ngan trang
New member
- Xu
- 159
II. NHỮNG BƯỚC TIẾN DÀI, VƯƠN RỘNG
Mùa thu năm 1960, miền Bắc cơ bản hoàn thành kế hoạch khôi phục và cải tạo kinh tế bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, Mỹ-ngụy chuyển sang thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt”. Cách mạng miền Nam chuyển từ đấu tranh chính trị lên kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị. Tình hình mới đòi hỏi Đảng ta kịp thời đề ra chiến lược cách mạng mới.
Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III tiến hành tại Thủ đô Hà Nội.
Khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà".
Sau 3 năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III, miền Bắc đã có sự thay đổi sâu sắc toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Những thành tựu đó không chỉ khẳng định thắng lợi bước đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc mà còn tạo cơ sở vật chất, kinh tế - xã hội, sức mạnh chính trị - tinh thần cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Ở miền Nam, từ cuối năm 1960, hình thức thống trị thực dân mới thông qua chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm bị thất bại. Mỹ - ngụy buộc phải thay đổi chiến lược.
Ngay sau khi nhậm chức Tổng thống Mỹ (28/1/1961) Kennơđi đã chọn miền Nam Việt Nam làm nơi thí nghiệm chiến lược "Chiến tranh đặc biệt”. Quân đội Sài Gòn được sử dụng làm công cụ tiến hành càn quét, dồn dân, lập ấp chiến lược trên quy mô lớn, hòng tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân; chiếm lại những địa bàn và những vùng đông dân cư đã mất do cuộc Đồng Khởi của ta; nhanh chóng bình định miền Nam.
Để đối phó, tiến tới đánh thắng chiến lược "Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, trên cơ sở thế và lực đã có Đảng ta chủ trương chuyển cách mạng miền Nam lên giai đoạn mới, phát triển các cuộc khởi nghĩa từng phần thành chiến tranh cách mạng trên toàn miền Nam.
Ngày 31 tháng 1 năm 1961, Bộ Chính trị ra nghị quyết về nhiệm vụ quân sự 5 năm (1961- 1965) và phương hướng, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị chỉ rõ những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng miền Nam lúc này là: Phát triển nhanh lực lượng vũ trang, cả lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động; chú trọng mở rộng các căn cứ địa, xây dựng hậu phương tại chỗ...
Về tổ chức chỉ đạo, chỉ huy, Bộ Chính trị đề ra những chủ trương quan trọng; đặc biệt là: "Mở rộng đường hành lang vận chuyển Bắc - Nam, cả đường bộ và đường biển, tăng cường cán bộ chỉ huy, chính trị, hậu cần và một số đơn vị chiến đấu cấp đại đội tiểu đoàn, nâng dần quy mô và khối lượng tiếp tế, vận chuyển phương tiện vũ khí, cung cấp tài chính từ miền Bắc vào miền Nam".
Trong tình hình thế giới còn có những diễn biến phức tạp, đối với hoạt động vận tải vào chiến trường cũng như đối với cách mạng miền Nam nói chung, Bộ Chính trị vẫn chủ trương: "Phải hành động khéo léo để tránh một cuộc can thiệp vũ trang lớn của đế quốc, thực hiện kiềm chế Mỹ và thắng Mỹ ở miền Nam. Đồng thời phải tích cực chuẩn bị, sẵn sàng đối phó với âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của địch".
Chủ trương của Bộ Chính trị có ý nghĩa chỉ đạo trực tiếp đối với hoạt động của tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn.
Mùa thu năm 1960, miền Bắc cơ bản hoàn thành kế hoạch khôi phục và cải tạo kinh tế bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, Mỹ-ngụy chuyển sang thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt”. Cách mạng miền Nam chuyển từ đấu tranh chính trị lên kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị. Tình hình mới đòi hỏi Đảng ta kịp thời đề ra chiến lược cách mạng mới.
Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III tiến hành tại Thủ đô Hà Nội.
Khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà".
Sau 3 năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III, miền Bắc đã có sự thay đổi sâu sắc toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Những thành tựu đó không chỉ khẳng định thắng lợi bước đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc mà còn tạo cơ sở vật chất, kinh tế - xã hội, sức mạnh chính trị - tinh thần cho sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Ở miền Nam, từ cuối năm 1960, hình thức thống trị thực dân mới thông qua chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm bị thất bại. Mỹ - ngụy buộc phải thay đổi chiến lược.
Ngay sau khi nhậm chức Tổng thống Mỹ (28/1/1961) Kennơđi đã chọn miền Nam Việt Nam làm nơi thí nghiệm chiến lược "Chiến tranh đặc biệt”. Quân đội Sài Gòn được sử dụng làm công cụ tiến hành càn quét, dồn dân, lập ấp chiến lược trên quy mô lớn, hòng tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân; chiếm lại những địa bàn và những vùng đông dân cư đã mất do cuộc Đồng Khởi của ta; nhanh chóng bình định miền Nam.
Để đối phó, tiến tới đánh thắng chiến lược "Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, trên cơ sở thế và lực đã có Đảng ta chủ trương chuyển cách mạng miền Nam lên giai đoạn mới, phát triển các cuộc khởi nghĩa từng phần thành chiến tranh cách mạng trên toàn miền Nam.
Ngày 31 tháng 1 năm 1961, Bộ Chính trị ra nghị quyết về nhiệm vụ quân sự 5 năm (1961- 1965) và phương hướng, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị chỉ rõ những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng miền Nam lúc này là: Phát triển nhanh lực lượng vũ trang, cả lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động; chú trọng mở rộng các căn cứ địa, xây dựng hậu phương tại chỗ...
Về tổ chức chỉ đạo, chỉ huy, Bộ Chính trị đề ra những chủ trương quan trọng; đặc biệt là: "Mở rộng đường hành lang vận chuyển Bắc - Nam, cả đường bộ và đường biển, tăng cường cán bộ chỉ huy, chính trị, hậu cần và một số đơn vị chiến đấu cấp đại đội tiểu đoàn, nâng dần quy mô và khối lượng tiếp tế, vận chuyển phương tiện vũ khí, cung cấp tài chính từ miền Bắc vào miền Nam".
Trong tình hình thế giới còn có những diễn biến phức tạp, đối với hoạt động vận tải vào chiến trường cũng như đối với cách mạng miền Nam nói chung, Bộ Chính trị vẫn chủ trương: "Phải hành động khéo léo để tránh một cuộc can thiệp vũ trang lớn của đế quốc, thực hiện kiềm chế Mỹ và thắng Mỹ ở miền Nam. Đồng thời phải tích cực chuẩn bị, sẵn sàng đối phó với âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của địch".
Chủ trương của Bộ Chính trị có ý nghĩa chỉ đạo trực tiếp đối với hoạt động của tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn.