ngan trang
New member
- Xu
- 159
Tình yêu thuở ấy
Cô bé 17 tuổi với những điệu múa mượt mà đã lay động tâm hồn bao chiến sĩ. Qua chị, họ tìm thấy hình bóng của quê hương, của mẹ tần tảo sớm hôm. Và trong hàng nghìn ánh mắt ấy đã có một ánh nhìn đam mê. Chị đã nhận ra anh và chị đã yêu với một tình yêu lửa cháy.
Kể đến đây tôi thấy chị ngập ngừng. Chị bảo đã có nhiều người đến gặp chị với ý tưởng sẽ viết thành một cuốn tiểu thuyết, nhưng chị chối từ. Bởi tình yêu của chị được viết lên bằng cả cuộc đời, cả những mất mát, hy sinh đâu dễ đem sẻ chia với mọi người được.
Sau một năm vào chiến trường, trong một lần đi biểu diễn ở Sa Ra Van, địa danh thuộc một tỉnh cao nguyên (nước Lào) chị đã gặp anh. Lúc đó đoàn của chị ở sát một trạm thông tin thuộc một trung đoàn bộ binh. Người cùng với chị viết lên câu chuyện tình lãng mạn giữa rừng Trường Sơn có tên Nguyễn Thanh Tùng. Anh quê ở Cổ Đô, Ba Vì, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Phải 25 năm sau chị mới có địa chỉ rõ ràng thế. Khi quen nhau, rồi yêu, chị chỉ biết anh ở Hà Tây, nhưng cụ thể ở đâu thì không nhớ rõ. Tình yêu trong bom đạn đâu cần phải tìm hiểu quá nhiều.
Hai người quen nhau cũng thật tình cờ. Hai doanh trại đóng ở gần nhau, mỗi lần chị ra sân tập múa, hay ra suối giặt quần áo thì hai người gặp nhau. Chung một bờ rào, chung một dòng suối, một bến nước và tình yêu nảy nở. Tuổi 18, sẵn sàng yêu thương, vậy mà suốt 2 năm họ cũng chỉ dừng lại ở những ánh nhìn âu yếm, những cái nắm tay vội vàng. Chị bảo, đó chính là nét đẹp nhất của tình yêu Trường Sơn. Có những đôi nam nữ nằm chung với nhau trong một chiến hào để tránh đạn, nhưng họ vẫn vượt qua được ham muốn nhục dục. Bởi kỷ luật chiến trường, bởi tư cách của một quân nhân không cho phép họ vượt qua giới hạn.
Nhưng tình yêu của chị không thể tới đích. Sau hai năm quen nhau, năm 1975, đơn vị của anh về nước, tham gia chiến dịch giải phóng miền Nam. Chị vẫn còn nhớ cái đêm chia tay ấy. Hai tiếng đồng hồ ngồi với nhau ở cổng doanh trại, lần đầu tiên họ trao cho nhau nụ hôn đầu. Động viên anh rắn rỏi lên đường, chị nói với anh rằng: vì độc lập, vì kỷ luật của người lính, không thể không chấp hành mệnh lệnh. Không thể vì tình yêu mà quay lưng với đồng đội, với Tổ quốc.
19 tuổi yêu và sống, và đã biết hy sinh. Chỉ có trong chiến tranh, trong bom đạn mới rèn đúc được những con người như thế.
Và họ chia tay với niềm tin ngày giải phóng sẽ tìm thấy nhau. Anh bảo: "Nhà anh nằm bên bờ sông Hồng. Nếu em về Việt Nam thì cứ đi dọc bờ sông Hồng là sẽ đến nhà anh". Và hàng chục năm sau chị vẫn khắc khoải nhớ câu nói ấy.
Thân gái dặm trường
Khi chia tay người yêu, do bị sốt rét, sức khỏe suy giảm nên chị không thể tiếp tục làm diễn viên múa. Năm 1976, chị được chuyển sang học nghề y tá. Tốt nghiệp chị đi phục vụ cho một đội nghệ thuật. Đến năm 1977 chị ra tuyến. Chị được cử đi học về nông nghiệp, học ghép cây, trồng lúa. Rồi chị đi chăn dê. Được giao quản lý cả đàn dê 700 con, chỉ có trong tay chiếc đàn acmonica, chị đã huấn luyện đàn dê thuần thục. Chính từ đó mà chị đam mê nghề chăn nuôi và đó cũng là vốn kiến thức đầu tiên cho con đường khởi nghiệp của chị sau này.
Năm 1978, chị ra quân và cũng là lúc chị phải đối mặt với những tháng ngày bi kịch. Chị lấy chồng, có con và thi đỗ Đại học Ngoại giao (nay là Học viện Quan hệ quốc tế). Ra trường chị đi xuất khẩu lao động 4 năm tại Tiệp Khắc, với mong muốn sẽ kiếm được nhiều tiền để chăm lo cho chồng, cho con.
Ở xứ người, chị mải mê kiếm tiền, phải thức trắng đêm đan móc áo bán cho người nước ngoài. Rồi chị mua xích líp xe đạp và gửi về nước. Vất vả là thế, nhưng đổi lại là sự bất hạnh.
Gia đình chị tan vỡ. Không hiểu bằng phép lạ nào mà chị đã vượt qua giai đoạn khó khăn ấy. Một mình bươn chải để gây dựng sự nghiệp và trở thành một nữ doanh nhân thành đạt. Chị bảo có lẽ chính những năm tháng Trường Sơn đã tiếp cho chị nghị lực. Những kỷ niệm Trường Sơn đã làm dịu vợi trái tim chị mỗi khi rỉ máu. Và hơn hết chị còn có các con, chỗ dựa tinh thần để chị đứng dậy và sống.
Nhưng rồi hạnh phúc đã đến khi chị gặp anh V, giờ là chồng của chị. Người đàn ông điềm tĩnh, ít nói và rắn rỏi. Anh là một sĩ quan không quân. Cuộc đời của anh cũng là một chuỗi ngày bất hạnh. Vợ mất vì tai nạn giao thông. Anh ở một mình nuôi hai con nhỏ. Vốn đã quen anh từ lâu, nhưng giữa họ mới chỉ dừng lại ở tình đồng đội. Chứng kiến nỗi đau của anh, trái tim chị đã động lòng trắc ẩn. Rồi được sự vun vén của đồng đội, hai người đến với nhau. Chị bảo, khi gặp anh, chị thực sự tìm thấy hạnh phúc.
Sự đồng cảm của người lính cùng với sự trải nghiệm đằng sau những mất mát khiến anh có đủ bao dung và sẻ chia những vui buồn với chị. Sống với nhau gần 20 năm, anh không thể đem lại cho chị nguồn tài chính dồi dào, cũng không cho chị thêm một đứa con. Nhưng anh luôn dành bờ vai để chị ngả đầu sau một ngày mệt nhọc.
Chị bắt tay vào làm kinh tế từ những đồng vốn ít ỏi khi đi xuất khẩu lao động. Nắm bắt cơ hội khi đất nước mở cửa, hội nhập, chị bước vào con đường kinh doanh. Năm 2003, chị đầu tư một trang trại rộng 50 ha tại tỉnh Hòa Bình. Chị trồng keo, đào ao thả cá, chăn nuôi gà, trâu bò, dê. Tại đây, chị còn xây dựng nhà trẻ và bệnh xá, chị vừa là giáo viên, vừa làm y tá để giúp bà con địa phương.
Chị thành lập Công ty tại Bình Dương, tạo việc làm cho gần 1.000 lao động. Rồi chị tiếp tục mở rộng chi nhánh công ty tại Hưng Yên. Chị thường tâm niệm, chính những năm tháng Trường Sơn đã cho chị kiến thức, bản lĩnh để đối mặt với thách thức của thị trường, tạo bước phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
__________________
Cô bé 17 tuổi với những điệu múa mượt mà đã lay động tâm hồn bao chiến sĩ. Qua chị, họ tìm thấy hình bóng của quê hương, của mẹ tần tảo sớm hôm. Và trong hàng nghìn ánh mắt ấy đã có một ánh nhìn đam mê. Chị đã nhận ra anh và chị đã yêu với một tình yêu lửa cháy.
Kể đến đây tôi thấy chị ngập ngừng. Chị bảo đã có nhiều người đến gặp chị với ý tưởng sẽ viết thành một cuốn tiểu thuyết, nhưng chị chối từ. Bởi tình yêu của chị được viết lên bằng cả cuộc đời, cả những mất mát, hy sinh đâu dễ đem sẻ chia với mọi người được.
Sau một năm vào chiến trường, trong một lần đi biểu diễn ở Sa Ra Van, địa danh thuộc một tỉnh cao nguyên (nước Lào) chị đã gặp anh. Lúc đó đoàn của chị ở sát một trạm thông tin thuộc một trung đoàn bộ binh. Người cùng với chị viết lên câu chuyện tình lãng mạn giữa rừng Trường Sơn có tên Nguyễn Thanh Tùng. Anh quê ở Cổ Đô, Ba Vì, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Phải 25 năm sau chị mới có địa chỉ rõ ràng thế. Khi quen nhau, rồi yêu, chị chỉ biết anh ở Hà Tây, nhưng cụ thể ở đâu thì không nhớ rõ. Tình yêu trong bom đạn đâu cần phải tìm hiểu quá nhiều.
Hai người quen nhau cũng thật tình cờ. Hai doanh trại đóng ở gần nhau, mỗi lần chị ra sân tập múa, hay ra suối giặt quần áo thì hai người gặp nhau. Chung một bờ rào, chung một dòng suối, một bến nước và tình yêu nảy nở. Tuổi 18, sẵn sàng yêu thương, vậy mà suốt 2 năm họ cũng chỉ dừng lại ở những ánh nhìn âu yếm, những cái nắm tay vội vàng. Chị bảo, đó chính là nét đẹp nhất của tình yêu Trường Sơn. Có những đôi nam nữ nằm chung với nhau trong một chiến hào để tránh đạn, nhưng họ vẫn vượt qua được ham muốn nhục dục. Bởi kỷ luật chiến trường, bởi tư cách của một quân nhân không cho phép họ vượt qua giới hạn.
Nhưng tình yêu của chị không thể tới đích. Sau hai năm quen nhau, năm 1975, đơn vị của anh về nước, tham gia chiến dịch giải phóng miền Nam. Chị vẫn còn nhớ cái đêm chia tay ấy. Hai tiếng đồng hồ ngồi với nhau ở cổng doanh trại, lần đầu tiên họ trao cho nhau nụ hôn đầu. Động viên anh rắn rỏi lên đường, chị nói với anh rằng: vì độc lập, vì kỷ luật của người lính, không thể không chấp hành mệnh lệnh. Không thể vì tình yêu mà quay lưng với đồng đội, với Tổ quốc.
19 tuổi yêu và sống, và đã biết hy sinh. Chỉ có trong chiến tranh, trong bom đạn mới rèn đúc được những con người như thế.
Và họ chia tay với niềm tin ngày giải phóng sẽ tìm thấy nhau. Anh bảo: "Nhà anh nằm bên bờ sông Hồng. Nếu em về Việt Nam thì cứ đi dọc bờ sông Hồng là sẽ đến nhà anh". Và hàng chục năm sau chị vẫn khắc khoải nhớ câu nói ấy.
Thân gái dặm trường
Khi chia tay người yêu, do bị sốt rét, sức khỏe suy giảm nên chị không thể tiếp tục làm diễn viên múa. Năm 1976, chị được chuyển sang học nghề y tá. Tốt nghiệp chị đi phục vụ cho một đội nghệ thuật. Đến năm 1977 chị ra tuyến. Chị được cử đi học về nông nghiệp, học ghép cây, trồng lúa. Rồi chị đi chăn dê. Được giao quản lý cả đàn dê 700 con, chỉ có trong tay chiếc đàn acmonica, chị đã huấn luyện đàn dê thuần thục. Chính từ đó mà chị đam mê nghề chăn nuôi và đó cũng là vốn kiến thức đầu tiên cho con đường khởi nghiệp của chị sau này.
Năm 1978, chị ra quân và cũng là lúc chị phải đối mặt với những tháng ngày bi kịch. Chị lấy chồng, có con và thi đỗ Đại học Ngoại giao (nay là Học viện Quan hệ quốc tế). Ra trường chị đi xuất khẩu lao động 4 năm tại Tiệp Khắc, với mong muốn sẽ kiếm được nhiều tiền để chăm lo cho chồng, cho con.
Ở xứ người, chị mải mê kiếm tiền, phải thức trắng đêm đan móc áo bán cho người nước ngoài. Rồi chị mua xích líp xe đạp và gửi về nước. Vất vả là thế, nhưng đổi lại là sự bất hạnh.
Gia đình chị tan vỡ. Không hiểu bằng phép lạ nào mà chị đã vượt qua giai đoạn khó khăn ấy. Một mình bươn chải để gây dựng sự nghiệp và trở thành một nữ doanh nhân thành đạt. Chị bảo có lẽ chính những năm tháng Trường Sơn đã tiếp cho chị nghị lực. Những kỷ niệm Trường Sơn đã làm dịu vợi trái tim chị mỗi khi rỉ máu. Và hơn hết chị còn có các con, chỗ dựa tinh thần để chị đứng dậy và sống.
Nhưng rồi hạnh phúc đã đến khi chị gặp anh V, giờ là chồng của chị. Người đàn ông điềm tĩnh, ít nói và rắn rỏi. Anh là một sĩ quan không quân. Cuộc đời của anh cũng là một chuỗi ngày bất hạnh. Vợ mất vì tai nạn giao thông. Anh ở một mình nuôi hai con nhỏ. Vốn đã quen anh từ lâu, nhưng giữa họ mới chỉ dừng lại ở tình đồng đội. Chứng kiến nỗi đau của anh, trái tim chị đã động lòng trắc ẩn. Rồi được sự vun vén của đồng đội, hai người đến với nhau. Chị bảo, khi gặp anh, chị thực sự tìm thấy hạnh phúc.
Sự đồng cảm của người lính cùng với sự trải nghiệm đằng sau những mất mát khiến anh có đủ bao dung và sẻ chia những vui buồn với chị. Sống với nhau gần 20 năm, anh không thể đem lại cho chị nguồn tài chính dồi dào, cũng không cho chị thêm một đứa con. Nhưng anh luôn dành bờ vai để chị ngả đầu sau một ngày mệt nhọc.
Chị bắt tay vào làm kinh tế từ những đồng vốn ít ỏi khi đi xuất khẩu lao động. Nắm bắt cơ hội khi đất nước mở cửa, hội nhập, chị bước vào con đường kinh doanh. Năm 2003, chị đầu tư một trang trại rộng 50 ha tại tỉnh Hòa Bình. Chị trồng keo, đào ao thả cá, chăn nuôi gà, trâu bò, dê. Tại đây, chị còn xây dựng nhà trẻ và bệnh xá, chị vừa là giáo viên, vừa làm y tá để giúp bà con địa phương.
Chị thành lập Công ty tại Bình Dương, tạo việc làm cho gần 1.000 lao động. Rồi chị tiếp tục mở rộng chi nhánh công ty tại Hưng Yên. Chị thường tâm niệm, chính những năm tháng Trường Sơn đã cho chị kiến thức, bản lĩnh để đối mặt với thách thức của thị trường, tạo bước phát triển bền vững cho doanh nghiệp.
__________________