ngan trang
New member
- Xu
- 159
Nhờ phát triển ba điểm vượt sông (N 11, N 12, N 13), làm xong các hệ thống công trình vượt và tổ chức hệ thống phòng không mạnh ta mới vượt qua được lưới lửa ngăn chặn của địch. Riêng ba binh trạm 33, 34, 39 thuộc Bộ Tư lệnh 472 nằm trong trung tâm hướng chủ yếu do chưa làm xong đường kín, đội hình xe phải chạy đêm nên bị đánh cháy nhiều.
Theo chỉ thị của Bộ Tư lệnh Trường Sơn, Phó Tư lệnh Nguyễn Việt Phương, Phó Chính ủy Phan Hữu Đại, Tham mưu trưởng Hoàng Trá (Bộ Tư lệnh 472) xuống ba binh trạm trên trực tiếp làm Binh trạm trưởng kiêm Chính ủy.
Ở khu vực Binh trạm 35, 37, 38 thuộc Bộ Tư lệnh 471, mỗi ngày địch huy động 150 lần/chiếc đánh phá bằng bom mìn hỗn hợp với cường độ cao. Số bom từ trường tăng 375%, bom nổ chậm tăng 173% so với trước. Trong đọt đánh phá này của địch, đồng chí Nguyễn Tam Anh - Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh 471 và đồng chí Trương Bỉnh Khiêm - Binh trạm trưởng Binh trạm 37 hy sinh.
Trên toàn tuyến, máy bay AC 130 quần đảo đánh phá suốt đêm. Số đạn 40 ly tăng 32%, đạn 20 ly tăng 60% so với tháng 12 năm 1972.
Các đơn vị cao xạ 57 ly và 100 ly có điều khiển bằng khí tài mới được điều vào chưa tìm ra lối đánh ở địa hình rừng núi, nên chưa phát huy được tác dụng. Đội hình xe chạy đêm bị tổn thất khá nhiều, 60% số xe bị đánh hỏng do máy bay AC 130. Đường kín mới mở chưa ổn định và còn độc đạo nên tốc độ tiến công của đội hình xe chưa phát huy được.
Ở hướng phối hợp phía đông, máy bay B52 đánh quyết liệt vào cửa khẩu của Binh trạm 27. Máy bay AC 130 thường xuyên khống chế trọng điểm Chà Lì, Đèo 500 và Bản Đông. Hướng này gặp khó khăn lớn về địa hình (nhiều núi đá tai mèo, đồi trọc và rừng thưa) nên phần lớn là đường hở. Xe phải chạy đêm bị máy bay AC 130 đuổi đánh gây nhiều tổn thất.
Bộ Tư lệnh khu vực 473 huy động lực lượng chặt cây cao 4m trồng hai bên đường bắt chéo cánh xẻ lại để hạn chế khả năng quan sát của máy bay. Đồng thời vận dụng nhiều hình thức khác như chạy đêm kết hợp chạy ngày, chạy đội hình nhỏ theo cung ngắn, tăng cường đánh địch và nghi binh... để hạn chế tổn thất.
Trong 15 ngày đầu, chiến dịch diễn ra không được thuận lợi, chủ yếu là do đường kín còn ẩm ướt trơn lầy, độc đạo và chưa liên hoàn; hoạt động của máy bay AC 130 còn phát huy được. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh đã phát động phong trào hạ máy bay AC 130, mở thêm đường kín, trồng cây ngụy trang đường "hở” để chạy ngày, tổ chức nghi binh, nâng cao đầu xe, nâng cao trọng tải vượt cung tăng chuyến. Bộ Tư lệnh công bố các hình thức khen thưởng: Tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ - ngụy” cho những người lập công xuất sắc và trao cờ thưởng luân lưu cho những đơn vị dẫn đầu.
Càng về cuối chiến dịch, thế trận cầu đường càng được củng cố đồng bộ, khí thế bộ đội lên cao, các binh chủng hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, các đơn vị xe chuyển sang chạy ngày là chủ yếu. Nhờ đó toàn tuyến đã thực hiện được khối lượng theo yêu cầu của Quân ủy Trung ương. Chân hàng cho Bộ Tư lệnh khu vực 470 được bảo đảm, kịp thời phục vụ yêu cầu tác chiến của chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ. Hướng phía đông đảm bảo đủ chỉ tiêu cho mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị, chiến trường Trị -Thiên và Quân khu 5.
Cuối tháng 2 năm 1972, "Chiến dịch Bình Giã" kết thúc. Toàn tuyến đảm bảo đủ khối lượng hàng cho các hướng chiến trường, đảm bảo vật chất và tổ chức hành quân cho 55.000 cán bộ chiến sĩ gồm một sư đoàn và ba trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn xe tăng. 20 tiểu đoàn và 44 đại đội bộ đội địa phương cùng hàng ngàn cán bộ cao cấp, trung cấp thuộc các ngành tham mưu, chính trị, hậu cần kỹ thuật từ miền Bắc vượt Trường Sơn vào tăng cường cho các chiến trường.
Đặc biệt, đã bảo đảm và chỉ huy hai trung đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn pháo 85 ly, một tiểu đoàn pháo 122 ly hai tiểu đoàn cao xạ 37 ly, một tiểu đoàn tăng 171 (36 chiếc), một đại đội tên lửa chống tăng B72, một đại đội tên lửa bắn máy bay mang vác A72 vào tới chiến trường xa nhất (Nam Bộ) tạo sự chuyển biến mạnh về tương quan lực lượng trên chiến trường, gây bất ngờ lớn đối với địch.
Theo chỉ thị của Bộ Tư lệnh Trường Sơn, Phó Tư lệnh Nguyễn Việt Phương, Phó Chính ủy Phan Hữu Đại, Tham mưu trưởng Hoàng Trá (Bộ Tư lệnh 472) xuống ba binh trạm trên trực tiếp làm Binh trạm trưởng kiêm Chính ủy.
Ở khu vực Binh trạm 35, 37, 38 thuộc Bộ Tư lệnh 471, mỗi ngày địch huy động 150 lần/chiếc đánh phá bằng bom mìn hỗn hợp với cường độ cao. Số bom từ trường tăng 375%, bom nổ chậm tăng 173% so với trước. Trong đọt đánh phá này của địch, đồng chí Nguyễn Tam Anh - Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh 471 và đồng chí Trương Bỉnh Khiêm - Binh trạm trưởng Binh trạm 37 hy sinh.
Trên toàn tuyến, máy bay AC 130 quần đảo đánh phá suốt đêm. Số đạn 40 ly tăng 32%, đạn 20 ly tăng 60% so với tháng 12 năm 1972.
Các đơn vị cao xạ 57 ly và 100 ly có điều khiển bằng khí tài mới được điều vào chưa tìm ra lối đánh ở địa hình rừng núi, nên chưa phát huy được tác dụng. Đội hình xe chạy đêm bị tổn thất khá nhiều, 60% số xe bị đánh hỏng do máy bay AC 130. Đường kín mới mở chưa ổn định và còn độc đạo nên tốc độ tiến công của đội hình xe chưa phát huy được.
Ở hướng phối hợp phía đông, máy bay B52 đánh quyết liệt vào cửa khẩu của Binh trạm 27. Máy bay AC 130 thường xuyên khống chế trọng điểm Chà Lì, Đèo 500 và Bản Đông. Hướng này gặp khó khăn lớn về địa hình (nhiều núi đá tai mèo, đồi trọc và rừng thưa) nên phần lớn là đường hở. Xe phải chạy đêm bị máy bay AC 130 đuổi đánh gây nhiều tổn thất.
Bộ Tư lệnh khu vực 473 huy động lực lượng chặt cây cao 4m trồng hai bên đường bắt chéo cánh xẻ lại để hạn chế khả năng quan sát của máy bay. Đồng thời vận dụng nhiều hình thức khác như chạy đêm kết hợp chạy ngày, chạy đội hình nhỏ theo cung ngắn, tăng cường đánh địch và nghi binh... để hạn chế tổn thất.
Trong 15 ngày đầu, chiến dịch diễn ra không được thuận lợi, chủ yếu là do đường kín còn ẩm ướt trơn lầy, độc đạo và chưa liên hoàn; hoạt động của máy bay AC 130 còn phát huy được. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh đã phát động phong trào hạ máy bay AC 130, mở thêm đường kín, trồng cây ngụy trang đường "hở” để chạy ngày, tổ chức nghi binh, nâng cao đầu xe, nâng cao trọng tải vượt cung tăng chuyến. Bộ Tư lệnh công bố các hình thức khen thưởng: Tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ - ngụy” cho những người lập công xuất sắc và trao cờ thưởng luân lưu cho những đơn vị dẫn đầu.
Càng về cuối chiến dịch, thế trận cầu đường càng được củng cố đồng bộ, khí thế bộ đội lên cao, các binh chủng hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, các đơn vị xe chuyển sang chạy ngày là chủ yếu. Nhờ đó toàn tuyến đã thực hiện được khối lượng theo yêu cầu của Quân ủy Trung ương. Chân hàng cho Bộ Tư lệnh khu vực 470 được bảo đảm, kịp thời phục vụ yêu cầu tác chiến của chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ. Hướng phía đông đảm bảo đủ chỉ tiêu cho mặt trận đường 9 - bắc Quảng Trị, chiến trường Trị -Thiên và Quân khu 5.
Cuối tháng 2 năm 1972, "Chiến dịch Bình Giã" kết thúc. Toàn tuyến đảm bảo đủ khối lượng hàng cho các hướng chiến trường, đảm bảo vật chất và tổ chức hành quân cho 55.000 cán bộ chiến sĩ gồm một sư đoàn và ba trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn xe tăng. 20 tiểu đoàn và 44 đại đội bộ đội địa phương cùng hàng ngàn cán bộ cao cấp, trung cấp thuộc các ngành tham mưu, chính trị, hậu cần kỹ thuật từ miền Bắc vượt Trường Sơn vào tăng cường cho các chiến trường.
Đặc biệt, đã bảo đảm và chỉ huy hai trung đoàn bộ binh, hai tiểu đoàn pháo 85 ly, một tiểu đoàn pháo 122 ly hai tiểu đoàn cao xạ 37 ly, một tiểu đoàn tăng 171 (36 chiếc), một đại đội tên lửa chống tăng B72, một đại đội tên lửa bắn máy bay mang vác A72 vào tới chiến trường xa nhất (Nam Bộ) tạo sự chuyển biến mạnh về tương quan lực lượng trên chiến trường, gây bất ngờ lớn đối với địch.