• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Việt Nam thời dựng nước

đoan nam vương trịnh tông ( 1782 – 1786)

Trịnh Tông còn tên nữa là Trịnh Khải, là con trai đầu của Trịnh Sâm và cung tần Dương Thị Ngọc Hoan, người làng Long Phúc, huyện Thạch Hà. Chị của Ngọc Hoan vốn là cung tần của Trịnh Doanh, được Trịnh Doanh rất yêu quý, nhờ chị mà Ngọc Hoan được kén vào làm cung tần của Trịnh Sâm ( con trai Doanh). Từ ngày vào cung, nàg vẫn ngày đêm sống cô quạnh, không được chúa đoái thương như các cung tần khác. Bỗng một đêm, nàng nằm mộng thấy có thần cho tấm đoạn có vẽ đầu rồng. Nàng đem chuyện kể lại với quan Khê Trung Hầu. Viên hoạn quan bàn với nàng đó là điềm sinh con thánh! Thế rồi hoạn quan bố trí đánh tráo nàng Ngọc Khoan yêu quý của chúa thành Ngọc Hoan, để thực hiện giấc mơ sinh con thánh. Chúa biết nhưng không nỡ đuổi nàng ra. Trận mưa móc của chúa đã để lại cho nàng Ngọc Hoan niềm hạnh phúc vô bờ, một cậu con trai khôi ngô tuấn tú ra đời. Vì có con đầu với chúa nên từ cung tần nàng được phong Quý phi. Song Trịnh Sâm không yêu Ngọc Hoan nên cũng lạnh nhạt với Trịnh Tông. Chúa cho rằng giấc mơ rồng là điềm làm vua nhưng là rồng vẽ chứ không phải rồng thật, rồng vẽ chỉ có đầu đuôi, nghiệp đế sẽ không bền. Hơn nữa, Trịnh Sâm vốn ác cảm với người làng Long Phúc thường hay gây loạn như Trịnh Cối, Trịnh Lệ đã thành tiền lệ…

Sâm mất, Huệ và Quận Huy lập Cán lên ngôi chúa thì một bề tôi của Trịnh Tông là Dự Vũ dựa vào kiêu binh nổi dậy lập Tông lên ngôi chúa. Nạn kiêu binh hoàn thành khắp kinh kỳ, dân chúng ngày đêm nơm nớp lo sợ.

Tháng 6 năm Bính Ngọ ( 1780), đang lúc phủ chúa rối ren là thế thì nghĩa quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ với danh nghĩa “ diện Trịnh phò Lê” kéo ra Bắc Hà.

Chống cự lại rất yếu ớt, quân Trịnh tan rã, bỏ chạy. Tướng Hoàng Phùng Cơ, Nguyễn Lệ rút chạy lên phía bắc. Trịnh Tông mặc nhung phục, ngồi voi, cầm cờ lệnh chỉ huy, quân sĩ nhìn nhau không ai nghe theo.

Chúa Trịnh phải một mình bỏ chạy lên Sơn Tây, chúa gặp được Lý Trần Quán ở xã Hạ Lôi, nhờ quán giúp đỡ. Trần Quán nhờ người học trò nói dối là giúp tham tụng Bùi Huy Bích lánh nạn. “ Nguyễn Trang biết đích là chúa Trịnh mà Tây Sơn đang truy lùng, liền cầm tay chân bắt Trịnh Tông nộp ngay cho quân Tây Sơn. Trần Quán biết tin chạy đến trách mắng học trò, Trang thản nhiên nói.

Trên đường giải đến quân Tây Sơn, Trịnh Tông dùng dao tự tử. Trang đem xác Tông nộp cho quân Tây Sơn, Nguyễn Huệ sai người khâm liệm tống táng Trịnh Tông chu đáo rồi bổ dụng Nguyễn Trang làm trấn thủ Sơn Tây, tước Tráng liệt hầu.Trần Quán lui về nhà trọ, bảo học trò. “ Ta là bề tôi mà làm lầm lỡ chúa, tội chỉ có chết mới tỏ được với chúa”.

Xong sai người đào huyệt, mặc đủ mũ áo, tự nằm vào quan tài, nhờ chôn cất.

Trịnh Tông làm chúa được 4 năm thì bị chết, thọ 24 tuổi.
 
án đô vương trịnh bồng ( 9 – 1786 đến 9 – 1787)

Trịnh Bồng là con Trịnh Giang, bác họ của Trịnh Tông. Lúc đầu Bồng được làm phong quận Côn quận công. Trịnh Tông thua, Trịnh Bồng lánh nạn ở huyện Văn Giang ( Hải Dương) chiêu tập binh mã đợi thời cơ. Khi quân Nguyễn Huệ cùng anh là thái Đức Nguyễn Nhạc rút về Nam, Trịnh Lệ liền đem quân qua đò Thanh Trì kéo về chiếm lại phủ chúa. Đang đêm, Trịnh Lê cho nổi trống triệu tập triều quan đến bàn việc lập Lệ lên ngôi chúa. Việc hấp tấp, vội vàng đã không thành. Vua Lê, sau khi gắn bó với Tây Sơn không muốn chia quyền cho họ Trịnh như trước nữa. Quan hệ giữa vua Lê và chúa Trịnh Lê rất căng thẳng. Trịnh Lệ định mưu thoán nghịch.

Giữa lúc ấy, một số người thân cận xui Trịnh Bồng viết biểu xin về chầu vua. Trịnh Bồng bấy giờ đã 40 tuổi, tính nết hiền từ, khoan hậu được nhiều người mến mộ. Cuối đời, Trịnh Sâm, vì việc con trưởng, con thứ khó quyết, có lúc Trịnh Sâm định lập Trịnh Bồng để trả lại ngôi chúa cho anh con nhà bác. Vì thế Sâm cho Thị Huệ nuôi Trịnh Bồng để thay phòng Cán nếu Cán mệnh mệt. Trịnh Tông lên ngôi, kiêu binh mấy lần muốn phò Côn quân công Trịnh Bồng, đã vào tận nhà để thúc ép và đón rước, Bồng đã một mực từ chối. Lúc quân Tây Sơn kéo ra, Bồng chỉ đem theo một đứa ở, một tên lính, lánh vào huyện Chương Đức, có định chuyên đi tu. Biết Trịnh Lệ làm nhiều điều ngang ngược, trái phép, một số quan tìm gặp, khuyên Trịnh Bồng về triều giúp vua. Thấy Trịnh Bồng vào triều, triều thần theo giúp, thanh thế Trịnh Bồng ngày càng lớn. Bồng chưa có ý lấn quyền vua Lê nhưng do bộ hạ thúc giục nên đã nghe theo.

Bồng đến chầu, vua muốn Bồng trở về nhà cũ, phong làm Tiết chế thủy bộ chủ quân. Bình chương quân quốc trọng sư. Thái úy côn quận công, cấp 3.000 tên lính, 5.000 mẫu ruộng và 200 xã dân tộc để phụng thờ họ Trịnh. Bọn Đinh Tích Nhưỡng lại muốn Trịnh Bồng làm vương tại phủ chúa đời chúa trước kia nên đã nhiều lần gan lì sang xin vua phong vương cho Trịnh Bồng. Ngược lại vua Lê kiên quyết từ chối. Cuối cùng do sức ép của Đinh Tích Nhưỡng kẻ nắm binh quyền, bất đắc dĩ, vua phải y theo, phong Bồng làm nguyên soái, tổng quốc chính, Yến Đô vương.

Trịnh Bồng nhu nhược, lười biếng, không điều khiển được công việc, do đó chính sự lọt vào tay Đinh Tích Nhưỡng. Chúng khuyên Bồng lập lại đủ lệ bộ ở phủ chúa như xưa, phủ chúa thành một triều đình riêng. Từ đó, vua và chúa lại càng mâu thuẫn. Vua Lê định cầu viện quân ngoài trấn vào kinh dẹp Trịnh, Trịnh Bồng biết, dọa giết, lập vua khác. Tình thế hết sức nguy khốn. Vua Lê buộc phải cho vời Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An đem quân về giúp. Quân Chỉnh vào Thăng Long một cách dễ dàng. Tướng lĩnh Trịnh bỏ chạy, Trịnh Bồng chốn chạy về xã Dương Xá rời Quế Võ ở Bắc Ninh. Rồi từ Bắc Ninh, Trịnh Bồng chạy về Hải Dương, Quảng Yên, Thái Bình, nhờ thổ hào địa phương giúp đỡ quân lương mưu đánh lại Nguyễn Hữu Chỉnh, nhưng mấy lần giao chiến đều thất bại.

Về sau, Bồng chạy về viết biểu gửi vua Lê: “ kiếp này sinh ra lỗi thời, gặp lúc nước nhà lắm nạn, lạm dự vào vòng đích nhà chúa, rất lo cho việc tôn miếu xã tắc. Dâng biểu trần tình, mong được Hoàng thượng cho về triều kiến…

Nhận được biểu Trịnh Bồng, vua Lê ngậm ngùi.

Tấm lòng thật thà của Bồng, trẫm đã lường biết, chỉ vì không khéo xử sự trong lúc gặp biến cố nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã nghĩ lại và biết hối lỗi trẫm sẽ có cách đối đãi, chẳng những giữ được dòng dõi mà cũng không mất địa vị giàu sang. Vua Lê nói rồi sai người đi đón Trịnh Bồng, nhưng chưa kịp gặp Trịnh Bồng thì quân Hữu Chỉnh đã đánh tan quân Trịnh Đinh Tích Nhưỡng và Phạm Tôn Lân đã bỏ chúa mà đi, Tích Nhưỡng trong tay không còn quân lính vũ khí gì nữa. Trịnh Bồng không còn ai giúp, phải sống lẩn lút một mình ở ven biển, tình cảm rất điêu đứng. Trịnh Bồng lúc đó tự nhủ “ Giàu sang ở kiếp phù sinh, đều là cảnh mộng. Bởi vậy ngày xưa đã có người thề xin đời đời đừng sinh vào nhà đế vương…

Từ lúc ta ở trọ đất Trương Đức đã có ý nghĩ nương nhờ nơi cửa Phật. Bây giờ nên quay lại cửa Phật là hơn.

Thế rồi Trịnh Bồng gột sạch bụi trần, tự xưng là Hải Đạt thiền sư dạo khắp các vùng Lạng Sơn, Cao Bằng. Bấy giờ có người học trò đất Kinh Bắc tên là Kiền, chạy loạn lên Lạng Sơn. Kiền gặp Hải Đạt thiền sư ở chùa Tam Giáo, liền biết đó là chúa Trịnh, bèn bảo với bọn phiên thần ở vùng đó là Hà Quốc Kỳ và Nguyễn Khắc Trầ đến gặp, đón Hải Đạt thiền sư về nhà. Họ bảo nhà sư rằng.

Chúng tôi nối đời làm bề tôi ở chốn biên cương. Ở xa vẫn mến oai đức của Triều đình, thường thì chỉ nghe vua Lê chúa Trịnh như ở trên đời. Nếu như thiên hạ vô sự, bọn chúng tôi làm gì được trông thấy chúa, chẳng may nhà nước có nạn, xe chúa phải tới nơi biên ải, thần dân ai chẳng đau lòng. Lúc này chính là dịp cho kẻ trung thần nghị sĩ ra tài kinh luân. Họ xin được lấy danh nghĩa chúa để triệu tập binh mã quân lương đánh giặc.

Nhà sư nhắm mắt chắp tay khoan thai trả lời.

Sư già này xuất gia theo Phật, không can dự gì đến việc đời, các ông chớ có nhận lầm, khiến lúc yên lặng, lại sinh ra bao nhiêu phiền não. Trong thiên hạ, ai là chúa, ai là vua, đã có mệnh trời, sư già này chỉ biết một lọ một bát, tu hành ở cửa thiền, làm môn đồ đức Phật Như Lai mà thôi!

Vũ Kiền vẫn quả quyết rằng đã có lần trông thấy chúa khi còn học ở kinh kỳ, không thể lầm được, rồi cố gắng thuyết phục chúa bỏ chí tu hành mà mưu sự nghiệp lớn, không nên nản chí. Nhà sư khóc và nói.

Sức ta đã hết, cửa không còn mà vẫb không thể giành được với trời, nên đành nín nhịn để giữ lấy mình, đâu còn dám làm càn để lại lầm lẫn nữa?

Chúa đã nói lộ bản tướng, bị mọi người vin lấy danh nghĩa chúa mà bắt buộc phải truyền lệnh điểm thu lương. Bọn Kỳ và Trần đều là những kẻ tầm thường chỉ lợi dụng nghĩa chúa để làm điều phi pháp. Nhân dân không thể chịu được nữa, bèn nổi lên giết Kỳ và Trần rồi đuổi chúa Trịnh đi Hữu Lũng rồi từ đó không ai gặp chúa đâu nữa.

Họ Trịnh từ thái vương Trịnh Kiểm truyền đến Trịnh Sâm vừa được 8 đời thì sảy ra biến loạn, đúng với lời sấm đoán về đất phát tích của tổ tiên họ Trịnh. “ Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được 8 đời, trong nhà dấy vạ”. Đến án đô vương Trịnh Bồng thì nghiệp chúa hết. Trước sau trải 11 đời 248 năm.

1> Trịnh Kiểm ( 1545 – 1570)
2> Trịnh Tùng ( 1570 – 1623)
3> Trịnh Tráng ( 1623 – 1652)
4> Trịnh Tạc ( 1653 – 1682)
5> Trịnh Căn ( 1682 – 1709)
6> Trịnh Cương ( 1709 – 1792)
7> Trịnh Giang( 1729 – 1740)
8> Trịnh Doanh ( 1740 – 1767)
9> Trịnh Sâm ( 1767 – 1782)
10> Trịnh Tông ( 1782 – 1782)
11> Trịnh Bồng ( 1786 – 1787).
 
Dòng dõi các chúa nguyễn ( 1600 – 1802)

NGUYỄN HOÀNG ( 1600 – 1613)

Nguyễn Hoàng, người Gia Miêu ngoại trang, Tống Sơn, Hà Trung, Thanh Hóa, sinh tháng 8 năm Ất Dậu ( 1525), là con thứ hai của Nguyễn Kim. Tổ tiên họ Nguyễn là một danh gia vọng tộc ở Thanh Hóa: Ông nội của Nguyễn Hoàng là Trừng quốc công Nguyễn Hoằng Dụ, đã từng giúp vua Lê Tương Dực khởi binh Thanh Hóa lật đổ Lê Uy Mục, nhân đó được phong thái phó Trừng Quốc Công.

Cha Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim, con trưởng của Nguyễn Hoằng Dụ, làm quan dưới triều Lê, chức Hữu viện điện tiền tướng quân tước An thanh hầu. Khi Mạc lấy ngôi vua họ Lê, Nguyễn Kim đem con em lánh sang Ai Lao, thu nạp hào kiệt, tính cuộc trung hưng nhà Lê từ bên đất Ai Lao và được phong thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công chưởng nội ngoại sự. Năm Canh Tí ( 1540) Nguyễn Kim đem quân về chiếm Nghệ An. Năm Nhâm Dần ( 1542) ra Thanh Hóa cùng với vua Lê chiếm lại Tây Đô, sự nghiệp trung hưng nhà Lê do tay Nguyễn Kim tạo dựng buổi đầu đang đà lớn mạnh. Năm Ất Tị (1545), Kim bị hàng dưới tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết, thọ 78 tuổi. Quyền hành từ đó rơi vào tay Trịnh Kiểm, con rể của Nguyễn Kim.

Khi Nguyễn Kim chạy sang Ai Lao thì Nguyễn Hoàng mới lên 2 tuổi, được thái phó Nguyễn Ư Dĩ nuôi dạy nên người. Lớn lên, Hoàng làm cho quan cho triều Lê, tước phong đến hạ Khê hầu, từng đem quân đánh Mạc Phúc Hải, lập công lớn, vua Lê phong cho tước Đoan quận công.

Trịnh Kiểm là anh rể, muốn thâu tóm quyền hành nên loại bỏ uy thế các con Nguyễn Kim, Nguyễn Uông, con trưởng bị hãm hại. Nguyễn Hoàng đang bị ghen ghét, Hoàng biết bèn cáo bệnh nằm nhà, giữ mình tránh ngờ.

Nguyễn Hoàng tìm cách trả thù họ Trịnh, băn khoăn chưa biết nên làm gì bèn sai người đến hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì được tâu: “ Hoành Sơn nhất đái, van đại dung thân” ( một dải núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời). Hoàng hiểu ra, nhờ chị gái là Ngọc Bảo nói với Kiểm cho Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Đất ấy hiểm trở, xa xôi, khí hậu khắc nghiệp, lại là mặt Nam, quân Mạc có thể dùng thuyền vượt biển đánh sau lưng, Kiểm đồng ý và dâng biểu tâu vua trao quyền cho Nguyễn Hoàng làm trấn thủ Thuận Hóa, toàn quyền xử lý mọi việc. Hoàng đem người nhà và quân bản bộ vào Nam năm Mậu Ngọ ( 1558), khi 34 tuổi. Cùng đi còn có nhiều đồng hương Tống Sơn và Nghĩa Dũng Thanh Hóa.

Thủa đầu, Nguyễn Hoàng dựng dinh trại ở xã Ái Tử, huyện Đăng Xương ( Triệu Phong, Quảng Trị). Hoàng biết khéo vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được người người mến phục, gọi là “ Chúa tiên”.

Khoảng 40 năm đầu, vào vùng đất mới, Nguyễn Hoàng chú trọng khai hoang lập ấp, phát triển kinh tế gây nuôi lực lượng kinh tế lâu dài, bên ngoài vẫn giữ quan hệ bình thường và hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với vua Lê ngoài Bắc. Công cuộc khẩn hoang và chính sự rộng rãi của Nguyễn Hoàng đã đem lại hiệu quả rõ rệt về mọi mặt.

Tháng 2 năm Quý Dậu ( 1573) vua Lê sắc phong cho Nguyễn Hoàng làm Thái phó, cần tích trữ thóc lúa ở biên giới, hàng năm nộp thuế 400 cân vàng bạc, 500 tấn lúa. Mỗi lần có triều thần vào kiểm tra thuế khóa của trấn, Nguyễn Hoàng khéo tiếp đãi, biết lấy lòng, vì thế Hoàng chỉ đệ trình sổ sách do Hoàng sai người lập ra. Chính nhờ đó mà thu nhập của chúa Nguyễn ở Đàng Trong ngày càng tăng nhanh. Ngoài Bắc, vua Lê liền năm phải đem quân đánh Mạc, quân dụng thiếu thốn, đất Thuận Quảng lại “ liền mấy năm được mùa, trăm họ giàu thịnh”. Nguyễn Hoàng còn đem tiền thóc ra giúp vua Lê.

Tháng 5 năm Quý Tị ( 1593) biết Lê Trịnh đánh tan quân Mạc, lấy lại được Đông Đô, Hoàng liền đem quân ra yết kiến phía nam, tấn phong Hoàng làm Trung quân đô đốc thủ phủ tả đô đốc chưởng phủ sự thái úy Đoan Quốc công.

Nguyễn Hoàng từng lưu lại ở miền Bắc với nhà Lê đến 7 năm, nhiều lần đem quân đánh dẹp dư đảng nhà Mạc ở Kiến Xương ( Thái Bình) và Hải Dương, lập được công lớn. Người con thứ hai của Nguyễn Hoàng tên là Hán, được vua phong tả đô đốc Ly Quận công, theo Nguyễn Hoàng đánh Mạc ở Sơn Nam bị tử trận. Con Hán là Hắc được tập ấm.

Nguyễn Hoàng đã nhiều lần theo vua hầu Lê lên hội khám với nhà Minh ở Trấn Nam quan để nhận sắc phong cho vua Lê. Năm Kỷ Hợi ( 1599) vua Lê băng, con thứ là Duy Tân lên ngôi, Nguyễn Hoàng được phong Hữu tướng.

Năm Canh Tý ( 1600) đem quân dẹp các tướng nổi loạn: Phan Ngạn, Ngô Đình và Bùi Văn Khuê ở Nam Định, Nguyễn Hoàng cùng bản bộ ra biển dong thẳng vào Thuận Hóa, để con trai thứ 5 là Hải và cháu là Hắc ở lại làm con tin. Sau đó, vua Lê sai sứ giả vào phủ dụ, vẫn để Nguyễn Hoàng trấn thủ đất Thuận Quảng, hàng năm nộp thuế má đầy đủ. Trịnh Tùng cũng gửi thư kèm theo khuyên giữ tốt việc tuế công.

Tháng 10 năm Canh Tý ( 1600), Nguyễn Hoàng gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng ( con cả Trịnh Tùng). Từ đó Nguyễn Hoàng không ra Đông Đô nữa, Trịnh Tùng cũng chẳng dám động chạm đến việc ấy nữa. Có thể nói từ 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu xây dựng một giang sơn riêng cho họ Nguyễn. Hoàng ráo riết xây dựng vùng đất mới này có đầu đủ mọi mặt, tổ chức hành chính, mở rộng đất xuống phía nam. Một loạt chùa chiền, thờ phật cũng được xây cất trong dịp này, thiên Mụ, Bảo Châu…Dân chúng ngoài Bắc mất mùa đói kém chạy vào Nam theo chúa Nguyễn khá đông.

Năm Quý Sửu ( 1613) Nguyễn Hoàng đã già và mệt nặng, triệu người con trai thứ 6 vào dặn.

Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang ( Hoành Sơn) và Sông Gianh) Linh Giang hiểm trở, phía nam núi Hải Vân và núi Đá Gia ( Thạch Bi Sơn) vững bền. Núi sắt vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dựng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện lính để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời, bằng thế lực không định được, thì cố giữ ta. Nguyễn Hoàng mất, thọ 89 tuổi, có 10 con trai, trấn thủ Thuận Quảng được 56 năm ( 1558 – 1613). Sau này Triều Nguyễn truy tôn là Thái Tổ Gia dụ hoàng đế.
 
Nguyễn phúc nguyên ( 1613 – 1635)

Nguyễn Phúc Nguyên là con thứ 6 của Nguyễn Hoàng. Mẹ Phúc Nguyên họ Nguyễn, bấy giờ các con trai của Nguyễn Hoàng là Hạ, Hán, Thành, Diễn đều đã mất trước. Người con trai thứ 5 là Hải đang làm con tin ngoài Bắc, vì thế Phúc Nguyên là con thứ 6 được nối nghiệp, bấy giờ đã 51 tuổi.

Vua Lê sai sứ giả vào viếng và truy tặng Nguyễn Hoàng là Cẩn Nghi công, cho Phúc Nguyên làm trấn thủ thuẩn Quảng với hàm thái Bảo, tước Quận công. Phúc Nguyên lên nối ngôi, sửa đắp thành lũy, đặt quan ải vỗ về quân dân, trong ngoài đều vui phục, bấy giờ người ta gọi Nguyên là chúa Phật. Kể từ khi Nguyễn Phúc Nguyên, họ Nguyễn là Đàng Trong xưng quốc tính là Nguyễn Phúc.

Năm Kỷ Mùi ( 1619), Trịnh Tùng đem quân vào đánh chúa Nguyễn ở Thuận Quảng, từ đấy chúa Nguyễn không nộp thuế cống nữa.

Năm Quý Hợi ( 1623), nghe tin Trịnh Tùng bị bệnh nặng, con thứ là Xuân nổi loạn phóng lửa đốt phủ chúa, bức dời Tùng chạy ra ngoài thành, - Phúc Nguyên nói với các tướng.

Tùng không biết có vua, Xuân không biết có cha, đạo trời báo ứng, thật chẳng lầm vậy. Rồi Phúc Nguyên sai bắn ba phát súng và kêu 3 tiếng. Nguyễn Hữu Dật ( mới 16 tuổi, vì có học, được dùng làm văn thư) không hiểu , liền hỏi.

Trịnh Tùng chết, con mới lập, muốn đánh thì đánh, muốn giữ thì giữ. Nay nổ súng muốn kêu to là sao vậy?

Phúc Nguyên giải thích.

Hữu Dật trẻ tuổi cậy hăng, chưa biết rõ lẽ. Ta muốn nhân cơ hội này nổi nghĩa binh để phò Lê, nhưng đánh người trong lúc có tang là bất nhân, thừa lúc người lâm nguy là bất võ. Huống chi ta với họ Trịnh còn có nghĩa thông gia, chi bằng trước hết đem lễ phúng viếng, xem xét tình hình, sau hãy liệu kế.

Nguyễn Phúc Nguyên có Đào Duy Từ giúp sức càng vững mạnh hơn. Đào Duy Từ được Trần Đức Hòa tiến cử lên chùa Nguyễn năm Đinh Mão ( 1627) Nguyễn Phúc Nguyên mừng lắm, phong cho Duy Từ bày cho chúa Nguyễn kế sách trả lại sắc phong của vua Lê, không chịu nộp thuế cống cho họ Trịnh, đắp lũy Trường Dục, lũy thầy để phòng ngự, chống lại quân Trịnh. Kế sách của Duy Từ được chúa Nguyễn làm theo.

Đào Duy Từ cũng bày cho chúa Nguyễn phép duyệt đinh, tuyển lính, thu thuế theo các bậc hạng, ngạch bực khác nhau. Nhờ có việc thu thuế và huy động đóng góp của dân chúng được công bằng và ổn định, tiềm lực quân sự và kinh tế của chúa Nguyễn ngày càng mạnh.

Đào Duy Từ còn tiến cử cho chúa Nguyễn một viên tướng tài ba, mưu lược như thần. Nguyễn Hữu Tiên. Quân lực Nguyễn từ đó ngày thêm mạnh. Đào Duy Từ chỉ giúp chúa Nguyễn 8 năm mà cơ nghiệp chúa Nguyễn thay đổi hẳn về thể chất, đất ở Đàng Trong trở nên có văn hiến và quy củ.

Năm Giáp Tuất ( 1634) Đào Duy từ bị bệnh nặng, chúa Nguyễn thân tới thăm, Duy Từ khóc nói.

Thần gặp được thánh minh, chưa báo đền được chút đỉnh, nay bệnh ốm đến thế này, còn nói gì nữa?

Đào Duy Từ mất, thọ 63 tuổi, chúa Nguyễn rất thương tiếc, truy tặng Hiệp mưu đồng đức công thần đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, đưa về táng ở đất Tùng Châu ( Bình Định). Công lao của Từ đứng đầu công thần khai quốc của nhà Nguyễn.

Một năm sau, năm Ất Hợi ( 1635) chúa Nguyễn Phúc Nguyên qua đời, ở ngôi 22 năm, thọ 73 tuổi, truyền ngôi cho con thứ hai là Nguyễn Phúc Lan. Sau triều đình Nguyễn truy tôn là Hy Tông Hiến Văn Hoàng đế. Nguyễn Phúc Nguyên có 11 con trai.
 
Nguyễn phúc lan ( 1635 – 1648)

Vợ Nguyễn Phúc Nguyên là con gái Mạc Kính Điển, khi Kính Điển bại vong, bà theo chú là Cảnh Huống chạy vào Nam, cùng với chú ẩn ở chùa Lam Sơn, đất Quảng Trị, Nguyễn Thị Ngọc Dương, vợ của Cảnh Huống lại là dì ruột của Nguyễn Phúc Nguyên, nhân đó bà tiến cháu mình vào hầu chúa Nguyễn từ khi chưa lên ngôi.

Bà vợ họ Mạc này sinh được 5 trai, con trưởng là Kỳ, làm Hữu phủ chưởng phủ sự, trấn thủ Quảng Nam, hàm thiếu Bảo, tước Quận công. Con trai thứ hai là Phúc Lan, con thứ ba là Trung, con thứ tư là Anh, thứ năm là Nghĩa chết sớm. Ba người con gái là Ngọc Liên, Ngọc Vạn và Ngọc Khóa. Năm Canh Ngọ ( 1630) bà mất, thọ 53 tuổi, được truy tôn là Huy cung từ thân thuận phi.

Mùa hạ năm Tân Mùi ( 1631), Hoàng tử cả là Kỳ mất, Phúc Lan là con thứ hai được lạp làm thế tử, mở dinh Thuận Nghĩa. Năm Ất Hợi ( 1635), chúa Nguyễn Phúc Nguyên mất, Phúc Lan được nối ngôi, lúc này ông đã 35 tuổi, gọi là chúa thượng.

Nghe tin Lan được nối ngôi Chúa, Trấn thủ Quảng Nam là Anh nổi lên, bí mật đầu hàng họ Trịnh, mưu cướp ngôi chúa. Anh cho đắp lũy Cu Đê để cố thủ và bày thủy quân ở cửa biển Đà Nẵng chống lại chúa. Phúc Lan đánh bắt được, không nỡ giết kẻ ruột thịt, nhưng tướng sĩ đều xin giết để trừ hậu họa, kể cả đồ đảng có tên trong sổ “ Đồng tâm”.

Năm Kỷ Mão ( 1639) vợ của Tôn Thất Kỳ là Tống thị vào yết kiến chúa Nguyễn. Tống thị xinh đẹp, lại khéo ứng đối, nhân vào gặp chúa, kêu khổ, xin chúa thương tình và biếu chúa chuỗi ngọc Vạn hoa. Phúc Lan thương tình cho lưu lại cung phủ, thị thần có người can, chúa không nghe.

Năm Canh Thìn ( 1640) quân Nguyễn do Nguyễn Hữu Dật thống suất đã chiếm được Bắc Bố Chính. Trịnh Tráng viết thư xin lại, chúa Nguyễn ra lệnh đồng ý. Từ đó Phúc Lan thấy biên cương không đáng lo nữa, rời vào chăm lo yến tiệc, xây dựng cung thất, công dịch không ngớt việc thổ mộc nặng nề, tốn kém. Nhưng còn may là quần thần can ngăn, chúa đổi sắc mặt nói.

Đấy là do người ta xu nịnh bày ra, thực không tự ý ta.

Tức thì bãi bỏ việc xây dựng.

Lại nói đến Tống thị, khi đã được vào cung, đưa đón, chỉnh thác lấy lòng chúa rất khéo, của cải chất đầy. Chưởng cơ Tôn Thất Trung mưu giết thị. Tống thị viết thư và gửi một chuỗi ngọc nhờ cha là Tống Phúc Thông ( ở đất Trịnh) đem biếu chúa Trịnh, xin Trịnh Tráng cất quân đánh Nguyễn. Tống thị nguyện đem gia tài giúp quân lương, Tráng nhận được thư, liền đem các quân thủy bộ vào đánh lại. Về sau, Phúc Lan không được khỏe, trao binh cho con trai là Nguyễn Phúc Tần và tướng Nguyễn Hữu Dật. Nhiều trận đánh lớn đã xảy ra, quân Nguyễn đại thắng, bắt được vô số từ binh của quân Trịnh.

Trên đường rút quân, đến phá Tam Giang, Phúc Lan mất trên thuyền ngự. Chúa ở ngôi 13 năm, thọ 48 tuổi. Thế tử Nguyễn Phúc Tấn khóc mời chú lên ngôi gánh vác việc nước. Ông chú tử tế đã khuyên cháu lên ngôi cho danh chính ngôn thuận. Nguyễn Phúc Tần theo lời, lên nối ngôi, truy tôn cha là thần tôn hiến chiêu Hoàng đế.
 
Nguyễn phúc tần ( 1648 – 1687)

Nguyễn Phúc Lan có bà vợ họ Đoàn, con gái thứ ba của thạch Quận công Đoàn Công Nhạc, người huyện Diên Phúc, tỉnh Quảng Nam. Bà là người minh mẫn, thông sáng, năm 15 tuổi ban đêm bà đi hái dâu ở bãi sông, trông trăng mà hát. Bấy giờ Nguyễn Phúc Nguyên đi chơi Quảng Nam đem theo thế tử Nguyễn Phúc Lan hộ giá, vừa đáp thuyền đến hỏi, biết là con gái họ Đoàn, cho tiến vào hầu thế tử Phúc Lan ở tiềm để. Bà được yêu chiều lắm, sau khi sinh được con trai, chính là Nguyễn Phúc Tần.

Nguyễn Phúc Tần sinh năm Canh Thân ( 1620), lúc đầu được phong võ tướng Dũng lễ hầu, từng đánh giặc ở của biển, được chúa Phúc Lan rất khen ngợi. Năm Mậu Tý ( 1648) được tấn phong là Tiết chế chủ quân, thay Phúc Lan phá quân Trịnh ở sông Gianh, bấy giờ 29 tuổi. Nguyễn Phúc Lan mất đột ngột, bầy tôi tôn Phúc Tần lên ngôi chúa, gọi là chúa Hiền.

Chúa Hiền là người chăm chỉ chính sự không chuộc yến tiệc vui chơi. Bấy giờ có người con hát quê ở Nghệ An là thị thừa, nhan sắc xinh đẹp, được lấy vào cung để phụng chúa. Chúa nhân đọc sách “ Quốc ngữ”, đến chuyện vua Ngô bị mất nước vì nàng Tây Thi, chợt tỉnh ngộ, tức thì sai thị thừa mang ngự bào cho chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều, giấu thhu7 trong dải áo ngầm sai Kiều bỏ thuốc độc giết thị thừa mong trừ hậu họa.

Phúc Tần biết trọng dụng hai tướng giỏi là Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến. Nhờ đó quân chúa Nguyễn nhiều lần vượt sông Gianh tiến ra đất Đàng Ngoài. Năm 1656, sau hai năm tất công ra Bắc, quân Nguyễn đã chiếm được 7 huyện của Nghệ An, đóng tạo xã Vân Cát. Quân Nguyễn còn có thể tiến sâu vào đất đối phương thêm nữa, nhưng phía nhà Trịnh, Trịnh Tráng mất, con là Trịnh Tạc lên ngôi đang chịu tang. Chúa Nguyễn chp người sang điếu, rồi rút quân về, lưu các tướng đóng đồn từ Sông Lam trở về Nam, đắp lũy từ núi đến cửa biển để làm thổ phòng ngự. Sau đợt tấn công đó, quân Nguyễn còn chiếm đất Nghệ An thêm 5 năm nữa, năm Canh Tí ( 1660) Trịnh mới khôi phục lại được. Từ đó Trịnh và Nguyễn cần cự nhau suốt hàng chục năm, không phân thắng bại.

Năm Ất Mão ( 1675), Hoàng tử thứ tư của chúa Nguyễn là Nguyên Soái Nguyễn Phúc Hiệp mất, Hiệp là tướng giỏi cầm quân. Ở Quảng Bình, có người đem con gái tuyệt đẹp đến tiến nộp. Hiệp giận lắm, nhưng thương vì nghèo túng bèn ban cho tiền, bảo về. Từ khi đánh Đàng Ngoài về, Hiệp tuyệt hẳn không gần đàn bà, con gái, dựng am thờ phật, thỉnh thoảng ra chơi, đàm đạo thuyết pháp để tự vui. Sau bị bệnh đậu mùa, chết năm 23 tuổi.

Năm Kỷ Mùi ( 1679), chúa Nguyễn cho phép Dương Ngạn Địch, một tướng lĩnh của triều Minh cùng với Trần Thượng Xuyên… đem gia thuộc hơn 3.000 người và hơn 50 chiến thuyền khai phá vùng đất Gia Đinh, Mỹ Tho. Từ đó mọc lên các phố xá buôn bán ở vùng đất mới này, thuyền buôn của người Thanh và các nước tây phương, Nhật Bản đi lại tấp nập, do đó phong hóa ngày càng mở mang.

Những năm sau đó. Bính Ngọ ( 1666), Nguyễn Hữu Tiến mất, rồi năm Tân Dậu ( 1681), Nguyễn Hữu Dật mất, phía chúa Nguyễn bị tổn thất lớn. Riêng đối với Nguyễn Hữu Dật, sau khi chết, dân Quảng Bình tiếc nhớ, gọi là Bồ Tát, lập đền thờ ở thạch Xá.

Dưới thời chúa Hiền, nhiều kênh đào tưới ruộng được khơi đào, như Trung Đan, Mai Xá. Bất giờ, bờ cõi vô sự, thóc được mùa, chúa càng sửu sang chính sự, không xây đài tạ, không cần con gái đẹp, bớt nhẹ giao dịch thuế má, trăm họ vui vẻ, mọi người đều khen là đời Thái Bình.

Năm Đinh Mão ( 1687) chúa không được khỏe, sai triệu con thứ là Hoằng Ân hầu vào bảo.

Ta bình sinh ra vào gian hiểm để giữ nhà nước này. Mày nối ngôi phải sửa thêm nhân chính cho yên bờ cõi, các quan văn võ đều do ta cất dùng, phải đem lòng tin yêu, cùng mưu mọi việc, đừng để cho bọn tiểu nhân lẻn vào. Chúa mất năm 68 tuổi, ở ngôi 39 năm có 6 người con trai.
 
Nguyễn phúc trăn ( 1687 – 1691)

Nguyễn Phúc Tần có hai bà vợ chính, bà họ Chu là cả, theo hầu chúa từ khi còn chưa lên ngôi, sinh được hai trai một gái. Con trai là Diễn, được tấn phong Phúc Quận công, con gái là Ngọc Tào. Bà vợ thứ hai là người họ Tống, quê ở huyện Tống Sơn ( Thanh Hóa), là con gái Tống Phúc Khang, người cùng quê với nhà chúa, đã được phong tới thiếu phó. Bà vợ họ Tống sinh được hai trai, Nguyễn Phúc Trăn lại là thứ hai, sinh năm Kỷ Sửu ( 1649). Khi người con trai cả do bà vợ họ Chu sinh ra chết, Nguyễn Phúc Tần cho rằng Trăn tuy là con bà hai nhưng lớn tuổi và hiền đức, phong cho làm Tả thủy dinh phó tướng Hoằng Âm hầu, làm phủ đệ tại dinh Tả thủy. Nguyễn Phúc Tần mất, Trăn đã 39 tuổi, được nối ngôi chúa, bấy giờ gọi là chúa Nghĩa.

Nguyễn Phúc Trăn là người nổi tiếng rộng rãi, hình phạt và thú thuế đã nhẹ, trăm họ là cũng vui mừng, quan lại cũ của tiên triều đều được trọng đãi.

Nguyễn Phúc Trăn bắt đầu quy định lại tang phục. Sở dĩ có lệnh này là vì bấy giờ thần dân ở trong thành ngoài quận, hễ có nghe quốc tang thì dù ở núi sâu hang cùng, dù là kẻ già, con trẻ, không ai là không lăn khóc kêu gào. Người chài cá bỏ thuyền, người đi chăn thì buông trâu, tiếng bi thương vang khắp gần xa. Nguyễn Phúc Trần cho đây là ảnh hưởng của tập tục bản xứ người Chăm, không có lợi, liền chế định. Tôn thất và thân thần để tang 3 năm, từ cai đội trở lên để tang 2 tuần. Nội ngoại, đội chưởng, văn chức, câu kê thì để tang đến giỗ đầu, còn quân và dân thì để tang đến tết Trung Nguyên ( Rằm tháng Bảy).

Thời chúa Nguyễn, quan hệ với người Chân Lạp vẫn rất tốt đẹp, sau khi đã giết được kẻ phá đám là Hoàng Tiến ( người Hoa). Chúa Nghĩa không thọ được lâu, sau 4 năm cầm quyền, bị bệnh rồi mất năm Tân Mùi (91691) lúc 43 tuổi.
 
Nguyễn phúc chu ( 1691 – 1725)

Nguyễn Phúc Chu là con cả của Nguyễn Phúc Trăn. Mẹ ông, người họ Tống, quê ở huyện Tống Sơn ( Thanh Hóa), con của thiếu phó Quận công Tống Phúc Vinh. Bà được hầu Nguyễn Phúc Trăn từ khi chưa lên ngôi. Đến khi chồng lên ngôi chúa, bà được thăng làm Cung tần. Sinh được con trai là Nguyễn Phúc Chu thì càng được chúa yêu quý và bà phi của Phúc Trăn ( không có con) càng vì nể và đem Phúc Chu về nuôi.

Nguyễn Phúc Chu sinh năm Ất Mão (1675), được cho nuôi ăn học khá cẩn thận vì thế văn hay chữ tốt, đủ tài lược văn võ. Khi nối ngôi chúa mới 17 tuổi, lấy hiệu là thiên Túng đạo nhân. Đây là lần đầu tiên chúa Nguyễn lấy hiệu mới mẻ, sùng đạo Phật. Quả thật, mới lên giữ chính, chúa rất quan tâm chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói thẳng, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, bớt chi phí, nhẹ thuế má giao dịch, bớt việc ngục hình. Vừa lên ngôi, chúa cho xây dựng một loạt chùa miếu, mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, chùa núi Mỹ Am. Tự chúa cũng ăn chay ở vườn Côn Gia một tháng trời, chúa phát tiền gạo cho người nghèo thiếu. Đây là thời kỳ chiến tranh Trịnh – Nguyễn đã tạm ngừng hơn 30 năm, bờ cõi yên ổn. Nguyễn Phúc Chu có điều kiện mở rộng đất đai xuống phía nam và đạt được những thành tựu đáng kể, đặt phủ Bình Thuận năm Đinh Sửu ( 1697) gồm các đất Phan Rang, Phan Rí trở về Tây, chia làm hai huyện An Phúc và Hòa Đa bắt đầu đặt phủ Gia Định, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên ( tức Biên Hòa), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, lập xã Minh Hương…Từ đó người thanh đi lại buôn bán rất sầm uất.

Năm Mậu Tý ( 1708), chúa dùng Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên.

Ngoài tư cách là một vị chúa có học vấn cao thể hiện qua chính sự cao khá toàn diện và cởi mở. Nguyễn Phúc Chu còn là một người làm rất nhiều thơ. Ông có hàng chục bài thơ khóc vợ, tình ý rất tha thiết.

Năm Ất Tỵ ( 1725), Nguyễn Phúc Chu mất, ở ngôi 34 năm, thọ 51 tuổi. Phúc Chu là chúa có đông con nhất, 146 người, cả trai lẫn gái ! Trong một bài thơ khóc vợ, chúa rất tự hào về điều đó.

Dịch:

Mình tuổi thọ ít, nhưng phúc thì nhiều,
Người ta thường đồn phúc trạch thơm ư
Trong cung họ Nguyễn.
Vàng, ngọc hai hòm đều vứt bỏ:
Để lại con cháu đầy một nhà…

Nếu tính riêng con trai, ông có 38 người.
 
Nguyễn phúc chú ( 1725 – 1738)

Chắc là Nguyễn Phúc Chu có rất nhiều vợ, nhưng chỉ thấy sử chép sách chuyện hai bà, bà họ Hồ và bà họ Nguyễn.

Bà thứ nhất họ Hồ, sau khi vào cung cho lấy họ Tống ( Các chú Nguyễn thường lấy vợ Tống ở Tống Sơn – Thanh Hóa), bà người huyện Hương Trà, phủ thừa thiên, con gái trưởng doanh Hồ Văn Mai.

Vào cung, bà được chúa yêu chiều, lấy làm Hữu cung tần thứ tư. Sau lại được lên làm Chiêu Nghi, tính bà nhân thuận cung kính. Bà sinh được hai con trai, con trưởng là Phúc Chú, saau được nối ngôi chúa, con trai thứ là Phúc Tư, được phong Luân Quốc công.

Bà vợ họ Nguyễn là con gái của tham chính Nguyễn Hữu Hiệp, khi Phúc Chu mới được nối ngôi, bà được vào hầu ở nội đình, được cất nhắc làm Hữu cung tần thứ năm, rồi thăng Chánh nội phủ. Bà này có học hành và giáo dục cẩn thận, hầu chúa rất có tín nhiệm, được chúa yêu quý nhất. Bằng chứng là bà đã sinh cho chúa 11 người con, mùa thu năm Giáp Ngọ ( 1714) bà mất sớm. Chúa Nguyễn Phúc Chu thương nhớ, sai lập đàn chay trọng thể ở chùa Thiên Mụ và làm rất nhiều bài thơ về bà.

Nguyễn Phúc Chu sinh năm Bính Tý ( 1696), là con bà cả. Lúc đầu Phúc Chú được trao chức Cai cơ Đình thịnh hầu. Năm Ất Mùi ( 1715), thăng làm chưởng cơ, làm phủ đệ ở cơ Tả Sùng. Đến khi chúa Phúc Chu mất, ông được nối ngôi ( nam 1725) kho 30 tuổi, lấy hiệu là Vân Truyền đạo nhân. Nguyễn Phúc Chu ở ngôi được 13 năm thì mất. Trong thời kỳ cầm quyền, chúa không có gì nổi bật ngoài hai việc.

Năm Quý Sửu ( 1733), chúa cho nhập đồng hồ của Tây phương ở các dinh và các dồn tàu dọc biển. Sau đó có Nguyễn Văn Tú đã chế tạo ra được.

Năm Bính Thìn (1736), Mạc Cửu mất, con trai là Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn cho làm Đô đốc trấn Hà Tiên. Tứ có tầm nhìn xa biết rộng, cho miễn thuế, sai đóng ba chiếc thuyền Long bài, xuất dương mua các hàng quý hiếm cống nộp, mở cục đúc tiền để tiện việc trao đổi. Thiên Tứ chia đặt nha thuộc, kén bổ quân ngũ, đắp lũy thành, mở phố chợ, khách buôn, các nước đến họp đông đúc. Ông lại còn với văn nhân thi sĩ, mở chiêu Anh Các, ngày ngày cùng nhau giảng bàn và làm xướng họa, để lại 10 bài thơ Vịnh cảnh Hà Tiên ( Hà Tiên thập vịnh). Sau hợp lại thành tập 320 bài của 25 tác giả Trung Quốc và 6 tác giả Việt Nam.

Năm Mậu Ngọ ( 1738) chúa Nguyễn Phúc Chú mất, thọ 43 tuổi, ở ngôi 13 năm.
 
Nguyễn phúc khoát ( 1738 – 1765)

Nguyễn Phúc Khoát là con Nguyễn Phúc Chú, sinh năm Giáp Ngọ ( 1714). Mẹ là người họ Trương ở huyện Tống Sơn – Thanh Hóa, con trưởng cơ Trương Phúc Phan. Vào hầu Phúc Chú từ khi còn chưa lên ngôi, được phong Hữu cung tần. Tính bà e lệ cẩn thận, dạy bảo nội chức có phong độ của hậu phi đời xưa. Bà sinh được 2 người con trai, rồi mất năm bà mới 22 tuổi.

Nguyễn Phúc Khoát là con trưởng, được phong làm trưởng dinh Dinh tiền thủy chính hầu, làm phủ đệ tại Cơ Tiền Dực ở Dương Xuân. Phúc Chú mất, Khoát được lên ngôi khi mới 25 tuổi, lấy hiệu là tứ tế đạo nhân.

Nguyễn Phúc Khoát bắt đầu xưng vương, năm Giáp Tý ( 1744) đúc ấn Quốc vương, sau đó, ngày Kỷ Mùi, lên ngôi vua ở phủ chính Phú Xuân, ban chiếu bố cáo thiên hạ. Bộ máy chính quyền từ trên trở xuống cơ sở các chức danh, tên gọi cũng thay đổi theo, phủ chúa gọi là Điện, đổi chữ “ Thân” làm chữ “ tấu” khi có việc cần bàn với chúa. Tuy nhiên vua Nguyễn vẫn dùng niên hiệu vua Lê trong các văn bản hành chính. Đối với các thuộc quốc Cao Miên, Ai Lao, Xiêm…lại xưng là thiên vương. Tôn hiệu các đời trước cũng được nâng lên phù hợp với cương vị mới của Quốc vương. Đối với anh em họ hàng gần thì phong tước Quận công. Hoàng tử vẫn xưng là Công tử con trai trưởng là thái công tử, cứ theo thứ tự mà xưng. Đặc biệt Nguyễn Vương cho rằng con trai khó nuôi, nên gọi là gái và ngược lại gái thì gọi là trai.

Cùng với thay đổi trên, triều phục bách quan cũng thay đổi. Các đơn vị hành chính địa phương cũng một phen thay đổi.

Từ năm Giáp Tuất ( 1754) để xứng đáng là kinh đô của Nguyễn vương, Phú Xuân được xây dựng thêm hàng loạt điện đài mới theo quy mô đế vương, dựng hai điện Kim Hoa và Quang Hóa, các gác Giao Trì, Triệu Dương, Quang thiên và các nhà Tựu Lạc, Chính Quan, Trung Hòa, Di Nhiện cùng các đài Sướng Xuân, đình Thụy Vân, hiên Hồng Lạc, am Nội Viên, đình Giáng Hương. Ở Thượng lưu sông Hương có phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ, chạm vẽ tinh xảo. Vườn hậu uyển có non bộ, đá lạ, hồ vuông, hào cong, cầu vồng, thủy tạ. Tường trong tường ngoài đắp rồng, hổ, lân, phượng, hoa cỏ. Gác Triêu Dương nhìn xuống dòng sông, có quy mô nguy nga. Phía trên phía dưới đô thành đều đặt quân xá và đệ trạch. Cho công hầu, chia ra từng ô như bàn cờ làm nơi ở. Phía ngoài thành thì cho phố liên tiếp, cây to um tùm, thuyền chài buôn bán đi lại như mắc cửi. Rõ ràng dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, kinh đô Phú Xuân trở thành nơi đô hộ lớn, văn vật thanh dung lừng lẫy, đời trước chưa từng có.

Xây dựng xong kinh đô, chúa sai nhiều văn quan đề vịnh phong cảnh cố đô. Phú Xuân trở thành một thành phố nên thơ từ ngày ấy. Chúa Nguyễn đã đón tiếp các quốc vương láng giềng ở đất Phú Xuân.

Nguyễn Phúc Khoát đã tự xưng vương, ở ngôi được 27 năm. Năm Ất Dậu ( 1765) quốc vương băng hà, thọ 52 tuổi. Con trai thứ 16 lên ngôi.
 
Nguyễn phúc thuần ( 1765 – 1777)

Nguyễn Phúc Thuần còn có tên húy là Hân, sinh năm Giáp Tuất ( 1751), con thứ 16 của Phúc Khoát. Mẹ Phúc Thuần, người họ Nguyễn, sinh được hai trai, Phúc Thuần là thứ hai. Năm Giáp Ngọ ( 1774) bà đi tu ở chùa Phúc thành, sau đó mất ( 1804) được truy tôn là Tuệ Tĩnh thánh mẫu Nguyên sư, hiệu là thiệu Long giáo chủ.

Chúa Phúc Khoát lúc đầu lập Hoàng tử thứ 9 tên là Hiệu làm Thái hoàng tử, Hiệu mất sớm, con trai của Hiệu là Hoàng Tôn Dương còn thơ ấu mà Hoàng tử cả là Chương cũng đã mất, Hoàng tử thứ hai là Nguyễn Phúc Luân cũng rất khôi ngô, theo thứ tự sẽ phải lập Hoàng Tôn Dương hoặc Nguyễn Phúc Luân lên ngôi, Phúc Khoát có ý lập Phúc Luân, nên đã trao Luân cho một thầy học nổi tiếng là Trương Vạn Hạnh dạy bảo những điều cần thiết cho một người gánh vác ngôi vua. Phúc Khoát mất, tình hình lại thay đổi. Quyền thần Trương Phúc Loan không muốn lập Nguyễn Phúc Luân vì Luân đã lớn tuổi, khó bề lộng hành. Thế là Phúc Loan chọn lập Phúc Thuần con thứ 16 của Phúc Khoát, mới 12 tuổi lên ngôi.

Phúc Luân không được lập mà còn bị bắt giam. Nội hữu Trương Văn Hạnh – thầy dạy Phúc Luân cũng bị bắt giế. Phúc Luân không được nối ngôi trời, lo buồn cho tính mạng mà chết khi mới ở tuổi 33. Đến năm Minh mệnh thứ 2 ( 1821) Luân được truy tôn hiệu là Hưng tổ.

Trải 9 đời chúa, đến đây nhà Nguyễn lại bị nạn quyền thần lấn lướt, Phúc Thuần nhỏ tuổi, lại là người không phải sắp sẵn để lên ngôi, nay thật bỡ ngỡ trên ngai vàng. Mọi quyền hành đều do Trương Phúc Loan sắp đặt, Loan tự nhận là Quốc phó, giữ bộ hộ quản cơ Trung tượng kiêm Tầu vụ. Thực tế Trương Phúc Loan thâu tóm vào tay từ chính sự đến kinh tế. Các nguồn lợi chủ yếu của vương quốc Đàng Trong đều rơi vào tay Loan. Thuế sản vật các mỏ vàng thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân…Hàng năm Trương chỉ vào nộp ngân khố 1 – 2 phần 10 số thu được. Các thứ lâm thủy sản đều chảy vào nhà Trương, ngày nắng Loan cho đem phơi của cải quý báu làm sáng rực cả một góc trời. Cả nhà họ Trương chia nhau nắm hết mọi chức vụ chủ chốt. Quyền và tiền họ Trương lấn át hết cả trong triều ngoài trấn. Có tiền, có quyền, Loan mặc sức hoành hành ngang ngược – người bấy giờ gọi là Trương Tần Cối.

Giữa lúc đó, lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh, người có uy tín tài năng, trị cột của Nguyễn triều qua đời ( Tháng 5 năm Đinh Hợi 1767). Thế là họ Trương không còn ai ngăn cản nữa, càng ra sức làm nhiều việc càn rỡ, chẳng còn kiêng nể gì, bán quan buôn tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, thần dân cực khổ và căm giận. Những người có tâm huyết và tài năng như Tôn Thất Dục, tinh thông kinh sử, thuật số, âm nhạc, bị Loan tìm cách hãm hại. Tài chính kiệt quệ đến nỗi dật sĩ thuận Hóa là Ngô Thế Lân phải kêu lên triều đình. Nhưng mọi cố gắng của họ Ngô không được hồi âm.

Giữa lúc đó, anh em Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu dấy nghĩa ở Quy Nhơn, thanh thế ngày càng lừng lẫy vì được dân chúng đồng tình ủng hộ. Thêm vào đó, tháng 5 năm Giáp Ngọ ( 1774) Trịnh lại đem đại quân vào đánh Nguyễn. Cả Tây Sơn lẫn Trịnh đều nêu khẩu hiệu trừ khử quyền thần Trương Phúc Loan và tôn phò Hoàng Tôn Dương. Chiến tranh loạn lạc lại nổ ra, đất Thuận Hóa trước trù phú là thế mà nay trăm bề xơ xác la liệt, “ mỗi lẻ gạo trị giá một tiền, ngoài đường xác đói, người nhà có khi ăn thịt nhau”.

Trước tình cảnh đó, không còn cách nào khác, tôn thất nhà Nguyễn cùng nhau hợp sức bắt trói Trương Phúc Loan nộp quân cho Trịnh. Tháng 12 năm 1774, Phúc Loan chiếm được Phú Xuân và đặt quan cai trị Thuận Hóa. Trong số quan lại nhà Trịnh được cử vào Thuận Hóa có Lê Quý Đôn ( 1776).

Sơn Tây tìm cách tạm hòa với Trịnh để để yên mặt Bắc và có điều kiện đánh Nguyễn ở phía Nam. Đại quân Tây Sơn cả thủy lẫn bộ đánh vào Sài Gòn. Chúa Nguyễn chạy về Định Tường rồi lại sang Long Xuyên, tháng 9 năm Đinh Dậu ( 1777) quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ thống lĩnh đánh chiếm Long Xuyên, chúa Nguyễn bị chết trận. Như vậy Nguyễn Phúc Thuần ở ngôi chúa 12 năm, khi chết mới 24 tuổi, không có con nối.
 
Nguyễn phúc ánh ( 1780 – 1802)

Nguyễn Phúc Ánh còn có tên húy là Chủng và Noãn, sinh năm Nhâm Ngọ ( 1762), con thứ ba của Nguyễn Phúc Luân. Mẹ của Nguyễn Ánh là con gái Diễn Quốc Công Nguyễn Phúc Trung ( có lẽ Phúc Trung được ba quốc tính), người làng Minh Linh, phủ thừa thiên. Khi Nguyễn Phúc Luân bị quyền thần của Trương Phúc Loan phế truất rồi bắt giam năm Ất Dậu ( 1765), Nguyễn Ánh còn nhỏ ( 4 tuổi) đang ở nhà riêng. Năm Quý Tỵ ( 1773), Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 13 tuổi, theo chúa Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa thu năm Đinh Dậu ( 1777) Nguyễn Phúc Thuần tự trận, Nguyễn Phúc Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu. Một tháng sau, Nguyễn Phúc Anh tập hợp được một đội quân nghĩa dũng, binh sĩ mặc toàn đồ tang, quyết tử đánh chiếm lại Sài Gòn. Giúp Nguyễn Phúc Ánh lúc ấy mới 17 tuổi có Đỗ Thanh Nhân và một số tướng lĩnh khác. Ánh ra sức xây dựng lực lượng, đắp lũy đất ở phía tây sông Bến Nghé, đóng cọc gỗ ở các cửa cảng để phòng ngừa tấn công của Tây Sơn. Ánh đã có 50 chiến thuyền.

Năm Canh Tý ( 1780) Nguyễn Phúc Ánh chính thức lên ngôi vương tại Sài Gòn, dùng ấn “ Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo” làm ấn truyền quốc, niên hiệu thì vẫn theo chính sóc nhà Lê.

Tháng 3 năm Nhâm Dần ( 1782), Nhạc và Huệ kéo quân vào đánh Sài Gòn, Phúc Ánh chống lại ở cửa biển nhưng sức yếu đành thua trận. Phía Phúc Ánh lần này có cả sĩ quan Pháp tử trận, Ánh phải cưỡi thuyền nhỏ chạy ra biển, đến trú ở đảo Phú Quốc. Đại quân ở Tây Sơn rút về Quy Nhơn, tháng 8 năm Nhâm Dần ( 1782) Ánh lại thu thập tàn quân trở lại Gia Định.

Tháng 2 năm Quý Mão ( 1783) Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại kéo nhau vào đánh cửa biển Cần Giờ, quân Nguyễn tan tác, Tôn Thất Mân, Dương Công Trừng bị bắt hoặc chết, Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Ánh cùng với 5,6 người tùy tùng, 100 lính chạy về Ba Giồng.

Tháng 4 năm đó, bị Nguyễn Huệ đuổi gấp, Ánh phải cưỡi trâu lội qua sông thoát thân rồi đem mẹ, vợ con ra Phú Quốc. Thủy quân Tây Sơn truy đuổi đến tận đảo. Tình thế cực kỳ nguy khốn song nhờ cái cớ Lê Phúc Điển mặc áo ngự đứng đầu thuyền giả làm Nguyễn Vương đánh lạc hướng Tây Sơn. Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Côn Lôn, phò mã Trương Văn Đa liền liền kéo thủy quân Tây Sơn ra vây chặt ba vòng quanh đảo, chúa Nguyễn như “cá nằm trên thớt”, bỗng một trận bão lớn làm thiệt hại nặng thủy quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh thoát được đến hòn Cổ Nốt, sau lại về Phú Quốc. Thất bại liên tiếp, Nguyễn Ánh phải trao con cho Hoàng tử Cảnh mới 4 tuổi cho bá Đa Lộc làm con tin sang cầu viện người Pháp. Rồi Nguyễn Ánh từ biệt mẹ và vợ đem quân chạy ra ngoài cõi. Nguyễn Ánh chơi vơi ngoài biển suốt một tuần liền, thiếu lương ăn, nước ngọt, quân sĩ tưởng khó thoát chết, nhưng nhờ may mắn mà sống sót. Những ngày tháng bôn tàu ở ngoài, Nguyễn Ánh thường chỉ dùng cơm với mắm tôm và các loại gia vị như hồ tiêu, ớt, hồi hương, quế chi, tỏi, gừng, ô mai tán nhỏ hòa lẫn với nhau. Bữa nào cũng đạm bạc như vậy, Nguyễn Ánh thường cho bầy tôi cùng ăn và bảo: “ Lam chướng ở rừng ở biển, ăn các thứ này tốt lắm, và để tỏ ra cùng các khanh tân khổ có nhau”.

Tháng 2 năm Giáp Thìn ( 1784), Nguyễn Ánh đem theo cả mẹ và vợ con chạy sang Xiêm nương thân và cầu viện. Mùa hè năm đó, Nguyễn Ánh dẫn quân Xiêm gồm 2 vạn thủy quân vào 300 chiến thuyền kéo về Sài Gòn, Gia Định. Nhờ có viên binh, Nguyễn Ánh chiếm lại Ba Xác, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc…

Tháng 12 năm Giáp Thìn ( 1784), Nguyễn Nhạc được tin cấp báo, tức thì sai Nguyễn Huệ đem quân vào cứu Sài Gòn. Quân Tây Sơn mai phục ở Rạch Gầm và Xoài Mút ( tỉnh Định Tường), rồi dụ quân Xiêm vào trận, quân Xiêm đại bại, Chiêu Tăng, Chiêu Sương cùng vài ngàn sĩ tốt theo đường núi chạy về nước. Nguyễn Ánh đi Trấn Giang rồi sang Xiêm, xin trú ở Long Kỳ ( người Xiêm gọi là Đồng Khoai, ở ngoại thành Vọng Các) sai người đón mẹ và vợ con đến. Quân Nguyễn nhờ đất Xiêm mà sản xuất, trồng cây, đóng thuyền chiến, tích trữ lương thực, thu nạp quan sĩ, đợi thời cơ. Lưu trú trên đất Xiêm, Nguyễn Ánh đã giúp vua Xiêm đánh bại quân Chà Và.

Năm Đinh Mùi ( 1787) trước lực lượng hùng mạnh của Nguyễn Ánh, lại được Bồ Đào Nha giúp đỡ, vua Xiêm tỏ ra không bằng lòng. Biết vua Xiêm không giúp gì hơn, Nguyễn Ánh lặng lẽ rút quân về nước, dùng kế ly gián giết Phạm Văn Tham, đuổi Nguyễn Lữ chiếm lại Sài Gòn – Gia Định tháng 8 năm Mậu Thân ( 1788). Thế là trong khi Nguyễn Nhạc bất lực chỉ biết Bộ Bộ giữ tình hình Bắc Hà, đánh đuổi 20 vạn quân Thanh. Nguyễn Ánh ở Gia Định nắm thời cơ chuẩn bị, củng cố lực lượng. Nguyễn Ánh còn sai sứ thần Phan Văn Trọng và Lâm Đỗ mang thư và 50 vạn cân lương sang giúp nhà Thanh. Năm Kỷ Dậu ( 1789), Hoàng tử Cảnh từ phương Tây về nước. Cảnh đi cùng Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, lênh đênh trên biển và hải cảng các nước, hai năm sau mới đến Paris. Hoàng đế Pháp tiếp đãi theo vương lễ song chưa giúp được gì. Vì triều đình còn gặp khó khăn. Cảnh về đến Gia Định vừa đúng 4 năm đi xa. Hai sĩ quan Pháp ở lại phụng sự chúa, được Ánh đặt tên là Thắng và Chấn, cấp cho một nghìn quan tiền, trao cho chức Cai đội.

Trên lãnh địa của mình, Nguyễn Ánh hết sức cố gắng nhanh chóng tăng cường binh lực về mọi mặt. Một loạt chính sách được ban hành, đặt quan điền tuấn chuyên lo việc làm ruộng, thi hành phép ngụ binh ư nông, trai tráng khi cần là lính chiến, hết trận về làm ruộng, định lệ khuyến nông, đặt đồn điền…Nguyễn Ánh đặc biệt quan tâm đến phong thưởng và đãi ngộ tướng sĩ trận vong hoặc có công lao. Nguyễn Ánh đặt các quan hệ tốt với các nước láng giềng, nhất là binh sĩ Xiêm nhằm tăng cường thanh thế. Đối với châu Âu đang giúp rập, Nguyễn Ánh hết sức ưu ái. Tháng 9 năm Kỷ Mùi ( 1799) Bá Đa Lộc, giáo sĩ người Pháp, ân nhân của Nguyễn Ánh qua đời, Nguyễn Ánh cho cử hành tang lễ cực kỳ trọng thể. Thi hài được ướp thơm, quan tài bằng gỗ tứ thiết, chuyển từ Diên Khánh về Gia Định quàn trong hai tháng, làm đúng quốc tang, truy tôn là thái phó Bi Nhu Quận công.

Một ngôi nhà mồ bằng gỗ quý được xây cất, ngày đêm có 50 lính canh phòng cẩn thận. Người thời bấy giờ đã nói rằng xem cái chết của một đạo trưởng là quốc tang, dùng đến nghi lễ trang nghiêm bậc nhất như thế quả là từ cổ chí kim, những Nam chưa làm thế bao giờ!.

Thế rồi, vừa ra sức củng cố và phát triển lực lượng, từ 1792 Nguyễn Ánh bắt đầu mở các đợt tấn công ra Quy Nhơn theo chiến thuật “ tằm ăn lá dâu” và theo từng mùa gió nồm: “ Gặp nồm thuận thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng”. Sau cái chết của Quang Trung, Nguyễn Ánh càng ráo riết thực thi chiến thuật trên, Năm Kỷ Mùi ( 1799), Nguyễn Ánh chiếm được Quy Nhơn, đổi thành Bình Định. Từ đó Nguyễn Ánh bắt đầu giành được thế áp đảo, khiến Nguyễn Quang Toản non yếu, nội bộ lục đục không sao chống nổi. Sau khi Nguyễn Quang Toản mất vào tháng 7 năm Nhâm Tuất ( 1802) Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế.
 
Triều nguyễn thời kỳ độc lập ( 1802 – 1883)

GIA LONG HOÀNG ĐẾ ( 1802 – 1819)
Niên hiệu: Gia Long.


Nguyễn Ánh lấy được Gia Định năm Mậu Thân (1788) tuy đã xưng vương mà chưa đặt niên hiệu riêng, vẫn dùng niên hiệu vua Lê. Tháng 5 năm Nhâm Tuất ( 1802) lấy lại được đất đai cũ của các chúa Nguyễn, Nguyễn Vương Phúc Ánh cho lập đàn tế cáo trời đất, thiết triều tại Phú Xuân, đặt niên hiệu Gia Long năm thứ nhất. Lê Quang Định được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước là Việt Nam. Nhà thanh cho rằng tên nước là Việt Nam sẽ lẫn với nước của Triệu Đà ( gồm cả Đông Việt và Tây Việt) nên đổi là Việt Nam. Năm Bính Dần ( 1806), Gia Long chính thức làm lễ xưng đế ở điện Thái Hòa và từ đây quy định hàng tháng cứ ngày rằm và mồng một thì thiết đại triều, các ngày 5,10,20 và 25 thì thiết tiểu triều.

Là vua sáng nghiệp của triều Nguyễn của một quốc gia thống nhất. Gia long phải quyết định rất nhiều việc đặt nền móng cho vương triều có một địa bàn thống trị rộng lớn từ Bắc chí Nam. Để tránh lộng quyền, ngay từ đầu nhà vua bãi bỏ chứ vụ Tể tướng. Ở triều đình chỉ đặt ra 6 bộ: Lại, Hộ, Binh, Hình, Công cho các thượng thư đứng đầu và Tả hữu Tham tri, Tả hữu thị lang giúp việc.

Quản Lý một đất nước thống nhất kéo dài từ Lạng Sơn đến Hà Tiên đối với Gia Long lúc đó là hoàn toàn mới mẻ. Gia Long cho tổ chức lại các đơn vị hành chính từ trung ương xuống. Cả nước chia ra thành 23 trấn, 4 doanh. Từ Ninh Bình trở ra gọi là Bắc làm gồm 11 trấn ( 5 nội trấn và 6 ngoại trấn), từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định thành gồm 5 trấn, ở quãng giữa gọi là các trấn độc lập. Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nghĩa, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận, đất kinh kỳ đặt 4 doanh. Trực Lệ Quảng Đức doanh ( tức thừa thiên), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh và Quảng Nam doanh. Cai quản Bắc thành và Gia Định có thành Tổng trấn và phó Tổng trấn. Mỗi trấn có một lưu trấn hay Trấn thủ. Cai hạ và Ký lục. Trấn chi ra phủ, huyện, châu có Tri phủ, Tri huyện, Tri châu đứng đầu. Đây là lần đầu tiên một lãnh thổ thống nhất, có các tổ chức hành chính được săp đặt chính quy như vậy.

Quản lý đinh khẩum ruộng đất và thuế khóa áp dụng theo mẫu hình thời Lê Sơ nhưng được thực hiện quy mô nhỏ hơn, có quy củ hơn. Đáng chú ý là việc làm sổ ruộng ( địa hạ) dưới thời Gia Long được tiến hành nhất loạt, có quy mô toàn quốc. Các làng xã phải lập sổ địa bạ ghi rõ từng loại ruộng đất, diện tích, vị trí, công, tư…Chép thành ba bản nộp lên bộ Hộ, Bộ đóng dấu kiềm, lưu 1 quyển, tỉnh giữ 1, xã giữ 1. Năm năm làm lại địa bạ một lần, đến nay còn lưu giữ khá đủ toàn bộ địa bạ Gia Long của các trấn, doanh cả nước. Trên cơ sở điều tra kê cứu địa chí các địa phương. Cả nước gồm 4 địa hình sông núi, cầu quán, chợ búa, phong tục, thổ sản… năm Bính Dần ( 1806), vua Gia Long sai biên soạn và ban hành bộ “ Nhất thống địa dư chí” gồm 10 quyển.

Năm Ất Hợi ( 1815) bộ “ Quốc triều hình luật” gồm 22 quyển với 398 điều luật đã được ban hành.

Công cuộc khai hoang vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được tiếp tục. Nhà nước đã bỏ tiền ra đào kênh thoát nước thụy Hà và sông Vĩnh Tế tạo thuận lợi cho việc khẩn hoang. Những công trình lớn như sông Vĩnh Tế huy động sức người, sức của cả dân tộc Việt và Chân Lạp dọc hai bờ có sông chảy qua. Việc trị thủy ở đồng bằng Bắc Bộ cũng được Gia long chú ý ngay từ đầu, năm Giáp Tý ( 1804), trên đường ra Bắc làm lễ thụ phong của nhà Thanh, Gia Long cũng nêu vấn đề đắp đê để sĩ phu Bắc Hà bàn luận. Mặc dù chưa nhất trí, nhà vua vẫn quyết định đắp đê, thời Gia long khối lượng đê, kè, cống được đắp nhiều nhất so với các triều trước.

Đối ngoại, triều Nguyễn một mặt tranh thủ sự ủng hộ và giữ lễ thần phục nhà Thanh, mặt khác lại tạo quan hệ đàn anh đối với Chân Lạp và Ai Lao. Đối với các nước phương Tây, từ chỗ dựa vào lực lượng của họ để giành thắng lợi chuyển sang lạnh nhạt. Năm Quý Hợi ( 1803), nước Anh xin mở của hàng buôn bán ở Trà Sơn ( Quảng Nam) bị nhà vua từ chối. Sĩ quan Pháp đã từng giúp vua được trọng đãi, giữ chức tại triều, mỗi người có 50 lính hầu, gia đặc ân buổi chầu không phải lạy…Còn yêu sách khác của Pháp đều bị khước từ. Năm Đinh Sửu ( 1817) tàu buôn Pháp tên là “ La paix” ( hòa bình) chở hàng sang bán nhưng hàng không hợp thị hiếu người Việt Nam, phải trở về, được miễn thuế. Đến khi tàu Cybèle vào Đà Nẵng đưa thư Hoàng đế Pháp nhắc lại việc thi hành điều ước ký năm Đinh Mùi ( 1787) Bá Đa Lộc thay mặt Nguyễn Ánh, có khoản Nguyễn Ánh nhường cho Pháp cửa biển Đà Nẵng và Côn Lon). Gia Long kiên quyết bác bỏ viện lý rằng. Điều ước tuy đã ký nhưng thuở đó phía Pháp không thực hiện được nữa thì nay không còn giá trị nữa ! Nhà Nguyễn không cấm hẳn các thuyền buôn phương Tây song cũng không lời mời chào, khuyến khích hoặc có một chính sách tỏ ra chủ động, tích cực hơn.

Một trong những tai tiếng và gần nữa là căn bệnh của mọi nhà vua, chúa sáng nghiệp gian nan và lâu dài là sát hại công thần. Những người có công như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết hại giữa lúc Gia Long đang tị vì.

Nguyễn Văn Thành tuy là người Thừa Thiên, vào Gia Định đã hai ba đời, theo Nguyễn Ánh từ những ngày đầu và chịu muôn vàn gian truân cùng chủ tướng. Nguyễn Văn Thành có tài và lập được nhiều công lớn, đứng đầu hàng công thần. Gia Long lên ngôi giao cho Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành, tình hình đất Bắc đã yên ổn sau nhiều năm loạn lạc liên miên. Sau đó thành được triệu về kinh lãnh chức Trung quân, Thành vốn có tài trước thuật nên được giao làm Tổng tài bộ quốc triều hình luật và biên soạn quốc sử. Con trai ông là Nguyễn Văn Thuyên đỗ cử nhân, là người hâm mộ văn chương. Nhân Thuyên làm thơ ngâm vịnh với bạn bè, lời lẽ khi ngông, các đối thủ vốn ngầm đố kỵ, công lao của Thành liền vua cho Thuyên có mưu đồ thoán đoạn ngôi vua, cha con Nguyễn Văn Thành đều bị hạch tội. Thuyên bị bắt giam, thành bị triều thần nghị tội tử. Sau buổi triều kiến, Thành chạy theo nắm lấy áo vua, kêu khóc thảm thiết.

Thần theo bệ hạ từ khi còn nhỏ đến bây giờ, nay chẳng có tội gì mà bị người ta cấu xé. Bệ hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn người ta giết thần mà không cứu!

Gia Long không nói gì, giật áo ra, đi vào cung, từ đó cấm không cho Thành vào chầu nữa. Lê Văn Duyệt đem Thuyên ra tra khảo, bắt phải nhận tội phản nghịch. Thành sợ, uống thuốc độc tự tử, Thuyên bị chém. Bậc công thần thứ hai là Đặng Trần thường có tài văn học, đã giúp Nguyễn Ánh từ những ngày đầu, làm đến Binh Bộ thượng thư. Sau vì bị hạch tội làm sắc phong cho Hoàng Ngũ Phúc ( tướng Trịnh) làm Phúc thần bị án giảo. Âu đây cũng là một thứ luật đối với những người không biết dừng chân trước bả công danh!

Tháng 11 năm Kỷ Mão ( 1818), vua không được khỏe, Hoàng thái tử và cận thần vào hầu, vua hạ chiếu cho Hoàng thái tử quyết đoán việc nước, tâu lên vua sau. Tháng 12, bệnh nguy kịch, vua gọi Hoàng thái tử, các hoàng tử và các đại thần Lê Văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng và hầu. Vua cho bày ấn ngọc, cờ, gươm trên án vàng trước giường rồi dụ Hoàng thái tử rằng.

Đấy là cơ nghiệp gian nan của trẫm, nay giao cho con, con nên cẩn thận giữ gìn.

Hoàng tử cùng các tước công, đại thần ủy lạo nhà vua, khuyên gắng gượng thuốc thang, an tâm tĩnh dưỡng, chớ nên lo lắng nhiều…Vua nói.

Điều này, bọn ngươi không biết đâu ! Phàm truyền ngôi là việc lớn xưa nay, hôm nay nói được mà không nói, ngày khác chết thì nói sao kịp ! Vua liền gọi Thái tử đến trước giường, dụ rằng.

Nay việc lớn của thiên hạ đã định rồi, ta cũng sắp chết, không nói gì, chỉ có một việc là ngày sau hãy cẩn thận, chớ nên gây hấn ngoài biên.

Nói rồi vua sai Hoàng Thái tử chép lại lời đó. Thái tử ngập ngừng muốn tránh chữ “ băng”, vua liền cầm bút phê vào, ngày Đinh Mùi tháng 12, vua băng ở điện Trung Hòa, thọ 59 tuổi. Gia Long tiếp tục ngôi chúa trong 25 năm, làm vua cả nước 18 năm tổng cộng 43 năm.

Gia Long có hai vợ chính thức, thứ nhất là thế tử thừa thiên Cao hoàng hậu họ Tống, người huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, con gái Quý Quốc công Tống Phúc Khuông. Nguyễn Phúc Ánh cưới bà làm vợ năm 18 tuổi, người cung kính, cẩn thận, có phép tắc lễ độ. Bà sinh được hai hoàng tử, con cả là Chiêu chết sớm, con thứ là Hoàng tử cảnh từng theo Bá Đa Lộc làm con tin sang cầu viện Pháp rồi về nước được lập làm Thái tử, sau bị bệnh đậu mùa mất năm Tân Dậu ( 1801). Bà thứ hai là thuận thiên Cao hoàng hậu họ Trần, người huyện Hương Trà, phủ thừa thiên, con gái thọ Quốc công Trần Hưng Đạt, được tiến vào hầu Nguyễn Ánh từ năm Giáp Ngọ ( 1774), năm Kỷ Dậu ( 1789) được tấn phong là Tả cung tần, hiệu Nhị phi. Bà sinh được 4 hoàng tử, Nguyễn Phúc Đởm ( sau lên ngôi lấy hiệu là Minh Mệnh, Nguyễn Phúc Đài ( Kiến an vương), Nguyễn Phúc Hiệu ( mất sớm), Nguyễn Phúc Thấn ( thiệu hòa quận vương). Ngoài 6 người con với hai vợ chính đã kể trên, Gia Long còn có 7 con trai với các bà khác, tổng cộng 13 hoàng tử và 18 công chúa.
 
Minh mệnh hoàng đế ( 1820 – 1840)

Niên hiệu : Minh Mệnh

Vua húy là Hiệu, lại có tên là Đởm, sinh ngày 23 tháng Giêng năm Tân Hợi ( 1789), là con thứ 4 của vua Gia Long. Tháng Giêng năm Canh Thìn ( 1820), Hoàng thái tử Đởm lên ngôi vua, đặt quốc hiệu là Đại Nam, niên hiệu là Minh Mệnh, khi ấy 30 tuổi.

Minh Mệnh có tư chất thông minh, hiếu học, năng động và quyết đoán. Từ khi lên ngôi, ông ra coi chầu rất sớm, xem xét mọi việc trong triều và tự tay “ châu phê” rồi mới cho thi hành – thuật ngữ “ chầu phê” bắt đầu có từ đây. Minh Mệnh muốn quan lại các cấp phải có đức độ và năng lực, nên khi mới ngôi đã đặt ra lệ mà về sau đó khó ai thực hiện nổi. Quan lại ở thành, Dinh, Trấn, văn từ Hiệp trấn. Cai bạ, Ký lục, tham hiệp, võ từ thống quản cơ đến Phó vệ úy…ai được thăng điệu, bổ nhiệm…đều cho đến kinh gặp vua trước khi nhậm chức để nhà vua hỏi han công việc, kiểm tra năng lực và khuyên bảo…

Minh Mệnh là người ham hiểu biết, thường khi tan chầu, nhà vua cho đòi một vài đại thần tới bàn các việc kinh lý, hỏi sự tích thời xưa, danh nhân và các nước xa lạ. Nhiều đêm vua thắp đèn xem chương, sớ đến canh hai canh ba mới nghỉ. Vua thường nói với triều thần.

Lòng người, ai chả muốn yên, hay gì sinh sự để thay đổi luôn, những lúc khỏe khoắn mà không biết sửa sang mọi việc, đến lúc già yếu, mỏi mệt hỏi mong làm gì được nữa. Bởi thế trẫm không dám lười biếng bất kỳ lúc nào.

Là người tinh nhâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, Minh Mệnh rất quan tâm đến học hành khoa cử, tuyển chọn nhân tài. Dựng Quốc Tử Giám, đặt chức Tế tửu và Tư nghiệp năm Tân Tị ( 1821), mở lại thi Hội thi Đình năm Nhâm Ngọ ( 1822). Trước đó, 6 năm một khoa thi nay rút xuống 3 năm, các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, thi Hương, các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi hội thi Đình. Vua còn đặt đốc học ở Gia Định thành, dùng người thầy giáo người Nghệ An là Nguyễn Trọng Vũ làm phó đốc học để khuyến khích việc học tập ở Nam Bộ, Minh Mệnh thường nói.

Người Gia Định vốn tính trung nghĩa nhưng ít học, do đó hay tức khí với nhau. Nếu được bậc đại nho túc học làm thầy dạy bảo cho điển lễ nhượng thì dễ hóa làm thiện mà thành tài sẽ nhiều đó.

Thời đó, Gia Định chỉ có Trịnh Hoài Đức là người có học, được vua rất tin dùng, cho làm Hiệp biện Đại học sĩ, làm thượng thư bộ lại kiêm thượng thư bộ binh.

Minh Mệnh cho lập Quốc sử quán để biên soạn lịch sử dân tộc và các triều đại.

Trong việc dùng người, Minh Mệnh đặc biệt chú ý đến học thức. Năm Nhâm Ngọ ( 1822), Lê Văn Liêm được thự tiền quân Trần Văn Năng tiến cử làm Tri phủ Ninh Giang, bộ lại đưa vào bệ kiến, vua xét hỏi, Liêm đáp là ít học. Vua nói.

Tri phủ giữ chính lệnh trong một phủ, không học thì không rõ luật lệ, lỡ khi xử đoán sai thì pháp luật khó dung, như thế là làm hại chứ không phải là yêu. Thế là Liêm không được bổ dụng.

Nhà vua đã có lần công bố thuật dùng người rất chí lý.

Nay dùng người không ngoài hai đường là khoa mục và tiến cử, người giỏi khoa mục không chắc đã giỏi chính sự. Nhưng cũng chưa có ai học nuôi con rồi mới lấy chồng. Chính sự cốt ở nuôi dân, muốn yên dân thì đừng phiền nhiễu dân, làm quan phủ huyện không tham không nhiễu thì chính sự có khó gì đâu! Nếu không thế thì văn học dẫu nhiều bá dùng làm gì?

Chế độ tiền lương cho quan lại cũng được quy định khá chi tiết, từ Chánh nhất phẩm đến tòng Cửu phẩm cách nhau chừng 18 đến 20 lần. Ngoài ra, Tri phủ, đồng Tri phủ, Tri huyện, Tri châu còn có khoản tiền “ dưỡng liêm” từ 29 đến 50 quan tùy theo cương vị khác nhau, nhà vua nghiêm trị bọn quan lại tham nhũng. Có viên quan không dùng thước để gạt thăng đong thóc thuế, thường dùng tay để dễ bề lạm dụng, biết chuyện nhà vua sai chặt tay tên lại đó.

Minh Mệnh rất quan tâm đến võ bị, đặc biệt là thủy quân. Ngay những năm đầu lên ngôi, vua đã sai người tìm hiểu cách đóng tàu của châu Âu và quyết tâm làm cho người Việt tự đóng được tàu theo kiểu Tây Âu và biết cách lái tàu vượt đại dương, các quy chế luyện tập thủy quân, khảo sát vị trí bờ biển, hải cảng cũng được chú ý. Hàng năm, nhà vua thường phái nhiều tàu vượt biển sang các cảng lớn vùng biển Đông như Jakarta, Singapore, Malaysia…để bán hàng, mua hàng, luyện tập đi biển và xem xét tình hình các nước. Minh Mệnh đã cho hoàn chỉnh hệ thống đê điều ở Bắc Bộ, đặt quan khuyến nông, khai hoang ven biển Bắc Bộ, lập hai huyện mới Kim Sơn và Tiền Hải. Công cuộc khai hoang và thủy lợi ở Nam Bộ cũng được đẩy mạnh, Minh Mệnh đã thử nghiệm giải pháp bỏ đê phía Nam Hà Nội…đào sông thoát lũ ở Cửu An ( Hưng Yên)…

Trên cơ sở đã có từ thời Gia Long, nay Minh Mệnh củng cố và hoàn thiện hơn bộ máy quản lý đất nước, đặt nội các trong cung điện để khi cần, vua hỏi han và làm giấy tờ, biểu sắc, chế cáo năm Kỷ Sửu ( 1829) đặt cơ mật viện năm Giáp Ngọ ( 1834) dùng 4 đại thần, đeo kim bài để phân biệt chức vị. Cơ mật viện cùng vua bàn bạc quyết định những việc quan trọng nhất. Năm Tân Mão ( 1831), Minh Mệnh cho tiến hành cải cách hành chính trên quy mô lớn, chia cả nước ra làm 31 tỉnh. Từ đây, tỉnh là đơn vị chính thống nhất trong cả nước có cương vực và địa hình khá hợp lý. Mỗi tỉnh có Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính. Án sát để trông coi công việc. Các châu miền núi dựa theo đơn vị hành chính thống nhất với miền xuôi.

Tuy vậy dưới thời Minh Mệnh, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra với nhiều loại khác nhau. Nông dân nghèo nổi lên chống quan lại những nhiễu, hà khắc như Phan Bá Vành ở đồng bằng Bắc Bộ. Cựu thần nhà Lê như Lê Duy Lương nổi lên chống lại triều đình, các từ trưởng người thiểu số như Nông Văn Vân hoặc họ Quách ở vùng Hòa Bình, Thanh Hóa….Minh Mệnh phải cử Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ cầm quân đi dẹp loạn.

Mặc dù có di chiếu của vua cha, “ phải cẩn thận chớ nên gây hấn ở ngoài biên” và sớ của thượng thư bộ binh Nguyễn Tường Vân trong di biểu trước khi ông chết tháng 9 năm Canh Thìn ( 1820) rằng “ đến như nước Xiêm La, nếu như có lỗi nhỏ cũng phải bỏ qua để cùng nhau làm đạo lớn, thì không những là báo nghĩa Tiên đế dừng chân ở đấy mấy năm, mà còn tránh khỏi mối lo trăm đời của kẻ bề tôi lớn ngoài biên”, Minh Mệnh vẫn đưa quân ra quá biên giới, Năm Quý Tị ( 1833), Lê Văn Khôi khởi binh ở Gia Định chống lại triều đình, Khôi sai người sang cầu cứu, người Xiêm đem quân thủy bộ sang giúp Lê Văn Khôi đánh lại quân Nguyễn, Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân đại phá được quân Xiêm, đuổi ra khỏi bờ cõi. Không dừng lại ở đó, năm Ất Mùi ( 1853), nhà Nguyễn còn tiến quân sang tận Nam Vang ( Phnômpênh), bắt vua Chân Lạp là Nặc Ông Châu đổi Chân Nạp khoảng 5 năm, khi Minh Mệnh mất, quan quân đã bỏ trấn Tây Thành, rút về An Giang.

Về đối ngoại, Minh Mệnh đặc biệt chú ý thần phục nhà Thanh. Lễ thụ phong của nhà vua ở thành Thăng Long được tổ chức cực kỳ trọng thể. Ngày 10 tháng 10 năm Tân Tỵ ( 1821) nhà vua dẫn đầu một đoàn tùy tùng có 1.728 người gồm Hoàng thân, bá quan văn võ và 5.150 lính, ( tổng cộng 6.932 người), rời Phú Xuân ra Thăng Long để nhận sắc phong của “ thiên triều”. Hành trình kéo dài 33 ngày đêm. Đoàn người đông đúc đó phải nằm chờ Thăng Long mãi từ khi sứ Thanh đến và lễ xong. Thủ tục đón tiếp và chiêu đãi sứ thanh đã diễn ra hết sức chu đáo và long trọng.

Đối với các nước phương Tây, nhà vua lại tỏ ra lạnh nhạt và nghi kỵ. Chính sách thụ động như vậy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Minh Mệnh còn là được ghi nhớ nhiều bởi phép đặt tên đôi rất độc đáo.

Gia Long đã quy định cách viết tộc phả nhà Nguyễn. Con cháu Nguyễn Hoàng vào Nam thì chép theo họ tôn thất Nguyễn Phúc, con cháu của Nguyễn Hoàng ở Bắc và các trước Nguyễn Hoàng ở Thanh Hóa thì thuộc về công tính họ Nguyễn Hựu. Năm Quý Mùi ( 1823), Minh Mệnh đã nghĩ đến chuyện tránh tranh chấp trong nội bộ Hoáng gia, đảm bảo đế nghiệp lâu dài cho mình và cho con cháu. Vua tìm ra phép đặt tên đôi khá chặt chẽ và tế nhị rất dễ chấp nhận đối với các hoàng tử ruột thịt. Vua đã thảo ra 11 bài thơ, trong đó có bài “ Đế hệ thi” và 10 bài “ Phiên hệ thi”. Mỗi bài 20 chữ, chữ có nghĩa tốt và uyên bác dùng làm tiền từ cho 20 đời nối tiếp sau kể từ Minh Mệnh.

“ Đế hệ thi” có 20 chữ như sau.

Miên, Hường, Ưng, Bửu, Vinh.
Bảo, Quý, Định, Long, Tường.
Hiền, Năng, Kham, Kế, Thuật
Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương

Theo phép này, tất cả con trai Minh Mệnh đều phải có tiền từ “ Miên”, thêm sau tên do gia đình đặt, đến lượt mình mọi con trai của thế hệ Miên đều phải có tên bắt đầu bằng “ Hường: thêm sau tên do gia đình đặt, mị trai của thế hệ Hường lại lấy tiền từ Ưng thêm sau tê do gia đình đặt…cứ thế đến 20 chữ của bài thơ “đế chế”. 10 bài “ Phiên hệ” cũng theo nguyên tắc trên. Mục đích việc này nhằm từ đây chia cách hoàng tử của vua Gia Long ra làm hai thế hệ, đế hệ và phiên hệ. Đế hệ được kế thừa kế nghiệp, phiên hệ là bờ rào bao quanh bảo vệ đế hệ. Khi ban bố cách đặt tên này. Minh Mệnh nói, Trẫm không dám so sánh với nhà Chu xưa ở Trung Nguyên bói năm được 700 năm, bói đời được 30 đời. Nhờ các tiên đế ta tích nhân đức, chính sự ân huệ tốt họ Nguyễn Phúc được cội sâu gốc bền, nghiệp lớn tốt thịnh. Trẫm chỉ giơ tay lên trán cầu trời cho từ nay con cháu ta nhận nối cơ đồ lớn, được hưởng 500 năm, tức là hơn 20 đời, chẳng dám mong nhiều hơn! Cùng năm ban hành phép đặt tên này, 23 Hoàng tử của vua Minh Mệnh thảy được lấy tên Miên đứng đầu, Miên Tông, Miên Định, Miên Nghi, Miên Hoàng, Miên An…

Từ đó trở đi, hễ sinh thêm hoàng tử, đầy 100 ngày là phải làm lễ “ bảo kiến” ( ẵm đến ra mắt vua” chiếu theo “ đế hệ thi’ mà cho tên họ. Có tên mới chấm dứt dùng tên cũ.

Triều Nguyễn đã thực hiện bài “ đế hệ thi” đến chữ thứ 5 – “ Vĩnh” thì bị cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 lật đổ.

Minh Mệnh có rất nhiều vợ, số chính xác thì chưa thấy có tài liệu nào nói đến, nhưng căn cứ vào câu thơ của Minh Mệnh. “ Nhất dạ ngũ giao, tam hữu dậng” ( một đêm ngủ với 5 vợ thì ba bà có thai) và theo sử sách, nhân có năm trời làm hạn hán, nhà vua cho rằng trong thâm cung có quá nhiều cung nữ khí uất tắc mà nên, nhà vua bèn cho thả ra 100 người. Với sinh hoạt như vậy và một lúc dám thải ra 100 người thì rõ ràng số cung nữ thường xuyên ít nhất cũng gấp 4 năm lần! Số liệu chính xác về số con của Minh Mệnh là 78 hoàng nam, 64 hoàng nữ, tổng cộng 142 người.

Trị vì 21 năm, Minh Mệnh lo toan công việc thường như một ngày, sức làm việc phải nói là đáng ngạc nhiên ! Mọi phê bảo, dụ chỉ, chế cáo đều tự tay vua viết ra với số lượng không nhỏ. Không những thế, khi rỗi rãi, ông còn làm thơ viết văn. Vua còn để lại 5 tập thơ và 2 tập văn.

Tháng 12 năm Canh Tí ( 1840), ốm nặng, vua cho vời Hoàng tử, các thân công và cơ mật viện đại thần Trương Đăng Quế vào hầu. Vua dụ Trương Văn Quế rằng.

Hoàng tử Trường Khánh Công, lấy về ngôi thứ là hàng trưởng, lấy về đức, về tuổi, nên nối ngôi lớn. Người nên hết lòng hết sức giúp rập, hễ việc gì chưa hợp lệ, ngươi nên dẫn lời nói của ta mà can gián. Xong, nói với Hoàng tử Trưởng.

Trương Đăng Quế thờ ta đến nay đã 21 năm, trọn đạo làm tôi, một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, thực là một người công thần kỳ cựu của triều đình, ngươi nên đãi ngộ một cách trọng hậu, hễ nói gì phải nghe theo, bày mưu kế gì phải theo…Nói rồi vua mất, thọ 50 tuổi. Miếu hiệu là Thánh tổ.
 
Thiệu trị hoàng đế ( 1841 – 1847)

Niên hiệu : Thiệu Trị

Trong số rất nhiều vợ của Minh Mệnh có bà vợ cả họ Hồ, con gái lớn của công thần Hồ Văn Bôi, quê ở huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa, Hồ Văn Bôi đã có công theo giúp vua Gia Long từ buổi đầu, Gia Long và bà Nhị phi đã chọn kỹ và cưới cô gái hô Hồ về làm vợ Hoàng tử Đởm. Là người trang kính, chín chắn. Thận trọng, hiền hòa, trinh nhất…được Minh Mệnh hết lòng kính yêu, phong là thuận đức thuần phi. Bà sinh Hoàng thái tử Dong được 13 ngày thì mất. Hoàng tử Dong được các cung nữ khác nuôi nấng. Năm Quý Mùi ( 1823), theo phép đặt tên của đế hệ. Hoàng tử Dong có tên mới là Miên Tông. Miên Tông là con trưởng trong số 78 hoàng tử của Minh Mệnh nên được nối ngôi. Tháng Giêng năm Tân Sửu ( 1841) Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là thiệu Trị, vvu7a2 đúng 34 tuổi.

Thiệu Trị hiền hòa, không hay bày việc. Vả chăng, mọi quy chế đã được sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mệnh, thiệu Trị giữ nếp cũ, chỉ răm rắp làm theo lời di huấn của cha thôi. Bầy tôi cũ từng giúp Minh Mệnh nay vẫn là vây cánh, tay chân của thiệu Trị như Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp…Thời kỳ cầm quyền ngắn ngủi của thiệu Trị chỉ đủ để giải quyết một số hậu quả để lại từ thời Minh Mệnh.

Thứ nhất là khắc phục hậu quả của giải pháp bỏ đê ở Bắc Bộ. Vào năm Quý Tị ( 1833), sau nhiều cố gắng củng cố và hoàn thiện hệ thống đê điều ở Bắc Bộ mà vẫn lụt lội, Minh Mệnh mạnh dạn áp dụng giải pháp “ đào sông thay đê”. Vua cho pháp bỏ đê điều vùng trũng phía nam Hà Nội, khơi đào sông thoát lũ ở Hải Dương, Hưng Yên nhưng vô hiệu. Theo ý nguyện của thần dân địa phương, thiệu Trị lại cho đắp đê, đập chắn ngang cửa sông Cửu An. Việc thứ hai là giải quyết vấn đề Chân Lạp. Cuối đời Minh Mệnh, thành , Trấn Tây là mối lo cần giải quyết, Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ…đem quân đánh dẹp mãi không yên. Vì thế ngay năm đầu lên ngôi, triều quan như Tạ Quang Cự tâu xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về An Giang. Vua nghe theo, xuống chiếu bãi binh. Trương Minh Giảng về đến An Giang thì mất. Tháng 6 năm Ất Tỵ ( 1845) Chân Lạp bị Xiêm chiếm đóng, đáp lời cầu viện của Chân Lạp, triều đình lại cử binh sang buộc tướng Xiêm là Chất Tri ký hòa ước rồi hai nước cùng bãi binh. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn rút quân về đóng ở Trấn Tây. Năm Bính Ngọ ( 1864), Nặc Ông Đơn sai sứ sang biểu và cống phẩm. Tháng hai năm Đinh Mùi ( 1842) triều Nguyễn Lâm quận chúa, Cao Miên quận chúa. Lại xuống chiếu cho quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang. Từ đó, Chân Lạp lại có vua và phía tây nam bắt đầu yên dần.

Vấn đề thứ ba là quan hệ với phương Tây, khi thiệu Trị lên cầm quyền thì việc cấm đạo có nguôi đi ít nhiều. Một số giáo sĩ bị bắt giam từ trước tại Huế, bị kết án tử hình nay được tự do nhờ sự can thiệp của hải quân Pháp. Năm Đinh Mùi ( 1847), Pháp sai một đại tá, một trung tá đem hai chiến thuyền vào Đà Nẵng xin bỏ chỉ dụ cấm đạo và cho tự đo tín ngưỡng. Đang trên bàn thương lượng thì Pháp dùng đại bác bắn đắm tàu thuyền của Việt Nam neo đỗ bên cạnh rồi chạy ra bể. Trước sự kiện đó, triệu Thị vô cùng tức giận, ban thêm sắc dụ cấm người ngoại quốc giảng đạo và trị tội người trong nước đi đạo. Sau đó, tháng 9 năm Đinh Mùi 9 1847), thiệu Trị bị bệnh rồi mất, ở ngôi được 7 năm, thọ 47 tuổi, miếu hiệu là Hiến tổ chương hoàng đế, có 54 người con ( 29 hoàng tử và 25 hoàng nữ)
 
Tự đức hoàng đế ( 1848 – 1883)

Niên hiệu : Tự Đức

Vua húy là thì, tên đặt theo đế hệ là Hồng Đức, sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu ( 1829), con thứ hai của thiệu Trị. Mẹ họ Phạm, con gái thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng, người huyện Tân Hòa ( Gia Định). Tháng Giêng năm thiệu Trị thứ 3, năm Quý Mão ( 1843) thì 14 tuổi, được phong làm Phúc Tuy Công, lấy vợ là con gái Vũ Xuân Cẩn. Khi ấy Yên Phong công Hồng Bảo tuy đã lớn như là con của vợ thứ lại ít học, chỉ ham vui chơi. Ngược lại, Hồng Nhậm nhân hiếu, thông sáng và chăm học, được vua cha rất yêu quý, bảo có nhiều tính giống mình nên có ý truyền ngôi cho. Hồng Nhậm, vì thế thường được vua gọi vào chầu riêng để dạy bảo. Tháng 10 năm Đinh Mùi ( 1847), Hồng Đức, lúc 19 tuổi. Vì cho con ít tuổi lên nối ngôi, nên Hồng Nhậm và Hồng Bảo tranh chấp nhau, Bảo thua, sau bị chết.

Tự Đức ốm yếu, phải luôn sống tại cung điện Huế, trừ mỗi năm hai lần về nghỉ hè và nghỉ đông ở cửa biển Thuận An. Suốt đời vua chỉ xin đi xa một chuyến, đó là dịp phò gi vua cha ra Bắc nhận lễ thụ phong của nhà Thanh ở Thăng Long năm 1842, khi đó mới 13 tuổi. Chính vì kém sức khỏe nên khi lên ngôi, sứ thần sang nhà Thanh phải phải biện luận khó khăn để buộc sứ Thanh phải vào Phú Xuân làm lễ phong vương cho Tự Đức. Có những lần đích thân vua phải đứng làm chủ tế nhưng mệt lại phải sai Xuân thọ công Miên Định hoặc An phong công Hồng Bảo làm thay. Cũng chính vì lý do trên mà vua ít sát dân tình, ngày càng trở nên quan liêu, mệnh lệnh. Bù lại sự yếu kém sức khỏe, Tự Đức lại rất thông minh và có tài văn học. Vua thích nghiền ngẫm kinh điển Nho giáo, xem sách đến khuya. Có thể nói, Tự Đức là một trong những người uyên bác nhất trong thời đó và là môn đồ tích cực của Khổng học.

Lẽ dễ hiểu Tự Đức là người con rất có hiếu, cũng mới lên ngôi, Tự Đức đã làm tang vua cha cực kỳ cẩn thận, trang trọng, tốn kém. Vua từng truyền phán.

Sửa sang tang nghi là việc lớn, dẫu hợp cả tài lực của bố bể năm châu cũng chưa dám cho là xa xỉ.

Vua cũng rất có hiếu với mẹ là Từ Dụ, vua tự quy định ngày lẻ thì thiết triều, ngày chẵn vào chầu thăm mẹ. Như vậy, mỗi tháng vua ngự triều 15 lần, thăm mẹ 15 lần! Khi đến với mẹ thì sửa mình, nén hơi, quỳ xuống hỏi thăm sức khỏe, rồi cùng mẹ bàn luận kinh sách và sự tích xưa nay, nhất là chính sự. Từ Dụ là người thuộc nhiều sử sách, biết nhiều chuyện cổ kim. Hễ mẹ nói gì là vua ghi ngay vào sổ nhỏ gọi là “ từ huấn lục”. Trải 36 năm ở ngôi, vua duy trì đều đặn nền nếp ấy, chỉ trừ lúc đau yếu. Chuyện kể rằng Tự Đức không thích gì hơn là đi săn để giải trí ngoài việc chính sự. Một hôm rảnh việc, vua đi săn tại vườn thuận Trực gặp mưa lũ, không kịp về giỗ thiệu Trị. Từ Dụ, nóng ruột sai người đi đón, thuyền ngự về đến bến, trời còn mưa to mà nhà vua liền ngồi kiệu trần đi thẳng vào cung lạy xin chịu tội. Từ Dụ quay mặt vào trong, không thèm nói nửa lời. Tự Đức lấy roi mây dân lên trát kỷ rồi tự nằm xuống chịu đòn. Từ Dụ tha cho mới đứng dậy.

Hàng năm đến kỳ nghỉ ở Thuận An, Tự Đức hay đi cùng mẹ. Xem thế đủ biết là mẹ có ảnh hưởng lớn đến chính sự của nhà vua!

Tự Đức có dáng vẻ một nho sĩ, không cao không thấp, trạc người bậc trung, hơi gầy, mặt hơi dài, cằm nhỏ, trán rộng má thẳng, mũi cao mà tròn, hai con mắt tinh và hiền. Vua thường mặc quần áo màu vàng, chít khăn vàng và đi giày cũng màu vàng, không ưa trang sức và cũng không muốn cung nữ đeo đồ nữ trang, chỉ lấy sự sạch sẽ làm đẹp. Nhà vua siêng năng việc chính sự, sáng 5 giờ đã tỉnh giấc, 6 giờ đã ra triều. Vì thế, những buổi thiết triều, các quan cũng phải dậy sớm, thắp đèn ăn cháo để vào triều cho kịp. Vua thường ngự triều tại điện Văn Minh, bên tả điện Cần Chánh. Quan văn ngồi trực bên tả vu, quan võ bên hữu vu. Khi vua ra, thái giám tuyên triệu triều quan, các quan đều mặc áo thụng xanh, đeo bài ngà, quan văn bên hữu, quan võ bên tả…Bái mạng xong, bộ nào có việc thì tâu quỳ tại chỗ. Cạnh quan tấu có quan Nội các ghi chép lời vua ban. Các buổi thiết triều kéo dài đến chín mười giờ.

Lúc không thiết triều, vua làm việc ở chái Đông điện Cần Chánh. Nhà vua ngồi làm việc một mình, có vài thị nữ đứng đầu, mài son, châm thuốc hoặc để truyền việc. Triều quan không được vào chỗ ngự tọa, mọi việc lớn, nhỏ, nhà vua phải tự xem. Phiếu sớ từ các nơi gởi về nội các. Nội các giữ bản chính có châu điểm, châu phê, sao lục gửi các bộ, nha thi hành. Những phiếu tấu có chữ “ châu phê” của Tự Đức còn lại cho thấy nhà vua đã tốt chữ mà lại hay văn. Có nhiều tờ tấu, vua phê dài hơn cả lời tâu. Xem như thế, vua rất chăm chỉ và cẩn thận việc chính sự.

Tự Đức trị vì đất nước trong bối cảnh đất nước gặp nhiều thử thách sống còn. Nhà vua thiếu tính quyết đoán, phải dựa vào triều thần bàn việc, mà triều thần tuy có người thanh liêm và có thực quyền như Trương Đăng Quế song lại bảo thủ. Trên thế giới, khoa học và công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, cạnh tranh buôn bán ngày càng gay gắt, thế mà đình thần quanh vua chỉ chăm lo việc văn chương, khéo nghề nghiên bút, bàn đến quốc sự thì lấy Nghiêu thuấn, Hạ, Thương, Chu Xa xưa làm gương, tự vỗ ngực là văn minh, chê thiên hạ là ngoại di. Vì thế, Tự Đức cấm buôn bán ngày càng gay gắt hơn. Đến khi Gia Định đã rơi vào tay Pháp, nhà vua hỏi thăm đến việc Phú quốc cường binh thì triều thần không đưa ra được kế sách gì, cũng có những người đã đi ra ngoài du học hoặc được tiếp xúc, có cách nhìn mới, muốn thay đổi, cải cách như Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ ( 1864), Nguyễn Trường Tộ ( 1866) Lê Đĩnh ( 1881)… dân triều Trần xin nhà vua cải cach1 mọi mặt, chính trị, kinh tế, quân sự…Theo gương Nhật Bản, Thái Lan, Hương Giảng và các nước phương Tây, Đình Thần hoặc cho là nói càn, bàn nhảm hoặc cho là không hợp thời thế hoặc còn đẻ hỏi xem các tỉnh và làm từ từ…

Năm Mậu Dần ( 1878) xem báo “ Hương Cảng tân văn”, thấy bàn đến việc chấn hưng đất nước phải thông thương và chống lại bảo thủ, đúc súng, đóng tàu, cử người học tiếng nước ngoài, nhà vua muốn cho thi hành, bảo viện xem xét cơ mật rồi tâu lên. Viện cơ mật cho rằng thông thương, học tiếng, đóng tàu…Thật là cấp thiết nhưng người Tây dương làm dễ còn ta làm không được…hơn nữa muốn thay đổi tập quán tất phải dần dần, làm ngay một lúc, thực khó được như ý, rồi còn phải chờ ý kỳ tiến công nhà thanh năm tới, xem sao rồi liệu sau…Tự Đức xem lời tâu, dụ rằng.

Xét việc thì nên cẩn Thận và suy nghĩ cho chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến thoái là vậy!

Vua phê chuẩn việc học tiếng nước ngoài, sức cho làm ngay. Tháng 11 năm Mậu Dần ( 1878), cùng với sứ bộ sang Xiêm có một số thanh niên do Hồ Khắc Hài dẫn đầu sang học tiếng Xiêm…

Nhận ra và làm đến lúc đó đã là quá chậm, thế nhưng quần thần vẫn chần chừ, ngại cải cách, nếu có làm, lại dè dặt, nửa chừng…Triều đình chia thành hai phe. Cách tân và bảo thủ, người chủ trương cách tân dù rất kiên quyết nhưng trong điều kiện quá chênh lệch lực lượng, nên cuối cùng bị thất bại.

Khi đất nước sa vào tay Pháp lại nảy sinh hai phe, chủ yếu và chủ hòa. Những người chủ chiến, phải chiến đấu trong điều kiện chênh lệch về lực lượng và vũ khí nên cuối cùng cũng thất bại.

Năm Nhâm Ngọ ( 1882), triều đình cử thượng thư bộ hình Phạm Thận Duật đi sứ Thiên Tân ( Trung Quốc) cầu viện nhà Thanh đánh Pháp. Trung Quốc đang bị các nước phương Tây xâu xé, chẳng những không cứu được mà còn muốn nhân dịp này chiếm các tỉnh phía bắc nước ta. Ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi ( 1883), Tự Đức mất, trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tôn Anh Hoàng đế. Triều đình Huế phải ký hòa ước Quý Mùi ( 1883) rồi hòa ước Patonot ( 18885), đất nước bị chia làm ba kỳ chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp.

Tự Đức lấy vợ từ năm 14 -15 tuổi và sau đó còn lấy thêm 103 vợ nữa, nhưng đến năm 35 tuổi vẫn chưa có con, mặc dù đã chạy chữa bằng mọi cách, cầu tự khắp đền chùa có tiếng trong nước, thậm chí nhà vua còn hạ cố lấy một phụ nữ đã qua một đời chồng, có con mà vẫn “ vô hậu”. Nhà vua phải nuôi lấy 3 người con các anh mình làm con nuôi: Ưng Chân, Ưng Kỷ và Ưng Đường. Di chúc nhà vua viết “ Trẫm nuôi sẵn ba đứa con, Ưng Chân cố nhiên là học lâu trưởng thành, chính danh đã lâu, nhưng mặt hơi có tật, giấu kín không rõ ràng, sợ sau không sáng, tính lại hiếu dâm, cũng rất không tốt, chưa chắc đương nổi việc lớn. Nhưng nước vẫn cần có vua nhiều tuổi, đương lúc khó khăn này không dùng hắn thì dùng ai? Sau khi Trẫm muôn tuổi, nên cho Quốc công Ưng Chân nối nghiệp…” Về sau, Trần Tiến Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết là các phụ chính đại thần mưu bỏ vua này lập vua khác gây ra thảm kịch trong triều Nguyễn sau khi Tự Đức mất.
 
Thời kỳ bắc đầu thuộc pháp

DỤC ĐỨC ( LÀM VUA BA NGÀY)

Trước khi đăng quang, Dục Đức bàn với ba đại thần chính là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Trần Tiến Thành sẽ không đọc một đoạn nhận xét về mình trong di chiếu tại lễ lên ngôi. Cả ba vị phụ chính đều đồng ý. Ngày hôm sau, khi Trần Tiến Thành đọc đến đoạn ấy, hạ giọng xuống hầu như không ai nghe rõ, thì Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lại nổi giận bảo Nguyễn Trọng Hợp đọc lại rồi chia quân túc vệ canh gác trong ngoài thành thật nghiêm ngặt và bắt gọn 10 người thân tín của vua nối ngôi trong đó có Nguyễn Như Khuê.

Hai hôm sau, tại buổi thiết triều có đông đủ hoàng thân và đình thần, Nguyễn Văn Tường đứng lên tuyên cáo phế truất Dục Đức vì bốn tội.

- Cắt bớt một đoạn trong di chiếu của vua cha
- Tự tiện đưa một giáo sĩ vào hoàng thành
- Mặc áo màu xanh trong khi để tang vua cha
- Thông dâm với nhiều cung nữ của vua cha

Dục Đức bị tống giam tại một phòng kín vừa được cấp tốc xây lên ngay trong biệt điện mình. Dục Đức bị đối xử như một tù nhân thường. Nhờ người lính gác thương tình chủ cũ, hàng ngày đút lót cho một nắm cơm và một chiếc áo cũ thấm nước, vắt ra uống, Dục Đức sống thoi thóp được gần 1 tháng thì chết, xác vùi trên một quả đồi, không quan tài và không ai được đi đưa tang.

Hơn 20 năm sau, con trai thứ 7 tức Thành Thái lên ngôi làm vua. Dục Đức mới được khôi phục lại đế hiệu và tôn là “ Cung tôn huệ hoàng đế”.
 
Hiệp hòa ( 6/1883 – 11/ 1883)

Niên hiệu: Hiệp Hòa

Tên thật là Hồng Dật, con thứ 29 và là con út của thiệu Trị, sinh tháng 9 năm thiệu Trị thứ 7 tức năm Bính Ngọ ( 1846). Năm Ất Sửu ( 1865) Hồng Dật 18 tuổi được phong Văn Lãng công. Năm Tự Đức 31 tức năm Kỷ Mão ( 1879) được tấn phong Lãng Quốc công.

Tháng 6 năm Quý Mùi ( 1883) phế xong Dục Đức, theo ý của Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, được ý chỉ của Từ Dụ Hoàng thái hậu, triều đình cử một phái đoàn ra Kim Long rước Lãng Quốc công vào Đại Nội để chuẩn bị làm lễ đăng quan. Lãng Quốc công khóc mà nói rằng “ Tôi là con út của tiên đế, tư chất tầm thường, không dám nhận ngôi vua”. Phái đoàn vừa phải năn nỉ vừa dùng vũ lực mới đưa được Hồng Dật vào Cấm thành. Thế là hai hôm sau Lãng Quốc công trở thành vua Hiệp Hòa!

Hiệp Hòa lên nối ngôi, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cậy tôn lập nên thâu tóm mọi quyền hành, không thèm đếm xỉa gì đến vua. Hiệp Hòa ghét lắm, muốn tước bớt quyền hạn của họ. Vua đã kiên quyết điều Tôn Thất Thuyết từ bộ binh sang bộ lại. Làm vua được 4 tháng thì Hiệp Hòa nhận được lệnh mật sớ của hai người thân tín là Hồng Phi ( Tham tri bộ Lại, con trai Tùng thiện vương) xin giết hai quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết.

Hiệp Hòa phê vào sớ “ Giao cho Trần Khanh ( Trần Tiến Thành) phụng duyệt”, bỏ sớ vào tráp giao thái giám Trần Đại đem đến nhà Trần Tiến Thành ở chợ Dinh Ông. Việc bại lộ, Tôn Thất Thuyết cùng với Nguyễn Văn Tường bàn cách phế truất Hiệp Hòa. Họ cho mời các đại thần đến họp, kể tội Hiệp Hòa và Trần Tiến Thành, Hồng Phi và Hồng Sâm có âm mưu dựa vào quân Pháp giết hại hai đại thần phụ chính, với chứng cớ hẳn hoi ( tờ mật sớ). Sau ép các quan ký vào tờ sớ đòi phế truất Hiệp Hòa xong, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vào cung Điện thọ xin ý kiến của Hoàng thái hậu đồng thời cho người dẫn 50 lính vào điện Càn thành bắt Hiệp Hòa phải tự xử mình theo lệ “ Tam ban triều điển” dành cho các đế vương, khanh tướng phạm tội tử hình.

Đang đêm khuya, nhà vua mới biết có sự biến, hỏi đến trực hầu, chỉ có một vài thái giám. Vua sai thái giám Trất Đạt đem chiếu nhường ngôi tới và xin được trở về phủ cũ. Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường giả vờ nhận lời, cho người đem võng đưa vua và cung phi về phủ cũ ở xã Phú Xuân xong lại bí mật dặn riêng Ông Ích Khiêm và Trương Văn Đễ đón ở cửa Hiểu Nhân chặn đường, đưa vua đến nhà Hộ thành, ép uống thuốc độc tự vẫn.

Riêng Trần Tiến Thành, cáo ốm nằm ở nhà cũng bị lính đến giết ngay đêm ấy. Đó là một ngày mùa đông ( 29 – 11 – 1883), Hiệp Hòa làm vua được 4 tháng, chết 36 tuổi, giao cho chủ Tôn nhân chôn cất theo nghi lễ Quốc công.
 
Kiến phúc ( 12/1883 – 8/ 21884)

Niên hiệu : Kiến Phúc

Húy là Hạo, tự là Ưng Hỗ, lại có tự là Ưnh Đăng, nuôi con thứ 3 của Tự Đức, sinh ngày 2 tháng giêng năm Canh Ngọ ( 1870). Năm lên hai ( 1871) vì Tự Đức không có con Hạo được kén vào cung, xưng làm Hoàng thiếu tử, do học phi Nguyễn Thị Chuyên nuôi dưỡng.

Từ nhỏ Hạo đã sớm hiểu biết, ôn hòa, lặng lẽ và sạch sẽ, cẩn thận lời nói và việc làm. Vì thế, Tự Đức rất khen và tỏ ý yêu dấu khác thường. Mùa thu năm Nhâm Ngọ ( 1882) được tới nhà đọc sách gọi là Dưỡng thiện đường và được vua sai kèm cặp đạo làm vua. Trong di chiếu, Tự Đức tỏ ý muốn nhường ngôi nhưng vì nhỏ tuổi ( mới 14 tuổi) đành thôi.

Tự Đức mất, Hoàng thiếu tử ra ngoài thành, ở nhà Quan xá ngoài của Vụ Khiêm. Mờ sáng ngày 30 tháng 11 năm Quý Mùi ( 1883) được quần thần đón về điện Quan Canh ở sở Tịch Điền. Thấy người đến đón, Hoàng tử sợ hãi, quan lính phải ôm lên võng khênh đi. Đến nơi, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường báo là xin lập lên làm vua. Hoàng tử trả lời.

Ta con bé, sợ làm không nổi.

Hai phụ chánh nói.

Tiên đế ( tức Tự Đức) đã có ý ấy nhưng chưa kịp làm ngày. Nay là mệnh trời, vậy xin nghĩ đến tôn miếu xã làm trọng.

Xong họ truyền lệnh họp triều thần lại tôn lập vua mới. Thế là ngày 1 tháng 12 năm Quý Mùi ( 1883), Dưỡng Thiện ( Ưng Đăng) lên nối ngôi, niên hiệu là Kiến Phúc.

Từ ngày Kiến Phúc lên ngôi thế lực bà Học Phi ngày càng lớn, Nguyễn Văn Tường đã nhận ra điều này và hết sức tranh thủ cảm tình của bà. Dịp may đã đến với Nguyễn Văn Tường khi nhà vua bị bệnh đậu mùa. Bà Học Phi ngày nào cũng ở cạnh vua còn bé bỏng của mình từ mờ sáng đến nửa đêm. Thế là phụ chính Nguyễn Văn Tường tối nào cũng vào chầu Hoàng đế và Hoàng mẫu, có khi đến nửa đêm mới về. Trước thái độ quá ân cần và có nhiều lả lơi của Nguyễn Văn Tường với bà mẹ nuôi, Kiến Phúc đã tỏ thái độ hết sức khó chịu. Có lần thiu thiu ngủ, nghe được câu chuyện giữa hai người, vua liền quát : « Khi nào lệnh bệnh rồi tao sẽ chặt đầu cả bọn nhà mi ». Tường nghe được bèn xuống thái y viện thuốc pha chế đưa cho Học Phi. Theo lời khuyên của dưỡng mẫu, Kiến
Phúc đã uống thuộc đó tới sáng hôm sau thì qua đời.

Ngay chiều hôm đó, tại buổi thiết triều bất thường, Nguyễn Văn Tường tuyên cáo Kiến Phúc đã băng hà vì bệnh tình biến chuyển đột ngột và đưa em ruột là Ưng Lịch lên nối ngôi.

Kiến Phúc làm vua được 8 tháng thì mất, mới 15 tuổi.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top