• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Trường Sơn - Đường khát vọng

Cuối tháng 11 năm 1967, Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 họp bàn chuyên đề về công tác giúp bạn xác định nội dung, phương châm và phương pháp cũng như phạm vi địa bàn hoạt động, tổ chức, lực lượng giúp bạn. Theo thỏa thuận với phái đoàn chuyên gia Nam Lào, Đoàn 559 phụ trách giúp bạn trong 11 huyện trên hành lang. Do địa bàn rộng lớn và phức tạp, Đảng ủy chủ trương mọi lực lượng trên tuyến đều phải tham gia công tác giúp bạn, lấy đội ngũ chuyên gia làm nòng cốt lấy binh trạm là đơn vị tổ chức thực hiện phụ trách từ một đến hai huyện trong địa bàn hoạt động của mình.

Phương châm công tác giúp bạn là "Dựa vào đường lối chủ trương của Đảng bạn, hiệp đồng chặt chẽ với đoàn chuyên gia Nam Lào, phát huy sức bạn là chính nhưng phải tích cực trực tiếp giúp bạn, cùng bạn làm, tránh làm thay”.

Trước sự phát triển của nhiệm vụ giúp bạn, Bộ Tư lệnh quyết định chuyển đội ngũ cán bộ dân vận của Đoàn thành cán bộ chuyên gia giúp bạn, tăng cường thêm cán bộ và tổ chức các lớp tập huấn. Sau khi nghị quyết về công tác giúp bạn của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh được triển khai, tình đoàn kết giữa Đảng, chính quyền, các đoàn thể và nhân dân đia phương dọc hành lang với Bộ đội 559 phát triển rất tốt đẹp.

Ngày 28 tháng 12 năm 1967, chiến dịch vận chuyển đợt một kết thúc thắng lợi, Đảng ủy Bộ Tư lệnh nhận định tình hình toàn tuyến đã xuất hiện những nhân tố mới đang phát triển theo chiều hướng thuận lợi.

Tháng 1 năm 1968, thời tiết trên trục dọc hành lang chuyển sang cao điểm mùa khô. Đường hết trơn lầy, mực nước sông cạn, sử dụng được đường ngầm. Nhiều đường vòng, đường tránh được mở thêm. Mặt đường được cải thiện, đảm bảo tốc độ xe từ 20 - 25km/giờ. Bộ đội các binh chủng đang ở thời điểm sung sức; trình độ chiến đấu hiệp đồng binh chủng được nâng cao. Khí thế bộ đội được giữ vững, lại được thắng lợi của các chiến trường cổ vũ...

Về địch, Bộ Tư lệnh dự đoán trong tháng 1 và các tháng tiếp theo địch sẽ đánh mạnh hơn, thủ đoạn xảo quyệt hơn, vũ khí mới hơn, nhưng mức độ chưa vượt quá khả năng đối phó của ta.

Từ nhận định trên, Bộ Tư lệnh quyết định mở đợt 2 chiến dịch với quy mô lớn hơn, tốc độ tiến công nhanh hơn, cung độ thọc sâu hơn. Thời gian đợt 2 là một tháng (từ 2/1/1968 - 2/2/1968). Khối lượng vận chuyển phải thực hiện là 19.300 tấn. Để đảm bảo thắng lợi nhiệm vụ, Bộ Tư lệnh đề ra một loạt biện pháp bổ sung, nhấn mạnh những nội dung của nghị quyết trước đây:

- Bằng mọi biện pháp nâng đầu xe hoạt động lên 90% tổng đầu xe biên chế. Hệ số này ngang với hệ số của những đơn vị được trang bị hoàn toàn xe mới hoạt động trong thời bình.

- Giải quyết khâu cầu đường, đảm bảo tốc độ xe từ 20 đến 25km/giờ.

- Kéo dài cung vận chuyển thêm 20 - 30km để phát huy sức đột kích của xe, tiết kiệm đầu xe hoạt động và tăng thời gian xe lăn bánh trong đêm.

- Kiên trì chiến thuật vận tải đội hình tiểu đoàn, đại đội tập trung. Tùy điều kiện đường cầu và địch đánh phá mà kết hợp thật tốt cung dài, cung ngắn, kết hợp vận chuyển đường bộ và đường sông.

- Tập trung hỏa lực tầng cao, tầng thấp, tiêu diệt nhiều máy bay ngay trên trọng điểm kết hợp cơ động hỏa lực súng máy 12,7 ly, 14,5 ly diệt máy bay ngay trên đội hình xe.

- Phát triển mạng thông tin xa hơn, vững chắc hơn. Trước mắt tiến sâu vào chiến trường Trị - Thiên.

- Tăng cường chỉ huy chiến đấu hiệp đồng binh chủng ở các trọng điểm xung yếu.

- Tổ chức cứu người, cứu xe, cứu hàng kịp thời, nhanh chóng.

- Tập trung nuôi dưỡng, giữ vững sức khỏe bộ đội, đặc biệt là đội ngũ lái xe.

- Tiến hành công tác chính trị tư tưởng thường xuyên, liên tục, sâu sắc, sôi nổi; đoàn kết, lạc quan, tin tưởng, cảnh giác.
 
Những nội dung chỉ đạo của Đảng ủy Bộ Tư lệnh được các cấp triển khai nhanh chóng. Lực lượng công binh được huy động tối đa vào việc cải thiện mặt đường. Trong vòng một tuần, cầu đường các binh trạm bắc đường 9 đảm bảo tốc độ xe 25 km/gỉờ. Các cung vận chuyển được điều chỉnh lại. Cung từ cụm C (km 68 đường 20) vào Lùm Bùm cự ly khoảng 70 km nay đi thẳng vào Tha Mé. Cung từ Tha Mé vào La Hạp đi thẳng đến Động Con Tiên, Hà Tía (đường B45). Cung La Hạp vào Sê La Măng nay đi thẳng vào nam Bạc.

Các Binh trạm 34 và 35 phối hợp chặt chẽ khai thông điểm vượt Bạc, mở thêm một số đường tránh và đường nghi binh, tranh thủ bất ngờ, lợi dụng bản Bạc cũ hoang tàn, cây dại mọc um tùm và những bờ cao dọc đường còn sót mấy cây che phủ, đào hầm xe, ngụy trang kiến thiết khu trung chuyển tiếp cận bến Bạc.

Các tiểu đoàn thông tin tập trung phát tuyến, lợi dụng cây rừng làm cột mắc đường dây tai ba xuống Động Con Tiên và vào Bạc. Bộ đội cao xạ nhanh chóng điều chỉnh lực lượng, bố trí theo phương án chốt đánh tập trung ở trọng điểm kết hợp cơ động trên phạm vi phụ trách. Bộ đội vận tải vận dựng nhiều biện pháp, nâng hệ số kỹ thuật lên 80%.

Thế và lực trên toàn tuyến được chuẩn bị khá tốt. Ngày 2 tháng 1 năm 1968, đợt 2 chiến dịch mở màn. Khí thế ra quân của các binh trạm rất rầm rộ. Các đoàn xe được ngụy trang chu đáo thực hiện chiến thuật đội hình tiểu đoàn hoặc đại đội tập trung tiến công theo chiều thuận tuyệt đối với tốc độ 20 - 25 km/giờ. Tại các trọng điểm, pháo binh giương cao nòng súng sẵn sàng nhả đạn khi máy bay đánh đội hình xe. Công binh áp sát mặt đường sẵn sàng khắc phục phá hoại, đảm báo thông xe hên tục.

Địch phát hiện ta hoạt động mạnh, nhưng chưa nắm được quy luật của ta vì vậy chúng đánh dàn trải trên các trọng điểm toàn tuyến. Do lực lượng phân tán lại bị ta giáng trả bằng sức mạnh chiến đấu hiệp đồng binh chủng kiên cường và mưu trí nên sự đánh phá của địch ít hiệu quả. Lợi dụng tình hình đó, bộ đội vận tải tiến công rất mạnh.

Nhưng do cung độ kéo dài, đội hình xe của các binh trạm tới đích chỉ khoảng 30 - 40%. Nhiều xe cũ, lái mới bị rớt lại ở cung cũ. Bộ Tư lệnh chỉ đạo Binh trạm 32 tổ chức ngay cung trung chuyển, sắp xếp lại đội hình vận chuyển, thực hiện chiến thuật đội hình mạnh chạy cung dài, đội hình yếu (xe cũ, lái mới) chạy cung trung chuyển, tổ chức tổ mũi nhọn đột phá cung dài quay vòng tiếp chuyển xe chạy cung trung chuyển. Chiến thuật trên đã đưa tỷ lệ xe đi cung dài tới đích 60 – 70%. Kinh nghiệm này đã được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các binh trạm.

Cùng với hoạt động chi viện chiến lược, hoạt động tác chiến mở rộng khu vực giải phóng của bạn ở Trung - Hạ Lào, nhằm bảo vệ an toàn tuyến vận tải chiến lược từ phía tây cũng được đặt ra cấp bách.

Ngày 4 tháng 1 năm 1968, Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên với danh nghĩa Tư lệnh Đoàn 559 kiêm Tư lệnh bộ đội tình nguyện, kiêm Trưởng đoàn cố vấn chuyên gia Trung - Hạ Lào đến làm việc với Đoàn chuyên gia quân sự 565, do thượng tá Hà Tuấn Khanh làm Tư lệnh, thượng tá Phạm Sinh làm Chính ủy, bàn kế hoạch mở đợt tác chiến mùa khô 1967 - 1968 mở đầu bằng đòn tiến công tiêu diệt địch ở thị xã Lào Ngám nhằm mở rộng hành lang 559 sang phía tây.

Lực lượng tham gia gồm các tiểu đoàn quân tình nguyện phối hợp với lực lượng vũ trang quân khu bạn. Đoàn 559 tăng cường cho Đoàn 565 một tiểu đoàn cao xạ 37 ly, một đại đội pháo mặt đất và 6 khẩu súng máy 12,7 ly cùng với cơ số đạn dự trữ. Thời gian mở màn đợt hoạt động là thượng tuần tháng 1 nhằm phối hợp với chiến dịch vận tải chiến lược Chủ trương này được đồng chí Phuma - Tư lệnh quân khu bạn nhất trí.

Ngày 12 tháng 1 năm 1968, quân ta nổ súng tiến công địch. Bị đánh bất ngờ, địch bỏ chạy tán loạn. Ngày 27 tháng 1 ta giải phóng thị xã Lào Ngám và một số khu vực quanh Sa Ra Van, A Tô Pơ với 47 xã và 1.045 dân; phá vỡ hệ thống phòng ngự của địch dọc tuyến Sê Đôn - A Tô Pơ. Hành lang 559 phía tây từ nam đường 9 đến Sa Ra Van dọc tây đường 23 được mở rộng.
 
Ngày 20 tháng 1 năm 1968, lực lượng chủ lực ta mở cuộc tiến công và vây hãm Khe Sanh - cứ điểm lớn nhất của Mỹ ở bắc Quảng Trị. Tiếp đó ngày 21 tháng 1 ta tiêu diệt chi khu quân sự Hướng Hóa, bức rút hệ thống phòng thủ của chúng trên đường số 9 từ Hướng Hóa đến Huội San cách Bản Đông 7km. Cuộc tiến công và vây hãm cứ điểm Khe Sanh đã chia lửa với tuyến 559, giảm áp lực của không quân Mỹ, tạo điều kiện cho tuyến 559 đẩy mạnh vận chuyển chiến lược; nhưng đồng thời cũng đặt tuyến 559 trước nhiệm vụ mới là tổ chức vận chuyển trực tiếp phục vụ mặt trận Đường 9 - Khe Sanh.

Thời điểm này quân vào dồn dập, khoảng 45.000 người, trong đó có một số đơn vị binh khí kỹ thuật, một tiểu đoàn tăng, hai tiểu đoàn pháo 122 ly và 85 ly, ba tiểu đoàn cao xạ 37 ly và 23 ly được các binh trạm tổ chức bảo đảm và chỉ huy hành quân đến các chiến trường đúng thời gian quy định và an toàn. Hai trung đoàn và hai tiểu đoàn bộ binh gồm 6.000 người được tổ chức hành quân bằng cơ giới. Trên đường hành quân bị máy bay địch săn đuổi ráo riết. Một tiểu đoàn khi qua trọng điểm Noọng Kà Đeng bắc đường 9 bị địch phát hiện, thả pháo sáng và bắn pháo. Tiểu đoàn 18 cao xạ đánh trả quyết liệt buộc địch phải ném bừa bom bi xuống và tháo chạy.

Linh cảm về một sự kiện lớn sẽ bùng nổ trên chiến trường, toàn tuyến bừng bừng khí thế. Cán bộ, chiến sĩ nô nức lập công với khẩu hiệu "Tất cả vì miền Nam ruột thịt. Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", công binh khẩn trương mở rộng và kéo dài cầu đường, pháo cao xạ đánh mạnh và hiệu quả, đội hình xe đột kích nhanh. Nhiều cán bộ, chiến sĩ các binh chủng lập thành tích xuất sắc trở thành lá cờ đầu toàn tuyến.

Tuy nhiên, các trục ngang vào Trị - Thiên, Khu 5 còn trở ngại lớn, vì mưa dầm, đường trơn lầy. Các ngầm qua sông A Sáp, Con Tôm ngập sâu từ 1,5m - 2m. Tuần đầu tháng, từ Động Con Tiên về A Lưới không một chuyến xe nào vào được

Ngày 8 tháng 1, trời ngớt mưa, Binh trạm 42 tổ chức đội hình 29 xe đi từ Động Con Tiên (km 34) vào Hà Tía (km 61) đường dài 27km dự định 2 đêm tới đích, nhưng 5 đêm mới đi được nửa đường. Đường lầy có chỗ bánh xe lún sâu từ 0,4m - 0,5m. Cán bộ, chiến sĩ lái xe tập trung kéo đẩy suốt đêm mới qua được vài chiếc. Hàng chục xe hư hỏng nằm rải rác dọc đường. Vận chuyển cơ giới bị tê liệt. Binh trạm 42 buộc phải huy động lực lượng tổ chức gùi thồ tiếp chuyển đồng thời ra sức chống lầy, khôi phục cầu đường.

Đến giữa tháng, trời mới tạnh ráo, thời tiết đi vào ổn định. Binh trạm tập trung xe đẩy gấp hàng vào, đáp ứng nhu cầu cấp bách của chiến trường Trị - Thiên và Khu 5.

Đến cuối tháng 1 năm 1968 toàn bộ kế hoạch vận chuyển cho các hướng cơ bản hoàn thành với khối lượng lớn nhất kể từ đầu mùa khô bằng 175% tháng 12 năm 1967. Cùng với việc hoàn thành cơ bản kế hoạch vận chuyển đáp ứng yêu cầu các chiến trường, Bộ đội 559 còn lập nhiều thành tích trong hiệp đồng chiến đấu, bắn rơi 31 máy bay, bảo vệ và giữ vững cầu đường thông suốt, nâng cao chất lượng mặt đường, mở thêm nhiều đường vòng, đường tránh, kéo dài mạng lưới thông tin, củng cố vững chắc thế trận.

Tuy nhiên, trong cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ địch chiếm ưu thế trên không và vũ khí, phía ta cũng chịu những tổn thất nhất định: 8 pháo, 15 xe vận chuyển bị đánh hỏng, trên 200 cán bộ, chiến sĩ bị thương vong.

Trước khi kết thúc chiến dịch vận chuyển 2 ngày, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh họp, đánh giá: trong tình hình địch đánh phá ác liệt hơn bao giờ hết, nhưng với sự dũng cảm, sáng tạo và nỗ lực vượt bậc của các lực lượng, đợt hai chiến dịch đã thu được thắng lợi giòn giã, toàn diện. Bộ đội trưởng thành một bước quan trọng. Đảng ủy chủ trương trong điều kiện các yếu tố thuận lợi vẫn còn và đang phát triển, yêu cầu bảo đảm của chiến trường rất lớn và cấp bách, trên đà thắng lợi đã đạt được, toàn tuyến cần dấy lên thành cao trào mới, tiếp tục chuyển hàng chiến dịch trong tháng 2 với khối lượng vận chuyển cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu lớn của chiến trường và chủ động trước mọi tình huống.
 
Chủ trương của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh được truyền gấp xuống các đơn vị đúng thời điểm sắp bước sang năm mới. Cán bộ, chiến sĩ toàn tuyến hân hoan đón nhận với tinh thần vừa chiến đấu, vừa đón tết, quyết lập thành tích cao nhất để mừng xuân dâng Đảng.
Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968 - vào lúc giao thừa Tết Mậu Thân, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 chăm chú lắng nghe lời chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

"Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ.
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta!".

Xúc động, phấn khởi và tràn ngập niềm tin, Bộ đội Trường Sơn lao vào cuộc chiến đấu mới với quyết tâm mới.

Ngày 1 tháng 3, toàn tuyến bước vào "Tổng công kích". Lúc này, hoạt động tác chiến ở các chiến trường miền Nam tạm lắng để chuẩn bị cho đợt mới. Không quân địch tập trung đánh phá tuyến 559 dữ dội hơn trước. Đoạn đường qua Tha Pa Chôn bị đánh ác liệt suốt một tháng liền. Đại đội 5 (tiểu đoàn 25) dũng cảm bám đường, san lấp hố bom, đồng thời khắc phục địa hình mở đường tránh nên chỉ chịu tắc giờ.

Đường qua Đèo Long cũng bị địch đánh phá và khống chế liên tục. Binh trạm 35 đã tổ chức chiến dịch "giải phóng Đèo Long" huy động nhiều lực lượng và cơ quan tham gia, mở được con đường tránh nên trọng điểm này cũng được giải tỏa. Đèo Văng Mu, dốc Tà Beng, dốc La Hạp, động Con Tiên bị đánh phá ngày đêm. Các đơn vị phòng không chuẩn bị tốt, vừa tập trưng vừa cơ động, đánh giỏi, bắn rơi 40 máy bay, bắn bị thương 90 chiếc.

Các đơn vị xe đều thi đua tăng cung, vượt chuyến. Binh trạm 42, Binh trạm 37 hoàn thành vượt kế hoạch. Hàng giao cho các chiến trường đạt từ 106 đến 131%. Tuy vậy số xe bổ sung vào chậm nên không kịp cho kế hoạch mới. Đến ngày 24 tháng 3 Tổng cục Hậu cần bổ sung 442 xe nhưng hỏng 89 xe nằm rải rác từ Mụ Giạ đến đường 9. Tình trạng kỹ thuật các xe bổ sung cũng rất xấu, hầu hết là xe cũ huy động từ các đơn vị phía sau. Riêng số xe Zil 130 chưa phát huy được vì đã có mưa, đường trơn không đi nổi. Vì vậy số tấn/xe sau khi được bổ sung vẫn thấp hơn hồi tháng 11 năm 1967.

Sang tháng 4, số xe bổ sung đã vào đủ và được Tổng cục Hậu cần tăng cường 3 tiểu đoàn xe của Binh trạm 12 và Binh trạm 14 thuộc tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương vào chạy cung từ Mụ Giạ và bắc Ta Lê vào Lùm Bùm, Bộ Tư lệnh điều chỉnh lực lượng, đẩy mạnh "Tổng công kích”, quyết tâm hoàn thành kế hoạch mùa khô ở mức 54.000 tấn.

Nhưng đúng vào thời điểm đó, địch bắt đầu mở những đợt đánh phá mới trong hoạt động ngăn chặn giao thông vận tải. Từ ngày 1 tháng 4 năm 1968, đế quốc Mỹ xuống thang một bước ở miền Bắc, ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào. Địa bàn Quân khu 4 bị không quân địch đánh phá rất dữ dội. Các tuyến đường từ bắc sông Lam trở vào đến biên giới Việt - Lào bị đánh liên tục gây tắc nghẽn nhiều đoạn nên chân hàng từ tuyến Tổng cục Hậu cần tiền phương vào các cửa khẩu bị hụt nhiều. Xăng vào không đủ, có lúc gây nên tình trạng rất căng thẳng.

Trên tuyến 559 địch tăng cường ngăn chặn cả bằng không quân và bộ binh với mức độ cao và quy mô lớn. Số lần chiếc máy bay đánh phá hàng ngày và số bom dội xuống tăng gấp đôi tháng cao nhất trước đây. Số vụ đánh phá bằng máy bay chiến lược B52 cũng tăng gấp ba lần. Các trọng điểm trên địa bàn các binh trạm phía bắc và binh trạm giáp chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên bị đánh phá rất ác liệt.

Mặc dù không quân địch đánh phá quyết liệt cầu đường và đội hình xe suốt ngày đêm, các lực lượng trên toàn tuyến vẫn bình tĩnh, mưu trí, dũng cảm, hiệp đồng chiến đấu rất hiệu quả, làm chủ địa bàn, làm rối loạn địch, bắn rơi máy bay, bảo vệ đội hình xe hành tiến.

Trong tháng 4, ta hạ được 97 máy bay trong đó 45 chiếc rơi tại chỗ. Lực lượng công binh anh dũng bám đường, bám xe, san lấp 426.740m3 đất đá, khôi phục nhanh đoạn đường bị phá, làm thêm trên 1 000 000 m3 đường tránh (khoảng 300 km) tạo thành 2 trục song song ở địa bàn các Binh trạm 31, 32, 33.

Lực lượng vận tải được tăng cường phương tiện đã nâng tốc độ vận chuyển với đội hình tập trung lớn, dũng cảm mưu trí vượt bom đạn địch, thực hiện vượt cung tăng chuyến. Mỗi đêm bình quân hàng vượt đường 9 trên 400 tấn, vào Động Con Tiên 120 tấn, vào Bạc 70 tấn, giao các hướng chiến trường 142 tấn.
 
Ngày 19 tháng 4 năm 1968 địch mở cuộc hành quân lớn. Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 của Mỹ và lữ đoàn dù số 3 của ngụy dồn dập đổ quân xuống khu vực A Sầu A Lưới, Đông Sơn, khu vực hoạt động của nhiều đơn vị như sở chỉ huy. Ngay khi địch vừa đổ quân xuống, lực lượng tại chỗ của các binh trạm như công binh, pháo cao xạ, bộ binh, kho, thông tin, giao liên cơ quan đã chặn đánh rất quyết liệt, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

Bộ Tư lệnh Đoàn cử Phó Tư lệnh Lê Đình Sum xuống binh trạm chỉ đạo tác chiến, đồng thời cấp tốc cơ động 2 tiểu đoàn bộ binh đến tham gia đánh địch bảo vệ khu vực Hà Tía, A Lưới chặn đánh nhiều cuộc càn quét, diệt hàng trăm tên Mỹ - ngụy, yểm trợ cho việc sơ tán kho, tăng pháo ở khu vực này về Bù Lạch, A Yên.

Trong 3 đêm 19, 20 và 21 tháng 4, tiểu đoàn 55 ô tô vận tải rút được 70 xe hàng từ kho Hà Tía vào Xưởng Giấy. Nhưng sau đó bị hết xăng. Vùng kho Hà Tía tuy tổ chức chiến đấu bảo vệ rất kiên cường nhưng địch xuống quá đông, tràn vào phá mất hơn 200 tấn hàng. Ở Tà Lương, 35 xe của tiểu đoàn 55 đang vận chuyến cho mặt trận Trị - Thiên bị nghẽn lại, cùng pháo của tiểu đoàn 85 và tiểu đoàn pháo 23 của chiến trường đang tập kết ở đó cũng bị địch phá.

Mấy hôm sau, Bộ Tư lệnh Trị - Thiên tăng cường trung đoàn 6, 8, 9 bộ binh cùng đơn vị đặc công và pháo lớn tổ chức các cuộc tiến công và pháo kích vào các khu vực đóng quân dã chiến của địch, nhất là khu vực A Bia gây cho địch tổn thất rất nặng. Ngày 16 tháng 5, địch phải rút khỏi khu vực A Sầu, A Lưới chấm dứt cuộc hành quân.

Cuộc hành quân của 16 tiểu đoàn Mỹ - ngụy xuống các khu vực A Sầu, A Lưới đã làm cho vận chuyển cơ giới hướng Trị Thiên và bắc Khu 5 tắc 26 ngày, ngăn chặn một số đơn vị binh khí kỹ thuật cơ động chi viện cho mặt trận Huế và gây cho ta một số tổn thất: 150 cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 bị thương vong; mấy trăm tấn hàng và phương tiện kỹ thuật bị phá hủy.

Song chúng đã bị tổn thất nặng. Trên 1.000 tên Mỹ - ngụy bị thương vong, trong đó các lực lượng 559 đã diệt 734 tên Mỹ, 105 tên ngụy, bắn rơi 86 máy bay. Dư luận phương Tây coi đây là "cuộc hành quân đẫm máu” đối với sư đoàn Kỵ binh bay Mỹ. "Thung lũng A Bia (tây A Lưới) trở thành cối nghiền thịt lính Mỹ”.

Cuối tháng 4 khi địch đổ quân xuống 11 Binh trạm 42 và Binh trạm 44 làm nghẽn vận chuyển cơ giới, Bộ Tư lệnh kịp thời điều hòa lực lượng tổ chức gùi thồ hướng Trị - Thiên, kiên quyết giữ vững nhịp độ "Tổng công kích" toàn tuyến và đã đạt được kết quả cao trong cả mùa. Vận chuyển vượt đường 9 được 11945 tấn, gấp hai lần tháng cao nhất của năm 1967 gấp rưỡi tháng 3 năm 1968.

Bước sang tháng 5, quân và dân miền Nam lại mở đợt tiến công và nổi dậy mới. Nhu cầu của chiến trường ngày càng cao và bức thiết. Một số hướng như Trị - Thiên và Khu 5 rất căng thẳng. Bộ Tư lệnh Khu 5 đã phải cử Chủ nhiệm Hậu cần quân khu Mai Nhân ra gặp Bộ Tư lệnh 559 yêu cầu cố gắng nâng mức bảo đảm cho Khu 5. Bộ Tư lệnh Trị - Thiên cũng yêu cầu tăng thêm chi viện, nhất là bảo đảm kịp thời nhu cầu cho các đơn vị tác chiến trên khu vực A Sầu. Các đơn vị bộ binh, pháo binh, cao xạ với trên 1 vạn người hành quân đi các chiến trường phải tạm dừng lại trên tuyến, tiêu thụ vật chất hàng ngày rất lớn. Công việc chuẩn bị các mặt cho hoạt động mùa mưa lại thúc bách.

Trước đòi hỏi mới, Bộ Tư lệnh quyết định tranh thủ thời gian kéo dài tổng công kích" hết tháng 5, dồn nhiều hàng xuống đường 9 và các đầu mút chiến trường.

Ở hướng đường 9, Bộ Tư lệnh quyết định tách một bộ phận của Binh trạm 33 tổ chức thành Binh trạm 41 do thiếu tá Võ Văn Quỳ làm Binh trạm trưởng, thiếu tá Nguyễn Văn Lạn làm Chính ủy, đứng tại khu vực Tà Khống, chuyên vận chuyển phục vụ mặt trận Khe Sanh.

Toàn tuyến huy động lực lượng chống lầy, bảo đảm cho vận chuyển. Tin quân và dân ta trên các chiến trường từ Trị - Thiên đến Cà Mau đánh giỏi thắng lớn, diệt hàng vạn tên Mỹ và chư hầu, phá hủy hàng trăm máy bay, hàng ngàn xe quân sự hàng chục tàu chiến, bức rút hàng trăm đồn bốt trong đợt tổng công kích mới đã cổ vũ và giục giã cán bộ, chiến sĩ 559 dốc sức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ tháng 5, kịp thời chi viện các chiến trường.
 
Tuy nhiên hoạt động của các đơn vị trên tuyến trong tháng này gặp rất nhiều khó khăn. Thời tiết mưa nhiều, nắng ít. Xăng nhập từ hậu phương bị hạn chế. Toàn tuyến thiếu xăng nghiêm trọng. Các binh trạm phía trong phải bốc hàng sẵn chờ xăng. Khi nhập được xe xăng nào Bộ Tư lệnh phải trực tiếp phân chia và tổ chức chạy tiếp sức cả ngày lẫn đêm đảm bảo cho các binh trạm vận chuyển phục vụ chiến trường.

Cuối tháng 5, mưa liên tục nhiều ngày, không còn khả năng vận chuyển lớn. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh quyết định kết thúc vận chuyền mùa khô 1967 - 1968, nhanh chóng chuyển sang vận chuyển mùa mưa, giữ cho được chi viện liên tục vào các chiến trường. Đồng thời không ngừng xây dựng và củng cố mọi mặt công tác một cách cơ bản

Ngày 6 tháng 6 năm 1968, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh họp kiểm điểm đánh giá: 7 tháng mùa khô 1967 - 1968, các lực lượng 559 đã nỗ lực phi thường giành được thắng lợi to lớn, toàn diện, toàn tuyến, liên tục và giòn giã. Khối lượng vận chuyển đạt 63.024 tấn, bằng 140% kế hoạch Quân ủy Trung ương giao ban đầu. Tổ chức hành quân vào chiến trường với khối lượng lên tới 155.758 người, trong đó có 43 đoàn binh khí kỹ thuật, 11 đoàn khách quốc tế, lớn gấp rưỡi kế hoạch được giao. Quân giao cho chiến trường được 124.016 người trong đó có 20 tiểu đoàn tăng, pháo. Các đơn vị binh khí kỹ thuật tập kết xong ở khu vực: đường 9, đường B45, B46, B49, khu vực S8, đang chờ lệnh. Thương bệnh binh và con em cán bộ miền Nam đã chuyển về hậu phương được 17.159 người, trong đó có 7.425 thương bệnh binh, tăng 8 lần so với mùa khô trước.

Về tác chiến, toàn Đoàn bắn rơi 330 máy bay các loại, diệt 1.275 tên Mỹ - ngụy; phối hợp với quân dân Trị - Thiên đánh bại cuộc hành quân của sư đoàn “Kỵ binh bay" Mỹ xuống A Sầu, A Lưới; phối hợp với bạn Lào giải phóng Lào Ngàm, mở rộng chính diện tuyến vận tải sang phía tây.

Về xây dựng cầu đường, đã khôi phục, nâng chất lượng được 1.567km. Mở thêm được 457km đường mới, làm được 15.412m cầu, bảo đảm vận chuyển quy mô lớn và cơ động binh khí kỹ thuật thông suốt. Về giúp bạn, đã xây dụng vùng giải phóng trên địa bàn 11 huyện tiến triển tốt.

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh nhấn mạnh: Thắng lợi trên đây có ý nghĩa chính trị rất lớn, biến quyết tâm của Trung ương và Quân ủy Trung ương về chi viện miền Nam để đánh to thắng lớn thành hiện thực. Xây dựng được lòng tin và sự cổ vũ đối với chiến trường. Tăng thêm ảnh hưởng to lớn của chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam. Biểu thị đầy đủ tinh thần: "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh xác định toàn tuyến phải nỗ lực vượt bậc, nhanh chóng chuyển sang vận chuyển mùa mưa nhằm đáp ứng nhu cầu của một số chiến trường trọng điểm và nhu cầu vật chất cho bộ đội trên tuyến; đồng thời chuẩn bị từng bước nhiệm vụ mùa khô 1968 - 1969. Bộ Tư lệnh quyết định:

Khối lượng vận chuyển mùa mưa là 19.000 đến 20.000 tấn; giao cho các chiến trường từ 11.400 tấn đến 12.000 tấn. Hướng chủ yếu là Trị - Thiên, Khu 5. Phương thức vận chuyển là kết hợp vận chuyển cơ giới đường bộ - đường sông và gùi thồ. Từ Lùm Bùm vào Động Con Tiên lấy vận chuyển cơ giới làm chủ yếu. Những hướng khác tranh thủ vận chuyển cơ giới khi thời tiết cho phép, kết hợp với vận chuyển thô sơ.

Bộ Tư lệnh chủ trương bổ sung lực lượng cho các Binh trạm phía bắc đủ số xe để đảm bảo khối lượng vượt đường 9 khoảng 3.000 - 4.000 tấn một tháng. Song song với nhiệm vụ vận chuyển phải tổ chức hành quân quy mô lớn, nhanh, gọn, an toàn. Dự kiến số quân vào chiến trường khoảng 51.000 người.

Để thực hiện thắng lợi vận chuyển và hành quân, việc bảo đảm cầu đường giữ vị trí quyết định. Trước mắt chống lầy 420 km đường từ Ta Lê đi Lùm Bùm vào Động Con Tiên đảm bảo vận chuyển cơ giới liên tục. Chống lầy cục bộ 548 km đường khác để tranh thủ vận chuyển những ngày nắng ráo. Tích cực mở thêm đường mới, hình thành 2 trục song song từ Mụ Giạ đến Bạc. Từ Bạc vào Tà Xẻng mở rộng đường 5,5m - 6m. Đẩy nhanh việc thi công đường mới ở phía đông Trường Sơn để kịp cơ động binh khí kỹ thuật và vận chuyển bằng cơ giới vào sâu Trị - Thiên, Khu 5 .
 
Để kịp triển khai nhiệm vụ, Bộ Tư lệnh triệu tập hội nghị cán bộ các binh trạm vào ngày 7 tháng 6 để quán triệt và giao nhiệm vụ. Cán bộ dự họp ý thức được trách nhiệm đối với chiến trường và hàng chục vạn con người, ở trên tuyến nên biểu thị quyết tâm cao, song rất lo lắng, trăn trở trước khó khăn lớn gần như bất khả kháng là mùa mưa ở Trường Sơn.

Ngày 17 tháng 6 năm 1968, Thường trực Quân ủy Trung ương gửi thư cho Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 động viên và chỉ đạo những mặt cần phải nỗ lực trong nhiệm vụ vận chuyển mùa mưa và chuẩn bị cho nhiệm vụ mùa khô 1968 - 1969. Thường trực Quân ủy Trung ương biểu dương Đoàn 559 đã anh dũng, sáng tạo, khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ, liên tiếp giành những thắng lợi to lớn.

Tuy nhiên so với yêu cầu ngày càng tăng của chiến trường thì hiện nay vận chuyển chưa đáp ứng được. Thường trực Quân ủy Trung ương nhắc nhở Bộ đội 559 cần nêu cao quyết tâm hy sinh, phấn đấu, dũng cảm, sáng tạo, quán triệt và thực hiện tốt nhiệm vụ hết sức quan trọng của "Một đội quân hậu cần chiến lược rất giỏi"; làm tốt đợt động viên chính trị "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược"...

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và quyết tâm của Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559, các lực lượng trên toàn tuyến đã nêu cao tinh thần chiu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, lăn lộn suốt ngày đêm chống chọi với thiên nhiên và bom đạn để bảo vệ đường và vận chuyển hàng vào chiến trường.

Những người lính Trường Sơn hàng ngày đối mặt với những thách thức nghiệt ngã. Những trận mưa lớn liên tục nhiều ngày gây lầy lội lớn trên các trục đường. Nhiều cầu phà bị nước cuốn trôi. Đèo dốc trơn trượt, đường thấp trũng bùn.

Đường 128 B từ Lùm Bùm vào tới ngã ba La Hạp được chống lầy bằng rải "rong đanh" biến mặt đường như một cầu gỗ dài hàng trăm cây số ghìm tốc độ xe xuống 7km/giờ. Xe qua vài chục lần là "rong đanh" bị phá, mặt đường bị khoét sâu thành rãnh, thành hố, thường làm xe ngập bùn từ 0,30 - 0,50m phải kéo liên tục.

Các đường vào kho cũng bị hư hỏng, lầy lội. Việc bốc xếp hàng trong mưa vừa hạn chế năng suất, vừa dễ làm hàng bị hỏng. Sinh hoạt của lái xe, công binh, pháo binh trên mặt đường vô cùng cơ cực: áo quần ẩm ướt, cơm canh khê sống, lao động vất vả, sức khỏe sa sút...

Vượt lên mọi thử thách hà khắc về mưa lũ, bom đạn và thiếu nhiên liệu, cuối tháng ta đã giao cho bộ đội Trị - Thiên 587 tấn, giao cho Khu 5 được 306 tấn, giao cho mặt trận Khe Sanh được 330 tấn. Về hành quân, thêm 15.133 người nhập tuyến; giao cho chiến trường 17.393 người; chuyển về hậu phương được 1924 thương binh.

Tháng 7 là thời kỳ cao điểm của mưa lũ, ở phía ngoài, không quân địch mở rộng đánh phá quyết liệt vùng "cán xoong" Khu 4 nhằm cắt đứt tuyến giao thông chiến lược chi viện miền Nam. Trên các trục giao thông thủy bộ từ sông Lam trở vào, hình thành các trọng điểm liên hoàn, những "tam giác lửa" Truông Bồn - Bến Thủy - Đồng Lộc; Đồng Lộc - Kỳ Anh - Truông Bát; Sông Gianh - Minh Cầm - Đò Vàng; Sông Gianh - Minh Cầm - Xuân Sơn; Sông Gianh - Xuân Sơn - Long Đại; Khe Tang - Khe Ve - La Trọng... kéo dài gần 300km.

Quân và dân các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình không nề hà gian khổ hy sinh, chiến đấu vô cùng dũng cảm để giải tỏa giao thông, nhưng khó khăn rất lớn. Chân hàng từ hậu phương - nhất là xăng và gạo đưa vào tuyến 559 ngày càng khó. Binh trạm 14 vần bộ từng phuy xăng chuyển tải qua trọng điểm Trà Ang, chịu thương vong lớn nhưng kết quả rất hạn chế. Bộ Tư lệnh 559 phải hạn chế các nhu cầu nội bộ, dành hàng vận chuyển cho chiến trường.

Sang tháng 8, tình trạng thiếu xăng rất nghiêm trọng. Cả tháng chỉ nhập được 20 tấn trên cả 2 hướng đường 12 và đường 20, cộng với số tồn kho ở Mụ Giạ chỉ có 50 tấn. Binh trạm 31 được lệnh chuyển gấp số xăng trên vào Lùm Bùm. Đại đội 5 công binh do đại đội trưởng Nguyễn Trình chỉ huy, ghép các phuy xăng lại thành từng mảng, chống xuôi dòng Nậm Hơ - Nậm Ngo 30km đến Xiêng Phan. Từ đây, tiểu đoàn 25 công binh vần bộ từng phuy xăng qua 30 km vào Pác Pha Năng, rồi chuyển tải - qua sông Sê Băng Phai. Sau đó kết hợp vừa dùng người vần, kéo, vừa dùng ô tô chở từng đoạn, lặn lội gần một tháng mới chuyển hết số xăng đó giao cho Binh trạm 32.

Hướng đường 20, Binh trạm 32 cũng tổ chức kéo xăng dọc suối Bản Thắm nửa tháng mới được 10 tấn. Trước tình hình nghiêm trọng trên, Bộ Tư lệnh phải chỉ định phân phối từng phuy xăng cho các binh trạm, kêu gọi tiết kiệm nghiêm ngặt, vét xăng trong các phuy cũ tăng cường tổ chức gùi thồ. Trong tình hình đó, kế hoạch vận chuyển cho chiến trường đạt rất thấp.

Đầu tháng 9 mưa lũ lớn kéo dài gây ngập lụt sâu và phá vỡ nhiều đoạn đường từ Lùm Bùm vào đến bắc Bạc. Hoạt động vận chuyển kết thúc trên toàn tuyến. Công tác chuẩn bị cho mùa khô 1968 - 1969 cũng lắng xuống.
 
IV. NHỮNG CUNG ĐƯỜNG MÁU LỬA

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân năm 1968 của quân và dân ta ở miền Nam đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra nhằm xoa dịu dư luận thế giới, đặc biệt là nhân dân Mỹ, tìm lối thoát cho cuộc chiến. Nhưng chúng vẫn tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh bằng biện pháp chiến lược mới.

Một mặt chúng tăng cường phản kích nhằm tiêu diệt chủ lực của ta và "bình định cấp tốc" ở miền Nam; mặt khác, tập trung không quân, hải quân đánh phá địa bàn nam Quân khu 4 - hậu phương trực tiếp của chiến trường miền Nam, hậu cứ của tuyến chi viện chiến lược 559 hòng chặn đứng sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam ngay từ tuyến đầu.

Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1968, Mỹ huy động 79.000 lượt máy bay chiến thuật và máy bay chiến lược B52 cùng pháo hạm ngoài biển liên tục đánh phá vào các kho hàng, bến cảng, đặc biệt các đầu mối giao thông hiểm yếu, nhằm cắt đứt tuyến vận chuyển chi viện chiến lược của ta.

Bom đạn và bão lụt đã gây thiệt hại nặng nề về vật chất, phá hoại nghiêm trọng các tuyến đường vào tiền tuyến.

Để tăng cường lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng, kịp thời đối phó với âm mưu mới và thủ đoạn đánh phá điên cuồng của Mỹ, tháng 7 năm 1968, Bộ Chính trị và Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Bộ Tư lệnh 400 bảo đảm giao thông vận tải Quân khu 4 để cùng cơ quan tiền phương Tổng cục Hậu cần và các tỉnh trên địa bàn huy động lực lượng đánh địch, bảo đảm nhu cầu ngày càng lớn của tiền tuyến.

Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ - ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải được cử làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Hòa - Chính ủy Quân khu 4 làm Chính ủy. Đại tá Hoàng Văn Thái - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và đại tá Lê Văn Tri - Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân được cử làm Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh bảo đảm giao thông vận tải.

Các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và đặc khu Vĩnh Linh thành lập Ban bảo đảm giao thông vận tải do Chủ tịch ủy ban hành chính làm trưởng ban. Bộ Tổng tham mưu, các quân khu phía Bắc, Quân chủng Phòng không – Không quân, Bộ Tư lệnh Công binh, Pháo binh, Tổng cục Hậu cần, Bộ Giao thông Vận tải đã điều nhiều lực lượng vào tăng cường cho Quân khu 4.

Hàng chục vạn bộ đội, dân quân, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến cùng cán bộ cơ quan quân, dân, chính, Đảng đã dồn sức cho mặt trận chống ngăn chặn, bảo vệ cầu đường. Tuy nhiên sự đánh phá của địch trong mùa mưa bào làm cho việc khắc phục cầu đường bị phá hoại trở nên khó khăn gấp bội.

Đường 1 A đoạn từ Vinh vào sông Gianh, đường 15A đoạn từ ngã ba Đồng Lộc vào đèo Đá Đẽo Xuân Sơn bị tắc liên tục. Nhiều tháng phương tiện vận tải cơ giới từ nam Hà Tĩnh đến Quảng Bình hầu như ngừng hoạt động. Nhân dân các tỉnh khu 4 ra sức gom gạo cho chiến trường và huy động hàng chục vạn xe đạp thồ, xe ba gác, xe cút kít cùng hàng chục ngàn dân công chuyển tải hàng qua trọng điểm.

Nhiều gia đình tình nguyện dỡ nhà lấy cột bắc cầu. Có địa phương dời làng, đốn cây trong vườn để bộ đội làm đường vòng tránh trọng điểm.

Ngày 28 tháng 10 năm 1968, Quân ủy Trung ương quyết định giải thể Bộ Tư lệnh 400 bảo đảm giao thông vận tải Quân khu 4, thành lập Đoàn 500 nhằm tăng cường tổ chức chỉ huy trên các trục vận chuyển nam Quân khu 4 vào đường 12 và đường 20 đưa hàng giao cho tuyến 559 tại khu vực 050 dưới dãy núi Phuxe và phân trạm C, bắc sông Ta Lê.
 
Thiếu tướng Nguyễn Đôn - Phó Tổng Tham mưu trưởng được cử làm Tư lệnh. Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được cử làm Chính ủy Bộ Tư lệnh. Đại tá Vũ Xuân Chiêm - Chính ủy Đoàn 559 giữ chức Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh kiêm Chủ nhiệm chính trị. Đại tá Hồng Kỳ - Phó Chính ủy Đoàn 559 giữ chức Phó Tư lệnh.

Đường số 12 và đường số 20, hai tuyến vượt khẩu bị địch đánh phá ác hệt nhất. Binh trạm 14 phụ trách đường 20 do các đồng chí Hoàng Trà làm Binh trạm trưởng, Nguyễn Việt Phương làm Chính ủy và Binh trạm 12 phụ trách đường 12 do các đồng chí Nguyễn Đàm làm Binh trạm trưởng, Lê Tự Do làm Chính ủy đã kiên cường chiến đấu với địch, với trời, song chưa xoay chuyển được tình thế.

Tuyến trong bị thiếu xăng nghiêm trọng làm tê liệt vận chuyển cơ giới. Bộ đội phải kéo từng phuy xăng ngược suối Trà Ang, dưới sự khống chế và đánh phá điên cuồng của máy bay địch. Một tấn xăng qua trọng điểm phải đổi hàng chục mạng người.

Để tháo gỡ khó khăn do địch đánh phá ngăn chặn tuyến đường 12 và đường 20, ngày 15 tháng 8 năm 1968 Quân ủy Trung ương nhất trí với chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và Bộ Tư lệnh 559 tổ chức mũi vu hồi từ Hương Sơn Hà Tĩnh qua Lạc Sao - Trung Lào tiến xuống Nhom Ma Lát, vòng qua Ma Hả Xây (theo đường 12B) chạy về Ka Vát giao hàng cho Binh trạm 31, đường dài khoảng hơn 200km. Binh trạm 5, Binh trạm 27, Binh trạm 28 được giao nhiệm vụ thực hiện mũi vu hồi này.

Do triển khai về mùa mưa, nước sông Nậm Thơn dâng cao và dốc núi Phuxe quá lớn, lại bị địch phát hiện ngăn chặn nên hoạt động của các đơn vị ở hướng này cũng kém hiệu quả.

Đầu tháng 4, hàng và xăng không vào được đã đặt Đoàn 559 trước những thử thách nghiêm trọng. Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên điện báo cáo về Bộ: Do thiếu xăng, xe phải ngừng hoạt động. Nếu không kịp chuyển xăng và lương thực vào sẽ có nguy cơ hàng vạn bộ đội bị đói.

Tổng cục Hậu cần đã khẩn trương nghiên cứu, thiết kế thi công đường ống dẫn xăng dầu bao gồm cả kho chứa, trạm bơm, mạng thông tin từ Nam Đàn vượt sông Lam; sông La vào Can Lộc thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Nhờ sự nỗ lực vượt bậc của hậu phương, sau một thời gian Đoàn 559 đã nhận được khoảng 300 tấn xăng, 3.000 tấn hàng khác nhưng vẫn không đủ cứu đói cho bộ đội trên các mặt trận.

Bộ Tư lệnh 559 chỉ thị cho toàn tuyến rút khẩu phần ăn mỗi người xuống 3 lạng một ngày để lấy gạo chi viện chiến trường. Đồng thời phát động phong trào tăng gia sản xuất, trồng ngô, khoai sắn, nuôi gà lợn; tổ chức săn bắn, khai thác rau, măng, củ mài để cải thiện đời sống bộ đội. Tình hình khan hiếm lương thực thực phẩm, thuốc men cộng với điều kiện khí hậu, thời tiết, muỗi rừng, sên vắt làm cho sức khỏe của các lực lượng trên tuyến bị giảm sút nghiêm trọng. Năng suất lao động và chiến đấu của các binh chủng tụt xuống.

Ở miền Nam, sau những thất bại bởi cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt của quân và dân ta trong Tết Mậu Thân, địch tập trung lực lượng phản kích dữ dội. Nhiều đơn vị chủ lực của ta phải rút lên địa bàn 559. Hàng nghìn quân trên đường vào chiến trường phải dừng lại trên tuyến. Khó khăn của Đoàn 559 càng thêm chồng chất.
Cuối tháng 9 năm 1968, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh 559 họp, nhận định mùa khô tới cuộc chiến giữa ta và địch ở miền Nam sẽ diễn ra vô cùng quyết liệt, ở miền Bắc, Mỹ có thể ngừng chiến tranh phá hoại như phán đoán của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Nhưng dù tình hình diễn biến thế nào thì trục hành lang 559 vẫn là nơi Mỹ tiến hành biện pháp chiến lược ngăn chặn ác hệt nhất nhằm chặn đứng sự chi viện của ta, cô lập và bóp nghẹt cách mạng miền Nam, làm cho "chiến tranh tàn lụi"...
 
Đảng ủy dự kiến khu vực địch tập trung đánh phá mạnh nhất là các binh trạm bắc đường 9 và các binh trạm tiếp giáp chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên. Do vậy trên các khu vực này phải tăng cường tác chiến phòng không, coi trọng tác chiến mặt đất, phải tập trung xây dựng thế trận vận chuyển vững chắc trước hết là thế trận cầu đường. Khôi phục đường cũ bị mưa bão phá hoại, mở thêm đường vòng, đường tránh, làm thêm đường mới, phá dần thế độc đạo trên các trục dọc tây Trường Sơn.

Với tư tưởng chỉ đạo trên, Bộ Tư lệnh quyết định các trung đoàn, tiểu đoàn được điều sang làm đường đông Trường Sơn phải quay lại tây Trường Sơn cùng các binh trạm tập trung khôi phục và mở đường, kịp triển khai chiến dịch vận chuyến mùa khô 1968 - 1969.

Từ cuối tháng 9 đến cuối tháng 10 năm 1968, các lực lượng trên toàn tuyến đã chống chọi với thời tiết, lao động quên mình, mở thêm được 526 km đường mới, trong đó có những đường rất trọng yếu đối với chiến thuật vận tải như hệ thống đường vượt khẩu số 12A, 12B dài 92 km, đường tránh Pác Pha Năng dài 39 km. Hệ thống đường thọc sâu tiếp cận hậu cứ các chiến trường Tây Nguyên, Khu 6, Nam Bộ như: S9 đi Tân Cảnh, S9 đi Đắk Tô và Sa Thầy, dài 155km. Hệ thống đường đi xuống chiến trường Trị Thiên như: B70, B71, B72 dài 129 km. Đường tránh dốc Con Mèo 25 km. Đường vòng tránh Cha Ky - Bản Đông 27 km. Đường tránh Mường Noọng, Tà Beng 21 km. Các ngầm, cầu qua các sông được khôi phục và củng cố.

Cuối tháng 10, khi toàn bộ cầu đường vừa mới khôi phục xong thì bị cơn bão số 8 ập đến, phá hủy nghiêm trọng, Bộ Tư lệnh chỉ thị các binh trạm phải tập trung lực lượng để khắc phục, đồng thời hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị để đầu tháng 11 năm 1968 sẽ mở màn chiến dịch vận chuyển mùa khô. Nhưng, khi tiến gần đến thời điểm đó thì tình hình diễn biến hết sức phức tạp.

Ngày 1 tháng 11 năm 1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn tuyên bố chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc và chấp nhận họp hội nghị bốn bên tại Pa ri - thủ đô nước Pháp để bàn về vấn đề Việt Nam

Quyết định này của Mỹ là sự thú nhận công khai về sự phá sản của chiến lược “chiến tranh cục bộ" ở Việt Nam, về sự thất bại của cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Mỹ mưu toan cứu vãn tình thế bằng một chiến lược mới - chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Để thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" các chính khách Mỹ coi điều kiện tiên quyết cho sự thành công là phải chặn đứng bằng được sự hoạt động tiếp tế trên đường mòn Hồ Chi Minh.

Vì vậy sau khi ngừng ném bom miền Bắc, Mỹ huy động lực lượng không quân tập trung đánh phá tuyến 559, ác liệt nhất là hai trọng điểm cửa khẩu Xiêng Phan đường 128 và cửa khẩu chữ A - Ta Lê - Phu La Nhích đường 20.

Vào 4 giờ sáng ngày 4 tháng 11 năm 1968, không quân Mỹ ồ ạt mở cuộc tập kích vào hai trọng điểm trên với cường độ lớn chưa từng thấy, ngăn chặn các mũi đột kích của các binh trạm 12, 14, 31, 32, đẩy ta vào thế bị động. Việc lập chân hàng cho tuyến 559 bị tê liệt hoàn toàn.

Địch đã chọn đúng điểm xung yếu nhất của tuyến chiến lược 559 vì mọi nguồn chi viện cho miền Nam phải qua hai cửa khẩu này mới vào được phía trong. Hơn nữa, đây là hai khu vực có địa hình phức tạp, khi địch đánh tắc và khống chế mạnh thì rất khó khắc phục.

Trọng điểm Xiêng Phan nằm trên đoạn đường độc đạo, men theo sông Pha Nốp, kẹp giữa hai dãy núi đá ở phía đông tỉnh Khăm Muộn, cách biên giới Lào - Việt Nam khoảng 15 km, địa thế hiểm trở, không có vị trí đóng quân tiếp cận và khó cơ động máy húc để chống phá hoại, rất dễ bị đánh tắc.

Những năm 1967 - 1968, Xiêng Phan chưa bị địch đánh thành trọng điểm. Nhưng, dự kiến địch sẽ mở thành trọng điểm, nên khi chuẩn bị cho mùa khô 1968 - 1969, Binh trạm 31 đã mở thành hai đường ô tô bám theo dọc sông Pha Nốp đoạn từ Na Tông đến Pác Pha Năng.
 
Ngày 4 tháng 11 năm 1968, địch huy động máy bay chiến lược B52 và máy bay cường kích dồn dập ném bom rải thảm xuống khu vực này trên chiều dài 2 km, rộng 200m, liên tục 7 ngày đêm. Trên 1 vạn quả bom các loại trút xuống đã làm biến mất con đường, chỉ còn lại những cồn đá, những hố lớn. 50 cán bộ, chiến sĩ bị thương vong, 12 chiến sĩ trú ẩn trong hang bị đánh sập không lấy được xác, 2 khẩu pháo bị phá hủy.

Bộ Tư lệnh đã kịp thời phái ngay đồng chí Nguyễn Văn Kỷ - Tham mưu phó công binh cùng nhiều cán bộ chính trị, quân sự xuống giúp Binh trạm 31 giải tỏa trọng điểm. Bộ Tư lệnh tăng cường trung đoàn 83 công binh do đồng chí Cường làm Trung đoàn trưởng cùng 2 tiểu đoàn (25, 27) công binh của binh trạm để khắc phục đoạn Na Tông - Xiêng Phan, mở đường tránh Xiêng Phan - từ Lằng Nhằng đi Xóm Péng. Đồng thời, điều trung đoàn 84 cao xạ do đồng chí Nguyễn Văn Thành làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Phạm Trang làm Chính ủy bố trí bảo vệ các lực lượng tác nghiệp. Yêu cầu trong vòng 15 ngày phải giải phóng được trọng điểm.

Ở hướng đường 20, địch chọn hệ thống trọng điểm liên hoàn gồm cua chữ A, ngầm Ta Lê và đèo Phu La Nhích (gọi tắt là trọng điểm ATP) làm mục tiêu triệt phá. Đây là tuyến vận tải cơ giới vượt Trường Sơn từ hậu phương vào chiến trường gần nhất. Hệ thống trọng điểm cua chữ A - ngầm Ta Lê - đèo Phu La Nhích nằm sát biên giới giữa tây nam tỉnh Quảng Bình (Việt Nam) với đông nam tỉnh Khăm Muộn (Lào), dài khoảng 7 km.

Cua chữ A là đoạn đường leo quanh sườn núi gấp khúc, một bên là vách núi cao, một bên là vực thẳm, chiều dài khoảng 3 km. Tiếp giáp đoạn cua chữ A là ngầm qua sông Ta Lê có khẩu độ rộng gần 100m, nước sâu và chảy xiết. Phía nam sông là đèo Phu La Nhích chạy men bình độ đi lên dài khoảng 2 km có độ dốc 15% lại chạy gấp khúc trở lại để trèo lên đỉnh, vượt sang tây Trường Sơn, chạy về phía Ka Tốc - Lùm Bùm giáp đường 128.

Những năm trước địch đánh trọng điểm cua chữ A và ngầm Ta Lê chưa nhiều. Vì vậy, ta cũng chỉ bố trí tại đây một đại đội pháo 37 ly, một đại đội thanh niên xung phong, một đại đội công binh.

Lần này, Mỹ sử dụng máy bay chiến lược B52 kết hợp với máy bay cường kích F 105, F4 đánh suốt ngày đêm liên tục 15 ngày. Mỗi ngày có trên dưới 30 lần/chiếc máy bay B52 và khoảng 50 lần/chiếc máy bay cường kích vừa đánh bổ nhào, vừa rải thảm theo tọa độ, trút xuống hàng mấy vạn quả bom, biến toàn bộ khu vực này như bãi "sa mạc". Đường cua chữ A biến mất để lại hàng trăm hố bom và cồn đất đỏ lòm. Hai đầu ngầm Ta Lê bị cày xới để lại hàng trăm hồ nước. Đèo Phu La Nhích bị bóc hết cây cối, hàng ngàn mét đường bị khoét sâu vào ta luy. Để không cho ta khắc phục, địch cho máy bay trinh sát và đánh cầm canh suốt đêm ngày.

Bị đánh bất ngờ, đại đội pháo của ta không kịp trở tay, mặt khác tầm cao của đạn cũng không với tới máy bay chiến lược B52 . Đại đội bị tổn thất nặng: 3 khẩu pháo bị phá hủy, 15 cán bộ, chiến sĩ bi thương vong. Đại đội 1 công binh bám trụ khôi phục mặt đường, ngay trong ngày đầu địch đánh phá, bị thương vong 31 đồng chí.

Khắc phục trọng điểm ATP trở thành nhiệm vụ cấp thiết, quan trọng bậc nhất ở hướng đường 20. Đây cũng là việc làm vô cùng khó khăn, phức tạp vì phạm vi bị phá hoại rất lớn, máy bay địch lại khống chế suốt ngày đêm.

Về tổ chức, hệ thống trọng điểm này vốn thuộc phạm vi phụ trách của Binh trạm 32 - Đoàn 559, nhưng để chia sẻ bớt khó khăn cho Đoàn 559, từ đầu tháng 11 năm 1968, Bộ quyết định Đoàn 500 quản lý từ bắc sông Ta Lê trở ra đến cua chữ A. Sự điều chỉnh rơi đúng vào thời điểm địch đánh mạnh, biến liên hoàn trọng điểm ATP ở thế bị cắt khúc, thiếu sự chỉ đạo tập trung khắc phục.
 
Ngày 13 tháng 11, Quân ủy Trung ương điện giao nhiệm vụ cho Đoàn 559 chỉ huy giải tỏa toàn bộ hệ thống trọng điểm liên hoàn ATP từ km 68 trở vào, đồng thời cử Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện cấp tốc vào truyền đạt chủ trương trên cho Bộ Tư lệnh 500. Sau khi tiếp nhận chủ trương của Quân ủy Trung ương, ngày 14 tháng 11 năm 1968, Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559 đã họp và quyết định:

1. Bằng mọi giá, giải tỏa cho được hai trọng điểm vượt khẩu: chậm nhất ngày 25 tháng 11 năm 1968 phải xong trọng điểm Xiêng Phan, ngày 5 tháng 12 năm 1968 phải xong trọng điểm ATP.

2. Tổ chức ngay một đợt vận chuyển đột kích quy mô nhỏ nhằm kéo bớt địch ra khỏi hai trọng điểm yết hầu trên, làm giảm bớt áp lực của chúng đối với các lực lượng đang làm nhiệm vụ giải tỏa. Đồng thời, chỉ đạo các binh trạm phía nam lợi dụng sơ hở khi địch đang bám đánh các binh trạm phía bắc, tổ chức vận chuyển nhanh chóng rút hàng tồn kho và trên 2.000 tấn hàng do bộ phận đồng chí Nguyễn Đức Phương thu mua được ở hướng C4 (tức vùng nam A Tô Pơ của Lào và bắc Tung Trọng của Campuchia), đảm bảo nhu cầu tối thiểu và cấp thiết cho Tây Nguyên và Khu 5. Đối với các binh trạm phía bắc, thu gom và tận dụng số xăng còn lại, vận chuyển nhỏ vào đường 9 rồi gùi thồ cho chiến trường Trị - Thiên.

3. Tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị, quán triệt tình hình nhiệm vụ, xây dựng khí thế cách mạng, khắc phục tư tưởng bi quan dao động trước sự đánh phá dữ dội của địch.

4. Hoàn thiện mọi mặt chuẩn bị. Sau khi giải tỏa được hai trọng điểm, lập tức mở ngay chiến dịch vận chuyển. Thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh cử đồng chí Nguyễn Lang - Tham mưu trưởng tác chiến vào phía nam chỉ đạo các binh trạm 36, 37, 44. Đồng chí Lê Đình Sum - Phó tư lệnh, đồng chí Ngô Thành Vân - Chủ nhiệm chính trị, đồng chí Nguyễn An Tham mưu trưởng vận chuyển, trực tiếp chỉ huy chung tại sở chỉ huy cơ bản.

Ngày 15 tháng 11 năm 1968, Tư lệnh cùng Tham mưu trưởng công binh Phạm Văn Diêu, Trưởng phòng bảo đảm giao thông Đinh Hào xuống Binh trạm 32 cùng chỉ huy Binh trạm đến trọng điểm ATP trực tiếp thị sát và quyết định tại chỗ các biện pháp giải tỏa.

Sau khi tham khảo ý kiến tại chỗ, Tư lệnh Đoàn quyết định:

- Sử dụng lực lượng thích hợp tổ chức trận địa phòng ngự, kiên cường bám trụ mặt đường. Nắm vững quy luật đánh phá của địch, tranh cướp với chúng từng thước đường. Khẩn trương khôi phục đường A từ hai đầu lại. Tích cực nghi binh kéo địch vào đường giả, tạo điều kiện cho các lực lượng khôi phục đường A.

- Khôi phục đường C rộng đủ cho đội hình xe lớn chạy, ngụy trang che phòng, không được đề địch phát hiện khi còn thi công... Tập trung lực lượng mở thêm một đường kín ở sườn dãy núi Cu Xê Bao (gọi là đường Đ), cách đường A khoảng 3 km, tạo ra một thế trận mới làm thất bại âm mưu đánh dứt điểm của địch.

- Khôi phục ngầm A, ngầm B, mở thêm ngầm C, ngầm Đ tạo thêm nhiều điểm vượt sông Ta Lê, có điểm vượt chính, điểm vượt dự bị, điểm vượt nghi binh.

- Điều hòa phối hợp lực lượng đảm bảo toàn bộ các công trình hoàn thành đúng vào một thời điểm nhằm mở toang cửa khẩu, chấm dứt triệt để sự ngăn chặn của địch ở bất cứ nơi nào trên trọng điểm. Yêu cầu giữ cho được bí mật các công trình trong vòng 20 ngày.

- Hết sức coi trọng công tác chính trị, phát động quần chúng, động viên cán bộ, đảng viên đi đầu, dấy lên thành cao trào "Mở đường mà tiến, đánh địch mà đi”.

- Lực lượng tham gia giải tỏa trọng điểm gồm: tiểu đoàn 33 công binh, 2 đội thanh niên xung phong và 3 tiểu đoàn công binh (17, 335, 336), trung đoàn 32 bộ binh, 3 máy húc, 80 tấn thuốc nổ. Về phòng không, ở phía bắc trọng điểm bố trí trung đoàn cao xạ 280 do Bộ phối thuộc; ở phía nam và trung tâm trọng điểm bố trí 2 tiểu đoàn cao xạ 18 và 42.

- Chính ủy Binh trạm 32 chỉ huy chung cùng Binh trạm phó Binh trạm 14 Trần Đình Cầu và Trưởng phòng đảm bảo giao thông Đinh Hào tổ chức giải tỏa trọng điểm. Tham mưu trưởng công binh Đoàn 559 Phạm Văn Diêu đốc chiến. Thời gian hoàn thành các công trình giải tỏa trọng điểm và thông xe chậm nhất là ngày 25 tháng 12 năm 1968.
 
Thực hiện quyết định trên, sau một ngày khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt, nhất là về tư tưởng, tổ chức, kế hoạch, tất cả các lực lượng vào vị trí chiến đấu.

Ngày 17 tháng 11 năm 1968, trên 2.000 cán bộ, chiến sĩ trên trọng điểm đồng loạt ra quân. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng khẩn trương, quyết liệt.

Địch tiếp tục đánh phá theo lối cầm canh. Tuy cường độ ném bom của máy bay B52 có giảm, nhưng lại tăng các phi vụ máy bay cường kích và dùng các thủ đoạn đánh phá mới rất xảo quyệt: Thả bom mìn hỗn hợp, bom phá, bom nổ chậm. bom từ trường, mìn vướng nổ... nhằm ngăn cản ta tiếp cận mặt đường và gây thương vong cho lực lượng khắc phục. Ban chỉ huy tiểu đoàn 33 công binh cấp tốc họp nghiên cứu tính năng, tác hại của từng loại bom mìn, tổ chức các phân đội chuyên trách phá từng loại, nhanh chóng mở đường cho các phân đội máy húc và các phân đội khác tiến vào tác nghiệp san lấp hố bom. Chiến thuật này đã hạn chế đáng kể thương vong và nâng cao nhịp độ khôi phục mặt đường.

Ngày 18 tháng 11 năm 1968, đại đội cao xạ thuộc tiểu đoàn 18 do đồng chí Sóc, Tiểu đoàn trưởng chỉ huy, đã đánh một trận xuất sắc hạ 2 máy bay cường kích. Ngày hôm sau, đại đội cơ động sang trận địa dự bị tiếp tục đánh trả quyết liệt buộc máy bay địch phải nâng độ cao, rải bom mìn không trúng mục tiêu, hạn chế tý lệ thương vong.

Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra hàng ngày vô cùng quyết liệt, không ngày nào không có thương vong. Nhưng, bộ đội ta chẳng hề chùn bước, người trước ngã, người sau tiến lên. Đại đội trưởng đại đội 1 công binh Nguyễn Vũ bị bom B52 chôn vùi. Lúc đồng đội bới lên, đồng chí bị sức ép hộc máu mũi. Vừa được cấp cứu xong, đồng chí lại bám ngay đơn vị chỉ huy chiến đấu.

Tiểu đoàn trưởng Đỗ Xuân Diễn và Chính trị viên phó tiểu đoàn Cao Xuân Hùng ngày đêm xông xáo, lăn lộn cùng anh em phá bom san đường.

Trung đội trưởng máy húc Vũ Tiến Đề bám chắc địch lái chiếc máy C 100, tiến ra rút vào một cách mưu trí, dũng cảm, mỗi ngày đêm san lấp được hàng chục hố bom, giải phóng hàng trăm mét đường. Sáng kiến nổi bật của anh là giấu máy húc ngay trên trọng điểm giữa ban ngày, nghi trang rất giỏi, máy bay địch không phát hiện được.

Ở trọng điểm Xiêng Phan, cuộc chiến đấu cũng diễn ra ác liệt. Mỗi chiến sĩ là một dũng sĩ. Trung đội trưởng công binh Hoàng Hữu Thanh cùng các chiến sĩ xông pha suốt đêm ngày, nổ đá, san đường, tranh chấp với địch từng thước đường. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 25 công binh Nguyễn Bửu Ký và Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Phiên bám sát mặt đường, động viên anh em rà phá bom mìn hỗn hợp.

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 27 công binh Chu Thế Kỳ và Chính trị viên tiểu đoàn Tống Duy Sự trực tiếp động viên anh em lấp từng hố bom dưới sự đánh phá điên cuồng của địch.

Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn cao xạ Nguyễn Văn Tú chỉ huy đơn vị đánh trả địch quyết liệt khi bị chúng đánh vào trận địa, hạ được 2 máy bay. Đồng chí đã hy sinh anh dũng trên đài chỉ huy. Giữa trọng điểm đánh phá ác liệt, các chiến sĩ Trường Sơn vẫn ngẩng cao đầu coi mặt đường là trận địa. Chính ở nơi đây “nghe tiếng bom rất nhỏ".

Trên các khu vực làm đường mới, bộ đội ta lao động khẩn trương, căng thẳng suốt đêm ngày. Vừa khảo sát vừa thi công; thi công nhảy cóc, thi công hai đầu giáp lại, cải tiến cách đánh đổ cây lớn bằng thuốc nổ... và những sáng kiến khác đã nâng cao năng suất lao động, phát huy công suất phương tiện và công cụ, làm cho tốc độ mở đường nhanh chóng đến bất ngờ. Đường tránh Cu Xê Bao ở phía bắc trọng điểm dài khoảng 20 km leo ngang sườn núi đá rất khó thi công, nhưng cứ mỗi ngày có thêm đường.

Máy bay trinh sát OV 10 của địch bay vè vè suốt ngày trên các khu vực ta tác nghiệp để dò la tình hình. Thỉnh thoảng, những chùm bom tọa độ rơi trúng đội hình, gây thương vong nhưng khí thế lao động trên công trường rất khẩn trương, sôi động.

Ngày 5 tháng 11, ta khôi phục xong trục chính và mở được một trục tránh từ bắc Xiêng Phan đến Xóm Péng dài 10 km, trọng điểm Xiêng Phan được khai thông.

Ngày 2 tháng 12, trọng điểm ATP được giải tỏa, hình thành ba trục vượt khẩu có tổng chiều dài 48 km; ba ngầm vượt sông Ta Lê được tôn bằng 2.000 m3 đá.
 
Trên cả hai trọng điểm, các hệ thống công sự, trạm chỉ huy giao thông, đài quan sát trận địa pháo, trận địa công binh, trạm cấp cứu phẫu thuật, mạng thông tin hữu tuyến và vô tuyến, cùng sở chỉ huy tiền phương của binh trạm được nhanh chóng triển khai đồng bộ, hoàn chỉnh.

Hàng trăm xe ứ lại ở hai đầu trọng điểm dồn dập vượt khẩu. Đây là thời điểm đánh dấu sự phá sản bước đầu âm mưu bịt cửa khẩu của đế quốc Mỹ.

Vài ngày sau, địch phát hiện trọng điểm đã được giải tỏa. Chúng phán đoán ta đã mở đường tránh nên trinh sát suốt ngày đêm. Chỗ nào ngờ vực có đường là máy bay cường kích kéo đến oanh tạc. Khoảng 15 ngày sau, những đường mới mở cũng bị chúng phát hiện và đánh phá mạnh bằng máy bay B52. Nhưng thế trận đã thay đổi, địch buộc phải phân tán lực lượng đánh cả ba trục làm cho mật độ bom trúng đường bị giảm, không cản nổi đội hình vận chuyển cơ giới của ta.

Được tin hai trọng điểm cửa khẩu được giải tỏa, nhất là cửa khẩu ATP, toàn tuyến phấn khởi bừng bừng khí thế. Tiền tuyến, hậu phương đều chia sẻ niềm vui trước thắng lợi chung. Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng điện biểu dương Đoàn 559.

Đánh bại hành động tập kích quy mô lớn của không quân Mỹ ở hai cửa khẩu có ý nghiã rất to lớn. Mặc dù gần 200 cán bộ, chiến sĩ bị thương vong, nhưng chứng tỏ dù địch đánh phá mạnh, âm mưu thủ đoạn xảo quyệt, phương tiện kỹ thuật tiên tiến, chúng không thể ngăn được quyết tâm sắt đá, tinh thần dũng cảm, ngoan cường, mưu trí, sáng tạo của Bộ đội Trường Sơn. Một lần nữa, Bộ đội Trường Sơn có thêm bài học sâu sắc về đánh giá địch, ta, về tổ chức chiến đấu, nghi binh lừa địch, về tổ chức thế trận cầu đường bảo vệ trọng điểm, về ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Với sự nỗ lực của các lực lượng toàn tuyến, các yếu tố chuẩn bị cho đợt Tổng công kích quy mô lớn của chiến dịch vận chuyển mùa khô 1968- 1969 cơ bản hoàn thành. Chân hàng trên hai binh trạm 31, 32 đã có gần 10.000 tấn.

Hậu quả nặng nề của cơn bão số 8 phá hủy hàng loạt đường, cầu, phà, ngầm trên các tuyến vượt khẩu đã được khắc phục. Nhiều đường vòng các trọng điểm được mở, các hệ thống hầm hào tiếp cận trọng điểm, hầm tránh bom dọc đường, các đài quan sát máy bay oanh tạc, các trạm chỉ huy giao thông, các điểm chốt kích kéo cứu xe, các điểm chốt các đội phẫu thuật cấp cứu thương binh đã được bố trí xong.

Các phân đội chuyên trách như: mở đường, bảo đảm cầu phà, trinh sát bom mìn, điều chỉnh giao thông chống phá hoại, rà phá các loại bom mìn hỗn hợp được tổ chức và đi vào hoạt động.

Trên mặt trận tác chiến phòng không, ta đã bố trí Trung đoàn 591 pháo cao xạ ở trọng điểm yết hầu Văng Mu. Phương án bố trí bảo đảm tập trung đủ mạnh, hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung, có tầng cao, tầng thấp, kết hợp chốt với cơ động bảo vệ đội hình xe và đón lõng tiêu diệt máy bay bay thấp. Bộ Tổng tham mưu tăng cường hai trung đoàn cao xạ 280 và 284 bảo vệ hai cửa khẩu trên đường 12 và đường 20.

Trên mặt trận tác chiến mặt đất, bố trí 5 tiểu đoàn và 12 đại đội bộ binh chiếm lĩnh các điểm cao từ xa, kết hợp với cơ động lùng sục tiêu diệt biệt kích thám báo khi chúng tiếp cận mặt đường để dò la tình hình và chỉ điểm.

Về giao liên, bố trí 10 tiểu đoàn trên tuyến đường dài gần 1.000 km, mở thêm một tuyến mới, tổ chức 67 trạm giao liên đường bộ, 17 trạm giao liên đường cơ giới cùng với các bãi trú quân, các hệ thống hầm hào và bếp Hoàng Cầm.

Về vận chuyển, bố trí 15 tiểu đoàn ô tô vận tải với 2.055 xe trên 15 cung có tổng chiều dài gần 2.000 km. Các đơn vị xe chủ lực đều có căn cứ đứng chân, bàn đạp xuất kích. Các khu kho với sức chứa từ 5.000- 10.000 tấn hàng với 20 đại đội bốc dỡ được bố trí tương ứng với số xe của từng binh trạm. Hơn 240 km đường xe ra vào các khu kho được xây dựng theo quy hoạnh đảm bảo cơ động đội hình xe lớn và giải phóng xe nhanh, hàng loạt.
 
Để bảo đảm chỉ huy thông suốt, sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tư lệnh và các binh trạm được xây dựng trên các vị trí thuận lợi cho chỉ huy hiệp đồng binh chủng, nắm tình hình và xử lý mau lẹ các tình huống phức tạp xảy ra trên địa bàn phụ trách. Thông tin liên lạc giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác chỉ huy được triển khai sớm, hình thành mạng lưới hữu tuyến, vô tuyến, tải ba, tiếp sức và các tổng trạm thông tin khu vực, tổng trạm thông tin trung tâm từ Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh tỏa xuống tất cả các đơn vị từ cấp đại đội trở lên trên toàn tuyến, đảm bảo chỉ huy vững chắc ở mọi nơi, trong mọi tình huống.

Về hậu cần, đã tổ chức 1 bệnh viện, 14 đội điều trị, 50 đội phẫu thuật, hoàn chỉnh hệ thống cấp cứu thương binh từ tiền tuyến đến hậu cứ. Các cơ sở vật chất bảo đảm đời sống cho bộ đội chiến đấu dài ngày được chuẩn bị tương đối đầy đủ.

Về công tác chính trị tư tưởng, cơ quan chính trị các cấp đã quán triệt tình hình nhiệm vụ, xây dựng tư tưởng tiến công, phát động phong trào "Đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" giành cờ thưởng luân lưu của Chủ tịch nước. Tờ báo Trường Sơn của cơ quan chính tri Bộ Tư lệnh Đoàn, tờ tin của các binh trạm được phát hành rộng rãi. Các đoàn văn công từ hậu phương vào, các đội văn nghệ của Đoàn và Binh trạm hoạt động sôi nổi. Đầu tháng 1 năm l969, Tư lệnh Đoàn 559 và Tư lệnh Đoàn 500 được triệu tập ra báo cáo Quân ủy Trung ương về chủ trương, biện pháp giành thắng lợi trên mặt trận vận chuyển chi viện chiến lược và nhận chỉ thị mới về nhiệm vụ mùa khô 1968- 1969.

Ngày 12 tháng 1 năm 1969, Tư lệnh Đoàn 559 từ Hà Nội về tới Sở chỉ huy cơ bản tại Na Hi phía bắc đường 9 chừng 7 km.

Ngày 13 tháng 1 năm 1969, Đảng ủy Bộ Tư lệnh triệu tập hội nghị để truyền đạt tinh thần Nghị quyết Quân ủy Trung ương và đề xuất những nội dung cần tổ chức thực hiện trong đợt "Tổng công kích". Tư tưởng chỉ đạo của Quân ủy Trung ương về tổ chức vận tải chiến lược là:

Xây dựng thế trận vững chắc, phát huy tư tưởng tiến công, kiên quyết đánh địch, kết hợp với phòng tránh và nghi binh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn đánh phá của không quân Mỹ với bất cứ quy mô, cường độ nào.

Về phương thức vận chuyển trên toàn tuyến trong mùa khô, vẫn lấy vận tải cơ giới làm chủ yếu. Hết sức coi trọng khâu khai thác đường sông, phát huy tất cả các phương tiện thô sơ hỗ trợ nhau và vận dụng thích hợp với từng đoạn, từng lúc khác nhau. Phối hợp chặt chẽ giữa tuyến trước với tuyến sau, giữa tuyến hậu cần chiến lược với tuyến hậu cần chiến dịch. Tăng cường tổ chức hậu cần chiến dịch, nhất là đối với chiến trường Trị - Thiên. Chú ý cân đối việc chuyển hàng của tuyến 559 với sức hút của chiến trường. Nỗ lực hơn nữa chở hàng nhanh, kịp thời đến tay bộ đội đủ số lượng, chất lượng tốt.

Bộ Tư lệnh 559 được giao thêm nhiệm vụ tiền phương, Tổng cục Hậu cần trực tiếp chỉ đạo công tác hậu cần các chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, đặc biệt là Trị - Thiên. Đại tá Hoàng Văn Thái - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần được cử làm Phó Tư lệnh kiêm Chủ nhiệm hậu cần Quân khu Trị - Thiên, đồng thời tham gia Đảng ủy Bộ Tư lệnh 559.

Về tình hình nhiệm vụ của Đoàn 559, Đảng ủy chỉ rõ: “Địch ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc là thắng lợi lớn của ta, nhưng chúng chuyển lực lượng đánh phá tuyến 559, trước hết tập trung cao độ lực lượng không quân triệt phá, bịt chặt cửa khẩu chặn đứng sự chi viện miền Nam, âm mưu đó đã bị đánh bại. Nhưng quyết tâm đánh phá ngăn chặn tuyến 559 của chứng không hề thay đổi. Mùa khô 1968- 1969, cường độ đánh phá của chúng sẽ mạnh gấp nhiều lần so với mùa khô năm ngoái. Nhưng sức mạnh của địch cũng có hạn.

Cách đánh của địch có những sơ hở, lúc tăng, lúc giảm, chỗ tăng, chỗ giảm. Chúng đang bị động đối phó với ta trên một tuyến vận tải dài gần 3.000 km. Nếu ta có thế cầu đường vững chắc, nắm vững quy luật địch, vừa nghi binh lừa địch, vừa ngụy trang phòng tránh, vừa kiên quyết đánh địch với tư tưởng chủ động tiến công và tác chiến hiệp đồng binh chủng thì ta có thể thắng chúng.

Tuy nhiên, tiềm lực của địch còn lớn, cách đánh của địch nham hiểm, thường thay đổi quy luật và thủ đoạn đánh phá nên dễ gây cho ta sự lúng túng, tổn thất ban đầu. Do đó, toàn tuyến phải xác định quyết tâm thực hiện nhiệm vụ Quân ủy Trung ương giao, nỗ lực, dũng cảm, nhạy bén tạo thời cơ, chớp thời cơ, chỉ huy linh hoạt, sắc sảo, cùng tuyến hậu phương thực vượt khẩu thắng lợi, tạo chân hàng dồi dào ở các binh trạm phía bắc, tranh thủ nguồn hàng tại chỗ ở phía nam hướng C4. Kiên quyết phấn đấu đạt chỉ tiêu mà Bộ đã giao là 55.157 tấn”.
 
Căn cứ vào tình hình thời tiết, địch tình và sự phát triến của từng chiến trường, Đảng ủy xác định cần thực hiện phương châm vận chuyến vươn xa hơn, sâu hơn, ưu tiên những nơi xa, nơi khó và nơi có khối lượng lớn trước để giảm bớt sức ép căng thẳng cuối mùa. Cần tăng cường khả năng bảo đảm hành quân cho 9 vạn rưỡi quân vào, trong đó có các binh chủng kỹ thuật. Củng cố vững chắc những khu vực tiếp giáp hậu cứ các chiến trường.

Sau khi xem xét các yếu tố chuẩn bị cho chiến dịch vận chuyển. Bộ Tư lệnh quyết định toàn tuyến thực hiện "Tổng công kích" đợt 1 vào 17 giờ ngày 15 tháng 1 năm 1969.

Yêu cầu của "Tổng công kích" là bất cứ tình huống nào cũng phải vận chuyển vượt đường 9 mỗi tháng một vạn rưỡi tấn. Đồng thời, chớp thời cơ khi địch đang bị hút vào các trọng điểm ở phía bắc, tranh thủ vận chuyển giao cho các chiến trường 7.000 tấn/tháng, trước hết ưu tiên cho chiến trường Trị - Thiên và Liên khu 5 . Trong tổng công kích cần vận dụng, phát huy mọi phương thức vận chuyển.

Các binh trạm phía bắc sử dụng hoàn toàn phương thức vận chuyến cơ giới. Các binh trạm phía nam sử dụng phương thức vận chuyển cơ giới đường bộ, kết hợp với vận chuyển đường sông nếu có điều kiện. Các binh trạm đường ngang tiếp giáp chiến trường sử dụng phương thức vận chuyển cơ giới là chính, kết hợp với gùi thồ đi sâu vào hậu cứ chiến trường khi cần thiết. Tất cả các binh chủng phải hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, lấy binh chủng vận tải làm trung tâm, lấy kết quả vận tải làm mục đích.

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh củng chỉ thị cấp chỉ huy binh trạm phải trực tiếp dẫn đầu đoàn xe, có cờ hiệu để động viên khí thế bộ đội: trực tiếp nắm tình hình cầu đường tình hình địch, ta và trực tiếp xử lý các tình huống phức tạp.

17 giờ ngày 15 tháng 1 năm 1969, toàn tuyến 559 ra quân với quyết tâm đánh thắng trận đầu. 11 binh trạm, 5 trung đoàn, 99 tiểu đoàn, 111 đại đội với 4 vạn quân trực tiếp tham gia chiến đấu trong đội hình binh chủng hợp thành. 15 tiểu đoàn ô tô xuất kích trên nhiều tuyến, nhiều hướng. Tất cả các lực lượng đều hướng về phía trước.

Địch phát hiện quy mô vận chuyển lớn của ta, lập tức đánh phá quyết liệt, nhất là các trọng điểm và ráo riết lùng sục đội hình xe. Chúng sử dụng nhiều loại máy bay trinh sát (OV 10, OV2, C 130) được trang bị khí tài đặc biệt, thường xuyên túc trực trên không để tìm kiếm mục tiêu. Đồng thời, chúng rải khắp rừng, dọc tuyến hành lang hàng vạn khí tài trinh sát điện tử, gồm các loại máy cảm ứng địa chấn. Khi bắt được mục tiêu, chúng phát tín hiệu báo cho máy bay đến đánh phá.

Mùa khô 1967- 1968, không quân Mỹ chủ yếu đánh bằng bom phá, bom phát quang, bom bi. Mùa khô này, chúng sử dụng phổ biến các loại bom nổ chậm, bom từ trường, bom bi nổ chậm, mìn vướng nổ, mìn răng rồng, mìn lá. Thủ đoạn đánh phá của chúng là phá hoại đường trước, sau đó thả bom bi nổ chậm, rồi tiếp đến thả bom từ trường, cuối cùng thả mìn vướng nổ. Mục đích là cản trở ta khắc phục đường, ngăn chặn đội hình xe và gây sát thương lớn cho ta.

Các trọng điểm bị đánh phá nhiều nhất bằng thủ đoạn và vũ khí mới là Phe Pha Năng, Xiêng Phan, Xóm Péng ở Binh trạm 31; ATP, Ca Tốc, Cốc Mạc, Văng Mu, ngầm Tha Mé ở Binh trạm 32; Bạc, Đèo Long ở Binh trạm 35; Dốc Thơm, Tam Luông ở Binh trạm 41; Dốc Trực ở Binh trạm 37; Động Con Tiên ở Binh trạm 42; Chà Vằn ở Binh trạm 44; đèo Tha Mé ở Binh trạm 33; La Hạp ở Binh trạm 34... Máy bay định còn ráo riết lùng sục, tìm đánh các căn cứ kho tàng, bãi đậu xe, trạm kỹ thuật, sở chỉ huy các đơn vị.

Từ cuối tháng 1 năm 1969 đến đầu tháng 3 năm 1969, Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh 559 và hầu hết sở chỉ huy các binh trạm đều bị oanh tạc.
Với vũ khí và thủ đoạn đánh phá mới, đánh với cường độ cao một cánh đột biến, địch đã gây cho ta những lúng túng ban đầu và tổn thất lớn về người và phương tiện. Từ đầu tháng 11 năm 1968 đến đầu tháng 2 năm 1969, địch huy động 45.785 lần chiếc máy bay cường kích và 1.618 lần chiếc máy bay chiến lược B52 ném trên nửa triệu quả bom các loại xuống các trọng điểm, đánh hỏng 300 xe, làm thương vong 500 cán bộ, chiến sĩ.

Bộ Tư lệnh đã lệnh cho các đơn vị Pháo cao xạ chốt ở các trọng điểm chiến đấu kiên cường, tập trung hỏa lực, đánh dứt điểm, tiêu diệt các loại máy bay thả các phương tiện trinh sát điện tử và máy bay cường kích thả bom mìn hỗn hợp. Các phân đội súng máy 12,7 ly cơ động đón lõng đường bay, các phân đội súng trường leo lên đỉnh núi, kiên quyết bắn rơi máy bay địch.
 
Bộ Tư lệnh phát động rộng rãi phong trào bắn rơi máy bay bay thấp, tích cực đanh địch một cánh liên tục cả ngày lẫn đêm, tạo nên uy lực và hỏa lực liên hoàn tiêu diệt và uy hiếp địch. Tổ chức phòng tránh và nghi binh lừa địch, tận dựng kinh nghiệm đánh địch, tránh địch và nghi binh ở trọng điểm ATP, nhử địch vào một hướng, tuyến, nhanh chóng vu hồi, lật cánh đội hình vận chuyển sang hướng, tuyến khác để giữ vừng sức đột kích. Tăng cường đài quan sát bám sát các máy bay cường kích, nắm chính xác số lượng các đợt đánh phá, số lượng bom mìn và phương tiện trinh sát điện tử, thời gian và địa điểm rơi của chúng, kịp thời báo cáo về sở chỉ huy binh trạm và tiểu đoàn để xử lý.

Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Chính trị ngày đêm theo dõi, chỉ đạo và trực tiếp giúp đỡ Đoàn 559. Tháng 2 năm 1969, Bộ điều tiểu đoàn xe bọc thép AM có gắn súng máy 14,5 ly bổ sung cho Đoàn để cơ động đánh máy bay bay thấp.

Bộ cũng điều vào 5 xe phóng từ BTR do Viện Kỹ thuật Quân sự sáng chế. Các đồng chí Hoàng Đức Dụ, Chử Ngọc Bích, Thái Quang Sạ, Nhâm Xuân Cũng được Cục Nghiên cứu kỹ thuật Quân sự - Tổng cục Hậu cần phái vào tuyến, hướng dẫn cách sử dụng.

Bộ còn tăng cường cho Đoàn nhiều cán bộ chỉ huy chiến đấu phòng không. Đồng chí Ngô Huy Biên được điều vào làm Tham mưu phó phòng không của Đoàn. Các đồng chí Vũ Thành, Phạm Lê Hoàng, Nguyễn Văn Tiệp, Trần Bưởi, Trần Bút và nhiều cán bộ phòng không khác lần lượt được điều vào tuyến 559.

Trong khi toàn tuyến rầm rộ bước vào đợt Tổng công kích, toàn thể cán bộ, chiến sĩ được nghe lời chúc mừng năm mới của Hồ Chủ tịch gửi đồng bào cả nước. Bác kêu gọi:

Vì độc lập vì tự do ...
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào

Lời của Bác như tiếng gọi của núi sông, làm rung động trái tim, cổ vũ khí thế cán bộ, chiến sĩ trên tuyến Trường Sơn quyết xả thân vì sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tiểu đoàn xe 10, Tiểu đoàn xe 102, Tiểu đoàn xe 52;

Tiểu đoàn 60, Tiểu đoàn 51..., là những tiểu đoàn mạnh của các binh trạm phía bắc, đã xông pha bom đạn hết đêm này qua đêm khác. Một số đại đội tới đích trả hàng xong còn quay về để tiếp chuyển cho những xe bị đánh hỏng dọc đường như Đại đội 9, Tiểu đoàn 102, Đại đội 1, Tiểu đoàn 52. Đảng ủy Bộ Tư lệnh đã điện biểu dương tặng các đơn vị trên danh hiệu "Tuấn mã Trường Sơn".

Tháng 1 năm 1969, toàn tuyến bắn rơi 91 máy bay, trong đó có 50 chiếc rơi tại chỗ. Nhiều đơn vị phòng không được Đảng ủy Bộ Tư lệnh biểu dương là đơn vị đánh giỏi bắn trúng. Các chiến sĩ công binh với kinh nghiệm dày dạn và tinh thần quyết tử "Một tấc không đi, một ly không dời” thường xuyên bám sát mặt đường kịp thời khôi phục đường khi bị trúng bom, thực hiện khẩu hiệu "địch đánh ngày coi như không đánh, xóa bỏ tắc đêm, hạn chế tắc giờ”.

Một trong những thử thách mới trong mùa khô này là bom từ trường và mìn vướng nổ. Các tiểu đoàn công binh đều thành lập đội cảm tử để khắc phục. Lúc đầu bị thương vong, nhưng dần dần rút được kinh nghiệm, lại có xe phóng từ hỗ trợ nên phần lớn đã phá được. Nhưng có những trường hợp bị địch đánh bất ngờ vào nơi ta không có phương tiện rà phá nên lái xe phải quyết tử phóng xe vượt bom từ trường để mở đường giải phóng đội hình. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Đoàn đã chỉ thị tăng cường phương tiện rà phá, mở thêm nhiều đường tránh để hạn chế thương vong.

Đối với mìn vướng, các đơn vị đã sử dụng các phương tiện thô sơ để phá như dùng sào để chọc, hoặc dùng các liều nhỏ thuốc nổ để ném. Với mìn lá, dùng máy húc quét. Vì bị ta đánh mạnh, địch ném bừa bom mìn hỗn hợp vào rừng.
 
Bằng các phương tiện chiến tranh điện tử hóa và tự động hóa, địch đã tăng thêm khả năng phát hiện mục tiêu, phá hủy nhiều phương tiện và gây thương vong không ít cho ta. Sau một tháng chiến đấu liên tục, "Tổng công kích" đợt 1 kết thúc thẳng lợi. Đảng ủy Bộ Tư lệnh họp nhận định:

" Vào đầu mùa khô, địch đánh phá ác liệt chưa từng thấy, nhưng vẫn không ngăn chặn được chúng ta. Điều đó chứng tỏ sức mạnh ý chí quyết tâm sắt đá, tinh thần cực kỳ dũng cảm ngoan cường, sự mưu trí và sáng tạo của bộ đội cũng như trình độ tổ chức chỉ huy hiệp đồng binh chủng của cán bộ các cấp có những bước tiến lớn.

Sắp tới địch sẽ xảo quyệt hơn, tàn bạo hơn, cường độ đánh phá của chúng mãnh liệt hơn. Nhưng chúng ta cũng hiểu địch hơn, rút được nhiều kinh nghiệm trên nhiều mặt, lại có thế trận tương đối vững chắc, có lực lượng chiến đấu dày dạn kinh nghiệm và kiên cường, được bố trí hợp lý, nhất định chúng ta sẽ đánh bại chúng”.

Đảng ủy chỉ rõ: Vừa qua ta đã nỗ lực vượt bậc, nhưng do hoạt động của tuyến bị ngừng trệ mất 2 tháng đầu mùa khô (từ 15-10 đến 15-12) nên trong "Tổng công kích" đợt 1 ta cùng chỉ mới đưa tới các chiến trường được 30% chỉ tiêu kế hoạch, còn 70% ta phải hoàn thành bằng được trong 3 tháng mùa khô còn lại (tháng 2 - 3 - 4), đồng thời phải chủ động đối phó với mưa lũ có thể đến sớm.

Để hoàn thành được khối lượng đó, phải quán triệt hơn nữa tư tưởng tiến công, phát huy hơn nữa sức mạnh tổng hợp, thực hiện tốt chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng, vận dụng tốt các chiến thuật, xây dựng đồng bộ tư tưởng, tổ chức, kỹ thuật, hậu cần trong từng binh chủng. Đồng thời, tận dụng thời cơ các tháng cao điểm mùa khô, phát động quần chúng đột phá dứt điểm kế hoạch cho từng hướng chiến trường theo thứ tự ưu tiên đã xác định. Cần có phương án đối phó với địch mặt đất trên địa bàn các binh trạm trực tiếp phục vụ các chiến trường.

Đảng uỷ Bộ Tư lệnh quyết định phát động “tổng công kích" đợt 2 vào ngày 5 tháng 2 năm 1969, cử Phó Chủ nhiệm chính trị Bùi Đức Tạm và Nguyễn Linh Anh vào các binh trạm phía nam để truyền đạt chỉ thị và phổ biến kinh nghiệm cửa các binh trạm phía bắc.

Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh, các lực lượng trên toàn tuyến đã dốc sức chuẩn bị với quyết tâm giành thắng lợi to lớn, giòn giã trong “tổng công kích" đợt 2. Các binh trạm đều tích cực cải thiện cầu đường, bảo đảm thế vững chắc hơn.

Thế cầu đường của toàn tuyến từ một trục dọc đã phát triển thành hai trục, dài 1.850 km, ba trục ngang vượt khẩu dài 400 km, bốn trục ngang ra 4 hướng chiến trường dài 450 km. Qua các trọng điểm đều có từ 2 đến 3 đường vòng, đường tránh. Trên các cung đường tránh phụ, bộ đội công binh thường xuyên duy tu, nâng chất lượng đường, mở rộng mặt đường qua trọng điểm từ 8 - 10 m, san phẳng đường bảo đảm tốc độ xe 20 km/giờ.

Với mạng cầu đường được xây dựng thành thế trận liên hoàn, ta có khả năng hạn chế sức mạnh của địch, chia cắt, phân tán hỏa lực của chúng, tạo điều kiện cho các đơn vị khắc phục nhanh bom mìn, giữ vững sức đột kích của đội hình vận chuyển.

Lực lượng phòng không được điều chỉnh, tăng cường cho các khu vực cửa khẩu, nam bắc đường 9, ngã ba La Hạp và Bạc. Toàn tuyến phát động phong trào bắn rơi máy bay bay thấp thả máy thu phát tiếng động, tổ chức nghi binh lừa địch vào mục tiêu giả nhằm vô hiệu hóa từng bước chiến tranh điện tử và tự động hóa của địch.

Các lực lượng tác chiến bộ binh một mặt tích cực lùng sục thám báo biệt kích, mặt khác sẵn sàng phương án cơ động nhanh tới những khu vực dự kiến địch nống ra, nhất là các khu vực trên trục đường B45, B46, B49 đi ra bốn hướng chiến trường Trị - Thiên, Khu 5, Nam Bộ, Tây Nguyên. Trong tác chiến, quán triệt tư tưởng chủ động tiêu diệt địch, làm chủ chiến trường, bắt tù binh. thu chiến lợi phẩm, giải quyết tốt chính sách thương binh liệt sĩ và tù hàng binh.
 
Đối với vận tải, các binh trạm quán triệt chiến thuật tiểu đoàn (hoặc đại đội) tập trung xuất kích trên một chiều thuận hoặc trên hai chiều tránh nhau ở giữa, bảo đảm đội hình đi gọn về gọn; cải tạo bàn đạp, thực hiện lấn sáng, lấn chiều; cải tiến cung độ, có cung cơ bản, có cung tiếp chuyển phù hợp với khả năng và chỗ mạnh của từng đơn vị và lái xe, nâng cao hiệu suất vận chuyển. Nhiều đơn vị tổ chức các tổ mũi nhọn, bứt phá đội hình, quay vòng khép kín 1 đêm 1 chuyến trên cung quy định 2 đêm 1 chuyến; tổ chức các tổ tháo gỡ, thu hồi phụ tùng xe bị địch đánh cháy dọc đường, tăng thêm vật tư sửa chữa, nâng cao hệ số kỹ thuật đảm bảo đầu xe, đầu máy. Tổ chức hiệp đồng bốc dỡ giải phóng xe nhanh, đảm bảo mặt hàng ra chiến trường đồng bộ, có chất lượng.
Bộ đội giao liên tích cực củng cố bãi trú quân, mở đường nhánh, nối trục hành quân bộ với trục vận tải cơ giới để tiện cho việc tiếp tế và khi cần thiết chuyển từ hành quân bộ sang hành quân bằng cơ giới, rút ngắn thời gian, bảo đảm sức khỏe bộ đội.

Các tổ dân vận đi xuống các bản tuyên truyền giáo dục về quan hệ giữa cách mạng Lào và Việt Nam, vạch trần âm mưu thủ đoạn của địch; động viên nhân dân kêu gọi con em trong hàng ngũ địch trở về với gia đình, phát hiện và thông báo kịp thời hoạt động của bọn thám báo biệt kích, tích cực làm hầm trú ẩn, ngụy trang, đề phòng lửa khói.

Các mặt công tác tổ chức chỉ huy, tư tưởng chính trị, kỹ thuật hậu cần phối hợp chặt chẽ, bám sát nhiệm vụ, bám sát đơn vị, thúc đẩy các lực lượng hoàn thành nhiệm vụ.

Trong những tháng "Tổng công kích" đợt 2 các đại đội xe Zil 130 đã đạt năng suất gấp 1,5 lần đại đội xe 3 cầu. Thành công bước đầu trong việc sử dụng xe Zin 130 góp phần nâng cao sức chiến đấu cho các đơn vị xe, là bài học sâu sắc về tính quyết đoán, sáng tạo và thực tiễn.

Đầu tháng 3 năm 1969, được sự chỉ đạo của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện, Cục Xăng dầu đã xây dựng được tuyến đường ống dẫn xăng dầu từ Cổng Trời theo đường 12 vượt Trường Sơn vào đến tuyến 559.

Liên tục chiến đấu trong những điều kiện cực kỳ gian khổ và ác liệt, Tiểu đoàn 29 và Tiểu đoàn 968 của Quân khu 4 được tăng cường cho Cục Xăng dầu, phối hợp với Trung đoàn 83 công binh Đoàn 559 đã mở đường, khuân vác hàng trăm tấn đường ống vượt qua đồi núi, sông suối, bom đạn, lắp đặt từ hậu phương theo hướng tây từ Mụ Giạ men theo đường số 12 vòng qua trọng điểm Pha Nốp, Xiêng Phan vào tới Ka Vát trên trục đường 128 tuyến chiến lược Trường Sơn.

Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh ở Việt Nam, tuyến đường ống dẫn xăng từ hậu phương lớn vượt Trường Sơn vào đến tuyến chiến lược tạo thêm một nhân tố mới cực kỳ quan trọng cho vận chuyển cơ giới quy mô lớn. Trong 1 tháng, hệ thống đường ống đã tạo chân xăng cho tuyến 559 được 6.212 tấn, góp phần bảo đảm cho việc tiếp tục đợt 2 "Tổng công kích" mùa khô 1968 - 1969, nhất là khi chân xăng ở hướng C4 bị cắt đứt do Mỹ mở cuộc tấn công sang Campuchia.

Sau khi đưa đường ống tới Ka Vát, Tổng cục Hậu cần nhận thấy hướng này đi theo đường vòng cự ly xa, không có lợi nên đã bàn và thống nhất với Đoàn 500 và Đoàn 559 mở thêm các trục vận chuyển vượt khẩu từ đường 10, theo đó sẽ phát triển đường ống sang hướng đông để tiếp cận nhanh xăng vào Đoàn 559.

Nhận rõ vị trí chiến lược của hệ thống đường ống; sau khi xin ý kiến của đồng chí Đinh Đức Thiện, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã kiến nghị với Quân ủy Trung ương cho Đoàn 559 tổ chức lực lượng khảo sát thi công, xây dựng một tuyến đường ống xuyên suốt Trường Sơn từ cửa khẩu vào tới chiến trường xa nhất là miền Đông Nam Bộ với chiều dài khoảng 1.400 km.

Chủ trương đúng đắn và kịp thời đó đã được Quân ủy Trung ương phê duyệt, đáp ứng khát vọng cháy bỏng của bộ đội vận tải. Nhưng phải có sự quả cảm và giải pháp cụ thể mới thực hiện được, vì việc xây dựng tuyến đường ống hiện đại và quy mô, trong điều kiện vô cùng phức tạp về địa hình, thời tiết, sự đánh phá, ngăn chặn ác liệt của địch, đòi hỏi phải huy động nhân lực, vật lực khổng lồ là vấn đề rất lớn và bội phần khó khăn. Tuy nhiên, nếu thực hiện được sẽ là một bất ngờ lớn đối với địch và sẽ thêm một kỳ tích trên đường Trường Sơn.

Tuyến đường ống xuyên suốt Trường Sơn được xây dựng sẽ tạo nên sự chuyển biến về chất lượng trong hoạt động chi viện chiến lược, tăng thêm sự vững chắc của hậu cứ chiến trường ba nước Đông Dương.
 
Từ đầu tháng 3 năm 1969, địch thay đổi thủ đoạn, đánh phá dữ dội hai đầu gọi là "thắt cổ họng và chọc thủng đáy". Chúng đánh mạnh các binh trạm phía bắc nhằm ngăn chặn việc lập nguồn hàng dự trữ ở đường 9, đồng thời đánh phá quyết liệt các binh trạm tiếp giáp chiến trường như đường B45 thuộc Binh trạm 42 tiếp giáp chiến trường Trị - Thiên, hòng triệt nguồn tiếp tế hậu cần, phá sự chuẩn bị các cuộc tiến công của ta. Máy bay cường kích vừa ném bom rải thảm, vừa đánh bổ nhào, biến những nơi này thành các túi lửa. Đường vận chuyển bị tắc hầm hào bị phá sập, các kho tàng, các bãi để xe, sở chỉ huy binh trạm đều bị đánh phá. Cao điểm Cô Ca Va bị 6 tiểu đoàn quân Mỹ - ngụy chiếm đóng.

Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt: Tiểu đoàn pháo cao xạ 36, Đại đội 4 súng máy 12,7 ly, cùng với các phân đội súng máy của công binh và các tay súng bộ binh đã chiến đấu rất anh dũng, vừa bảo vệ trọng điểm, vừa cơ động linh hoạt, bắn rơi, bắn cháy nhiều máy bay.

Tiểu đoàn 2 bộ binh, 2 đại đội (Lam Sơn và 643) bộ binh cùng Trung đoàn 4 công binh cơ động bao vây địch ở Cô Ca Va, diệt hàng trăm tên, buộc chúng phải rút chạy. Tiểu đoàn 45 và Tiểu đoàn 39 công binh được tăng cường 4 máy húc, 24 tấn thuốc nổ, kiên cường bám trụ trọng điểm, nhanh chóng khôi phục hầm hào, kết hợp sửa đường với mở đường vòng đường tránh, giải tỏa các trọng điểm. Tiểu đoàn 55 ô tô vận tải dũng cảm vượt qua bom đạn đưa hàng lên phía trước. Một số cán bộ, chiến sĩ hy sinh, nhiều xe bị cháy, nhưng không ai nao núng.

Cuộc chiến đấu cực kỳ ác liệt, giành đi, giật lại từng thước đường với địch kéo dài 15 ngày đêm. Mỹ, ngụy quyết cắt đứt sự tiếp viện cho chiến trường, ta thì bằng mọi giá quyết thực hiện kỳ được chỉ tiêu nhiệm vụ Quân ủy đã giao bảo đảm cho chiến trường Trị - Thiên 15.000 tấn để chuẩn bị những đòn tấn công mới. Với tinh thần chiến đấu dũng cảm và mưu trí, Binh trạm 42 đã làm thất bại âm mưu thủ đoạn của địch, giữ vững tuyến vận chuyển.

Cuối tháng 4 năm 1969, trời âm u, mây thấp, những cơn mưa đầu tiên báo hiệu mùa mưa đến sớm. Địch tăng cường đánh tọa độ và dùng B52 ném bom rải thảm, nhưng không ngăn chặn được vận chuyển vì ta đã có nhiều đường vòng, đường tránh Bộ đội vận tải lợi dụng mây mù che khuất tầm nhìn của địch, tranh thủ lấn sáng lấn chiều, liên tục mở các đợt vận tải đột kích vào các hướng chiến trường. Cuối tháng 5, thời tiết chuyển dần sang mùa mưa. Chiến dịch vận chuyển mùa khô 1968 - 1969 kết thúc .

Đây là một mùa vận chuyến vô vàn khó khăn ác liệt, đầy thử thách ngặt nghèo. Cả ta và địch đều huy động rất cao trí tuệ và sức mạnh vật chất nhằm giành phần thắng quyết định. Mỹ đã huy động tối đa lực lượng không quân ở Thái Bình Dương, thực hiện 47.820 phi vụ với 137.345 lần chiếc máy bay oanh tạc, đánh phá cầu đường và đội hình xe. Cường độ đánh phá tăng gấp ba lần mùa khô 1967 - 1968, trong đó có 3.853 lần chiếc B52 (tăng gấp 5 lần).

Chúng đã ném 1.579.760 tấn bom các loại, trong đó có 18.628 tấn bom từ trường và hàng ngàn tấn mìn vướng nổ, rốc két... Chúng đã thâm nhập 182 vụ, chủ yếu là dùng thám báo, biệt kích đổ bộ bằng trực thăng, trong đó có 5 trận đổ bộ quy mô trung đoàn, tiểu đoàn vào địa bàn các binh trạm tiếp giáp chiến trường, với ý đồ ngăn chặn vận chuyền của ta, phá sự chuẩn bị tấn công của các chiến trường. Nhưng chúng đã vấp phải sự giáng trả kiên quyết.

Trong 6 tháng mùa khô, toàn tuyến bắn rơi 380 máy bay các loại, trong đó có 168 chiếc rơi tại chỗ..., đã nghi binh lừa địch đánh vào hàng trăm mục tiêu giả với trên một vạn quả bom, đã diệt 2.097 tên lính bộ binh, làm bị thương 216 tên, bắt 24 tên, bắn rơi 47 trực thăng, thu nhiều vũ khí, đạn.

Bộ đội công binh, thanh niên xung phong đã san lấp trên 1 vạn hố bom, khôi phục mở rộng mặt đường với khối lượng trên 2 triệu mét khối đất đá; mở trên 1.000 km đường dọc, đường ngang, đường vòng, đường tránh, nâng tổng cây số chiều dài các đường vận chuyển lên gần 3.000 km, phá dần thế độc đạo; bộ đội vận tải đã giao cho các chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên đạt 103% kế hoạch, đưa 348 đoàn quân (gồm 98.242 người). Đã giúp bạn củng cố địa bàn ở 11 huyện, kiện toàn các huyện đội phát triển thêm 4.000 quân bộ đội địa phương và dân quân du kích.

Các lực lượng trên tuyến đã phối hợp với bạn đánh 11 trận, tiêu diệt 110 tên, bắt 68 tên. Bộ đội địa phương và dân quân miền Đông tỉnh A Tô Pơ bắn rơi 11 trực thăng bằng súng máy và súng bộ binh, góp phần củng cố an toàn hành lang và bản làng. Nhân dân huyện ăng Khăm, Bu La Pha, Mường Noọng, Sê Pôn di chuyển bản làng xa tuyến đường mới, tổ chức đào hầm hố phòng tránh, ổn định cuộc sống. Tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa quân và dân hai nước Việt - Lào trên địa bàn Trường Sơn ngày càng thắm thiết
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top