Trường Sơn - Đường khát vọng

Nhờ phát triển ba điểm vượt sông (N 11, N 12, N 13), làm xong các hệ thống công trình vượt và tổ chức hệ thống phòng không mạnh ta mới vượt qua được lưới lửa ngăn chặn của địch. Riêng ba binh trạm 33, 34, 39 thuộc Bộ Tư lệnh 472 nằm trong trung tâm hướng chủ yếu do chưa làm xong đường kín, đội hình xe phải chạy đêm nên bị đánh cháy nhiều.

Theo chỉ thị của Bộ Tư lệnh Trường Sơn, Phó Tư lệnh Nguyễn Việt Phương, Phó Chính ủy Phan Hữu Đại, Tham mưu trưởng Hoàng Trá (Bộ Tư lệnh 472) xuống ba binh trạm trên trực tiếp làm Binh trạm trưởng kiêm Chính ủy.

Ở khu vực Binh trạm 35, 37, 38 thuộc Bộ Tư lệnh 471, mỗi ngày địch huy động 150 lần/chiếc đánh phá bằng bom mìn hỗn hợp với cường độ cao. Số bom từ trường tăng 375%, bom nổ chậm tăng 173% so với trước. Trong đọt đánh phá này của địch, đồng chí Nguyễn Tam Anh - Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh 471 và đồng chí Trương Bỉnh Khiêm - Binh trạm trưởng Binh trạm 37 hy sinh.

Trên toàn tuyến, máy bay AC 130 quần đảo đánh phá suốt đêm. Số đạn 40 ly tăng 32%, đạn 20 ly tăng 60% so với tháng 12 năm 1972.
Các đơn vị cao xạ 57 ly và 100 ly có điều khiển bằng khí tài mới được điều vào chưa tìm ra lối đánh ở địa hình rừng núi, nên chưa phát huy được tác dụng. Đội hình xe chạy đêm bị tổn thất khá nhiều, 60% số xe bị đánh hỏng do máy bay AC 130. Đường kín mới mở chưa ổn định và còn độc đạo nên tốc độ tiến công của đội hình xe chưa phát huy được.

Ở hướng phối hợp phía đông, máy bay B52 đánh quyết liệt vào cửa khẩu của Binh trạm 27. Máy bay AC 130 thường xuyên khống chế trọng điểm Chà Lì, Đèo 500 và Bản Đông. Hướng này gặp khó khăn lớn về địa hình (nhiều núi đá tai mèo, đồi trọc và rừng thưa) nên phần lớn là đường hở. Xe phải chạy đêm bị máy bay AC 130 đuổi đánh gây nhiều tổn thất.

Bộ Tư lệnh khu vực 473 huy động lực lượng chặt cây cao 4m trồng hai bên đường bắt chéo cánh xẻ lại để hạn chế khả năng quan sát của máy bay. Đồng thời vận dụng nhiều hình thức khác như chạy đêm kết hợp chạy ngày, chạy đội hình nhỏ theo cung ngắn, tăng cường đánh địch và nghi binh... để hạn chế tổn thất.

Trong 15 ngày đầu, chiến dịch diễn ra không được thuận lợi, chủ yếu là do đường kín còn ẩm ướt trơn lầy, độc đạo và chưa liên hoàn; hoạt động của máy bay AC 130 còn phát huy được. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh đã phát động phong trào hạ máy bay AC 130, mở thêm đường kín, trồng cây ngụy trang đường "hở” để chạy ngày, tổ chức nghi binh, nâng cao đầu xe, nâng cao trọng tải vượt cung tăng chuyến. Bộ Tư lệnh công bố các hình thức khen thưởng: Tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ - ngụy” cho những người lập công xuất sắc và trao cờ thưởng luân lưu cho những đơn vị dẫn đầu.

Càng về cuối chiến dịch, thế trận cầu đường càng được củng cố đồng bộ, khí thế bộ đội lên cao, các binh chủng hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, các đơn vị xe chuyển sang chạy ngày là chủ yếu. Nhờ đó toàn tuyến đã thực hiện được khối lượng theo yêu cầu của Quân ủy Trung ương. Chân hàng cho Bộ Tư lệnh khu vực 470 được bảo đảm, kịp thời phục vụ yêu cầu tác chiến của chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ. Hướng phía đông đảm bảo đủ chỉ tiêu cho mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị, chiến trường Trị -Thiên và Quân khu 5.

Cuối tháng 2 năm 1972, "Chiến dịch Bình Giã" kết thúc. Toàn tuyến đảm bảo đủ khối lượng hàng cho các hướng chiến trường, đảm bảo vật chất và tổ chức hành quân cho 55.000 cán bộ chiến sĩ gồm một sư đoàn và ba trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn xe tăng. 20 tiểu đoàn và 44 đại đội bộ đội địa phương cùng hàng ngàn cán bộ cao cấp, trung cấp thuộc các ngành tham mưu, chính trị, hậu cần kỹ thuật từ miền Bắc vượt Trường Sơn vào tăng cường cho các chiến trường.

Đặc biệt, đã bảo đảm và chỉ huy hai trung đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn pháo 85 ly, một tiểu đoàn pháo 122 ly hai tiểu đoàn cao xạ 37 ly, một tiểu đoàn tăng 171 (36 chiếc), một đại đội tên lửa chống tăng B72, một đại đội tên lửa bắn máy bay mang vác A72 vào tới chiến trường xa nhất (Nam Bộ) tạo sự chuyển biến mạnh về tương quan lực lượng trên chiến trường, gây bất ngờ lớn đối với địch.
 
Quá trình thực hiện chiến dịch, thế trận trên toàn tuyến ngày càng được củng cố, bản lĩnh và trình độ chỉ huy chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ được tôi luyện và nâng cao; thời tiết đi vào tháng cao điểm của mùa khô từ đông sang tây Trường Sơn. Để đảm bảo cho các chiến trường chuẩn bị bước vào cuộc tiến công chiến lược Đảng ủy, Bộ Tư lệnh chủ trương nắm thời cơ thuận lợi đưa toàn tuyến vào giai đoạn "Tổng công kích" nhằm dứt điểm kế hoạch chi viện chiến lược, giành thắng lợi quyết định trong mùa khô 1971 - 1972.

Đảng ủy nhấn mạnh nội dung chỉ đạo "Tổng công kích" là toàn diện, toàn tuyến phát triển đồng đều. Sử dụng tất cả 6 trục vượt khẩu dồn dập chuyển khối lượng lớn vật chất đi sâu vào phía trong. Phát triển cả 10 trục vào các hướng chiến trường. Tập trung ưu tiên các trục trọng tâm. Hướng đi mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị phải giữ vững bảo đảm thông suốt ba trục là đường 16, đường số 9, đường B70.

Hướng đi mặt trận Trị - Thiên phải giữ vững, bảo đảm thông suốt đường B45, đường B71. Hướng mặt trận Khu 5, phải giữ vững, kéo dài đường B46. Hướng đi mặt trận Tây Nguyên phải hoàn chỉnh ngụy trang, giữ vững trục đường 128 xuống Sa Thầy.

Hướng đi chiến trường Nam Bộ phải tăng cường truy quét biệt kích, thám báo và bộ binh địch nống lấn, giữ vững đường 49A, 49B và đường sông Sê Kông, Mê Kông. Các lực lượng trên chiến trường Lào cần phối hợp, cùng bạn truy quét biệt kích thám báo quanh khu vực đường 23 và tây đường số 9 .

Phương châm chỉ đạo vận chuyển là đội hình lớn tập trung tiến công ban ngày và chạy vượt cung là chính, khi có điều kiện thì chạy thẳng. Trên trục ngang ra chiến trường chủ yếu tổ chức đội hình đại đội tập trung kết hợp linh hoạt vận chuyển đi thẳng với vận chuyển theo cung.

Trên các địa bàn do các Bộ Tư lệnh khu vực đảm nhiệm cần duy trì một số xe vận chuyển đêm trên đường “hở” để đánh lạc hướng mục tiêu của địch. Các lực lượng công binh cơ động và tại chỗ tập trung mở đường "kín" tạo thành hai trục liên hoàn đảm bảo cho lực lượng vận tải cơ giới tiến công ào ạt. Lực lượng cao xạ và tên lửa bố trí tập trung ở các điểm "vượt", hạ bằng được máy bay AC 130. Bộ Tư lệnh quyết định kiện toàn Binh trạm 30 bảo đảm đường 24, đưa thêm trung đoàn ô tô cơ động 11 vào "Tổng công kích" để tăng cường sức đột kích trên tuyến đường “kín".

Với phương châm chỉ đạo và hàng loạt biện pháp tích cực, toàn diện đồng bộ, Bộ đội Trường Sơn đã xoay ngược được tình thế, đẩy địch vào thế bất ngờ. Máy bay địch vẫn xăm xăm nhằm đánh vào các trọng điểm trên tuyến đường "hở” và săn lùng xe chạy đêm.

Bị ta lừa, 500 lần chiếc máy bay địch đánh vào mục tiêu giả với 2.000 bom phá, bom bi bom cháy, bom từ trường, bắn trên 7.000 loạt rốc két 40 ly và 20 ly. Bộ đội phòng không đánh trả quyết liệt, bắn rơi 28 máy bay, có ba chiếc trinh sát OV 10, rơi tại chỗ.

Tại khu vực Bản Đông, tiểu đoàn 35 bắn trên 100 quả pháo sáng vây bọc máy bay AC 130 làm chúng hoảng hốt bỏ chạy. Lần đầu tiên bộ đội phòng không diệt được máy bay AC 130, đối thủ nguy hiểm nhất của tuyến chi viện chiến lược.

Choáng váng trước sức mạnh phòng không của ta, máy bay AC 130 của địch phải ngừng hoạt động trên một khu vực rộng lớn từ cửa khẩu vào Bạc trong 15 ngày, tạo điều kiện thuận lợi cho đội hình xe tiến công cả ngày và đêm, trên cả đường "kín" và đường "hở". Tổn thất xe giảm từ 20% xuống còn 1,2%. Hiệu suất vận chuyển tăng gấp từ 3 đến 4 lần so với tháng trước.

Trong tháng "Tổng công kích" hàng giao cho các hướng chiến trường vượt rất cao so với chỉ tiêu kế hoạch, xấp xỉ bằng 3 tháng đầu mùa khô. Đồng thời tổ chức hành quân, giao cho các chiến trường 97.000 cán bộ, chiến sĩ đã qua huấn luyện.

Ngày 30 tháng 3 năm 1972, các đơn vị binh chủng hợp thành đồng loạt nổ súng, tiến công trên ba hướng chiến lược tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch ở đường số 9 - bắc Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Hướng tiến công chiến lược chủ yếu là đường số 9 - Bắc Quảng Trị. Phối hợp với đòn tiến công chiến lược, quân và dân đồng bằng Khu 5 và đồng bằng Nam Bộ mở các chiến dịch tổng hợp, đánh vào các chi khu quân sự của địch.
 
Ngày 31 tháng 3 năm 1972, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi : “Chiến dịch lịch sử năm 1972 đã bắt đầu" ... "Trong cuộc đọ sức quyết liệt lần này giữa ta và địch, thắng lợi về quân sự của ta trên chiến trường có tầm quyết định về chiến lược rất quan trọng. Lúc này hơn lúc nào hết, trách nhiệm của các lực lượng vũ trang nhân dân ta rất nặng nề và rất vẻ vang”.

Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã dấy lên khí thế mới trong các lực lượng chi viện chiến lược. Tranh thủ thời cơ khi một bộ phận lớn không quân địch bị hút vào các cuộc tiến công trên các chiến trường, con "át chủ bài" AC 130 bị đánh gục, Bộ đội Trường Sơn đẩy "Tổng công kích" lên cao trào mới. Trên 40 tiểu đoàn xe, tiến công dồn dập cả ngày và đêm. Các cung trung chuyển trong phạm vi từng khu vực bị loại dần. Nhiều đội hình được lệnh chạy thẳng từ đầu tuyến đến cuối tuyến.

Đầu tháng 5 năm 1972, bảy tiểu đoàn xe đưa một chuyến hàng từ cửa khẩu vào thẳng chiến trường Nam Bộ và Tây Nguyên. Số hàng tới đích đợt này bằng kết quả vận chuyển 6 tháng trước đó của Bộ Tư lệnh khu vực 470.

Trên mặt trận đường số 9 - Bắc Quảng Trị bộ đội ta đã tiêu diệt một tập đoàn phòng ngự vào loại mạnh của địch, diệt hơn 8.000 tên, bắt 2.100 tên, phá hủy trên 2.000 xe các loại, bắn rơi 50 máy bay. Ngày 2 tháng 5 năm 1972, ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Địch phản kích quyết liệt, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, ta và địch giành đi giật lại từng khu vực.

Để đảm bảo tiếp tế vững chắc cho chiến dịch, Bộ Tư lệnh Trường Sơn giao cho Sư đoàn khu vực 473 bảo đảm cho mặt trận đường số 9 - Bắc Quảng Trị từ hướng tây và cho Trị Thiên - Huế, Bắc Khu 5.

Phát hiện nhịp độ vận chuyển gia tăng trên các hướng này, địch tập trung không quân đánh phá dữ dội. Địa bàn Binh trạm 42 từ đèo Pê Ke đến thung lũng A Lưới bị địch đánh phá ác liệt nhất. Bộ đội Sư đoàn 473 hợp đồng chặt chẽ với quân dân Thừa Thiên - Huế đánh trả quyết liệt máy bay địch.

Ngày 20 tháng 6, tại khu vực A Lưới, Tiểu đoàn 4 cao xạ bắn rơi 5 máy bay địch. Ngày 18 tháng 6, tên lửa A72 của bộ đội Trị - Thiên bắn rơi tại chỗ 1 chiếc AC 130. Ngày 7 tháng 7, Đại đội 2 tiểu đoàn cao xạ 35 bắn rơi tại chỗ 1 chiếc AD6 ở Hướng Hóa. Các Binh trạm 41, 42, 28, các trung đoàn công binh 98, 6, trung đoàn xe cơ động 13 vượt qua mọi thử thách ác liệt, bảo đảm cầu đường vận chuyển theo yêu cầu của chiến trường.

Địch vơ vét lực lượng tố chức cuộc hành quân “Lam Sơn 72" nhằm tái chiếm những vùng bị mất; đồng thời tổ chức phản kích bằng pháo hạm và máy bay rất quyết liệt vào các khu vực Cồn Tiên, Dốc Miếu, Bái Sơn, Đông Hà, Ái Tử, Thành cổ Quảng Trị, Đầu Mầu và hậu cứ Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Đồng chí Nguyễn Văn Tốn - Phó Chủ nhiệm Cục Hậu cần hy sinh khi đi kiểm tra đơn vị. Đồng chí Lê Văn Lẫm - Trung đoàn trưởng Trung đoàn Cao xạ 591 hy sinh khi chỉ huy chiến đấu.

Trong tình hình đường bộ bị đánh dồn dập, Binh trạm 12 được lệnh nhanh chóng tổ chức một mũi vận chuyển đường thủy ven theo bờ biển vào Gia Đằng, Mỹ Thủy tiến vào sông Thạch Hãn tiếp tế cho Trung đoàn 48 đang cố thủ Thành cổ và căn cứ Tà Lương, Phù Liêu, Thanh Hội.

Đúng vào thời điểm đó, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng lệnh cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn đưa một số đơn vị pháo 130 ly, xe tăng và pháo cao xạ vào Khu 5 đẩy mạnh cuộc chiến đấu chia lửa với Quảng Trị. Chấp hành lệnh trên, Bộ Tư lệnh Trường Sơn điều Trung đoàn 10 công binh mở gấp đường từ Khâm Đức đến Phước Sơn; phân công Phó Tư lệnh Nguyễn Quang Bích trực tiếp chỉ huy các lực lượng pháo, tăng, cao xạ cơ động vào Khu 5 đúng thời gian quy định.
 
Cuối tháng 6 năm 1972, do trời mưa lớn, chiến dịch vận chuyển mùa khô kết thúc. Tổng khối lượng giao cho các chiến trường và bảo đảm hành quân là 64.785 tấn, đạt 145% chỉ tiêu kế hoạch. Ngoài ra còn vận chuyển tạo chân hàng dự trữ trên các hướng 9.000 tấn và vận chuyển đảm bảo cho nội bộ khoảng 80.000 tấn, bao gồm thiết bị vật tư ô tô, xe máy, xăng dầu, đường ống, vũ khí, đạn, thuốc quân y và vật chất sinh hoạt...

Tuyến vận chuyển kéo dài thêm 40 km vào Khu 5; 150km vào Đông Nam Bộ; 200 km vào Tây Nguyên và trực tiếp vận chuyển tới chiến hào của bộ đội chiến đấu ở đường số 9 - Bắc Quảng Trị.

Cùng với thắng lợi của vận chuyển chiến lược, các nhiệm vụ khác đều được thực hiện tốt. Trong đó, khai thác hàng tại chỗ ở đông bắc Campuchia được 15.483 tấn; xây dụng đường ống kéo dài tới Bạc, nhập được 25.692 tấn xăng. Mở được 2.258km "đường kín", trong đó có 140km ở cửa khẩu được rải đá. Mở thêm được 676km "đường hở” và khôi phục 7.500km đường cũ với khoảng 5.560.172m3 đất đá, tạo được thế trận mới, chuyển đổi quy quật hoạt động trên tuyến.

Các lực lượng phòng không bắn rơi 194 máy bay các loại, trong đó có 71 chiếc rơi tại chỗ, lần đầu tiên bắn rơi được máy bay AC 130. Lực lượng bộ binh liên tục chiến đấu, giữ vững các vị trí trong mùa mưa, tiêu diệt 1.924 tên địch, làm bị thương 1.515 tên, bắt sống 55 tên, thu và phá nhiều phương tiện chiến tranh của địch, mở rộng vùng giải phóng, bảo vệ vững chắc tuyến hành lang.

Kết thúc nhiệm vụ mùa khô 1971 - 1972, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã tặng danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ-ngụy” cho 1.610 lái xe và hàng trăm cán bộ, chiến sĩ các binh chủng, trong đó 241 người đạt dũng sĩ cấp ưu tú. Phong trào thi đua giành danh hiệu "Dũng sĩ diệt Mỹ-ngụy” trên mặt trận chi viện chiến lược đã khơi dậy nhiệt tình cách mạng của các lực lượng trên toàn tuyến, góp phần giành thắng lợi lớn trong mùa khô 1971 - 1972 .

Quân ủy Trung ương biểu dương Bộ đội Trường Sơn đã chiến đấu xuất sắc, giành thắng lợi to lớn toàn diện chưa từng có so với các năm trước. Vận chuyển chi viện, tổ chức bảo đảm đưa quân vào đạt kết quả rất cao trên tất cả các hướng, góp phần quan trọng cho các chiến trường Nam Đông Dương đánh mạnh cả mùa khô, mùa mưa.

Trước đòn tiến công chiến lược mùa xuân 1972 của quân và dân ta trên khắp các chiến trường miền Nam, Mỹ đơn phương tuyên bố hoãn không thời hạn cuộc đàm phán ở Pari, đồng thời huy động một lực lượng lớn không quân, hải quân, sử dụng khối lượng bom đạn gấp hai lần so với trước, chi viện hỏa lực hòng cứu nguy cho quân đội Sài Gòn và mở lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai.

Ngày 8 tháng 5 năm 1972, Níchxơn tuyên bố phong tỏa cảng Hải Phòng và toàn bộ các cửa biển miền Bắc Việt Nam. Một lực lượng lớn không quân Mỹ kể cả pháo đài bay B52 cùng với pháo hạm ngoài biển liên tục đánh phá các tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông, cảng biển, phá hủy nhiều cầu cống bến bãi, rải bom từ trường, thủy lôi dày đặc phong tỏa các cửa biển, các luồng sông, đặc biệt tập trung đánh phá ác liệt cảng Hải Phòng và khu vực "cán xoong" Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình...

Âm mưu của đế quốc Mỹ là triệt ngay từ gốc nguồn chi viện của hậu phương cho tiền tuyến làm giảm sức tiến công của ta trên chiến trường, buộc ta phải chấp nhận những giải pháp mà Mỹ đưa ra tại Hội nghị Pari.

Trước âm mưu và hành động mới của địch, Trung ương Đảng quyết định: Tiếp tục tiến công chiến lược ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ bảo vệ vững chắc miền Bắc, chống địch phong tỏa, tập trung sức thực hiện nhiệm vụ đột xuất số một là giao thông vận tải chi viện chiến trường.

Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định đẩy mạnh hơn nữa công tác chi viện bảo đảm cho các chiến trường, tiếp tục phát triển tiến công ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại, ngăn chặn và phong tỏa lần thứ hai của đế quốc Mỹ trên miền Bắc.
 
Theo tinh thần chỉ đạo của Quân ủy Trung ương Bộ Tư lệnh Trường Sơn nhanh chóng tập trung lực lượng tổ chức đợt vận chuyển lớn đưa phần lớn khối lượng vật chất từ nam Khu 4 vào Trường Sơn, làm thất bại một bước âm mưu phản kích của đế quốc Mỹ. Do địch sử dụng sức mạnh tổng lực của hải quân và không quân với khí tài được cải tiến và thủ đoạn đánh phá xảo quyệt, việc tiếp nhận hàng viện trợ và hoạt động chi viện chiến lược của ta bị ngừng trệ, ảnh hưởng đến nhịp độ tiến công của quân và dân ta trên các chiến trường.
Giao thông vận tải từ hậu phương vào chiến trường lại trở thành mặt trận nóng bỏng. Hội đồng chi viện tiền tuyến của Chính phủ được thành lập. Ban Điều hòa giao thông vận tải Trung ương được phục hồi.

Trước tình hình thúc bách, Bộ Chính trị chỉ thị Tỉnh ủy Quảng Bình động viên nhân dân góp gạo chi viện cho tiền tuyến.

Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn do sự đánh phá hủy diệt của địch, sản xuất nông nghiệp khó khăn, lương thực bị cạn kiệt, nhân dân Quảng Bình vẫn nêu cao ý chí: "Nhà tan cửa nát cũng ừ, đánh tan giặc Mỹ cực chừ, sướng sau”, sẵn sàng chia sẻ với chiến trường những hạt gạo của "đất lửa". Chỉ trong một thời gian ngắn, Quảng Bình đã huy động được 500 tấn gạo chuyển giao cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn để chuyển vào chiến trường. Số gạo hiếm hoi và quý báu đó chỉ nuôi được 8,5 vạn quân trong một tuần, nhưng có ý nghiã rất lớn.

Tại mặt trận Quảng Trị, sau hai ngày đánh phá dọn đường, ngày 28 tháng 6, Mỹ-ngụy huy động hai sư đoàn thủy quân lục chiến, một lực lượng lớn pháo binh và thiết giáp yểm trợ, mở cuộc hành quân "Lam Sơn 72A" nhằm tái chiếm Thị xã Quảng Trị.

Hội đồng Chính phủ quyết định quân sự hóa toàn bộ hệ thống giao thông vận tải từ nam Hà Tĩnh vào Vĩnh Linh, giao cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn thống nhất chỉ huy giao thông vận tải từ bắc sông Gianh vào đến tận hậu phương chiến dịch Đường số 9 - Quảng Trị, đồng thời quyết định thành lập Ban chỉ huy giao thông vận tải thống nhất gồm các đồng chí đại diện lãnh đạo Đảng, chính quyền tỉnh Quảng Bình và đại diện Đảng ủy Bộ Tư lệnh khu vực 571.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn cấp tốc điều chỉnh thế trận, chuyển nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh khu vực hậu cứ 571 thành Bộ Tư lệnh khu vực có nhiệm vụ chỉ huy hiệp đồng chiến đấu, vận tải chiến dịch, tạo nguồn hàng cho tuyến chiến lược.

Nhiệm vụ trước mắt lúc này là tập trung giải tỏa hai trọng điểm phà Gianh và Long Đại. Hai trung đoàn công binh trong tuyến ra chống phá hoại, mở đường vòng, đường tránh ở các điểm trên hai trục đường 5 và đường số 1. Nhiều khí tài được huy động bảo đảm vượt hai con sông lớn. Các đơn vị tên lửa, cao xạ của Quân chủng Phòng không - Không quân và Quân khu 4 phối thuộc, đánh địch quyết liệt bảo vệ hậu phương chiến dịch.

Các hợp tác xã vận tải, đánh cá của các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng Trạch được tổ chức thành các tiểu đoàn vận tải đường sông hoạt động trên các sông Kiến Giang, Gianh, Long Đại, Son, lập chân hàng cho hai binh trạm cửa khẩu đường 16 và đường 20. Tổng cục Hậu cần kịp thời cấp 100 máy đẩy cùng phụ kiện để cơ giới hóa các tiểu đoàn đường sông.

Bộ Giao thông Vận tải phối thuộc cho tuyển 559 Đoàn vận tải 8 gồm hơn 200 ô tô và đội xe của Công ty vận tải Quảng Bình. Bộ Tổng Tham mưu tăng cường các trang thiết bị phóng từ, Cục Vận tải điều các đội ca nô của đoàn Hồng Hà, trong đó có đại đội 7 ca nô phóng từ do Lò Văn Năng chỉ huy mở luồng vận chuyển đến Mai Xá (bắc Cửa Việt).

Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, nhất là nhân dân tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh và nhờ sự chỉ huy tập trung thống nhất, tuyến vận tải từng bước được khai thông.

Tháng 10 năm 1972, các đơn vị đã đưa được 1.000 tấn vũ khí vượt các trọng điểm phà Gianh, Long Đại vào mặt trận. Tháng 11 đưa tiếp 5.000 tấn vật chất vào chiến trường
 
Đầu tháng 12 năm 1972, tuyến đường ống xăng dầu bị máy bay B52 đánh phá quyết liệt. Nguồn xăng dự trữ bị cạn, Tổng cục Hậu cần chỉ đạo Cục Xăng dầu tập trung toàn lực, vượt lên sự phong tỏa, ngăn chặn của địch, khôi phục dòng chảy của xăng và ứng dụng mọi biện pháp bảo đảm.

Với tinh thần chiến đấu kiên cường, chỉ trong một thời gian ngắn cán bộ chiến sĩ xăng dầu đã đảm bảo đủ nhiên liệu, tạo điều kiện cho các đơn vị vận tải chuyển trên 1 vạn tấn vật chất kỹ thuật cho chiến trường Trị - Thiên và mặt trận đường số 9 - Bắc Quảng Trị, đáp ứng yêu cầu chiến đấu.

Được hậu phương chi viện về mọi mặt qua tuyến vận tải chiến lược đường Hồ Chí Minh, quân và dân ta trên mặt trận Đường số 9 - bắc Quảng Trị đã chủ động đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 72A, giữ vững vùng giải phóng rộng lớn từ sông Thạch Hãn - nam đường số 9 đến vĩ tuyến 17 nối liền với hậu phương miền Bắc.

Trên các chiến trường Tây Nguyên, Quân khu 5. Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng Nam Bộ, Nam Lào và Hạ Lào ta đều thắng lớn .

Trước nguy cơ sụp đổ không thể cứu vãn được của chế độ ngụy quyền tay sai, đêm 1 tháng 12 năm 1972 đế quốc Mỹ đi "nước cờ” cuối cùng, huy động lực lượng lớn máy bay B52 và phản lực cường kích mở cuộc tập kích chiến lược vào Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và một số nơi khác.

Cuộc tập kích chiến lược của không quân Mỹ kéo dài 12 ngày đêm. Quân và dân ta, nòng cốt là bộ đội phòng không - không quân đánh một trận tiêu diệt xuất sắc làm nên một “Điện Biên Phủ trên không", bắn rơi 81 máy bay trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111 ...

Trong lúc Mỹ tập trung không quân đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, toàn tuyến 559 và Tổng cục Hậu cần tiền phương chớp thời cơ huy động toàn lực vận chuyển cả ngày và đêm, đưa được khối lượng lớn hàng vượt cửa khẩu vào chiến trường, đẩy mạnh tác chiến và tạo dự trữ lớn.

Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam và trận "Điện Biên Phủ trên không" ở miền Bắc đã làm cho chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh" hoàn toàn bị sụp đổ. Ngày 30 tháng 12 năm 1972, Tổng thống Mỹ Níchxơn buộc phải công bố chấm dứt ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và nối lại hòa đàm Pari. Mưu đồ thương lượng trên thế mạnh của tập đoàn Níchxơn hoàn toàn thất bại. Ngày 15 tháng 1 năm 1973, Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc. Và ngày 27 tháng 1 năm 1973, Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari tuyên bố chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Dự kiến sự phát triển của tình hình, ngày 12 tháng 1 năm 1973, Phó Thủ tướng Đỗ Mười họp với đại diện các tỉnh Khu 4, các Bộ và Tổng cục Hậu cần giao nhiệm vụ tranh thủ thời cơ tổ chức một chiến dịch vận tải đặc biệt nhằm tạo dự trữ lớn cơ sở vật chất cho tuyến 559.

Ở tuyến hậu phương, Cục Vận tải Tổng cục Hậu cần được tăng cường 5.500 ô tô của các xí nghiệp Trung ương, các tỉnh, thành phố và các Bộ mở chiến dịch “VT5". Các mũi tiến công đường sắt, đường thủy, đường bộ ào ạt đẩy hàng lên phía trước. Bộ Tư lệnh Trường Sơn huy động hai trung đoàn và 10 tiểu đoàn ô tô vận tải với trên 2.000 xe. 1.500 xe của Bộ Giao thông Vận tải và các Ty Giao thông vận tải mở chiến dịch vận tải khẩn cấp với khẩu hiệu “một ngày bằng 20 năm" đưa khối lượng lớn vũ khí, lương thực và hàng dân sinh vào các chiến trường.

Chỉ trong nửa tháng, từ ngày 10 tháng 1 năm 1973 đến ngày 5 tháng 2 năm 1973 đã đưa được khối lượng hàng vào các kho nam, bắc Đường 9 khoảng 20.000 tấn. Đây là chân hàng dự trữ lớn chưa từng có, đảm bảo cho Bộ đội Trường Sơn hoàn toàn chủ động đáp ứng kịp thời yêu cầu đột xuất của các chiến trường trong giai đoạn cuối chiến tranh.
 
Trên chiến trường Lào, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ thị các Bộ Tư lệnh khu vực 470, 471, 472 nhanh chóng giúp bạn xây dựng thêm nhiều đại đội, tiểu đoàn chủ lực, trang bị đầy đủ vũ khí; cùng Sư đoàn bộ binh 968 huy động lực lượng, tham gia củng cố vùng giải phóng chống địch lấn chiếm.

Ngày 22 tháng 2 năm 1973, Hiệp định Viêng Chăn được ký kết, đế quốc Mỹ và tay sai thừa nhận độc lập hòa bình trung lập, hòa hợp dân tộc của nhân dân Lào.

Hòa bình được lập lại trên đất nước Lào, tạo điều kiện thuận lợi mới cho tuyến chiến lược đường Hồ Chí Minh phát triển thế trận chi viện ba nước Đông Dương, góp phần giành thắng lợi hoàn toàn của cách mạng ba nước.

Giữa những ngày lịch sử trọng đại của cả nước, Bộ đội Trường Sơn hân hoan đón tin mừng Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký sắc lệnh tuyên dương các Đơn vị anh hùng và Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong đó có 6 đơn vị và 5 cá nhân thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã lập thành tích đặc biệt xuất sắc.

Nhân dịp đầu xuân chiến thắng, chiều mồng một Tết Quý Sửu, đúng ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào thăm Bộ đội Trường Sơn. Tại chỉ huy sở Bộ Tư lệnh ở Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, đồng chí đã nghe Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn báo cáo tình hình hoạt động, chiến đấu của tuyến chi viện chiến lược mùa khô 1971 - 1972 và dự kiến công việc những năm sau. Sau khi biểu dương những thành tích to lớn của Bộ đột Trường Sơn, đồng chí Lê Duẩn nêu rõ:

"Tình hình địch ta đã khác trước nhiều, cục diện chiến trường, tương quan lực lượng đã thay đổi có lợi cho ta. Chúng ta đang đứng trước thời cơ cực kỳ thuận lợi. Thời cơ đó do ta tạo nên qua một quá trình chiến đấu. Đương nhiên thời cơ đó một phần cũng do những sai lầm của địch. Chúng ta phải biết tận dụng thời cơ, thúc đẩy thời cơ và nỗ lực tạo ra thời cơ mới để đẩy nhanh công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.. .".

Bác Hồ từng nói: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”. Hơn ai hết, Đảng ta, nhân dân ta khao khát hòa bình, nhưng phải là nền hòa bình tự ta chiến đấu giành lấy. Phải có hòa bình chúng ta mới thực hiện được độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội...

Bộ Chính trị đánh giá cao những kết quả mà tuyến đường Hồ Chí Minh đã làm những năm qua và tin chắc tuyến đường tiếp tục thực hiện thật tốt cầu nối Bắc - Nam, góp phần tích cực để quyết định thời cơ... " .

Trong Sổ Vàng truyền thống của Bộ đội Trường Sơn, đồng chí Bí thư thứ nhất của Đảng trang trọng ghi:

"Đường Trường Sơn là một chiến công chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Đường Trường Sơn là con đường của ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm, của khí phách anh hùng. Đó cũng là con đường nối dài Nam Bắc, thống nhất nước nhà, là con đường của tương lai giàu có của Tổ quốc ta. Đó cũng là con đường đoàn kết của các dân tộc ba nước Đông Dương... Vinh quang thay Bộ đội Trường Sơn Anh hùng đã chiến đấu và chiến thắng trên con đường mang tên Bác Hồ vĩ đại "

Tư lệnh và Chính ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã hướng dẫn đồng chí Lê Duẩn xem một chiếc cầu phao cho hai làn xe chạy, một đoàn ô tô vận tải đang vượt qua cầu, một trận địa cao xạ 57 ly ở trọng điểm Long Đại; tiếp đó thăm Binh trạm vận tải 12, là binh trạm của ba đơn vị anh hùng; trong tám tháng phục vụ chiến dịch Bắc Quảng Trị, năm lần được thưởng cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trước hàng quân, đồng chí Lê Duẩn xức động nói : " Tổ quốc ta, nhân dân ta, Đảng ta rất tự hào có những người con hy sinh vô cùng tận, kiên cường dũng cảm vô cùng tận như các đồng chí...".

Những lời động viên, khích lệ của đồng chí Lê Duẩn là phương hướng chỉ đạo, là nguồn động lực thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi mới to lớn hơn nữa trong giai đoạn cách mạng mới.
 
VI. CON ĐƯỜNG CHIẾN THẮNG

Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973 là thắng lợi to lớn của nhân dân ta, nhưng là thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Theo Hiệp định, đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam; cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, chấm dứt dính líu nhân sự và can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam...

Trên chiến trường miền Nam, các đơn vị quân đội Việt Nam giữ nguyên lực lượng và khu vực đóng quân. Đối với miền Bắc, đế quốc Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân.

Như vậy với Hiệp định Pari được ký kết, nhân dân miền Bắc có điều kiện khôi phục và phát triển kinh tế, tập trung sức người sức của cho công cuộc chiến đấu nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đồng thời ở miền Nam ta thực hiện được ý định giữ nguyên thế và lực trong lúc đội quân viễn chinh Mỹ và chư hầu phải rút về nước. Đó là thời cơ rất thuận lợi để thực hiện những đòn tiến công chiến lược đánh đổ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cưu nước.

Ở Lào, ngày 22 tháng 2 năm 1973, Hiệp định Viêng Chăn về thực hiện hòa bình trung lập hòa hợp dân tộc được ký kết. Mỹ là nước cam kết không hoạt động quân sự trên lãnh thổ Lào. Đó là thắng lợi to lớn của nhân dân Lào, nhưng đồng thời cũng là thắng lợi của nhân dân ba nước Đông Dương.

Với việc ký Hiệp định Viêng Chăn, ta đã gạt được sự can thiệp của Mỹ vào công việc nội bộ của Lào, chấm dứt sự đánh phá bằng không quân của chúng trên lãnh thổ Lào, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi để ta xây dựng căn cứ hậu phương cho cách mạng ba nước, đồng thời tiến hành công cuộc chi viện cho miền Nam và cho bạn trên hành lang tây Trường Sơn với quy mô lớn hơn.

Ngày 27 tháng 1 năm 1973, sau khi Hiệp định Pa ri được ký kết, Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi quân và dân cả nước "tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đã giành được, hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà".

Cũng trong tháng 1 năm 1973, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp đã đề ra nhiệm vụ mới của các lực lượng vũ trang nhân dân là củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng chiến đấu nhằm đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, tham gia xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tham gia đấu tranh chính trị và xây dựng lực lượng chính trị, xây dựng căn cứ địa vùng giải phóng vững mạnh ở miền Nam, sẵn sàng chiến đấu đánh bại mọi âm mưu phá hoại hiệp định, gây lại chiến tranh của địch, tích cực xây dựng quân đội cách mạng chính quy, hiện đại, hùng mạnh.
 
Trên cơ sở những nghị quyết đó, ngày 5 tháng 2 năm 1973, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã triệu tập Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên và Chính ủy Đặng Tính, giao nhiệm vụ cho Bộ đội Trường Sơn:

1. Thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho các chiến trường, chủ yếu là vận chuyển chiến lược, nhưng phải làm cả nhiệm vụ vận chuyển chiến dịch, vừa chở bộ đội và bảo đảm hành quân cho các binh chủng, vừa vận chuyển hàng quân sự và hàng dân sinh cho vùng giải phóng miền Nam, cho các căn cứ Lào và Campuchia. Trong nhiệm vụ vận chuyển phải bảo đảm một lượng dự trữ cần thiết về vũ khí đạn dược, nhiên liệu cũng như lương thực để cho ta chủ động trong bất cứ tình huống nào.

2. Xây dựng hệ thống đường chiến lược, đặc biệt coi trọng xây dựng một cách cơ bản đường phía Đông Trường Sơn từ Tân Kỳ, Nghệ An đến Chơn Thành (Phước Bình) thành con đường quốc lộ xuyên Bắc - Nam. Trọng tâm là từ Quảng Bình đến Chơn Thành để phục vụ nhu cầu quân sự và kinh tế dân sinh. Cần có kế hoạch ba năm xây dựng tuyến đường này, nhưng trước mắt gấp rút làm xong đoạn từ Quảng Bình đến Khu 5, Tây Nguyên. Cơ quan Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Hậu cần, tuyến 559 cần phối hợp với Bộ Giao thông Vận tải để kết hợp chặt chẽ các lực lượng có trách nhiệm trong việc khảo sát, thiết kế tuyến đường, dự thảo kế hoạch chuẩn bị nhân lực, vật tư... Tuyến phía tây phải duy trì, sửa chữa, cải tạo nâng cao chất lượng kể cả tuyến vượt Bô Lô Ven sang đông bắc Campuchia xuống miền Đông Nam Bộ: chú trọng giữ tuyến đường "kín". Phát triển đường sông; hoàn thành đường ống sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu nhiệm vụ.

3 . Gấp rút xây dựng căn cứ địa hai phía Trường Sơn thuộc vùng giải phóng miền Nam, Trung - Hạ Lào và đông bắc Campuchia. Từng bước biến khu vực này phát triển mọi mặt, có dân cư đông đúc, có mạng giao thông vận tải thuận lợi để làm căn cứ vững chắc của ba nước.

4. Thực hiện giúp bạn trong tình hình mới một cách toàn diện cả về quân sự và kinh tế - xã hội.

5. Tổ chức xây dựng lực lượng theo quy mô thích hợp với thời cơ mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.

Để thực hiện được chỉ tiêu nhiệm vụ trên. Bộ Tư lệnh quyết định:

Điều Trung đoàn cầu thuyền 99 và tập trung một lực lượng lớn công binh phối hợp với Ty Giao thông Vận tải Quảng Bình khấn trương bắc một loạt cầu vượt các sông Ròn, Gianh, Long Đại, Xuân Sơn; đề nghị Bộ Tổng tham mưu cấp 7 bộ cầu LPP, cử đồng chí Đặng Hương - Trưởng phòng vật tư ra nhận, chuyển gấp vào để thông cầu sớm, củng cố các cầu ngầm trên đường số 1 vào đến Hiền Lương tạo điều kiện cho tuyến hậu phương đẩy nhanh hàng vào hậu cứ 559.

Ở tuyến Tây Trường Sơn, mở rộng nâng chất lượng đường đảm bảo cho đội hình xe tập trung vận chuyển lớn với tốc độ từ 25 đến 30 km/giờ. Trên tuyến Đông Trường Sơn, mở thông cho đến Bến Giàng xong trước tháng 5, để khi hướng Tây Trường Sơn bước vào mùa mưa thì lật cánh sang hướng đông vận chuyển cho Trị - Thiên và Khu 5.

Huy động triệt đế lực lượng vận tải, bố trí hợp lý, thực hiện chiến thuật đội hình tiểu đoàn tập trung chạy cung dài, bỏ cung ngắn. Toàn bộ xe của Sư đoàn khu vực 571 , sáu tiếu đoàn xe của Cục Vận tải - Tổng cục Hậu cần và 1.500 xe của Bộ Giao thông Vận tải tập trung lập chân hàng ở Ta Lê, Thạch Bàn. Xuân Bồ, Bãi Hà. Nếu có điều kiện và cần thiết có thể tổ chức cho một số tiểu đoàn xe quân sự đi thẳng một số chuyến. Các trung đoàn ô tô lấy hàng đi thẳng đến các chiến trường; lúc ra kết hợp chở thương binh, cán bộ, chiến sĩ và khách ở các chiến trường, mặt khác, giúp đỡ, đôn đốc các đơn vị binh chủng kỹ thuật còn rải rác ở dọc đường hành quân gấp vào chiến trường.

Tập trung lực lượng xăng dầu củng cố lại hệ thống đường ống, củng cố các khu kho chứa, tăng cường trạm bơm bảo đảm kịp thời và giải phóng xe nhanh. Đồng thời tiếp tục khảo sát thiết kế thi công tiếp tuyến ống từ nam Bạc vào ngã ba biên giới đến Bu Pơ Răng xuống Bù Đăng.

Điều chỉnh lực lượng phòng không bố trí lại thế trận mới; cảnh giác theo dõi địch, sẵn sàng nổ súng tiêu diệt máy bay địch tiến công vào đội hình vận chuyển của ta.
 
Do chủ trương của trên cần tập trung dứt điểm cho chiến trường xa, đến cuối tháng 3, kế hoạch tối đa cho Nam Bộ và Tây Nguyên đã được hoàn thành, nhưng kế hoạch chi viện cho Khu 5 lại chưa thực hiện được gây căng thẳng cho chiến trường này. Bộ Tư lệnh Trường Sơn quyết định cơ động hầu hết các lực lượng của Sư đoàn 471 sang phía đông thực hiện kế hoạch cho Khu 5 và làm đường từ A Vương vào Đắk Pét, Sa Thầy. Các Sư đoàn 473 và 472 lập chân hàng cho Sư đoàn 471 .

Khu 5 yêu cầu ngoài khối lượng quân sự và dân sinh mà Bộ đã xác định, cần có ngay 1.000 tấn gạo để cứu đói nhân dân vùng giải phóng. Đến cuối tháng 7 toàn bộ kế hoạch cho Khu 5 được hoàn thành đúng thời gian. Chỉ huy Quân khu 5 biểu dương Sư đoàn 471: "Chỉ có 3 tháng mà đã chi viện cho Quân khu 5 một khối lượng bằng mười mấy năm trước, thật không ngờ các đồng chí giỏi đến thế...".

Phương án xây dựng cơ bản tuyến đường chiến lược xuyên Bắc - Nam Đông Trường Sơn tạo thế trận mới đảm bảo cho vận chuyển quy mô lớn và cơ động binh khí kỹ thuật cả hai mùa mưa nắng đã có ý đồ từ trước, nay trở thành yêu cầu bức xúc.

Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã giao cho Cục Công binh tổ chức ba đoàn khảo sát gồm 60 kỹ sư và cán bộ kỹ thuật thị sát hướng và tuyến vẽ lên bản đồ, đồng thời làm dự án kế hoạch xây dựng: Dự toán khối lượng, vật tư, lực lượng, ngân sách, thời gian để báo cáo lên Bộ Quốc phòng và Chính phủ.

Đầu tháng 2 năm 1973, Tư lệnh và Tham mưu trưởng công binh Phạm Văn Diêu đã về Hà Nội báo cáo với Chính phủ. Các Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị, Đỗ Mười và Phan Trọng Tuệ nhất trí coi đây là một công trình tầm cỡ quốc gia lâu dài, còn trước mắt thì cực kỳ quan trọng đối với sự chuẩn bị cho thời cơ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Công trình đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, khối lượng rất lớn, Chính phủ sẵn sàng điều chỉnh những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện.

Sau đó Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên trực tiếp báo cáo với Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Thủ tướng hoàn toàn ủng hộ và cho biết Bộ Chính trị, Chính phủ rất quan tâm vì đây là một công trình có ý nghiã chiến lược to lớn cả trước mắt và mai sau, cả quốc phòng và kinh tế. Thủ tướng biểu dương Bộ đội Trường Sơn đã hy sinh gian khổ, bền bỉ chiến đấu cực kỳ anh dũng, mưu trí, góp phần can thiệp một cách thích đáng vào quá trình chuyển biến cục diện trên chiến trường; cả nước và thế giới đều biết đến... Thủ tướng thay mặt Bộ Chính trị, Chính phủ nhờ đồng chí Tư lệnh chuyển lời nhiệt liệt biểu dương và chúc sức khoẻ tất cả cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

Ngày 1 tháng 3 năm 1973, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp để nghiên cứu quán triệt nhiệm vụ Quân ủy Trung ương giao, đánh giá tổng quát tình hình 14 năm chiến đấu và xây dựng của Bộ đội Trường Sơn, xác định nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên và Chính uỷ Đặng Tính chủ trì cuộc họp.

Hội nghị nhận định từ sau Hiệp định Pa ri, chiến trường Trường Sơn có sự thay đổi căn bản. Đó là sự kết thúc đánh phá bằng không quân của Mỹ. Nhưng khả năng chính quyền và quân đội Sài Gòn sẽ phản bội hiệp định, sử dụng không quân đánh phá tuyến chi viện chiến lược mỗi khi ta tổ chức vận chuyển lớn, song so với Mỹ thì hạn chế rất nhiều. Chúng chỉ có thể hoạt động từ Phi Hà trở vào địa bàn Sư đoàn 470 và từ Giàng, Khâm Đức vào phía Tây Nguyên, vì vậy phải cảnh giác theo dõi, chủ động đối phó.

Về thời tiết, Hội nghị đánh giá địa bàn hoạt động của ta hiện nay đã khác trước, ta làm chủ cả Tây và Đông Trường Sơn, vì vậy có khả năng loại trừ khó khăn mang thuộc tính trước đây là chỉ vận chuyển một mùa, nay có thể xoá bỏ quy luật đó, tiến hành xây dựng thế trận mới, vận chuyển cả năm liên tục. Để thực hiện thắng lợi nghị quyết Quân uỷ Trung ương, Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản như sau :

- Phấn đấu thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chiến lược với mức cao nhất, sớm nhất tạo cơ sở vật chất chủ động cho chiến trường, đồng thời sẵn sàng vận chuyển chiến dịch. Tiếp tục tổ chức bảo đảm hành quân chủ yếu bằng cơ giới, bảo đảm mọi yêu cầu về vật chất, kỹ thuật, lực lượng cho ta và bạn.

- Giúp bạn Lào triển khai việc thi hành Hiệp định Viêng Chăn, xây dựng vùng giải phóng cả về quân sự, kinh tế, văn hoá xã hội ở Trung - Hạ Lào trong kế hoạch 3 năm.

- Tiến hành xây dựng cơ bản tuyến đường chiến lược. Trong năm 1973 phải mở thông tuyến phía đông từ Hướng Hoá đến Khâm Đức, sau đó đến Sa Thầy - Bù Gia Mập, trọng điểm là các đoạn Trao - Bến Giằng, đoạn tránh Đắc Pét, đoạn từ đường 19 đến Bù Gia Mập.

- Cải tạo nâng chất lượng tuyến phía tây bảo đảm vận chuyển và cơ động binh khí kỹ thuật cả hai mùa. Trọng điểm là từ Bản Đông đi PPlây Khốc (Tây Nguyên). Cải tạo một số tuyến ngang đường 20, đường 16. Đầu mùa khôi phục đường 9 đến Mường Phin, đường 25 từ KG4 (Ka Nốt) đến Sa Ra Van, đường 23 từ khu E đến Pắc Xoong, Tha Teng, Bản Phồn, A Tô Pơ để giao hàng cho bạn.

- Phát triển tuyến đường ống xuống Tây Nguyên và rẽ ngang vào một số chiến trường. Tiến tới xây dựng tuyến đường ống phía Đông Trường Sơn song song với phía Tây.

- Hoàn chỉnh hệ thống thông tin tải ba và vô tuyến nối thông với các chiến trường một cách vững chắc.

- Xây dựng hệ thống kỹ thuật liên hoàn từ bảo dưỡng kỹ thuật ở đại đội đến đại tu toàn tuyến, sửa chữa các loại xe máy hàng loạt đảm bảo hệ số kỹ thuật cao.

- Xây dựng hệ thống cơ sở sản xuất từ nhỏ đến lớn cùng với việc xây dựng cơ sở hạ tầng khác, từng bước phát triển thành các vùng căn cứ địa hoàn chỉnh.

- Củng cố, xây dựng lực lượng các binh chủng về chính trị tư tưởng, kiện toàn về tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ. Củng cố hệ thống nhà trường, đào tạo cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, kỹ thuật, nghiệp vụ từng binh chủng, phù hợp với yêu cầu phát triển ngày càng cao. Trong xây dựng lực lượng các binh chủng cũng như xây dựng cơ bản tuyến đường cần phải cân đối, xác định quy mô thích hợp với từng vùng. Kết hợp xây dựng với chiến đấu, lấy chất lượng làm chính.

- Trước mắt, tổ chức vận chuyển đột xuất hoàn thành kế hoạch bổ sung thay thế tăng cường vũ khí, cơ sở vật chất dự trữ cho các chiến trường, chậm nhất đến tháng 3 kết thúc. Sau đó tiếp tục vận chuyển các hàng hậu cần bảo đảm sinh hoạt nội bộ, phục vụ kinh tế dân sinh và giúp bạn theo kế hoạch đã xác định là 185.000 tấn.
 
Nhằm thống nhất tư tưởng, hành động, động viên khí thế bộ đội nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới. Đảng uỷ Bộ Tư lệnh quyết định tổ chức Hội nghị Quân chính. Sau đó là Đại hội mừng công khai mạc vào ngày 7 tháng 3 năm 1973, đây là Đại hội lớn nhất. Tham dự có đầy đủ các đồng chí trong Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh, các đồng chí cấp cục và cấp phòng, các chỉ huy sư đoàn, trung đoàn, đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Bộ Quốc phòng, các tổng cục, các quân binh chủng, Bộ Giao thông Vận tải, đại diện một số tỉnh, các anh hùng, chiến sĩ thi đua và các nhà văn, nhà báo, phóng viên nhiếp ảnh...

Trong không khí dạt dào phấn khởi, Đại hội đã nồng nhiệt chào đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp - ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vào dự. Đây là lần thứ ba Đại tướng tới dự hội nghị tổng kết của Bộ đội Trường Sơn. Điều đó nói lên sự quan tâm sâu sắc của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng đối với vị trí nhiệm vụ của Bộ đội Trường Sơn. Sự có mặt của Đại tướng là sự khích lệ, cổ vũ lớn đối với cán bộ, chiến sĩ trên toàn tuyến.

Thông qua bản báo cáo của Chính uỷ và Tư lệnh, các đại biểu dự Hội nghị Quân chính và Đại hội mừng công đều tự hào về sự đóng góp xương máu của hàng chục vạn bộ đội thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến trên tuyến chi viện chiến lược suốt 5.000 ngày đêm, góp phần to lớn vào thắng lợi quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời thấy rõ thời cơ mới và nhiệm vụ to lớn của Bộ đội Trường Sơn còn ở phía trước, xác định quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyến chi viện chiến lược đường Hồ Chí Minh.

Trong đại hội mừng công, với phát biểu của mình, Đại tướng thay mặt Bộ Chính trị, Chính phủ, Quân uỷ Trung ương Bộ Quốc phòng nhiệt liệt chúc mừng và biểu dương chiến công to lớn của Bộ đội Trường Sơn: “Những chiến công trong 14 năm qua của các đồng chí đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của các chiến trường. Đó là những cống hiến lớn lao, một trong những cống hiến có tính quyết định về chiến lược vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Không những thế, những thành tích, những chiến công đó đã có tác dụng giúp Trung ương và Quân ủy Trung ương thực hiện chính sách đoàn kết chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, thực hiện có hiệu lực phương châm chiến lược "Đông Dương là một chiến trường"

Thành tích chiến đấu, công tác và xây dựng trong 14 năm qua của các lực lượng vũ trang, của các lực lượng thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn là một trong những thành công kiệt xuất của đường lối chính trị và quân sự của Đảng ta, là những kinh nghiệm quý báu làm phong phú thêm khoa học và nghệ thuật quân sự của quân đội ta.

Trong thành công to lớn của Bộ đội Trường Sơn, chứa đựng lời đáp về câu hỏi: “Vì sao một dân tộc nhỏ mà anh hùng như Việt Nam ta đã đánh thắng được một tên đế quốc to như đế quốc Mỹ xâm lược, tên đế quốc đầu sỏ?".

Giải thích về nhiệm vụ mới, Đại tướng nói: Đế quốc Mỹ và bọn tay sai bán nước chưa từ bỏ dã tâm của chúng, hiện đang vi phạm trắng trợn và có hệ thống nhiều điều trong Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, tiếp tục mưu đồ duy trì chủ nghiã thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Trước tình hình mới, đáp lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chính phủ, các lực lượng vũ trang nhân dân ta hãy tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, ra sức phấn đẩu để củng cố những thắng lợi đã giành được, nắm vững thời cơ, sáng tạo thời cơ tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Đại tướng nhắc nhở:

“Thắng lợi của cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Trường Sơn vừa qua là to lớn nhưng mới là cơ sở để tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn nữa. Những cố gắng, thành tích và thắng lợi mới của các đồng chí sẽ là một trong những nhân tố quyết định, góp phần vào sự thành công của cách mạng nước ta và cách mạng các nước anh em trên bán đảo Đông Dương”.
 
Sau Hội nghị Quân chính và Đại hội mừng công, Chính uỷ và Tư lệnh đã hướng dẫn Đại tướng đi thị sát chiến trường. Trên lộ trình dài khoảng 300km. Đại tướng đã đi qua các trọng điểm địch đánh phá ác liệt trước đây và đã dừng lại thăm nhiều đơn vị anh hùng: Tiểu đoàn ô tô 101 - đơn vị hai lần được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, thuộc Trung đoàn ô tô vận tải 13; Đại đội 2 công binh (thuộc Tiểu đoàn 31 công binh) là đơn vị đã giành giật với địch từng thước đường trên đèo Văng Mu suốt 2.000 ngày đêm, được mệnh danh là “cánh cửa thép Văng Mu”, hai lần được tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; đến trọng điếm ATP trên đường 20, một trọng điểm cửa khẩu bị đánh phá huỷ diệt. Gần 20 km2 rừng núi nguyên sinh trước đây, nay chỉ còn lại một số thân cây cháy trụi, hố bom chồng chất và xác xe pháo ngổn ngang.

Dừng lại trên đỉnh đèo Phu La Nhích, Đại tướng quan sát địa hình và nói: "Quan sát trọng điểm đánh phá của địch mới thấy hết sức chịu đựng, trí sáng tạo của Bộ đội đường Hồ Chí Minh. Đây thực sự là một kỳ công, kỳ tích do ý chí vì độc lập tự do của bộ đội ta".

Tiếp đó Đại tướng đến thăm Đại đội 5 công binh (thuộc tiểu đoàn 33 công binh Anh hùng) đang bám trụ trên đỉnh đèo Phu La Nhích, thăm Đại đội 1 bảo vệ ngầm Ta Lê, thăm Đại đội 25 thanh niên xung phong - đơn vị Anh hùng bảo vệ cua chữ A và một đơn vị pháo bảo vệ trọng điểm này. Nói chuyện với các đơn vị bám trụ trọng điểm, Đại tướng giải thích:

Trong cuộc chiến đấu, đây là lần đầu tiên, Đảng ta, nhân dân ta đương đầu với một tên đế quốc đầu sỏ cả về vật chất và khoa học kỹ thuật hiện đại bậc nhất thế giới. Chỉ riêng việc ngăn chặn tuyến đường của chúng ta, Mỹ đã huy động trí tuệ của rất nhiều nhà khoa học kỹ thuật nổi tiếng thế giới, đề ra các chương trình chiến tranh điện tử, hoá học... Bởi vì các nhà chiến lược Mỹ nhận thức rằng con đường Hồ Chí Minh cũng là chiếc thòng lọng thắt vào cổ họng "con người khổng lồ".

Đại tướng chỉ rõ: "Muốn đạt được đỉnh cao toàn thắng, chúng ta cần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo hơn. Đường Trường Sơn không dừng lại ở mức độ này mà phải mở rộng, rải đá đi được hai chiều, cả mùa nắng và mùa mưa...".

Thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân đội, Đại tướng nhiệt liệt biểu dương cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn, đã góp phần làm nên thắng lợi to lớn của dân tộc ta trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước vĩ đại này.

Cùng với những thắng lợi của cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào, sau nhiều năm phối hợp chiến đấu chống kẻ thù chung, cách mạng Campuchia cũng giành được thắng lợi quan trọng. Vùng giải phóng, căn cứ của lực lượng kháng chiến Campuchia được củng cố và mở rộng.

Nhân dịp này Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanúc sau nhiều năm sống ở nước ngoài được Chính phủ ta giúp đỡ về thăm vùng giải phóng theo đường Hồ Chí Minh. Bộ Tư lệnh Trường Sơn được giao nhiệm vụ đưa đón Quốc trưởng cùng vợ là bà Môních và Phó chủ tịch mặt trận kháng chiến Campuchia Iêngxan về vùng giải phóng theo nghi thức nguyên thủ quốc gia.

Trong điều kiện thiếu thốn kham khổ của chiến trường, Bộ Tư lệnh Trường Sơn và các đơn vị trên tuyến đã cố gắng hết sức mình tạo mọi điều kiện tốt nhất, đảm bảo cho phái đoàn về nước chu đáo, an toàn tuyệt đối.

Trên đường quay trở lại, đoàn ghé nghỉ tại Sở chỉ huy Sư đoàn 471 ở Xê Sụ, Quốc trưởng Xihanúc đã dừng điện thoại nói chuyện với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bày tỏ lòng biết ơn về sự quan tâm giúp đỡ của Chính phủ Việt Nam cũng như Bộ đội Trường Sơn đã ưu ái đặc biệt, tạo điều kiện cho Đoàn hoàn thành chuyến đi lịch sử.

Ngày 5 tháng 4 năm 1973, đoàn về đến chỉ huy sở Bộ Tư lệnh Trường Sơn, dừng chân nghỉ lại một ngày. Trong buổi Bộ Tư lệnh Trường Sơn chiêu đãi mừng thắng lợi chuyến đi của đoàn, Quốc trưởng Xihanúc đã xúc động nói:

"Đây là một chuyến đi lịch sử có một không hai. Qua chuyến đi, chúng tôi được tận mắt chứng kiến thắng lợi và sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tổ chức của các ngài rất khoa học, bộ đội các ngài rất có kỷ luật và thiện chiến. Việt Nam nhất định thắng, cách mạng ba nước Đông Dương nhất định thắng”.

Tháng 4 năm 1973. phái đoàn của Trung ương Đảng, Uỷ ban Thống nhất Trung ương và một số cơ quan nhà nước do đồng chí Tố Hữu - Bí thư Trung ương Đảng dẫn đầu vào làm việc với chiến trường. Thành phần của Đoàn có Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện, Phó Ban thống nhất Trung ương Nguyễn Thọ Chân và một số cán bộ chủ trì cơ quan chuyên ngành, trong đó có cục trưởng hầu hết các cục của Tổng cục Hậu cần. Đoàn đi và về trên cả hai tuyến Đông và Tây Trường Sơn; thăm và làm việc với các quân khu.

Lúc quay về, đồng chí Tố Hữu và đồng chí Đinh Đức Thiện đã vào thăm Sư đoàn 471 và Sư đoàn 473. Hai đồng chí khen ngợi Bộ đội Trường Sơn có ý thức kỷ luật và trình độ thiện chiến, đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ mà các đồng chí yêu cầu. Trong không khí cởi mở, hân hoan, đồng chí Tố Hữu đọc bài thơ "Nước non ngàn dặm" vừa mới sáng tác.
 
Cũng trong giai đoạn này, các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường: Võ Chí Công - ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Khu uỷ Khu 5, Chu Huy Mân - ủy viên Trung ương Đảng Tư lệnh Quân khu 5, Nguyễn Văn Linh - ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Hoàng Văn Thái - ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh bộ đội miền Nam, Trần Văn Trà - ủy viên Trung ương Đảng, Phó Tư lệnh bộ đội miền Nam, Trưởng ban Liên hiệp bốn bên tại Tân Sơn Nhất, Võ Văn Kiệt - ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, Phó Chính uỷ bộ đội miền Nam, Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên... ra Bắc làm việc với Trung ương và Quân uỷ Trung ương đều được Bộ đội Trường Sơn đón tiếp, chăm sóc hết sức chu đáo, đảm bảo đi đường an toàn tuyệt đối với thời gian nhanh nhất và sức khoẻ tốt nhất.

Sau Hội nghị Quân chính và Đại hội mừng công, Bộ Tư lệnh bắt tay ngay vào nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch cho giai đoạn mới, phân công các đồng chí trong Bộ Tư lệnh và cơ quan nắm tình hình, chuẩn bị phương án để báo cáo Bộ Quốc phòng, Quân uỷ Trung ương, nhất là phương án xây dựng đường tiêu chuẩn Đông Trường Sơn.

Để có đầy đủ luận chứng trình lên cấp trên, Bộ Tư lệnh tổ chức hai đoàn đi khảo sát, nắm tình hình trên cả hai tuyến Đông và Tây Trường Sơn. Đoàn đi tuyến Đông do Tư lệnh dẫn đầu, đoàn đi hướng Tây do Chính uỷ dẫn đầu. Đoàn của Chính uỷ xuất phát từ Hướng Hoá (Quảng Trị) theo đường 9 đến Bản Đông rẽ sang đường 128 qua đường 17 đến cao nguyên Bô Lô Ven đi vào miền Đông Nam Bộ.
Kết hợp với việc thị sát tuyến đường, đoàn đã làm việc với các Sư đoàn 471 472, 565, 968, Quân khu Hạ Lào để thống nhất chủ trương, biện pháp tiến hành xây dựng cơ bản tuyến đường, chuẩn bị mọi mặt cho nhiệm vụtới và giúp bạn xây dựng vùng giải phóng...

Sáng ngày 3 tháng 4 năm 1973, đoàn đi thăm đơn vị tiền tiêu của Sư đoàn bộ binh 968 chốt ở Pắc Xoong - vị trí chiến lược ở Nam Lào mới được giải phóng. Trên đường đi, xe trúng mìn, đồng chí Đặng Tính và các đồng chí Vũ Quang Bình - Chính uỷ Sư đoàn 968, Nguyễn Xuân Yêm - Cục phó Cục tham mưu công binh, Trịnh Quý - nhạc sĩ đoàn văn công Trường Sơn, cùng đồng chí y sĩ và lái xe đều hy sinh. Đây là một tổn thất nặng nề của Bộ đội Trường Sơn trước khi bước vào giai đoạn chiến đấu mới.

Tư lệnh đi khảo sát tuyến Đông đã làm việc với Sư đoàn 473, các Bộ Tư lệnh Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên và Bộ Tư lệnh Miền. Trên đường về chỉ huy sở thì nhận được tin đau xót này, Tư lệnh đã chỉ thị và phân công các đồng chí trong Thường vụ Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh báo cáo lên Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức tang lễ trọng thể đồng chí Đặng Tính tại Hà Nội.

Ngày 10 tháng 4, Bộ Tư lệnh tổ chức lễ truy điệu Chính uỷ Đặng Tính tại sở chỉ huy. Toàn thể cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn tỏ lòng thương tiếc vô hạn đối với người Chính uỷ tài năng mẫu mực thân thiết của mình, nguyện ra sức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Để kịp thời kiện toàn Đảng uỷ - Bộ Tư lệnh sau khi Chính uỷ Đặng Tính qua đời, ngày 1 tháng 5 năm 1973. Quân uỷ Trung ương quyết định cử đồng chí Hoàng Thế Thiện làm Bí thư Đảng uỷ và Chính uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn.

Sau khi trực tiếp khảo sát và nắm tình hình các mặt, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh họp thông qua kế hoạch 3 năm (1974 - 1976) với yêu cầu nắm vững thời cơ, nỗ lực vượt bậc tạo thế, tạo lực cho chiến trường tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Nội dung như sau:

1. Cải tạo tuyến Tây Trường Sơn và xây dựng cơ bản tuyến Đông Trường Sơn cùng với hệ thống đường ống xăng dầu, tạo cơ sở vững chắc cho vận chuyển lớn khối lượng vật chất và cơ động bộ đội, binh khí kỹ thuật ra chiến trường.

2. Dự kiến khối lượng vận chuyển 3 năm là 400.000 - 500.000 tấn, quyết tâm mùa khô năm 1973 - 1974 phải đạt 207.000 tấn.

3. Cơ giới hoá toàn bộ hệ tuyến hành quân, bảo đảm hành quân đơn vị lớn và đưa binh khí kỹ thuật nặng vào chiến trường.

4. Chuẩn bị tăng cường lực lượng cho chiến trường, bảo đảm vận tải chiến dịch.

5. Cải tiến tổ chức, bổ sung lực lượng và vật chất trang bị đáp ứng nhiệm vụ với quy mô lớn và yêu cầu cao.
 
Từ ngày 15 đến ngày 19 tháng 5 năm 1973. Tư lệnh trực tiếp báo cáo với Thường trực Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các Phó Thủ tướng Đỗ Mười, Phan Trọng Tuệ về vấn đề xây dựng cơ bản tuyến đường Sau đó phân công các đồng chí trong Bộ Tư lệnh cùng các đồng chí phụ trách đầu ngành làm việc với các cơ quan Nhà nước và Bộ Quốc phòng. Ngày 25 tháng 5 năm 1973, Phó Thủ tướng Đỗ Mười thông qua kế hoạch xây dựng cơ bản đường Trường Sơn với nội dung:

- Đối với đường Hồ Chí Minh - Đông Trường Sơn là đường xuyên Bắc - Nam xây dựng theo tiêu chuẩn cấp bốn miền núi từ Tân Kỳ (Nghệ An) đến Chơn Thành (Phước Bình). Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách xây dựng từ Khe Gạt (Quảng Bình) vào Chơn Thành, trước mắt đến Bù Gia Mập, có tổng chiều dài 1.200km. Nền đường 9m, mặt đường 7m, cá biệt nền đường 7m, mặt đường 5,5m. Cầu, cống vĩnh cửu hoặc bán vĩnh cửu. Bảo đảm hành quân cơ giới và vận chuyển cả hai mùa với tốc độ tối đa 60km/giờ.

- Đối với tuyến Tây Trường Sơn: Cải tạo nâng cấp trên hai trục. Trục thứ nhất: Từ Phong Nha (đường 20) và từ Thạch Bàn (đường 16) kéo vào PPlây Khốc, rồi nối với tuyến đông, chiều dài khoảng 720km. Trục thứ hai: Gồm đường 9 từ Hướng Hoá đến Mường Phin theo đường 23 xuống Sa Ra Van, A Tô Pơ, chiều dài khoảng 520 km.

Chính phủ giao trách nhiệm cho Bộ Quốc phòng phụ trách toàn bộ công trình bao gồm khảo sát, thiết kế, thi công, nghiệm thu. Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cử cán bộ tham gia xây dựng tuyến đường, giúp đỡ tổ chức các lớp đào tạo ngắn ngày cho cán bộ và nhân viên kỹ thuật của công trình. Uỷ ban Kế hoạch nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Vật tư, các ngành, các địa phương có liên quan tích cực giúp đỡ Bộ Quốc phòng hoàn thành công trình Trường Sơn trong thời hạn quy định.

Thực hiện chỉ thị trên, Bộ Tổng tham mưu đã duyệt nâng tổng quân số cầu đường Bộ đội Trường Sơn lên 37.388 người; trong đó được Trung ương Đoàn thanh niên chi viện 8.542 thanh niên xung phong. Các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh huy động 3.219 dân công. Bộ cũng quyết định bổ sung và đổi mới trang bị cơ giới làm đường gồm 221 máy húc (C 100 và Hồng Kỳ), 632 xe ben, 428 xe tải, 51 xe lu, 99 máy ép hơi, 37 máy nghiền đá.

Trường Đại học Địa chất và Đại học Mỏ cử một số giáo viên; Trường đại học Xây dựng cử một đoàn giáo viên và sinh viên Khoa Cầu đường do đồng chí Đặng Hữu chủ nhiệm khoa dẫn đầu; Bộ Giao thông Vận tải cử Thứ trưởng Nguyễn Nam Hải cùng một số cán bộ chuyên môn kỹ thuật hàng đầu và bốn tổ khảo sát vào giúp đỡ Bộ đội Trường Sơn.

Các chuyên gia cầu đường đã cùng công binh Trường Sơn khảo sát cắm tuyến, nghiên cứu địa chất, thăm dò mỏ đá, thiết kế nền, móng, cầu cống, rãnh thoát nước, giúp xây dụng công trình sản xuất đá ở Đầu Mầu, trực tiếp khảo sát thiết kế đoạn có địa hình phức tạp: Bù Lạch - Khâm Đức. Bộ Giao thông Vận tải còn khẩn trương tiếp nhận cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn vào các trường đào tạo cấp tốc và trường chuyên môn tu nghiệp.

Được Chính phủ, Bộ Quốc phòng hoàn toàn nhất trí và tạo mọi điều kiện cho Bộ đội Trường Sơn tiến hành xây dựng cơ bản tuyến đường, đồng thời được các bộ các ngành tận tình giúp đỡ, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã khẩn trương điều chỉnh lực lượng công binh ở các binh trạm thành 16 trung đoàn, trong đó có hai trung đoàn làm cầu cống và dự kiến triển khai bố trí: Tuyến đông từ Khe Gạt đến Bù Gia Mập, trọng điểm là từ Thạch Bàn qua Cù Bai đến Ngọc Hồi, bố trí 14 trung đoàn xây dựng đường cơ bản. Tuyến tây từ Bản Đông đến PPlây Khốc bố trí một trung đoàn củng cố cầu đường. Tuyến ngang đường 9 bố trí một trung đoàn và thanh niên xung phong cải tạo mở rộng đoạn Rào Quán - Lao Bảo.
 
Trong khi Bộ đội Trường Sơn đang hối hả chuẩn bị công trình lịch sử này thì Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Cuba Phiđen Cátxtơrô, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Cuba, người bạn lớn của nhân dân Việt Nam sang thăm nước ta, vào thăm khu giải phóng tỉnh Quảng Trị. Được chứng kiến công trình xây dựng đường Trường Sơn phục vụ cho sự nghiệp giải phóng miền Nam của quân dân ta, thông cảm với sự khó khăn của một đất nước bị tàn phá nặng nề, Thủ tướng hứa sẽ báo cáo với Đảng, Chính phủ và nhân dân Cuba ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng; trước mắt sẽ điều một số chuyên gia làm việc tai Trường Sơn và tặng Bộ Tư lệnh Trường Sơn một bộ máy làm đường trị giá 6 triệu đô la. .

Về nước, Thủ tướng Phiđen Cátxtơrô phái ngay một đoàn chuyên gia gồm 73 kỹ sư, công nhân lành nghề sang Việt Nam công tác trên đường Trường Sơn và nhận 30 cán bộ Việt Nam sang học nghề ở Cuba. Sáu tháng sau ngày Thủ tướng Cuba về nước, chuyến tàu chở máy móc làm đường đầu tiên của bạn cập bến Hải Phòng, Bộ Tư lệnh Trường Sơn cử Phó Cục trưởng công binh Nguyễn Đình Cầu và Trưởng phòng vật tư kỹ thuật Đặng Hương cùng một số kỹ sư, cán bộ kỹ thuật và trung đoàn 515 tiếp nhận chuyển gấp vào tuyến.

Trước sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Chính phủ và quân đội đối với việc xây dựng cơ bản tuyến đường Hồ Chí Minh cũng như trước tinh thần quốc tế cao cả của Thủ tướng Phiđen Cátxtrô, Bộ đội Trường Sơn càng nhận rõ trách nhiệm và vinh dự của mình, quyết tâm đem hết tinh thần và nghị lực thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong tình hình mới.

Một vấn đề nổi bật mang tính cấp bách là nhu cầu chi viện cho miền Nam tăng theo bước nhảy vọt đòi hỏi Bộ đội Trường Sơn phải đổi mới tổ chức, đổi mới thế trận thật khẩn trương, nhanh chóng tăng cường sức chiến đấu và hiệu suất chiến đấu mới đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Đảng ủy Bộ Tư lệnh quyết định đề nghị Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cho bỏ cấp binh trạm và các sư đoàn khu vực, thành lập các sư đoàn binh chủng nhằm tạo được quả đấm mạnh thực hiện vận chuyển đường dài cũng như tập trung thực hiện các công trình trọng điểm.

Trong lúc chờ đợi quyết định chính thức, được sự đồng ý của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã giải thể các binh trạm, dồn các tiểu đoàn thành 15 trung đoàn binh chủng (công binh, pháo cao xạ, ô tô vận tải) trực thuộc các bộ tư lệnh sư đoàn khu vực; đồng thời thành lập thêm năm trung đoàn trong đó có hai trung đoàn độc lập trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn: trung đoàn 541 kho, Trung đoàn 572 giao liên.

Ngày 11 tháng 5 năm 1973, Quân ủy Trung ương phê chuẩn thành lập một sư đoàn xe và một sư đoàn công binh.

Đây là hai sư đoàn binh chủng đặc thù đầu tiên trong tổ chức của quân đội ta và chưa thấy có trong bất kỳ quân đội nước nào trên thế giới .

Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, tháng 7 năm 1973, Bộ Tổng tham mưu ra quyết định chuyển Sư đoàn khu vực 571 thành Sư đoàn ô tô cơ động vận tải quân sự 571 và Sư đoàn khu vực 473 thành Sư đoàn công binh 473 trực thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Đây là sự phát triển mới về tổ chức, đánh dấu bước trưởng thành lớn của Bộ đội Trường Sơn.

Bàn đạp đứng chân xuất phát của một sư đoàn xe có trên 2.000 ô tô vận tải là một trong những yếu tố cấu thành thế trận vận chuyển đã được Bộ Tư lệnh Trường Sơn và chỉ huy Sư đoàn 571 quan tâm đặc biệt. Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn đích thân cùng các đồng chí chỉ huy sư đoàn trực tiếp khảo sát địa bàn, quyết định chỗ đứng cho bốn trung đoàn xe trên một khu vực rộng lớn bao gồm Đông Hà, Cam Lộ (thuộc bắc Quảng Trị) và Mỹ Đức, Thạch Bàn (thuộc nam Quảng Bình) có chính diện 30km, chiều sâu 50 km. Các trung đoàn, tiểu đoàn ô tô có bãi xe chính quy có các trục đường cơ động bảo đảm thời gian từ lúc hạ đạt mệnh lệnh xuất phát đến chiếc xe thứ 160 của tiểu đoàn ra khỏi bãi hết 15 - 20 phút.
 
Vấn đề cung độ trả hàng, cung độ tạm nghỉ đều được nghiên cứu bố trí khớp với chu kỳ bảo dưỡng kỹ thuật, tiêu thụ nhiên liệu, sinh lý con người. Hệ thống chỉ huy giao thông, điểu chỉnh đội hình được bố trí trên các tuyến, đảm bảo cự ly, tốc độ và ký luật hành quân.
Phong trào xây dựng đơn vị chính quy được thực hiện rầm rộ trong toàn sư đoàn với quyết tâm biến sư đoàn thành đơn vị thiện chiến, ra quân đánh thắng trận đầu.

Bộ Tư lệnh chỉ đạo xây dựng lại hệ thống kho theo cung cách vận chuyển mới; thành lập trung đoàn kho 541. Khu vực kho rải từ Đông Hà lên Hướng Hoá, có trữ lượng 25.000 tấn, đủ sức xuất nhập mỗi ngày 15.000 tấn cho từ hai đến ba trung đoàn xe một lúc và tiếp nhận khối lượng vật chất từ hậu phương chuyển lên bằng đường bộ và đường biển tại cảng Cửa Việt - Đông Hà.

Các trạm xưởng được quy hoạch thành hệ dây chuyển từng cấp. Cục Vận tải Bộ Tư lệnh Trường Sơn phụ trách xưởng đại tu bộ phận xe máy, súng pháo. Các sư đoàn phụ trách xưởng trung tu và đội sản xuất gỗ đóng thùng bệ. Các trung đoàn phụ trách xưởng tiểu tu sửa chữa nhẹ và tổ chức các đội kỹ thuật cơ động.

Đối với lực lượng công binh, Bộ Tư lệnh quyết định đào tạo và huấn luyện lại đội ngũ cán bộ và chiến sĩ nhằm vượt qua những thách thức về xây dựng cơ bản tuyến đường chiến lược theo tiêu chuẩn cấp bốn miền núi.

Đầu tháng 6 năm 1973, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh họp bàn chuyên đề về xây dựng cơ bản tuyến đường; sau đó mở Hội nghị tập huấn cho 202 cán bộ cấp sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn công binh và các cơ quan Bộ Tư lệnh. Hội nghị tập huấn này có tầm lịch sử như Hội nghị tập huấn chiến dịch, chiến thuật vận tải năm 1967 tại Hương Xuân, Hương Khê, Hà Tĩnh. Nó nhằm chuyển hướng phương pháp thi công công trình theo một sơ đồ mang tính chất công nghiệp với tư duy khoa học sáng tạo.

Trong Hội nghị này, Tư lệnh trực tiếp giảng bài về tư tưởng và phương châm xây dựng cơ bản cầu đường. Các chuyên gia giảng về kỹ thuật chuyên môn - Phó Tư lệnh Phan Khắc Hy và Tham mưu trưởng công binh Phan Quang Tiệp trực tiếp tổ chức hướng dẫn thảo luận.

Ngoài ra, Bộ Tư lệnh còn truyền đạt phương án, tiến độ và bố trí lực lượng với quyết tâm chia giai đoạn thông toàn tuyến sớm, kịp tạo thời cơ và sử dụng thời cơ. Tổ chức thi công chia thành bốn mũi trên bốn đoạn để sớm hợp điểm. Thực hiện thi công đồng bộ cầu và đường, vừa thi công xây dựng cơ bản, vừa bảo đảm vận chuyến thông suốt, liên tục. Mạnh dạn cải tiến tổ chức, bỏ cấp tiếu đoàn, nhằm tăng quân số lao động trực tiếp và chỉ huy trực tiếp.

Lực lượng chủ yếu tập trung xây dựng đường cơ bản đông Trường Sơn cụ thể:

- Từ Cù Bai đến Khâm Đức, bố trí Sư đoàn 473 cùng 7.500 thanh niên xung phong, sau đó thêm Sư đoàn 472.

- Từ Khâm Đức đến Bù Gia Mập, bố trí Sư đoàn 470 cùng hai trung đoàn độc lập.

- Từ Khe Gạt đến Cù Bai bố trí ba trung đoàn độc lập cùng 4.000 thanh niên xung phong, sau đó thêm Sư đoàn 565.

Để một trung đoàn cùng 3.000 dân công hoả tuyến duy tu đường 20, đường 16 vào đến Plây Khốc ngã ba biên giới.

Sử dụng hai trung đoàn cải tạo, mở rộng đoạn Rào Quán trên đường 9, rải đá đoạn Thà Khống - Mường Phin, mở các đoạn đường vươn sâu tới hậu cứ các chiến trường. Để rút ngắn thời gian hoàn thành trục đông Trường Sơn, Bộ Tư lệnh quyết định thành lập đoàn công binh kỹ thuật trực tiếp thi công các trục đường phía nam tuyến từ Sê Rê Pốc tới Đồng Xoài, giao cho kỹ sư Đỗ Xuân Diễn, nguyên Tham mưu trưởng Sư đoàn công binh 473 làm Trưởng đoàn, Lê Đình Xuyến làm Chính uỷ.
 
Cùng với việc xây dựng và bố trí lại lực lượng ô tô vận tải và công binh, lực lượng tác chiến cũng được củng cố và bố trí theo yêu cầu mới. Sư đoàn phòng không 377 và 5 trung đoàn phòng không của Bộ phối thuộc được triến khai bố trí từ khu vực bàn đạp Cửa Việt, Đông Hà ngược lên Khe Sanh và dọc đường 14 Hướng Hóa, Ly Tôn, A Lưới, Trao, Giàng.

Với các lực lượng khác, Bộ Tư lệnh quyết định: nhập các đơn vị bộ binh trực thuộc vào Sư đoàn bộ binh 968, tăng cường trang bị hoả lực cho bộ binh địa phương của bạn, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích, củng cố vững chắc vùng giải phóng Nam Lào, bảo vệ sườn phía tây hành lang.

Lực lượng đảm bảo xăng dầu đường ống được bố trí theo hai trục đông và tây Trường Sơn đảm bảo nhiên liệu cho các binh chủng thuộc Bộ đội Trường Sơn và các đơn vị kỹ thuật của Bộ qua tuyến. Đồng thời tiếp tục thi công đường ống theo kế hoạch mới. Ở hướng đông, bố trí một trung đoàn đường ống củng cố và tiếp tục thi công từ Hướng Hoá vào A Lưới - Trao. Ở hướng tây bố trí một trung đoàn đường ống củng cố và thi công từ đường 9 đến Bạc, khảo sát và thi công tiếp đến Pô Cô.

Hai trung đoàn thông tin chuyên trách mạng hữu tuyến đường dài và mạng vô tuyến tiếp sức được bố trí khớp tuyến nhằm điều chỉnh hệ thống đường dây phù hợp với thế trận mới.

Sở chỉ huy các sư đoàn được bố trí lại. Riêng Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Trường Sơn được chuyển về Thạch Bàn.

Địa bàn bắc Quảng Trị lúc này trở thành căn cứ của Bộ đội Trường Sơn, là nơi hội lưu lực lượng hậu cần quân đội các binh chủng, các đoàn cán bộ quân, dân, chính, đảng dừng chân trước khi đi sâu vào chiến trường.

Hàng loạt việc chấn chỉnh tổ chức, bổ sung quân số xây dựng lực lượng, bố trí thế trận được tiến hành dồn dập.

Phong trào thi đua vượt các chỉ tiêu tiên tiến về năng suất, chất lượng, an toàn, tiết kiệm trên “mặt trận cầu đường" diễn ra sôi nổi. Công trình mỏ đá Đầu Mầu khoan nổ, phá đá nghiền đá suốt ngày đêm. Hàng nghìn xe máy rầm rập hoạt động, hàng mấy vạn lao động thủ công không quản nắng mưa tác nghiệp 10 giờ/ngày. Diện mạo tuyến đường Trường Sơn thay đổi từng ngày.

Trong mùa khô năm 1972 - 1973, ta mở đường mới được 359 km, cải tạo đường cũ được 778 km, với khối lượng 7.817.000 m3 đất đá, làm công trình vượt sông được 134 cầu cứng, 15 cầu nổi, 489 cống và tôn cao các ngầm. Nhờ đó đường từ chỗ tuyến hẹp, dốc cao, bán kính nhỏ trở thành đường rộng từ 6 đến 8m, được rải đá hoặc cấp phối ở những vùng trọng điểm, được "là phẳng" ở những nơi nền có địa chất tốt; vượt sông suối hầu hết bằng cầu, bảo đảm lưu lượng trên dưới 1.000 xe chạy cả ngày đêm với tốc độ 25 - 30 km/giờ. Việc xây dựng tuyến đường ống cũng được tiến hành khẩn trương quyết liệt.

Tận dụng những thành quả về xây dựng hạ tầng cơ sở của các lực lượng bạn, bộ đội ô tô vận tải đã nỗ lực vượt bậc, phát huy chủ nghiã anh hùng cách mạng trong điều kiện mới, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu nhiệm vụ vận chuyển với khối lượng là 222.823 tấn , đạt 182% kế hoạch Bộ giao. Với các chiến trường đã thực hiện được 88.222 tấn, đạt 147%. Việc đảm bảo xăng dầu cho các chiến trường đạt tỷ lệ gấp hai lần so với mùa khô 1971 - 1972. Năng suất vận chuyển một đầu xe từ 15.500 tấn/km trong mùa khô trước, nay tăng lên 20.000 tấn/km, bằng 130%.

Đảm bảo toàn bộ quân và binh khí kỹ thuật vào hết các chiến trường. Chuyển trên 5.000 thương binh bằng cơ giới ra hậu phương. Đưa đón nhiều đoàn khách đặc biệt, nguyên thủ một số quốc gia, các cán bộ lãnh đạo Đảng, Chính phủ và quân đội chu đáo, tận tình, an toàn tuyệt đối.

Đảng uỷ Bộ Tư lệnh đánh giá mùa khô 1972-1973, nhất là từ sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Bộ đội Trường Sơn đã nắm bắt thời cơ, kịp thời đổi mới một bước quan trọng về tổ chức lực lượng, triển khai xây dựng thế trận mới, thực hiện vận chuyển đạt thành tích vượt trội hơn mùa khô năm trước. Nhưng với yêu cầu của tình hình mới thì vẫn chưa đáp ứng được. Mùa khô 1973 - 1974 tới, toàn tuyến phải nỗ lực cao độ thực hiện quyết tâm đổi mới tổ chức một cách căn bản, hoàn thiện thế trận mới, chuẩn bị cho thời cơ mới.
 
Thực tế từ sau Hiệp định Pari, đế quốc Mỹ vẫn bám chặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, biến miền Nam thành một "quốc gia” thân Mỹ. Chúng tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu nhằm tập trung lực lượng thực hiện các kế hoạch "bình định", mở các cuộc hành quân càn quét, thực hiện các chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ" hòng lấn chiếm vùng giải phóng, tiêu diệt một bộ phận lực lượng của ta, đẩy lực lượng của ta ra sát biên giới, loại Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra khỏi đời sống chính trị ở miền Nam. Cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam diễn ra rất quyết liệt.

Tháng 7 năm 1973, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21 đã kịp thời khẳng định nhiều vấn đề quan trọng về đường lối cách mạng và chỉ đạo chiến lược; khẳng định con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực. Bất kể trong tình huống nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Phải đẩy mạnh đấu tranh trên ba mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao. Trung ương cũng xác định hàng loạt nhiệm vụ lớn cấp bách để thực hiện đường lối chủ trương trên. Mặt trận chi viện chiến lược tuyến đường Trường Sơn được Trung ương Đảng và Chính phủ quan tâm đặc biệt.

Ngày 3 tháng 8 năm 1973, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh tổ chức Hội nghị Quân chính nhằm quán triệt quan điểm tư tưởng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, triển khai kế hoạch mùa khô 1973 - 1974.

Trong kế hoạch mùa khô này, Bộ Tư lệnh Trường Sơn được giao nhiệm vụ vận chuyển 282.000 tấn và kế hoạch bổ sung do Chính phủ giao nhằm ổn định đời sống nhân dân vùng giải phóng là 60.000 tấn. Bộ Tư lệnh quyết tâm phấn đấu đạt 350.000 tấn và thực hiện đúng tư tưởng chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương là ưu tiên số một cho hàng quân sự, coi trọng nhu cầu xây dựng cơ bản tuyến đường chiến lược, đảm bảo đúng mức và có trọng điểm các nhu cầu dân sinh kinh tế. Đối với chiến trường, ưu tiên vận chuyển cho Nam Bộ, Tây Nguyên, coi trọng đáp ứng các yêu cầu cho bạn Lào và Campuchia.

Để thực hiện được chỉ tiêu nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Trường Sơn chủ trương sử dụng lực lượng linh hoạt, tập trưng dứt điểm từng hướng, từng nhiệm vụ, từng thời gian nhất định; trong vận tải, bỏ cung ngắn chạy cung dài, thực hiện chạy thẳng đối với nhiệm vụ đột xuất những hàng đặc biệt.

Nhằm quán triệt phương châm vận chuyển trong điều kiện mới là năng suất, chất lượng, tiết kiệm và hiệu quả, đầu tháng 11 năm 1973, Bộ Tư lệnh mở lớp tập huấn cho cán bộ của tám trung đoàn ô tô vận tải và các tiểu đoàn ô tô trực thuộc để quán triệt nhiệm vụ, phương châm và chiến thuật vận tải mới, phổ biến chỉ tiêu kế hoạch vận chuyến cho từng sư đoàn, trung đoàn, các chỉ tiêu về cây số chạy trong ngày, về hệ số kỹ thuật, xăng dầu, trọng tải...

Bộ Tư lệnh dự định chiến dịch vận chuyển mùa khô 1973 - 1974 sẽ được mở vào ngày 15 tháng 11 năm 1973 và bằng nhiều đợt liên tục, kéo dài trong 10 tháng, chia thành hai giai đoạn:

- Giai đoạn 1 từ ngày 15 tháng 11 năm 1973 đến ngày 15 tháng 5 năm 1974, tập trung phần lớn lực lượng xe vận chuyển chủ yếu theo tuyến tây, dứt điểm cho chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên, Campuchia, Lào. Khi thời tiết cho phép sẽ cơ động một bộ phận lực lượng sang phía đông, đi sâu đến hậu cứ Khu 5 và Trị - Thiên, thực hiện được một phần ba tổng khối lượng chi viện cho hai chiến trường này. Trong khi thực hiện khối lượng cho chiến trường thì kết hợp tỷ lệ thoả đáng giải quyết các khối lượng về xây dựng cơ bản đường bộ, đường ống và nhu cầu hậu cần cho các lực lượng nội bộ Bộ Tư lệnh Trường Sơn công tác ở hướng đó.

- Giai đoạn 2, lật cánh sang phía đông, dứt điểm cho Trị - Thiên, Khu 5 và nhu cầu xây dựng cơ bản.

Trong giai đoạn này trên toàn tuyến Trường Sơn hơn 6.000 ô tô của bộ đội vận tải cùng hàng nghìn xe máy của bộ đội công binh chuyển động ầm ầm từ 4 giờ sáng cho đến 12 giờ đêm. Chiến trường đã ngớt tiếng bom đạn nhưng núi rừng vẫn rung chuyển. Chỉ mới một tháng đầu ra quân vận chuyển trong thời tiết và đường cầu chưa thật ổn định mà ta đã giao cho Nam Bộ được khối lượng bằng 25% khối lượng cả năm 1972 - 1973, giao cho Tây Nguyên khối lượng bằng 16% cả năm trước; đồng thời tạo chân hàng dự trữ lớn ở KG4.
 
Sang tháng 1 năm 1974, thời tiết ở hướng tây đi vào ổn định, Bộ Tư lệnh lập tức bỏ cung trung chuyển Ka Nốt; kéo dài cung vận chuyển từ Long Đại, Đông Hà vào tới Xê Sụ có cự ly 500 km và từ Xê Sụ vận chuyển trực tiếp giao hàng cho các chiến trường, trong đó xa nhất là giao hàng cho Nam Bộ tại Bù Gia Mập.

Hết tháng 1 năm 1974, khối lượng giao cho các chiến trường tăng vọt; riêng Nam Bộ đã giao 8.024 tấn các loại, bằng 106 % so với khối lượng cả năm 1972-1973, kịp thời bảo đảm cho quân và dân Nam Bộ tiến công liên tục. Giao cho bạn Lào đạt 105 % kế hoạch. Giao đủ hàng cho Campuchia đẩy mạnh cuộc tiến công, mở rộng vùng giải phóng. Năng suất bình quân mỗi đầu xe biên chế của các sư đoàn trong tháng đạt 3.608 tấn/km đến 3.928 tấn/km.

Kết quả hai tháng vận chuyển đầu mùa đã chứng tỏ tính ưu việt của mô hình tổ chức mới và thế trận vận chuyển, thế trận cầu đường mới, cũng như cung cách tập trung đội hình vận chuyển lớn chạy đường dài. Đồng thời cũng phản ánh chủ nghiã anh hùng cách mạng, lao động sáng tạo, quên mình trong điều kiện cực kỳ gian khổ, căng thẳng của cán bộ, chiến sĩ các binh chủng.

Trong không khí thi đua "Mừng xuân dâng Đảng", tối 30 Tết Giáp Dần tức ngày 22 tháng 1 năm 1974, Bộ đội Trường Sơn vinh dự được đồng chí Trường Chinh ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đến thăm và cùng vui Tết.

Tại Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh, sau khi nghe Tư lệnh báo cáo về tình hình hoạt động của tuyến chi viện chiến lược, Chủ tịch Trường Chinh biếu dương tuyến đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng miền Nam và cả nước, hoan nghênh những việc làm sáng tạo, táo bạo của Bộ đội Trường Sơn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao cho.

Đồng chí giải thích: Kinh nghiệm đấu tranh cách mạng cho thấy đối phương khó có thiện chí. Nếu Mỹ - ngụy trắng trợn phản bội Hiệp định Pari thì tuyến Trường Sơn cực kỳ quan trọng, là một trong các điều kiện có tính quyết định để miền Bắc thực hiện sự chi viện cho cách mạng miền Nam giành thắng lợi hoàn toàn.

Ngày 21 tháng 2 năm 1974, Đảng uỷ Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp mở rộng, đánh giá về khả năng chiến đấu và thắng lợi của ba tháng đầu mùa khô. hạ quyết tâm động viên mọi lực lượng hiệp đồng chiến đấu hoàn thành dút điểm cơ bản kế hoạch năm 1973- 1974 cho Nam Bộ và Tây Nguyên vào tháng 3 năm 1974.

Từ tháng 4 năm 1974 sẽ tập trung lực lượng lập chân hàng cho đường sông để tiếp tục vận chuyển mùa mưa giao tiếp kế hoạch bổ sung cho Nam Bộ, Campuchia và vận chuyển bảo đảm nhu cầu cho lực lượng xây dựng cơ bản tuyến phía tây, đồng thời điều Trung đoàn 36 thuộc Sư đoàn 471 và Trung đoàn 17 thuộc Sư đoàn 571 lật cánh hoạt động sang tuyến phía đông nhằm bảo đảm nhu cầu đầu mùa mưa cho Trị - Thiên và Khu 5.

Tháng 2 và tháng 3 là những tháng cao điểm của mùa khô, rất thuận lợi cho vận chuyển cơ giới đường bộ, nhưng lại nảy sinh những khó khăn không nhỏ đe dọa đến việc thực hiện quyết tâm trên. Tuyến đường tuy được cải thiện nhưng vẫn là đường đất, dù có lát đá hoặc rải cấp phối được một số đoạn, nhưng không sao chịu nổi lưu lượng xe hàng nghìn chiếc chạy trong ngày. Xe càng chạy, đất càng bị vụn, đường càng bị đào thành "hào" bụi, sâu từ 30 đến 40cm.

Bụi trở thành kẻ thù nguy hiểm, đã che tầm nhìn của lái xe, giảm độ bám của đường, làm tốc độ xe bị chậm, thậm chí làm tắc đường do xe bị “lầy bụi". Nóng cũng nguy hiểm không kém, ngoài trời 40oC thì trong buồng lái 60oC, dưới chân ga 70oC, chênh lệch giữa nhiệt độ con người và nhiệt độ của môi trường trong buồng lái từ 20oC đến 30oC. Nhiệt độ cao cũng làm cho hệ thống làm lạnh của xe giảm tác dụng: máy bị nóng, ăn xăng nhiều và giảm sức kéo.

Vì bụi và nóng nên sau đợt vận chuyển tháng 2 và tháng 3 lái xe bị kiệt sức, sụt cân từ 4 đến 6kg. Mốt trung đoàn xe, hệ số kỹ thuật tụt xuống còn 45-50%. Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã có nhiều biện pháp giải quyết tích cực:

Tập trung lực lượng công binh, bào mặt đường, rải tiếp cấp phối, tưới nước; tổ chức bếp ăn trên dọc đường; tăng thêm định lượng cho lái xe gấp ba lần lao động khác; cấp thêm sữa, thịt tươi, viên tăng lực, khẩu trang cho lái xe; tăng thêm quân số bảo dưỡng xe; tăng vòi tiếp xăng trên mỗi trạm từ 10 lên 20 vòi; tăng các đội văn hoá, văn nghệ, điện ảnh lưu động phục vụ bộ đội xe trên các khu tạm dừng. Các chỉ huy sư đoàn, trung đoàn thay nhau đi trên đường chỉ huy động viên bộ đội.
 
Đồng chí Tư lệnh và Phó Chính uỷ Lê Xy lên đường kiểm tra toàn tuyến và vào chiến trường Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ làm việc với các Bộ Tư lệnh chiến trường nắm yêu cầu, hợp đồng kế hoạch trước mắt và kế hoạch năm 1975.

Với sự nỗ lực vượt bậc hiệp đồng chiến đấu của các binh chủng, cuối tháng 3 toàn tuyến đã vận chuyển được 94% kế hoạch cho Nam Bộ, 80% kế hoạch cho Tây Nguyên và trên 90% kế hoạch cho Campuchia và Lào; chở 4.000 thương bỉnh ra Bắc trong đó có chị Võ Thị Thắng.

Lúc này Bộ lại bổ sung thêm kế hoạch cho Nam Bộ và Tây Nguyên, với sự điều khiển linh hoạt và tinh thần khắc phục khó khăn của các cấp khi kế hoạch bị đảo lộn, hết tháng 5 năm 1974, tất cả mọi nhiệm vụ đều vượt chỉ tiêu Bộ giao: Nam Bộ đạt 116% kế hoạch, Tây Nguyên đạt 108% kế hoạch, Lào và Campuchia đạt từ 103 đến 105% kế hoạch.

Nhằm đáp ứng yêu cầu chi viện chiến lược quy mô lớn hơn, ngày 15 tháng 5 năm 1974, Quân uỷ Trung ương phê chuẩn thành lập thêm sư đoàn ô tô vận tải thứ hai lấy phiên hiệu Sư đoàn ô tô vận tải 471. Chuyển các sư đoàn khu vực 470, 472 thành các sư đoàn công binh. Thành lập thêm Sư đoàn 565 công binh. Bộ Quốc phòng đồng ý để Bộ Tư lệnh Trường Sơn tổ chức thêm sáu trung đoàn công binh trực thuộc, tăng cường quân số cho hai trung đoàn thông tin 49 và 596, dồn lực lượng đủ biên chế cho Trung đoàn hành quân cơ giới 572 và Trung đoàn kho 541.

Như vậy, vào thời điểm này Bộ Tư lệnh Trường Sơn có tất cả 8 sư đoàn binh chủng, 20 trung đoàn và tương đương trực thuộc, hàng chục tiểu đoàn trực thuộc các cục nghiệp vụ. Tổng quân số lên đến 100.495 người trong đó có 13.155 sĩ quan. Lực lượng chuyên môn có 12.318 lái xe, 961 lái xe húc, 3.618 thợ sửa chữa, 291 bác sĩ, 880 y sĩ, 3.450 y tá, 583 đài trưởng báo vụ thông tin.

Sau khi khẩn trương sắp xếp kiện toàn tổ chức và cán bộ, Sư đoàn ô tô vận tải 471 và Sư đoàn công binh 472 lật cánh sang hướng đông, tập trung lực lượng xây dựng cơ bản tuyến đường đông Trường Sơn, đồng thời vận chuyển dứt điểm kế hoạch cho Khu 5, Trị - Thiên, cho nhu cầu xây dựng cơ bản của công binh và đường ống, lập chân hàng dự trữ cho Nam Bộ năm 1975.

Đầu tháng 4 năm 1974, Quân uỷ Trung ương triệu tập Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân nghiên cứu Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng và Nghị quyết tháng 3 năm 1974 của Quân ủy Trung ương. Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên được triệu tập dự Hội nghị. Trong dịp này đồng chí được Nhà nước phong quân hàm Trung tướng. Sau Hội nghị, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên trực tiếp báo cáo tình hình và kết quả hoạt động của Bộ đội Trường Sơn từ sau Hiệp định Pa ri đến nay với đồng chí Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Lê Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Các đồng chí trong Bộ Chính trị, Trung ương Đảng rất phấn khởi trước bước phát triển mạnh mẽ và những thành tích đạt được của tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn, góp phần quan trọng tạo thế, tạo lực của cách mạng miền Nam, làm chuyển biển tương quan lực lượng trên chiến trường ngày càng có lợi cho ta.

Các đồng chí chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn phải cố gắng hơn nữa để vượt chỉ tiêu kế hoạch năm 1974. Đồng chí Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng lưu ý Bộ Tư lệnh Trường Sơn trong việc chuẩn bị kế hoạch năm 1975, ngoài kế hoạch thông thường phải sẵn sàng bảo đảm cho kế hoạch đột xuất khi thời cơ chiến lược xuất hiện.

Cuối tháng 5 năm 1974, phía tây Trường Sơn chuyển vào mùa mưa.

Bộ Tư lệnh quyết định lật cánh toàn bộ lực lượng từ phía tây sang phía đông Trường Sơn nhanh chóng chuẩn bị và thực hành giai đoạn hai chiến dịch vận tải, chỉ duy trì trên hướng tây Trung đoàn vận tải đường sông 53 của Sư đoàn 470 hoạt động từ Xê Ca Mán theo sông Sê Kông, Mê Kông, vận chuyển hàng giao cho Nam Bộ, Campuchia.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top