Trường Sơn - Đường khát vọng

Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh ngăn chặn vì sự nghiệp chi viện giải phóng miền Nam mùa khô 1968 - 1969, Đoàn 559 tổn thất gấp 3 lần năm trước: 1.518 cán bộ, chiến sĩ hy sinh, 3.414 người bị thương, 1.154 ô tô của bộ đội vận tải, 268 ô tô của binh chủng khác, 30 xe húc, 21 xe ben, 5 xe phóng từ, 16 máy đẩy, 56 khẩu pháo bị đánh cháy, đánh hỏng, đâm đổ, tổn thất 7.139 tấn hàng.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 xác định nhiệm vụ chi viện chiến lược mùa khô năm 1969 - 1970 rất lớn, cần phải chuẩn bị cơ bản về mọi mặt: thế trận vận chuyển, tổ chức lực lượng, trang bị vật chất kỹ thuật, chính trị tư tưởng và sức khỏe bộ đội, tạo ra sự sung sức đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, vượt qua mọi khó khăn ác liệt, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chi viện chiến lược.

Do lực lượng bị hao hụt nghiêm trọng cả về quân số và phương tiện sau nhiều mùa mưa nắng, chiến đấu liên tục, ngày 20 tháng 5 năm 1969, Đảng ủy Bộ Tư lệnh họp, chủ trương:

Mùa mưa 1969 chỉ để lại trên tuyến khoảng 2 vạn quân, chủ yếu là các cán bộ, chiến sĩ còn có sức khỏe của các binh trạm từ nam đường 9 trở vào nhằm tiếp tục vận chuyển bổ sung khối lượng còn thiếu cho chiến trường Trị - Thiên và Quân khu 5; đưa đón và chuyển thương binh ra hậu phương; quản lý và bảo vệ hành lang, khôi phục và làm thêm đường vòng, đường tránh, đường kín, chuẩn bị tại chỗ một bước cho mùa khô 1969 - 1970.

Phần lớn lực lượng khoảng 3 vạn quân sẽ được rút ra miền Bắc để củng cố tổ chức, điều dưỡng phục hồi sức khỏe, bổ sung quân số, trang thiết bị, học tập chính trị và tập huấn quân sự, chiến thuật, kỹ thuật. Lực lượng tập kết chủ yếu là bộ đội vận tải cơ giới. khoảng hai phần ba lực lượng các binh chủng khác, hai phần ba cơ quan Bộ Tư lệnh, các binh trạm, trung đoàn, tiểu đoàn cùng toàn bộ thương binh, bệnh binh, trên 1.000 phương tiện xe, pháo bị hư hỏng.

Chủ trương được Thường trực Quân ủy Trung ương Bộ Quốc phòng phê duyệt. .

Ngày 25 tháng 5 năm 1969, Bộ Tư lệnh 559 phân công cán bộ xuống từng khu vực để quán triệt nhiệm vụ và trực tiếp chỉ huy đôn đốc các đơn vị thực hiện. Tư lệnh và Chính ủy xuống các binh trạm cửa khẩu để chỉ đạo các phó tư lệnh, phó chính ủy, các thủ trưởng cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần xuống các binh trạm nam đường 9. Vấn đề số một của việc thực hiện chủ trương này là phải tuyệt đối giữ bí mật, bất ngờ, chủ động và an toàn.

Bước sang tháng 6, thời tiết chuyển hẳn sang mùa mưa. Trên toàn tuyến, máy bay địch giảm cường độ đánh phá. Địch không nắm được việc ta chuẩn bị rút quân tập kết nên vẫn hoạt động theo quy luật cũ, bỏ lỏng phía bắc đường 9, tập trung đánh phá các binh trạm phía nam, đặc biệt là các binh trạm tiếp giáp các chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên: Bộ đội ở lại tuyến bước vào cuộc chiến đấu mới chống địch, chống trời vô cùng ác liệt và gian khổ.

Với sức mạnh tổng hợp trên toàn tuyến, trong thời gian 2 tháng, ta đã giao cho các chiến trường được 2.364 tấn (100% kế hoạch), giao cho hành quân được 4.197 tấn (135% kế hoạch), giao cho nội bộ được 805 tấn (80% kế hoạch). Ngoài ra còn giao ngoài kế hoạch cho miền Đông Nam Bộ 20 tấn vũ khí.

Lực lượng giao liên đưa quân vào giao cho chiến trường 9.313 người, chuyển quân ra hậu phương được 48.920 người, trong đó có 6.354 thương binh, 11.028 1 bệnh binh (713 thương binh nặng phải cáng).

Trung tuần tháng 8 là cao điểm của mùa mưa, mưa xối xả suốt ngày này qua ngày khác. Hàng tháng trời mới có một vài ngày hửng nắng. Đường, cầu bị phá vỡ nghiêm trọng, nước các sông suối dâng cao và chảy mạnh như thác đổ. Cầu, ngầm đều bị trôi hết. Vận chuyển cơ giới đường bộ, đường sông, gùi thồ đều không hoạt động được. Bộ đội hành quân phải nằm lại ở các trạm giao liên. Kế hoạch vận chuyển mùa mưa kết thúc. Ta giành được thắng lợi nhưng cũng bị tổn thất đáng kể.
 
Đảng ủy Bộ Tư lệnh đánh giá: Các lực lượng ở lại tuyến trong mùa mưa đã hoàn thành chỉ tiêu đề ra, đảm bảo yêu cầu tối thiểu về vũ khí và lương thực bổ sung cho chiến trường, đưa đón và bảo đảm vật chất cho số lượng lớn quân vào, quân ra, đặc biệt là thương bệnh binh, tạo điều kiện nâng cao sức chiến đấu cho các chiến trường. Mở thêm được nhiều đường vòng tránh.

Trong điều kiện có nhiều khó khăn, lực lượng phương tiện đều giảm, khối lượng nhiệm vụ đã thực hiện được trong mùa mưa là thành tích rất lớn, thể hiện nỗ lực phi thường, tinh thần chịu đựng gian khổ sẵn sàng hy sinh của cán bộ, chiến sĩ các lực lượng. Sau khi kết thúc nhiệm vụ vận chuyển mùa mưa, Đảng ủy Bộ Tư lệnh đã chỉ thị các lực lượng trong tuyến cần khẩn trương củng cố về mọi mặt, theo dòi rất chặt chẽ thời tiết, chủ động chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho mùa khô tới.

Trong khi bộ đội ở lại tuyến bắt tay vào nhiệm vụ vận chuyển mùa mưa, trên 3 vạn quân với hàng ngàn phương tiện cơ giới nhanh chóng rút ra hậu phương miền Bắc.

Đội hình đi bộ rút theo các đường giao liên. Đến trung tuần tháng 6, đơn vị cuối cùng đã ra khỏi cửa rừng và được các binh trạm 14, 12 đưa về các khu tập kết ở các tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa.

Đội hình cơ giới rút theo đường 12 và đường 20. Sau 5 ngày, đơn vị cuối cùng đã vượt qua cửa khẩu, 2 ngày sau tập kết về các địa phương thuộc tỉnh Thanh Hóa.

Đi đến đâu, Bộ đội 559 cũng được chính quyền, các đoàn thể và nhân dân địa phương nồng nhiệt đón tiếp. Địa phương nào cũng muốn bộ đội về, nhà nào cũng muốn bộ đội ở. Giường chiếu mới nhất, sạch nhất đều dành cho bộ đội. Tình quân dân cả nước đã nâng tâm hồn, nghị lực và ý chí chiến đấu của những người lính chuẩn bị trở về chiến trường nóng bỏng.

Ngày 20 tháng 6 năm 1969, cuộc rút quân tập kết quy mô lớn kết thúc tốt đẹp thể hiện trình độ tổ chức chỉ huy, ý thức tổ chức kỷ luật và khả năng cơ động cao của Bộ đội Trường Sơn.

Được sự nhất trí của Bộ Tổng tham mưu, Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh đóng ở thị xã Sầm Sơn, một thị xã bãi biển đã bị bom đạn Mỹ tàn phá nặng nề, chỉ còn sót lại vài ba ngôi nhà nhiều tầng hư hỏng, có thể ở tạm.

Ngày 22 tháng 6 năm 1969, Đảng ủy Bộ Tư lệnh họp, chỉ ra những nhiệm vụ cần xúc tiến trong giai đoạn chuẩn bị nhiệm vụ mùa khô 1969 - 1970:

1. Gấp rút triển khai thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương về hoàn thiện đường 18 đoạn giáp km 42 đường 10 kéo xuống Chà Lì đường 16, dài khoảng 72 km, đến Bản Cọ do Bộ Tư lệnh 500 đã mở từ đầu năm; tiếp tục mở thông xuống Sê Pôn nhằm tạo thêm một tuyến mới, một hướng vượt khẩu mới từ đông Trường Sơn, chậm nhất đến tháng 12 năm 1969 phải thông tuyến, thông xe. Tiếp tục làm đường ống dẫn xang dầu theo đường 18 vào đường 9.

2. Mở cửa khẩu đường 16 qua Ho, Vít Thù Lù đến Chà Lì, dài khoảng 86 km. Từ đó xuống Bản Đông, Quân ủy Trung ương chủ trương xây dựng hai đường này nhằm tạo một tuyến mới ở hướng đông Trường Sơn, khi được sử dụng sẽ tạo thêm một cửa khẩu mới và rút ngắn cung độ xuống đường 9 và Trị - Thiên... (chỉ bằng một phần ba so với hướng vượt khẩu đường 12). Khai thác sông Sê Băng Hiếng, chuẩn bị vận chuyển đường sông từ Chà Lì đến Bản Cọ.

3. Khi mùa mưa sắp kết thúc, các lực lượng tại chỗ tranh thủ khôi phục toàn bộ cầu đường, ưu tiên khôi phục các tuyến vượt khẩu, mở thêm đường vòng, đường tránh trên những đoạn xung yếu còn độc đạo.

4. Khẩn trương giao các phương tiện hư hỏng vào xưởng, tiếp nhận các trang thiết bị xe, máy, các phương tiện kỹ thuật..., đảm bảo cho mùa khô 1969 - 1970.

5. Nhanh chóng điều dưỡng khôi phục sức khỏe bộ đội, đưa tỷ lệ chiến đấu lên 98%.

6. Tổ chức sinh hoạt chính trị, quán triệt nghị quyết của Trung ương và Quân ủy Trung ương về tình hình và nhiệm vụ cách mạng. Tập huấn về quân sự, huấn luyện kỹ thuật cho mọi đối tượng trong tuyến cũng như ở các khu vực tập kết. Phấn đấu kết thúc về cơ bản những nhiệm vụ trên vào đầu tháng 10 năm 1969 để có thể tố chức nhập tuyến vào ngày 15 tháng 10 năm 1969 và dàn đội hình chiến dịch, chiếm lĩnh trận địa trên toàn tuyến vào đầu tháng 11 năm 1969.
 
Ngày 15 tháng 7 năm 1969, Đảng ủy Bộ Tư lệnh đã họp kiểm điểm thực hiện nhiệm vụ. Hội nghị đã đánh giá: Mùa khô 1968 - 1969 là mùa khô cực kỳ khó khăn. Song nhờ có đường lối, chủ trương đúng đắn của Quân ủy Trung ương, sự chỉ đạo của Tổng cục Hậu cần, sự chi viện to lớn của hậu phương về vật chất và tinh thần, sự giúp đỡ của các cơ quan Bộ, các quân binh chủng, sự nỗ lực phối hợp của tuyến vận chuyển Đoàn 500, nhất là nhờ có quyết tâm và nỗ lực phi thường của toàn thể cán bộ, chiến sĩ trên tuyến, chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn:

Nếu so với nhiệm vụ Quân ủy Trung ương giao, đạt được mức cơ bản của kế hoạch so với mùa khô 1967 - 1968 không cao hơn, cũng không thấp hơn. Nhưng, thắng lợi của ta ở chỗ: địch tập trung đánh dứt điểm bằng những thủ đoạn mới, vũ khí mới rất tàn khốc, ta vẫn giữ được hành lang, giữ được chi viện người và vật chất cho chiến trường đế củng cố, giữ vững khối chủ lực, phát triển thế tiến công. Với ý nghĩa đó kết quả đạt được có giá trị gấp bội, nói lên thắng lợi mùa khô 1968-1969 là to lớn và toàn diện.

Thắng lợi đó, trước hết là thắng lợi của quan điểm tư tưởng tiến công, chủ động và liên tục tiến công của Đảng ta, là thắng lợi của ý chí kiên định, kiên cường không khuất phục địch, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ toàn Đoàn; đồng thời khẳng định, dù chiến tranh ngăn chặn ác liệt đến mức nào, chúng ta vẫn thực hiện được vận chuyển lớn, kết hợp được các phương thức vận chuyển, lấy vận chuyển cơ giới làm chủ yếu, vẫn phát huy được sức mạnh của các lực lượng thực hiện đột kích, tổng công kích liên tục, thực sự góp phần tăng cường sức chiến đấu của chiến trường, tạo điều kiện đánh lớn, đánh liên tục.

Thắng lợi mùa khô 1968 - 1969 đã góp phần củng cố lòng tin giữa tiền tuyến với hậu phương, giữa tuyến trước với tuyến sau, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cán bộ và chiến sĩ. Đó là nhân tố mới, sức mạnh tổng hợp mới để giành thắng lợi to lớn hơn nữa.

Ngày 31 tháng 7 năm 1969, Bộ Tư lệnh tổ chức Hội nghị quân chính toàn Đoàn tại Sầm Sơn với sự tham gia của trên 200 đại biểu nhằm tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ mùa khô 1968 - 1969. Hội nghị đã kiểm điểm ưu khuyết điểm, rút ra những bài học trong thực tiễn chiến đấu; đồng thời phân tích kỹ, đánh giá về địch, ta, về thời tiết, đề ra phương án xây dựng thế trận củng cố tổ chức, đáp ứng nhiệm vụ mùa khô tới.

Một trong những nội dung chủ yếu của Hội nghị là học tập, quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đánh giá nhận định tình hình chiến trường miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc từ sau Tết Mậu Thân, âm mưu chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ; nhiệm vụ của quân và dân hai miền Nam - Bắc trong việc phát triển chiến lược tiến công, chuyển hóa tương quan lực lượng trên chiến trường, tạo thời cơ và sử dụng thời cơ đánh bại âm mưu của Mỹ muốn kết thúc chiến tranh trên thế mạnh tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Trên cơ sở quán triệt những nội dung trên, xây dựng cho bộ đội có lập trường kiên định, quyết tâm chiến đấu lâu dài, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi trong thời gian tương đối ngắn.

Hội nghị vinh dự được đón Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đến dự. Các đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Nguyễn Đôn - Phó Tổng tham mưu trưởng, Phạm Ngọc Mậu - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Nguyễn Tường Lân - Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, đại diện các tổng cục, các quân binh chủng, đại diện các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và đặc khu Vĩnh Linh đã tới dự. Nhiều nhà văn, nhà báo, phóng viên, quay phim quân đội, phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam... được mời dự.
 
Đánh giá thắng lợi của Đoàn 559 trong mùa khô 1968 - 1969, Đại tưởng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: "Một điều hết sức quan trọng là cuộc chiến đấu anh dũng và sáng tạo của Đoàn 559 đã xác minh một sự thật là trong điều kiện địch đánh phá đường giao thông ác liệt, ta vẫn có thể thực hiện được đều đặn, ngày càng cao việc tiếp tế vận tải cho tiền tuyến, vượt qua được những cố gắng điên cuồng của kẻ địch có nhiều phương tiện phá hoại hiện đại. Đó là thắng lợi rất lớn, mặc dù vừa qua kế hoạch vận chuyển chưa đạt được vêu cầu".

Đại tướng nhiệt liệt biểu dương cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 và căn dặn cần khắc phục thiếu sót, quán triệt hơn nữa tình hình, nhiệm vụ, nâng cao chủ nghiã anh hùng cách mạng, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, đánh bại sự ngăn chặn ác liệt của địch, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chi viện chiến lược mùa khô 1969 - 1970, đảm bảo đầy đủ cho chiến trường đánh to thắng lớn.

Đại tướng thông báo tình hình sức khỏe của Bác Hồ và chuyển lời thăm hỏi của Bác cùng lẵng hoa Bác gửi tặng cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559. Cả hội trường vô cùng xúc động trước sự quan tâm của Bác Hồ đối với cuộc chiến đấu của Đoàn 559 và hứa quyết đem hết sức lực và xương máu thực hiện bằng được ước vọng của Người: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Hội nghị vô cùng phấn khởi được nghe Chủ nhiệm chính trị Ngô Thành Vân đọc Sắc lệnh của Chủ tịch nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 4 đơn vị và 9 cá nhân của Đoàn 559.

Sự động viên của Bác Hồ, của Đại tướng Tổng tư lệnh, của các đồng chí lãnh đạo Bộ, các tổng cục, đại biểu các địa phương tỉnh, huyện đã gieo vào mỗi người niềm phấn khởi, tin tưởng, quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Đánh giá đúng âm mưu mới của đế quốc Mỹ, tháng 4 năm 1969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết động viên nỗ lực của quân và dân hai miền Nam Bắc, phát triển chiến lược tiến công, đánh bại chủ trương "Việt Nam hóa chiến tranh" và âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của địch, đánh cho Mỹ phải rút quân, ngụy phải suy sụp, tiến lên giành thắng lợi quyết định.

Nhân dân miền Bắc phải làm tốt nhiệm vụ chi viện miền Nam, đồng thời sẵn sàng chiến đấu, đập tan âm mưu địch gây lại chiến tranh phá hoại, dùng bộ binh tập kích hoặc tiến công ra phía nam Quân khu 4.

Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã ra chỉ thị về kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng và điều chỉnh số lượng bộ đội thường trực một cách thích hợp, bảo đảm cho các đơn vị làm tốt nhiệm vụ chiến đấu ở miền Nam, bảo vệ miền Bắc, giúp cách mạng Lào và phát triển lực lượng khi cần thiết. Theo tinh thần đó, Quân ủy Trung ương thông qua đề án do Bộ Tổng tham mưu đệ trình, giải thể một số lực lượng, giảm quân số gián tiếp của cơ quan, đơn vị hậu phương tăng cường cho Đoàn 559 và các chiến trường khác.

Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chỉ đạo Đoàn 559 phải tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt để đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ chi viện miền Nam với khối lượng lớn.

Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trì và Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 xác định nhiệm vụ mùa khô 1969- 1970 hết sức nặng nề và khó khăn, đòi hỏi phải có lực lượng mạnh, thế trận vững và trình độ cao về chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.

Ngay sau Hội nghị quân chính tháng 7 năm 1969, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh tập trung chỉ đạo, đôn đốc các lực lượng tích cực chuẩn bị, coi việc "hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chuẩn bị là một nửa thắng lợi trong chiến đấu”.

Sau gần 2 tháng nỗ lực vượt bậc của cán bộ, chiến sĩ hậu cần các cấp, sức khỏe bộ đội đã được khôi phục, tỷ lệ quân số chiến đấu đạt 90%.
 
Cơ quan chính trị Đoàn 559 và các binh trạm, trung đoàn mở liên tiếp các đợt học tập cho cán bộ, chiến sĩ nhằm quán triệt tình hình nhiệm vụ, xây dựng quyết tâm mới .

Cơ quan Tham mưu Đoàn và các binh trạm đã tranh thủ thời gian, giải quyết một khối lượng rất lớn công việc như phân loại và điều xe vào các xưởng, nhận xe bổ sung, xin phụ từng, nhiên liệu, hàng hóa, tiếp nhận quân bổ sung...

Các cục thuộc Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Hậu cần ra sức hoạt động, đôn đốc việc đáp ứng nhu cầu của Đoàn 559. Chỉ sau hai tháng, Đoàn đã nhận được 1.720 xe ô tô cho lực lượng vận tải, 1.181 xe ô tô các loại cho các binh chủng khác, 154 máy các loại, trong đó có 60 máy húc, 54 xe và thuyền phóng từ, 40 máy đẩy, toàn bộ thiết bị cho 15 xưởng tiểu tu và những thiết bị bổ sưng cho xưởng đại tu Q300, trên 1.000.000 m dây trần thông tin tải ba và dây bọc, 100 máy thông tin vô tuyến sóng ngắn và bộ đàm, 1.000 máy điện thoại; 75 khẩu pháo 37 ly, 1 đại đội AM gắn súng máy 14,5 ly.

Đồng thời, nhận trên 2.000 lái xe và thợ sửa chữa, 1.500 y tá và dược tá, hàng trăm kỹ sư, bác sĩ. Quân số toàn Đoàn lên đến 55.588 người. Số cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật khá lớn: 7.000 lái xe, 1.000 thợ sửa chữa, 50 kỹ sư, trên 1.000 y - bác sĩ, trên 1.000 dược sĩ trung cao cấp, trên 3.000 dược tá, y tá và hàng nghìn cán bộ chỉ huy kỹ thuật của các binh chủng.

Sau khi xem xét, Quân ủy Trung ương phê duyệt kiến nghị của Đoàn 559 thành lập ba cơ quan tham mưu chuyên ngành: tham mưu tác chiến, tham mưu vận chuyển, tham mưu công binh và một văn phòng tương đương cấp cục. Ở cấp binh trạm cũng tổ chức ba ban tham mưu: tác chiến, vận chuyển, công binh. Việc tổ chức cơ quan tham mưu chuyên ngành là nét đặc trưng của Binh đoàn vận tái chiến lược, đưa công tác chỉ huy lên trình độ mới, chuyên sâu, toàn diện, hiệp đồng trực tiếp liên tục, thể hiện sự sáng tạo nắm bắt đúng tình hình thực tiễn trong chiến tranh.

Do địch đã ngừng đánh phá miền Bắc, Quân ủy Trung ương quyết định giải thể Bộ Tư lệnh 500, sáp nhập các binh trạm cửa khẩu 12, 14, 9, 27 vào Đoàn 559. Địa bàn chiến đấu của Đoàn kéo ra đến Quảng Bình trên chính diện 150 km từ đèo Mụ Giạ (đường 12), qua Phong Nha (đường 20), đến ngã ba Áng Sơn (đường 15) nơi xuất phát đường 10, xuống đến Thạch Bàn nơi xuất phát đường 16.

Với quyết định này, việc chỉ đạo, chỉ huy vận chuyển chiến lược qua các tuyến cửa khẩu được thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho cả phía trước và phía sau. Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng trên tuyến, Chính phủ bổ nhiệm nhiều cán bộ lên cương vị mới. Các đồng chí Ngô Thành Vân, Lê Xy giữ chức Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh. Nguyễn Lang, Nguyễn An giữ chức Phó Tư lệnh. Nguyễn Chúc, Dương Thế Thọ giữ chức Tham mưu phó vận tải. Nguyễn Văn Kỷ giữ chức Tham mưu phó công binh. Nguyễn Danh giữ chức Chính ủy hậu cần. Hồ Quang Trung giữ chức Phó Chủ nhiệm hậu cần. Nguyễn Tôn Xương, Nguyễn Linh Anh, Nguyễn Cao Tâm giữ chức Phó Chủ nhiệm chính trị.

Quân ủy Trung ương cũng điều động, tăng cường nhiều cán bộ trung cao cấp cho các cơ quan đơn vị và các binh chủng.

Ngày 3 tháng 9 năm 1969, khi cán bộ, chiến sĩ toàn Đoàn đang nỗ lực phấn đấu hoàn thành các mặt chuẩn bị trước khi bước vào mùa vận chuyển mới thì đau đớn được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người Cha thân yêu của các lực lương vũ trang nhân dân qua đời.

Cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 chiến đấu trên tuyến đường mang tên Bác trải qua chặng đường 10 năm xây dựng, chiến đấu vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, chỉ mong đến ngày đất nước thống nhất, được đón Bác vào thăm nay vô cùng đau thương với tin Bác đã ra đi.

Cán bộ, chiến sĩ các đơn vị trong toàn Đoàn đều để tang Bác. Một đoàn đại biểu do Tư lệnh và Chính ủy dẫn đầu gồm các Phó Tư lệnh, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh, các thủ trưởng các cục, các thủ trưởng binh trạm, trung đoàn đã ra Hà Nội viếng Bác.
 
Ngày 9 tháng 9, lễ truy điệu Người được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình lịch sử Toàn thể cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 hướng về Thủ đô Hà Nội lắng nghe Di chúc của Người: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn... Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà...". Lời của Bác như tiếng kèn giục giã quân dân xông ra tiền tuyến. Cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn quyết biến đau thương thành sức mạnh, tiến lên phía trước thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người.

Sau lễ tang Bác, Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Tống Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện đã làm việc với Tư lệnh và Chính ủy Đoàn. Đại tướng phân tích âm mưu mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, xác định nhiệm vụ chi viện chiến lược mùa khô 1969- 1970 phải lớn hơn, kịp thời hơn, tạo điều kiện cho các chiến trường đánh bại một bước chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ, sẵn sàng chủ động đón nhận kế hoạch bổ sung khi có tình huống mới.

Phân tích âm mưu thủ đoạn của địch đốt với tuyến chi viện chiến lược, Đại tướng chỉ thị cầu đường phải đi trước một bước. Khẩn trương thông đường 18, đường 16. Bỏ hướng vu hồi đường 8. Phát triển đường phía đông Trường Sơn đến Quảng Đà khi có điều kiện. Nghiên cứu quy hoạch lâu dài tuyến hành lang chiến lược nối liền Nam Bắc trên cơ sở con đường hiện nay, điều chỉnh cho phù hợp với thời bình, thời chiến, thuận lợi về kinh tế, bảo đảm về quân sự. Nghiên cứu những địa điểm cần thiết và có điều kiện xây dựng các nông trường, công trường, lâm trường.

Tăng cường tác chiến phòng không và tác chiến mặt đất, bảo vệ vừng chắc tuyến hành lang. Đẩy mạnh xây dựng tuyến đường ổng vươn sâu vào đường 9, vào Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Việc tổ chức nhập tuyến phải được coi như một chiến dịch vận động tác chiến lớn, cần hết sức thận trọng, bí mật, bất ngờ, an toàn và thắng lợi.

Ngày 17 tháng 9 năm 1969, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh thông qua phương án sắp xếp lực lượng, bố trí đột hình trên toàn tuyến. Tư tưởng chỉ đạo của phương án này là giữ nguyên giới tuyến các binh trạm. Không xáo trộn khu vực chiến đấu của các lực lượng nhằm phát huy sở trường cán bộ, chiến sĩ vốn thông thạo địa hình. Bố trí những lực lượng mạnh, những cán bộ mạnh vào các khu vực trọng yếu, có nhiều khó khăn.

Đội hình toàn tuyến được bố trí gồm: 4 binh trạm bố trí trên 4 tuyến ngang vượt khẩu Trường Sơn; 7 binh trạm bố trí trên tuyến dọc từ Na Tông đến nam Sê Ca Mán cự ly trên 800 km; 6 binh trạm bố trí trên các tuyến đường ngang tiếp giáp các chiến trường Trị - Thiên, Quân khu 5, Tây Nguyên.

Các đơn vị binh chủng trong biên chế các binh trạm gồm có: 19 tiểu đoàn ô tô vận tải với 2.315 xe; 1 tiểu đoàn thuyền; 28 tiểu đoàn công binh với 70 máy húc, 39 xe ben, trên 1 vạn dụng cụ cầm tay; 22 tiểu đoàn pháo cao xạ với 284 khẩu 37 ly và 57 ly, 280 khẩu pháo 12,7 ly; 3 tiểu đoàn; 2 đại đội bộ binh; 5 tiểu đoàn; 16 đại đội thông tin; 14 tiểu đoàn giao liên, 2 đại đội xe phóng từ, 5 đội điều trị; 50 đội phẫu thuật; 12 bệnh xá; 2 đại đội quân y trung đoàn, 10 đội chuyên gia.

Ngày 18 tháng 9 năm 1969, Bộ Tư lệnh dời vào Sở chỉ huy dã chiến ở Cù Lạc, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình để tổ chức diễn tập thực binh chiên đấu hiệp đồng binh chủng cấp trung đoàn để chuẩn bị chiến dịch nhập tuyến.

Ngày 10 tháng 10, Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân Lê Văn Tri vào thảo luận với Bộ Tư lệnh về kế hoạch bố trí tên lửa đất đối không và sử dụng máy bay tiêm kích bảo vệ đội hình nhập tuyến.

Ngày 14 tháng 10, Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dùng vào nghe Tư lệnh Đoàn báo cáo các mặt chuẩn bị nhập tuyến, diễn tập thực binh, kế hoạch tác chiến, cầu đường và vận chuyển. Đồng chí đánh giá: “Công tác chuẩn bị như thế là tốt, toàn diện và khẩn trương. Nhưng trước mắt phải rất thận trọng để vượt khẩu thành công. Vì lực lượng nhập tuyến của Đoàn năm nay rất lớn... Thắng lợi của vượt khẩu sẽ tác động lớn đến quá trình chiến đấu và kết quả thực hiện nhiệm vụ vận tải mùa khô".
 
Với ý đồ tổ chức chiến dịch vận tải quy mô đột hình trung đoàn xúc tiến công trên các cung của một số binh trạm lớn, từ ngày 15 đến ngày 25 tháng 10. Bộ Tư lệnh tổ chức diễn tập bộ đội hợp thành cấp trung đoàn, thành phần gồm 5 tiểu đoàn xe, 1 trung đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn công binh và một số phân đội phục vụ. Địa bàn hoạt động từ Ba Trại đến Hoàn Lão, Xuân Sơn (Quảng Bình). Cuộc diễn tập đã thành công tốt đẹp.

Theo kế hoạch của Bộ Tư lệnh, ngày 20 tháng 9, tất cả các lực lượng trong khối đi bộ gồm 2 vạn rưỡi người đã tập kết trên hai hướng, từ Hương Khê đi vào đường 12 và từ Bố Trạch đi vào đường 20. Sau khi được cấp phát bổ sung lương thực, thuốc men, các khối lần lượt theo thứ tự đội hình nhập tuyến. Lực lượng công binh, pháo cao xạ, thông tin, kho, thợ sửa chữa được ưu tiên đi vào trước để phối hợp với lực lượng trong tuyến chuẩn bị trước một bước những vấn đề thuộc hạ tầng cơ sở như cầu đường, kho tàng, bãi xe, trận địa mạng thông tin, bảo dưỡng kỹ thuật.

Về khối cơ giới, Bộ Tư lệnh quyết định lấy đường 20 làm hướng đột kích chủ yếu vì cự ly ngắn, có hai phần ba đường thuộc khu vực phi chiến sự. Đường 12 là hướng thứ yếu vì đề phòng mưa lớn sẽ phát sinh túi nước Xiêng Phan. Đường 18 là hướng nghi binh vì đường mới mở, hẹp, dốc, độc đạo không vững chắc.

Lực lượng cơ giới nhập tuyến có 18 tiểu đoàn xe, 2 tiểu đoàn pháo. một số phân đội cơ giới của các lực lượng công binh, hậu cần cùng với 3.000 xe pháo, máy húc, xe phóng từ, xe ben, cầu phao, cõng trên lưng 11.800 tấn hàng.

Về thứ tự hành quân, Bộ Tư lệnh quyết định các tiểu đoàn được trang bị xe mới là khối đi đầu. Các tiểu đoàn xe thuộc các binh trạm từ nam đường 9 trở vào là khối đi thứ hai. Các đội hình xe của các binh trạm bắc đường 9 là khối đi thứ ba.

Thời điểm xuất kích được quyết định lúc 16 giờ ngày 30 tháng 10 năm 1969 .

Tư lệnh Đoàn trực tiếp chỉ huy các đội hình xuất kích hướng chủ yếu. Phó Tư lệnh Đoàn chỉ huy các đội hình hướng thứ yếu. Các binh trạm cửa khẩu đặt chỉ huy sở tiền phương trên các trọng điểm vượt khẩu, đồng thời tổ chức các cụm chỉ huy hiệp đồng chiến đấu trên các trọng điểm khác.

Sáng ngày 30 tháng 10, khi các đội hình đã vào vị trí xuất phát, cơn bão số 9 đổ bộ vào đất liền, gây mưa lớn trên khu vực đường 20, làm cho mặt đường bị sụt, lở, trơn lầy, nước sông Ta Lê ở ngầm dâng cao trên 2 m, cầu bị hư hỏng nặng. Đường 12 cũng không đảm bảo được cơ động lớn. Chiến dịch nhập khẩu phải tạm dừng.

Ngày 8 tháng 11, Bộ Tư lệnh Đoàn dời chỉ huy sở dã chiến vào đường K gần trọng điểm ATP đường 20.

Sau mấy ngày liên tục theo dõi tình hình địch, thời tiết, cầu đường, tác chiến, ngày 10 tháng 11 năm 1969, Tư lệnh ra lệnh cho các đội hình xuất phát trên cả hai hướng.

Từ 4 giờ sáng ngày 11 tháng 11, trên các khu vực cửa khẩu, tất cả các xe trong đội hình đều có những tấm chắn chống bom bi và đạn 40 ly làm bằng nứa bảo vệ đầu xe và ca bin, đồng thời được ngụy trang giống như những lùm cây xanh nườm nượp tiến về phía tây Trường Sơn dưới sự hiệp đồng tác chiến bảo vệ của bộ đội cao xạ và bảo đảm giao thông của bộ đội công binh.

Ở hướng nghi binh đường 18, một tiểu đội ô tô chạy phân tán liên tục trên đường. Lửa khói nổi lên ở nhiều nơi, máy bay trinh sát của địch phát hiện tưởng ta hoạt động mạnh ở hướng này nên kéo hàng đàn máy bay cường kích tới đánh phá dữ dội. Đèo 900A và đèo 900B phía bắc Pha Băng Nưa, bị địch đánh liên tục ngày này qua ngày khác. Mặt đường bị phá nặng nề. Nhưng địch càng phá, càng giúp cho ta có điều kiện mở rộng mặt đường.
 
Trên các trục dọc tây Trường Sơn, trời hửng nắng, đường khô, nhưng địch hoạt động mạnh. Nhằm phân tán sự chú ý của địch, ta cho xe chạy nhỏ lẻ và cho bộ đội phòng không đánh có mức độ.

Ở trọng điểm vượt khẩu đường số 12 và đường số 20, ta có sẵn phương án vượt khẩu bằng sức mạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng nếu bị máy bay cường kích địch tấn công. Tuy nhiên, khi đội hình tiếp cận, trời vẫn mờ đục, sương mù dày đặc. Địch sử dụng máy bay B52 ném bom rải thảm, nhưng do ta chủ động mở từ 3 đến 4 đường vòng tránh nên chúng không chặn nổi xe qua trọng điểm. Ta theo dõi chặt quy luật đánh phá của địch, cho xe vượt tương đối an toàn.

Ngày 12 tháng 11, các đội hình xe đi đầu vào tới Lùm Bùm. Ngày hôm sau, đoàn xe vượt trọng điểm Cốc Mạc và Văng Mu, là hai trọng điểm rất ác liệt. Do đường còn xấu tốc độ bị chậm, lái xe mới chưa quen địa hình, chỉ huy giao thông chưa nắm chắc quy luật hoạt động của địch nên phát lệnh vượt trọng điểm không đúng lúc. Đây là tổn thất lớn đầu mùa của ta. 4 giờ sáng hôm đó, đội hình vượt đường số 9 an toàn dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh đóng ở đông Văng Mu.

Ngày 15 tháng 11, Sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh chốt ở Sở chỉ huy Binh trạm 35 chỉ huy các đội hình xe vượt Bạc an toàn. Sau đó 2 ngày, đội hình xe các binh trạm tiếp giáp chiến trường đã tiến được vào khu tập kết cuối cùng.

Ngày 20 tháng 11, chiến dịch vượt khẩu kết thúc thắng lợi.

Ngày 30 tháng 11, Đảng ủy Bộ Tư lệnh họp, đánh giá: chiến dịch hành quân nhập tuyến đại quy mô diễn ra trong không gian, thời gian ngắn đã giành được thắng lợi lớn, giữ được sinh lực và phương tiện, thực hiện được một khối lượng vận chuyển trên 1 vạn tấn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức chiến dịch mùa khô 1969- 1970. Tổn thất về xe pháo không quá 0,5%, là tỷ lệ chấp nhận được phản ánh sự trưởng thành về trình độ tổ chức chỉ huy của các cấp và trình độ chiến đấu của các lực lượng.

Đảng ủy Bộ Tư lệnh quyết định nhanh chóng ổn định về mọi mặt để ngày 5 tháng 12 năm 1969 mở màn chiến dịch vận chuyển quy mô vừa tạo thế đưa dần các lực lượng bước vào các đợt vận tải quy mô chiến dịch.

Cuối tháng 11 năm 1969, thế trận cầu đường được cải thiện một bước quan trọng. Tuyến đường từ nam đường 9 trở ra đã có 3 trục dọc, các tuyến đường ngang tiếp giáp các chiến trường nói chung đều có 2 trục, nhưng còn có đoạn độc đạo. Trên toàn bộ các trục dọc ở các tuyến, cứ 20 đến 30 km lại có một đường ngang tạo nên sự liên hoàn tương hỗ bảo đảm cho một tiểu đoàn xe tập trung tiến công trên một hướng, nhiều hướng, hoặc có thế chuyến hướng tiến công một cách chủ động nếu gặp điều kiện bất lợi do sự ngăn chặn của địch gây nên.

Toàn tuyến có 50 trọng điểm lớn nhỏ, mỗi trọng điểm đều có từ 2 đến 4 đường vòng. đường tránh. Các điếm vượt sông Pác Pha Năng, Ta Lê, Sê Băng Phai, Sê Băng Hiếng, Sê Pôn, Sê Lê Măng, Sê Kông, Sê Ca Mán... đều tổ chức ba phương thức vượt: ngầm, cầu trệt, phà. Có điểm vượt chính, có điểm vượt dự bị, có điểm vượt nghi binh. Các trọng điểm vượt khẩu nhập tuyến đường 12 và đường 20 được củng cố vững chắc, có khả năng loại trừ thủ đoạn địch đánh dứt điểm bóp nghẹt tuyến chi viện chiến lược ngay từ địa đầu.

Đường 16 và đường 18 mới mở thông, tuy chưa vững chắc, nhưng có tác dụng hỗ trợ, hình thành một hệ thống vượt khẩu có chính diện khoảng 180 km, góp phần căng kéo địch, làm mỏng sức tấn công của chúng. Đường ống dẫn xăng dầu từ Ra Mai đã tiến vào cánh rừng già phía nam Bản Cọ, bắt đầu được vận hành, tạo thêm một mũi tiến công sắc bén giáng vào âm mưu ngăn chặn của địch.

Ngày 22 tháng 12 năm 1969, lễ khánh thành đường ống được tổ chức. Tư lệnh Đoàn 559, Cục trưởng Cục Xăng dầu Phan Tử Quang, đồng chí Mai Trọng Phước, cán bộ trực tiếp chỉ huy xây lắp đường ống đã tới dự. Trước hàng quân, Tư lệnh nói:

“Sự kiện đưa vào vận hành đoạn đầu của tuyến đường ống dẫn xăng dầu chiến lược nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam đã tăng thêm một tuyến vận tải mới, một binh chủng mới, một phương thức vận tải xăng dầu hiện đại. Từ nay sẽ thanh toán được sự tổn thất lớn trong chiến tranh do việc vận chuyển phuy hoặc téc xăng dầu bằng phương tiện ô tô. Đây là một bước ngoặt quyết định đảm bảo vận tải hàng hóa và cơ động binh khí, kỹ thuật quy mô lớn... ".
 
Tư lệnh thay mặt Đảng ủy - Bộ Tư lệnh 559 chân thành cám ơn Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần là kiến trúc sư tuyến đường ống, cảm ơn Cục Xăng dầu, cảm ơn cán bộ, chiến sĩ công binh, vận tải, thông tin, thanh niên xung phong, cán bộ, chiến sĩ đường ống đã đổ biết bao công sức, xương máu mới có được tuyến đường ống với dòng chảy thần kỳ này. Sau buổi lễ, lần đầu tiên mọi người được chứng kiến một công trình đặc biệt: 4 vòi tiếp xăng, tiếp một lúc cho một tiểu đoàn xe hết 1 giờ 30 phút mà trước đây phải mất 3 giờ.

Những hạ tầng cơ sở khác như bãi trú đậu xe, bàn đạp xuất kích, khu kho, trạm xưởng, điểm chốt của đội phẫu thuật và đội điều trị, sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy tiền phương, trạm chỉ huy giao thông, điểm chốt kích kéo cứu xe đều được các binh trạm xây dựng đồng bộ, liên hoàn, nâng cao sức tiến công trong vận chuyến. xử lý các tình huống nhanh và kịp thời.

Đế đảm bảo an toàn, giữ vững tinh thần cho lái xe, công binh đã xây dựng khá kiên cố mấy vạn hầm trú ẩn và hàng trăm kilômét hào giao thông, phần lớn có cắm cờ bằng vải dù trắng để làm dấu hiệu trong đêm tối.

Cuối tháng 12 năm 1969, mọi hoạt động vận chuyển và chỉ huy chiến đấu hiệp đồng binh chủng từng bước đi vào quỹ đạo. Đảng ủy - Bộ Tư lệnh họp nhấn mạnh:

a) Về địch, trên các chiến trường Mỹ - ngụy đang ở thế đi xuống. Tuy nhiên, với hành lang của ta, địch đang cố gắng tập trung đánh phá quy mô lớn để ngăn chặn. Nhưng đó là sự cố gắng tuyệt vọng của kẻ thua trận đã bạc nhược.

b) Về thời tiết, trục dọc đã khô ráo, các ngầm sử dụng tốt, có thể vận chuyển liên tục theo quy cách của mùa khô, nhưng các đường ngang còn mưa dầm, lầy lội cục bộ.

c) Về ta, đến nay tổ chức các lực lượng căn bản đã ổn định. Thế trận mùa khô được triển khai hoàn chỉnh trên toàn tuyến. Các binh trạm đã ở tư thế sẵn sàng, cả ba phương thức vận chuyển đểu được chuẩn bị. Cán bộ, chiến sĩ có quyết tâm lớn. Tổ chức chỉ huy đã thông suốt, chặt chẽ, cơ sở kỹ thuật được bảo đảm, chân hàng vượt trội và được rải trên nhiều cung. Nguồn hàng từ Campuchia và Hạ Lào có triển vọng.

Từ những đánh giá trên, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh quyết định ngày 15 tháng 1 năm 1970 toàn tuyến ra quân "Tổng công kích" quy mô lớn. Đảng ủy nêu rõ:

Đợt "Tổng công kích" này có ý nghĩa chính trị và có vị trí quyết định đối với cả mùa khô. Vì vậy, tất cả các lực lượng phải phát huy sự sung sức, tiến công kiên quyết và mưu trí trong thế hiệp đồng binh chủng, giành thắng lợi ngay từ giờ đầu ngày đầu.

Toàn tuyến nhất tề nổi lửa khói, hình thành thế nghi binh chiến dịch, đưa kẻ địch vào thế bị động, rối loạn. Bộ Tư lệnh tổ chức chỉ đạo tập trung vào tập đoàn binh trạm phía bắc, đồng thời chỉ đạo các binh trạm phía nam tham gia phối hợp nhanh chóng hòa vào cao trào tổng công kích. Bộ Tư lệnh chỉ thị các thủ trưởng binh trạm phân công trực tiếp chỉ huy đội hình xe trên đường và trực chỉ huy ở sở chỉ huy cơ bản cũng như sở chỉ huy tiền phương. Các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần tổ chức các kíp trực ban 24/24 giờ trong ngày. Thủ trưởng các binh chủng phải bám đơn vị và có mặt trên mặt đường.

Để quán triệt nhiệm vụ, nêu cao quyết tâm trước khi bước vào đợt “tổng công kích", ngày 10 tháng 1 năm 1970, Hội nghị quân chính toàn Đoàn được triệu tập. Thủ trưởng quân chính các binh trạm, trung đoàn, phòng, cục và Bộ Tư lệnh đều nhất trí thời điểm ra quân thực hiện “tổng công kích" là ngày 15 tháng 1 năm 1970.

Trong thời gian gần một tháng trước khi bước vào đợt “tổng công kích", các lực lượng trên toàn tuyến đã bắn rơi 49 máy bay, có 19 chiếc rơi tại chỗ, 8 chiếc rơi ban đêm. Địch bị động, lúng túng song cường độ đánh phá ngày một tăng, nhưng hiệu suất không cao.
 
Vào 4 giờ chiều ngày 15 tháng 1 năm 1970, đợt "Tổng công kích" bắt đầu. Bộ Tư lệnh Đoàn chỉ thị các mũi tiến công chủ yếu là các binh trạm phía bắc tranh thủ vượt đường 9, tạo khối lượng dự trữ khoảng 2 vạn tấn để chủ động đối phó với trường hợp bị địch chia cắt.

Dựa vào thế cầu đường vững chắc và sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng của các lực lượng, ngay từ đầu bộ đội xe hơi ra quân rầm rộ. Các tổ mũi nhọn của tiểu đoàn xe táo bạo xông pha trên những chặng đường địch khống chế mạnh, mưu trí, lừa địch, tránh địch, phối hợp chặt chẽ với công binh, pháo binh mật tập vượt trọng điểm đúng lúc, kịp thời. Các lực lượng thực hiện nghi binh đồng loạt, làm cho địch bị động, phân tán, rối loạn, đánh chệch mục tiêu.

Lực lượng công binh tập trung vào việc chống phá hoại: san lấp hố bom, phá bom nổ chậm, phá bom từ trường và mìn vướng nổ đều thông thạo, cả ban đêm và ban ngày, vừa chống phá hoại, vừa mở thêm đường, vừa cải tạo mặt đường nâng tốc độ xe.

Ở hướng đông Trường Sơn, lợi dụng lúc địch còn sơ hở, Binh trạm 27 tổ chức thả trôi các phuy xăng trên sông Sê Băng Hiếng từ Chà Lì đến Bản Cọ cự ly 50 km giao cho Binh trạm 9. Đây là một phương thức vận chuyển độc đáo, tạo nên một hướng vượt khẩu bổ trợ quan trọng. Mỗi tháng hàng tới đích khoảng 1.000 tấn tạo điều kiện đẩy hàng tới đường 9 nhiều hơn.

Đợt 1 Tổng công kích giành thắng lợi toàn diện. Nhiều binh trạm vận chuyển 1 vạn tấn/tháng như: Binh trạm 12, Binh trạm 14, Binh trạm 31. Riêng Binh trạm 32 nâng lên 1 vạn rưỡi tấn/tháng.

Những điểm vượt chủ yếu cũng là nơi địch tập trung ngăn chặn quyết liệt, đều giành thắng lợi. Vượt trọng điểm cửa khẩu Xiêng Phan đạt 135,8%, vượt trọng điểm cửa khẩu cua chữ A - Ta Lê - Phu La Nhích đạt 113%, vượt trọng điểm Văng Mu - đường 9 đạt 103%, vượt trọng điểm La Hạp đạt 130%, vượt trọng điểm Bạc đạt 86%. Kế hoạch vận chuyển giao cho hai chiến trường xa nhất đều vượt chỉ tiêu: Tây Nguyên 118,3%, Nam Bộ 101,2%.

Nhiệm vụ đưa quân vào chiến trường và đón quân về hậu phương đạt trên 100% kế hoạch. Việc chuyển thương, bệnh binh ra hậu phương bằng xe cơ giới rút ngắn được trên 20 ngày 1 chuyến, nhưng cần phải có đệm chèn để giảm đau đớn cho thương, bệnh binh. Tư lệnh Đoàn đã báo cáo với Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, được Chủ nhiệm hứa sẽ gửi đệm vào trong thời gian sớm nhất.

Đợt 1 kết thúc thắng lợi. Không để lỡ thời cơ, Bộ Tư lệnh ra lệnh gấp rút chuẩn bị trong 2 ngày để tiếp tục "Tổng công kích" đợt 2.

Ngày 14 tháng 2. Đảng ủy Bộ Tư lệnh tổ chức Hội nghị cán bộ chủ trì các binh trạm, trung đoàn và cơ quan Bộ Tư lệnh nhằm rút kinh nghiệm đợt 1; quán triệt nội dung, nhiệm vụ chỉ tiêu, kế hoạch "Tổng công kích" đợt 2.

Vào Hội nghị, các đại biểu rất đau buồn khi được tin Trung tá Nguyễn Huệ - Binh trạm trưởng Binh trạm 9 vừa hy sinh do trúng bom B52 ở Bản Cọ trong đêm giao thừa khi đang trên đường đến Hội nghị.

Sau khi nghe Chính ủy và Tư lệnh báo cáo, Hội nghị đã thảo luận và thống nhất nhận đinh, Tổng công kích đợt 1 đã giành được thắng lợi giòn giã, toàn diện. Địch đã bộc lộ những âm mưu thủ đoạn nguy hiểm, gây cho ta nhiều khó khăn tổn thất. Mặc dù bị thất bại, sắp tới chúng vẫn có thể đánh mạnh hơn, thủ đoạn xảo quyệt hơn. Vì vậy, phải theo dõi chặt chẽ và kịp thời đối phó. Thời tiết là mối đe dọa nguy hiểm, nhưng ta đã vượt qua và đang ngày càng có lợi .

Về thế trận, tuy cục bộ còn chưa vững chắc, nhưng vẫn đang ổn định và có chiều hướng phát triển tốt.
 
Về lực tuy bị một số tổn thất, nhưng các đơn vị đang ở thời điểm sung sức. Hội nghị quyết tâm phát động "Tổng công kích" đợt 2 trên toàn tuyến nhằm:

- Cơ bản dứt điểm chỉ tiêu vượt khẩu trong cả mùa để chủ động chân hàng và tạo dự trữ cho chiến dịch.

- Thực hiện kỳ được khối lượng vượt đường 9 bằng ba phần tư kế hoạch cả mùa, tạo dự trữ chiến lược lớn để có điều kiện chuyển trọng tâm “tổng công kích" vào các binh trạm phía nam. Càng về cuối, càng phải tổ chức lực lượng đột kích mạnh, vươn sâu, vươn xa.

- Đối với các binh trạm tiếp giáp chiến trường, phải tranh cướp với trời, với địch, nắm vững thời cơ, tranh thủ dứt điểm kế hoạch.

- Để đảm bảo chắc thắng, phải tiếp tục mở thêm đường vòng, đường tránh những trọng điểm xung yếu, nắn lại đường, hạ độ dốc, mở rộng và san phẳng mặt đường nhằm nâng tốc độ xe, hạn chế hiệu quả đánh phá của địch, phải khẩn trương hoàn thành lập bể xăng bằng các xitéc 25m3 ở phía nam, đồng thời thi công nhanh đường ống, nối từ Bản Cọ tới ngã ba La Hạp để chủ động chân xăng khi trọng tâm "Tổng công kích" dồn xuống các binh trạm phía nam.

- Thực hiện đồng bộ mọi mắt xích, kết hợp mọi phương thức vận chuyển bổ trợ nhau, giữ vững tính nhịp nhàng cân đối, đẩy tổng công kích lên cao trào mới.

Ngày 16 tháng 2, toàn tuyến 559 đồng loạt xuất kích trên nhiều hướng với chính diện tiến công khoảng 150 km và chiều sâu khoảng 1.000 km. Phát hiện hoạt động quy mô lớn của ta, địch mở ngay một tam giác lửa tại Xiêng Phan – ATP - Văng Mu nhằm "thắt cổ họng" ở phía tây bắc đường 9, đồng thời mở thêm trọng điểm mới tại đèo 900 trên tuyến vượt khẩu đường 18 ở phía đông. Mỗi ngày địch huy động gần 700 lần/chiếc máy bay ném hàng vạn quả bom vào các trọng điểm. Nhưng bằng sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng, toàn tuyến vẫn giữ được quy mô, nhịp độ vượt khẩu, vượt đường 9, vượt La Hạp, vượt Bạc, vượt Chà Vằn vào các chiến trường.

Để thực hiện mục tiêu ngăn chặn, địch ra sức cải tiến vũ khí, thay đổi chiến thuật và quy luật đánh phá, sử dụng la de điều khiển bom đến mục tiêu, tăng cường hoạt động của máy bay AC 130 gắn khí tài quan sát bằng tia hồng ngoại, tăng cường trinh sát điện tử, mở rộng căn cứ xuất phát của không quân.

Đặc biệt, khi phát hiện tuyến đường ống dẫn xăng dầu của ta ngày càng vươn sâu vào chiến trường, không quân Mỹ huy động máy bay trinh sát, máy bay cường kích, máy bay chiến lược B52 đánh phá nhiều điểm, nhất là ở khu vực Pha Băng Nưa và Bản Cọ Có ngày, hàng chục lần/chiếc B52 ném bom rải thảm, phá nát cả một khu vực dài 3 km, bốc đi hàng trăm ống. Trong thời gian 5 tháng, ta phải thay thế 1318 ống, làm đi làm lại tới 4 lần.

Hàng ngàn bộ đội xăng dầu, bộ đột thông tin, thanh niên xung phong ngày đêm bám đường giành giật với địch từng giờ, từng phút vừa sửa đường, đặt ống, vừa rải thông tin, làm tuyến nghi binh... Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Tiểu đội trưởng Bùi Văn Ngạn dũng cảm cởi áo dập lửa cứu xăng. Lương Văn Định anh dũng vác ống vượt bom từ trường, bom kích nổ, bị trọng thương vẫn không rời vị trí. Đặng Thị Thanh Xuân khi hy sinh tay vẫn cầm chắc tổ hợp máy thông tin...

Phát hiện các tuyến đường B45 vào chiến trường Trị - Thiên; tuyến đường B46 vào Khu 5; tuyến đường 49 đi Xiêng Pạng (đông bắc Campuchia) đã khô ráo thuận lợi cho vận chuyển cơ giới, địch tăng cường trinh sát tìm những đoạn còn độc đạo đề đánh phá. Động Con Tiên (đường B45) trở thành một trọng điểm lớn bị địch đánh phá gây tắc.

Bộ Tư lệnh điều đồng chí Võ Sở làm Chính ủy cử đồng chí Bùi Đức Tạm - Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh và Nguyễn Văn Kỷ Tham mưu phó cầu đường xuống giúp binh trạm; điều Trung đoàn 83 công binh về mở đường tránh từ A Túc qua bắc Cô Ca Va tiến thẳng xuống A Lưới dài 70 km. điều Trung đoàn 4 mở đường tránh đi Trao dài 81 km. Sau 1 tháng chiến đấu quyết liệt ta mới phá được sự ngăn chặn của địch.
 
Phát hiện ta thả trôi hàng trên sông Sê Băng Hiếng, địch cho máy bay tốc độ chậm, bay thấp dọc dòng sông, xả đạn 20 ly làm cho hàng trăm phuy xăng và bao gạo bốc cháy hoặc chìm xuống lòng sông.

Tuy nhiên, trên toàn tuyến, đặc biệt, trên các hướng tiến công chủ yếu, thế trận cầu đường và sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng phát triển đến trình độ cao đã làm thất bại các thủ đoạn mới của địch.

Trong 30 ngày, toàn tuyến bắn rơi 63 máy bay, trong đó có 28 chiếc rơi tại chỗ. Không quân ta từ sân bay dã chiến Khe Gạt ở tây Quảng Bình cũng bất thần xuất kích làm rối loạn hoạt động của máy bay địch, tạo điều kiện cho đội hình xe đột kích liên tục.

Ngày 16 tháng 3, "Tổng công kích" đợt 2 kết thúc Các kế hoạch, đặc biệt là kế hoạch vượt khẩu, cơ bản hoàn thành.

Đánh giá "Tổng công kích" đợt 2, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Đoàn nhận định toàn tuyến thắng lợi lớn, các mục tiêu đề ra đều vượt trội. Song, việc tiếp cận sâu vào chiến trường còn hạn chế. Hoạt động của địch trong đợt 2 "Tổng công kích" đúng như dự kiến của ta. Sắp tới cũng chưa có thay đổi gì lớn về số lượng, về vũ khí, nhưng địch có.thể chuyển làn, đánh mạnh hơn các binh trạm phía nam. Cũng có thể địch cho bộ binh nống ra ngăn chặn một số điểm tiếp giáp chiến trường.

Từ tháng 3, thời tiết ở cao điểm mùa khô, tạo điều kiện cho ta nâng cao hiệu suất chiến đấu của mỗi binh chủng. Bộ Tư lệnh Đoàn 559 quyết định phải phát động "Tổng công kích" đợt 3 nhằm dứt điểm toàn bộ nhiệm vụ mùa khô 1969 - 1970; đồng thời sẵn sàng đón nhận kế hoạch bổ sung khi xuất hiện tình huống mới của chiến trường, chủ động chuẩn bị sớm hơn cho mùa khô tới. Mục tiêu chính của "Tổng công kích" đợt 3 là các binh trạm phía nam tổ chức đột kích mạnh vào các chiến trường: Trị - Thiên, Quân khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ.

Để đảm bảo chắc thắng, Bộ Tư lệnh tăng cường lực lượng xây dựng đường dây thông tin tải ba tới ngã ba biên giới ba nước; xây dựng đường ống dẫn xăng tới Bản Đông, lắp đặt một nhánh đường ống từ Bản Cọ (đường 18) kéo ngang sang Na Lai bảo đảm xăng cho các lực lượng trên tuyến đường 128B, phát triển đường giao liên tới Bù Gia Mập; cơ giới hóa vận chuyển đường sông từ A Tô Pơ (Hạ Lào) xuống Tra Chim (đông bắc Campuchia).

Bộ Tư lệnh ra lệnh cơ động 6 tiểu đoàn pháo cao xạ (8, 18, 12, 14, 26, 20) của các binh trạm phía bắc tăng cường cho các binh trạm phía nam từ La Hạp trở vào.

Ngày 18 tháng 3 năm 1970, "Tổng công kích" đợt 3 mở màn. Dựa vào thế vững chắc của cầu đường, sự bảo vệ có hiệu quả của bộ đội phòng không, sự hiệp đồng chặt chẽ giải phóng xe nhanh của lực lượng kho, sự nỗ lực nâng cao chất lượng kỹ thuật và khôi phục đầu xe của các xưởng sửa chữa, các tiểu đoàn xe các binh trạm phía bắc đường 9 đã chạy tới tốc độ 17-20 km/giờ. Từ 95% đến 100% số xe đạt cung độ 2 đêm/chuyến; 20% số xe quay vòng khép kín 1 đêm 1 chuyến. Hàng dồn dập chở vào chất đầy các kho ở khu vực nam đường 9.

Không quân địch hoạt động ráo riết, luôn thay đổi cách đánh trên địa bàn từng binh trạm, có lúc chúng đánh cuốn chiếu, có lúc từ hai đầu đánh giáp lại. Phong trào bắn rơi máy bay bay thấp được phát động Hiệu suất chiến đấu của bộ đội lên cao. Bình quân mỗi ngày các lực lượng cao xạ, công binh bắn rơi từ 2 đến 3 chiếc. Một số đơn vị đánh tốt như ngày 15 tháng 3 năm 1970, tiểu đoàn 22 bắn rơi 5 chiếc tại Văng Viếng, có 3 chiếc rơi tại chỗ. Ngày 21 tháng 4 tiểu đoàn 28 bắn rơi 6 chiếc tại đường B46, có 3 chiếc rơi tại chỗ.

Ngày 30 tháng 3, Bộ Tư lệnh ra lệnh cơ động toàn bộ lực lượng ô tô vận tải của Binh trạm 12 từ địa đầu tuyến chiến lược vào tăng viện cho Binh trạm 34. Trung tá Binh trạm trưởng Cao Đôn Luân trực tiếp chỉ huy 2 tiểu đoàn xe 101 và 770, vượt qua 3 binh trạm trên chặng đường dài 350 km vào bắc Bạc vận chuyển hàng xuống Chà Vằn, sớm dứt điểm kế hoạch chuyển hàng cho Khu 5 - Tây Nguyên và tạo điều kiện cho các binh trạm 50, 51 dứt điểm kế hoạch chuyển hàng cho Đông Nam Bộ.
 
Bộ Tư lệnh cũng ra lệnh cơ động chiến thuật theo lối cuốn chiếu. Điều 54 xe của Binh trạm 34 tăng cường cho Binh trạm 35. Điều tiểu đoàn ô tô 59 của Binh trạm 35 tăng cường cho Binh trạm 36, điều tiểu đoàn ô tô 53 của Binh trạm 31 và tiểu đoàn ô tô 60 của Binh trạm 32 tăng cường cho Binh trạm 33. Điều tiểu đoàn ô tô 965 của Binh trạm 33 và tiểu đoàn ô tô 52 của Binh trạm 14 tăng cường cho Binh trạm 41. Điều tiểu đoàn 93 công binh tăng cường cho Binh trạm 27. Điều 2 trung đoàn 10 và 83 công binh mở đường tránh Tăng Cát và đường vòng qua Bạc.

Phát hiện hoạt động của ta, địch cũng chuyển làn, đánh mạnh các tuyến phía nam đường 9. Trung bình mỗi ngày chúng huy động 200 phi vụ máy bay cường kích và 10 phi vụ máy bay B52 đánh vào các trọng điểm. Dốc Thơm, La Hạp, Bạc, Tăng Cát và Chà Vằn là những trọng điểm bị địch dội bom mạnh nhất. Các đơn vị pháo đánh trả rất quyết liệt nâng tổng số máy bay bị bắn rơi lên 73 chiếc trong đợt 3 “tổng công kích".

Tuy nhiên, do mật độ xe quá đông, đường chỉ có hai trục, một số đoạn là đường độc đạo, lại bị địch ngăn chặn quyết liệt nên khó cơ động vu hồi chuyển hướng làm cho chiến dịch phát triển chậm và chịu nhiều tổn thất. Hàng chục xe bị đánh cháy, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ bị thương vong ngay trong tuần lễ đầu đợt 3 "Tổng công kích".

Ngày 18 tháng 3 năm 1970, đế quốc Mỹ tiếp tay cho tập đoàn phản động Lon non Xirích Ma tắc đảo chính lật đổ Chính phủ Xihanúc, xóa bỏ chế độ trung lập của Campuchia, lôi cuốn nước này vào quỹ đạo chiến tranh. Cảng "Xihanúcvin" bị khóa chặt. Tiếp tế đường biển của ta bị cắt đứt. Các cơ sở hậu cần của chiến trường miền Đông Nam Bộ hoạt động trên đất Campuchia phải rút vào bí mật. Tuyến đường 559 ở hướng này gặp khó khăn lớn.

Ngày 30 tháng 4 năm 1970, lực lượng hỗn hợp Mỹ - ngụy Sài Gòn gồm trên 100.000 tên được máy bay pháo binh yểm trợ mở chiến dịch "Thần lửa" ào ạt tiến công vào vùng "lưỡi câu” thuộc tỉnh Công Pông Chàm giáp với Tây Ninh nhằm "cất vó” cơ quan đầu não của chiến trường, tìm diệt khối chủ lực và phá hủy căn cứ hậu cần của ta. Các đoàn hậu cần 50, 70, 82, 86, 100 của miền Đông Nam Bộ bị tổn thất nặng. Chiến trường Nam Bộ và Nam Tây Nguyên bị cắt đứt nguồn tiếp tế, lâm vào khó khăn nghiêm trọng.

Cùng thời điểm này, Mỹ tăng cường chiến tranh ở Lào, sử dụng một bộ phận quân Thái và quân ngụy Lào mở cuộc tấn công vào Cánh Đồng Chum, Xảm Thông, Long Chẹng ở Thượng Lào và Mường Phin ở Trung Lào, đồng thời cho không quân ném bom từng đợt vào các mục tiêu giao thông vận tải ở Quảng Bình và Nghệ An.

Để phá thế bao vây chiến lược mới của Mỹ, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất với Đảng anh em Lào, Campuchia mở đợt tiến công mới, mở rộng vùng giải phóng ở Trung - Hạ Lào và Đông Campuchia nối tiếp với Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, hình thành một căn cứ hậu phương chiến lược của các chiến trường Nam Đông Dương, đưa vận tải cơ giới lớn vào sâu đáp ứng kịp thời nhu cầu cách mạng ba nước.

Bộ Chính trị kịp thời chỉ thị cho bộ đội ta phối hợp với bạn tiến mạnh về phía tây Chủ động đánh nhanh, đánh mạnh, đánh liên tục, không hạn chế, tạo một bước chuyển biến quan trọng về cục diện chiến lược có lợi cho ta và bạn trong thời gian ngắn.

Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, trung tuần tháng 4 năm 1970, Bộ Tư lệnh mở đợt phản công đánh chiếm Kra Chim, Stung Treng, vượt sông Mê Kông, giải phóng Vây Riêng, Xiêm Riệt. Một lực lượng Bộ đội 559 phối hợp đánh Xiêng Pạng.
 
Bị thất bại lớn trên chiến trường Campuchia và trước sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ, ngày 30 tháng 6 năm 1970, Tổng thống Níchxơn buộc phải tuyên bố rút quân khỏi Campuchia.

Vùng cao nguyên rộng lớn tương đối bằng phẳng ở khu vực biên giới ba nước được giải phóng, gồm các tỉnh Sa Ra Van, A Tô Pơ và một nửa cao nguyên Bô Lô Ven của Hạ Lào, nối tiếp với 4 tỉnh đông bắc Campuchia: Ra Ta Na Ki Ri, Stung Treng, Kra Chim, Môn Đun Ki Ri men theo quốc lộ 13 xuyên Đông Dương, cặp theo bờ sông Mê Kông kéo dài về Nam Bộ, rồi từ miền Đông Nam Bộ đi ngược lên đường 14 qua Đồng Xoài, Phước Long, qua Tây Nguyên về Plây Khốc sang Phi Hà, đông tỉnh A Tô Pơ. Một căn cứ hậu cần chiến lược mới hình thành, có các trục đường cơ giới thủy, bộ, ngang, dọc tạo thế đứng và phát triển vững chắc cho tuyến 559.

Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng chỉ thị cho tuyến 559 tập trung lực lượng vận chuyển mọi nhu cầu vật chất giao cho hai chiến trường. Ý thức sâu sắc trách nhiệm to lớn của mình, các lực lượng Đoàn 559 nỗ lực cao độ, vượt qua bom đạn, vận chuyển giao cho chiến trường vượt khối lượng Bộ giao. Đồng thời, đưa 120 đoàn với 30.800 quân vào bổ sung cho chiến trường Nam Bộ, đưa 4.000 thương binh từ Nam Bộ ra hậu phương, tạo điều kiện cho chiến trường Nam Bộ phát triển thế chủ động tiến công.

Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Hậu cần chỉ đạo bảo đảm kịp thời cho tuyến 559 những nhu cầu bức thiết như phương tiện kỹ thuật, vật tư, xe pháo. Đặc biệt, đã thay đường ống xăng phù hợp, bảo đảm xe Zil 130 và các chủng loại xe khác, phát huy cao độ tính năng xe trọng tải 6 tấn, nâng cao sức đột kích, nhanh chóng dứt điểm kế hoạch trên các hướng.

Mặc dù một bộ phận lực lượng địch bi hút vào chiến trường Campuchia, địch vẫn đánh mạnh trên tuyến 559. Mỗi ngày địch huy động 600 lần/chiếc, đưa tổng số máy bay ném bom cả mùa lên tới 117.648 lần/chiếc. Trong đó, có 276 lần/chiếc máy bay chiến lược B52, tăng 10% so với mùa khô 1968- 1969. Số bom trúng đường lên tới 6.337 quả. Nhưng cho đến những ngày cuối cùng của chiến dịch mùa khô 1969- 1970, các lực lượng Đoàn 559 vẫn giữ vững nhịp độ vận chuyển.

Các cụm pháo ở La Hạp bắn rơi thêm 2 chiếc, cụm pháo ở Bạc bắn rơi 2 chiếc, cụm pháo ở Chà Vằn bắn rơi thêm 1 chiếc, cụm pháo ở Văng Mu bắn rơi 2 chiếc, nâng tổng số máy bay bị bắn rơi trong mùa khô 1969- 1970 lên 423 chiếc, có 180 chiếc rơi tại chỗ, 68 chiếc rơi đêm. Các trung đoàn công binh cơ động: 98, 279, 1, 10, 217 tiếp tục mở rộng các đường 18, 16, 45, 46, B70, B45, B46, đường tránh Tăng Cát, đường vòng Bạc... Các tiểu đoàn công binh chốt ở các trọng điểm bám chặt đội hình xe, bảo đảm cho xe lăn bánh liên tục.
Các ngầm, cầu, dốc, mặt đường tiếp tục được cải thiện trên các hướng, các đơn vị binh chủng hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ.

Đến ngày 16 tháng 4, kế hoạch giao hàng cho chiến trường Nam Bộ đạt 605% kế hoạch, chiến trường Trị - Thiên đạt 102% kế hoạch, chiến trường Tây Nguyên đạt 110% kế hoạch, chiến trường Khu 5 đạt 101% kế hoạch, chiến trường Nam Lào đạt 124% kế hoạch, đồng thời đã đảm bảo hành quân thực hiện 120% kế hoạch, đảm bảo cho nội bộ 94% kế hoạch, giao quân cho chiến trường gần 100% kế hoạch.
 
Nửa cuối tháng 4, trời bắt đầu đổ những cơn mưa lớn. Ngày 18 tháng 4, Bộ Tư lệnh ra lệnh kết thúc đợt 3 "Tổng công kích"; đồng thời kết thúc cơ bản chiến dịch mùa khô 1969- 1970. Ngày 20 tháng 4, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh họp đánh giá toàn bộ chiến dịch mùa khô 1969-1970 và đề ra nhiệm vụ chuẩn bị cho mùa khô 1970- 1971. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh thống nhất đánh giá: chiến dịch mùa khô 1969- 1970 hoạt động của ta và địch đã diễn ra ác liệt nhất, quy mô lớn nhất cả về không gian, thời gian và lực lượng tham chiến.

Tư tưởng tiến công được quán triệt trong.các giai đoạn và mọi hoạt động của ta từ chuẩn bị, thực hành, phát triển đến kết thúc chiến dịch. Đây cũng là chiến dịch thắng lợi giòn giã, toàn diện, toàn tuyến, lớn nhất từ trước tới nay, thể hiện sự trưởng thành về vận dụng và phát triển khoa học nghệ thuật quân sự của Đảng vào lĩnh vực vận chuyển chi viện chiến lược trong chiến tranh ngăn chặn quyết liệt của không quân Mỹ.

Đây cũng là chiến dịch được hậu phương miền Bắc, nhất là nhân dân các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, đặc khu Vĩnh Linh hết lòng chi viện; được Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh chỉ đạo chặt chẽ, được sự giúp đỡ to lớn của bạn Lào, sự phối hợp của các chiến trường và các quân, binh chủng, nhất là Quân chủng Phòng không - Không quân và Binh chủng Công binh.

Thắng lợi của chiến dịch đã góp phần đẩy mạnh tác chiến lớn trên các chiến trường.

Trong cuộc họp ngày 20 tháng 7 năm 1970, Thường trực Quân ủy Trung ương đánh giá về hoạt động của Đoàn 559:

"Đối chiếu với nhiệm vụ 1969-1970 mà Thường trực Quân ủy Trung ương giao thì Đoàn 559 đã giành được thắng lợi to lớn và toàn diện. Thắng lơi đó góp phần rất quan trọng vào chiến thắng của toàn quân và dân ta trên khắp các chiến trường. Đồng thời đã rút được nhiều kinh nghiệm mới, mở ra triển vọng mới về khả năng chi viện chiến lược ngày càng vững chắc trong những điều kiện khó khăn quyết liệt hơn".

Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi điện biểu dương: "Kế thừa các năm trước, mùa khô 1969- 1970 này, tuyến đường Trường Sơn đã thực hiện thành công bất ngờ, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ các chiến trường đánh lớn hơn, dài ngày hơn, rộng khắp hơn. Bộ Chính trị - Quân ủy Trung ương rất vui mừng. Thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, tôi nhiệt liệt chúc mừng cán bộ, chiến sĩ các binh chủng, thanh niên xung phong, dân công... đã làm nên thành tích xuất sắc năm 1970". Các Bộ Tư lệnh chiến trường Trị - Thiên, Quân khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ đều gửi điện chúc mừng thắng lợi của Đoàn 559.

Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 22 tháng 12 năm 1969 và Cách mạng Tháng Tám, năm 1970, Đảng, Nhà nước quyết định tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho 12 đơn vị và 4 cá nhân thuộc Đoàn 559.

Sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đem đến nguồn lực mới, có sức động viên to lớn bộ đội, thanh niên xung phong trên toàn tuyến phấn khởi quyết tâm giành thắng lợi lớn hơn nữa trong mùa khô 1970- 1971
 
V. MỘT CHIẾN TRƯỜNG TRONG CHIẾN TRƯỜNG LỚN

Sau những thất bại trong cuộc hành quân xâm lược Campuchia vào đầu năm 1970, Tổng thống Mỹ Níchxơn vẫn cho rằng kế hoạch "bình định" ở miền Nam đã có kết quả, quân ngụy Sài Gòn được xây dựng mạnh lên. Ở chiến trường miền Nam còn có 28 vạn quân Mỹ và 70 vạn quân ngụy. Ở chiến trường Cam-pu-chia có 12 vạn quân của Lon non. Ở chiến trường Lào có 8 vạn quân Hoàng gia và phỉ Vàng Pao cùng 10 tiểu đoàn quân Thái Lan. Với lực lượng quân sự hùng hậu. Níchxơn cho rằng cần tranh thủ hành động nhằm thực hiện mục tiêu của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh", tạo vốn chính trị để giành thắng lợi trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1972.

Đánh giá đúng bản chất hiếu chiến của Níchxơn và những âm mưu thủ đoạn mới của Mỹ - ngụy, Bộ Chính trị nhận định: Trong mùa khô 1970- 1971, địch có thể mở những cuộc tiến công quy mô vừa và lớn bằng lực lượng quân ngụy miền Nam là chủ yếu, có một bộ phận quân Mỹ hỗ trợ. Mục tiêu của địch là đánh vào Trung - Hạ Lào và vùng đông bắc Campuchia nhằm phá cơ sở cách mạng của hai nước bạn, đồng thời phá hủy cơ sở hậu cần và cắt đứt tuyến hành lang vận tải chiến lược của ta, cô lập chiến trường miền Nam, tiếp tục thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", giành thế mạnh trong đàm phán.

Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đề ra những chủ trương mới, trong đó nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ tuyến vận tải chiến lược và căn cứ hậu phương chiến lược của chiến trường ba nước Đông Dương.

Tháng 6 năm 1970, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng Chi viện tiền tuyến Trung ương nhằm động viên hơn nữa nỗ lực của quân và dân ở miền Bắc, phát huy sức mạnh của hậu phương lớn phục vụ các chiến trường. Đồng chí Đỗ Mười - ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, được Chính phủ cử làm Chủ tịch Hội đồng.

Bộ Chính trị phê duyệt đề nghị của Quân ủy Trung ương về việc thành lập Bộ Tư lệnh khu vực 470 trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn, nhằm xây dựng khu căn cứ chiến lược ở vùng biên giới giữa ba nước, trực tiếp vận chuyển phục vụ chiến trường Hạ Lào, đông bắc Campuchia, Tây Nguyên và Nam Bộ. Đồng chí Lê Đình Sum - Phó Tư lệnh Đoàn 559 được cử làm Tư lệnh. Đồng chí Bùi Đức Tạm - Phó Chính ủy Đoàn 559 được cử làm Chính ủy Bộ Tư lệnh khu vực.

Theo đề nghị của Bộ, Chính phủ ra quyết định bổ nhiệm các đồng chí Phan Hữu Đại, Vũ Quang Bình làm Phó Chính ủy; Hoàng Anh Vũ, Nguyễn Kỷ, Nguyễn Đức Phương làm Phó Tư lệnh. Nhưng sau đó đồng chí Lê Đình Sum được Bộ Tư lệnh cử phụ trách Bộ Tham mưu. Đồng chí Nguyễn An vào thay đồng chí Lê Đình Sum. Đồng chí Phan Hữu Đại được cử làm Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị. Đồng chí Cao Tâm vào thay đồng chí Phan Hữu Đại.

Cơ quan Bộ Tư lệnh gồm các đồng chí: Trần Vinh - Tham mưu trưởng tác chiến, Hoàng Anh Vũ kiêm Tham mưu trưởng vận chuyển, Chu Minh Đông - Tham mưu trưởng công binh, Vũ Quang Bình kiêm Chủ nhiệm chính trị, Nguyễn Tương Phùng Chủ nhiệm hậu cần.

Nhiệm vụ của Sư đoàn 470 là trực tiếp vận chuyển phục vụ chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên, Hạ Lào và đông bắc Campuchia; xây dựng căn cứ địa nam Đông Dương; chiến đấu bảo vệ tuyến vận chuyển chiến lược khu vực cực nam; giúp bạn xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng; khai thác nguồn hàng tại chỗ; đẩy mạnh tăng gia sản xuất, bảo đảm tự tức một phần lương thực.

Phạm vi hoạt động của Sư đoàn được xác định từ khu vực ngã ba biên giới trở vào Plây Khốc và đường ngang số 49 từ Phi Hà đến Tà Ngâu; đường sông Sê Kông, Sê Xan, Mê Kông từ Sê Ca Mán đến Kra Chim (Campuchia). Bộ Tư lệnh Sư đoàn được giao trách nhiệm như tiền phương của Bộ Tư lệnh 559, trực tiếp quan hệ với các chiến trường ta, bạn; nắm bắt và bảo đảm kịp thời các yêu cầu chi viện của các chiến trường, đồng thời xử lý các tình huống cấp thiết. Bộ Tư lệnh Sư đoàn được quản lý 3 binh trạm (37, 50, 51), trung đoàn 4 công binh và một số đơn vị trực thuộc khác.
 
Ngày 26 tháng 6 năm 1970, Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng triệu tập Bộ Tư lệnh 5 59 ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mùa khô 1970- 1971. Đoàn gồm các đồng chí: Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên, Chính ủy Vũ Xuân Chiêm, Phó Tư lệnh Nguyễn Lang, Phó Chính ủy Bùi Đức Tạm.

Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương, Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Trung tướng Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh.

Đồng chí Bộ trưởng nêu rõ: Từ khi Lon non nắm chính quyền ở Campuchia, cảng Xihanúcvin bị khóa chặt, tuyến vận chuyển chiến lược 559 trở thành tuyến duy nhất thực hiện nhiệm vụ chi viện từ miền Bắc vào miền Nam.

Vì vậy một trong những mục tiêu chiến lược rất quan trọng của Mỹ là dùng sức mạnh tổng lực cắt đứt tuyến đường Hồ Chí Minh, nhằm loại bỏ thảm họa đối với chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của chúng.

Sắp tới chúng sẽ đặc biệt chú trọng đánh phá vùng Trung - Hạ Lào và vùng đông bắc Campuchia. Không những bằng không quân, biệt kích mà có thể dùng những lực lượng bộ binh lớn của ngụy quân miền Nam, Lào, Thái Lan và Cam pu chia, khi cần có thể dùng cả bộ binh Mỹ để mở cuộc tiến quân bằng binh chủng hợp thành quy mô lớn.

Hướng tiến công chủ yếu có khả năng là địa bàn đường 9, Nam Lào. Địch có thể tổ chức cuộc hành quân bằng lực lượng cơ động dự bị chiến lược, thực hiện chiến thuật "Trực thăng vận" đổ quân xuống các điểm cao nam - bắc đường 9, kết hợp mũi tiến công bằng bộ binh cơ giới vượt Lao Bảo tiến lên Sê Pôn, hợp điểm với quân ngụy Lào, Thái đánh từ Mường Pha Lan xuống nhằm chiếm toàn bộ đường 9, cắt hẳn tuyến chi viện chiến lược.

Vì vậy, Bộ Tư lệnh Trường Sơn phải theo dõi và chuẩn bị cho tình huống này. Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn có lực lượng binh chủng hợp thành mạnh, rất quen thuộc chiến trường, phải là một trong những lực lượng tác chiến chủ yếu của chiến dịch, đồng thời là lực lượng tại chỗ đánh địch và là căn cứ hậu cần chiến dịch.

Trong bất cứ tình huống nào, Bộ đội Trường Sơn cũng phải thực hiện sự chi viện tớn hơn, sâu hơn, xa hơn, bảo đảm được các yêu cầu trước mắt, đồng thời có một phần dự trữ cho các chiến trường. Mặt khác, phải chuẩn bị phương án sẵn sàng đối phó với mọi tình huống ngăn chặn của địch. Phải có kế hoạch cơ bản, toàn diện về xây dựng vùng ba biên giới thành căn cứ vững chắc về mọi mặt.

Ngày 30 tháng 6 năm 1970, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp quán triệt tình hình nhiệm vụ theo yêu cầu của Bộ Chính trị và sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương.

Căn cứ vào những nhận định của Quân ủy Trung ương và thực tiễn chiến trường, Đảng ủy Bộ Tư lệnh cho rằng hiện nay chiến tranh đã thực sự mở rộng ra cả ba nước Đông Dương. Nhân dân Đông Dương đã hình thành liên minh chống đế quốc và đã giành được thắng lợi, đang phát triển mạnh mẽ về thế và lực

Về phía Mỹ, chúng ngày càng nhận rõ giá trị chiến lược của tuyến hành lang đối với sự thành bại của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Sự thành công của tuyến vận tải chiến lược trong mùa khô 1970-1971 sẽ tạo điều kiện cho các chiến trường miền Nam có cơ sở để chuyển hướng tiến công, nắm lấy nông thôn thay đổi cục diện. Vì vậy, chứng sẽ dùng mọi thủ đoạn, tập trung lực lượng không quân ngày càng lớn đánh phá tuyến đường và vùng giải phóng của bạn, kết hợp bộ binh nống ra ngăn chặn.

Sắp tới địch có thể mở chiến dịch binh chủng hợp thành nống ra đường 9, ngã ba La Hợp, ngã ba Phi Hà hoặc Khâm Đức nhằm cắt tuyến vận tải của ta trên các hướng vào chiến trường. Ở phía tây, chúng có thể nống ra Sa Ra Van, A Tô Pơ, Mường Phin.

Có hai khả năng: một là sử dụng bộ binh lớn chốt thành tuyến phòng ngự, ngăn chặn; hai là dùng đơn vị vừa hoặc nhỏ để quấy phá ta. Chúng có thể kết hợp cả phía đông và phía tây, kết hợp cả quân Mỹ, quân ngụy miền Nam, ngụy Lào và quân Thái Lan. Thời gian nống ra có thể trong mùa mưa 1970, cũng có thể đầu mùa khô 1971.

Với nhận định đó Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 chủ trương trong mùa mưa 1970 chỉ rút một bộ phận nhỏ thuộc lực lượng cơ giới ra miền Bắc để củng cố, bổ sung phương tiện; tuyệt đại đa số ở lại để chuẩn bị thế trận cho nhiệm vụ chi viện chiến lược và chuẩn bị chiến trường, sẵn sàng đối phó với các cuộc hành quân của địch; đồng thời tiếp tục củng cố xây dụng lực lượng, huấn luyện bộ đội.
 
Do tầm quan trọng của mùa khô 1970-1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn được Bộ Tổng tham mưu, các tổng cục quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ. Về quân số, Bộ bổ sung 24.114 người, trong đó có 3.335 lái xe, 382 thợ sửa chữa, 124 kỹ thuật viên đường ống. Về phương tiện, bổ sung 3.657 ô tô các loại, 96 máy húc, 64 xe BTR phóng từ, 188 xe ben. Về lực lượng làm đường, tăng cường và phối thuộc 3 trung đoàn công binh (219, 83, 7). Về lực lượng tác chiến, phối thuộc 6 trung đoàn phòng không, trong đó có 4 trung đoàn cao xạ (282, 224, 284, 230) 2 tiểu đoàn cao xạ ( 105, 11) và 2 trung đoàn tên lửa phòng không (238, 275).

Để thống nhất thành một chiến trường, nhằm đối phó với mọi âm mưu của địch ngăn chặn từ trên không và mặt đất, bảo vệ tuyến vận tải chiến lược, củng cố và mở rộng vùng giải phóng của bạn, giúp bạn xây dựng cơ sở chính trị, quân sự, kinh tế một cách toàn diện, ngày 29 tháng 7 năm 1970, Quân ủy Trung ương quyết định sáp nhập Đoàn 968 quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia quân sự 565 ở Trung - Hạ Lào vào Đoàn 559.

Bộ cũng quyết định đổi tên Bộ Tư lệnh 559 thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn trực thuộc Bộ Quốc phòng, về Đảng trực thuộc Quân ủy Trung ương. Đoàn 968 quân tình nguyện được bố trí trên hai hướng: X (khu vực đường 9, Mường Phin, Pha Lan) và Z (khu vực A Tô Pơ, Bô Lô Ven, Sa Ra Van).

Theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Trường Sơn, tháng 10 năm 1970, Bộ Tổng tham mưu quyết định thành lập Trung đoàn cao xạ 593, Trung đoàn 592 đường ống, Binh trạm 39, Trường đào tạo lái xe 963, Trường quân chính 969, khôi phục lại Trung đoàn 591 cao xạ...

Bộ cũng cho phép thành lập Đoàn hậu cứ 571 đứng chân tại nam Quảng Bình có nhiệm vụ thu dung điều trị và an dưỡng thương, bệnh binh của nội bộ Đoàn; quản lý và tổ chức việc giao nhận xe, phương tiện kỹ thuật và quân bổ sung; huấn luyện bổ túc cán bộ đào tạo lái xe và thợ sửa chữa; làm công tác chính sách hậu phương; đón tiếp và hướng dẫn khách vào tuyến.

Như vậy, bước vào mùa khô 1970-1971, số quân của Bộ Tư lệnh Trường Sơn lên tới 62.992 người. Về đơn vị, có 4 sư đoàn và tương đương, gồm Bộ Tư lệnh khu vực 470, Sư đoàn bộ binh 968, Đoàn chuyên gia 565, Đoàn hậu cứ 571, 30 binh trạm, trung đoàn và tương đương, 144 tiểu đoàn và tương đương trực thuộc binh trạm.

Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quân uỷ Trung ương tăng cường cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn nhiều cán bộ cao cấp. Các đồng chí Hoàng Thế Thiện, Nguyễn Lệnh làm Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh; các đồng chí Cao Văn Khánh, Nguyễn Hòa, Hoàng Kiện, Nguyễn Quang Bích làm Phó Tư lệnh; đồng chí Nguyễn Quang Bích nguyên là Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân.

Chuẩn bị bước vào mùa khô 1970- 1971, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn ra một loạt quyết định: trước hết là xây dựng thế trận vận chuyển chiến lược kết hợp với thế trận tác chiến để đối phó với các cuộc hành quân bằng bộ binh của Mỹ - ngụy nhằm đánh phá cơ sở hậu cần, ngăn chặn tuyến hành lang chiến lược của ta; mở thêm hướng vượt khẩu đường 16 đảm bảo vận tải bằng ô tô và cơ động binh khí kỹ thuật tiếp cận nhanh với chiến trường Trị - Thiên, tạo ra một chính diện vượt khẩu vào Trường Sơn từ đông sang tây có khoảng cách 200 km; củng cố, nâng cấp, sửa chữa đường 20, đường 12, đường 19, khôi phục đường 23, 21 B, mở thêm 10 đường vòng, đường tránh liên tục tạo thành đường 22 từ Sa Đi vào Bạc chạy song song với đường 128; mở thêm bến vượt Sê Pôn, đảm bảo có 3 bến, 2 ngầm, 1 phà; bến vượt qua Tha Mé đảm bảo có 6 bến, 3 phà, 3 ngầm; bến vượt Bạc thứ hai ở đường 22, đảm bảo có 2 phà, 1 ngầm; làm cầu nổi ở các sông hẹp.
 
Cuối tháng 9, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào làm việc với Bộ Tư lệnh Trường Sơn tại tỉnh Quảng Bình. Tham gia làm việc có một số đồng chí trong Bộ Tư lệnh: Đồng Sĩ Nguyên, Cao Văn Khánh, Hoàng Thế Thiện, Lê Xy, Nguyễn Lang, Lê Đình Sum.

Sau khi nghe đồng chí Đồng Sỹ Nguyên báo cáo mọi mặt công tác trên tuyến, Đại tướng nêu rõ: Theo dự đoán của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 18, địch có thể trở lại ném bom, bắn phá miền Bắc và mở rộng chiến tranh trên đất Lào và Campuchia để củng cố chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".

Trên các chiến trường miền Nam, ta đang phát triển mạnh, khả năng Mỹ ngụy có thể sử dụng binh lực lớn, cắt đứt tuyến vận chuyển chi viện 559. Trước mắt, Bộ Tư lệnh Trường Sơn phải bằng mọi nỗ lực đảm bảo vận tải chi viện chiến lược cho các chiến trường. Đồng thời, phải phối hợp với bạn Lào tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thêm đất đai, bảo vệ vững chắc tây Trường Sơn, nhanh chóng mở đường đông Trường Sơn thông suốt từ Cù Bai (tây Quảng Trị) đến phía tây tỉnh Thừa Thiên. Mở nhanh đường 71 vào hướng Bình Điền (tây Thừa Thiên) chuẩn bị nối đường từ A Lưới đến Khâm Đức (Quảng Nam). Chuẩn bị kế hoạch đảm bảo và phối hợp với bộ đội chủ lực của Bộ đánh địch có hiệu quả nhất nếu chúng liều lĩnh mở cuộc hành quân lên tây Trường Sơn.

Đầu tháng 11 năm 1970, Mỹ - ngụy âm mưu sử dụng binh lực lớn, cắt hẳn tuyến Trường Sơn cả đông và tây ở khu vực đường 9 từ Lao Bảo trên đất Việt Nam đến Mường Phìn trên đất bạn Lào bằng một cuộc hành quân lớn của các binh đoàn thiện chiến. Mỹ sẽ chốt một lực lượng không quân ở Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, trên các tàu sân bay ngoài biển và các căn cứ ở Thái Lan nhằm thực hiện công thức: bộ binh ngụy Việt - Lào - Thái cộng với chỉ huy, hỏa lực và hậu cần Mỹ.

Biết được kế hoạch này, Bộ Tư lệnh đã báo cáo với Tổng Tham mưu trưởng các mặt chuẩn bị đường sá, tác chiến bộ binh, phòng không, thông tin, khả năng vận chuyển chiến lược và phục vụ chiến dịch nếu xảy ra chiến sự ở đường 9, cũng như khả năng của Bộ đội Trường Sơn và bạn Lào tác chiến trên địa bàn phía tây Trung - Hạ Lào.

Căn cứ vào phán đoán của Trung ương và Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn chủ động chuẩn bị bốn nhiệm vụ cấp bách:

Một là, giữ vững và đẩy mạnh vận tải chiến lược, tranh thủ dồn nhanh hàng vào nam đường 9, chủ động đối phó khi địch cắt đứt đường 9.

Hai là, chuẩn bị chiến trường, tổ chức vận chuyển chiến dịch đảm bảo hậu cần trực tiếp cho mặt trận đường 9, cả Đông, Tây Trường Sơn và Trị - Thiên.

Ba là, thống nhất chỉ huy các lực lượng tác chiến phía tây Trường Sơn thành một cánh của chiến dịch đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh chiến dịch đường 9. Đảng ủy Bộ Tư lệnh nhận định: nếu địch hành quân đánh chiếm tuyến vận tải chiến lược, nhất định chúng phải thực hiện chiến thuật trực thăng vận một cách quy mô, vì vậy cần bố trí lại thế trận tác chiến phòng không, điều các trung đoàn, tiểu đoàn cao xạ tổ chức thêm nhiều phân đội súng máy 12,7 ly, 14,5 ly chốt ở các điểm cao nam - bắc đường 9, nơi dự kiến chúng sẽ đổ quân tạo thành lưới lửa mạnh, đánh bại chiến thuật trực thăng vận, đưa chúng vào thế bị động, rối loạn ngay từ đầu.

Bốn là, phối hợp với bạn Lào tiêu diệt cánh quân ngụy Lào và Thái ở phía tây, đẩy chúng ra xa, đảm bảo an toàn tuyến vận chuyển chiến lược và không cho chúng hợp điểm với cuộc hành quân của Mỹ - ngụy từ hướng đông lên.

Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh quyết định triển khai ngay nhiệm vụ vận chuyển chiến lược, đồng thời chuẩn bị tích cực các nhiệm vụ khác.

Phương án làm đường goòng được hủy bỏ vì thiếu tính khả thi nên phương án đẩy nhanh việc xây dựng hướng vượt khẩu đường 16 nhằm đón trước thời cơ khi xảy ra chiến sự lớn trên đường 9, đường 16 sẽ trở thành hướng chủ yếu để tập kết lực lượng, cơ động binh khí kỹ thuật chiến dịch.

Đẩy mạnh xây dựng tuyến đường ống kéo vào Mường Noọng, xây dựng các kho xăng dầu bằng bể sắt, các phuy cố định và bể cao su tại Bản Đông, Mường Noọng, La Hạp. Xây dựng mạng thông tin kéo dài tới Bộ Tư lệnh khu vực 470 và trục đường 16.

Hiệp đồng với Cục Vận tải - Tổng cục Hậu cần tổ chức cho các binh trạm 25, 26 vượt cung lên phía trước, đẩy hàng vượt khẩu sâu hơn tạo điều kiện cho các binh trạm phía nam vượt cung.
 
Trung tuần tháng 10 năm 1970, việc chuẩn bị thế trận cơ bản hoàn thành. Nhưng khi quân ta chuẩn bị ra quân thì không quân Mỹ tập trung đánh phá dữ dội các cửa khẩu và một số trọng điểm quan trọng.

Để kéo bớt địch và giảm mật độ xe ở hướng đường 20, Bộ Tư lệnh nhanh chóng tăng cường lực lượng công binh khôi phục hướng vượt khẩu đường 12, tăng cường Trung đoàn cao xạ 284 và 1 tiểu đoàn tên lửa bảo vệ hướng này. Tham mưu phó vận tải Nguyễn Việt Phương được cử xuống phụ trách khôi phục hướng vượt khẩu đường 12.

Ngày 1 tháng 12 năm 1970, trên đường 20, bộ đội phòng không phóng 1 quả tên lửa vào tốp B52 đang hướng tới trọng điểm Chà Là. Tuy không diệt được mục tiêu nhưng đã làm cho địch phải ngừng đánh phá Chà Là 14 ngày, tản ra đánh các trọng điểm khác, chủ yếu tập trung vào cửa khẩu đường 16 và 18. Sau khi đường tránh QZ25 hoàn thành, điểm Chà Là được giải tỏa, đường 20 - hướng đột kích chủ yếu thông suốt hên tục.

Từ tháng 10 đến tháng 12, các binh trạm gặp khó khăn nghiêm trọng do cản trở của thời tiết và địch đánh phá. Các đồng chí trong Bộ Tư lệnh đã phân công nhau xuống các binh trạm chỉ đạo khắc phục. Các cấp chỉ huy binh trạm đều ra mặt đường động viên bộ đội chống phá hoại, làm đường.

Đầu tháng 12 năm 1970, thời tiết ngày càng thuận lợi, các đơn vị tranh thủ đẩy nhanh tiến độ xây dựng thế trận mùa khô. Sau khi kiểm tra toàn diện, Bộ Tư lệnh quyết định: hoàn thành gấp đường tránh Phu La Nhích và Ka Tốc, phá triệt để thế độc đạo ở hướng chủ yếu đường 20; mở rộng toàn bộ đường 16; củng cố và bảo vệ các căn cứ xuất phát tiến công, tăng cường sửa chữa, nâng cao hệ số kỹ thuật phương tiện vận tải cơ giới và tỷ lệ lái xe; bảo đảm vững chắc khâu nhiên liệu, lập chân hàng cân đối trên các cung, bảo vệ vững chắc bốn hướng vượt khẩu.

Bộ Tư lệnh nhấn mạnh yêu cầu tổ chức chỉ huy đồng bộ cả phía trước, phía sau, chỉ huy hai đầu trọng điểm và chính giữa trọng điểm, củng cố các mạng thông tin để chỉ huy hiệp đồng binh chủng tại sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh và các binh trạm; điều chỉnh vị trí chỉ huy, cử cán bộ có năng lực vào các binh trạm trọng yếu; tích cực chuẩn bị đội ngũ cán bộ; tăng cường chỉ đạo xây dựng hậu cứ, đặc biệt là chỉ đạo khâu bổ sung tiếp nhận người và phương tiện kịp thời cho các binh chủng.

Với hàng loạt biện pháp được các cấp ráo riết thực hiện, ngày 15 tháng 12 năm 1970, Bộ Tư lệnh ra lệnh mở màn "chiến dịch" mùa khô 1970- 1971.

Phát hiện hoạt động của ta, địch tăng cường ngăn chặn trên toàn tuyến. Các loại máy bay B52, cường kích, liên tục dội bom trên hầu hết các trọng điểm. Tuy nhiên, do đã có kinh nghiệm và bản lĩnh chiến đấu vững vàng, nên sau 10 ngày ra quân, đội hình vận tải ngày càng phát huy sức mạnh.

Đến cuối tháng 12 năm 1970, vận chuyển vượt đường 9 được 12.708 tấn, vượt Bạc 6.384 tấn, vượt Chà Vằn 1.156 tấn, giao cho Trị - Thiên và Khu 5 được 1.358 tấn.

Ngày 10 tháng 12, 3 tiểu đoàn ngụy Lào và Thái nống ra khu vực Mường Phin, uy hiếp trục vận chuyển hướng tây, Trung đoàn 29 bộ binh được lệnh của Bộ Tư lệnh đã phối hợp với phân đội xe tăng, pháo mặt đất đánh bật chúng về Đồng Hến.

Với phương châm vừa đẩy mạnh vận chuyển chiến lược, vừa khẩn trương chuẩn bị đối phó với cuộc hành quân lớn của bộ binh địch đánh chiếm Sê Pôn, Tha Mé cửa ngõ vận chuyển tiến vào các binh trạm phía nam, Bộ Tư lệnh điều 2 trung đoàn công binh 10, 98 mở trục ngắn 36 km đường 129 từ Na Phi Lăng qua Na Ka Nông xuống đường 9, nối với đường 23 tạo thành một trục vận chuyển phía tây chọc thẳng xuống Sa Ra Van.

Tranh thủ thời cơ khi địch chưa mở cuộc hành quân lên đường 9, Bộ Tư lệnh yêu cầu đẩy nhanh hàng vượt đường 9, đồng thời chủ động phối hợp với các quân binh chủng chuẩn bị tiêu diệt sinh lực địch, bảo vệ an toàn tuyến hành lang chiến lược.
__________________
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top