• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Trường Sơn - Đường khát vọng

Tuyến vận tải quân sự chiến lược 559 tuy gặp khó khăn bước đầu, nhưng đó là những thử thách không thể tránh. Ta không có cách lựa chọn nào khác, trong khi yêu cầu của chiến trường ngày càng lớn; Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Bộ Tư lệnh 559 phối hợp với các địa phương, các lực lượng chiến trường ta và bạn, sử dụng mọi biện pháp tổng hợp, từng bước phát triển vận tải cơ giới đường bộ, đường sông là chủ yếu, đồng thời tùy tình hình cụ thể từng nơi từng lúc mà kết hợp vận chuyển thô sơ. Giao đồng chí Đinh Đức Thiện phối hợp với các tổng cục trực tiếp chỉ đạo giúp đỡ Tuyến 559. .

Theo phương hưởng chỉ đạo của Thường trực Quân ủy Trung ương, khối lượng vận tải năm 1967 được xác định là 20.235 tấn, trong đó chi viện cho chiến trường miền Nam và Lào 8.765 tấn, cho các lực lượng nội bộ Đoàn 559 là 11.470 tấn và đảm bảo hành quân cho 37.000 người.

Thường trực Quân ủy Trung ương chỉ rõ khối lượng vận chuyển và hành quân đó là yêu cầu thấp nhất, Đảng ủy Tổng cục Hậu cần và Đảng ủy 559 phải nỗ lực phấn đấu thực hiện bằng được và cố gắng thực hiện vượt mức càng nhiều càng tốt. Phải giáo dục nhiệm vụ và lãnh đạo tư tưởng thật chặt chẽ, để phòng hiện tượng thấy kế hoạch mới thấp hơn kế hoạch cũ sinh ra chủ quan, lơi lỏng. Phải tận dụng những điều kiện thuận lợi và kinh nghiệm sẵn có ra sức vượt qua mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành vượt mức kế hoạch mùa khô 1966 - 1967, sau đó sẽ rút quân ra hậu phương nhằm giảm tiêu thụ nội bộ và tăng khối lượng vận chuyển cho chiến trường.

Đầu tháng 10 năm 1966, Đảng ủy Đoàn họp bàn kế hoạch triển khai thực hiện. Trên cơ sở đánh giá chất lượng các tuyến đường, Đảng ủy chủ trương lấy tuyến đường 12 làm trục vượt khẩu chủ yếu, tuyến đường 20 làm trục bổ trợ. Sử dụng tuyến vận chuyển cơ giới trên các đoạn từ Mụ Giạ vào Sa Đi - La Hợp - A Túc, từ Chà Vằn vào Tà Xẻng, từ Phi Hà đi Tà Ngâu, còn các đoạn khác thì dùng xe thồ.Tuyến sông Sê Kông từ Bạc đi Pác Ca Don và Sa Khe thì dùng vận chuyển thuyền.

Đảng ủy nhấn mạnh: muốn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vận chuyển phải tiến hành các biện pháp tổng hợp, trước hết là phát động toàn tuyến "đánh địch mà đi”. Phát huy tất cả các lực lượng đánh máy bay, biệt kích, để bảo vệ hành lang, bảo vệ cầu đường, bảo vệ vận tải. Lực lượng đảm bảo giao thông phải coi cầu đường là chiến trường, bám sát cầu đường, làm đường và sửa đường ban ngày là chính, kết hợp khôi phục đường cũ với mở thêm đường mới để đảm bảo giao thông thông suốt cả mùa khô. Tổ chức vận chuyển phải vận dụng cách "đánh nhỏ ăn chắc” đi theo đội hình trung đội, tiểu đội là chủ yếu.

Đặc biệt phải tăng cường lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ. Giao cho các binh trạm trực tiếp chỉ huy lãnh đạo các lực lượng xe, công binh, cao xạ, giao liên trong biên chế; tăng cường cán bộ đốc chiến tại các trọng điểm. Công tác lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị phải tập trung giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm chính trị với chiến trường, sẵn sàng hy sinh xả thân vì nhiệm vụ, nêu cao ý thức đoàn kết hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng, ý thức tổ chức kỷ luật.

Trung tuần tháng 10 năm 1966, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh 559 tổ chức hội nghị quân chính toàn tuyến tại Cự Nẫm (Bố Trạch, Quảng Bình) nhằm nghiên cứu quán triệt nghị quyết của Bộ Chính trị về tình hình nhiệm vụ, giúp mọi người nhận rõ thắng lợi to lớn và tình thế mới của cách mạng miền Nam, thế bị động thất bại của địch; đánh giá đúng khả năng có hạn của địch về biện pháp chiến tranh ngăn chặn tuyến chi viện 559. Từ đó củng cố lòng tin và khả năng hoàn thành kế hoạch sắp tới. Đồng thời quán triệt nghị quyết của Đảng ủy Đoàn về nhiệm vụ mùa khô 1966 - 1967 và phát động phong trào thi đua "quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, phục vụ chiến trường đánh to thắng lớn".

Riêng với lực lượng xe, phát động phong trào thi đua giành danh hiệu "Dũng sĩ 10.000 tấn/km" cho các lái xe loại 4 tấn, và "dũng sĩ 5.000 tấn/km" cho các lái xe loại 2 tấn; các lực lượng phòng không "thi đua bắn rơi chiếc máy bay thứ 100”.
 
Hội nghị quân chính Cự Nẫm có ý nghĩa quan trọng. Lần đầu tiên cán bộ chủ trì các cấp được nhận thức có hệ thống tình hình mới của nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ chi viện chiến lược, các biện pháp tổng hợp, trên cơ sở đó đã tạo được sự nhất trí về tư tưởng và quyết tâm cao, báo hiệu sự "chuyển mình" của Đoàn trong cuộc chiến đấu sắp tới. Quyết tâm của hội nghị đã nhanh chóng biến thành hành động tự giác của cán bộ, chiến sĩ toàn tuyến, tạo được khí thế thi đua lập công mạnh mẽ ngay từ đầu mùa.

Đầu tháng 11, các đơn vị công binh đã dàn xong đội hình. Trên trục đường dài khoảng 1.200km, bố trí 2 trung đoàn và 10 tiểu đoàn với số quân 7.786 người. Lực lượng đảm bảo giao thông lên tới 12 tiểu đoàn với số quân 4.786 người, trung bình 1km có 4 người, ở những đoạn xung yếu lên tới 7 - 8 người/ 1 km. Cán bộ, chiến sĩ đều đã có kinh nghiệm chiến đấu bước đầu.

Song mùa mưa năm này kéo dài hơn bình thường. Đến giữa tháng 11, trên tuyến vẫn còn mưa, nhất là khu vực từ bắc Bạc trở ra. Mặt đường nhiều chỗ còn lầy. Mức nước ở các đường ngầm quan trọng nhiều ngày vẫn cao từ 1,5 đến 1,7m. Cầu Na Tông, các đường ngầm Pác Pha Năng, Tha Mé, Tà Khống chưa qua được. Thời gian bước vào kế hoạch vận chuyển chậm hơn mọi năm nửa tháng.

Trong khi đó hoạt động của địch cũng tăng dần. Không quân địch tăng cường trinh sát dọc tuyến vận chuyển, tập trung từ các cửa khẩu đường 12, đường 20 đến đường 9, đánh mạnh đường 128 và phà Tha Mé, chặn đánh đội hình xe ban đêm từ Pắc Pha Năng đến đường 9. Ở phía trong, chúng rải chất độc hóa học xuống khu vực Phi Hà, dốc 200 (đường C4); thả biệt kích dọc tuyến từ Bô Phiên đến Tà Xẻng.

Theo kế hoạch, ngày 15 tháng 11 năm 1966, toàn tuyến mở đầu hoạt động vận chuyển. Các xe đều ngụy trang tốt, đội hình hành tiến có chỉ huy chặt chẽ, xử lý các tình huống trên các đường khá linh hoạt. Khi địch đánh chặn, xe vẫn cứ tiến và lợi dụng ánh sáng đèn dù của địch vượt nhanh qua các khu vực trọng điểm. Vì vậy các đội hình khi tới đích tương đối an toàn và đúng thời gian quy định. Ba lực lượng công binh, cao xạ, lái xe, bắt đầu xây dựng được quan hệ hiệp đồng trong chiến đấu.

Trong chuyến vận chuyển đầu tiên từ Lùm Bùm xuống đường 9, trung đội xe của đại đội 5 - tiểu đoàn 54 do đai đội trưởng Trần Ngọc Tẩn chỉ huy bị máy bay địch chặn đánh ở đoạn đường Noọng Kà Đeng - Nậm Mi. Bom phá, bom bi, đạn 20 ly của địch đánh phá rất ác liệt nhưng đội hình xe vẫn dũng cảm băng qua. Mặt đường ngổn ngang đất đá cây đổ, cán bộ chiến sĩ lái xe chủ động dùng cưa cắt cây dùng thuốc nổ đánh bật những chướng ngại vật. Công binh cũng lao đến ứng cứu, cùng bộ đội lái xe sửa đường và dùng súng bộ binh bắn trả máy bay địch, chi viện cho đội hình xe vượt qua an toàn. Trận thắng này thể hiện một nét mới trong phong cách chiến đấu của bộ đội xe và công binh. .

Ở phía nam, do tình hình Campuchia có biến động nên ta không mua được xăng. Binh trạm 5 phải dùng xe thồ kết hợp với một số ô tô chạy từng đoạn, cố gắng đảm bảo gạo cho các đơn vị hành quân và giao cho chiến trường Tây Nguyên được 52 tấn. Cung đường từ A Túc đi Bù Lạch chưa làm kịp đường thồ nên phải tổ chức gùi bộ, giao cho Trị - Thiên được 24 tấn vũ khí và Khu 5 được 45 tấn vũ khí. Kết quả vận chuyển tháng 11 của toàn tuyến còn thấp nhưng đã khởi đầu thắng lợi làm cho mọi người phấn khởi, tăng thêm tin tưởng vào khả năng hoàn thành nhiệm vụ.

Cũng trong tháng này, tuyến giao liên mới từ Mụ Giạ qua Lùm Bùm vào đường 9 đã triển khai xong, cơ bản hoàn thành việc mở đường, rải trạm, bắt đầu phục vụ bộ đội hành quân.

Từ tháng 12, thời tiết khô ráo, đường cầu thông suốt, các đơn vị xe vào cung. Mọi mặt hoạt động được triển khai nhanh mạnh trên toàn tuyến. Khó khăn lớn nhất là máy bay địch đánh phá mạnh từ cửa khẩu vào đến nam đường 9, chủ yếu đánh đường giao thông, tập rung vào các trọng điểm Pác Pha Nang (60 lần/chiếc/ngày), Tà Khống, Tha Pa Chôn (77 lần/chiếc/ngày), Văng Mu (68 lần/chiếc/ngày), Tha Mé (601 lần/chiếc/ngày). Mặt đường có chỗ bị phá hoại hàng trăm mét khối. Các đơn vị công binh tích cực bám trụ mặt đường, tranh thủ khắc phục phá hoại ngay sau trận đánh nên ban đêm vẫn đảm bảo thông đường. Trong lực lượng công binh xuất hiện khẩu hiệu thi đua "Địch đánh ngày coi như không đánh". Một số trường hợp bị địch đánh tắc đường vào ban đêm, các đội trực chiến cơ động ứng cứu khắc phục thông xe ngay trong đêm, hạn chế số giờ tắc đường.
 
Bộ đội phòng không cũng có chuyển biến tích cực trong nhiệm vụ đánh địch bảo vệ vận chuyển. Trong tháng 12 năm 1966 và tháng 1 năm 1967, các lực lượng trên tuyến bắn rơi được 35 máy bay. Vấp phải hỏa lực đánh trả ngày càng mạnh, máy bay địch buộc phải nâng độ cao hoạt động, hiệu quả đánh phá giảm nhiều. Tỷ lệ bom trúng đường chỉ từ 2% đến 3%, tạo điều kiện cho công binh khắc phục nhanh, giữ đường cầu luôn thông suốt. Chỉ tiêu quy định mỗi tháng không để tắc đường quá 5 đêm nhưng trong tháng 12 năm 1966 và tháng 1 năm 1967 toàn tuyến không có đêm nào bị tắc..

Thắng lợi của lực lượng phòng không và công binh đã tạo thuận lợi và khích lệ bộ đội xe. Ý thức rõ vai trò xung kích trên mặt trận vận chuyển, cán bộ chiến sĩ các đơn vị xe coi nhiệm vụ vận chuyển là nhiệm vụ chiến đấu, mỗi chuyến xe là một trận đánh, động viên nhau dũng cảm vượt qua bom đạn đưa hàng đến đích.

Trong lán trại, trong các buồng lái, đâu đâu cũng gặp khẩu hiệu hành động: "Thà hy sinh trên vành tay lái, quyết không để chiến trường thiếu hàng". Trong mỗi chuyến đi, dù đêm nào cũng bị máy bay địch săn chặn, cán bộ chiến sĩ các đơn vị đều dũng cảm chiến đấu, mưu trí nắm quy luật đánh phá của địch để vượt qua an toàn. Tuy các đơn vị đều có tổn thất, xe cháy, người bị thương vong nhưng luôn động viên nhau giữ vững ý chí chiến đấu, cứu xe, cứu hàng, cứu thương binh.

Không khí thi đua hoàn thành nhiệm vụ ngày càng sôi nổi. Cán bộ, chiến sĩ lái xe nô nức phấn đấu vượt cung, tăng chuyến, quyết giành danh hiệu "Dũng sĩ lái xe quyết thắng”. Phong trào thi đua giải phóng xe nhanh của các đơn vị kho cũng phối hợp tạo thuận lợi cho xe quay vòng nhanh. Chỉ tiêu mỗi tháng một xe phải thực hiện được 7 đến 8 chuyến, nhưng phần lớn đã đi được 10 đến 11 chuyến. Khối lượng hàng đến đích ngày càng tăng. Binh trạm 1 và Binh trạm 2 đạt 115% đến 125% kế hoạch, luân phiên được Bộ Tư lệnh Đoàn tặng cờ thi đua luân lưu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhằm tăng thêm tính vững chắc cho kế hoạch, đầu tháng 12 năm 1966, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đề nghị Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cho mở tuyến vận tải thô sơ xuyên từ ngã ba biên giới qua Tây Nguyên để chuyển vũ khí cho Nam Bộ đề phòng tình hình chính trị ở Campuchia còn khó khăn và tăng cường lực lượng mở nhanh đường xe cơ giới nhẹ có trọng tải khoảng 500kg (loại Gát 69B) từ A Túc vào Bù Lạch để tăng khả năng bảo đảm cho hướng trọng điểm là Khu 5.

Kế hoạch mở đường từ A Túc đi Bù Lạch được Bộ chấp thuận và chỉ thị phải làm gấp để kịp sử dụng trong mùa khô 1967. Bộ cũng cấp ngay cho tuyến 20 xe Gát 69B để sử dụng vận chuyển khi thông đường. Vì công việc quan trọng và cấp bách, Bộ Tư lệnh Đoàn cử Phó Tư lệnh Nguyễn Tường Lân và Phó Tham mưu trưởng công binh Lê Nam Hải vào trực tiếp chỉ đạo, khảo sát và thi công.

Những tháng cuối năm 1966, Mỹ bắt đầu cuộc phản công chiến lược lần thứ hai nhằm “tìm diệt” quân chủ lực, phá căn cứ kháng chiến của ta và "bình định", giành dân, mở rộng phạm vi kiểm soát, giải tỏa thế uy hiếp của ta xung quanh Sài Gòn và các đô thị hòng giành thắng lợi về quân sự, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

Nhiệm vụ tăng cường lực lượng vật chất cho các chiến trường miền Nam ngày càng lớn. Bộ Quốc phòng và các Tổng cục khẩn trương bổ sung lực lượng và phương tiện cho Đoàn 559, tăng cường nhiều cán bộ có kinh nghiệm vào vị trí chủ chốt ở Bộ Tư lệnh Đoàn và các binh trạm. Đầu tháng 1 năm 1967, đại tá Đồng Sĩ Nguyên - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần đặc trách Tổng cục Hậu cần tiền phương ở tuyến nam Quân khu 4 được chỉ định kiêm Tư lệnh Đoàn 559 nhằm tăng cường công tác chỉ huy tuyến 559 đồng thời đảm bảo sự hợp đồng chặt chẽ giữa tuyến trước và tuyến sau.

Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, được sự đồng ý của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh 559, đồng chí Đồng Sĩ Nguyên đã cùng cán bộ các cơ quan khảo sát tình hình cầu đường và hoạt động của các lực lượng trên toàn tuyến, trước hết là các binh trạm từ đường 9 trở ra. Sau đợt khảo sát, đồng chí Tư lệnh đã báo cáo trước Đảng ủy thực trạng tình hình, biểu dương ý chí kiên cường và những nỗ lực lớn của cán bộ, bộ đội, thanh niên xung phong trong các hoạt động bảo đảm giao thông, đánh địch, vận tải. ..; đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề cần nhanh chóng và kiên quyết khắc phục như không đánh giá đúng tình hình so sánh lực lượng địch - ta trên tuyến.
 
Do địch đánh phá liên tục và ngày càng ác liệt một số cán bộ, chiến sĩ mới thấy cái mạnh của địch mà chưa thấy những hạn chế của chúng, chỉ nhìn thấy hoặc quá nhấn mạnh cái khó khăn, yếu kém, mà chưa nhận rõ đánh giá đúng những mặt mạnh của ta. Từ đó, dẫn đến đánh giá cao địch, tư tưởng dao động, nặng về phòng tránh, làm ăn nhỏ lẻ, rụt rè, hiệu quả thấp, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của các chiến trường. Đồng chí Tư lệnh phân tích:

Tình hình hoạt động, sự đánh phá của địch trên tuyến thời gian qua cho thấy, không quân Mỹ với nhiều loại máy bay và bom đạn hiện đại, có sức tàn phá ngăn chặn lớn, song trên một tuyến có chính diện rộng, kéo dài, đã bộc lộ rõ khả năng có hạn, không thể kiểm soát hết mọi chỗ.

Tại những điểm tập trung cao, mỗi ngày địch đánh phá từ 6 đến 10 đợt, mỗi đợt từ 15 đến 25 phút, cộng lại thời gian đánh phá mỗi ngày cao lắm khoảng hơn 3 giờ. Nhưng tập trung đánh nơi này thì bỏ lỏng nơi khác, đánh phía cửa khẩu nhiều thì giảm phía trong, đánh ban ngày nhiều thì giảm ban đêm. Thực chất không quân Mỹ có làm chủ ở mức độ nhất định, chứ không phải làm chủ hoàn toàn về thời gian và không gian.

Dưới mặt đất, ta mới là người làm chủ. Ta lại có nhiều thế lợi am hiểu địa hình, có công sự, có cây rừng che phủ, cán bộ chiến sĩ đều dũng cảm mưu trí, nếu được trang bị kiến thức quân sự và tư tưởng chủ động tiến công, thực sự biến tuyến vận tải thành một chiến trường "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến" thì nhất định hiệu quả sẽ khác, sức mạnh của địch còn hạn chế hơn nữa. Để nâng cao hiệu suất chiến đấu, cần vận dụng các quan điểm tư tưởng quân sự của Đảng vào lĩnh vực vận tải quân sự, quan trọng nhất là tư tưởng tiến công, tư tưởng đánh tập trung, đanh tiêu diệt, đánh gần, vào hoạt động của từng lực lượng.

Tư tưởng tiến công phải được cụ thể hóa, nhất là ở các binh chủng chủ yếu.

Đối với bộ đội cao xạ phải bố trí lại trận địa bám sát các mục tiêu bảo vệ, lấy chốt trọng điểm là chính, kết hợp với cơ động thích hợp. Từ trận địa bám trụ ở trọng điểm mà đánh tiêu diệt máy bay địch để bảo vệ đội hình hành tiến của bộ đội xe, đội hình tác nghiệp của công binh và cầu đường, làm cho xác suất bom đạn giảm, tổn thất của ta ít, tốc độ vận chuyển tăng.

Đối với bộ đội công binh phải xây dựng công sự bám trụ ở ngay trọng điểm, lấy chốt trọng điểm như trận địa chiến, tăng công cụ cải tiến, tăng máy húc, xe ben, thuốc nổ để giảm bớt người mà vẫn ứng cứu khắc phục phá hoại nhanh. Kết hợp chống phá hoại với mở rộng mặt đường, thực hiện "Địch càng đánh thì mặt đường càng rộng, xe qua càng nhanh". Đồng thời dành một lực lượng cơ động để liên tục mở đường mới. Từ việc mở các đường tránh cục bộ ở từng trọng điểm sẽ nổi dần lại thành một tuyến mới song song. Nắm vững quy luật đánh phá của địch, lợi dụng thời tiết, sương mù, mây thấp, từ lấn sáng, lấn chiều chuyển sang làm đường ban ngày là chính, ban đêm tập trung khắc phục hậu quả và ứng cứu cho đội hình xe.

Đối với bộ đội xe vận tải phải chuyển sang tổ chức thành đội hình nhiều thê đội quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn, có chỉ huy chặt chẽ; xóa lối đi tự do từng chiếc, từng tốp nhỏ. Xây dựng các căn cứ tập kết xuất phát an toàn với nhiều đường tiếp cận ra đường trục; tận dụng sương mù và thời tiết chạy lấn chiều lấn sáng để tăng thời gian xe lăn bánh, lợi dụng pháo sáng và quy luật đánh phá của địch, chủ động và liên tục tiến công, luôn đạt hiệu suất cao, vượt cung tăng chuyến.

Không quân địch thường tập trung đánh vào trọng điểm nhằm tạo ưu thế chặn đứng đội hình xe tiến công, chia cắt bệ thống giao thông. Vì vậy phải tổ chức chiến đấu hiệp đồng binh chủng tại nơi đó, đánh bật địch, bảo vệ đội hình xe vượt trọng điểm. Đây là hình thức tác chiến ở trình độ cao, bảo đảm thắng lợi cho từng chuyến vận chuyển.
 
Các binh trạm phải trở thành một tổ chức chỉ huy chiến đấu thực sự của bộ đội hợp thành, biết nắm và vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự vào đặc điểm chiến đấu trên tuyến vận tải chiến lược, khắc phục cách làm cũ chỉ biết vận tải đơn thuần. Cơ quan Bộ Tư lệnh cũng chuyển hẳn sang chỉ huy hợp đồng binh chủng, không phải dừng lại ở chỉ đạo. Tăng cường nhanh trang thiết bị xây dựng mạng thông tin đa phương tiện, thông suốt liên tục, đảm bảo chỉ huy trực tiếp của Đoàn với các binh trạm phía bắc (từ cửa khẩu đến bắc Bạc), nắm trực tiếp từ một đến hai trọng điểm ở gần như Văng Mu, Cốc Mạc. Sau đó khẩn trương triển khai bảo đảm chỉ huy trực tiếp của Đoàn với các binh trạm phía nam.

Vấn đề có ý nghiã đặc biệt quan trọng là phải biết tạo thời cơ và nắm thời cơ. Khi thời cơ đến phải huy động cao độ sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi. Hiện nay mùa khô chỉ còn 3 tháng. Phải động viên các lực lượng tranh thủ từng giờ từng phút, bằng mọi biện pháp thực hiện chỉ tiêu vận tải tháng 2 năm 1967 với khối lượng trên 6.000 tấn, tăng gấp đôi so với tháng 1 năm 1967, giao đến các chiến trường đủ số lượng, chủng loại, kịp thời, ưu tiên với các chiến trường xa.

Công tác chính trị tư tưởng lúc này phải quán triệt, làm chuyển biến cho được tu tưởng tiến công, khắc phục tư tưởng dao động, phòng tránh đơn thuần, đồng thời đề phòng chủ quan, mất cảnh giác.

Theo đề nghị của Chính ủy Vũ Xuân Chiêm, báo cáo của Tư lệnh được bổ sung, xây dựng thành một nghị quyết quan trọng của Đảng ủy và cần được tổ chức quán triệt ngay cho cán bộ các cấp.

Trong các cuộc họp cán bộ ở cơ quan và các binh trạm phía bắc, khi nghe trình bày nội dung nghị quyết mới, mọi người đều rất phấn khởi trước những nhận định, phân tích sắc sảo tình hình, những chủ trương mới mẻ, sát thực tiễn, có sức thuyết phục cao và tin tưởng sẽ tạo được sự chuyển biến mạnh trong các lực lượng. Sau hội nghị, cán bộ hối hả về ngay đơn vị để lo triển khai nhanh công việc mới.

Thời gian này, tin chiến thắng trên các chiến trường ngày càng dồn dập. Ở miền Bắc, quân và dân các địa phương liên tiếp đánh thắng giòn giã, bắn rơi được nhiều máy bay địch; sản xuất được giữ vững, đởi sống của nhân dân trong chiến tranh vẫn căn bản được ổn định; giao thông vận tải tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng ngày càng phát triển mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu chi viện tiền tuyến.

Chiến trường miền Nam cũng đang thắng to. Các cuộc hành quân Attơnborơ, Xêđaphôn của Mỹ - ngụy vào chiến khu Dương Minh Châu và vùng tam giác Củ Chi - Bến Cát - Bến Súc bị quân và dân miền Nam bẻ gãy. Các chiến trường đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Khu 5, Trị-Thiên đẩy mạnh hoạt động phối hợp với miền Đông Nam Bộ làm cho Mỹ - ngụy rất lúng túng.

Cuối tháng 1 năm 1967, Quốc hội và Chính phủ công bố quyết định tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho nhiều đơn vị và cá nhân. Đây là nguồn cổ vũ rất lớn, làm cho cán bộ, chiến sĩ Tuyến 559 thêm tin tưởng vào thắng lợi, càng thấy rõ sự gắn bỏ của hoạt động trên tuyến với cuộc chiến đấu trên các chiến trường. Không khí thi đua phục vụ chiến trường đánh to thắng lớn sôi nổi trong các đơn vị.

Từ tháng 2 năm 1967, cường độ đánh phá của địch tăng gấp từ 2 đến 3 lần, tập trung ở khu vực cửa khẩu vào đến đường 9; đồng thời bắt đầu đánh mạnh ở phía trong như Tà Beng, La Hạp, dốc 105, phà Bạc, dốc Bô Phiên.

Sang tháng 3 và tháng 4 năm 1967, địch bắt đầu đánh mạnh vào khu vực Binh trạm 7 và đường B45 đi Thừa Thiên. Địch cũng tăng hoạt động biệt kích, thám báo phá hoại ở mặt đất, dùng trực thăng đổ bộ quân xuống những nơi quan trọng như ngã ba La Hạp và những nơi tiếp giáp với chiến trường. Chúng còn tung các trung đội quân ngụy miền Nam có trang bị cả súng cối 81 ly, đại liên, trung liên vào khu vực Chà Vằn, Phi Hà uy hiếp đường giao liên của ta.

Thường vụ Đảng ủy Đoàn động viên cán bộ, chiến sĩ các lực lượng quyết thắng địch trong bất kỳ tình huống ác liệt nào; đồng thời đề nghị Bộ Quốc phòng cho phép được tự điều chỉnh lực lượng, tổ chức thêm một số đơn vị từ cấp tiểu đoàn trở xuống để tăng thêm lực lượng chiến đấu.
 
Quán triệt tư tưởng tiến công, cả mặt trận vận tải Trường Sơn hừng hực khí thế lập công, quyết tâm đóng góp cao nhất vào nhiệm vụ chi viện. Những tấm gương về chủ nghiã anh hùng cách mạng xuất hiện ngày càng nhiều. Phong trào đánh máy bay địch bằng mọi thứ vũ khí có trong tay phát triển mạnh.

Các đơn vị cao xạ mở hội nghị quân sự dân chủ nghiên cứu cách đánh địch có hiệu quả hơn, tìm cách khắc phục trở ngại về địa hình, xây dựng trận địa ngay tại trọng điểm để đánh địch ngay trên mục tiêu bảo vệ. Tiểu đoàn 1 8, tiểu đoàn 10 bảo vệ tốt các khu vực Pác Pha Nang, Lùm Bùm, Noọng Kà Đeng. Tiểu đoàn 14 vừa được xây dựng lại sau trận tổn thất nặng ở Rừng Thông năm 1966, được giao nhiệm vụ bảo vệ khu vực Tha Pa Chôn đã bố trí ngay cạnh đường, đánh trả địch quyết liệt, liên tiếp bắn rơi 3 máy bay. Tiểu đoàn 7 bảo vệ khu vực từ Sa Đi đến Sê La Măng, trong tháng 2 năm 1967 đánh 3 trận đều bắn rơi máy bay; riêng ngày 5 tháng 2 bắn rơi 4 chiếc. Ở đèo Tha Mé, ngày 15 tháng 3, đại đội 1 thuộc tiểu đoàn 16 mặc dù bị tổn thất nặng, chỉ còn 2 khẩu đội vẫn ngoan cường chiến đấu bắn rơi 1 máy bay.

Các ổ thổ phỉ, biệt kích bị truy lùng ráo riết, bị đánh bật khỏi các cao điểm ven hành lang, làm đảo lộn hệ thống hoạt động thám báo của địch khiến chúng không chỉ điểm được cho không quân đánh phá. Khu vực Bản Sọc (đông nam Sa Ra Van) có 2 đại đội ngụy Lào thường xuyên nống ra vùng Chà Vằn - Pa Hưng quấy phá dân, bắt người, uy hiếp tuyến đường sông từ Bạc đi Sa Khe. Binh trạm 3 đã tập trung lực lượng bộ binh và bộ đội thồ, tiến công tiêu diệt gọn căn cứ Bản Sọc, diệt và gọi hàng 253 tên; toàn bộ vùng Bản Sọc được giải phóng.

Bộ đội công binh ngày càng có kinh nghiệm chống phá hoại. Các đội ứng cứu giao thông bám sát mặt đường, bám sát các trọng điểm. Địch đánh xong là trinh sát tình hình và tổ chức khắc phục ngay, giành giật với địch từng thước đường, từng giờ thông đường. Binh trạm 1 bị đánh rất quyết liệt nhưng là đơn vị có nhiều kinh nghiệm nên thường khắc phục nhanh, ít để ảnh hưởng đến cung độ của xe.

Các điểm vượt sông quan trọng (Pác Pha Năng, Tà Khống, Tha Mé) đều tạo được nhiều bến vượt; tắc bến này điều chỉnh cho xe đi bến khác. Các đơn vị thường chuẩn bị sẵn vật liệu, dự trữ đá, vỏ phuy xăng hỏng, gỗ..., để san lấp các hố bị phá hoại được nhanh. Các cầu hiểm yếu đều có sẵn vật liệu thay thế. "Cầu ông Giảng” - một cầu hiểm yếu ở chân đèo Văng Mu, cao hơn 5m bị đánh gãy phải thay mặt cầu khác nhưng chỉ đến nửa đêm đã khắc phục xong.

Các đơn vị xe động viên nhau nâng cao đầu xe hoạt động, vượt cung tăng chuyến đưa nhiều hàng ra phía trước. Trong bom đạn ác liệt, các dũng sĩ lái xe nêu cao khí phách anh hùng, mưu trí, dũng cảm xả thân vì nhiệm vụ. Nhiều chiến sĩ lái xe bị thương nặng vẫn dũng cảm chịu đau đưa xe vượt khỏi vùng bom đạn để cứu xe, cứu hàng. Chiến sĩ bị thương vong thì cán bộ lái thay. Hành động tiên tiến xuất hiện ngày càng phổ biến trong các đơn vị. Bộ Tư lệnh 559 đánh giá đó là những con người "gan vàng dạ ngọc".

Các chỉ tiêu về cung độ liên tiếp được nâng lên. Từ 050 (Mụ Giạ) đi Lùm Bùm đường dài 110km, gần 50% số xe của tiểu đoàn 51 đã rút xuống 2 đêm 1 chuyến. Từ Lùm Bùm vào Na Hi, tiểu đoàn 102 và tiểu đoàn 52 thực hiện phổ biến 2 đêm 1 chuyến. Cung 050 vào Ka Vát, tiểu đoàn 101 cũng rút xuống 2 đêm 1 chuyến. Các cung Na Hi đi Sa Đi, Sa Đi vào Bạc, vào A Túc, tiểu đoàn 54 và tiểu đoàn 55 cũng rút xuống 3 đêm 1 chuyến.

Cách phục vụ của các đơn vị kho chuyển biến hẳn. Các kho đều cải tiến quy hoạch cho phù hợp với yêu cầu vận chuyển lớn giải phóng xe nhanh như: Tổ chức từng khu kho cho từng mặt hàng, làm bãi đỗ xe trong khu vực kho để tiện lấy và trả hàng, mở đường ra vào thuận tiện để xe không bị ùn tắc, mở đường tiếp cận trục đường chính để xe xuất phát được nhanh. Việc bốc dỡ được thực hiện theo khẩu hiệu "Tất cả để chuyển nhanh hàng ra phía trước", "Kho chờ xe chứ không để xe chờ kho".

Bất kể ngày đêm, xe đến lúc nào cán bộ chiến sĩ kho khẩn trương bốc dỡ lúc đó, đưa năng suất lên rất cao: Xếp dỡ một xe 2 tấn chỉ hết 4 đến 5 phút, xe 4 tấn chỉ cần 6 - 8 phút. Trong khoảng 30 đến 40 phút đã xếp dỡ xong cho một đại đội xe. Bình quân mỗi chiến sĩ kho bốc dỡ một ngày từ 14 tấn đến 15 tấn có người đạt 21 tấn một ngày.
 
Ngày 22 tháng 2 năm 1967, địch huy động 45.000 quân, 11.000 xe cơ giới (có 2.000 xe tăng, xe bọc thép), 600 máy bay các loại mở cuộc hành quân Gian xơn Xi ti đánh phá căn cứ Dương Minh Châu. Đây là cuộc hành quân lớn nhất trong cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, cũng là đỉnh cao nhất trong các cuộc tiến công của Mỹ ở chiến trường miền Nam.

Để đảm bảo đánh bại cuộc hành quân của địch, kế hoạch vận chuyển tháng 2 được giao gần gấp rưỡi. Mặc dù Đoàn đã rất cố gắng, nhưng tính đến ngày 18 tháng 3, toàn tuyến mới đạt hơn 50% kế hoạch. Từ bắc đường 9 trở ra không quân địch thay đổi thủ đoạn đánh phá, một mặt tăng cường săn đuổi xe, mặt khác chúng bất ngờ tập trung lực lượng mở trọng điểm mới khiến hàng mấy trăm xe của các tiểu đoàn 102, 52 ứ lại nằm rải rác từ đèo Pa Kha đến Lùm Bùm. Lượng hàng từ ngoài vào đường 9 bị cắt đứt, gây nguy cơ đổ vỡ kế hoạch chi viện chiến trường.

Trước khó khăn mới trên toàn tuyến, Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Đoàn chỉ thị cho các đơn vị phải nhanh chóng khắc phục hiện trạng về tổ chức chỉ huy; mấu chốt là tổ chức hiệp đồng chiến đấu ở các khu vực trọng điểm. Cán bộ chỉ huy phải quán triệt tư tưởng tiến công và tiến công liên tục, dũng cảm, có gan phụ trách, dám thích ứng cái mới, không ngừng khắc phục những biểu hiện trì trệ lạc hậu để giành thắng lợi từng ngày, từng tuần, tiến lên giành thắng lợi cả tháng. Tại các trọng điểm Văng Mu, Tha Mé, Tà Khống hình thành cụm chỉ huy hiệp đồng chiến đấu mạnh, tạo điều kiện cho các đội hình xe tiến công liên tục.

Cùng thời gian này, Bộ Tư lệnh Đoàn cử Phó Chính ủy Hồng Kỳ vào kiểm tra và chỉ đạo Binh trạm 3 để chấn chỉnh và đẩy mạnh vận chuyển từ Bạc vào phía nam, nhất là đẩy mạnh kế hoạch vận chuyển vũ khí ĐKB. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo mới, các lực lượng trong Binh trạm nhanh chóng cải tiến phương pháp hoạt động, tập trung khôi phục đoạn đường ô tô từ Bạc vào Chà Vằn và làm đường ngầm vượt sông Bạc thay cho phà, lấy vận chuyển cơ giới là chính để tăng nhanh khối lượng.

Đường ngầm qua sông Bạc có khó khăn vì nước còn sâu, phải khai thác và vận chuyển đá cách ngầm gần 10km. Đại đội công binh cầu phà được một đại đội 12,7 ly bảo vệ tổ chức làm suốt ngày đêm, hoàn thành công việc sau 9 ngày. Cung ô tô từ Bạc vào Chà Vằn, trước đây phải đi mất 8 đêm một chuyến, nay có mạng thông tin và tổ chức chỉ huy chặt chẽ, chuyến đầu đi mất 5 đêm, rồi rút xuống 3 đêm.
Vận chuyển đường sông cũng phát triển tốt, Binh trạm đóng thêm thuyền, chấn chỉnh lại các cung, chỉ huy chặt chẽ, nắm chắc tình hình địch, vận chuyển lấn chiều, lấn sáng. Khối lượng tăng dần lên 10 tấn, rồi 15 tấn một ngày, có ngày đạt tới 20 tấn.

Phối hợp với chiến dịch vận chuyển trên tuyến 559, đồng chí Đồng Sĩ Nguyên chỉ đạo Binh trạm 12 thuộc Tổng cục Hậu cần tiền phương dồn nhanh chân hàng vào Tổng kho 050 và dùng một số chuyến xe đưa thẳng hàng vào Lùm Bùm, tạo điều kiện cho Đoàn 559 vận chuyển vượt đường 9 đưa hết hàng về các điểm tập kết.

Trong những ngày này, Tư lệnh Đoàn còn chỉ đạo Binh trạm 1 thí điểm chạy ngày, sử dụng một trung đội xe của tiểu đoàn 52 tranh thủ lúc trưa máy bay địch ít hoạt động mật tập vượt nhanh một cung ngắn qua các trọng điểm cua Chữ A, ngầm Ta Lê, đèo Phu La Nhích (ATP) về kho K4 gần Lùm Bùm, đường dài khoảng 45 km, nhằm tăng thêm một chuyến trong ngày. Chuyến thứ nhất trót lọt, chuyến thứ hai về gần đến căn cứ bị máy bay trinh sát địch phát hiện đánh chặn; cao xạ phải đánh trả để bảo vệ cho đội hình xe rút nhanh, sơ tán. Kế hoạch tổ chức chạy ngày tạm ngừng.

Phát triển thắng lợi, Đoàn 559 tổ chức "Tổng công kích” trong tháng 4 nhằm kết thúc kế hoạch mùa khô với mục tiêu giao xong hàng năm 1967 cho các chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên, Lào; dồn đủ chân hàng vào các khu vực Bù Lạch, Động Con Tiên, La Hạp, Bạc để tiếp tục vận chuyển cho Khu 5, Trị - Thiên; đồng thời đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo cho bộ đội hành quân trong mùa mưa và dự trữ cho các lực lượng ở lại làm nhiệm vụ chiến đấu, vận chuyển và xây dựng cầu đường chuẩn bị cho năm sau. .

Khối lượng tháng 4 còn lại hơn 3.000 tấn, Tổng cục Hậu cần lại giao thêm nhiệm vụ chuyển gấp 300 khẩu súng cối 60 "Giải phóng" cho Nam Bộ và 119 khẩu cho Tây Nguyên. Kế hoạch bảo đảm hành quân làm đường cũng tăng thêm. Trong khi đó do hoạt động liên tục, bộ đội đã mệt mỏi, đầu xe hao hụt khá nhiều. Tuy nhiên lợi thế lúc này là thời tiết rất thuận lợi, đến hết tháng 4 vẫn chưa có mưa.
 
Hoạt động của địch càng về cuối tháng càng giảm, cách đánh rời rạc, chủ yếu nhằm vào kho tàng và nơi trú quân của ta. Địch bắt đầu tăng các hoạt động ở mặt đất, tổ chức 10 vụ đổ bộ bằng trực thăng từ một trung đội đến một đại đội biệt kích với âm mưu trinh sát, phá hoại. Nhưng xuống nơi nào chúng cũng bị ta đánh thiệt hại, phải rút chạy.

Tin thắng lớn của các chiến trường, dồn dập đến với Bộ đội 559, quân và dân Đông Nam Bộ đánh bại các cuộc hành quân "Gaxđơn" ở biên giới Việt Nam - Campuchia, cuộc hành quân "Tắcxơn" ở khu vực Minh Thạnh, Dầu Tiếng, Bến Củi Và đặc biệt là đánh bại cuộc hành quân lớn Gianxơn Xi ty, đỉnh cao của cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai của Mỹ.

Tổng kho Long Bình, sân bay Tân Sơn Nhất, căn cứ Suối Rầm, Biên Hòa, sân bay Plây Cu, trường bắn Nam Giao (Huế); các sân bay Đà Nẵng, Phú Lợi, Sóc Trăng, Chu Lai, An Khê, Cà Mau... đều bị quân ta tiến công dữ dội, diệt hàng vạn tên Mỹ - ngụy và chư hầu, phá hỏng hàng trăm máy bay, hàng nghìn tăng, xe bọc thép...

Thắng lợi to lớn của quân và dân ta đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ càng làm nức lòng Bộ đội 559. Không khí lạc quan, tin tưởng, quyết tâm thi đua lập công, đạt thành tích cao hơn tháng trước dâng lên trong các lực lượng. Đến cuối tháng 4 năm 1967, kế hoạch vận chuyển đạt cao nhất trong cả quý 1. Hàng giao chiến trường Nam Bộ được 768 tấn (156%(, chiến trường Lào 1.360 tấn (110%). Rải gạo đảm bảo hành quân và dự trữ chiến đấu đều đạt 100%.

Tranh thủ thời tiết còn nắng, Bộ Tư lệnh Đoàn quyết định kéo dài vận chuyển sang nửa đầu tháng 5 để dồn hết hàng vào các khu vực tập kết, tăng thêm một số hàng dự trữ ở Bạc, Chà Vằn, Phi Hà, sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu của Khu 5 và Tây Nguyên trong đầu mùa khô năm sau.

Công tác chỉ huy và phục vụ bộ đội hành quân cũng từng bước được cải tiến. Ngay từ tháng 12 năm 1966, lực lượng giao liên đã triển khai xong tuyến hành quân từ Mụ Giạ (đường 12) và từ Ta Lê (đường 20) vào đến Noọng Khung phía đông Lùm Bùm, từ đó nhập làm một theo tuyến cũ vượt đường 9 đi vào các chiến trường.

Lưu lượng quân vào ngày càng đông. Từ đầu năm 1967, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo đẩy nhanh kế hoạch hành quân. Tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương tổ chức chuyển quân bằng ô tô vào Liên trạm I, nên quân vào hàng ngày dồn dập. Bộ đội hành quân phải hợp lực với bộ đội giao liên làm bãi trú quân, đào hầm hố, làm công trình vệ sinh, nấu ăn và thu xếp chỗ nghỉ. Nhờ tuyến hành quân mới khô ráo, thuận lợi hơn nên các đơn vị đã nhanh chóng hoàn thành.

Từ tháng 2 năm 1967, công tác phục vụ của tuyến giao liên, nhất là các trạm từ Bạc trở ra có bước chuyển biến khá mạnh. Theo chỉ đạo của Đoàn, công tác chỉ huy và phục vụ bộ đội hành quân cũng phải quán triệt tư tưởng tiến công, không ngừng vươn lên phục vụ bộ đội hành quân với số lượng lớn, đảm bảo cho quân đi nhanh, an toàn mạnh khỏe, phấn khởi, phục vụ được yêu cầu tác chiến lớn của các chiến trường.

Trong khí thế chung, các trạm giao liên đã hăng hái thi đua thực hiện khẩu hiệu “biến bãi trú quân thành doanh trại thoải mái”. Các khu vực trú quân đều chọn nơi thoáng mát, sạch sẽ, quy hoạch từng khu vực ngăn nắp, có giá cho bộ đội mắc võng, có lán cho người ốm; có bếp Hoàng Cầm cho bộ đội nấu cơm; có đủ hố xí, hố tiểu đảm bảo vệ sinh chung. Từng thời gian, quân y lại phun thuốc DDT diệt muỗi khắp các khu vực trú quân.

Kết hợp rèn luyện bộ đội trong quá trình hành quân, các trạm đã cùng cán bộ chỉ huy các đơn vị hướng dẫn bộ đội củng cố hệ thống công sự phòng không, đồng thời có kế hoạch sẵn sàng chiến đấu đánh địch ở mặt đất. Mỗi đơn vị đến bãi trú quân đều tranh thủ đào một số hầm. Đơn vị đi sau lại củng cố thêm, dần dần các bãi đều có đủ công sự cho bộ đội.
 
Đầu tháng 3 năm 1967, Trạm 1 ở chân đèo Mụ Giạ bị máy bay B52 oanh tạc trúng nơi trú quân. Cây rừng, đất đá, mảnh bom văng đi khắp phía, nhưng nhờ có đủ công sự nên chỉ có 3 chiến sĩ bị thương nhẹ. Một số trường hợp khác ở nam - bắc đường 9, địch đánh sát gần nơi trú quân, nhưng bộ đội vẫn an toàn. Nhiều bãi trú quân làm được cả báo liếp và khẩu hiệu để động viên bộ đội.

Từ tháng 2 năm 1967, trên Tuyến bắt đầu cấp phát bổ sung cho bộ đội một số thực phẩm khô như mì chính, ruốc khô, đường, sữa; bổ sung quân trang, túi thuốc bị tổn thất dọc đường. Các trạm còn được giao nhiệm vụ quan hệ với chính quyền và nhân dân bạn, khai thác tại chỗ, tổ chức cho bộ đội được ăn thịt tươi, một tuần một lần. Anh em thương bệnh binh được cung cấp thêm thực phẩm, đường sữa, bảo đảm đủ mức ăn 0,90 đồng một ngày.

Trang bị của bộ đội hành quân lúc này còn rất nặng. Cả quân trang, vũ khí, lương thực, mỗi người phải mang trên dưới 25 kg. Để giảm bớt khó khăn này, Bộ Tư lệnh Đoàn cho sử dụng ô tô chở bớt các vũ khí trang bị nặng cho bộ đội đến vị trí tập kết của tùng đơn vị và chỉ đạo các binh trạm khắc phục đường sá, tăng thêm các trạm cấp phát gạo dọc đường để bộ đội chỉ phải mang theo từ 3 đến 5 ngày lương thực .

Riêng các đoàn cán bộ đi công tác được bố trí chỗ nghỉ trong lán và hưởng tiêu chuẩn thống nhất do Tổng cục Hậu cần quy đinh.

Trước tình hình vận chuyển cơ giới phát triển thuận lợi, Bộ Tư lệnh Đoàn chỉ thị cho các binh trạm từ khu vực Bạc trở ra, sử dụng xe quay ra chuyển thương binh về phía sau. Các xe chuyển thương đi thành đoàn, có tổ chức quân y đi hộ tống, được theo dõi, chỉ huy, bảo vệ chặt chẽ; nếu bị địch đánh hoặc gặp trở ngại dọc đường thì các đơn vị công binh có nhiệm vụ cấp cứu và đảm bảo việc ăn nghỉ. Sau hơn hai tháng, 1.526 thương binh được chuyển về hậu phương an toàn, không để ứ đọng trên tuyến.

Đến hết tháng 4 năm 1967, bộ đội giao liên đã phục vụ 57.726 người vào chiến trường bằng 156% kế hoạch ban đầu. Giao đến chiến trường 46.733 người với tỷ lệ quân số khỏe từ 94% đến 97,8%; chuyển ra được 1.914 thương, bệnh binh và phục vụ cho 115 đoàn gồm 740 người từ các chiến trường ra miền Bắc. Ngoài ra còn chuẩn bị đủ gạo, thực phẩm cho 30.000 quân đi tiếp trong mùa mưa.

Giữa tháng 5 năm 1967, thời tiết tây Trường Sơn bắt đầu chuyển sang mùa mưa. Theo quyết định của Bộ Quốc phòng, Đoàn 559 để lại một phần lực lượng tiếp tục làm nhiệm vụ vận chuyển hàng cho các chiến trường Khu 5, Trị - Thiên; bảo đảm công tác giao liên chuyển thương xây dựng đường cầu, bảo vệ kho tàng và chống địch lấn chiếm, phá hoại. Bộ Tư lệnh 559 tổ chức Sở chỉ huy tiền phương đóng tại La Hạp, trực tiếp chỉ đạo công việc trên tuyến.

Phần lớn lực lượng của đoàn tập kết về khu vực Hương Sơn, Hương Khê - Hà Tĩnh để tổng kết, tập huấn bồi dưỡng sức khỏe, củng cố bổ sung lực lượng, chuẩn bị các mặt cho nhiệm vụ năm sau. Các Binh trạm nam Bạc trở vào tập kết về khu vực Lâm Phu (đường C4). Riêng lực lượng xe đưa ra vùng Vân Đình, Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây để Tổng cục Hậu cần trực tiếp chỉ đạo khôi phục sửa chữa và bổ sung trang bị, phụ tùng. Số xe, máy, phương tiện của các lực lượng phòng không, công binh đưa vào các xưởng trung tu A 1 (Nghệ An), A2 (Hà Tĩnh) xưởng Tạ Công Nông (Con Cuông - Nghệ An) để sửa chữa.

Cuối tháng 5, các lực lượng đã tập kết về địa điểm quy đinh.

Đúng vào thời điểm đó, hoạt động vận chuyển trên tuyến đường phía tây Thừa Thiên bước vào giai đoạn quan trọng nhất nhưng cũng gian khổ ác liệt nhất.

Sau nhiều năm khai phá, đường cơ giới đã được mở tiếp từ A Túc đến Bù Lạch. Đoạn đường này đi vào thung lũng A Chiêng Chăn vùng núi A Dai Nhơ, từ đó liên tiếp leo dốc theo sườn núi qua Động Con Tiên, Động Tam Bôi, vượt qua dốc "Con Mèo” cao 630m rồi lao tụt xuống Hà Tia, theo dãy thung lũng tây Trị - Thiên dài gần một trăm kilômét, qua A Lê Thiêm, A Lưới, Ta Bát đến A Sầu, Bù Lạch. Địa hình từ A Túc đến La Đụt dốc cao, vực sâu hiểm trở, đường độc đạo, rất hẹp, xe chỉ đi được một chiều. Nền đường dễ lầy bùn khi có mưa.
 
Từ Tây Trường Sơn vượt qua Đông Trường Sơn, thời tiết mưa nhiều nắng ít (mưa 9 tháng nắng khoảng 3 tháng). Phía tây nắng thì phía đông mưa và ngược lại. Dân vùng này gồm các dân tộc Vân Kiều, Pa Cô - quê hương của nữ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Kan Lịch.

Tuy đời sống còn đói khổ nhưng tinh thần chống Mỹ rất cao, mỗi người hăng hái tham gia các phong trào dân quân du kích, diệt biệt kích, bắn trực thăng vũ trang của địch, xung phong đi dân công phục vụ chiến trường. Khi bộ đội mở đường cơ giới sâu vào chiến trường, dân ở những bản ven đường đã vui vẻ dời đi nơi khác...

Tuy địa hình và thời tiết vùng này khó khăn như vậy, nhưng nơi đây vẫn là hướng ưu việt nhất để mở đường chi viện cho Khu 5, vì nếu đi qua phía Tây Nguyên thì quá xa, tốn công sức gấp bội, thời gian cũng lâu hơn. Vì vậy Bộ Tư lệnh chủ trương mở đường cơ giới, song do địa hình phức tạp nên phương án đầu tiên định mở đoạn đường từ La Đụt vào A Sầu cho xe con (Gát 69B) chạy, còn phía ngoài khó đi hơn thì vẫn dùng gùi thồ kết hợp với một đoạn chạy xe con.

Nhưng thực tế trong quá trình mở đường, ta phát hiện khả năng phía trong hay phía ngoài đều có thể mở cho xe cơ giới chạy được. Bộ Tư lệnh điều chỉnh phương án mở toàn bộ đường vận tải cơ giới. Việc thiết kế thi công do đó lại bị động, chắp vá, kéo dài. Thời gian thông đường định vào cuối tháng 2 năm 1967 nhưng phải kéo đến tháng 4 năm 1967. Vì vậy khối lượng hàng quan trọng của Khu 5 và Trị - Thiên bị dồn lại chờ thông đường mới vận chuyển được. .

Đợt vận chuyển này là cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt với địch, với thời tiết. Tuy là những tháng nắng ráo nhưng ở đây vẫn xen kẽ có mưa. Đường mới mở nên khi gặp mưa là lầy lội, nhất là đoạn từ Động Con Tiên qua dốc "Con Mèo", công binh đã dùng đá rải đường để chống lầy nhưng vùng này chỉ có đá "sít” non, xe chỉ đi được một chuyến là đá lại tan vụn thành bùn lầy. Binh trạm phải vận chuyển theo lối cuốn chiếu, tranh thủ dồn hết chân hàng sang dốc "Con Mèo". Tại đây thiếu kho phải dùng các hố bom B52 của địch tạm chứa hàng để kịp chạy đua với thời tiết.

Tuyến đường này đi vào chiến trường Khu 5, thọc vào sườn vùng chiến thuật I của địch, nên chúng ngăn chặn quyết liệt. Khi đường mới vươn tới A Túc, chúng đã thả biệt kích thám báo xuống ngăn chặn, đồng thời ném bom không ngớt, kết hợp rải chất độc hóa học phát quang tuyến đường.

Đường càng vươn sâu vào, địch đánh phá càng dữ dội. Trực thăng vũ trang bay suốt ngày từ 6 giờ sáng đến 5 giờ chiều, nghi ngờ đâu, bắn phá đó. Hàng ngày địch thả biệt kích, nhảy cóc xuống chỗ này rồi lại bốc lên đi chỗ khác. Ban đêm máy bay B52 đánh từ 2 đến 3 đợt, lúc vào đường giao thông, lúc vào sâu các suối nơi bộ đội ta đóng quân. Có trận trúng vào sở chỉ huy Binh trạm, có trận trúng vào chỗ đóng quân của đơn vị gây thương vong cả trung đội.

Ngày 14 tháng 4 năm 1967, bộ phận chỉ huy tiền phương của Binh trạm 2 do Phó Chính ủy Nguyễn Lan phụ trách đặt tại kho S4C gần chỉ huy sở Binh trạm 7, bị đánh gần chục đợt B52, hy sinh hơn 50 người. Trước tình hình đó, Binh trạm 7 quyết định lợi dụng những nơi trống trải gần trọng điểm địch không chú ý, huy động cơ quan và đơn vị đào địa đạo sâu vào lòng núi để ăn ở, sinh hoạt và làm việc. Nhờ đó sau một tháng từ A Túc đến Bù Lạch, các đơn vị giữ được hoạt động và sinh hoạt bình thường.

Tuy phải chịu đựng những hy sinh to lớn nhưng cán bộ, chiến sĩ vẫn chiến đấu rất kiên cường.

Đại đội 634 bộ binh ngày đêm bám sát địch truy lùng đánh hơn 20 trận tiêu diệt gọn một toán biệt kích Mỹ - ngụy, tiêu hao nhiều toán khác, bắn rơi 3 trực thăng vũ trang.

Đại đội 4 súng máy 12,7 ly - đơn vị Anh hùng cơ động phục kích đánh địch ở Động Con Tiên bắn rơi 1 chiếc F105. Khi phát hiện máy bay địch thường bay thấp hơn đỉnh núi đã đưa khẩu đội lên điểm cao 1.000 m đánh địch theo góc tà âm bắn rơi thêm 1 chiếc F4. Những ngày sau cơ động sang dốc Chè (La Đụt), Đại đội liên tiếp bắn rơi tại chỗ 1 trực thăng vũ trang, 1 máy bay trinh sát L19. Từ đó trực thăng vũ trang giảm hẳn hoạt động. Cuối tháng 3, Đại đội chuyển vào vùng A So bảo vệ ngầm km 7 1 -73, chính trị viên đại đội Phan Văn Nhật trực tiếp chỉ huy bắn rơi 1 chiếc B57.
 
Việc bảo đảm giao thông tuyến đường này rất căng thẳng. Đường mới mở còn hẹp, độ dốc nhiều chỗ còn cao, lại bị địch phá hoại kết hợp với mưa lầy thường xuyên gây tắc đường, cháy xe, thương vong. Tiểu đoàn 7, tiểu đoàn 8 công binh mới vào tuyến nhưng thích ứng nhanh, dũng cảm bám đường, ứng cứu, hộ tống xe, đã hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Đến tháng 10 năm 1967, Binh trạm 7 giao xong cho Khu 5 được 690 tấn hàng, giao mặt trận Trị - Thiên 243 tấn, hoàn thành kế hoạch cả năm 1967, làm cho Khu 5 rất phấn khởi. Kết quả này được Bộ Tư lệnh và Tổng cục Hậu cần đánh giá là rất xuất sắc và đề nghị Bộ Quốc phòng tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba cho Binh trạm.

Ở phía trong, Binh trạm 4 cũng dồn hàng giao thêm cho chiến trường Tây Nguyên tại khu vực Tà Xẻng 682 tấn.

Cùng với các hoạt động đánh phá khu vực Binh trạm 7, giữa tháng 6 năm 1967, địch tổ chức một trận tập kích lớn bằng bộ binh vào khu kho La Hạp thuộc Binh trạm 2. Đây là kho dự trữ có hơn 3.000 tấn hàng.

Sau nhiều đợt máy bay B52 oanh tạc vào chỉ huy sở tiền phương của Đoàn và khu vực kho địch dùng trực thăng đổ xuống một tiểu đoàn - chủ yếu là quân Mỹ, một số ít là quân ngụy Sài Gòn.

Phó Tư lệnh Lê Đình Sum và Phó Chính ủy Hồng Kỳ trực tiếp chỉ huy các đơn vị triển khai chiến đấu. Các lực lượng tại chỗ, nòng cốt là bộ đội kho S4 chiến đấu vô cùng dũng cảm, liên tiếp đánh bật các đợt tiến công của địch vào khu vực kho. Chúng phải giãn ra chiếm một số cao điểm chờ máy bay chi viện. Suốt đêm máy bay B52 và phản lực liên tục rải bom vào vùng kho.

Lực lượng của ta bị thương vong nhiều, 3 đồng chí trong ban chỉ huy kho đều hy sinh. Song tất cả đơn vị vẫn giữ vững quyết tâm chiến đấu. Các trận địa bảo vệ khu kho được tăng cường thêm một đại đội bộ binh; trung tá Bùi Quốc Uỷ thuộc chỉ huy sở tiền phương được cử thay làm Chỉ huy trưởng khu kho.

Sau 3 ngày chiến đấu, bộ đội ta đánh lui 3 đợt tiến công của gần 200 lần chiếc trực thăng, phản lực, hạ 4 phản lực, 7 trực thăng, bắt hơn 100 tù binh. Ta thiệt hại gần 400 tấn hàng, hy sinh và bị thương 47 người.

Cuối tháng 4 năm 1967, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên và Chính ủy Vũ Xuân Chiêm cùng một số đồng chí trong Bộ Tư lệnh 559 về Hà Nội báo cáo với Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng kết quả hoạt động năm 1967 và chuẩn bị kế hoạch năm 1968.

Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện hoan nghênh kết quả hoạt động của các lực lượng 559 trong mùa khô 1967, coi đó là minh chứng hùng hồn khẳng định sự tất yếu của vận chuyển cơ giới, loại bỏ các ý kiến hoài nghi.

Ngày 4 tháng 6, Thường trực Quân ủy và Bộ Quốc phòng do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương chủ trì làm việc với Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Sau khi nghe đồng chí Đồng Sĩ Nguyên báo cáo hoạt động của Đoàn 559 trong mùa khô 1966- 1967, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá:

“Đây là bản báo cáo đã khái quát được một số vấn đề mới. Điều quan trọng nhất là Đảng ủy và Bộ Tư lệnh 559 đã đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của không quân Mỹ trên tuyến vận tải, đã lợi dụng thiên thời, địa lợi, nhân hòa, đã sử dụng sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, quán triệt tư tưởng tiến công và vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự của Đảng vào vận tải quân sự... Thắng lợi mùa khô 1966 - 1967 khẳng định chủ trương cơ giới hóa tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn là chính xác”

Đại tướng biểu dương và chuyển lời chúc mừng thắng lợi đến tất cả cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong Đoàn 559.
 
Ngày 6 tháng 6, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã gặp Tư lệnh và Chính ủy Đoàn 559. Đồng chí thân mật động viên: "Mùa khô vừa rồi, Đoàn 559 làm như thế là tốt! Bác rất muốn gặp các anh, nhưng hiện Bác đang bị mệt". Sau khi phân tích khái quát một số tình hình địch, ta ở miền Nam, đồng chí Lê Duẩn kết luận:

“Tương quan lực lượng, đứng về quân sự mà nói thì hiện nay Mỹ - ngụy còn mạnh hơn chúng ta. Nhưng với quy luật phát triển thì cái mạnh đó là trước mắt, là tạm thời... Đảng ta, dân tộc ta, cả 2 miền có đầy đủ khả năng để thực hiện một quá trình chuyển đổi tương quan lực lượng... Bộ Chính trị đang tính đến một phương hướng chiến lược cho năm 1968. Công việc của Tuyến 559 cũng là một yếu tố quan trọng trong cuộc tính toán đó. Bộ Quốc phòng sẽ giao việc cụ thể cho các anh, chúc các anh chuẩn bị tốt cho kế hoạch năm 1968”.

Qua chỉ thị của đồng chí Bí thư thứ nhất, Bộ Tư lệnh 559 dự cảm một chủ trương chiến lược mới và trách nhiệm nặng nề của Đoàn sắp tới .

Ngày 8 tháng 6, đồng chí Phạm Hùng - Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nghe báo cáo và làm việc với Bộ Tư lệnh Đoàn về kế hoạch chuẩn bị nhiệm vụ năm 1968.

Ngày 7 tháng 6, trong buổi làm việc với lãnh đạo Tổng cục Chính trị, đồng chí Đồng Sĩ Nguyên báo cáo:

“Trong chiến đấu ác liệt, chết - sống tính từng giây, từng phút, công tác lãnh đạo trên tuyến phải dùng nhiều hình thức khác nhau làm cho mọi người phải hết sức tự bảo vệ mình và bảo vệ đồng đội, đồng thời phải hiểu rõ: Để đạt được lý tưởng cao đẹp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, phải chấp nhận sự trả giá. Đi đôi với giáo dục phải biết tổ chức, tạo cho được sự tương trợ của đồng đội làm cho người chiến binh thấy không lúc nào bị cô đơn. Họ sợ nhất là một mình một xe giữa chiến trận, hỏa lực cao xạ không bảo vệ trực tiếp, công binh ở xa đường, xe đi phân tán, chỉ huy không đi theo đội hình, trạm cứu thương, đội kích kéo vắng bóng, trọng điểm không có chỉ huy thống nhất...”

Kinh nghiệm này được đồng chí Song Hào - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trịi đánh giá là những bài học rất sống về công tác chính trị tư tưởng.

Hạ tuần tháng 6, Bộ Tư lệnh 559 kết hợp với tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động mùa khô năm 1966 - 1967 tại xã Hương Xuân, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

Đây vừa là hội nghị tổng kết, vừa kết hợp tập huấn với nhiều nội dung rất mới về nghệ thuật quân sự được vận dụng thắng lợi trên tuyến vận tải chiến lược 559. Đây cũng là hội nghị lớn nhất từ khi thành lập Đoàn 559. Dự hội nghị có cán bộ quân chính của Tuyến 559 và Tổng cục Hậu cần tiền phương, đại diện các cơ quan Bộ Quốc phòng, Bộ Giao thông Vận tải, các binh chủng có liên quan, các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, các văn nghệ sĩ...

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh 559 khẳng định mặc dù trong điều kiện địch đánh phá ngăn chặn ác liệt, nhưng các lực lượng 559 đã giành được thắng lợi một cách toàn diện:

Tổng khối lượng vận chuyển đạt 27.469 tấn, căn bản hoàn thành kế hoạch cả năm trên tất cả các hướng chiến trường của ta và bạn. Việc chỉ huy đảm bảo hành quân thực hiện vượt mức, đảm bảo cho bộ đội đi nhanh, an toàn, sức khỏe tốt, căn bản chuyển hết thương binh về hậu phương. Tổ chức đánh địch bảo vệ hành lang có hiệu quả, bước đầu đánh bại âm mưu của địch ngăn chặn tuyến hành lang, giữ được chủ động trong suốt mùa vận chuyển. Xây dựng đường cầu ngày càng hoàn thiện, mở thêm được 108 km đường mới và 248 km đường vòng tránh, tạo thành 2 tuyến vận chuyển song song ở phía bắc, giữ thế vững chắc trong cả mùa. Đi đôi với chiến đấu, đã xây dựng bộ đội từng bước trưởng thành về mọi mặt. Tuy nhiên bên cạnh thành tích đạt được, cũng có những tổn thất nhất định.

Thành tích trên có ý nghĩa chiến lược lớn, tăng cường lực lượng cho miền Nam, chi viện cho Lào, góp phần quan trọng trong chiến thắng Đông Xuân 1966 và tạo cơ sở cho các chiến trường tiếp tục giành thắng lợi. Đồng thời khẳng định ta có đầy đủ khả năng để tổ chức và giữ vững một tuyến hậu cần dài từ hậu phương lớn đến tiền tuyến xa trên một địa bàn rừng núi, bị địch đánh phá ác liệt, mưa lũ cản trở.
 
Báo cáo tổng kết nhấn mạnh: điều hết sức quan trọng là phải thấy đầy đủ không chỉ ưu điểm mà cả khuyết, nhược điểm. Phải rút ra được những bài học có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn.

Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên nêu lên một số kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn mùa khô vừa qua:

- Trong chiến tranh, muốn thắng địch phải đánh giá đúng địch một cách toàn diện, cả mặt mạnh lẫn mặt yếu. Phải nắm được âm mưu, thủ đoạn và quy luật hoạt động, đánh phá của chúng. Khoét sâu chỗ yếu của địch, khai thác chỗ mạnh của ta, đồng thời có cách đánh đúng.

- Vận tải quân sự trong chiến tranh, dưới điều kiện đánh phá ngăn chặn ác liệt của không quân Mỹ, nhất thiết phải quán triệt tư tưởng tiến công "đánh địch mà đi, mở đường mà tiến", chủ động xây dựng thế trận vận chuyển, trước hết là thế trận cầu đường khắc phục thế độc đạo, chống địch ngăn chặn có hiệu quả là điều kiện cơ bản nhất.

- Quán triệt quan điểm chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp, tổ chức chỉ huy thống nhất, thực hiện chiến đấu hiệp đồng binh chủng, vận dụng sáng tạo các hình thức chiến thuật phù hợp với đặc điểm từng binh chủng, chiến đấu đánh bại địch bảo vệ đội hình xe tiến công thắng lợi.

- Vận chuyển chi viện chiến lược bằng sức mạnh bộ đội hợp thành nhất thiết phải tổ chức các chiến dịch vận chuyển với quy mô thích hợp (nhỏ, vừa, lớn) đặt dưới sự chỉ huy thống nhất, trực tiếp, chặt chẽ, liên tục.Triệt để xóa bỏ hình thức hoạt động đơn lẻ, rời rạc, khoán cấp theo thời gian.

- Nắm vững phương châm đánh địch kết hợp với phòng tránh và nghi binh. Chốt tập trung bảo vệ trọng điểm kết hợp với cơ động tiêu diệt địch, bảo đảm đội hình xe tiến công.

- Xác định đúng cung độ từng binh trạm, nhằm phát huy sức tiến công của bộ đội xe, đảm bảo thực hiện gọn, dứt điểm 2 đêm 1 chuyến. Xác định cung độ phải căn cứ vào tình hình đánh phá của địch, đặc điểm địa hình đường sá, khả năng chiến đấu của bộ đội. Với tình hình khách quan, chủ quan hiện nay, mùa khô 1967 - 1968 quy định mỗi cung có chiều dài 80 - 100 km là hợp lý.

- Khẳng định phương thức vận tải cơ giới là chủ yếu, không chao đảo trước mọi tình huống ác liệt; tận dụng phương thức vận tải đường sông, gùi thồ từng nơi, từng lúc cần thiết.

- Nỗ lực vượt bậc tạo thời cơ, nắm thời cơ tận dụng thời cơ, giữ quyền chủ động, là một trong những yếu tố giành thắng lợi nhảy vọt. Đầu mùa địch đánh phá còn ít, ta còn sung sức, nhưng chưa chuẩn bị sớm cầu đường và chân hàng nên không vận chuyển được mấy. Như vậy là vừa không tạo được thời cơ vừa bỏ lỡ thời cơ.

- Đổi mới phong cách chỉ huy, thực hiện tác phong chỉ huy 4 trực tiếp: trực tiếp giao nhiệm vụ, trực tiếp tổ chức chỉ huy, trực tiếp kiểm tra đôn đốc giúp đỡ, trực tiếp đánh giá động viên cổ vũ khí thế.

- Tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị trong chiến đấu; xây dựng yếu tố con người, đội ngũ cán bộ là vấn đề hàng đầu có ý nghiã quyết định thắng lợi.

Ngoài báo cáo chung của Tư lệnh, còn có báo cáo tổng kết chuyên đề của các ngành tác chiến, cầu đường, vận tải, hành quân, thông tin, quân y, hậu cần, dân vận công tác Đảng, công tác chính trị. Những báo cáo này đã cụ thể hóa và làm sáng tỏ sự đúng đắn về lý luận và thực tiễn của những kinh nghiệm đã được tổng kết của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh.

Tại hội nghị, các đại biểu rất phấn khởi nghe Chính ủy Vũ Xuân Chiêm đọc thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng gửi Đoàn 559. Thay mặt Quân ủy Trung ương, Đại tướng biểu dương các lực lượng 559 trong mùa khô 1966 - 1967 đã vươn lên mạnh mẽ, thực hiện vượt mức các nhiệm vụ, trưởng thành vượt bậc, phát huy được truyền thống càng đánh càng mạnh của quân đội ...

Đại tướng nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ toàn Đoàn không được chủ quan thỏa mãn mà phải cố gắng hơn nữa trong mọi công tác, tích cực xây dựng đường hành lang cả về chính trị, quân sự và kinh tế, tiến tới thành lập các khu căn cứ hậu cần mạnh và hoàn chỉnh của ta trên địa bàn này... "Đoàn 559 cần phấn đấu xây dựng thành một đội quân hậu cần chiến lược rất giỏi, một đội quân chiến đấu rất giỏi, một đội quân sản xuất rất giỏi, một đội quân quốc tế giúp bạn rất giỏi, trong đó nhiệm vụ hậu cần chiến lược là nhiệm vụ chủ yếu...".
 
Căn cứ vào khả năng của Bộ Tư lệnh 559, Quân ủy Trung ương quyết định "đẩy mạnh hơn nữa vận tải cơ giới trên tuyến chi viện chiến lược, kéo dài thêm cung vận tải ô tô tiếp cận cho đến Khu 5, Tây Nguyên và chủ trương tăng thêm một số lực lượng cao xạ, công binh và thông tin, tăng thêm lực lượng xe vận tải cho Tuyến 559 để thực hành vận chuyển với quy mô cao hơn tiến lên đảm bảo được nhiệm vụ vận chuyển chiến lược phục vụ cho cách mạng ba nước Đông Dương”.

Thắng lợi vận chuyển chi viện chiến trường mùa khô 1966 - 1967 không chỉ là niềm vui, niềm tự hào của những chiến sĩ Trường Sơn mà còn là niềm vui chung của quân và dân cả nước. Các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, đài phát thanh mở một đợt tuyên truyền rộng rãi về hoạt động của Bộ đội Trường Sơn. Lần đầu tiên những hoạt động của tuyến vận tải quân sự chiến lược được giới thiệu công khai dưới danh hiệu "Đoàn vận tải quân sự Quang Trung". Trong dịp này, một số văn nghệ sĩ trong và ngoài quân đội đến dự hội nghị đã thâm nhập sâu các đơn vị để tìm hiểu, sáng tác về Tuyến 559.

Ghi nhận công lao và động viên kịp thời thành tích của Bộ đội Trường Sơn, trong dịp kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Đoàn 559.

Trung tuần tháng 7, hội nghị mừng công của Đoàn được tổ chức rất trọng thể. Toàn tuyến có 63 tập thể được công nhận danh hiệu đơn vị quyết thắng, 1.024 chiến sĩ thi đua, 100 chiến sĩ quyết thắng, 382 đơn vị và 307 cá nhân được xét tặng huân chương các loại. Binh trạm 1, tiểu đoàn 52 vận tải ô tô, tiểu đoàn 20 pháo cao xạ, tiểu đoàn 25 công binh vinh dự được nhận cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", phần thưởng cao quý của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng.

Trong những ngày này, nhân dân hậu phương đã dành cho cán bộ, chiến sĩ 559 những tình thương sâu sắc. Hiểu rõ cuộc chiến đấu gian khổ ác liệt trên tuyến, nhìn những đoàn xe dáng hình tơi tả, móp méo, mang đầy vết tích bom đạn, ai cũng thấy tự hào và xúc động. Nhân dân các khu vực tập kết hết lòng chăm sóc giúp đỡ bộ đội, dành những chỗ ở tốt nhất, ưu tiên cung cấp nguồn thực phẩm tại chỗ cho các đơn vị.

Những phần thưởng cao quý của Quốc hội, Nhà nước và Bác Hồ trao tặng cùng với tình thương yêu đùm bọc của nhân dân hậu phương, kể cả những nơi đang ngày đêm hứng chịu nhiều bom đạn Mỹ, là nguồn động viên, cổ vũ Bộ đội Trường Sơn tích cực củng cố lực lượng, chuẩn bị mọi mặt cho mùa khô tới .

Sau hội nghị tổng kết, mừng công, toàn Đoàn bước vào chuẩn bị cho mùa khô tới. Ở trong tuyến, công binh tranh thủ làm đường nâng cấp rải đá một số đoạn đường cũ để có thể vận chuyển sớm lúc đầu mùa và kéo dài thêm vận chuyển cuối mùa khô. Công việc chính là mở rộng và hoàn thiện đường 20, rải đá đoạn từ Lùm Bùm đến đường 9, đoạn Tha Mé đến Sa Đi và từ Sa Đi vào La Hạp. Binh trạm 7, tổ chức chống lầy đoạn Động Con Tiên vào A Sầu. Binh trạm 3, tổ chức khảo sát và làm mới đường B46 - chủ yếu đoạn Đăk Rây đến Bến Giàng.

Căn cứ vào ý định của Bộ và Tổng cục Hậu cần, Đoàn triển khai làm các đường A Sầu - A Tép (30km), Tà Xẻng nối với đường 14 (40km), Tà Xẻng - Pe Xốp (70km).

Đầu tháng 8 năm 1967, các đơn vị công binh bắt đầu hành quân vào tuyến triển khai việc khôi phục, sửa chữa toàn bộ hệ thống cầu đường, chống lầy và chuẩn bị các phương tiện đảm bảo vượt sông suối đầu mùa. Các bến vượt sông đều tổ chức làm cầu, làm đường ngầm. Đến 20 tháng 10, hệ thống cầu đường toàn tuyến đã chuẩn bị xong.

Ở phía ngoài, Bộ Tư lệnh 559 và Tổng cục Hậu cần tiền phương phối hợp tổ chức diễn tập "chiến dịch vận tải” hiệp đồng binh chủng quy mô tương đối lớn nhằm ứng dụng những kinh nghiệm đã được tổng kết, rèn luyện nâng cao trình độ chiến đấu của bộ đội, đồng thời kết hợp nhiệm vụ tạo "chân hàng" cho Đoàn 559.
 
Trung tâm khu vực diễn tập từ Chu Lễ đến Khe Ve, lực lượng tham gia gồm ba tiểu đoàn xe của Đoàn 559, hai tiểu đoàn xe của Tổng cục Hậu cần tiền phương. Một số lực lượng công binh, thanh niên xung phong bảo vệ cầu đường và bốc dỡ kho. Một số tiểu đoàn, trung đoàn cao xạ. Tư lệnh 559 đảm nhiệm vị trí binh trạm trưởng, các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Tổng cục Hậu cần tiền phương và Bộ Tư lệnh 559 đóng vai trò cơ quan binh trạm, các chỉ huy binh trạm đóng vai trò chỉ huy trọng điểm.

Cuộc diễn tập kéo dài 1 tháng đã thành công tốt đẹp, lập được chân hàng tại Tổng kho 559 hơn 8.200 tấn vật chất, đồng thời xây dựng bước đầu Điều lệnh tổ chức chiến dịch, Điều lệnh chỉ huy, chiến đấu, Điều lệ công tác chính trị trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng.

Cùng với thành công và tổ chức diễn tập "chiến dịch vận tải", việc chuẩn bị kỹ thuật xe - máy của các lực lượng cơ bản hoàn thành. Từ tháng 7, các đơn vị đã bắt đầu nhận xe chuẩn bị cho kế hoạch nhập tuyến.

Việc lập chân hàng ở hai hướng cửa khẩu được tiền phương Tổng cục Hậu cần thực hiện rất sớm. Ở hướng đường 12, Binh trạm 12 liên tục đưa hàng vào kho 050 thuộc Binh trạm 1 Đoàn 559 trên 10.000 tấn. Phía đường 20, Binh trạm 14 cũng vận chuyển từ 3.000 - 4.000 tấn hàng vào dự trữ ở cụm C (bắc Ta Lê). Cũng thời điểm này, 5 tiểu đoàn xe của Đoàn 559 sau khi nhận được xe đã tham gia vận chuyển lập chân hàng cùng với tuyến sau, đẩy hàng từ Thanh Hóa vào Hương Khê - Hà Tĩnh.

Như vậy sau khi kết thúc mùa mưa 1968, Đoàn 559 đã có sự chuẩn bị một cách toàn diện về tư tưởng, tổ chức, lực lượng và cơ sở hạ tầng. Được sự chỉ đạo, cổ vũ động viên kịp thời của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Bác Hồ và Quân ủy Trung ương, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Trường Sơn đầy tin tưởng lạc quan bước vào nhiệm vụ chiến lược mùa khô 1967 - 1968 .


*
* *

Sau thất bại trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai ở chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai càng lún sâu vào thế bị động phòng ngự. Cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc đã leo tới nấc thang rất cao - đánh phá vào một số mục tiêu ngay trong thành phố Hà Nội - nhưng không đạt được mục đích lại bị tổn thất nặng nề. Tâm lý thất bại lan tràn trong nhân dân và chính giới Mỹ: Đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam, đưa quân đội Mỹ về nước trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng trong đời sống chính tri của nước Mỹ.

Các hội nghị Bộ Chính trị trong nửa cuối năm 1967 đều chỉ rõ: Cuộc kháng chiến của ta lúc này cần phải và có thể tạo một chuyển biến lớn giữa lúc đế quốc Mỹ đang ở thế ngập ngừng về chiến lược, giới cầm quyền Mỹ đã dao động và trong thời điểm rất nhạy cảm của năm bầu cử tổng thống Mỹ; Để chuyển cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết đinh, Phải tạo được một bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh.

Ở Lào, vùng giải phóng được mở rộng, lực lượng cách mạng được củng cố về mọi mặt. Uy tín của Pa thét Lào ngày càng cao ở trong nước và trên thế giới. Tuy nhiên, việc xây dựng và củng cố vùng giải phóng còn nhiều khó khăn nhất là về xây dựng phát triển kinh tế và ổn định đời sống của nhân dân. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố vùng giải phóng Lào có liên quan mật thiết đến thắng lợi của các dân tộc Đông Dương và liên quan trực tiếp đến hoạt động của tuyến hành lang 559.

Thực hiện nghiã vụ quốc tế, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương giao cho Bộ Tư lệnh 559 nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho bạn. Đồng thời trực tiếp giúp bạn xây dựng, củng cố các huyện dọc theo tuyến hành lang thuộc các tỉnh Khăm Muộn, Sa Van Na Khét, miền Đông (Tà Ven Oọc).
 
Trước yêu cầu của tình hình mới và để thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng quyết định đẩy mạnh nhiệm vụ chi viện miền Nam và bạn Lào với quy mô lớn, liên tục, kịp thời phục vụ các yêu cầu xây dựng và chiến đấu. Trên tinh thần đó, Bộ giao khối lượng vận chuyển mùa khô 1967 - 1968 cho Đoàn 559 là 48.100 tấn. Tháng 1 năm 1968, Tổng cục Hậu cần đề nghị Quân ủy Trung ương nâng khối lượng vận chuyển lên 58.356 tấn.

Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ thị Tuyến 559 vừa thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chiến lược, vừa vận chuyển chiến dịch, khi cần thì làm cả nhiệm vụ vận chuyển phục vụ chiến đấu. Trong nhiệm vụ đảm bảo hành quân, ngoài việc đảm bảo hành quân bộ là chủ yếu, khi có điều kiện phải tranh thủ tổ chức cho bộ đội hành quân bằng cơ giới và phải bảo đảm việc cơ động của các binh khí kỹ thuật.

Trong khi làm nhiệm vụ, tuyến 559 phải kết hợp chặt chẽ thành một khối với các chiến trường Trị -Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Đoàn 565 bộ đội tình nguyện, giữ bằng được con đường vận chuyển chiến lược ngày càng vững chắc, phát triển sâu vào các chiến trường, tăng cường lực lượng bảo vệ trên không và mặt đất, khi cần thì chuyển các đơn vị hỏa lực tăng cường cho chiến trường. Bản thân tuyến 559 vừa là tuyến vận chuyển chiến lược vừa là một tuyến chiến đấu, vừa mang tính chất một bộ phận tiền phương của Bộ đối với các lực lượng hành quân qua tuyến, đồng thời cũng là căn cứ chiến lược chung của các chiến trường.

Để thực hiện quyết tâm của Quân ủy Trung ương và sự chỉ đạo của Tổng cục Hậu cần Đảng ủy - Bộ Tư lệnh 559 quyết định kiện toàn tổ chức, bố trí thế trận, phân chia lại phạm vi phụ trách các binh trạm, động viên toàn tuyến khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị cho mùa khô 1967 - 1968 .

Căn cứ vào kinh nghiệm đã được tổng kết, nhằm đảm bảo chỉ huy trực tiếp và đội hình xe khép gọn cung độ 2 đêm 1 chuyến, tăng sức đột kích của lực lượng vận tải, Bộ Tư lệnh quyết đinh bố trí toàn tuyến thành 9 binh trạm mỗi binh trạm phụ trách từ 100km đến 130km.
Cơ quan của Bộ Tư lệnh được xây dựng theo hướng chuyên sâu, với ba cơ quan tham mưu: Tham mưu tác chiến, Tham mưu vận tải và Tham mưu công binh. Đồng chí Nguyễn Lang được điều về làm Tham mưu trưởng tác chiến; đồng chí Nguyễn An được điều về làm Tham mưu trưởng vận tải; đồng chí Phạm Diêu - quyền Tham mưu trưởng công binh.

Cuối tháng 7 năm 1967, Bộ Tư lệnh họp cán bộ quân chính để triển khai kế hoạch năm 1967 - 1968. Hội nghị đã quán triệt ý định nhiệm vụ, nhưng chỉ tiêu lớn của kế hoạch; nêu lên những yếu tố và biện pháp giành thắng lợi. Trong đó nhấn mạnh yêu cầu xây dựng quyết tâm, đoàn kết nhất trí từ trên xuống dưới, kế thừa và tiếp thu các kinh nghiệm đã tổng kết, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự trong mọi hoạt động của tuyến chi viện chiến lược, nắm vững tư tưởng tiến công, giữ vững nguyên tắc lãnh đạo tập thể thủ trưởng phân công, xây dựng tác phong chỉ huy trực tiếp đưa vận chuyển đi vào đội hình chiến thuật trong thế hiệp đồng binh chủng, nâng cao hiệu suất, bám sát yêu cầu phục vụ các chiến trường đánh lớn, đánh liên tục.

Trong khi giao nhiệm vụ chiến đấu cho các đơn vị, Bộ Tư lệnh lưu ý phải chuẩn bị quyết tâm theo hướng: Khối lượng chỉ có tăng hơn, thời gian khẩn trương hơn và địch đánh phá mạnh hơn, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu đột biến.

Đến giữa tháng 10, công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ mới đã cơ bản hoàn thành. Mưa lũ trên tuyến bắt đầu giảm, mực nước các sông suối xuống dần. Nhiều đơn vị đã vào tuyến, triển khai xong các vị trí chiến đấu. Lực lượng xe, pháo đã tiếp cận các khu vực đầu tuyến. Cán bộ, chiến sĩ các lực lượng đều quyết tâm khắc phục khó khăn, chuẩn bị thật tốt để ra quân đúng thời gian và đánh thắng giòn giã ngay từ trận đầu.
 
Ngày 12 tháng 10, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên vào đường 20 và Chính ủy Vũ Xuân Chiêm vào đường 12 để trực tiếp quán triệt nhiệm vụ cho các binh trạm từ đường 9 trở ra, đôn đốc triển khai kế hoạch tháng 11, tổ chức chỉ huy các lực lượng xe, pháo nhập tuyến. Bộ Tư lệnh chọn đường 20 làm hướng vượt khẩu chủ yếu vì đường tốt và cự ly gần đường 9.

Chỉ huy sở Bộ Tư lệnh chuyển đến vị trí mới, nằm ở trung tâm tập đoàn trọng điểm Văng Mu - Tha Mé - Na Bo (ngã ba đường 9), kẹp giữa đường 128 và đường 129 trên đất bạn Lào. Chọn địa điểm này vừa lợi dụng yếu tố bất ngờ, vừa là trung trạm giữa nhiều tuyến đường.
Chỉ huy sở được xây dựng quy mô, trong một địa đạo vào lòng núi có chiều dày 170m và chiều dài 200m. Cấu trúc có đầy đủ hầm cho trực chỉ huy, hầm giao ban Bộ Tư lệnh, hầm trực ban cho các cơ quan tham mưu các binh chủng, cơ quan chính tri, hậu cần; có hệ thống điện thoại nối thông đến tất cả các trọng điểm, các binh chủng - Tư lệnh có thể nói chuyện một lần với 4 - 5 binh trạm từ bắc Bạc trở ra. Đèn điện trong địa đạo sáng suốt 24 giờ. Vào chỉ huy sở, ai cũng tự thấy phải đổi cách làm việc, khẩn trương, nghiêm túc và vững vàng tin tưởng. Hệ thống thông tin đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho chỉ huy trước khi bước vào mùa chiến đấu mới .

Nhằm thay đổi quy luật hoạt động, Bộ Tư lệnh quyết tâm tranh thủ ngay từ tháng đầu mùa - nhanh chóng hoàn thành việc triển khai lực lượng trên toàn tuyến, lợi dụng lúc địch còn sơ hở, bất ngờ và chủ động tiến công, vận chuyển một khối lượng lớn hàng đáp ứng yêu cầu cấp thiết của chiến trường và nội bộ, khắc phục sự căng thẳng đầu mùa; đồng thời chuẩn bị cơ sở để sang tháng 11 thực hiện khối lượng lớn, vận chuyển đi các hướng 7.500 tấn (11% kế hoạch cả năm), giao cho các chiến trường miền Nam 3.270 tấn. Đặc biệt, phải gấp rút triển khai cơ sở kho tàng và rải được từ 1.200 tấn đến 1.500 tấn hàng chuẩn bị cho chiến dịch Đường số 9 - Khe Sanh.

Vào mùa vận chuyển, các đường ngầm, các cầu phà vượt sông được chuẩn bị tốt đặc biệt đã làm được 7 cầu vượt các sông lớn ở Na Tông, Pác Pha Năng, Ta Lê, Tha Mé... đảm bảo được yêu cầu vận chuyển từ các cửa khẩu vào Bạc một cách vững chắc.

Từ ngày 24 tháng 10, ta triển khai lực lượng tổ chức nhập tuyến thì không quân địch cũng tăng cường hoạt động. Chúng liên tục đanh phá các trọng điểm Pha Nốp, Xiêng Phan (đường 12), "cua chữ A", Ta Lê (đường 20), Lùm Bùm, Văng Mu, Tha Mé (đường 128); đồng thời đánh phá mạnh khu vực kho 050 và cơ quan Binh trạm 31, gây một số tổn thất. Chúng khống chế liên tục từ các cửa khẩu tới đường 9, ngăn chặn gắt gao các đoàn xe nhập tuyến.

Tuy vậy, theo lệnh của Bộ Tư lệnh, kiên quyết "đổi đầu đạn để giữ lấy đầu xe”, các lực lượng phòng không đã đánh địch rất mạnh, hất địch lên cao làm cho chúng không tự do hoạt động được nên tỷ lệ bom trúng đường, trúng xe thấp. Tiểu đoàn cao xạ 14 thuộc Binh trạm 31, tiểu đoàn cao xạ 18 thuộc Binh trạm 32 là những đơn vị Phòng không triển khai chiến đấu sớm nhất, bảo vệ có hiệu quả hệ thống cầu đường và đội hình xe trên 2 khu vực cửa ngõ.

Đến ngày 10 tháng 11, hầu hết lực lượng xe và pháo đã tập kết an toàn vào tới các binh trạm xa nhất. Đợt nhập tuyến diễn ra nhanh gọn trong 8 ngày, bất ngờ, cấp tập, dứt điểm, không lai rai như các năm trước. Có tổn thất về người, xe pháo nhưng không đáng kể. Toàn tuyến bắn rơi được 17 máy bay. Phía ta chỉ có 10 xe bị cháy, hỏng.

Vào thời điểm này, lực lượng toàn tuyến được tổ chức thành 9 binh trạm, 4 trung đoàn cơ động, 63 tiểu đoàn, 89 phân đội bảo đảm. Tổng quân số là 32.576 người. Cơ quan Bộ Tư lệnh được củng cố về số lượng và chất lượng gồm 3 cơ quan với 28 phòng. Cơ quan Tham mưu tác chiến gồm các phòng: tác chiến, cao xạ, quân lực thông tin, quân giới, cơ yếu, giao liên bộ, giao liên cơ giới, hành chính.

Do thời tiết tương đối thuận lợi, Bộ Tư lệnh chỉ thị các binh trạm khẩn trương hoàn thành mọi mặt chuẩn bị, đến ngày 15 tháng 11 tổ chức ngay một đợt đột kích 10 ngày nhằm hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch tháng 11, đồng thời tập dượt lực lượng, tiến lên tổ chức vận chuyển quy mô đội hình đại đội hoặc tiểu đoàn tập trung trong thế chiến đấu hiệp đồng binh chủng. Tham gia đợt đột kích có 4 binh trạm phía Bạc gồm 8 tiểu đoàn công binh, 5 tiểu đoàn cao xạ và 7 tiểu đoàn ô tô với 752 xe. Đợt đột kích thu được thắng lợi bước đầu, tạo dự trữ ở đường 9 lên 1.000 tấn và giao cho chiến trường một số nhu cầu thiết yếu.
 
Tuy nhiên tình hình các binh trạm phía Nam vẫn còn nhiều khó khăn. Binh trạm 34 còn nhiều trở ngại khi vận chuyển vượt Bạc. Từ Lục Tùng Bế đến Bạc, đoạn "dốc 12 cua" bị đánh sập từ mùa trước chưa khôi phục được. Đường mới mở về phía đông Bạc còn rất hẹp và dốc, xe chỉ đi được 1 chiều với đội hình nhỏ, tốc độ chậm, lại bị máy bay khống chế mạnh, nên mỗi đêm chỉ vượt Bạc khoảng 10 xe. Do đó, các Binh trạm 35, 36, 44 thiếu hàng để chạy. Hướng Binh trạm 37 bị địch đánh mạnh ở Lâm Phu, dốc 200 nên hàng từ Tà Ngâu về Phi Hà bị hạn chế.

Hướng đường B45 đi Trị - Thiên và bắc Khu 5 còn khó khăn hơn, đường lầy, nhiều dốc, độc đạo rất khó đi. Từ La Hạp vào Động Con Tiên đường hẹp. Cứ 10 - 15km mới tạo được một chỗ tránh nhau. Xe ra vào phải chờ đợi mất nhiều thời gian “chết". Cung đường chưa đến 50 km nhưng không mấy xe đi được 2 đêm một chuyến.

Binh trạm 34 lợi dụng sương mù cho chạy ngày 8 xe, chuyển hàng từ La Hạp vào km 21, dọc đường sương mù tan dần, xe vừa đến cửa kho thì mù tan hẳn, bị máy bay phát hiện đánh cháy toàn bộ... Binh trạm tập trung lực lượng nâng chất lượng đường, mở rộng thêm nhiều đoạn tránh xe, điều chỉnh hệ thống chỉ huy giao thông, nhờ vậy từ giữa tháng trở đi các đội hình xe mới thực hiện được cung độ. Đoạn từ A Túc trở vào, xe cơ giới chưa đi được. Binh trạm 42 phải tổ chức gùi thồ nên kể hoạch giao hàng cho Trị - Thiên mới được 38%, cho Khu 5 được 9 tấn.

Để nắm chắc tình hình phía trong và phát triển đồng đều trên toàn tuyến, khắc phục sự mất cân đối giữa các binh trạm phía ngoài và các binh trạm phía trong, từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 12, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên cùng đoàn cán bộ cơ quan Bộ Tư lệnh vào kiểm tra các binh trạm phía nam từ khu vực Bạc đến đường C4, giúp cho các binh trạm quán triệt nhiệm vụ và các quan điểm tư tưởng mới, tiếp thu những kinh nghiệm của các binh trạm phía ngoài về xây dựng hệ thống tổ chức chỉ huy và chỉ huy hiệp đồng binh chủng, về chiến thuật vận chuyển, bảo đảm cầu đường và tác chiến, về xây dựng mạng thông tin hữu tuyến kết hợp với vô tuyến thông suốt trên toàn tưyến. Đợt kiểm tra tạo ra sự chuyển biến mạnh về mọi mặt, nhất là lòng tin vào khả năng hoàn thành nhiệm vụ của các binh trạm phía Nam.

Bước sang tháng 12 năm 1967, toàn tuyến đã ổn định thế trận và có bước tiến bộ đồng đều. Bộ Tư lệnh quyết định mở chiến dịch vận tải quy mô lớn. Thời gian đợt một chiến dịch là một tháng. Trong chiến dịch này, Bộ Tư lệnh chủ trương chỉ đạo "điểm" thúc đẩy "diện"; xây dựng Binh trạm 32 thành mô hình chỉ huy vận tải đội hình tiểu đoàn tập trung, thực hiện chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.

Chủ trương này xuất phát từ đặc điểm Binh trạm 32 có vị trí nhiệm vụ trọng yếu là nhận hàng từ hai cửa khẩu đường 12 và đường 20, đẩy vào nam đường 9, đảm bảo đủ hàng cho các hướng phía trong. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, Bộ Tư lệnh tăng cường cho Binh trạm 32 tiểu đoàn xe 990, tiểu đoàn pháo cao xạ 24, tiểu đoàn 1 công binh.

Bộ Tư lệnh chỉ thị các binh trạm phải hoàn thiện đồng bộ một loạt vấn đề gồm: Điều chỉnh hệ thống kho tàng theo quy hoạch đảm bảo bí mật, an toàn và giải phóng hàng loạt xe nhanh; Hoàn chỉnh hệ thống đường trong khu kho đảm bảo đội hình xe vào ra không gặp nhau; Mở hệ thống đường cho các đội hình xe tiếp cận vận chuyển với yêu cầu mỗi đại đội có một đường riêng để tập kết đội hình; Mở rộng mặt đường 5m, "là" phẳng mặt đường, đảm bảo tốc độ xe 15 - 20 km/giờ; Mở đường vòng tránh trọng điểm, nơi không có điều kiện mở đường vòng tránh thì mở rộng mặt đường ở trọng điểm tối thiểu đủ 2 làn xe; Thiết lập chỉ huy sở tiền phương binh trạm ở trọng điểm chủ yếu, xây dựng hệ thống trận địa phòng ngự cho các binh chủng hợp thành tác chiến bảo vệ đội hình vận chuyển vượt trọng điểm.
Bộ Tư lệnh yêu cầu các binh trạm có từ 2 tiểu đoàn xe trở lên thực hiện chiến thuật đội hình vận chuyển tiểu đoàn tập trung. Các binh trạm khác tùy tình hình cụ thể thực hiện chiến thuật đội hình vận chuyển tiểu đoàn hoặc đại đội tập trung.

Kiên quyết thực hiện chạy lấn sáng, lấn chiều, tăng thời gian lăn bánh vào thời điểm địch có nhiều sơ hở nhất. Vận dụng sáng tạo, linh hoạt chiến thuật đội hình vận chuyển xuất kích 2 chiều thuận tránh nhau ở giữa hoặc một chiều thuận tuyệt đối.
 
Về tác chiến phòng không, vận dụng linh hoạt phương châm: Khi bảo vệ đội hình vận chuyển thì chủ động tích cực đánh địch, "đổi đầu đạn để giữ lấy đầu xe”, kết hợp hạ máy bay. Khi bảo vệ cầu đường ban ngày thì "đổi đạn lấy máy bay”, bảo vệ cầu đường nơi trọng điểm. Coi trọng cả đánh đêm và đánh ngày. Lấy đánh đêm làm chủ yếu. Coi trọng cả chốt và cơ động, lấy chốt làm chủ yếu. Coi trọng lực lượng chuyên nghiệp và không chuyên, thực hiện phương châm lấy ít thắng nhiều.

Dồn súng 12,7 ly cho lực lượng công binh, mỗi tiểu đoàn công binh có 1 tiểu đội 2 khẩu. Tăng pháo 37 ly cho các tiểu đoàn cao xạ. Về giáo dục tư tưởng, Bộ Tư lệnh tìm nhiều phương thức, biện pháp giáo dục động viên bộ đội. Cho ra tờ báo "Trường Sơn" để phản ánh mọi mặt chiến đấu và đời sống bộ đội, góp phần nâng cao chất lượng công tác chính trị tư tưởng. Cục Chính trị được phép thành lập đội văn công, các binh trạm thành lập đội văn nghệ xung kích, nhằm dấy lên khí thế "tiếng hát át tiếng bom", cổ vũ chiến sĩ tiến lên phía trước.

Ngày 5 tháng 12 năm 1967, Bộ Tư lệnh ra lệnh mở màn chiến dịch. Như một cỗ máy khổng lồ được khởi động và vận hành, toàn tuyến ra quân với khí thế dũng mãnh, rầm rộ, quyết liệt, tự tin, hợp đồng chặt chẽ và giành thắng lợi ngay từ trận đầu. Đội hình xe các binh trạm tới đích 70 - 80%. Chỉ rơi rớt dọc đường một số xe cũ, lái mới.

Phát hiện ta vận chuyển lớn, địch tập trung máy bay đánh phá dữ dội. Chỉ trong 16 ngày đầu tháng, số máy bay hoạt động tăng 38%. Riêng số vụ oanh tạc của máy bay B52 tăng 66%. Số bom đánh phá tăng gấp 2 lần tháng trước. Chúng tập trung đánh rất ác liệt vào địa bàn các binh trạm 31, 32. Trọng điểm Văng Mu là nơi bị đánh ác liệt nhất.

Do đánh giá đúng tình hình, chủ động chuẩn bị thế trận và kế hoạch đối phó, trên toàn tuyến, các binh chủng hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, bảo vệ các đội hình xe vượt trọng điểm an toàn. Trong 20 ngày đầu tháng 12 ta bắn rơi 33 máy bay, bắn bị thương 50 chiếc khác. Xuất sắc nhất là đại đội 1 tiểu đoàn cao xạ 14 trong hai ngày 12, 13 đánh trả quyết liệt hàng chục máy bay địch, bắn rơi 5 chiếc, bảo vệ an toàn cầu Na Tông.

Các đơn vị công binh chiến đấu rất kiên cường. Các đơn vị xe dũng cảm, mưu trí, khôn khéo tránh địch, lợi dụng sơ hở của chúng, nâng tốc độ tiến công, dũng mãnh vượt trọng điểm. Nổi trội nhất là tiểu đoàn xe 102, mỗi đêm vượt qua 8 trọng điểm (Lùm Bùm, Bản Viếng, km 66, km 76, km 86, km 93, Văng Mu, Tha Mé) nhưng luôn giữ vững đội hình vận chuyển tiểu đoàn tập trung, đi gọn về gọn, đạt khối lượng cao. Phần lớn xe của tiểu đoàn 102 chạy vượt cung từ Lùm Bùm vào nam Tha Mé cự ly 130 km, được Bộ Tư lệnh 559 tặng danh hiệu "Tuấn mã Trường Sơn". Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Xuân Trì, thường xuyên dẫn đầu đội hình tiến công. Những đêm địch đánh trúng đội hình xe, đồng chí trực tiếp cùng chiến sĩ cứu xe, cứu hàng. Anh em đơn vị tuyên dương chính trị viên là "Ngọn cờ chống Mỹ số 1" của tiểu đoàn.

Bộ đội thông tin hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ triển khai mạng thông tin hữu tuyến và vô tuyến bổ trợ nhau giữ vững liên lạc thông suốt từ chỉ huy sở Bộ Tư lệnh đến chỉ huy sở các binh trạm và từ chỉ huy sở binh trạm đến các đơn vị tiểu đoàn đại đội các trạm chỉ huy giao thông và chỉ huy sở tiền phương chốt ở trọng điểm, giúp các cấp nắm được từng xe, từng đơn vị, từng trận đánh, từng tình huống diễn biến, phục vụ đắc lực cho chỉ huy chiến đấu, vận chuyển 24/24 giờ trong ngày.

Khi địch đánh phá, đường dây bị đứt, nhưng khi ngớt bom, chiến sĩ thông tin lao ngay vào khu vực bị đánh phá, lần đường dây đứt để nối lại, dù tình huống nào cũng không để mất liên lạc quá một giờ.

Kết thúc đợt một chiến dịch, các binh trạm đã hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu vận chuyển đồng thời tổ chức hành quân bằng cơ giới cho 6 đoàn gồm 1.977 người hỏa tốc vào chiến trường đúng thời gian quy định. Đây là bước phát triển mới trong chỉ huy vận tải quân sự. Binh trạm 32 dẫn đầu toàn tuyến đạt 10.000 tấn/tháng vượt đường 9, được Bộ Tư lệnh tặng danh hiệu "Binh trạm vạn tấn".

Tin vui nhanh chóng được truyền đi khắp toàn tuyến. Phong trào thi đua vớiBinh trạm 32 dâng cao trong các đơn vị. Không khí toàn Đoàn như ngày hội. Tuy nhiên, ta cũng chịu một số tổn thất: 8 khẩu pháo 37 ly, 2 khẩu súng máy 12,7 ly bị đánh hỏng, 15 xe vận tải bị đánh cháy. Hầu hết cầu phao bị phá hủy, thương vong 100 người.
 
Phát huy thành quả bước đầu, Bộ Tư lệnh quyết định điều chỉnh một số cung vận chuyển của các binh trạm để phát huy công suất của xe: Các cung mới có cự ly từ 125 - 180 km; Các kho đầu mối và cơ quan chỉ huy các Binh trạm 33, 34, đều di chuyển vào vị trí mới.

Cùng với hoạt động vận chuyển, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh 559 đặc biệt quan tâm cải tiến nâng cao chất lượng công tác chỉ huy hành quân nhằm bảo đảm khối lượng quân đi lớn tốc độ nhanh, gọn; giữ được sức khỏe và an toàn; hoàn thành chỉ tiêu giao quân cả năm trong mùa khô, sẵn sàng phục vụ quân đi trong mùa mưa; đồng thời bảo đảm thật tốt cơ động binh khí kỹ thuật.

Trên tinh thần đó, Bộ Tư lệnh chủ trương công tác tổ chức hành quân trên toàn tuyến, lấy hành quân bộ là chủ yếu, đồng thời kết hợp tổ chức hành quân bằng cơ giới cho những đơn vị cần vào chiến trường gấp. Những trang bị nặng của các đơn vị hành quân bộ được chở bằng xe vào “mút" chiến trường để giảm nhẹ mang vác của bộ đội và tăng nhanh tốc độ hành quân. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh yêu cầu cải tạo cầu đường hành quân thật tốt, qua sông suối chủ yếu đi cầu; bỏ bớt dốc và các đoạn đi vòng; điều chỉnh hợp lý các cung trạm.

Để đảm bảo được nhiều đoàn trong một ngày, không bị ùn tắc, Bộ Tư lệnh chủ trương mở thêm một trục mới song song với trục cũ; mở thêm tuyến giao liên bộ theo trục ngang từ Chà Vằn đi song song với tuyến vận tải ô tô vào Khâm Đức để giao nhận quân ở cánh nam Khu 5. Điều chỉnh cung độ toàn tuyến từ Mụ Giạ vào Tà Xẻng, rút bớt 8 ngày so với trước; biên chế mỗi binh trạm một trạm giao liên cơ giới chuyên trách nhiệm vụ hợp đồng với các đơn vị xe chuyển thương bệnh binh về phía sau và đưa đón phục vụ các đoàn cán bộ đi công tác lẻ vào Nam ra Bắc bằng xe con.

Đối với các đoàn quân được chỉ định hành quân bằng cơ giới và các đơn vị binh khí kỹ thuật cơ động, Bộ Tư lệnh giao cho các binh trạm trực tiếp tổ chức chỉ huy. Yêu cầu đội hình hành quân bằng cơ giới và đội hình binh khí kỹ thuật cơ động phải tách hẳn đội hình vận chuyển để bảo đảm tốc độ và an toàn cho nhau. Cố gắng đảm bảo một số thực phẩm chủ yếu, mỗi tuần có được 100 g thịt tươi/1 người cho các đoàn quân. Tích cực thu dung bộ đội ốm đau, đào lạc ngũ, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục động viên, tạo mọi điều kiện cho anh em ra tiền tuyến. Tăng cường công tác chính trị, phổ biến thời sự, sinh hoạt văn nghệ góp phần nâng cao tinh thần lạc quan tin tưởng và ý chí chiến đấu cho bộ đội hành quân. Quán triệt những chủ trương trên, cuối tháng 12 năm 1967 công tác bảo đảm chỉ huy hành quân trên tuyến đã có bước tiến nhảy vọt, vững chắc.

Nhiệm vụ giúp đỡ Cách mạng Lào xây dựng, củng cố vùng giải phóng dọc theo tuyến hành lang vừa mang ý nghiã quốc tế, liên minh chiến đấu giữa hai dân tộc, vừa có ý nghĩa trực tiếp đối với việc giữ vững và phát triển tuyến chi viện chiến lược.

Địa bàn tuyến hành lang chi viện chiến lược 559 xuyên qua vùng giải phóng rộng lớn của bạn, với hơn 600 bản thuộc 18 huyện của 4 tỉnh: Khăm Muộn. Sa Van Na Khét, Tà Ven Dọc, A Tô Pơ. Dân số khoảng 82.000 người gồm trên 20 dân tộc, phần lớn là dân tộc Lào Thơng. Cơ sở chính trị về Đảng, chính quyền, mặt trận, dân quân du kích đã có tổ chức và hoạt động từ lâu nhưng còn yếu. rời rạc.
Kinh tế còn ở trạng thái tự nhiên, nông nghiệp độc canh, lạc hậu; thủ công nghiệp đình trệ, thương nghiệp giao lưu phân phối hàng hóa chưa hình thành. Qua mấy năm hạn hán mất mùa và bị bom đạn của Mỹ tàn phá, nhân dân các bản làng trên dọc hành lang đều phải sơ tán vào núi rừng, hang đá, thường xuyên thiếu đói, bệnh tật, đời sống vô cùng cơ cực.

Thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với bạn, Thường trực Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Bộ Tư lệnh 559 phải cùng với các lực lượng chuyên gia và bộ đội tình nguyện có kế hoạch và biện pháp tích cực giúp bạn về mọi mặt chính trị, quân sự kinh tế, văn hóa - xã hội, góp phần xây dựng vùng giải phóng Lào thành căn cứ địa cách mạng, qua đó tạo thêm thế vững chắc cho tuyến hành lang.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top