ( Ngọa Triều). Vua Đại Hành đã định cho người con thứ ba là Long Việt làm Thái tử. Nhưng đến lúc vua mất, các hoàng tử tranh nhau ngôi, đánh nhau trong 7 tháng. Đến khi Long việt vừa lên ngôi được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người vào cung giết chết, thọ 23 tuổi. Sử gọi là Lê Trung Tông.
 
Lê Đĩnh Long ( 1005 – 1009)

Niên hiệu : Ứng thiên ( 1006 – 1007)
: Cảnh thụy ( 1008 – 1009)


Long Đĩnh là người bạo ngược, tàn ác như Kiệt, Trụ bên Tàu. Khi đã giết anh, chiếm được ngôi vua, Long Đĩnh càng tàn bạo. Vua hay lấy việc giết làm trò chơi. Có những tội nhân phải tội hình, vua cho lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt cho chết, có trường hợp vua cho tù trèo lên cây cao rồi sai người chặt gốc cây đổ. Vua còn bỏ người cho vào sọt rồi thả xuống sông, vua thích chí ngồi xem đao phủ thực hiện mệng lệnh ác độc của mình. Có lần vua lấy mía để trên đầu nhà sư mà róc vỏ, thỉnh thoảng vờ nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu, trông thấy thế vua thích chú vui cười. Vào các buổi chầu, vua cho tên hề nói khôi hài, hay nhại lại lời tâu bầy của các quan đại thần để gây cười. Vì sống dâm dục quá độ, vua mắc bệnh không ngồi được. Bởi vậy, đến buổi chầu, vua cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngọa Triều.

Long Đĩnh làm vua được 2 năm thì đổi niên hiệu là Cảnh Thụy. Năm sau ( 1009) thì mất, làm vua được bốn năm thọ 24 tuổi.

Long Đĩnh mất, con tên là Sự còn bé, đình thần nhân dịp tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, khởi nghiệp triều Lý hiển hách.

Như vậy nhà Tiền Lê tồn tại trong 29 năm, trải qua ba đời vua.

Lê Đại Hành ( Lê Hoàn ( 980 – 1005)
Lê Trung Tông ( 1005)
Lê Long Đĩnh ( 1005 – 1009)
 
Dương Vân Nga

Khi đề cao võ công văn trị của Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, những anh hùng của công cuộc thống nhất đất nước không thể không kể đến sự cống hiến của Dương Vân Nga là cái cầu nối giữa Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, người làm cho công cuộc thống nhất đất nước do Đinh Bộ Lĩnh khởi xướng được Lê Hoàn hoàn tất. Sự nghiệp chính trị của người phụ nữ ấy đã không được sử cũ chú ý đến mà lại cứ tập trung vào các thân phận làm vợ của bà. Vốn là con ông Dương Thế Hiển quê ở vùng Nho Quan - Ninh Bình ( có tài liệu nói bà là Dương Thị Ngọc Vân, con gái Dương Tam Kha) rồi trở thành vợ Đinh Bộ Lĩnh, nên sau khi chồng bị ám hại, để lại đứa con 6 tuổi kế nghiệp Hoàng Đế, Dương Vân Nga đã phải cáng đáng những khó khăn vượt qúa sức mình. Sự nghiệp thống nhất đất nước vừa được hoàn thành, bị đe dọa từ nhiều phía. Bên ngoài phong kiến phương Bắc sửa soạn đại binh xâm lược. Bên trong, các triều thần phân biệt tranh chấp gay gắt có nguy cơ nổ ra nội chiến lớn. Là người có tầm nhìn xa trông rộng. Dương Vân Nga nhận thấy rõ chỉ có thập đạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng giải quyết tình hình nghiêm trọng ấy. Nếu Dương Vân Nga không biết đặt lợi nước lên trên quyền lợi của dòng họ, bà có thể dựa vào quyền thần để chống lại một quyền thần khác, ngoan cố bảo vệ ngai vàng cho đứa con nhỏ của mình, sẽ gây ra nạn bè đảng tranh chấp, đẩy đất nước vào cảnh rối loạn. Vậy mà, chỉ vì Dương Vân Nga đã lấy chiếc long bào choàng lên vai Lê Hoàn, về sau đã trở thành vợ Lê Hoàn mà sử sách phong kiến đã xóa sạch công lao của bà. Ngược lại với cách nhìn trên, nhân dân ta có cái nhìn rộng lượng và đúng đắn. Sử cũ chép « Tục dân lập đền thờ tô ba pho tượng Tiên Hoàng, Đại Hành và Dương Vân Nga cùng ngồi ». Vùng Hoa Lư còn nhiều truyền thuyết đẹp về Dương Vân Nga nhằm ghi nhận công lao của bà. Đền thờ Lê Mạt, An phủ sứ Lê Thúc Hiển ra lệnh cấm việc thờ chung ba nhân vật sự nghiệp thống nhất hồi cuối thế kỷ thứ 10 thì dư luận dân gian đã phê phán quyết liệt. Truyền thuyết ở Hoa Lư còn kể rằng : Sau khi Lê Thúc Hiển làm cái việc buộc lụa trắng vào cổ tay bức tượng Dương Vân Nga, dong tượng bà từ đền thờ Đinh Bộ Lĩnh về đền thờ Lê Hoàn, thì trở về kinh, viên quan họ Lê ấy đã lăn ra chết vì đứt ruột.
 
Triều Lý ( 1010 – 1225) Sự Phát Triển Của Quốc Gia Phong Kiến độc Lập

Lý Thái Tổ ( 1010 – 1028
Niên hiệu : Thuận Thiên

Người khởi dựng triều Lý là Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp, ( Từ Sơn- Bắc Ninh). Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất ( 974), là con nuôi của thiền sư Lý Khánh Vân từ năm 3 tuổi và truyền thuyết vẫn cho rằng ông là con của Vạn Hạnh, anh ruột Khánh Văn.

Cũng theo truyền thuyết, ông thân sinh ra Lý Công Uẩn nhà nghèo đi làm thuê ở chùa Tiên Sơn ( An Phong , Bắc Ninh) phải lòng một tiểu nữ rồi làm nàng có thai. Nhà sư thấy thế đuổi đi nơi khác. Hai vợ chồng dẫn nhau đến khu rừng Báng mệt mỏi, dừng lại nghỉ. Chồng khát nước, đến chỗ giếng nước giữa rừng uống nước chẳng may sẩy chân chết đuối. Vợ chờ lâu không thấy, đến xem thì đất đã đùn lấp giếng. Người phụ nữ bất hạnh khóc than một hồi rồi xin vào ngủ nhờ ở chùa Ứng Tâm gần đấy. Sư trụ trì chùa Ứng Tâm đêm trước nằm mơ thấy Long thần báo mộng rằng : « Ngày mai dọn chùa cho sạch có Hoàng đế đến ».

Tỉnh dậy, nhà sư sai chú tiểu đi quét dọn chùa sạch sẽ, túc trực từ sáng đến chiều chỉ thấy có một người đàn bà có thai xin ngủ nhờ. Được vài tháng bỗng có chuyện lạ : Một đêm khu tam quan của chúa sáng rực hẳn lên, hương thơm ngào ngạt lan tỏa. Nhà sư cùng bà hộ chùa ra xem thì có bốn chữ son « sơn hà xã tắc ». Sau đó, trời bỗng nổi trận mưa to gió lớn, mẹ chú bé chết ngay khi sinh con và chú bé theo học Sư Vạn Hạnh ở chùa Tiên Sơn. Chú bé đó là Lý Công Uẩn.

Công Uẩn lớn lên tỏ rõ có chí lớn khác thường. Ông đến Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê đế chức Tả thân vệ điện tiề chỉ huy sứ. Khi vua Thiếu Đế bị giết, ông ôm thây vua khóc. Vua Ngọa Triều khen là trung, ông cử làm Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, thống lĩnh hết quân túc vệ.

Theo truyền thuyết, làng Cổ Pháp hồi ấy có cây gạo cổ thụ bị sét đánh tước lần vỏ ngoài lộ ra mấy câu sấm. Sư Vạn Hạnh xem câu sấm ấy biết điềm nhà Lê đổ nhà Lý sắp lên bèn bảo Công Uẩn rằng :

Mới rồi tôi thấy lời phù sấm kỳ dị, biết rằng họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều nhưng không ai bằng ông là người khoan từ nhân thứ, được lòng dân chúng mà binh quyền nắm trong tay. Người đứng đầu muôn dân chẳng phải ông thì còn ai ?

Sợ câu nói ấy tiết lộ, Lý Công Uẩn phải nhờ người đem giấu Vạn Hạnh ở chùa Tiên Sơn.

Khi Lê Đĩnh Long mất Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Vua kế tự Long Đĩnh còn nhỏ, Lý Công Uẩn chỉ huy quân túc vệ trong chốn cung cấm. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà tiền Lê nên quan Chi hậu là Đào Cam Mộc cùng các quan trong triều tôn Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế tức vua Thái Tổ nhà Lý. Vua Thái Tổ thấy Hoa Lư hẹp bèn dời đô về La Thành. Tháng 7 năm Thuận Thiên nguyên niên ( 1010), vua khởi sự dời đô. Khi ra đến La Thành, Thái Tổ lấy cớ người trông thấy rồng vàng bay lên liền đổi Đại La Thành Thăng Long thành ( tức Hà Nội bây giờ), đổi Hoa Lư thành phủ Tràng An và Cổ Pháp thành phủ thiên Đức. Vua Thái Tổ chỉnh đốn việc cai trị,chia nước thành 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại.

Vốn thông minh bẩm sinh, lại được nhập thần văn hóa ở một vùng đất văn minh, văn hiến, lại được sự nuôi dưỡng của những vị cao tăng suất chúng, Lý Công Uẩn thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh đất nước Đại Việt, viết nên những trang sử oanh liệt dựng nước và giữ nước.

Chùa Ứng Tâm nơi ông sinh ra bây giờ lại có tên là chùa Dặn.

Ngôi huyệt chỗ giếng nước ở rừng Báng năm xưa những gò ở xung quanh trông rất giống như hoa sen ở 8 cánh nên nhà Lý truyền ngôi được 8 đời.

Vua Lý Thái Tổ trị vì 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi.
 
Lý Thái Tông ( 1028 – 1054)

Niên hiệu : Thiên Thành ( 1028 – 1033)
: Thống Thụy ( 1034 – 1038)
:Càn Phù Hữa Đạo( 1039 – 1041)
: Minh Đạo ( 1042 – 1043)
: Thiên Cảm Thánh Võ ( 1044 – 1048)
Sùng Hưng Đại Bảo ( 1049 – 1054)


Vua Lý Thái Tổ sinh 5 hoàng tử : Thái Tông Phật Mã, Dực Thánh Vương, Khai Quốc Bồ, Đông Chính Vương Lực, Võ Đức Vương Hoảng. Phật Mã được phong làm Thái tử.

Vua Thái Tổ vừa mất chưa làm lễ táng, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương đã đem quân đến vây lấy thành để tranh ngôi của Thái tử. Tướng Lý Nhân Nghĩa xin Thái tử đem quân ra chống cự. Khi quân của Thái tử và quân của các vương giáp trận, võ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu tuốt gươm chỉ vào Võ vương.

Các người dòm ngó ngôi sao, khinh rẻ Tự quân, trên quên ơn tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dân nhát gươm này.

Dứt lời, Phụng Hiểu xông đến chém chết Võ Đức Vương. Thấy vậy, Dực Khánh Vương và Đông Chính Vương xin về chịu tội, được vua Thái Tông tha tội và phục lại chức cũ.

Ngầm răn đe sự phản nghịch ấy, vua Thái Tông chủ trương hàng năm, các quan phải đến Đồng Cồ ( Yên Thái – Hà Nội) làm lễ đọc lời thề. « Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỷ thần làm tội ».

Các quan ai trốn không đến thì phạt 50 trượng. Vốn là người có đức rộng, tài cao nên trong nghiệp trị nước Thái Tông luôn dạy dân tôn trọng phép nước, định rõ các bậc hình phạt, đối với các tội nhẹ, cho được lấy tiền chuộc tội. Hễ năm nào đói kém, hoặc đi đánh giặc về vua đều giảm thuế cho dân. Ở trong cung, vua định rõ số hậu phi và cung nữ : Ví như : hậu và phi. 13 người, ngự nữ : 19 người, nhạc kỹ : 100 người. Tất cả các cung nữ đều phải học nghề thêu, dệt gấm võ, khuyến khích triều thần dùng chế phẩm của họ.

Thời ấy giặc giã còn nhiều nên vua thường phải thân chinh đi trận mạc. Năm Mậu Dần ( 1038) có Nùng Tồn Phúc ở châu Quảng Nguyên ( Lạng Sơn) làm phản tự xưng là Chiêu Thánh hoàng đế, lập A Nùng là hoàng hậu, đặt quốc hiệu là Trường Sinh rồi đem quân đi đánh phá các nơi. Năm sau, vua Thái Tông thân đi đánh được Nùng Tốn Phúc và con là Nùng Trí thông đem về kinh xử tội. Còn Anh Nùng và con là Nùng Trí Cao chạy thoát.

Năm Tân Tỵ ( 1041) Nùng Trí Cao cùng với mẹ về lấy được châu thảng Do ( gần châu Quảng Nguyên) lập ra nước Đại Lịch. Thái Tông sai tướng lên đánh, bắt được Nùng Trí Cao. Vua thương tình tha tội chết và cho làm Quảng Nguyên mục và gia phong cho tước thái bảo. Nhưng năm Mậu Tí ( 1048) Nùng Trí Cao lại xưng là Nhân Huệ hoàng đế, quốc hiệu là Đại Nam chống lại triều đình. Vua sai tướng Quách Thịnh Dật lên đánh. Nùng Trí Cao đem quân sang đánh chiếm Ung Châu rồi lần lượt 8 châu khác thuộc Quảng Đông, Quảng Tây của nhà Tống. Vua Tống toan nhờ vua Đại Việt sang đánh giúp. Nhưng tướng Tống là Địch Thanh can rằng.

Có một Nùng Trí Cao mà đất Lưỡng Quảng không chế được, lại phải nhờ quân ngoại quốc vào đánh giúp. Nếu có ai đó nhân đó mà nổi loạn, thì làm thế nào ?

Vua Tống nghe lời bèn cử Địch Thanh cùng nhiều tướng giỏi đi đánh Nùng Trí Cao. Nhưng đánh mãi không được. Chỉ đến khi người Đại Lý vừa bắt được Nùng Trí Cao chém lấy đầu đem nộp nhà Tống, giặc Nùng mới tan.

Năm Giáp Thân ( 1004) Chiêm thành nhiều lần đem quân quấy rối vùng biên giới. Vua thân chinh đánh dẹp, tiến vào kinh đô nước Chiêm, chém vua Chiêm.

Vua Lý Thái Tông cũng chú ý đến việc lập pháp. Dưới thời ông trị vì được 27 năm, đến năm Giáp Ngọ ( 1054) thì mất, thọ 55 tuổi.
 
Lý Thánh Tông ( 1054 -1072)

Niên hiệu : Long Thụy Thái Bình ( 1054 – 1058)
Chương Chánh Gia Khánh ( 1059 – 1065)
Long Chương Thiên Tự ( 1066 – 1067)
Thiên Chúc Bảo Tượng ( 1068)
Thần Võ ( 1069 – 1072)


Vua Lý Thái Tông có hai con trai là Thái tử Nhật Tôn và hoàng tử Nhật Trung.

Vua Lý Thánh Tông cũng giống các vua Lý đời trước, tuy đóng đô ở Thăng Long nhưng tình cảm thường gắn bó với đồng ruộng và thương dân. Vì vậy, đến mùa xuân vua thường về phủ thiên Đức xem hội hè, lễ Phật, xem cấy lúa, đánh cá, mùa hè xem gặt hái, nghỉ mát và tu dưỡng.

Chuyện xưa kể rằng, một đên hoàng hậu Mai Thị mơ thấy mặt trăng vào bụng, nhân đấy có mang. Ngày 23 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 14 ( 1023) Hoàng hậu sinh Hoàng tử ở cung Long Đức đặt tên là Nhật Tôn. Năm năm sau, Nhật Tôn được lập làm Thái tử. Lớn lên, Thái tử thông kinh truyện, rành âm luật, sở trường về võ lực, tỏ rõ là người thông minh xuất chúng. Trước khi lên làm vua, Thái tử Nhật Tôn ở cung Long Đức 27 năm. Cung xây ở ngoại thành, nên ở đấy, Thái tử dễ dàng thấu hiểu các việc trong dân gian, biết được nỗi đau, vất vả của dân, hiểu được cảnh đói rét, nỗi oan uổng, sự bất công ở các miền thôn dã. Chính vì vậy khi lên ngôi ( năm 1054) lấy hiệu là Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt vị vua có đầu óc tự cường tự lập, có hoài bão xây dựng một quốc gia hùng mạnh, có danh ngang với “ nước thiên tử” ấy cũng là vị vua tự coi mình là cha mẹ dân và hết lòng thương dân, một lần ngự ở điện thiên Khánh để xử kiện, con gái vua là Động Thiên đứng bên cạnh. Phạm nhân là một chàng trai trẻ, phạm tội chỉ vì không hiểu luật. Nhà vua gọi chúa ngục lại, chỉ vào con gái mình mà nói.

Ta yêu con ta cũng như các bậc cha mẹ trong thiên hạ yêu con cái họ. Trăm họ không hay biết nên tự phạm vào luật pháp, ta rất thương xót. Từ nay, các tội bất kỳ nặng nhẹ cần răn dạy kỹ lưỡng và nhất nhất đều phải khoan giảm. Và nhà vua đã tha bổng cho người con trai họ.

Lần khác gặp ngày trời lạnh, nghĩ đến dân, vua chạnh lòng với tả hữu.

Ta ở trong thâm cung, sưởi lò than, mặc áo hồ cừu mà khí lạnh còn thế này huống hồ những kẻ bị giam trong ngục thất, xiềng xích khổ đau, ngay gian chưa định, bụng không cơm no, thân không áo ấm, một khi gặp cơn gió lạnh thổ há chẳng bị chết rét ư? Ta rất đỗi thương xót.

Nói rồi vua sai tả hữu đem chăn chiên trong kho ban cho tù nhân và mỗi ngày phát cho tù nhân ăn hai bữa cơm. Và vua xuống chiếu miễn cho cả nước một nửa số thuế năm đó.

Vua Lý Thánh Tông thương dân như thế nên trăm họ đều yêu mến, nước ít giặc giã. Vì muốn khai hóa cho dân, vua lập Văn Miếu, làm tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 vị tiên hiền để thờ.

Ngoài việc hiện nền chính trị nhân đạo thân dân, vua Lý Thánh Tông còn là người để tâm đến đạo Phật. Vua đã cho xây rất nhiều chùa chiền và là người sáng lập phái Phật giáo thảo Đường. Lý luận của thảo Đường thỏa mãn sự đòi hỏi của vua muốn phát triển ý thức dân tộc, muốn độc lập, tự cường, chống sự xâm lăng của Bắc Tống, hòa hợp với Khổng học tạo nên sự thống nhất giữa ý chí và hành động của giới tu hành, thứ dân, nhằm xây dựng một nước Đại Việt hùng mạnh. Khác hẳn với triều đại trước. Lý Thánh Tông đem đạo vào đời, mà cuộc đời ấy, theo nhà vua, phải lấy việc phụng sự dân tộc, lấy sự đồng tâm nhất trí làm mục đích để tập trung vào hành động thiết thực, cứu thế bằng đức tin. Vua đã tìm thấy trong Phật học triết lý sinh thành dưỡng dục theo nghĩa lâu dài nối tiếp, là phương tiện dạy cho dân hiểu mình là ai, lấy ý chí tự cường để thắng số mệnh, phụng sự cho sự phồn vinh bền vững của quốc gia. Cũng do vậy, dân chúng Đại Việt tìm thấy nguồn cảm hứng vừa sâu rộng vừa cao siêu của mình ở trên tình yêu hiện thực và đại đồng Phật giáo, ở lòng từ bi cứu nạn cứu khổ, cứu vớt chúng sinh. Nhân dân đến với đạo không phải vì chán ngán cuộc đời mà vì muốn sống cuộc đời cao cả là đời sống tâm linh. Những nhà tu hành đời Lý không phải là những người chán đời đi ở ẩn mà là những người xuất thế để nhập thế, những người có họ vấn muốn giúp đời và giúp người. Vì vậy, đời Lý người tu hành xuất hiện khắp nơi. Chùa và đình thất mọc lên khắp nước. Kiến trúc chùa chiền thời ấy rất giản dị, dịu mát ẩn dưới bóng đa linh thiêng và tôn kính.

Binh pháp thời Lý Thái Tông có tiếng là giỏi. Nhà Tống đã phải dụng tâm học cách tổ chức phiên chế quân đội nước ta.

Năm Nhâm Tí ( 1072) vua Lý Thái Tông mất đột ngột, trị vì được 17 năm, thọ 50 tuổi.
 
Lý Nhân Tông ( 1072 – 1127)

Niên hiệu : Thái Ninh ( 1072 – 1075)
: Anh Võ Chiêu Thắng ( 1076 – 1084)
: Quảng Hữu ( 1085 – 1091)
: Hội Phong ( 1092 – 1100)
: Long Phù ( 1101 – 1109)
: Hội Trường Đại Khánh ( 1110 – 1119)
: Thiện Phù Duệ Võ ( 1120 – 1126)
: Thiên Phù Khánh Thọ ( 1127)


Vua Lý Thánh Tông sinh được Thái tử Càn Đức, con của Nguyên Phi Ỷ Lan, Thánh Tông mất, Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi lấy hiệu là Lý Nhân Tông.

Vua Nhân Tông còn nhỏ, nhưng nhờ có Thái phi Ỷ Lan làm nhiếp chính, lại có thêm Thái sư Lý Đạo Thành và phụ quốc Thái úy Lý Thường
Kiệt, những khối óc lớn thời ấy giúp sức, nên nước Đại Việt trở nên hùng mạnh.

Về đối nội, vua Nhân Tông đã cho đắp đê Cơ Xá, khởi đầu việc đắp đê ngăn lũ ở nước ta, nhằm giữ cho kinh thành khỏi lụt ngập.

Năm Ất Mão ( 1075) vua mở khoa thi tam trường, còn gọi là Minh kinh bác học để chọn người có tài văn học vào làm quan. Khoa thi ấy là khoa thi đầu tiên ở nước ta chọn được 10 người, thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Về sau, Lê Văn Thịnh làm đến chức Thái sư ( tể tướng), tỏ rõ là người có tài năng xuất chúng. Cuối đời, vua nghi ngờ Lê Văn Thịnh làm phản. Thịnh bị đày lên Thao Giang ( Tam Nông – Phú Thọ) và chết oan tại đó.

Năm Bính Thìn ( 1076 ), vua cho lập Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của nước ta, chọn những nhà nho tài giỏi vào dạy. Đến năm Bính Dần ( 1086) mở khoa thi chọn người có tài văn học vào Hàn lâm viện. Khoa ấy có Mạc Hiển Tích đỗ đầu, được bổ Hàn lâm học sĩ.

Năm Kỷ Tỵ ( 1089) vua Nhân Tông định quan chế, chia văn võ 9 phẩm. Quan đại thần có Thái sư, Thái phó, Thái úy và thiếu sư, thiếu úy. Ở dưới những bậc ấy, về văn ban có Thượng thư, tả hữu Tham tri, tả hữu Gián nghị đại phu, Trung thư thị lang, Bộ thị lang. Về võ ban có Đô thống, Nguyên Súy, Tổng quản khu mật sứ, Khu mật tả hữu sứ, Kim Ngô thượng tướng, Đại tướng, Đô tướng, Chư vệ tướng quân, v.v…

Ở các châu quận, văn thì có Tri phủ, Tri châu, võ thì có Chư lộ trấn, lộ quan.

Năm Đinh Tỵ ( 1077), khi Tống triều cử Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại binh sang xâm lược, với toàn quyền điều khiển triều đình Hoàng thái hậu Ỷ Lan và Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt đã huy động được cả dân tộc vào trận, tạo cho thế nước ở đỉnh cao ngàn trượng đè bẹp quân thù. Nước Đại Việt đã ra khỏi cuộc chiến tranh với hào quang chiến thắng quanh vương miện để bước nhanh trên con đường cường thịnh, văn hiến.

Vua Lý Nhân Tông làm vua đến năm Đinh Mùi ( 1127) thì mất, trị vì được 56 năm , thọ 63 tuổi.
 
ỷ Lan

Nói đến triều Lý không thể không nói về Ỷ Lan, một trong những danh nhân có tài trị nước của dân tộc. Tên thật của Ỷ Lan là Lê Thị Yến, quê ở làng thổ Lỗi sau đổi thành Siêu Loại ( Thuận Thành – Bắc Ninh) nay thuộc Gia Lâm – Hà Nội. Vì mẹ mất từ lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế nên thân phận Ỷ Lan khổ như cô Tấm trong chuyện cổ. Sử ghi, Ỷ Lan là cô Tấm lộ Bắc, hay gọi đền thờ Ỷ Lan ở Dương Xá ( Gia Lâm – Hà Nội) là đền thờ Bà Tấm là vì thế.

Năm ấy, vua Lý Thánh Tông 40 tuổi chưa có con trai nối dõi nên về chùa Dâu cầu tự. Vua và quần thần vãn xem phong cảnh trong vùng, chợt thấy trong ngày hội vui có người con gái vừa hái dâu vừa hát, vua vời xuống hỏi sự tình. Thấy Lê Thị Yến bội phần xinh đẹp, lại đối đáp lưu loát. Vua cảm mến đưa về triều, rồi phong làm Nguyên phi, cho xây một cung riêng, đặt tên cung là Ỷ Lan để nhớ lại sự tích cô gái tựa gốc cây lan buổi đầu gặp gỡ.

Khác với các hậu phi, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc, mong chiếm được tình yêu của vua mà quan tâm đến hết thảy mọi công việc trong triều đình. Ỷ Lan khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách, nghiền ngẫm nghĩ sách nên chỉ trong một thời gian ngắn, mọi người đều kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của Ỷ Lan. Triều thầm khâm phục Ỷ Lan là người có tài. Một lần, vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước, Ỷ Lan tâu.

Muốn nước giàu dân mạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng uống khó chịu nhưng chữa được bệnh. Điều hệ trọng thứ hai là phải xem quyền hành là một thứ đáng sợ. Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước muốn mạnh, Hoàng đế còn phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở đạo. Hội đủ nhừng điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô địch.

Nghe Ỷ Lan tâu, vua phục lắm. Bởi thế, năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân cầm quan đi đánh giặc, đã trao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan. Cũng ngay năm ấy, nước Đại Việt không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo, loạn lạc đã được dẹp yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn thờ Ỷ Lan là Quan âm nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan. Vua đánh giặc lâu không thắng, bèn trao quyền binh cho Lý Thường Kiệt, đem một cánh quân nhỏ quay về. Đến châu Cư Liên ( Tiên Lữ - Hưng Yên) hay tin Ỷ Lan đã vững vàng đưa đất nước vượt qua muôn trùng khó khăn, giữ cảnh Thái Bình, thịnh trị, vua hổ thẹn quay lại ra trận quyết đánh trả cho kỳ thắng mới về.

Năm Nhâm Tý ( 1072) vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều Lý không tránh khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính và Lý Thường Kiệt nắm quyền Tể tướng thì nước Đại Việt lại khởi sắc, nhanh chóng thịnh cường. Ỷ Lan đã thi hành những biện pháp dựng nước yên dân, khiến cho thế nước và sức dân mạnh hẳn lên. Năm Đinh Tỵ ( 1077), Tống triều phát đại binh sang xâm lược. Để Lý Thường Kiệt rảnh tay lo việc trận mạc, thái hậu Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Đạo Thành từ Nghệ An về, trao chức Thái sư như cũ, để cùng mình điều khiển triều đình, huy động sức người, sức của vào trận. Nhờ vậy, nước Đại Việt đã làm nên chiến thắng hiển hách. Quân giặc hùng hổ toan làm cỏ nước Đại Việt đã phải cam chịu thất bại, lủi thủi rút quân về nước.

Làm nên chiến thắng này, công thái hậu Ỷ Lan thực lớn, nhưng trong đời Ỷ Lan không phải không có tì vết. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng hậu thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau, có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm quyền nhiếp chính. Bà đã bắt giam Hoàng hậu thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến mọi công lao của bà đối với dân nước, mà quên mất rằng, sự nghiệp làm chính trị, đó là chuyện thường thấy.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top