Trường Sơn - Đường khát vọng

Mùa khô 1970-1971 địch đánh phá dữ dội. Các trọng điểm Xiêng Phan trên cửa khẩu đường 12; cua chữ A - Ta Lê - Phu La Nhích; Chà Là trên cửa khẩu đường 20; Chà Lì - Sê Băng Hiếng trên cửa khẩu đường 16; đèo 900 trên cửa khẩu đường 18; Văng Mu, Tha Mé trên đoạn yết hầu vượt đường 9; La Hạp, Bạc, Tăng Cát, Bô Phiên trên đường 128; Động Con Tiên trên đường B45 vào chiến trường Trị - Thiên và bắc Khu 5; dốc Trực trên đường 49A, nối với đường 128 đi về Tây Nguyên và Nam Bộ, bị đánh phá ác liệt nhất. Có trọng điểm bị đánh phá tới 300 quả bom các loại trong một ngày. Một số sở chỉ huy binh trạm và sở chỉ huy Bộ Tư lệnh cũng bị đánh bom.

Trung tuần tháng 1 năm 1971, Tổng Tham mưu trưởng cử đồng chí Phan Hàm vào tuyến 559 truyền đạt dự lệnh cụ thể: Địch sẽ sử dụng lực lượng lớn bộ binh của ngụy miền Nam, quân Hoàng gia Lào và quân Thái Lan được sự yểm trợ của không quân Mỹ mở chiến dịch cắt đứt tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn ở trục đường 9. Địch có thể sử dụng trực thăng để thả quân chốt các điểm cao nam - bắc đường 9 và dùng lực lượng bộ binh cơ giới cùng xe tăng, thiết giáp thọc lên Sê Pôn hợp điểm với cánh quân ngụy Lào, Thái Lan từ Mường Phin sang nhằm chặn đứng tuyến hành lang chiến lược, thực hiện sự kiểm soát lâu dài.

Cùng ngày, Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn điện cho Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn yêu cầu cử cán bộ đến Trung đoàn 64 bộ binh của Sư đoàn 320 đang trên đường hành quân vào hưởng chiến trường Tây Nguyên, trung đoàn pháo 168 đang trú quân ở bắc Tà Khống để truyền đạt mệnh lệnh của Bộ ở lại tham gia chiến dịch.

Đồng chí Ngô Huy Biên được lệnh đi cùng đồng chí Hà Kỳ Thự - Phó phòng hành quân tìm gặp được Quyền Trung đoàn trưởng trung đoàn 64 Khuất Duy Tiến phổ biến mệnh lệnh của Bộ chuyển hướng sang Bản Đông trực tiếp giúp trung đoàn tiếp nhận thêm vũ khí và bắt liên lạc bằng điện thoại với đồng chí Trịnh Tráng là Tham mưu phó Sư đoàn 308 đang ở Bản Đông.

Nhờ hệ thống thông tin của chiến trường Trường Sơn được xây dựng đồng bộ và tương đối hiện đại, mệnh lệnh của Bộ đã được thực hiện kịp thời. Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đã đánh giá cao hệ thống thông tin của Bộ Tư lệnh Trường Sơn.

Do được phổ biến sớm về dự kiến của Bộ, từ tháng 10 năm 1970, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 đã chủ động điều chỉnh lực lượng, chủ yếu là lực lượng cao xạ và công binh theo hướng phục vụ tác chiến chiến dịch.

Theo chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh 559 đã tổ chức cuộc họp với đại diện các quân binh chủng phòng không, không quân, pháo binh, công binh... các sư đoàn 308, 304, 324 tại cơ quan tham mưu Bộ Tư lệnh Đoàn 559 nhằm thống nhất kế hoạch hiệp đồng tác chiến khi địch đánh ra đường 9. Sau khi nhận được mệnh lệnh chính thức của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh 559 nhanh chóng triển khai thế trận tác chiến tại chỗ.

Tối ngày 28 tháng 1 năm 1971, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh họp quyết định:

- Sáp nhập mặt trận X và Z thành mặt trận Y phụ trách toàn bộ địa bàn Hạ Lào, tác chiến trên các hướng Sa Ra Van, Sê Pôn, Bô Lô Ven, Pắc Xoong, A Tô Pơ, kiên quyết chặn đứng địch nống ra vùng giải phóng hòng uy hiếp tuyến vận tải chiến lược. Cử Phó Tư lệnh Hoàng Kiện làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy mặt trận. Hoàng Biền Sơn và Phạm Thanh Sơn làm Chỉ huy phó, Nguyễn Ngọc Sơn làm Phó Chính ủy, Trần Soạn làm Tham mưu trưởng, Hồ Sỹ Lộc làm Chủ nhiệm chính trị.

- Kiện toàn mặt trận R, tác chiến trên hướng Pha Lan, Đồng Hến, Keng Chọc ở Trung Lào, kiên quyết giữ vững đường 23 và Mường Phin. Cử các đồng chí Tô Đình Khản nguyên Phó Tư lệnh Đoàn 968 làm Chỉ huy trưởng, Lê Văn Hiếu làm Chỉ huy phó, Hoàng Căn Nguyên làm Chính ủy.

- Thành lập tiền phương Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách hướng phối hợp chiến dịch ở phía tây Trung - Hạ Lào theo chỉ thị của Bộ, cử đại tá Phó Tư lệnh Nguyễn Hòa và đại tá Phó Chính ủy Hoàng Thế Thiện trực tiếp chỉ huy các lực lượng trực thuộc và phối thuộc của Đoàn, phối hợp với các đơn vị bạn tiêu diệt, chặn đứng quân ngụy Lào và quân Thái Lan nếu chúng đánh xuống Mường Phin để phối hợp với quân ngụy Sài Gòn chiếm khu vực Tha Mé - Sê Pôn hòng cắt ngang trung tâm tuyến vận tải chiến lược.

- Phân công Phó Tư lệnh Nguyễn Quang Bích chỉ đạo hoàn thiện thế trận phòng không đánh bại chiến thuật "trực thăng vận" của địch. Phó Tư lệnh Nguyễn Lang đặc trách chỉ huy vận chuyển chiến lược và vận chuyển chiến dịch. Phó Chính ủy Nguyễn Lệnh phụ trách khối chuyên gia giúp bạn phát động các đia phương chiến đấu chống thám báo biệt kích và tham gia phục vụ chiến dịch. Phó Chính ủy Lê Xy đặc trách chỉ đạo công tác Đảng, công tác chính trị. Phó Tư lệnh Nguyễn An trực tiếp chỉ đạo đốc chiến các binh trạm phía nam.

- Giao cho Bộ Tư lệnh khu vực 470 đẩy mạnh thu mua tại chỗ; vận chuyển đảm bảo kịp thời cho Nam Bộ và Tây Nguyên; đồng thời sẵn sàng đối phó với địch đánh ra Phi Hà, Xê Sụ (ngã ba biên giới).
 
Ngày 29 tháng 1 năm 1970, Bộ Tư lệnh triệu tập gấp cán bộ chủ trì các binh trạm 27, 9, 41, 34, 32, 31, 14, 12 giao nhiệm vụ:

- Duy trì mạnh mẽ vận chuyển chiến lược sẵn sàng tác chiến tại chỗ với mọi vũ khí có trong tay, bằng mọi loại hình chiến đấu, bắn máy bay trực thăng đổ bộ, tập kích, phục kích đánh bộ binh, xe tăng, thiết giáp địch với quy mô thích hợp, từng lúc từng nơi. Sẵn sàng phục vụ chiến dịch theo điều động của Bộ Tư lệnh mặt trận.

Các binh trạm 32, 33 có nhiệm vụ vừa vận chuyển chiến lược, vừa vận chuyển chiến dịch và tác chiến tại chỗ. Các binh trạm cánh đông đường 9 (gồm các binh trạm 9, 27, 41) chuyển hẳn sang vận chuyển phục vụ chiến dịch và là lực lượng tại chỗ đánh địch cả trên không, mặt đất. Ngoài các tiểu đoàn cao xạ trong biên chế, mỗi binh trạm khu vực này phải tổ chức thêm 5 đại đội súng máy 12,7 ly. Bộ binh hóa toàn bộ các lực lượng công binh kho, giao liên. Những lực lượng trên được trang bị đủ súng bộ binh, một số cối 81 và mìn chống tăng. Các binh trạm khác trên toàn tuyến mỗi binh trạm tổ chức một đại đội súng máy 12,7 ly hoặc 14,5 ly tăng cường cho bộ đội cao xạ hướng đường 9.

- Tạm ngừng vận chuyển chiến lược trục Bản Đông đi La Hạp, vì Bản Đông có khả năng bị đánh chiếm.

Bộ Tư lệnh xác định quyết tâm tổ chức tại bắc và nam đường 9 bảy khu vực tác chiến tại chỗ ở đoạn chính diện Bản Đông đến tây Mường Phin dài 100 km, tâm điểm là tam giác Bản Đông - Tha Mé - La Hạp với thế trận phòng không liên hoàn tầng cao, tầng thấp giăng khắp những nơi địch sẽ đến, kết hợp với thế trận phục kích, tập kích ngăn chặn bộ binh địch tiến vào tuyến vận chuyển chiến lược. Nối mạng thông tin của Bộ Tư lệnh Trường Sơn đến Bộ Tư lệnh mặt trận đường 9, Bộ Tư lệnh mặt trận cánh đông (B70) đến một số đơn vị chủ lực của Bộ và đến tất cả các đơn vị cao xạ, tên lửa, công binh, đội điều trị theo thế trận mới.

- Tổ chức mạng cấp cứu, chuyển thương, điều trị tăng cường cho chiến dịch.

Phó Chính ủy Lê Xy, Tham mưu trưởng công binh Phạm Văn Diêu, Tham mưu phó phòng không Trần Trung Tín, Phó Chủ nhiệm hậu cần Nguyễn Tốn, Chủ nhiệm quân y Nguyện Ngọc Thảo, Phó Chủ nhiệm thông tin Hoàng Đình Quý được cử xuống các đơn vị triển khai gấp theo phương án trên. Tham mưu trưởng phòng không Ngô Huy Biên, Phó Chủ nhiệm Cục Chính trị Võ Sở được cử xuống khu vực Bản Đông đốc chiến; Tham mưu phó công binh Phan Quang Tiệp xuống Binh trạm 9 chỉ đạo sửa chữa đường 18 để cơ động các đơn vị xe tăng vào tập kết ở đường 9.

Đến ngày 28 tháng 1 năm 1971, lực lượng phòng không của Bộ đội Trường Sơn được huy động tham gia chiến dịch lên tới 5 trung đoàn.
Các kho vật chất cho hướng chiến dịch đường 9 đã có 3.000 tấn, các kho dự trữ chiến lược trên tuyến có 3 vạn tấn. Như vậy, những yêu cầu Bộ giao chuẩn bị cho chiến dịch đường 9 - Nam Lào, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã hoàn thành về cơ bản.

Đúng như phán đoán của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ngày 30 tháng 1 năm 1971, Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ra khu vực đường 9 - Nam Lào. Hơn 4 vạn quân chủ lực ngụy miền Nam và 6.000 quân Mỹ gồm những đơn vị tinh nhuệ nhất cùng một số lớn binh khí kỹ thuật gồm 580 xe tăng và xe bọc thép, 320 khẩu pháo, 1.000 máy bay được huy động vào cuộc hành quân này.
Phối hợp với quân ngụy miền Nam, quân ngụy Lào huy động 4 tiểu đoàn của GM30, GM33 từ Đồng Hến đánh ra khu vực Mường Pha Lan, phía tây đường số 9

Mục tiêu của chiến dịch trong cuộc hành quân này là cắt đứt hoàn toàn tuyến vận tải chiến lược, phá hủy tối đa các kho chiến lược trên đường Trường Sơn, làm cho các lực lượng chiến đấu của ta ở các chiến trường không còn nguồn chi viện về người và vật chất kỹ thuật để mở các cuộc tiến trong mùa khô 1971 - 1972, tạo điều kiện cho Mỹ tiếp tục rút quân, ngụy mạnh lên.

Địch cho rằng đánh bại bộ đội chủ lực cơ động của quân đội ta sẽ chứng minh cho sự thành công của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", tạo thêm thế mạnh trên chiến trường nhằm ép ta nhân nhượng trong cuộc đàm phán ở Pa ri. Đây là cuộc hành quân đầy tham vọng, có quy mô lớn nhất, điển hình nhất trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ và cũng là đỉnh cao của chiến tranh ngăn chặn nhằm cắt đút hoàn toàn đường chiến lược Hồ Chí Minh.
 
Để đánh bại cuộc hành quân của địch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch phản công tiêu diệt lớn quân địch ở khu vực đường 9 - Nam Lào, thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận đường 9 (mật danh là Mặt trận 702); cử Thiếu tướng Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Thiếu tướng Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Quang Đạo làm Chính ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch.

Bộ Chính trị phê chuẩn việc thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận cánh đông và cánh bắc chiến dịch (mật danh là Mặt trận B70) gồm 3 sư đoàn bộ binh 304, 308, 320 và các trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng do đại tá Cao Văn Khánh làm Tư lệnh, đại tá Hoàng Phương làm Chính ủy. Ở cánh tây chiến địch, giao cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách gồm: Sư đoàn 968, Sư đoàn 2, Trung đoàn 48, Trung đoàn 29 cùng một số trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng. Bộ đội Trường Sơn là lực lượng đánh địch tại chỗ trên toàn địa bàn chiến dịch.

Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng được cử làm đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng trực tiếp chỉ đạo Mặt trận 702 và các chiến trường phối hợp phản công địch.

Ngày 3 tháng 1 năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi toàn thể cán bộ và chiến sĩ trên Mặt trận đường 9 - Nam Lào:

“... Trận này là một trận có nghĩa quyết định về chiến lược, không những để giữ vững tuyến vận tải chiến lược mà còn nhằm tiêu diệt nhiều đơn vị dự bị chiến lược của địch, tạo điều kiện đánh bại một bước quan trọng âm mưu "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ, đẩy cuộc kháng chiến tiến lên mạnh mẽ, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, làm tròn nhiệm vụ quốc tế vẻ vang và rèn luyện bộ đội chủ lực... Quân đội ta nhất định phải đánh thắng trận này”.

Riêng với Bộ đội Trường Sơn, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh: bình tĩnh, khéo léo lừa địch, nhử địch vào sâu, cất vó một trận, diệt trực thăng đích đáng để địch biết thế nào là "Đường mòn Hồ Chí Minh".

Lời kêu gọi của Trung ương Đảng, mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu được cơ quan chính trị cấp tốc phổ biến xuống các đơn vị đã làm dấy lên một cao trào diệt giặc lập công trong toàn thể cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Trường Sơn. Mỗi người không những ý thức được tầm quan trọng của chiến dịch mà còn nhận thấy đây là cơ hội thuận lợi cho bộ đội ta tiêu diệt địch. Cán bộ, chiến sĩ đều phấn khởi sẵn sàng chiến đấu với niềm tin chiến thắng.

Ngày 8 tháng 2 năm 1971, dưới sự yểm trợ của quân Mỹ, 7 trung đoàn, lữ đoàn bộ binh, dù, thiết giáp ngụy quân Sài Gòn chia thành ba cánh vượt qua biên giới Việt Lào. Cánh quân chủ yếu tiến theo đường 9 qua Lao Bảo, ngày 10 tháng 2 năm 1971 đã tới gần Bản Đông. Hai cánh quân khác chuẩn bị đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống một số điểm cao: 500, 315, 543, 456 ở bắc đường số 9 và các điểm cao ở khu vực Cu Bốc: 619, 537, 550, 432, 540 ở nam đường 9 để bảo vệ sườn cho cánh quân chủ yếu.

Được sự chi viện hỏa lực mạnh của không quân, pháo binh Mỹ và dựa vào phương tiện cơ động hiện đại, quân ngụy Sài Gòn tiến khá nhanh và bộc lộ khá rõ sự chủ quan, ngông cuồng của chúng.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn ra lệnh nhử địch vào sâu hơn nữa, sẵn sàng chủ động tấn công vào các đội hình trực thăng của chúng. Sử dụng mọi vũ khí, phát huy mọi tầm hỏa lực, kiên quyết tiêu diệt địch với khẩu hiệu "Cứ cho nó đến, không cho nó về”.

Do đã chuẩn bị sẵn chiến trường và phán đoán chính xác về hướng tiến quân cũng như các vị trí đổ quân của địch, lực lượng phòng không đã tránh được các đòn oanh tạc dọn đường của máy bay chiến lược B52 và các loại máy bay cường kích, chủ động nổ súng vào các tốp trực thăng.
 
Bắt đầu từ 8 giờ ngày 8 đến ngày 10 tháng 2 năm 1971, từng đàn trực thăng bay rợp trời được hỏa lực yểm trợ của các tốp máy bay cường kích và máy bay trinh sát OV 10, ồ ạt đổ quân xuống các điểm cao nam - bắc Bản Đông. Các cỡ súng cao xạ, súng máy, súng bộ binh của ta tung lên một lưới lửa dày đặc, bắn rơi hàng loạt máy bay khi chúng chưa kịp đổ quân.

Ở bắc Bản Đông, hai tiểu đoàn cao xạ thuộc Trung đoàn 591 do thiếu tá Trung đoàn trưởng Lê Văn Lẫm và thiếu tá Chính ủy Nguyễn Văn Nam chỉ huy bắn rơi 14 chiếc máy bay chở quân. Mặc dù bị máy bay phản lực cường kích đánh trả quyết liệt vào trận địa, nhiều chiến sĩ bi hy sinh, các tiểu đoàn vẫn ngoan cường chiến đấu bắn rơi thêm 5 chiếc.

Địch tiếp tục đánh trả, các tổ súng máy 12,7 ly của Tiểu đoàn 27 công binh thuộc Binh trạm 41 bắn rơi 13 chiếc (có 7 chiếc H34) ở khu vực Bản Đông và cầu Ka Ky. Tiểu đoàn 18 cao xạ và tiểu đoàn 35 súng máy 14,5 1y thuộc Binh trạm 27 bắn rơi 15 chiếc trực thăng ở cao điểm 500, 300.

Cùng ngày, Tiểu đoàn 75 công binh và đại đội 5 bộ binh thuỷ Binh trạm 41 chốt ở điểm cao Cu Bốc bắn rơi thêm 5 chiếc, bẻ gãy 10 đợt tiến công của đơn vị biệt động ngụy, phá hủy một số xe bọc thép, diệt 100 tên trong đó có tên trung úy đại đội trưởng và 4 tên Mỹ, làm chậm bước tiến của trung đoàn 3 Sư đoàn 1 ngụy đang tiến quân trên đường B70.

21 giờ 30 ngày 10 tháng 2, đài phát thanh BBC của Anh đưa tin: “Quân đội Cộng hòa miền Nam tiến quân lên đường mòn Hồ Chí Minh đã vấp phải lưới lửa phòng không dày đặc chưa từng thấy của Bắc Việt: 50 chiếc máy bay lên thẳng đã bị bắn hạ. Như vậy là trúng kế "điệu hổ ly sơn" của họ ".

Ngày 10 tháng 2 năm 1971, Quân ủy Trung ương đã gửi thư khen:

"Qua mấy ngày chiến đấu các đồng chí đã đánh những trận phủ đầu quân Mỹ - ngụy, diệt một số sinh lực và phương tiện chiến tranh, bắn rơi trên 50 máy bay, phá hủy một số xe tăng, thiết giáp của chúng, giữ vững giao thông vận tải thông suốt... Quân ủy Trung ương biểu dương chiến công đầu của các đồng chí. Mong các đồng chí phát huy thắng lợi, nêu cao quyết tâm, tranh thủ thời cơ, vượt mọi khó khăn đánh cho địch những đòn đau hơn, mạnh hơn nữa tiêu diệt thật nhiều địch, hạ nhiều máy bay, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, bắt sống nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, tạo điều kiện thuận lợi để đập tan cuộc phiêu lưu của chúng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và mục tiêu của chiến dịch, bảo vệ bằng được đường chiến lược Hồ Chí Minh”.

Như vậy, ngay từ những ngày đầu địch đổ quân xuống các điểm cao ở nam và bắc đường 9 nhằm thiết lập căn cứ yểm trợ cho cánh quân theo trục chính vượt Bản Đông tiến về Sê Pôn, đã bị lực lượng phòng không, công binh và pháo binh của Bộ đội Trường Sơn đánh đòn rất đau, bắn rơi 118 máy bay lên thẳng, phá hỏng 16 xe tăng, 4 xe bọc thép. Bị tổn thất nặng nề, đội hình địch rối loạn, tinh thần hoang mang, tốc độ tiến quân chậm lại, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực từ xa kịp cơ động triển khai đội hình, chuẩn bị đánh những trận tập trung lớn.

Tư lệnh Mặt trận B70 Cao Văn Khánh điện cho Binh trạm 27 nhiệt liệt biểu dương chiến công của Binh trạm đã chỉ huy xuất sắc, bảo toàn được lực lượng binh khí kỹ thuật của chiến dịch.

Đến ngày 11 tháng 2 năm 1971, lực lượng tham gia chiến dịch lên đến 6 vạn quân, hàng nghìn xe, pháo, tăng và các loại vũ khí hạng nặng khác. Nhu cầu bảo đảm lương thực, đạn dược, thuốc men... cho chiến dịch tăng vọt với khối lượng lớn và đòi hỏi thời gian cấp bách. Mặc dù bị không quân địch khống chế, đánh phá ngăn chặn dữ dội, Bộ đội Trường Sơn đã vượt qua mọi hy sinh vận chuyển đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất cho các lực lượng tác chiến đánh lớn thắng liên tục.

Theo kế hoạch chiến dịch, bộ đội chủ lực cơ động đã nhanh chóng triển khai lực lượng ngăn chặn, tiêu diệt tìm cánh quân địch, tạo thời cơ đánh đòn quyết định.

Ở sau lưng địch, lực lượng vũ trang Mặt trận B5 liên tục tập kích, pháo kích các căn cứ Mỹ và đường giao thông, diệt hàng trăm tên, đánh chìm 9 tàu vận tải quân sự ở Cửa Việt, làm cho tuyến vận chuyển tiếp tế của địch bị tắc nghẽn một tuần.

Trên hướng chủ yếu, khu vực bắc đường 9, từ ngày 12 tháng 2 đến đầu tháng 3 năm 1971 diễn ra nhiều trận đánh ác liệt của các đơn vị chủ lực cơ động của Bộ với lữ đoàn dù và liên đoàn 1 biệt động ngụy. Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 2 năm 1973, Trung đoàn 64 bộ binh phối hợp với xe tăng được công binh, pháo cao xạ của Bộ đội Trường Sơn yểm trợ vây lấn điểm cao Không Tên tiêu diệt Tiểu đoàn 3 dù, tiểu đoàn pháo binh và Sở chỉ huy Lữ đoàn 3 dù, bắt sống đại tá Nguyễn Văn Thọ, Chỉ huy trưởng lữ đoàn và toàn bộ ban tham mưu của chúng.
 
Trước đòn phản công mạnh của quân ta, địch vội điều Thiết đoàn 17 với 70 xe tăng và tiểu đoàn 8 dù từ Bản Đông lên phản kích hòng chiếm lại điểm cao Không Tên. Trong sáu ngày liền, Trung đoàn 36 bộ binh thuộc Sư đoàn 308, một bộ phận Trung đoàn 64 có hai đại đội xe tăng phối hợp, được pháo binh mặt trận và hỏa lực phòng không của Bộ đội Trường Sơn chi viện đã đập tan cánh quân phản kích. Tập đoàn chủ yếu của địch ở Bản Đông bị uy hiếp mạnh.

Ở khu vực Trung Lào, ba tiểu đoàn quân ngụy Lào đánh xuống tây Mường Phin, bị các trung đoàn 29, 141, 48 và các tiểu đoàn Pa thét Lào chặn đánh tiêu diệt ở Pha Lan, Phu Dơ Tuy, đập tan âm mưu của chúng phối hợp với quân ngụy Sài Gòn.

Ở khu vực Hạ Lào, các lực lượng Mặt trận Y tiến công giải phóng Nậm Lực, Nậm Tiếng, In Thi; bao vây Pắc Xoong, Không Sê Đôn chặn đứng cánh quân ngụy Lào và quân Thái mưu chiếm Sa Ra Van, uy hiếp tuyến vận tải chiến lược, phối hợp với cuộc hành quân của ngụy Sài Gòn; diệt 226 tên, bắt 18 tù binh, diệt gọn 2 đại đội, đánh tan 4 tiểu đoàn, bắn cháy 10 máy bay, thu nhiều phương tiện chiến tranh.

Ở khu vực nam đường số 9, trong hai ngày 27, 28 tháng 2 và ngày 5 tháng 3 năm 1971, địch đổ quân xuống dãy điểm cao Phu Ta Păng (639, 229), bị Bộ đội Trường Sơn bắn rơi 40 máy bay lên thẳng, diệt gọn 8 đại đội, chặn không cho chúng đổ bộ đánh chiếm. Sư đoàn bộ binh 324 của Trị - Thiên diệt một tiểu đoàn đánh thiệt hại một tiểu đoàn khác thuộc Trung đoàn 3, Sư đoàn 1 ngụy khi chúng nống ra đánh phá kho tàng.

Cả trước mặt, cả sau lưng địch, Bộ đội Trường Sơn đã đánh liên tục, tiêu diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, chia cắt, kìm hãm chúng, tạo thế cho ta, phá thế địch, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực cơ động vận động từ xa tiến vào địa bàn chiến dịch, kịp thời tổ chức những đòn tiêu diệt lớn.

Ngày 28 tháng 2 năm 1971, địch tung thê đội 2 chiến dịch gồm 1 lữ đoàn dù, 2 trung đoàn thiết giáp, 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến cùng sư đoàn 1 bộ binh vào tham chiến. Chúng tiếp tục kế hoạch tiến lên Sê Pôn, nhưng bị bộ đội ta chặn đánh kịch liệt, nên buộc phải dừng lại co cụm ở các điểm cao 723, 748, đèo Yên Ngựa và các điểm cao 550, 532.

Thời cơ chuyển từ phản công sang tiến công trên toàn mặt trận đã đến.

Ngày 8 tháng 3 năm 1971, Đảng ủy Mặt trận ra lời kêu gọi cán bộ, chiến sĩ giành toàn thắng cho chiến dịch.

Ngày 9 tháng 3 năm 1971, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện triệu tập Binh trạm trưởng Binh trạm 9 và Binh trạm trưởng Binh trạm 27 trực tiếp giao nhiệm vụ. Để đảm bảo cho hướng tiến công chủ yếu, đồng chí quyết định bổ sung 50 xe Zil 157 cho Binh trạm 27 cùng 200 áo giáp và mũ sắt.

Ngày 11 tháng 3 năm 1971, Thiếu tướng Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn triệu tập Binh trạm trưởng Binh trạm 27 giao nhiệm vụ: ngày 12 tháng 3 năm 1971, trước giờ nổ súng 30 phút phải bảo đảm cho hướng tiến công chủ yếu 2.000 quả đạn pháo 130 ly. Tiếp đó, mỗi ngày phải đảm bảo 200 tấn đạn và lương thực.

Dự họp có Chính ủy chiến dịch Lê Quang Đạo, Chủ nhiệm Pháo binh Doãn Tuế, Chủ nhiệm Phòng không Hoàng Văn Khánh, Chủ nhiệm Hậu cần Lương Nhân, Chủ nhiệm Chính trị Ngô Thành Vân, Chủ nhiệm Hậu cần Binh đoàn B70 Ngô Vi Thiện...
 
Tư lệnh Lê Trọng Tấn kết luận: quyết tâm tác chiến của đòn tiến công quyết định này đã được xác định nhưng mở màn được hay không là do vận chuyển bảo đảm cơ sở vật chất quyết định. Binh trạm 27 cần phải hoàn thành cho được nhiệm vụ này. Theo đề nghị của Binh trạm trưởng, đồng chí lệnh cho Quân khu 4 chở xe lội nước K61 đến bến vượt khẩu sông Sê Băng Hiêng vào 1 giờ ngày 12 tháng 3 đề phòng khi có gió mùa đông bắc, nước sông dâng cao phải chuyển tải.

Cùng ngày, Đại tướng Tổng Tư lệnh và Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp chỉ thị qua điện thoại cho Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn phải bảo đảm đầy đủ vũ khí, đạn dược, lương thực cho các hướng chiến dịch. Đồng thời, bằng mọi giá giữ cho được tuyến hành lang phía tây, tập trung sức vận chuyển chi viện kịp thời cho chiến trường Tây Nguyên, Nam Bộ, Khu 5 để đánh bại các cuộc hành quân phối hợp của địch.

Chấp hành mệnh lệnh của trên, 2 giờ sáng ngày 12 tháng 3, 150 xe chở đầu đạn của hai tiểu đoàn 62 và 965 (Binh trạm 27) dàn đội hình thành 3 thê đội tiếp cận trọng điểm cách chỉ giới khu vực oanh tạc của máy bay 20 m tại bắc sông Sê Băng Hiêng. Đến 3 giờ sáng, sau các loạt bom B52, đội hình xuất kích theo phương án xác định, nhanh chóng vượt sông tiến vào Mường Trương, Làng Sen.

Phía đường 18, hai tiểu đoàn 878 và 54 của Binh trạm 9 anh dũng vượt trọng điểm 900 tiến về khu vực bắc Tà Khống. Lợi dụng sương mù, quân ta đã vận chuyển cả đêm và ngày đưa hàng tới tận chiến hào và các trận địa pháo.

Máy bay địch thả pháo sáng, đuổi theo đội hình xe rải bom bi và bắn đạn 20 ly liên hồi. Mặc dù hàng chục xe bị cháy, nhiều cán bộ, chiến sĩ lái xe bị hy sinh, song kế hoạch vận chuyển chiến dịch đảm bảo cho đợt tiến công mới do Bộ Tư lệnh chiến dịch giao, Bộ đội Trường Sơn đã hoàn thành trọn vẹn. Tư lệnh mặt trận phía đông Cao Văn Khánh một lần nữa gọi điện, nhiệt liệt biểu dương và cảm ơn Bộ đội Trường Sơn, 4 giờ sáng ngày 12 tháng 3 năm 1971, quân ta chuyển sang tiến công trên toàn mặt trận.

Ở phía tây, các đơn vị Bộ đội Trường Sơn tăng cường bảo vệ khu tam giác Sê Pôn - Tha Mé - La Hợp. Sư đoàn 968 phối hợp với quân dân bạn diệt nhiều sinh lực quân Thái Lan và quân Hoàng gia Lào ở Thác Hài; tập kích các đơn vị BS22 và BS28 ở Nậm Lực, Nậm Tiếng, giải phóng Xê Nậm Noi, Sê Keng, Phu Lăng Kẹo, diệt 282 tên, bắt 10 tên, thu 115 súng; tiếp đó, đánh chiếm Na Ca Chăn, Keng Chọc diệt 100 tên, giải phóng Mường Pha Lan.

Ở phía tây nam, Sư đoàn 2 vây lấn truy kích, tiêu diệt trung đoàn 1 sư đoàn 1 bộ binh địch ở điểm cao 72A, tiếp đó đánh lên điểm cao 660 diệt 905 tên, bắt 365 tên, có 3 sĩ quan cấp tá.

Ở phía nam Binh trạm 41, Bộ đội Trường Sơn phối hợp với Sư đoàn 324 đánh thiệt hại nặng lữ đoàn thủy quân lục chiến ngụy ở các điểm cao 550, 540, 532, địch phải liều mạng cho trực thăng bốc số quân còn lại trên điểm cao 550 gần Sa Đi và điểm cao 400 gần Tha Mé. Bị hỏa lực của các đại đội súng máy thuỷ Binh trạm 32, Binh trạm 33, Binh trạm 41 đánh mạnh, 40 chiếc trực thăng bị cháy và phá hủy. Sĩ quan binh lính địch tranh nhau bám càng máy bay để thoát thân.

Phía đông dọc theo đường số 9 từ Lao Bảo đến Bản Đông, các trung đoàn của Sư đoàn 304 và 308 kiên cường chốt chặn, kết hợp cơ động đánh địch giải tỏa trục lộ 9 diệt hàng trăm tên, phá hủy nhiều xe tăng, xe bọc thép, đẩy địch vào thế bị bao vây chia cắt.

Phía sau, các lực lượng bắc Quảng Trị tập kích các căn cứ địch ở Sa Mưu, Ái Tử, Tà Cơn, phá hủy 40 máy bay lên thẳng, hàng vạn viên đạn lớn, hàng triệu lít xăng, diệt hơn 100 tên, phần lớn là giặc lái và nhân viên kỹ thuật.

Phía đông bắc và đông nam, trung đoàn 64 thuộc Sư đoàn 320, trung đoàn 36 thuộc Sư đoàn 308, trung đoàn 68 thuộc Sư đoàn 304 được các đơn vị tăng, pháo mặt đất, pháo cao xạ phối hợp bao vây tập đoàn cứ điểm Bản Đông do 2 lữ đoàn dù (1 và 2) và 2 trung đoàn thiết giáp ngụy đóng giữ. Bộ đội ta bắn phá mãnh liệt các trận địa pháo, bãi xe, công sự dã chiến, đánh dồn dập khi máy bay địch hạ cánh tiếp tế. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 18 tháng 3 năm 1971, quân địch bỏ Bản Đông rút chạy tán loạn. Ta truy kích diệt 1.726 tên, bắt 100 tên, thu và phá hủy 113 xe tăng, xe bọc thép, 24 khẩu pháo, bắn rơi 52 máy bay, trong đó có 1 máy bay B52
 
Ngày 23 tháng 3 năm 1971, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi. Quân ngụy Sài Gòn - lực lượng nòng cốt thực hiện "Học thuyết Níchxơn" ở Đông Dương bị giáng một đòn tiêu diệt nặng. Âm mưu cắt đứt tuyến chi viện chiến lược bằng sức mạnh tổng hợp của chúng bị đập tan. Hơn 2 vạn tên địch bị diệt, bị thương và bị bắt, 6 trung đoàn, lữ đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh bị loại khỏi vòng chiến đấu. Cả 3 sư đoàn dù, thủy quân lục chiến và sư đoàn 1 bộ binh ngụy bị đánh thiệt hại nặng, 1.138 xe tăng, xe bọc thép, xe kéo pháo và 112 pháo lớn bị phá hủy, 556 máy bay trong đó có 505 máy bay lên thẳng bị bắn rơi, 43 tàu, 1 sà lan bị bắn chìm, 1 triệu lít xăng và 1.000 tấn đạn bị đốt cháy và phá hủy.

Quân ta bắt 1.142 tù binh, thu 2 máy bay lên thẳng, 57 khẩu pháo hạng nặng và súng cối, 2.296 súng các loại, 16 xe tăng và xe bọc thép, 6 máy húc, 274 máy vô tuyến điện, trên 100 tấn đạn và đồ dùng quân sự khác.

Vừa trực tiếp phục vụ chiến dịch, Bộ đội Trường Sơn vừa tham gia chiến đấu tiêu diệt 5.695 tên, bắt 614 tên, gọi hàng 64 tên, bắn rơi 346 máy bay (có 310 trực thăng), thu 24 khẩu pháo, 4 máy húc, 6 xe tăng, xe bọc thép và 91 xe các loại.

Ngày 31 tháng 3 năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư khen cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Đường 9 - Nam Lào “đánh giỏi, thắng giòn giã, lập công xuất sắc”.

Thắng lợi to lớn của chiến dịch Đường 9 - Nam Lào đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của quân đội ta. Nó chứng tỏ quân chủ lực ta có khả năng đánh bại hoàn toàn quân chủ lực ngụy, quân và dân ta có đủ sức mạnh đánh bại về quân sự chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

Thắng lợi của chiến dịch cũng khẳng định chiến lược chiến tranh ngăn chặn tuyến đường chiến lược Hồ Chí Minh của Mỹ - ngụy đã phá sản. Quá trình tham gia và phục vụ chiến dịch, được Quân ủy Trung ương chỉ đạo chặt chẽ, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với bạn Lào và các binh đoàn chủ lực cơ động, thực hiện ý đồ tác chiến chiến dịch của Bộ. Đồng thời chủ động lập phương án đối phó với tình huống địch đánh chiếm khu trung tâm hành lang Sê Pôn - Tha Mé - La Hạp, vẫn tiếp tục nhiệm vụ vận chuyển chiến lược.

Trong khi Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, Bộ đội Trường Sơn đã phát động "Tổng công kích" đợt 1 vào ngày 2 tháng 2 năm 1971, tranh thủ lúc địch tập trung đánh phá dọn đường để đẩy nhanh hàng vào các điểm vượt then chốt, giữ thế chủ động đảm bảo vật chất cho các hướng chiến trường.

Mặc dù lực lượng lớn không quân địch bị hút vào các hướng chiến dịch, chúng vẫn tiếp tục đánh phá ác liệt các cửa khẩu và các trọng điểm trong khu tam giác Bản Đông, Văng Mu, Tha Mé. Các đơn vị pháo cao xạ bố trí đối diện hai bên trục vận chuyển tại các khu vực này đã anh dũng đánh trả, trong 5 ngày đầu "Tổng công kích" bắn rơi 5 máy bay phản lực và một máy bay trinh sát OV 10 tại trọng điểm Chà Văng Mu, Tha Mé, bảo vệ đội hình xe hành tiến.

Trung đoàn 10 và Trung đoàn 98 công binh khai thông đường 36 tránh Tha Mé, đề phòng trường hợp bộ binh địch chiếm được đường 35 Tha Mé đi La Hạp. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ công binh ngày đêm duy tu mặt đường, củng cố cầu ngầm, đảm bảo tốc độ xe đạt 18 đến 20 km giờ. Các binh trạm huy động mọi khả năng và biện pháp nâng hệ số kỹ thuật đảm bảo 80% đầu xe hoạt động, đồng thời kiên quyết tổ chức đội hình vận tải tiểu đoàn tập trung tiến công, với nhiều đội mùi nhọn thực hiện vượt cung tăng chuyến.

Một số tiểu đoàn ô tô thiện chiến như tiểu đoàn 52, tiểu đoàn 101, tiểu đoàn 102, tiểu đoàn 781 đã nâng cao tốc độ, 50% số xe thực hiện một đêm một chuyến trên cung quy định hai đêm một chuyến. Các tiểu đoàn ô tô khác đạt từ 10% đến 30% số xe thực hiện một đêm một chuyến trên cung hai đêm một chuyến.
 
Ngày 10 tháng 2 năm 1971, Quân ủy Trung ương gửi thư khen các lực lượng tại chỗ của Bộ đội Trường Sơn đã bắn rơi nhiều máy bay, diệt nhiều giặc, phá nhiều phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy. Thư khen được phổ biến trên toàn tuyến làm nức lòng các lực lượng tham gia “tổng công kích" đợt 1 chiến dịch vận chuyển. Mỗi ngày cơ quan chính trị Bộ Tư lệnh ra một thông báo về thành tích của các lực lượng trên toàn tuyến. Bộ Tư lệnh lấy hai Binh trạm 12 và 32 làm điển hình để thúc đẩy toàn tuyến.

Ở tuyến hậu phương, các Binh trạm 25, 26 thuộc Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần dốc sức đưa hàng tiếp cận các trọng điểm, tạo điều kiện cho các binh trạm cửa khẩu chủ động đối phó với địch, vượt cung lập chân hàng, đảm bảo sự nhịp nhàng giữa "hút” và "đẩy", trên toàn tuyến.

Ngày 28 tháng 2 năm 1971, một số lữ đoàn, sư đoàn địch tiến lên Sê Pôn. Nhiều trực thăng đổ quân xuống các điểm cao phía đông Tha Mé sát trục vận chuyển chiến lược, Bộ đội Trường Sơn vẫn bình tĩnh đẩy mạnh "Tổng công kích" đợt 1 của chiến dịch vận tải với nhịp độ khẩn trương và kết thúc ngày 30 tháng 2 năm 1971 theo đúng kế hoạch.

Trong đợt này, toàn tuyến đã thực hiện được một khối lượng lớn qua các điểm vượt then chốt, tạo nên thế mới cho đợt vận chuyển tiếp theo. Kết quả trên đảm bảo cho toàn tuyến đủ sức đối phó với mọi tình huống, đáp ứng yêu cầu của các chiến trường. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh đánh giá vận chuyển chiến lược trong tình hình diễn biến khẩn trương, xuất hiện nhiều tình huống phức tạp, vừa phải đốt phó với cuộc hành quân Lam Sơn 719 của địch, vừa vận chuyển đáp ứng nhu cầu bức xúc của chiến dịch, vừa tiếp tục vận chuyển chiến lược mà đạt được khối lượng như vậy là rất giỏi.

Khi chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào bước vào giai đoạn quyết liệt, Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết đinh mở "Tổng công kích" đợt 2 từ ngày 6 tháng 3 năm 1971 nhằm hoàn thành cơ bản nhiệm vụ vận tải chiến lược và chiến dịch mùa khô 1970- 1971. Đây là đợt vận chuyển có ý nghiã quyết định, phá tan âm mưu sử dụng sức mạnh tổng lực cắt đứt tuyến vận tải chiến lược của Mỹ - ngụy.

Mặc dù không quân địch phải phân tán trên địa bàn chiến dịch, chúng vẫn bám chặt tuyến vận chuyển hướng chủ yếu. Tuy mức độ có giảm hơn, nhưng chúng lại chuyển sang đánh các trận địa pháo cao xạ bằng máy bay cường kích có khỉ tài điều khiển la de và sử dụng AC 130 cải tiến bắn đạn 40 ly vào đội hình xe gây sát thương lớn. Trong tháng 2 và tháng 3 năm 1971, riêng máy bay AC 130 đã bắn tới 41.485 loạt đạn 40 ly, phá hỏng nhiều xe vận tải của ta.

Với tinh thần kiên quyết tiêu diệt địch bảo vệ đội hình xe vận chuyển, lực lượng cao xạ bố trí dọc tuyến đã đánh 4.160 trận, bắn rơi 70 máy bay các loại, có 23 chiếc bị bắn rơi vào ban đêm. Riêng máy bay AC 130 ta chưa hạ được; vì vậy, các đội hình xe bị uy hiếp mạnh. Các binh trạm đã có những nỗ lực lớn, tìm nhiều biện pháp đối phó nhằm giữ vững nhịp độ tổng công kích.

Ngày 23 tháng 3 năm 1971, chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi. Âm mưu cắt đứt tuyến chi viện chiến lược của ta bị thất bại hoàn toàn.

Ngày 30 tháng 3 năm 1971, "Tổng công kích" đợt 2 vận chuyển chiến lược cũng kết thúc. Đợt này, toàn tuyến nhận từ hậu phương và khai thác thu mua tại chỗ đạt 97% kế hoạch, vận chuyển giao các chiến trường đạt 98% kế hoạch. Về bảo đảm hành quân, đạt 91 % kế hoạch, đưa đón hàng vạn quân vào chiến trường và thương, bệnh binh về hậu phương. Ngoài ra còn bảo đảm nội bộ đạt 98% kế hoạch, phục vụ các lực lượng vận chuyển, mở đường tác chiến liên tục.

Sau khi chiến dịch Đường 9 - Nam Lào kết thúc thắng lợi, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ đạo các đơn vị khẩn trương thu dọn chiến trường, khắc phục hậu quả phá hoại của địch, khôi phục cầu đường. Bộ Tư lệnh chỉ đạo các đơn vị công binh rà phá bom mìn khắc phục phá hoại, lập lại thế trận cầu đường ở hướng đông.

Theo mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh, bộ đội phòng không đã điều chỉnh lại thế trận, chuyển các lực lượng cao xạ và súng máy phòng không tham gia chiến dịch Đường 9 - Nam Lào sang chiến đấu trên các trục vận chuyển chiến lược, tổ chức các cụm hỏa lực mạnh ở khu vực Chà Lì, Bản Đông, Tha Mé, Văng Viếng, Sa Đi Bồ Ne, Chà Vằn. Mỗi cụm bố trí một trung đoàn hoặc hai tiểu đoàn cao xạ. Trung đoàn cao xạ, tên lửa 275, 238 cơ động áp sát đường số 9.
 
Bộ Tư lệnh quyết định thành lập thêm Binh trạm 46 phụ trách tuyến vận chuyển tuyến đường Khe Tang đi Bản Đông đưa hàng tới Quân khu bạn; củng cố Binh trạm 39 phụ trách vận chuyển đường 23, đưa hàng xuống Hạ Lào; chỉ đạo các Binh trạm 50, 51 kéo dài tuyến vận tải cơ giới đường sông trên các sông Sê Kông, Sê Xan, Mê Kông đến Kra Chim xuống Sun; tổ chức đưa ngoại tệ vào cho hậu cần Nam Bộ và Bộ Tư lệnh khu vực 470; chỉ đạo Bộ Tư lệnh 470 thu mua khoảng 4.000 tấn hàng tại chỗ tạo nguồn dự trữ cho Nam Bộ và Tây Nguyên; chỉ đạo bộ đội đường ống đẩy nhanh tốc độ thi công đoạn từ Mường Noọng xuống nam Bạc.

Việc củng cố vùng mới giải phóng có ý nghiã quan trọng đối với cách mạng Lào cũng như đối với an toàn của tuyến vận tải chiến lược. Vì vậy, Bộ Tư lệnh đã chỉ đạo Đoàn chuyên gia quân sự 565 đẩy mạnh hoạt động giúp bạn xây dựng một số tiểu đoàn chủ lực, trong đó có một số tiểu đoàn hỏa lực, phát triển dân quân du kích, xây dựng hệ thống Đảng và công tác chính trị trong lực lượng vũ trang mở các lớp huấn luyện quân sự, hậu cần, xây dựng trường quân chính, xây dựng trường đào tạo y sĩ, các bệnh xá, giúp bạn 1 đại đội ô tô vận tải, mở đường vào Chăm Bát Xắc, căn cứ của quân khu bạn.

Để bảo vệ sườn tuyến vận tải chiến lược phía tây, đầu tháng 4 năm 1971, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên cùng Phó Chính ủy Hoàng Thế Thiện trực tiếp chỉ đạo giải phóng Đồng Hến. Sau ba ngày bao vây chia cắt, ta tiêu diệt và làm tan rã ba tiểu đoàn quân ngụy Lào - Thái, đuổi địch lên Sê Nô.

Từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 5 năm 1971, Phó Tư lệnh Hoàng Kiện trực tiếp chỉ huy tiến công giải phóng Pắc Xoong, đánh chiếm Huội San, Huội Koòng, thị trấn Tha Teng, đuổi địch tháo chạy co cụm về Ê Tu Gin trên trục quốc lộ 23 từ Pắc Xoong đi Pắc Xế, thu hồi toàn bộ cao nguyên Bô Lô Ven.

Qua 5 ngày chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Y phối hợp cùng quân dân Nam Lào đã diệt 10.274 tên, bắt 214 tên, gọi hàng 621 tên khác, thu gần 1.000 súng các loại, bắn cháy 1 máy bay; phá hủy 6 chiếc khác.

Ngày 10 tháng 6 năm 1971, ta tiến công vào Ê Tu Gin đánh tan lực lượng BV44, hai đại đội của BV701, diệt nhiều tên, mở rộng vùng giải phóng của bạn liên hoàn từ Đồng Hến xuống Hạ Lào. Đường chiến lược vươn xuống tây Sê Kông, tạo ra thế mới vững chắc cho vận chuyển và căn cứ chiến lược của chiến trường ba nước.

Thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi điện khen: "... Vượt qua nhiều khó khăn, đoàn kết hiệp đồng với quân dân bạn, các đồng chí đã giành được thắng lợi to lớn: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, bắt nhiều tù binh, thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch, đánh thiệt hại nhiều tiểu đoàn quân ngụy Lào và Thái, thu hồi toàn bộ cao nguyên Bô Lô Ven...".

Ngày 2 tháng 4 năm 1971, Bộ Tư lệnh quyết định tổ chức đợt vận chuyển nước rút nhằm hoàn thành một số chỉ tiêu chưa đạt và tạo thêm lượng dự trữ cho một số hướng chiến trường, nhất là Nam Bộ. Đợt vận chuyển này diễn ra đúng thời điểm chiến dịch Đường 9 - Nam Lào vừa kết thúc nên địch tập trung đánh phá dữ dội tuyến vận tải chiến lược. Khó khăn lớn nhất lúc này là máy bay AC 130.

Từ mùa khô 1970- 1971, địch chuyển từ đánh phá cầu đường là chủ yếu sang đánh tiêu diệt sinh lực, phá hủy các phương tiện vận tải, các kho tàng là chủ yếu. Chúng thay đổi quy luật đánh phá, sử dụng máy bay chiến lược B52 và máy bay cường kích thả bom nổ chậm, bom từ trường và mìn vướng nổ, đánh vào lúc chập choạng chiều tối hoặc tảng sáng, đánh vào các địa bàn xuất kích đội hình xe, các khu vực kho đầu mối giao thông.

Đặc biệt, chúng tăng cường trang bị khí tài điều khiển bằng tia lade cho các loại máy bay cường kích để đánh các trận địa pháo. Trong 3 tháng địch đánh 1.104 trận vào các trận địa, trong đó có 55 lần sử dụng tia lade, pha hủy 81 khẩu pháo, làm 311 pháo thủ hy sinh, 262 bị thương. Đó là tổn thất cao nhất của lực lượng cao xạ từ trước tới nay.
 
Nhưng, nguy hiểm hơn cả là thủ đoạn sử dụng máy bay AC 130 oanh tạc cả ngày lẫn đêm. Không một đoàn xe nào không bị chúng phát hiện và tấn công. Số xe bị đánh cháy tăng vọt. Số lái xe bị thương ngày càng nhiều.

Tình hình đó gây lo ngại cho cán bộ, chiến sĩ. Các đơn vị đã ra sức động viên bộ đội nâng cao ý chí chiến đấu đánh địch mà đi, đồng thời đã tiến hành nhưng biện pháp cấp thiết như: tăng cường các vật che chắn bảo vệ cho xe và lái tổ chức đội hình vừa và nhỏ chạy lấn sáng, lấn chiều sớm hơn; tăng cường ngụy trang nghi binh; tổ chức trinh sát báo động chặt chẽ hơn tạo điều kiện cho bộ đội xe chủ động tránh đòn tấn công của địch; tăng cường thợ sửa chữa đi cùng để phục hồi xe khi bị địch đánh hỏng.

Nhưng tất cả các biện pháp trên vẫn nằm trong thế bị động, chỉ có tác dụng hạn chế một phần rất nhỏ, chưa phải là biện pháp đối phó cơ bản có hiệu quả. Đây là một trong những tháng ngày lao đao, gian khổ nhất của Bộ đội Trường Sơn kể từ ngày thành lập.

Trước sự tổn thất nặng nề do máy bay AC 130 gây ra, trong nội bộ lãnh đạo đã nảy sinh sự nhìn nhận và đánh giá khác nhau về địch và ta. Một số cho rằng máy bay AC 130 nhìn được xe ban đêm và đánh rất trúng mục tiêu. Số khác thì cho rằng AC 130 đánh mò, lái xe sợ đạn 40 ly kéo dài nên bỏ chạy, xe mới bị đánh cháy.

Để có kết luận chính xác, Bộ Tư lệnh chủ trương tổ chức một đợt đi thực tế trên đường để nghiên cứu địch. Sau 2 ngày, Bộ Tư lệnh đã nhận được các báo cáo với ý kiến thống nhất: máy bay AC 130 có khả năng nhìn rõ ô tô đang di động trong đêm. Chúng bay cao trên 3 km, chủ yếu bắn đạn 40 ly kéo dài, gây sát thương trên phạm vi rộng. Các đội hình xe khi gặp máy bay AC 130, dù đã tắt đèn để chạy vẫn bị chúng phát hiện và đánh trúng. Trong số xe bị đánh hỏng có 60 đến 70% do AC 130 gây ra.

Xe bị tiến công thường hỏng két nước, vỡ đầu máy, thủng xăm lốp, thủng thùng xăng. Số lái xe bị thương vong từ 10 đến 20%. Trừ trường hợp AC 130 bay trên đội hình xe đã dừng lâu, máy nguội thì chúng không phát hiện được. Thời gian hoạt động của AC 130 trong đêm khoảng 2 đến 3 lần, mỗi lần kéo dài từ 2 đến 3 giờ. Chúng cố tránh hỏa lực của cao xạ, vì vậy các cụm pháo 37 ly chốt ở trọng điểm không có tác dụng đối với chúng.

Từ ý kiến của những người có thực tế chiến đấu trên đường, Bộ Tư lệnh thống nhất kết luận: Máy bay AC 130 là đối tượng cực kỳ nguy hiểm đối với đội hình vận tải ban đêm, vì vậy toàn tuyến phải có những biện pháp đối phó, sáng tạo, táo bạo, linh hoạt, đa dạng, vững chắc, chủ động, bí mật, bất ngờ.

Trước hết phải nắm bắt được quy luật hoạt động của chúng trên địa bàn từng khu vực, từng binh trạm, kiên quyết thay đổi cách hoạt động của ta: chạy lấn sáng, lấn chiều sớm hơn; thiết kế địa bàn xuất phát của đội hình xe tiến lên phía trước sâu hơn; chia đội hình nhỏ xuất kích nhiều hướng; tổ chức cung ngắn: làm nhiều hầm mang cá cho xe ẩn nấp khi bị địch tấn công; tăng cường vật che chắn cho xe và lái; tăng cường các tổ trinh sát cảnh giới dưới đất, trên xe; sử dụng súng 12,7 ly, hoặc pháo 37 ly bắn báo động; tích cực cơ động pháo để bảo vệ đội hình xe; tích cực nghi binh bằng nổ máy các xe vận tải hoặc máy nổ cũ.

Bộ Tư lệnh quyết định thí điểm chạy ngày ở những đoạn đường kín để rút kinh nghiệm. Hàng loạt biện pháp chỉ đạo của Bộ Tư lệnh được triển khai thực hiện khẩn trương. Cục Tham mưu Phòng không tổ chức hệ thống trinh sát thông báo, báo động từ xa trên toàn tuyến bảo đảm cho các đội hình xe chủ động hành tiến hoặc dừng lại tránh máy bay AC 130.

Ngày 1 tháng 5, Binh trạm 41 tổ chức 12 xe do Đại đội trưởng Nguyễn Đình Chiến và dũng sĩ lái xe Trần Ngọc Thế dẫn đầu chạy ban ngày trên đoạn đường mới mở từ Tam Luông vào La Hạp. Lúc đến ngầm Tà Beng và dốc 28 bị máy bay trinh sát phát hiện, hai máy bay cường kích kéo đến thả bom từ trường và bắn đạn 20 ly. Trần Ngọc Thể đã anh dũng lái xe vượt qua, làm bom kích nổ bên vực, giải phóng cả đoàn xe về tới đích an toàn.
 
Ngày 4 tháng 5, Binh trạm 27 tổ chức 25 xe do Chính trị viên phó tiểu đoàn 62 Nguyễn Quốc Sử và chiến sĩ quyết thắng Triệu Duy Kéo dẫn đầu chạy trên đường 16 là đường trống trải. Các trọng điểm được bố trí pháo cao xạ bảo vệ khá mạnh. Đoàn xe xuất kích lúc 2 giờ chiều, đến 15 giờ 30 phút đội hình vượt trọng điểm Cha Li, bị máy bay trinh sát OV 10 phát hiện, ba máy bay cường kích kéo đến đánh thẳng vào đội hình bằng bom phá và bom phát quang làm 6 xe bị hỏng, pháo ta đánh trả quyết liệt buộc chúng phải bay cao. Các xe hỏng được khắc phục; đội hình tiếp tục hành tiến đến đèo 300 thì trời tối, ụii máy bay AC 130 phát hiện đánh hỏng 7 xe, đến 24 giờ qua Ta Lăng lại bị AC 130 đánh cháy hỏng chỉ còn 10 xe tới đích. .

Ngày 10 tháng 5, Binh trạm 38 thí điểm chạy ngày 30 xe trong điều kiện nhiều mây mù và đường kín. Kết quả 21 xe tới đích, 9 xe bị đánh hỏng do ngụy trang kém khi giấu xe.

Từ những thử nghiệm trên, Bộ Tư lệnh kết luận đội hình xe chạy ngày nếu đường kín, được tổ chức chỉ huy chặt chẽ sẽ ít tổn thất hơn nhiều so với chạy đêm.

Giữa tháng 5, thời tiết chuyển hẳn sang mùa mưa. Bộ Tư lệnh ra lệnh kết thúc chiến dịch vận tải mùa khô 1970-1971. Ngày 15 tháng 5 năm 1971, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp để kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ chi viện mùa khô 1970- 1971 và bàn về việc chuẩn bị cho mùa khô 1971 - 1972 .

Đảng ủy đánh giá: Nhiệm vụ vận chuyển chiến lược mùa khô diễn ra trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn phức tạp. Đầu mùa, máy bay B52 kết hợp với mưa lũ phá hoại quyết liệt ở các cửa khẩu gây nhiều ách tắc. Bước vào cao điểm thuận lợi của thời tiết thì địch lại mở cuộc hành quân lớn lên đường 9, cuối mùa khô lại bị đối phương thay đổi vũ khí và thủ đoạn đánh phá mới rất nguy hiểm.

Tuy nhiên, Bộ đội Trường Sơn đã nỗ lực cao độ, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ Quân ủy Trung ương giao, trong đó nhiệm vụ trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào được hoàn thành xuất sắc.

Tổng khối lượng vận chuyển cho nội bộ và các chiến trường tuy mới được 63.145 tấn đạt 66%, trong đó vận chuyển cho các chiến trường được 28.623 tấn đạt 80,5%, nhưng mặt hàng chủ yếu là vũ khí, đạn cỡ lớn, đã bảo đảm đầy đủ, đặc biệt cho Nam Bộ. Riêng đối với chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, đã thực hiện khối lượng gần 1 vạn tấn, cao hơn chỉ tiêu dự báo ban đầu 8,6 lần, xấp xỉ bằng 85% tổng khối lượng đã giao cho các chiến trường đảm bảo thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất cho chiến dịch.

Bên cạnh đó đã bảo đảm và đưa đón được 88.000 quân vào các chiến trường đặc biệt có 19.000 quân vào chiến trường Nam Bộ kịp thời gian chiến đấu và có sức khỏe tốt. Đã chỉ huy và bảo đảm cho trên 2.000 xe pháo vượt Trường Sơn vào địa bàn chiến dịch; mở thêm cửa khẩu mới; khôi phục trên 4.000 km đường cũ, làm lại hàng trăm cầu phà, ngầm; mở thêm 1.153 km đường mới, đảm bảo vững chắc cho vận chuyển chiến lược và chiến dịch.

Các lực lượng đã chiến đấu trên 22.077 trận, bắn rơi 620 máy bay địch, có 426 chiếc rơi tại chỗ, 98 chiếc rơi đêm. Trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào đã đánh thắng giòn giã 481 trận, bắn rơi 356 máy bay địch. Trung bình mỗi trận bắn rơi một chiếc, làm thất bại chiến thuật trực thăng vận là thế mạnh của địch. Đồng thời, đã phối hợp tác chiến với các lực lượng chủ lực của Bộ và bạn diệt và bắt sống gần 1 vạn tên địch, phá hủy và thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh.

Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn đánh giá: “Trong hoàn cảnh vừa làm nhiệm vụ phục vụ chiến dịch vùa trực tiếp tác chiến chiến dịch trên cả hai hướng đông và tây Trường Sơn mà thực hiện được khối lượng như vậy là một cố gắng phi thường một thắng lợi to lớn”.
 
Từ đánh giá thắng lợi và tồn tại, Đảng ủy Bộ Tư lệnh đề ra quyết tâm chuẩn bị ngay cho mùa khô 1971 - 1972 một cách toàn diện với sự nỗ lực cao nhất. Trong đó tập trung vào khâu củng cố, bổ sung phương tiện, quân số, xây dựng lực lượng huấn luyện bộ đội. Đặc biệt, phải khẩn trương xây dựng thế trận cầu đường nhằm hạn chế thiên tai và đối phó với sự đánh phá của địch, nhất là đánh phá của máy bay B52 ở cửa khẩu và của máy bay AC 130 vào đội hình xe; xúc tiến củng cố thế trận vượt khẩu; ưu tiên mở đường kín xây dựng thế trận chạy ngày, coi đây là vấn đề sống còn của vận tải chiến lược mùa khô 1971 - 1972 .

Đảng ủy Bộ Tư lệnh nêu rõ, mở hệ thống đường kín là cuộc cải cách cực kỳ lớn của tuyến vận tải cơ giới và là biện pháp tích cực nhất, chủ động nhất để chống thủ đoạn của máy bay AC 130, là việc làm thiết thực nhất để thực hiện vận chuyển cơ giới chạy thẳng.

Những nội dung kiểm điểm có tính nguyên tắc và những đề xuất chủ trương có tính sáng tạo của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh đã khẳng định sự trưởng thành vượt bậc của Bộ đội Trường Sơn. Đó là nhân tố quyết định cho những thắng lợi mới to lớn toàn diện trong thực hiện nhiệm vụ chi viện chiến lược, đảm bảo cho các chiến trường phát huy thế chủ động tiến công, đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ trong mùa khô 1971 - 1972.

Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ba nước Đông Dương xuân hè 1971 đã dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cục diện chiến tranh.

Chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ bị thất bại một bước nghiêm trọng. Trên chiến trường miền Nam, Mỹ - ngụy phải chuyển hẳn vào thế phòng ngự, quân viễn chinh Mỹ tiếp tục rút khỏi chiến trường. Sức chiến đấu của quân ngụy Sài Sòn sa sút về nhiều mặt, nhất là về tinh thần chiến đấu và hỏa lực. Chúng lại phải dàn mỏng lực lượng để chiếm đóng các vị trí thay cho 30 vạn quân Mỹ đã rút nên càng thiếu quân cơ động.

Để cứu vãn tình thế, Mỹ - ngụy ra sức củng cố ngụy quân, đẩy mạnh hoạt động bình định nông thôn, củng cố thế phòng ngự. Đồng thời, chúng tăng cường hoạt động nống lấn, đánh phá vùng giải phóng và hành lang chi viện chiến lược của ta bằng không quân và biệt kích nhằm hạn chế tới mức tối đa sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, tạo điều kiện cho chúng tiếp tục thực hiện chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" nhằm giành thế mạnh trên bàn đàm phán tại Hội nghị Pari.

Để thúc đẩy chiều hướng phát triển của tình hình, Hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1971) chủ trương phát triển thế tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam, đánh bại chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trong thế thua.

Trước mắt mở những chiến dịch tiến công lớn của bộ đội chủ lực trên các hướng chiến lược quan trọng, đồng thời đẩy mạnh tiến công quân sự rộng khắp, kết hợp với quần chúng nổi dậy, phá kế hoạch bình định của địch ở nông thôn, đồng bằng, thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng ở các thành thị, làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh ở miền Nam.

Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 6 năm 1971, Hội nghị Quân ủy Trung ương thông qua kế hoạch tác chiến năm 1972, xác định ba hướng chính của cuộc tiến công chiến lược là miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên. Mục tiêu phấn đấu trong năm 1972 là tiêu diệt một số chiến đoàn, lữ đoàn, loại khỏi vòng chiến đấu sư đoàn chủ lực ngụy, giải phóng một số khu vực, mở rộng căn cứ, đưa các khối chủ lực trở về đứng chân trên các chiến trường miền Nam, trực tiếp hỗ trợ phong trào quần chúng tiến công và nổi dậy phá bình định ở nông thôn, đồng bằng.

Trên miền Bắc, tiếp tục củng cố nâng cao trình độ chiến đấu của các lực lượng vũ trang, sẵn sàng đánh bại mọi hành động phiêu lưu của địch, đồng thời tăng cường lực lượng và vật chất vào chiến trường.

Để chuẩn bị cho những đòn tiến công chiến lược mới, Quân ủy Trung ương chỉ đạo nhiệm vụ của tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn trong năm 1971 - 1972 là đảm bảo cho được yêu cầu tác chiến trước mắt, có một phần dự trữ ở chiến trường, tiện cho việc cơ động bộ đội, đồng thời có một phần dự trữ chân hàng trên tuyến, sẵn sàng bảo đảm cho các chiến dịch, tạo chân hàng cho hai năm 1972- 1973
 
Quân ủy Trung ương nhấn mạnh nhiệm vụ của tuyến hành lang chiến lược là một trong các khâu quyết định góp phần đánh thắng địch trên chiến trường. Do đó phải bằng mọi cách hoàn thành bằng được kế hoạch đã giao.

Để thực hiện chủ trương trên, Quân ủy Trung ương chỉ đạo triển khai xây dựng tuyến đông Trường Sơn, chậm nhất tháng 12 năm 1971 phải thông tuyến, thông xe; đồng thời, củng cố tuyến tây Trường Sơn; triển khai mở tuyến đường kín; thi công kéo dài tuyến đường ống; nghiên cứu các biện pháp đối phó với các thủ đoạn đánh phá của máy bay chiến lược B52, các loại máy bay trang bị phương tiện điều khiển bằng tia la de và máy bay AC 130.

Tháng 5 năm 1971, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp, quán triệt tình hình nhiệm vụ theo chỉ đạo của Quân ủy Trung ương. Đảng uỷ - Bộ Tư lệnh nhận định:

Sau thất bại của cuộc hành quân Lam Sơn 719 của địch, cục diện chiến trường đã có bước phát triển mới. Ta có đủ khả năng mở các đòn tiến công chiến lược trên nhiều hướng. Vì vậy, nhiệm vụ của tuyến chi viện chiến lược sẽ tăng gấp bội. Cuộc đọ sức trên đường Trường Sơn sẽ diễn ra ác liệt hơn, mang tính chất tổng hợp nhiều loại, nhiều quy mô. Vì vậy, phải chuẩn bị một cách toàn diện và sớm cho mùa khô 1971 - 1972, trong đó cần tập trung giải quyết ba vấn đề lớn:

Một là, xây dựng cho được thế trận cầu đường mới và các khu xuất phát của bộ đội xe hơi nhằm đối phó có hiệu quả với hai đối tượng cực kỳ nguy hiểm là thời tiết và không quân địch; thay đổi hẳn quy luật hoạt động của ta làm đảo lộn hiểu biết vốn có của địch đối với tuyến vận tải chiến lược. Đây là vấn đề quan trọng bậc nhất;

Hai là, nhanh chóng khôi phục, củng cố, phát triển và xây dựng lực lượng cả về quân số, phương tiện vật chất kỹ thuật, trình độ chính trị và tác chiến đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới;

Ba là, xây dựng phương án tổ chức mới phù hợp với tình hình của tuyến chiến lược trình Quân ủy Trung ương phê duyệt.

Bộ Tư lệnh xác định cầu đường luôn luôn phải đi trước một bước; đặc biệt trong mùa khô 1971 - 1972 phải đi trước, xa hơn, chủ động hơn. Vì vậy, phải triển khai ngay trong tháng 6 ba khối việc lớn:

a. Mở tuyến đường kín.

b. Mở tuyến đông Trường Sơn .

c. Rải đá trên các tuyến vượt khẩu.

Sau khi nghiên cứu các phương án do Cục Công binh chuẩn bị, Bộ Tư lệnh quyết định mở tuyến đường kín ngay từ đầu tháng 6. Điểm xuất phát tuyến đường cách nam ngầm Long Đại 2 km chạy vào tây Văng Mu, từ đó chạy song song với trục đường 128 vào tới ngã ba biên giới, chiều dài khoảng 800 km.

Để giữ được bí mật, tuyến đường chỉ được phép mở rộng 3,5 m đủ cho xe đi một chiều. Cứ 10 km, phải tạo một đường nhánh để xe tránh nhau. Những nơi trống trải phải trồng cây và ngụy trang kín đáo. Đội hình thi công chia làm 4 mũi trên 4 cung đoạn, cùng đồng thời khởi công và cùng đồng thời hoàn thành để thông tuyến vào tháng 11 năm 1971 .

Thực hiện các chủ trương trên sẽ tạo ra một thế trận lưới có chính diện vượt khẩu kéo dài 250 km với 6 tuyến cắt ngang dãy Trường Sơn nối với mạng tây Trường Sơn; có tuyến đông Trường Sơn chạy sát sườn địch, nhanh chóng tiếp cận chiến trường, nâng hiệu suất vận chuyển và binh khí kỹ thuật vào các chiến trường Trị - Thiên và Khu 5 nhanh gấp ba lần so với trước (vì không phải đi vòng, xa hơn khoảng 200 đến 300 km), đồng thời lợi dụng sự trái ngược thời tiết đông và tây Trường Sơn để vận chuyển cả hai mùa; có tuyến đường kín mang ý nghĩa chiến lược, gây cho địch bất ngờ lớn, có khả năng vô hiệu hoá đối tượng cực kỳ nguy hiểm là máy bay AC 130; đồng thời, cho phép thực hiện vận tải ban ngày theo đội hình lớn, chạy thẳng cung dài từ đầu tuyến đến vùng ba biên giới và hậu cứ Nam Bộ, xóa được phương thức đi theo cung ngắn vừa chậm chạp, vừa tốn kém.
 
Từ sau chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào, địa bàn tuyến chiến lược được mở rộng với tổng diện tích khoảng 132.000 km2. Lực lượng phát triển lớn, quân số ước tính trên 8 vạn người. Các binh trạm, trung đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh tăng lên khoảng 50 đầu mối, phân bố trên nhiều khu vực khác nhau về địa hình, thời tiết, quy luật hoạt động, hình thức tổ chức đã mang lại hiệu quả trong những năm trước, đến lúc này không còn thích hợp, chứa đựng mầm mống quan liêu, trì trệ, thiếu sâu sát, thiếu linh hoạt, sáng tạo trong chỉ huy, có thể dẫn đến những quyết định không kịp thời và chính xác.

Đảng ủy Bộ Tư lệnh đã cân nhắc và đi đến quyết định, đề nghị Quân ủy Trung ương phê duyệt phương án tổ chúc phân chia toàn tuyến thành 5 khu vực. Trên mỗi khu vực có một Bộ Tư lệnh chỉ huy bộ đội hợp thành làm nhiệm vụ mở đường, bảo đảm giao thông, vận tải chiến lược, chiến dịch, tổ chức hành quân, tác chiến đánh địch mặt đất, trên không, bảo vệ hành lang, giúp bạn...

Bộ Tư lệnh cũng đề nghị Bộ Quốc phòng phê duyệt phương án tổ chức một số trung đoàn, binh chủng nhằm tăng cường sức cơ động, giải quyết dứt điểm các nhiệm vụ lớn trong những thời điểm quan trọng.

Để chủ động về mặt cán bộ cho phương án tổ chức mới, Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh thông qua danh sách trên 300 cán bộ sắp xếp vào cấp phòng, binh trạm, trung đoàn do Phó Chính ủy Lê Xy và Trưởng phòng cán bộ Đặng Đình Miên đệ trình.

Qua thực tế tổ chức của Bộ Tư lệnh khu vực 470 và hiệu quả vận chuyển mùa khô vừa qua, ngày 20 tháng 7 năm 1971, Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng phê chuẩn phương án tổ chức thêm ba Bộ Tư lệnh khu vực (473, 472, 471) và Bộ Tư lệnh khu vực hậu cứ 571, phân định giới tuyến hoạt động của từng Bộ Tư lệnh khu vực đồng thời điều động và bổ nhiệm cán bộ phụ trách.

Bộ Tư lệnh khu vực 473 phụ trách các tuyến đông - tây Trường Sơn chịu trách nhiệm vận chuyển bảo đảm cho Mặt trân Đường số 9 - Bắc Quảng Trị, chiến trường Trị - Thiên và bảo đảm cho các lực lượng cơ động của Bộ hoạt động ở hướng này; tiếp nhận vận chuyển tạo nguồn dự trữ chiến lược cho Trị - Thiên. Đẩy mạnh xây dựng hệ thống đường đông Trường Sơn chọc sâu xuống Khâm Đức (Quảng Nam).

Bộ Tư lệnh khu vực 472 chịu trách nhiệm tiếp chuyển tạo chân hàng cho Bộ Tư lệnh khu vực 471; trực tiếp phục vụ cho Mặt trận Y (Trung - Hạ Lào) bảo đảm chi viện cho Quân khu Nam Lào, tổ chức đảm bảo hành quân trong phạm vi phụ trách.

Bộ Tư lệnh khu vực 471 có nhiệm vụ tiếp chuyển tạo chân hàng cho Bộ Tư lệnh khu vực 470; bảo đảm cho bộ đội tình nguyện và Pa thét Lào tác chiến củng cố vùng mới giải phóng; bảo đảm cho trung đoàn công binh mở đường 17 xuyên cao nguyên Bô Lô Ven đến Ta Pao, Nậm Công và tổ chức bảo đảm hành quân trong phạm vi phụ trách.

Bộ Tư lệnh khu vực 470 được giao nhiệm vụ là cơ quan tiền phương Bộ Tư lệnh Trường Sơn, trực tiếp quan hệ với chiến trường, giải quyết những yêu cầu cấp bách phục vụ tác chiến và thực hiện nội dung chức năng Bộ Tư lệnh khu vực gồm tiếp nhận hàng của Bộ Tư lệnh khu vực 471, vận chuyển đảm bảo cho chiến trường Tây Nguyên, Nam Bộ, Campuchia và Hạ Lào rồi chuyển ngược lại lương thực thực phẩm phục vụ chiến trường Tây Nguyên và bảo đảm một phần phục vụ sinh hoạt nội bộ.

Bộ Tư lệnh khu vực hậu cứ 571 đóng ở khu vực tây Quảng Bình từ sông Gianh vào Vĩnh Linh tiếp giáp các binh trạm cửa khẩu 27, 14, 9. Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh khu vực hậu cứ 571 là tiếp nhận xe pháo, vật liệu phụ tùng do Bộ bổ sung, chỉ huy các tổng kho hàng, tổng kho xe, vật tư kỹ thuật các xưởng đại tu, trung tu xe máy, trường huấn luyện, đoàn điều dưỡng, tuyến quân y phía sau của Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Đón tiếp khách của Đảng, Nhà nước, quân đội và quốc tế ra vào Trường Sơn.

Riêng Sư đoàn bộ binh 968 trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn tiếp tục triển khai chiến đấu trên các khu vực nam Khăm Muộn, Sa Van Na Khét, Sa Ra Van, Bô Lô Ven, A Tô Pơ. Chỉ huy sở Bộ Tư lệnh ở đông Sa Ra Van.

Ngoài 5 Bộ Tư lệnh khu vực còn có các binh trạm thuộc khu vực cửa khẩu trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn là: Binh trạm 12, Binh trạm 14, Binh trạm 9, Binh trạm 15, Binh trạm 31, Binh trạm 29.
 
Phương án tổ chức các trung đoàn binh chủng được Bộ phê duyệt gồm: năm trung đoàn công binh, hai trung đoàn ô tô, ba trung đoàn phòng không, hai trung đoàn đường ống xăng dầu, một trung đoàn thông tin, bốn quân y viện.

Bộ cho phép tăng thêm 61 tiểu đoàn, nâng tổng số lên 188 tiểu đoàn và tương đương trực thuộc các binh trạm.

Quân ủy Trung ương tăng cường và bổ nhiệm một số cán bộ vào Bộ Tư lệnh Trường Sơn và cơ quan Bộ Tư lệnh. Tháng 10 năm 1971, đồng chí Đặng Tính- Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân chủng Phòng không - Không quân được điều vào làm Chính ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn thay đồng chí Vũ Xuân Chiêm; đồng chí Phan Khắc Hy nguyên Chính ủy Bộ Tư lệnh Không quân vào làm Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Trường Sơn; đồng chí Trần Quyết Thắng - Chính ủy Đoàn chuyên gia 565 được đề bạt làm Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh.

Trong cơ quan Bộ Tư lệnh có: Bộ Tham mưu gồm 9 phòng; Cục Tham mưu phòng không gồm 4 phòng; Cục Tham mưu vận tải gồm 5 phòng; Cục Tham mưu công binh gồm 5 phòng; Cục Chính trị gồm 9 phòng và tương đương; Cục Hậu cần gồm 6 phòng.

Để bảo đảm quân số cho các đơn vị, Bộ quyết định bổ sung 35.000 quân, trong đó có 20.000 bộ đội và 15.000 thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến, công nhân giao thông, nâng tổng quân số lên 92.000 người.

Về trang bị phương tiện cũng được bổ sung rất lớn. Bộ đội vận tải được bổ sung 3.768 ô tô vận tải, nâng tổng sổ xe trong biên chế lên 5.756 chiếc. Các lực lượng công binh, cao xạ, bộ binh và giao liên cơ giới được bổ sung 1.007 ô tô, nâng tổng số xe biên chế lên 2.578 chiếc.

Trang bị khí tài công binh được bổ sung 641 xe các loại (húc, ben, phóng từ, máy đẩy, ép hơi nâng tổng số lên 961 xe các loại. Trang bị cho lực lượng phòng không 728 khẩu pháo cao xạ. Trang bị khí tài cho thông tin hữu tuyến: 7.301 máy điện thoại, 173 máy tải ba, 745 tổng đài, 14.795km dây trần và dây bọc; cho thông tin vô tuyến: 811 bộ đàm 2W, 336 chiếc 5W, 15W, 40 bộ máy tiếp sức Vũ khí bộ binh có trên 10 nghìn khẩu các loại.

Ngày 13 tháng 8, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh họp quyết định tổ chức Hội nghị quân chính nhằm thống nhất quan điểm tư tưởng, nâng cao trình độ chính trị, quân sự cho cán bộ theo kịp yêu cầu phát triển tình hình nhiệm vụ mới.

Nội dung Hội nghị chủ yếu là quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 và Nghị quyết Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ chi viện chiến lược mùa khô 1971 - 1972; quán triệt những bài học được thừa kế, sàng lọc rút ra từ nhiều năm vận tải chiến lược, đặc biệt là vận tải mùa khô 1970- 1971 mà Đảng ủy vừa tổng kết.

Hội nghị Quân chính được tổ chức vào ngày 22 tháng 8 năm 1971 tại Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Trường Sơn ở km 3 đường 18. Dự họp có đầy đủ các đồng chí trong Đảng ủy và Bộ Tư lệnh: Đồng Sỹ Nguyên, Hoàng Thế Thiện, Lê Đình Sum, Lê Xy, Hoàng Kiện, Ngô Thành Vân, Lê Nghĩa Sỹ, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Lệnh, Nguyễn Lang, Phan Khắc Hy, Nguyễn An; các đồng chí chỉ huy quân sự, chính trị các sư đoàn, binh trạm, trung đoàn; các đồng chí đại diện các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Bộ Tư lệnh từ cấp phòng trở lên.

Dự họp có đồng chí Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, đại diện Quân ủy Trung ương, đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Nguyễn Tường Lân và Nam Hải - Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Lê Văn Tri - Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Đặng Tính - Tư lệnh kiêm Chính ủy Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, các đồng chí chủ trì các cục trong cơ quan Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, các tư lệnh công binh, thông tin. Đồng chí Nguyễn Tư Thoàn Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình, Hồ Sĩ Thản - Bí thư Đảng bộ đặc khu Vĩnh Linh.

Hội nghị đã thực sự hội tụ đông đủ trí tuệ của những người đã từng lăn lộn trên tuyến lửa Trường Sơn, phản ánh sự quan tâm sâu sắc, sự đùm bọc, chăm 10, giúp đỡ của toàn quân, toàn dân đối với Bộ đội Trường Sơn đang quyết tâm giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu mùa khô 1971 - 1972 sắp tới.
 
Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đọc báo cáo tổng kết. Với tinh thần tự phê bình nghiêm túc đồng chí đã nêu lên những ưu điểm, khuyết điểm trong cuộc chiến đấu vừa qua, đồng thời rút ra những bài học có tính phổ biến.

Báo cáo tập trung làm rõ các vấn đề:

- Nắm địch, thời tiết, địa hình có hệ thống, đánh giá đúng địch, lợi dụng mọi sơ hở của chúng, kết hợp khắc phục địa hình, thời tiết là một trong những yếu tố quyết định giành thắng lợi.

- Chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị thế trận, xây dựng và sử dụng lực lượng bước đầu là cơ sở vật chất vững chắc bảo đảm cho tổ chức chiến đấu thắng lợi.

- Giữ vững quyền chủ động, thực hiện tiến công kiên quyết liên tục tiến công trong mọi tình huống, trong mọi binh chủng là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt, là một trong những yếu tố hàng đầu đi tới thắng lợi.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp tổ chức chiến đấu hiệp đồng binh chủng, lấy bộ đội xe hơi làm trung tâm, xây dựng phong cách chỉ huy trực tiếp là nguyên tắc bảo đảm chắc thắng.

- Liên tục động viên quần chúng. Xây dựng quan điểm tư tưởng đúng đắn là một trong những yếu tố quyết định tiến công thắng lợi.

- Nắm vững phương châm vận chuyển đa phương thức, lấy vận chuyển cơ giới đường bộ là cơ bản, coi trọng vận chuyển cơ giới đường sông, đẩy mạnh phát triển đường ống, duy trì gùi thồ ở nơi và lúc cần thiết. Trong vận chuyển phải vận dụng linh hoạt mọi hình thức chiến thuật: chạy ngày, chạy đêm, chạy lấn sáng, lấn chiều, chạy lớn, chạy vừa, chạy nhỏ, chạy cung ngắn, cung dài, chạy mùa khô, mùa mưa, lấn mùa, chạy bí mật, bất ngờ, chạy trong điều kiện địch đã biết ta và đánh ác liệt.

- Nắm vững phương châm tác chiến: táo bạo, vững chắc, linh hoạt, chủ động, bí mật, bất ngờ, tích cực đánh địch kết hợp chủ động phòng tránh. Nội dung của tích cực đánh địch là kiên quyết chiến đấu, trực diện chiến đấu, liên tục chiến đấu của mọi binh chủng trong thế hiệp đồng. Chủ động phòng tránh là tích cực xây dựng công sự, ngụy trang, nghi binh, lừa địch. Phòng tránh cũng là chiến thuật và nghệ thuật đánh địch.

Báo cáo đã phân tích thêm một số khái niệm về chiến dịch vận tải quân sự trên tuyến chiến lược với sự tham gia của nhiều lực lượng, nhiều binh chủng. Báo cáo nêu rõ trong điều kiện đánh phá, ngăn chặn quy mô, ác hệt của địch, muốn giành thắng lợi trong vận tải quân sự nhất thiết phải huy động sức mạnh tổng hợp, dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất các binh chủng hợp thành bằng tổ chức chiến dịch tiến công; chỉ có chiến dịch tiến công mà thôi. Chiến dịch có hướng chủ yếu, hướng phối hợp. Có giai đoạn mở đầu tạo thế, thực hiện đột kích tiến lên giai đoạn tổng công kích dứt điểm kế hoạch cho từng hướng. Có giai đoạn kết thúc chiến dịch đúng lúc.

Nội dung báo cáo được hội nghị thảo luận, bổ sung thực tiễn làm phong phú, sáng tỏ và sâu sắc thêm. Hội nghị đặc biệt quan tâm thảo luận biện pháp đánh bại thủ đoạn đánh phá của máy bay AC 130 và đi đến kết luận: máy bay AC 130 cực kỳ nguy hiểm, nhưng ta không sợ. Nếu làm đường kín chạy ngày kết hợp chạy đêm, đồng thời sử dụng tên lửa và pháo tầm cao chống lại, thì nhất định sẽ đánh bại chúng.

Ngày 29 tháng 8 năm 1971, đồng chí Lê Quang Đạo - đại diện Quân ủy Trung ương nói chuyện với hội nghị. Sau khi biểu dương những nỗ lực và thắng lợi của Bộ đội Trường Sơn, đồng chí nhấn mạnh: "Nhiệm vụ của tuyến chi viện chiến lược là chìa khóa để chiến trường tận dụng thời cơ; tạo thắng lợi mới, nhảy vọt mới... Cả nước, toàn quân tạo điều kiện cho Bộ đội Trường Sơn, tin tưởng Bộ đội Trường Sơn sẽ phát huy truyền thống vượt mọi thử thách giành thắng lợi ...".

Đồng chí nhắc nhở các cấp cần coi trọng công tác tư tưởng làm cho cán bộ và chiến sĩ thấy rõ thắng lợi và tồn tại, đánh giá đúng địch ta, khó khăn và khả năng, thời cơ và yêu cầu. Thường xuyên quán triệt phương châm tư tưởng chỉ đạo để hành động đúng; giữ gìn cần kiệm, dân chủ, kỷ luật, đoàn kết nội bộ và đoàn kết quốc tế. Coi trọng xây dựng trong chiến đấu mà khâu mấu chốt là xây dựng đội ngũ cán bộ.
 
Ngày 5 tháng 9, đồng chí Đinh Đức Thiện - Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần nói chuyện với hội nghị. Đồng chí khẳng đinh: “Đường Hồ Chí Minh là một chiến trường có vị trí chiến lược đặc biệt với ba nước Đông Dương, là chiến trường cực kỳ gian khổ, ác liệt. Nhiệm vụ lớn, lại khẩn trương, vừa vận chuyển vừa chiến đấu, vừa làm đường, bảo vệ đường, vì ta khai thác tại chỗ vừa giúp bạn”. Qua tổng kết thấy rõ Bộ đội Trường Sơn trưởng thành, phát triển, làm ăn bài bản, có lý luận, có sáng tạo. Cán bộ, chiến sĩ chiến đấu anh dũng mưu trí...

Sau khi biểu dương, khen ngợi cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn, đồng chí đã có những ý kiến chỉ đạo cụ thể từng mặt công tác: cầu đường, đường bộ, đường sông, đường ống, tác chiến, vận chuyển, giao liên, bảo đảm kỹ thuật, bảo đảm đời sống, xây dựng tư tưởng, tổ chức. Đồng chí nhấn mạnh vấn đề then chốt là xây dựng con người có trình độ chính trị tư tưởng vững vàng, có trình độ chiến thuật, kỹ thuật và chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, có sức khỏe tốt.

Hội nghị bế mạc trong không khí hân hoan, phấn khởi và tin tưởng. Từ trung tuần tháng 9 đến trung tuần tháng 10 năm 1971 các Bộ Tư lệnh khu vực kiện toàn bộ máy lãnh đạo và chỉ huy, tập trung xây dựng chức trách nhiệm vụ, lề lối làm việc, tác phong chỉ huy, đồng thời tích cực xây dựng thế trận, xây dựng lực lượng trên địa bàn được phân công phụ trách.

Do các Bộ Tư lệnh khu vực được cấu thành từ những cán bộ đã từng giữ cương vị chỉ huy cấp chiến dịch và chiến thuật, được rèn luyện trưởng thành trong nhiều năm chiến đấu trên tuyến lửa, vừa có trình độ tổ chức chỉ huy, vừa có quan điểm lập trường chính trị vững vàng và do các binh trạm trực thuộc đều đã thiện chiến, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần đoàn kết hiệp đồng lập công tập thể, nên chỉ trong một tháng, guồng máy hoạt động toàn Bộ Tư lệnh từ trên xuống dưới được thông suốt. Sức mạnh chiến đấu của các lực lượng trên từng khu vực được phát huy, hứa hẹn khả năng tổ chức các chiến dịch vận tải độc lập có hiệu quả.

Tháng 10 năm 1971, mùa mưa ở tây Trường Sơn cơ bản kết thúc. Trong 5 tháng liên tục lực lượng công binh lăn lộn chống chọi với mưa gió, muỗi độc, sên, vắt và thiếu thốn mọi mặt về sinh hoạt, đã san đắp được hàng triệu mét khối đất đá sụt lở khôi phục xong hệ thống đường cũ có tổng chiều dài 7.927 km.

Đặc biệt đã mở được trục đường kín dài khoảng 720 km và mở thêm một trục đường mới phía đông Trường Sơn từ Cầu Khỉ vươn tới Khe Sanh dài trên 50km. Đã rải đá được 117 km trên các đường ở cửa khẩu và khoảng 50km trên các đường ngang ra chiến trường. Đã làm được 13 phà vượt các sông lớn, có phà chở được xe tăng 36 tấn như phà Sê San khu vực Bộ Tư lệnh 470. Một số điểm vượt sông trọng yếu được bắc cầu quân sự. Các lực lượng kho, xe và cơ quan các binh trạm khẩn trương xây dựng các khu kho, bãi xe, sở chỉ huy ở các vị trí mới.

Lực lượng phòng không đã xây dựng xong các trận địa. Lực lượng bộ binh tổ chức chiến đấu giữ vững các vùng Mường Phin, cao nguyên Bô Lô Ven, A Tô Pơ, bảo vệ an toàn tuyến hành lang. Tuy nhiên, do đánh giá sai về địch và thiếu linh hoạt về chiến thuật vùng Sa Ra Van bị các binh đoàn cơ động (GM) của ngụy Lào chiếm lại.

Cùng với việc hoàn thành chuẩn bị thế trận, các lực lượng trên toàn tuyến đều được học tập về chính trị; tập huấn về quân sự, kỹ thuật. Các lực lượng bổ sung từ hậu phương cũng đã vào tới khu tập kết, sẵn sàng nhập tuyến.

Việc chuẩn bị cho mùa vận chuyển mới được tiến hành toàn diện và sớm, đã hoàn thành về cơ bản. Nhưng điều kiện để bước vào vận chuyển mùa khô còn chưa đầy đủ vì thời tiết còn diễn biến phức tạp. Hệ thống đường cũ vẫn chưa khô. Đường kín càng ẩm ướt và chưa có hệ thống bảo đảm. Các cửa khẩu bị ảnh hưởng trực tiếp của ba cơn bão số 12, 13, 14. Mưa to, nước sông suối dâng cao.
 
Bộ Tư lệnh ra lệnh cho các lực lượng phải nỗ lực chạy đua với thời gian để chiến thắng thời tiết củng cố thế trận, bảo đảm tổ chức nhập tuyến cho 70% số quân bổ sung, 70% số xe pháo cùng các khí tài công binh và thông tin để kịp tăng cường cho các lực lượng. Ngày 15 tháng 11 năm 1971 các chỉ tiêu trên phải hoàn thành.

Chấp hành mệnh lệnh, các lực lượng công binh chở gấp hàng ngàn mét khối đá để tôn ngầm và gia cố mặt đường, bắc cầu quân sự hoặc làm các loại cầu ứng dụng khác. Lực lượng phòng không bố trí các trận địa đánh máy bay phản lực trên các cửa khẩu. Ngày 15 tháng 11 năm 1971, lực lượng cơ giới do Bộ bổ sung bắt đầu nhập tuyến.

Đúng như phán đoán của ta, bước vào mùa khô 1971 - 1972 địch phá chuẩn bị của ta rất sớm. Từ đầu tháng 9 năm 1971 địch tập trung đánh phá cửa khẩu. Cường độ đánh phá so với mùa khô 1970- 1971 không giảm. Mỗi ngày khoảng 40 lần chiếc máy bay B52 và 150 lần chiếc máy bay cường kích đánh phá liên tục trên bốn cửa khấu, chủ yếu là cửa khẩu đường 16 và cửa khẩu đường 20. Ban đêm địch cho máy bay B52 ném bom rải thảm, ban ngày sử dụng máy bay cường kích đánh bổ nhào. Mục đích chủ yếu của địch là cắt đường, kết hợp diệt các đội hình xe.

Tuy nhiên âm mưu cắt đường, bịt cửa khẩu bằng thủ đoạn mới của địch không thực hiện được vì thế trận vượt khẩu đã thay đổi căn bản. Không những ta có sáu tuyến vượt khẩu mà mỗi tuyến vượt khẩu lại có nhiều đường vòng, đường tránh được rải đá khá vững chắc. Lực lượng công binh bố trí trên các tuyến này đều là những đơn vị thiện chiến, giỏi rà phá bom mìn hỗn hợp, khắc phục phá hoại nhanh. Vì vậy các cửa khẩu vẫn thông suốt, chỉ có tắc giờ không có tắc đêm và tắc ngày.

Lợi dụng những ngày thời tiết âm u, các lực lượng cơ giới được lệnh nhập tuyến.

Từ ngày 20 tháng 10 đến ngày 15 tháng 11, trên 20 nghìn quân nhập tuyến, bổ sung cho các đơn vị, trong đó có hàng trăm sinh viên đại học của các trường đại học Thủy lợi, Bách khoa, Tổng hợp, Giao thông, Y dược. 1.200 xe, 250 khẩu pháo và hàng trăm tấn khí tài công binh, thông tin đã vượt qua cửa khẩu về tới vị trí tập kết.

Ở tung thâm, địch tăng cường trinh sát đánh phá các điểm vượt sông. Nhưng lực lượng phòng không của ta đã bảo vệ các điểm vượt có hiệu quả, trong vòng một tháng giao tranh đã bắn rơi 13 máy bay địch, trong đó có 6 chiếc rơi tại chỗ. Sau một tháng hoạt động hết sức khẩn trương, thế trận và lực lượng toàn tuyến đã sẵn sàng bước vào giai đoạn tổ chức chiến dịch vận chuyển mùa khô 1971 - 1972.

Ngày 19 tháng 11 năm 1971, Đảng ủy họp bất thường, nhận định: điều kiện cơ bản để đi vào vận chuyển mùa khô đã được xác lập, nhưng để đi đến giai đoạn chiến đấu đồng đều trên toàn tuyến với quy mô lớn thì chưa thực hiện ngay được, đòi hỏi phải có bước đi thích hợp. Song nếu chậm trễ thì không thể tạo điều kiện cho các chiến trường chủ động tranh thủ thời cơ có lợi để đánh thắng.

Đảng ủy quyết định mở một chiến dịch vận chuyển đột phá quy mô vừa trên hướng quan trọng nhất nhằm mục đích vượt khẩu lập chân hàng, tạo điều kiện cho lực lượng ở tung thâm thực biện từng đợt đột kích; đồng thời để biểu dương ý chí và sức mạnh của ta, thúc đẩy toàn tuyến dấy lên khí thế mạnh mẽ bước vào chiến dịch vận chuyển có quy mô lớn.

Chiến dịch được mang tên “chiến dịch Đồng Xoài". Lực lượng tham gia chiến dịch gồm bốn binh trạm phía bắc: 12, 14, 15, 31. Các đơn vị binh chủng có 7 tiểu đoàn xe hơi, 4 trung đoàn cao xạ, 3 trung đoàn công binh, 2 tiểu đoàn bộ binh. Tất cả các lực lượng đều đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Trường Sơn.
 
Quá trình thực hành chiến dịch, Bộ Tư lệnh Trường Sơn giao cho Bộ Tư lệnh khu vực 473 trách nhiệm phối hợp, vận chuyển vượt khẩu phía đông, kéo bớt địch. Trung đoàn 29 bộ binh có trách nhiệm phối hợp ngăn chặn địch bảo vệ sườn phía tây. Các bộ tư lệnh khu vực khác khẩn trương củng cố thế trận, thực hiện từng đợt đột kích. Bộ Tư lệnh đề ra bốn mục tiêu lớn của chiến dịch:

- Tổ chức đánh thắng trận đầu bằng chiến đấu hiệp đồng binh chủng.

- Tạo chân hàng với khối lượng lớn trên khu vực bắc đường 9 để chuẩn bị phát triển vận chuyển quy mô lớn trên toàn tuyến.

- Tạo thế cho bước tiếp theo gồm hoàn thiện hệ thống cầu đường phù hợp với tư tưởng chỉ đạo mới; tổ chức thế trận tác chiến phòng không nhằm tiêu diệt các loại máy bay, đặc biệt là máy bay AC 130.

- Rèn luyện bộ đội xe hơi, tập dượt thực hành vận chuyển quy mô lớn.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết định thiết lập sở chỉ huy nhẹ do Chính ủy Đặng Tính và Phó Chính ủy Lê Xy phụ trách trực tiếp chỉ huy các lực lượng tham gia chiến dịch.

Trước khi ra quân, Bộ Tư lệnh mở Hội nghị Quân chính để phổ biến nhiệm vụ và phát động phong trào thi đua phối hợp với các chiến trường, quyết giành thắng lợi có ý nghiã quyết định trong năm 1972.

Tại Hội nghị, Bộ Tư lệnh đã công bố danh sách 6 đơn vị và 3 cá nhân vừa được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 1 tháng 10 năm 1971 .

Tin vui nhanh chóng được phổ biến, các đơn vị trên toàn tuyến dấy lên khí thế thi đua chiến đấu lập công trong toàn thể cán bộ, chiến sĩ trước khi bước vào chiến dịch.

Ngày 12 tháng 12 năm 1971 , chiến dịch mở màn. Đúng vào thời điểm này, cơn bão số 15 gây mưa lớn trên các trục vượt khẩu, các sông suối nước dâng cao. Cán bộ, chiến sĩ công binh đã nêu cao ý chí thắng thời tiết, ngày đêm tập trung sức chở đá tôn ngầm và ngâm mình dưới dòng nước chảy xiết đế bắc cầu quân sự bảo đảm thông xe liên tục.

Từ khu vực Lùm Bùm trở vào, thời tiết khô ráo, trời quang mây tạnh. Nhưng "đường kín" còn mềm chưa sử dụng được, buộc bộ đội xe phải tiến công ban đêm trên “đường hở". Máy bay AC 130 săn lùng xe ráo riết. Bộ đội phòng không đã triển khai được 75% số pháo cao xạ và súng máy ở các trọng điểm Bản Đông, Tha Mé, Mường Phin, Na Hang, Tam Luông, Xóm Péng, đèo 500, Bạc...

Các đơn vị đánh trên 1.000 trận, bắn rơi 27 máy bay các loại có 13 chiếc rơi tại chỗ. Nhưng đổi với máy bay AC 130 thì đánh chưa hiệu quả. Đêm nào xe ta cũng bị loại máy bay này gây tổn thất nặng. Cuộc chiến đẩu giữa ta và địch ngày càng trở nên quyết liệt. Bộ đội xe hơi phải áp dụng chiến thuật lấn chiều, lấn sáng táo bạo hơn, vừa chạy đội hình nhỏ, vừa chạy đội hình vừa, vừa tập kích bí mật, vừa tiến công dưới điều kiện uy hiếp của địch. Lực lượng công binh tập trung đào công sự và làm đường nhánh "xương cá" cho xe trú ẩn, đẩy mạnh nghi binh, tiếp tục gia cố mặt đường.

Các trung đoàn công binh cơ động (4, 10, 98) tiếp tục mở thêm đường kín, củng cố nền đường rải đá chống lầy, bứng cây tươi trồng dọc đường trống, ngụy trang vách ta luy và các bến vượt bằng cây cỏ để nhanh chóng đưa đường kín vào sử dụng.

Lực lượng phòng không tăng cường đánh máy bay trinh sát và máy bay AC 130. Lực lượng bộ binh chuẩn bị đánh chiếm lại vùng vừa bị mất và chuẩn bị giải phóng một số vùng khác. Sau hơn nửa tháng tiến hành chiến dịch Đồng Xoài, toàn tuyến có bước phát triển mới, nhiều mặt phát triển tốt. Các binh trạm trực tiếp tham gia chiến dịch nỗ lực vượt bậc, hoàn thành chỉ tiêu lập chân hàng. Các lực lượng trên các khu vực phối hợp tốt, vừa hoàn thiện thế trận cầu đường, vừa thực hiện các đợt đột kích.

Sư đoàn khu vực 473 và Sư đoàn khu vực 472 đã thực hiện khối lượng vượt đường 9 (1.460 tấn), vượt La Hợp (828 tấn). Sư đoàn khu vực 471 triển khai mở đường kín và đẩy hàng vượt Bạc 228 tấn. Sư đoàn khu vực 470 tổ chức khai thác hàng ở hướng C4 đạt hiệu quả cao (1.000 tấn), đồng thời chuyển được số vũ khí cần thiết đảm bảo cho bộ đội Tây Nguyên và Nam Bộ.
 
Phản công đánh bại cuộc hành quân “Chen La 2" của 50 tiểu đoàn chủ lực ngụy Lon non đánh ra khu vực đường số 6 - Công Pông Thơm. Sư đoàn tình nguyện 968 phối hợp với bộ đội Pa thét Lào đập tan cuộc hành quân của 18 tiểu đoàn địch, khôi phục các khu vực Sa Ra Van - Tha Teng, Lào Ngàm, đuổi địch ra khỏi Pắc Xoong, giải phóng cao nguyên Bô Lô Ven, bảo vệ vững chắc tuyến vận tải chiến lược. Đoàn chuyên gia 565 tích cực giúp bạn ổn định đời sống nhân dân, phát triển lực lượng cách mạng.

Ngày 27 tháng 12 chiến dịch vận chuyển mang tên “chiến dịch Đồng Xoài" kết thúc, bước đầu tạo điều kiện phát huy sức mạnh trên toàn tuyến. Song so với yêu cầu về khối lượng và thời gian cần thiết đảm bảo cho chiến trường thì mức phấn đấu chưa đạt. Một trong những nguyên nhân là ảnh hưởng cơn bão muộn, đường xấu đánh máy bay AC 130 chưa có hiệu quả. Việc phát động quần chúng chưa mạnh và biểu hiện ngại địch dẫn đến cung cách làm ăn nhỏ, lẻ, phân tán, né tránh làm cho hiệu suất thấp.

Qua "Chiến dịch Đồng Xoài", các cấp lãnh đạo, chỉ huy nhận rõ những ưu điểm khuyết điểm, rút được nhiều kinh nghiệm quý báu.

Do yêu cầu khẩn cấp của chiến trường, cần phải hoàn thành kế hoạch tháng 1 năm 1972 ở mức tối thiểu, theo thời gian khống chế của Quân ủy Trung ương, Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết định mở chiến dịch tiếp theo, lấy tên là “Chiến dịch Bình Giã" bắt đầu ngày 1 tháng 1 năm 1972.

Sau khi xem xét thế trận cầu đường, tình hình thời tiết địa hình và sự đánh phá của địch trên toàn tuyến, Bộ Tư lệnh quyết định địa bàn và hướng chủ yếu của "chiến dịch" là từ các cửa khẩu tây Trường Sơn đến Bạc. Lực lượng trên hướng chủ yếu gồm Bộ Tư lệnh khu vực 472, 4 binh trạm độc lập đã tham gia "Chiến dịch Đồng Xoài" và Trung đoàn bộ binh 29 trực thuộc. Ngoài lực lượng vận tải của Bộ Tư lệnh khu vực 472 và các binh trạm trên, Bộ Tư lệnh quyết định tăng cường trung đoàn ô tô cơ động 13 và 3 tiểu đoàn ô tô độc lập khác nhằm tăng sức đột phá, dứt điểm chỉ tiêu nhiệm vụ đúng thời hạn.

Ở hướng đông, Bộ Tư lệnh khu vực 473 có nhiệm vụ phối hợp vận chuyển hàng tới chiến trường Trị - Thiên. Ở hướng nam, Bộ Tư lệnh khu vực 470 và 471 tập trung lực lượng tiếp nhận bảo quản, đồng thời tổ chức những mũi vận chuyển liên tục đi sâu vào hậu cứ các chiến trường Nam Bộ và Tây Nguyên.

Hướng chủ yếu, Bộ Tư lệnh quyết định tăng cường lực lượng phòng không gồm: trung đoàn cao xạ 591 cơ động về khu vực Tha Mé; trung đoàn cao xạ 250 chuyển xuống Bản Đông; trung đoàn cao xạ 210 vào đường 22A; ba tiểu đoàn cao xạ 12, 88 và 98 bố trí bảo vệ đường kín; tiểu đoàn 67 tên lửa hành quân vào khu vực Na Bo đường 128.

Lực lượng thông tin hoàn thiện mạng tiếp sức tải ba, vô tuyến, giữ vững liên lạc với mọi đối tượng trong chiến dịch. Lực lượng đường ống xăng dầu gồm hai trung đoàn 592 và 352, khẩn trương xây dựng đường ống vào đến Bạc, xây các khu chứa tương ứng với các cung vận chuyển phục vụ đội hình xe vừa chạy theo cung, vừa chạy thẳng, đảm bảo vững chắc nhiên liệu cho các hướng.

Lực lượng kỹ thuật khôi phục nhanh đầu xe, thực hiện các chế độ bảo dưỡng, bảo đảm cho được 80% hệ số kỹ thuật. Tổ chức tốt việc ăn nghỉ dọc đường cho bộ đội xe hơi.

Các binh trạm cửa khẩu bảo đảm chân hàng đủ cơ số trực tiếp, cơ số dự bị, cơ số dự phòng. Triển khai hệ thống chỉ huy và bảo đảm giao thông trên trục đường kín. Bố trí hệ thống cấp cứu, phẫu thuật ngay tại các trọng điểm.

Ngày 27 tháng 12, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh triệu tập Hội nghị Quân chính. Sau Hội nghị các đồng chí trong Thường vụ Đảng ủy được phân công trực tiếp chỉ đạo các hướng quan trọng. Riêng hướng chủ yếu, Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh quyết định thành lập Chỉ huy sở tiền phương do Phó Tư lệnh Phan Khắc Hy và Phó Chính ủy Lê Xy phụ trách.

Ngày 1 tháng 1 năm 1972, "Chiến dịch Bình Giã” mở màn. Phát hiện hoạt động tập trung quy mô lớn của ta, định huy động lực lượng đánh phá ác liệt. Một mặt, chúng duy trì ngăn chặn cửa khẩu; mặt khác tập trung kiếm soát gắt gao và đánh phá ác liệt khu vực đường 9 từ ngã ba Bản Đông đến Mường Phin, khống chế các điểm vượt sông Sê Băng Hiếng.
 

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top