Trường Sơn - Đường khát vọng

Đập tan Chiến dịch Cắt cổ của Hoa Kỳ

Liên tiếp hai năm 1970 - 1971, lại cùng vào tháng 3 Mỹ bị đánh trên chiến trường Campuchia và Lào. Các chuyên gia chiến lược nhận định "Kết cục bi thảm đến mất uy danh Hoa Kỳ đều bắt nguồn từ con đường mòn ấy...". Tổng thống R.Níchxơn căm uất vì nó đe dọa tiêu vong cái học thuyết "Việt Nam hóa chiến tranh" sau khi tái đắc cử vào Nhà Trắng, ông ta liền bật tín hiệu tái diễn chiến tranh phá hoại miền Bắc, mở "Chiến dịch Cắt cổ" con đường mòn thâm nhập. Pháo đài bay B52 dồn dập trút bom dải thảm đợt sau chồng lên đợt trước dọc đường số 9... Suốt ngày đêm rực lửa.

Bộ Chính trị - Quân ủy Trung ương quyết nghị phải đánh bại âm mưu chiến lược của Mỹ. Đại tướng Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo Bộ Tư lệnh Trường Sơn Quân khu 4, Quân chủng Phòng không - Không quân hiệp đồng đập tan “chiến dịch Cắt cổ" của địch; đẩy mạnh chi viện chiến lược đảm bảo cho các chiến trường tiến công đồng loạt phá sản hoàn toàn "chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh " của Hoa Kỳ.

Sư đoàn 472 được tăng cường trung đoàn cao xạ thiện chiến. Tập trung đánh bại thủ đoạn "Trinh sát điện tử” và thủ đoạn "Tia la de" của địch, bảo đảm cho tên lửa SAM của ta lên tây Trường Sơn. Cuộc họp hiệp đồng ngay tại trận, Sư đoàn 472 thực hiện mọi biện pháp ngụy trang bảo mật khu vực, xây dựng công sự mở đường đưa tên lửa tiếp nhận trận địa nhanh gọn, an toàn. Thông tin đặt vọng quan sát trên các đỉnh núi thành mạng lưới nắm địch trên vùng trời tây nam Lào từ ngoài 200 cây số. Có mạng vô tuyến điện thoại tiếp sức tăng hiệu quả thông báo thẳng về sở chỉ huy sư đoàn và tên lửa...

Cao xạ có khí tài của sư đoàn đánh trước để thu hút và làm rối loạn sự phán đoán của địch, nhất là vô hiệu hóa "con mắt điện tử" của máy bay EB66, tạo tình huống bất ngờ cho tên lửa.

Đầu tháng 12/1972, bầu trời Nam Lào trong xanh, nắng lóa trên nóc rừng. Các trạm quan sát T25 trên đỉnh Phu Ca Tè, T26 Phu Co Po cùng báo:

"Có tiếng rù rù nặng chịch ở hướng tây... ".

8 giờ 25, trạm T27 Phu Can đôi báo:

"Chín F4 bay qua dãy Phu Khộp đến Phu Thuổng... vọt qua Voi Mẹp lao xuống dọc đường 9...".

Lập tức, hơn chục nòng cao xạ của ta phun lửa vào địch. Chúng bật lên cao, lách qua đảo lại hung hăng nhưng không đánh trả. Đài chỉ huy biết chúng giở trò thủ thuật nhứ dử phát hiện SAM ...

T26 báo cáo: "ống nhòm rõ hai tên rất to, cao ngất ngưởng như tòa nhà hai tầng”.

Đài chỉ huy tên lửa biết ngay là CB66 - B một loại máy bay chuyên dụng gây nhiễu ngụy trang. Tên này đi thì nhất định có B52 bay tiếp theo. Nó dài 20m, cao 7m, nặng 34 tấn cơ động, không linh hoạt, bay ở độ cao một vạn “phit" (foot = 0,3048m). Nó được trang bị khí tài phát hiện sóng ra đa đối phương từ ngoài tầm phóng tên lửa để chỉ thị mục tiêu cho pháo đài bay oanh kích tức thời.

Mạng thông tin từ các trạm quan sát vùng trời liên tục báo cáo, đường bay của các tốp phản lực của EB66 được phản ánh lên bản tiêu đồ... Các sĩ quan điều khiển tên lửa căng mắt theo dõi đường bay của địch trên màn hiện sóng... Người trắc thủ kỳ cựu điều chỉnh tách mục tiêu, những tín hiệu chuyển động như bầy nhặng, nổi rõ bốn tín hiệu to đậm - đó là B52 và một EB66 gây nhiễu tích cực yểm trợ.

Trung đoàn trưởng nén thở, cả tốp vào đúng tầm, bật tiếng đanh gọn: “phóng!".

Hai quả tên lửa lao vút. Chớp mắt, những trái cầu lửa bùng đỏ rực trời giữa "bầy nhặng". Vô vàn tiếng nổ chát chúa khắp dải núi.

Cháy rồi, cháy rồi ... - Tiếng hò reo vang lừng - Tên lửa muôn năm!

Bọn giặc trời tán loạn. Chiếc pháo đài bay thoát chết vội tháo bừa bom, ngoặt đầu về hướng xuất phát... Những chiếc "F" hộ tống vội tản đi các ngả. Một tốp bay ngang đường 9 liền bị lưới lửa cao xạ bủa vây. Hai "Con Ma" tung xác, bùng cháy, giặc lái không kịp nhảy dù ...

Báo cáo về Bộ tổng. Đại tướng điện biểu dương trận tiêu diệt bẻ gãy cổ giặc lái trên Trường Sơn, đã đánh bại thủ đoạn phong tỏa của không lực Mỹ ... Đại tướng kêu gọi Bộ đội Trường Sơn khẩn trương bảo đảm quân vào nhanh, khỏe chiến đấu ngay được. Vũ khí hỏa lực mạnh kịp đến chiến trường phát huy hiệu quả cao ...đấy là mục tiêu trọng yếu nhất của tuyến chi viện trong giai đoạn này.

Lời lẽ ngắn gọn hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc, khiến người nghe mường tượng sắp có biến chuyển động trời. Bộ Tư lệnh Trường Sơn chỉ thị các sư đoàn trưởng phải trực tiếp đi kiểm tra các trục hành quân, cải tạo theo phương châm: "Dưới phẳng, trên quang, vượt sông không lội" quân đi “mang nhẹ, mang đủ, ngủ tốt không ốm".

Sáu trung đoàn công binh hối hả nâng cấp 900km đường giao liên trong hai tuần hoàn thành đúng tiêu chuẩn chỉ đạo. Hậu cần các binh trạm, sư đoàn tăng cường lực lượng quân y, quân nhu xuống từng cung đoạn hành quân bộ, tổ chức chuyển thương bằng ô tô kết hợp chở ra... Một bước quan trọng của tuyến Trường Sơn .

Trên các trục "đường kín" suốt ngày ồn ã tiếng máy nổ xe tải, tiếng xích xe tăng nghiến đá kèn kẹt... Từng lớp, từng lớp xe pháo dầm dập bụi đỏ cuồn cuộn như sóng hồng dội xuống phía nam ...

Tin chiến thắng như chẻ tre của các chiến dịch... Cấm Dơi ở Khu 5, Đăk Tô, Tân Cảnh ở Tây Nguyên, Quảng Trị B4, Chiến dịch Nguyễn Huệ Nam Bộ cứ dồn dập bay về tuyến Trường Sơn làm nức lòng người ... Ai cũng nghĩ thật xứng đáng với quyết tâm chiến lược của Trung ương, chỉ đạo sát sao của Tổng Tư lệnh đối với Trường Sơn đập tan "Chiến dịch Cắt cổ", đưa cuộc chiến tranh giải phóng lên giai đoạn mới.
 
BÍ MẬT ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH
Phạm Tiến Duật


Cho đến tận bây giờ, mùa hè năm 1999, sau 24 năm kết thúc chiến tranh, công dân các nước Việt Nam, Mỹ và một số nước khác có tham chiến ở Việt Nam vẫn chưa có điều kiện để hiểu đầy đủ về tuyến đường xuyên ngang, xẻ dọc dãy núi Trường Sơn trùng điệp của ba nước Đông Dương.

Mật danh, tên gọi công khai, chính thức được các phương tiện thông tin đại chúng của phía ta công bố là "Đoàn vận tải quân sự Quang Trung" để chỉ các lực lượng của Bộ đội Trường Sơn. Cái tên ấy được lặp đi lặp lại trên báo, trên đài nhiều năm thành quen. Không chỉ cán bộ dân sự mà cả bộ đội ta, nhiều người chỉ hiểu "Đoàn vận tải" nghiã là một đoàn xe tải, chắc là hàng trăm chiếc hay nhiều hơn nữa.

Bằng suy diễn và tưởng tượng, người ta hiểu thêm rằng, xe muốn chạy thì phải có đường và người làm đường. Và bên cạnh các anh lái xe Trường Sơn còn có thanh niên xung phong làm đường. Hiểu như thế là đúng ý định của Tổng hành dinh quân đội ta lúc đó. Cách nguỵ trang chiến lược ấy rất tốt, làm cho kẻ địch không nắm được ý đồ chiến lược, không hiểu được quy mô của một thế trận.

Thực ra, cái tên “đoàn vận tải quân sự Quang Trung", có một từ phát lộ bí mật mà ít ai để ý: từ “Quang Trung". Tại sao không gọi là Đoàn vận tải quân sự Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo hay một vị anh hùng nào khác mà lại phải gọi là Quang Trung? ấy chỉ vì Quang Trung (Nguyễn Huệ) là vị tư lệnh, vị anh hùng duy nhất của thời phong kiến nước ta lập được tuyến đường quân sự Nam-bắc vượt Trường Sơn người đã có mệnh lệnh "thần tốc!" nổi tiếng vào năm 1789.

Tuy nhiên, cái tên "Đoàn vận tải quân sự Quang Trung" ít thấy phía Mỹ và phương Tây dùng, trừ những khi họ đưa tin theo tin tức mà ta công bố. Để chỉ tuyến đường Hồ Chí Minh, đường Trường Sơn, phía đối phương gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh" (Ho Chi Minh Trail).
Tên gọi "Đường mòn Hồ Chí Minh" do ai, ở đâu đặt và được đặt ra khi nào? Chính là tại đây, Việt Nam, cán bộ, chiến sĩ ta đã đặt tên. Cái tên ấy có từ cuối năm 1945 khi đoàn quân Nam tiến chống thực dân Pháp.

Tháng 5-1959

Cùng với những mật danh: Đường Trường Sơn, Đường mòn Hồ Chí Minh, Đường dây Thống Nhất, Đoàn vận tải quân sự Quang Trung, Bộ đội Trường Sơn - rồi tiếp đến là Đoàn 559 - đây là một phiên hiệu khái quát nhất, ngắn nhất và cũng rất thiêng liêng vì nó ra đời ngày 19-5-1959. Càng thiêng liêng hơn khi người thay mặt Đảng trực tiếp giao nhiệm vụ là Bác Hồ. Người nhận nhiệm vụ là Đại tá Võ Bẩm.

Đằng sau các mật danh, thực chất quy mô của hệ thống Tuyến chi viện chiến lược Đường Hồ Chí Minh như thế nào xin hãy suy ngẫm từ các con số sau đây dựa trên Tập số liệu 16 năm của Bộ Tư lệnh 559:

- Quân số cao nhất ở một thời điểm: trên 20 vạn người (nếu tính số lượt người tham gia chiến đấu trên Trường Sơn thì đến trên 1 triệu).

- Số bom đạn Mỹ trút xuống Trường Sơn: hơn 3 triệu tấn, gồm bom khoan, bom phá, bom cháy; các loại mìn; các loại đạn pháo; chất độc hoá học các loại trong đó có chất độc màu da cam.

- Số cán bộ, chiến sĩ hy sinh trên Trường Sơn: gần 3 vạn.

- Số cán bộ, chiến sĩ bị thương: trên 10 vạn. .

- Số xe, máy bị đánh hỏng: 14.500 chiếc.

- Số hàng hoá bi phá huỷ: 90.000 tấn, trong đó có 703 súng, pháo. Độ dài của tuyến đường giao liên: 1.600 km.

- Độ dài hệ thống đường ô tô “chỉ tính hệ thống đường ngang dọc trên Trường Sơn): 20.000 km, trong đó có 5 hệ thống đường trục dọc (theo chiều dài dãy núi đến Đông Nam Bộ), 21 đường trục ngang. Trong 2 vạn km ấy có 3.140 km đường kín (đường được nguỵ trang để xe chạy ban ngày).

- Độ dài tuyến cơ giới đường sông (chủ yếu là các nhánh của sông Xê Kông và Mê Kông): 600 km.

- Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển: 1 tiểu đoàn (tiểu đoàn 603) gồm 107 cán bộ, chiến sĩ do Đoàn 559 thành lập tại Cảng cá Thanh Khê (cách cửa sông Gianh, Quảng Bình 4 km) với mật danh "Tập đoàn đánh cá miền Nam". Sau này bàn giao cho Bộ Tư lệnh Hải quân quản lý.

- Số máy bay Mỹ bị lực lượng phòng không thiết giáp bắn rơi: 2.455 chiếc.

- Số bộ binh địch bị tiêu diệt trên Trường Sơn: 18.000 tên, bắt sống 1.190 tên.
 
"Thà xước da người còn hơn sẩy da cống"

Có một bài hát của nhạc sĩ Phạm Tuyên sáng tác từ năm xưa cho tới bây giờ mà không mấy ai không thuộc, bài Chiếc gậy Trường Sơn: “thanh niên quê tôi làm chiếc gậy hành quân...". Chữ "quê tôi" trong bài hát có địa chỉ cụ thể: đấy là làng Hoà Xá, huyện Vân Đình, tỉnh Hà Tây, nơi có sáng kiến làm gậy leo núi để tặng bộ đội. Tuy nhiên, không phải đến khi có bài hát này mới có các cuộc tập leo núi. Sau Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đáng (khoá 11) và sau khi thành lập Đoàn 559, các cuộc tập leo núi đã được tiến hành ở một nơi bí mật, ấy là vùng núi phía nam tỉnh Hoà Bình-vùng địa hình na ná như Trường Sơn.

Những chiến sĩ được huấn luyện chuẩn bị vượt Trường Sơn phải giữ bí mật tuyệt đối kể cả với bố mẹ và anh chị em trong gia đình. Họ lên xe đi tập trong những chiếc xe vận tải buông kín bạt và chỉ lái xe mới được biết là đang đi đâu. Và thế là sáng sáng, chiều chiều, ở vùng núi Xuân Mai từng đoàn chiến sĩ, với chiếc gậy trong tay, nối nhau trèo núi, hết ngày này sang ngày khác.

Đoàn người đầu tiên vượt Trường Sơn gồm nửa nghìn chiến sĩ tình nguyện, được tập họp thành Tiểu đoàn giao liên vận tải 301 do đồng chí Hà Kỳ Thự phụ trách.

Bối cảnh miền Nam cuối năm 1959 là bối cảnh đầy máu lửa và sự nhảy múa của quỷ dữ. Con đường số 9 từ cảng Cửa Việt qua thị trấn Đông Hà (Quảng Trị) cắt ngang Trường Sơn, nối với thị xã Thà Khét của Lào, hoàn toàn do địch kiểm soát. Quân lính của Ngô Đình Diệm, có cả lính con gái của Lệ Xuân ngày đêm tuần tiễu. Chúng vừa nắn bóp trêu đùa nhau vừa quăng lựu đạn, bắn vu vơ vào các bụi rậm ven Đường 9. Cho đến những năm sau này, cả Trường Sơn đều là tuyến lửa nhưng chặng đường vượt qua Đường 9 vẫn là chặng đường gian nan, ác liệt.

Các chiến sĩ đầu tiên ngày ấy tập trung tại một thung lũng hẻo lánh phía tây Vĩnh Linh, gọi tên là Khe Hò. Trước khi hành quân vào Nam, họ phải bỏ lại tất cả các hiện vật có liên quan đến các lai lịch đơn vị và cá nhân: tiền miền Bắc, tem phiếu, các sổ sách có ghi các đìa chỉ ... Con đường mà họ sẽ vượt qua là phía tây tỉnh Quảng Trị đến phía tây Thừa Thiên, tuyến đường mòn của dân đi hái củi và lối mòn của voi, của thú rừng đi qua.

Vượt rừng không khó vì đã có nhân dân các dân tộc thiểu số trên Trường Sơn mà ở phía tây Quảng Trị là bà con Vân Kiều, chỉ đường dẫn lối. Đoạn khó nhất vẫn là vượt qua Đường 9. Để đảm bảo tuyệt đối bí mật, an toàn, các chiến sĩ đã tuân thủ một mệnh lệnh có vần, dễ nhớ: "ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng". Còn khẩu hiệu để vượt Đường 9 là: "Thà xước da người còn hơn sầy da cống".

Nguyên do là đoàn chiến sĩ vượt qua Đường 9 không thể băng qua mặt đường mà phải chui qua những cái cống ngầm ở đó. Họ phải gùi những hòm đạn, hòm súng trên lưng. Dưới cống lẹt xẹt nước có rất nhiều cây xấu hổ (hay còn gọi là cây mắc cỡ), rất nhiều gai. Nếu nâng người lên để tránh gai thì các thùng hàng sẽ làm xước thành cống, để lại dấu vết, sẽ lộ. Mà ép bụng xuống thì gai cây xấu hổ sẽ xé áo rách da. Thế là các chiến sĩ ta dũng cảm chọn cách thứ hai.

Chuyến hàng đầu tiên chưa phải là vào Nam Bộ mà là tới Thừa Thiên, phía tây huyện Phong Điền. Chuyến hàng xuất phát ngày 13-8-1959, tới đích ngày 21-8 cùng năm. Số vũ khí vận chuyển đầu tiên mang tiến công thăm dò, số lượng rất ít ỏi, bao gồm 20 khẩu tiểu liên (loại Tuyn), 20 khẩu súng trường (Mát), 10 thùng đạn. Đồng chí Bí thư huyện Phong Điền tiếp nhận lô vũ khí đầu tiên từ miền Bắc gửi vào đã ôm lấy bó súng mà reo lên: "Cách mạng đây rồi! Chính quyền đây rồi!".

Cũng vào tháng 5-1959, Bộ Quốc phòng còn quyết định thành lập Đoàn B90 tăng cường cho Liên khu 5. Đoàn B90 gồm 25 cán bộ, chiến sĩ đã vượt thượng nguồn sông Bến Hải để khai đường, mở lối, nối hai chiến trường miền Trung và Nam Bộ. Các đơn vị giao liên, vận tải, gùi thồ kế tiếp được thành lập ngày càng nhiều, ngày càng đông. Chặng đường gùi thồ kéo rất dài, rất dài.

Từ năm 1959 một phương thức mới, lại rất hiện đại: vận chuyển bằng cầu hàng không. Những chiếc máy bay cánh quạt Liên Xô vận chuyển hàng cho Lào, kết hợp vận chuyển cho ta. Những chiếc Li-2 thả dù hàng xuống phía bắc và nam Đường 9. Đội quân gùi thồ đỡ được một đường, lại gùi tiếp, thồ tiếp. Phải nói thêm rằng việc thả hàng từ máy bay Li-2 cũng chỉ được một số chuyên thôi. Công cuộc gùi thồ tiếp tục kéo qua các năm 1963, 1964.
 
Từ năm 1963, ta đã bắt đầu dùng ôtô vận chuyển từng đoạn. Những văn bản nói lên chủ trương của những năm ấy có ghi "kết hợp cơ giới với gùi thồ", nhưng số phương tiện chiến đấu vận chuyển bằng gùi thồ vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Vận chuyển cơ giới đáng kể là từ mùa khô 1963- 1964.

Do xuất hiện việc vận chuyển bằng cơ giới nên một mặt hàng cần thiết cung cấp cho ôtô trên đoạn đường tây Quảng Trị-Thừa Thiên là xăng dầu.

Dưới gầm trời này không có một nơi nào vận chuyển xăng dầu như ở Trường Sơn. Bộ đội khiêng và vác các thùng phuy xăng qua đèo, qua suối. Người ta bắc các máng từ đỉnh núi xuống chân núi, đổ xăng rồi hứng ở dưới, như thể hứng nước.

Cái kỳ lạ nhất là gùi xăng trên lưng. Người ta cho nilông vào trong ba lô rồi đổ xăng vào, buộc chặt và gùi. Một ba lô xăng nhẹ hơn nhiều so với một ba lô đạn, mà dường như lại nặng hơn gấp bội: ba lô xăng lại cọ vào da gây bỏng da lưng, ấy là chưa nói đến sự nguy hiểm. Băng qua các vạt lửa do dân đốt nương, do đạn pháo của giặc bắn, mỗi chiến sĩ gùi xăng đều có thể biến thành một cây đuốc sống. Chỉ có anh bộ đội Cụ Hồ mới làm được những việc như vậy.

Cho đến mãi những năm 1967- 1968, khi từng đoàn ô tô cỡ tiểu đoàn, trung đoàn rồi sư đoàn xẻ dọc Trường Sơn thì đội quân gùi thồ vẫn còn tồn tại. Chừng ấy năm họ đã gùi những gì trên vai mình? Đủ các thứ: đạn cối, tên lửa loại nhỏ, vàng bạc, ngoại tệ, máy móc, chữ chì của nhà in, thuốc men, công văn, thư từ. Khi có đội quân cơ giới rồi thì trên lưng người là những mặt hàng quý hiếm, cần độ an toàn cao.

Cuối năm 1964, "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ thất bại hoàn toàn và đến năm 1965, bộ binh Mỹ phải ồ ạt đổ bộ vào miền Nam thì Bộ đội Trường Sơn gùi các trận đánh trên vai mình. Lối mòn của người chiến sĩ gùi thồ ngoằn ngoèo vắt qua hệ thống hàng trăm ngọn núi lớn nhỏ của Trường Sơn cũng là tuyến đường giao liên chuyển quân nối hai miền Nam-bắc.

Đã đến lúc bộ Từ điển tiếng Việt phải bổ sung một số định nghĩa để thế hệ sau hiểu rõ về các cuộc chiến tranh đã qua. Ví dụ:

- Trạm giao liên: Là nơi đón các đoàn bộ đội hành quân. Mỗi trạm thường cách nhau từ 6 đến 8 giờ đi bộ, nếu là đường đèo thì thường cách nhau một con đèo.

- Bãi khách: Là cánh rừng bộ đội nghỉ qua đêm có sẵn cây cối để buộc võng và gần suối nước để tiện nấu ăn.

- Dốc ba thang: Dốc dựng đứng, phải dùng ba đoạn thang (gỗ hoặc dây) mới có thể qua được...).

Năm 1970, tôi có gặp một chiến sĩ gái trên tuyến giao liên, cô tâm sự: “em cứ tưởng Trường Sơn là một quả núi thật to, trèo lên đến đỉnh là nhìn thấy miền Nam. Nào ngờ Trường Sơn nhiều núi thế, đi mấy tháng mà không hết núi". Một anh hoạ sĩ trên đường giao liên nói: "Núi trên Trường Sơn nhiều như số gai mít trên vỏ quả mít", nghe buồn cười nhưng cũng đúng.

Những năm đầu khi đường giao liên thuần tuý là "đường mòn", chưa được cải tạo đi bộ từ Quảng Bình đến Đông Nam Bộ phải mất khoảng 5 tháng, có khi tới 6 tháng. Chặng sau, đường tốt, khoảng cách ấy cũng phải đi bộ tới 3 tháng. Vừa sốt rét vừa đi với đôi chân sưng tấy và đôi vai bỏng rát vì mang vác có chiến sĩ phải kêu lên: "Cho tôi bay vào Nam đánh giặc, tung hoành lửa đạn chết cũng được, chứ đi bộ thế này thì khổ quá".

Tuy gian khổ, nhưng các chiến sĩ giao liên Trường Sơn và bộ đội hành quân qua Trường Sơn không ít những niềm vui. Mỗi một ngày đi bộ đều có cái gì khấp khởi chờ đợi ở phía trước.

Chẳng hạn Trạm giao liên T8 là trạm có con chồn bay. Con chồn bay to như con mèo nhưng có cánh như con dơi, thịt nó ăn mềm mà thơm. Chẳng biết tại sao cánh rừng ở Trạm T8 nhiều chồn bay đến vậy. Ngày nào bộ đội cũng bắn được chồn bay để ăn thịt mà không hết. Không biết chúng ở đâu bay đến. Khi hoàng hôn đổ sập xuống cánh rừng già, những con chồn bay từ các ngọn cây cao buông mình rơi xuống rồi xoè hai cánh chao liệng một vòng và đậu đâu đó ở một lùm cây khác, tiếng kêu khe khẽ mà nhọn như tiếng kim khí.
Hay như ở Trạm 21 rất nhiều thỏ rừng. Chỉ trông thấy chúng lướt qua chứ ít khi bắt được. Niềm vui của chiến sĩ giao liên đôi khi chỉ đơn giản là ở trạm trước mặt có mấy cô nuôi quân cực kỳ xinh đẹp.

Trong số các cán bộ, chiến sĩ được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có chiến sĩ giao liên Nguyễn Viết Sinh. Nếu cộng độ dài mà anh đã đi lại nhiều lần trên Trường Sơn thì tổng chiều dài bằng hơn một lần đi quanh quả đất.

Đường giao liên Trường Sơn đã đưa đón nhiều triệu lượt người (cả bộ đội và cán bộ các ngành, các địa phương, phụ nữ và trẻ em ra vào hai miền Nam- Bắc). Cho đến bây giờ, sau hơn 40 năm, không biết có đoạn nào trên vệt đường dài dằng dặc ấy còn nguyên vẹn hay không.
 
Những câu chuyện mà các nhà chế tạo bom đạn của Mỹ nên biết

Tại chương "Cái giá của cuộc chiến tranh" trong bộ Sử biên niên quốc tế của cuộc chiến tranh Việt Nam, trang 358, các tác giả đã công bố hàng loạt số liệu. Số sĩ quan và binh lính Mỹ của bốn quân chủng từ tháng 8- 1964 đến tháng 1-1973 có 8.744.000 lượt người Mỹ tham chiến. Cũng chừng ấy năm họ tiêu tốn tới 150 tỷ USD tại Việt Nam.

Họ không công bổ tổng số máy bay Mỹ các loại bị bắn rơi nhưng có đưa ra con số máy bay trực thăng Mỹ bị mất tại Việt Nam là 4.865 chiếc. Số lượng bom Mỹ sử dụng trên Đường mòn Hồ Chí Minh (hình như con số này thấp hơn sự thật rất nhiều-PTD) là 2.236.000 tấn bom. Các tác giả Mỹ nói rằng nếu cộng cả số bom Mỹ đánh xuống miền Bắc thì gấp bốn lần số bom trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Tôi đã từng là người trong cuộc của các trận bom Mỹ ném xuống các vùng đất khác nhau của miền Nam: Thừa Thiên, Tây Quảng Đà, Tây Ninh, Củ Chi (ngoại thành Sài Gòn). Và cũng chứng kiến các trận bom Mỹ ném xuống Hà Nội, Hà Bắc, Phú Thọ và các tỉnh thuộc Khu Bốn cũ. Cuộc chiến tranh giữa trên không và mặt đất không đâu giống như ở Trường Sơn. Dường như, cuộc hợp đồng tác chiến giữa các loại máy bay trên Đường mòn Hồ Chí Minh, Mỹ tiến hành công phu, bài bản hơn cả.

Phải chăng Mỹ hoàn toàn nắm thế chủ động, làm chủ hoàn toàn bầu trời Trường Sơn?

Có những buổi trưa, nằm trên bãi cỏ, tôi nhìn bầu trời thấy tầng cao, tầng thấp máy bay Mỹ và ao ước ở đâu đó của mạn Quảng Bình có được mấy cái sân bay cho máy bay MIG của ta thì tốt biết bao. Ngoài kia, xa quá. Nhưng không phải hoàn toàn như vậy.

Theo cách phân tích của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên thì không quân Mỹ dù áp đảo trên không, song sức mạnh có hạn, tập trung đánh trọng điểm này thì giảm hoặc bỏ trọng điểm khác. Tập trung đánh đêm thì giảm ngày và ngược lại, ấy là chưa kể thời tiết xấu không hoạt động được. Tổng kết lại 24 giờ trong ngày, máy bay Mỹ chỉ hoạt động được từ 3 đến 4 giờ. Người thực sự làm chủ dưới mặt đất là Bộ đội Trường Sơn.

Bằng tin tức tình bảo chiến lược, chiến thuật và thiết bị kỹ thuật của chúng ta, hằng ngày, tại Bộ Tư lệnh 559, họp giao ban có thể dự đoán được số lượng máy bay chiến đấu của Mỹ chuẩn bị tác chiến ở Việt Nam. Tại các sân bay của Mỹ trên đất Thái Lan: Utapao, Đôn Mường, có bao nhiêu chiếc B52 đã mắc bom, bao nhiêu chiếc đã bơm đủ xăng dầu... Tình hình di chuyển của các hàng không mẫu hạm Mỹ, tình hình các địa điểm mà máy bay Mỹ tập trung trinh sát...

Có thể nói, một trong những lý do mà không quân Mỹ tác chiến kém hiệu quả là vì ta nắm được khá chính xác ý đồ chiến lược, chiến thuật của Mỹ. Cùng với việc nắm chắc diễn biến thời tiết hằng ngày ở cả Đông và Tây Trường Sơn, chúng ta có thể dự báo đúng ý đồ của không quân Mỹ. Cũng có khi chúng ta dự báo đúng cả nơi đánh, giờ đánh và quy mô đánh của Mỹ.

Các sĩ quan tham mưu của quân đội ta, từ sĩ quan tham mưu của Bộ Tổng tham mưu đến ban tham mưu của Bộ tư lệnh 559, là những người phân tích trận chiến tuyệt vời. Không chỉ có các tướng lĩnh và sĩ quan tham mưu mà mỗi chiến sĩ Trường Sơn đều có cái đầu tham mưu như thế. Nghe cánh đuôi bom của Mỹ từ không trung xé gió, chiến sĩ Trường Sơn đoán biết đấy là loại bom gì và nó sẽ nổ cách mình bao xa. Nghe tiếng động cơ máy bay, các chiến sĩ có thể biết là nó chở nặng hay nhẹ, còn bom hay đã trút hết bom
 
Trong số các chiến sĩ của Tiểu đoàn 2 Công binh, đơn vị anh hùng, có một chiến sĩ học dở dang năm thứ hai Đại học Mỹ thuật công nghiệp, quê ở Thái Bình. Tên anh là Phùng Hoàng Nam. Anh đã từng cho tôi xem các ký hoạ của mình vẽ các loại bom mìn của Mỹ ném xuống Trường Sơn.

- Làm sao cậu có màu để vẽ thế này, mang ở Hà Nội vào à? -Tôi hỏi.

Phùng Hoàng Nam đáp:

- Không. Hôm qua ở Phanốp (một địa danh gần Song Phan, thuộc tỉnh Khăm Muộn, Trung Lào) có một chiếc xe bị đánh hỏng, trên xe chở toàn văn hoá phẩm, có rất nhiều bột màu và sơn dầu.

Chỉ vào mấy bức ký hoạ, Nam nhận xét:

- Phải công nhận cái tài tạo dáng công nghiệp của các nhà chế tạo vũ khí Mỹ. Không biết khi chế tạo, các kỹ sư Mỹ có biết là sẽ đem dùng những thứ bom mìn này tại Việt Nam không mà họ toàn lấy hình thù các trái cây nhiệt đới để tạo dáng.

Tôi ngắm nhìn. Đúng là như vậy. Này là bom bi hình quả dứa, quả ổi, quả bom này giống hình quả bầu, quả bom kia giống chính quả dưa hấu. Trông vẻ đẹp của bom đạn mà thấy gai người. Phải lạnh lùng trước sự sống của con người đến thế nào, máu phải lạnh mới đủ bình tĩnh tỉa tót cho các dụng cụ giết người man rợ ấy.

Có một vài loại bom mìn hình như Mỹ chỉ sử dụng ở Trường Sơn. Ví dụ như mìn vướng. Nó giống hệt loại bom bi hình quả ổi. Quả bom mẹ rơi nổ trên không trung làm văng xuống đất hàng trăm quả bom con, mỗi quả có đường kính khoảng 6 cm. Khi rơi xuống đất chừng mấy chục giây, từ xung quanh cái quả nổ ấy văng ra những cái lò xo, kéo theo các sợi dây mảnh màu xanh lá cây. Nếu người đì qua gạt phải cái dây là mìn nổ. Tất cả những điều này nằm trong sự tính toán của các nhà chế tạo Mỹ.

Chỉ tình tiết sau đây là Mỹ không biết: các sợi dây mìn vướng là một loại chỉ khâu rất đẹp, rất bền. Nhiều chiến sĩ công binh đã lấy dây mìn vướng tặng người yêu của mình. Cách lấy dây mìn vướng rất dễ. Chỉ cần vào bãi bom với một cái bật lửa. Tất nhiên, phải rất tinh mắt vì các sợi chỉ ấy mảnh lắm, rất khó thấy, gạt vào là nổ ngay. Chớ chạm tay vào mà chỉ dùng bật lửa đốt ở hai đầu, lấy đoạn giữa. Mỗi sợi chỉ của mìn này dài đến 8 mét, tha hồ mà khâu vá. Tuy nhiên, việc đi lấy dây mìn làm chỉ khâu bị các cấp chỉ huy nghiêm cấm. Dù cẩn thận đến đâu cũng mất an toàn. Vào những đêm gió Trường Sơn, người ta thấy tiếng nổ liên tiếp của mìn do các cành cây gạt nổ, ấy vậy mà có chiến sĩ lấy được từng cuộn dây mìn to bằng cuộn chỉ lớn. Tình yêu trai gái được kết nối bằng loại dây mìn này chắc là bền vững lắm.

Còn một loại mìn nữa chỉ Trường Sơn mới có là mìn lá. Đấy là những cái gói nhỏ bằng vải, giống hệt những cái băng y tế cá nhân, nhỏ hơn bao thuốc lá. Trong bọc vải là bột thuỷ tinh trộn với thuốc nổ và một loại chất độc nào đó: Chỉ cần giẫm chân lên là mìn nổ, tiếng nổ chỉ bằng tiếng pháo tép. Người giẫm phải mìn lá bàn chân bi xé rách. Phải cắt cụt nhanh chóng, để thuốc mìn ngấm vào sẽ hoại thư mà chết.

Tôi đã từng đi bộ, lột qua trọng điểm La Hạp (đất Lào, phía Tây Thừa Thiên, ngã ba của Đường B41 và Đường 128) cùng một đồng chí đội trưởng công binh. Chúng tôi giẫm lên bước chân của nhau mà đi. Mỗi người ôm một cái mũ cối để ngửa, vừa đi vừa nhặt mìn lá, bỏ vào mũ. Đi hết trọng điểm thì hai cái mũ đã đầy ắp các gói chết chóc. Chúng tôi đặt hai cái mũ thật nhẹ nhàng vào một nơi rồi quay lui mấy bước, rút súng bắn. Một bưng khói lớn bốc cao. Hai cái mũ đi tong, tiếc ngẩn người.

Nghe những chuyện này, có người sẽ cho rằng các chiến sĩ Trường Sơn rất táo gan, chẳng sợ gì bom đạn Mỹ. Không hoàn toàn thế đâu. Có những lúc rất sợ. Chẳng hạn câu chuyện sau đây:

Một hôm vào mùa khô 1969- 1970, tôi đi cùng một đoàn xe tải của Tiểu đoàn 102, đơn vị anh hùng. Tôi là phóng viên mặt trận. Anh lái chính tên Thủy, người Thái Bình. Anh lái phụ tên Mẫn, quê Thanh Hóa. Dọc đường, xe của chúng tôi bị địch đánh cháy... Chỉ còn một cách là băng rừng, tìm đến trạm giao liên gần nhất để về đơn vị. Suốt đêm quần nhau với giặc, vừa đói, vừa mệt. Chúng tôi thèm thuốc lào. Trong túi có thuốc, có lửa mà không có điếu. Bỗng giữa rừng chúng tôi thấy một hố nước to bằng cái nong. Mẫn reo lên:

- Điếu bát đây rồi! -Tôi nghe mà không hiểu.

Mẫn ngồi sụp xuống, chúng tôi ngồi theo. Mẫn lấy nước nhào đất, đắp thành một cái ụ rỗng rồi cho nước ở cái hố to chảy vào. Thế là thành cái điếu bát. Lấy lá cây cuộn vào làm xe điếu ... Chúng tôi hút ngon lành và thở khói trắng bay mờ mịt trên cái hố nước yên tĩnh.
Hút đã rồi chúng tôi đi tiếp. Mới đi được chừng ba chục mét thì một tiếng nổ lớn hất cả ba ngã nhào. Ngoảnh lại, thấy một cột khói bom và đất đá rụng rào rào như mưa. Thì ra cái hố nước kia là một hố bom nổ chậm bị nước mưa che phủ. Qua bao nhiêu bom đạn không thấy sợ mà lần ấy thấy sợ. Bây giờ nghĩ lại vẫn thấy gai người. Ai đời châm lửa vào đuôi bom mà hút thuốc bao giờ.

Bom Mỹ đã làm thay hình đổi dạng sông núi Trường Sơn. Có những quả núi biến thành núi bột, chỉ cần mưa xuống, núi sẽ hoá thành dòng sông bùn.

Những thân cây cổ thụ, ba bốn người ôm, bom làm thân cây cổ thụ to cỡ ấy giập nát như tăm.

Thuốc độc hóa học của Mỹ làm từng cánh rừng đại ngàn rụng lá.

Không biết có bao nhiêu loại chất độc hóa học Mỹ rải trên Trường Sơn? Cho đến tận bây giờ, thuốc độc Mỹ vẫn để lại bao di họa. Nhiều phụ nữ không thể sinh đẻ được. Nhiều đứa trẻ dị dạng, khuyết tật.
 
Sở Chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559 đóng ở đâu?

Bộ Tư lệnh Đường mòn Hồ Chí Minh (559) đã trải qua nhiều thời, nhiều đồng chí cán bộ cao cấp của quân đội ta được phân công phụ trách suốt chặng đường 16 năm chiến tranh (1959- 1975), nhưng vị Tư lệnh có thâm niên lâu nhất, ở chặng đường ác liệt nhất là đồng chí Đồng Sĩ Nguyên.

Sau chiến tranh, anh đã từng tham gia nhiều công việc khác nhau của Chính phủ: Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó Thủ tướng Chính phủ-ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện nay, anh là chuyên viên cao cấp của Chỉnh phủ.
Trước khi vào Trường Sơn nhận chức vụ Tư lệnh 559, anh Đồng Sĩ Nguyên đã từng đảm nhận các chức vụ: Cục trưởng Cục Dân quân, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân tình nguyện Trung- Hạ Lào, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Chính ủy Quân khu IV, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương.

Anh Đồng Sĩ Nguyên có dáng người to cao và có nhiều cử chỉ, thói quen điển hình của một người được đào tạo chính quy ở Học viện quân sự: mạch lạc, dứt khoát, không có cử chỉ thừa.

Trong một cuộc chiến tranh lớn, muốn thắng lợi phải cần đến các vi tướng giỏi. Nhưng một vi tướng dù tài đến mấy cũng không thể làm nên chiến thắng. Trước hết phải nói đến cơ quan đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến là các đồng chí lãnh đạo hàng đầu của Đảng, của Nhà nước và quân đội ta. Tôi cứ nhớ mãi câu nói của Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào năm 1970. ấy là khi đồng chí tiếp một số nhà thơ được giải thưởng cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ, trong đó có tôi chị Phan Thị Thanh Nhàn và anh Bế Kiến Quốc. Cuộc gặp còn có nhà thơ Chế Lan Viên và thư ký riêng của Thủ tướng là anh Trần Việt Phương. Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau một hồi tư duy, trầm ngâm nói:

- Tôi chỉ có khoảng ba mươi phần trăm thì giờ để làm công tác Thủ tướng. Bảy mươi phần trăm thì giờ là để cùng Bộ Chính trị suy nghĩ về đánh giặc.

Rồi Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi tôi về sức khỏe của đồng chí Đồng Sĩ Nguyên, sau đó ông nhắm mắt, khẽ gật đầu mấy lần và thốt lên:

- Đấy là một người thật có tài, thật có tài!

Kể lại câu chuyện này, tôi chỉ muốn nói rằng, các đồng chí lãnh đạo hàng đầu của đất nước quan tâm thế nào đến tuyến đường mang tên Bác, bên cạnh các đồng chí trực tiếp lãnh đạo của Bộ Tổng tư lệnh đêm ngày theo dõi mọi diễn biến trên Trường Sơn. Về những điều này, các tổng thống Mỹ thời ấy và các tướng lĩnh Mỹ đều biết rất rõ. Nhưng guồng máy trực tiếp quyết đáp hằng ngày trên Trường Sơn là Bộ Tư lệnh 559 thì Mỹ biết rất muộn và rất ít chuẩn xác.

Mùa khô 1968- 1969, Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559 đóng tại xã Cổ Giang, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, nơi đầu Đường 20. Địa điểm ấy được thiên thời, nhân hòa, nhưng địa không lợi. Sở chỉ huy ở hơi xa các trục đường huyết mạch. Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên, sau khi nghiên cứu địa thế, đã dời Sở chỉ huy đến một ngôi làng kề bến phà Xuân Sơn. Nói tới phà Xuân Sơn là nói tới một trọng điểm lửa vô cùng ác liệt trên quốc lộ 20.

Trong một cuộc họp quan trọng bao gồm các thành viên chủ chốt của Sở chỉ huy, có nhiều ý kiến không tán thành. Được Chính ủy đồng ý, Tư lệnh quyết định lập tức làm công sự và di chuyển Sở chỉ huy đến gần Xuân Sơn. Một quyết định táo bạo. Nhưng rồi thực tế chứng minh quyết định của Tư lệnh là đúng.

Từ vùng ngã ba kề Xuân Sơn là điểm bắt đầu của Đường 20 nối với Đường 15 “tọa độ lửa". Tại đây, Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh nắm tình hình một cách chặt chẽ hơn trước, các quyết đáp cần triển khai được thực hiện nhanh chóng hơn. Và cán bộ, chiến sĩ thuộc Bộ Tư lệnh sau đó đều hiểu rõ: đây là một cử chỉ mà Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên muốn thử thách và đào luyện cán bộ; cần phải gan góc trước mọi khó khăn, xóa tan tâm lý hoảng sợ trước sức mạnh vũ khí của địch.

Sự kiện dời Sở chỉ huy ra gần phà Xuân Sơn chính là giành yếu tố bất ngờ, độ an toàn cao hơn. Mỗi ngày, máy bay Mỹ hàng chục lần xuất kích ném bom bắn phá xuống Xuân Sơn. Tầm lượn của máy bay bao quát tất cả các cơ quan của Sở chỉ huy. Nhưng phi công Mỹ đã có mục tiêu sẵn, chỉ dán mắt vào con phà mà không nhìn thấy gì khác. Từ đó khi chuyển sang Tây Trường Sơn trên đất bạn Lào, một Sở chỉ huy dưới địa đạo hiện đại nhất, cũng đóng ngay bên “tọa độ lửa”.

Vào chặng cuối của cuộc kháng chiến, Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559 còn trú đóng ở một địa điểm nữa tại phía Đông Trường Sơn, bên bờ sông Bến Hải, xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Các địa điểm khác của Sở chỉ huy đều đặt ở phía Tây Trường Sơn, trên đất Bạn.
Có thể nói rằng, cho tới khi chiến tranh kết thúc, chưa bao giờ phía Mỹ tìm được vị trí Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Nói chính xác thì có hai lần bom Mỹ rơi xuống Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559 nhưng cả hai lần đều là ngẫu nhiên. Thượng tướng Đinh Đức Thiện đã nói về sự kiện này: “bọn Mỹ đi mò cua nhưng lại suýt bắt được ếch mà chúng không biết".

Giữ được bí mật của Sở chỉ huy là một việc không dễ. Sở chỉ huy của Bộ Tư lệnh 559 có quy mô như bộ khung của một tổng cục. Ngoài trụ sở của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh còn có các Cục: Chính trị, Tham mưu tác chiến (phòng không và mặt đất), Tham mưu vận chuyển (vận chuyển xăng dầu, vận chuyển thô sơ, cơ giới đường bộ, cơ giới đường thủy), Công binh (xây dựng và sửa chữa cầu đường, tháo gỡ bom mìn), Hậu cần và các cơ quan khác như Thông tin, Hành chính. Cơ quan đông người, phạm vi đóng quân rộng, phương tiện, khí tài nhiều... mà hàng chục năm trời, địch không phát hiện ra, không bị đánh trúng; vừa bảo vệ được mình, vừa đánh thắng địch, phải nói là một sự kiện lịch sử kỳ diệu, một chiến công tuyệt vời của Bộ Tư lệnh 559-trong đó được đúc kết bằng sự tài giỏi, khôn khéo, dũng cảm của người chỉ huy, của cán bộ, chiến sĩ Trường Sơn và điều quan trọng là có công lao chăm sóc, đùm bọc, che chở của nhân dân, của đồng bào các dân tộc.
 
Binh trạm và trọng điểm lửa

Cho tới những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã quyết định giải tán các binh trạm để lập thành các sư đoàn, kịp ứng phó với mọi diễn biến của chiến tranh. Nhưng đến nay, khi Bộ Tư lệnh 559 đã giải thể thì Ban liên lạc của các binh trạm khi xưa vẫn hoạt động. Vậy thực chất binh trạm là gì? Ai là người đầu tiên sáng tạo ra các binh trạm dọc dài theo đất nước?

Trong lịch sử chiến tranh có những tuyến đường quân sự nổi tiếng: Đường vận chuyển quân lính trong bụng con ngựa gỗ khổng lồ vào thành Tơroa; đường vận tải qua hồ Lađơga đóng băng của Liên Xô bảo vệ thành phố Lêningrát; “con đường xanh" của Stalin xuyên dọc châu Âu đánh vào sào huyệt của phát xít Đức...

Nhưng tuyến đường Trường Sơn có hai sự độc đáo. Một là, thời gian tồn tại của tuyến đường dài hơn mọi tuyến đường chiến tranh ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới. Hai là, tuyến đường Trường Sơn là một chiến trường trọng yếu và là một căn cứ hậu phương chiến lược cho chiến trường ba nước Đông Dương.

Tôi không thật rõ ai là tác giả của việc lập các binh trạm đầu tiên trên Trường Sơn thời chống Mỹ, nhưng từ "binh trạm" thì đã có ở nước ta từ lâu rồi. Thời Quang Trung đã thành công trong đợt hành quân thần tốc từ Nam ra Bắc dẹp giặc ngoại xâm năm 1789. Hệ thống binh trạm thời bấy giờ là tuyến đường chạy từ trung tâm của Vua Tây Sơn-ấp Bình Sơn, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. theo dọc đường ven biển ra Bắc, có một số đoạn đi qua dãy Trường Sơn. Trạm U Bò là một trạm của Quang Trung đã trùng với hệ thống trạm giao liên Trường Sơn.

Về mặt biên chế, các binh trạm của Bộ đội Trường Sơn được tổ chức theo "biên chế mềm", nghĩa là tùy theo yêu cầu của mỗi nơi mà tổ chức lớn hay nhỏ. Một binh trạm cỡ trung bình có quy mô như một trung đoàn. Những binh trạm lớn hơn có quy mô như một lữ đoàn. Đại thể, mỗi binh trạm có khoảng 2 tiểu đoàn ôtô, 1-2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội hoặc 1 tiểu đoàn thanh niên xung phong, 1-2 tiểu đoàn pháo cao xạ, 1 đại đội thông tin, 1 tiểu đoàn bốc vác và các khu kho (vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm...), 4-6 trạm giao liên chuyển quân gồm các trạm giao liên và các cung đường giao liên.

Trước đây, các quốc lộ nối Việt Nam với Lào ở miền Bắc có mấy con đường chính: Đường 217 nối Thanh Hóa với Sầm Nưa, đường số 7 nối Nghệ An với Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng, đường số 8 nối Hà Tĩnh với Bo ly Khăm xay, đường số 12 nối Quảng Bình với tỉnh Khăm Muộn. Quốc lộ duy nhất mà chúng ta sử dụng vào Tuyến chi viện chiến lược là đường số 12. Binh trạm làm nhiệm vụ vượt đỉnh Trường Sơn ở Cổng Trời - kề gần Đồn biên phòng Cha Lo mang theo tên đường: Binh trạm 12.

Cái tên “trọng điểm” là do ta đặt ra. Mỹ thì gọi là các "Điểm tắc". Muốn tạo ra một trọng điểm, không quân Mỹ dùng pháo đài bay B-52 ném bom rải thảm liên tục xuống nơi đó nhằm “bẻ gãy" hết các con đường và làm thay đổi cả địa hình. Sau đó, cho máy bay cường kích liên tục oanh tạc.

Cho tới đầu những năm 70, thế kỷ XX việc tạo ra những trọng điểm được các nhà quân sự Mỹ tiến hành một cách bài bản hơn: dùng bom cháy, bom hóa học phát quang; dùng B-52 thay đổi địa hình; ném bom nổ chậm, bom từ trường, bom bi không cho bộ đội ta sửa đường, rải các loại mìn: mìn cóc, mìn vướng, mìn lá... đế ngăn chặn công binh ta gỡ bom nổ chậm; gài các loại vũ khí trinh sát - như cây nhiệt đới - một loại máy thu phát và đo đạc tự động trông giống như một cái cây xương rồng không gai - ở hai đầu trọng điểm. Ấy chỉ là mưu mẹo của Mỹ mà chiến tranh thì không có điều nào gọi là đơn giản cả.

Điều mà phía Mỹ phán đoán nhầm liên miên trong cuộc chiến tranh là từ sự chủ quan: khả năng sử dụng lối đánh hiện đại và tổng hợp của quân đội ta. Ví dụ như về lý thuyết thì không có cách gì có thể làm đường ống dẫn xăng vượt qua trùng điệp các dãy núi hàng ngàn cây số. Trùng điệp các trọng điểm lửa mà Mỹ ngăn chặn đêm ngày, làm sao đưa xe tăng, đưa tên lửa và các loại vũ khí khác vào được miền Nam... Và ở đây trọng điểm, nếu chỉ tháo gỡ bom mìn bằng tay, nếu chỉ làm đường bằng cuốc xẻng thì làm sao khai thông các trọng điểm nhanh chóng. Vậy mà phía Mỹ lại đánh nhau theo các chương mục viết trong sách giáo khoa. Người lính thường mà nhiều kinh nghiệm cũng có thể biết được cách sắp xếp, bài bản của Mỹ.

Mỗi khi máy bay Mỹ rải mìn vướng, mìn lá xuống đâu thì y như rằng, ngày hôm đó tại địa điểm ấy tạm yên.

Chưa dứt tiếng máy bay, đã thấy tiếng gầm rú của nhiều xe bọc thép phóng từ của công binh lao vào các bãi bom. Bom mìn nổ rền như thể lại có một đợt bom B-52 mới. Khói bom chưa tan, từ trong các khe núi, góc rừng, từng đoàn máy ủi, máy xúc và trên xe là các chiến sĩ đội mũ sắt, mặc áo giáp lẫm liệt tiến ra trọng điểm. Những đoạn đường cũ, những đoạn đường mới dù còn lô mô đất đá trộn sắt thép nhưng dẫu sao cũng vẫn hiện ra.

Trong chiến tranh, bất kỳ ở đâu cũng có kẻ bạo, người nhát. Nhút nhát vốn dĩ không phải là lỗi lầm mà do khí chất của mỗi người, nhưng khi đối mặt với cam go phải quyết đoán thì cái nhát rất dễ biến thành cái hèn. Những kẻ hèn nhát như thế, ở Trường Sơn chắc là cũng có nhưng rất ít. Cái quả cảm làm cho cái thấp kém gượng dậy mà biến cải...
 
Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu?

Nếu như câu hỏi ấy, Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu? chỉ để nói đến người của một tờ báo mặt trận tên là Trường Sơn thì câu trả lời đã khó nhưng không khó lắm. Nếu "người cũ” là hàng triệu lượt người ngày nào đã gặp nhau, cùng chiến đấu những năm gian khó thì câu hỏi ấy chỉ là một tiếng vọng thật dài.

Ở vào chặng đường trước năm 1968, Bộ Tư lệnh 559 chỉ có một tờ tin in rônêô với cái tên nghe như tên một vở chèo: “Hoa thắm Trường Sơn”. Người làm tờ tin ấy là một sĩ quan chính trị, anh đã về hưu với quân hàm đại tá. Còn tờ báo in ti pô ra đời từ cuối năm 1968 do một nhà báo chuyên nghiệp, nguyên là Trưởng phòng Quân sự báo Quân đội nhân dân tăng cường cho Trường Sơn, làm Tổng biên tập. Tên anh là Lục Văn Thao. Thời chống Pháp, anh Thao làm ở báo Quân đội nhân dân và đã có những năm tháng sống cùng với nhà văn nổi tiếng Nguyễn Huy Tưởng.

Cũng ở báo Quân đội nhân dân tăng cường cho tờ Trường Sơn, còn có hai phóng viên nữa là Như Phong và Xuân Hội. Sau chiến tranh có lẽ các anh đã về quê, đồng đội cũ không ai được gặp. Nhà báo Phương Nam, phóng viên quân sự của bảo Tiền phong tăng cường cho tờ Trường Sơn thì đã bị bom, hy sinh ngay tại tòa soạn.

Còn một nhà báo nữa, vốn là cán bộ của Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, sau chiến tranh về làm ở tạp chí Văn nghệ quân đội là nhà báo, nhà thơ Duy Khán. Anh đã từng có một tập văn xuôi hay đến mức khó ngờ là tập Tuổi thơ im lặng đã được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Rất tiếc do bệnh trọng, anh đã mất cách đây nhiều năm.

Cùng làm báo Trường Sơn, chúng tôi còn có nhà văn Lê Lựu. Khi vào với Trường Sơn anh mới có một tập truyện ngắn trình làng là tập Người cầm súng. Nay thì Đại tá Lê Lựu có hàng chục tiểu thuyết trong đó có Thời xa vắng nổi tiếng.

Phóng viên ảnh của Trường Sơn sau chiến tranh đã có những năm làm Phó Tổng Thư ký Hội Nhiếp ảnh Việt Nam, nghệ sĩ Hoàng Kim Đáng. Bây giờ anh vẫn sáng tác ảnh và còn viết văn, làm báo nữa. Bốn họa sĩ chính của Trường Sơn thì một đã mất vì tai nạn là họa sĩ Vĩnh Phúc. Nhà điêu khắc chân phương và cần mẫn Minh Đinh vẫn làm tượng đều đều. Còn họa sĩ Hoàng Đình Tài thì từ ký họa đã và đang chuyển qua lĩnh vực sơn dầu, sơn mài. Họa sĩ Đức Dụ vẫn vẽ chăm chỉ.

Đấy là mới điểm xuyết một số tên người trong đội ngũ biên tập, ở Trường Sơn còn có nhà in nữa. Nòng cốt của bộ phận in là mấy chiến sĩ vốn là thợ bậc cao của Nhà máy in Tiến Bộ, của Nhà in báo Hải Phòng kiến thiết và xưởng khắc gỗ nổi tiếng của Hà Nội - Xưởng Tinh Hoa. Những người có nghề ấy kèm cặp những người lính mới học nghề. Trong số các cô lính trẻ làm nghề sắp chữ hồi ấy nay có một người nổi tiếng, nhà báo Nghiêm Thi Hằng. Chị đã có gần trăm bài thơ được phổ nhạc...

Nhưng không phải tất cả những người ở Trường Sơn từ mặt trận về đều thành đạt cả. Xin bạn hãy đến đầu phố Lê Văn Hưu của Hà Nội, nơi giáp với phố Huế, nhìn sang bên trái sẽ thấy một thiếu phụ ngồi bán rượu trắng và chân chó hầm. Chị chỉ ngồi ghé bên vỉa hè chứ không có quán. Chị có tên là T.B, vốn là một chiến sĩ gái đẹp đến mức lộng lẫy của Trường Sơn. Chồng đã mất, chị ở vậy nuôi con.

Chị kể, ở Hà Nội thôi, hình như phố nào cũng có người của Trường Sơn. Phố Vọng ở gần Bạch Mai, cứ vài ba nhà lại có một nhà mà chủ hộ là cựu chiến binh. Gần quán bia hơi Cây Gạo có một ngôi nhà xây dở dang, trước cửa có biển quảng cáo nước giải khát Co ca - Co la và Pepsi. Chủ hộ là anh Lê Điềm, nguyên là Xưởng trưởng một xưởng sửa chữa xe máy công binh Trường Sơn, trú đóng ở vùng ngã ba biên giới thuộc Binh trạm 37. Gần đây, anh có tặng Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh một cái cờ lê mang về từ mặt trận và một cái ba lô con cóc bị bom bi xé rách. Anh cùng nhập ngũ với nghệ sĩ ưu tú Hoàng Chè (Trưởng đoàn Nghệ thuật Quân khu II - vốn là ca sĩ của Đoàn văn công Trường Sơn) Bây giờ hai người vẫn thân nhau.

Nghe nói về Lê Điềm thì thấy mát lòng: hết chiến tranh, về học tiếp đại học, hiện đang sinh hoạt trong một câu lạc bộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ do Cộng hòa Liên bang Đức tài trợ cho việc huấn luyện. Anh không giấu được tôi bao cực nhọc đăng sau cái biển quảng cáo.
 
Cũng ngay tại Hà Nội, tôi đã gặp lại một số đồng đội cũ hiện nay đang có đời sống sung túc. Chẳng hạn như V.X hồi chiến tranh, anh là lái xe Trường Sơn. Mùa hè năm ngoái khi tôi gặp lại thì V.X đã là một giám đốc của một tập đoàn kinh tế mạnh. Tiền anh kiếm được chủ yếu là tiền thưởng được công bố công khai nhờ làm lợi cho tổng công ty. Chỉ trong năm 1998, riêng cá nhân anh đã làm lợi cho tổng công ty trên một trăm tỷ đồng.

Cách đây vài năm, một nhà báo ở Thái Bình có một bài phóng sự về hàng chục sư nữ ở tỉnh ấy nguyên là bộ đội và thanh niên xung phong Trường Sơn. Lần theo địa chỉ bài báo, tôi đã đến tận nơi và thấy tài liệu của nhà báo ấy là đúng sự thực. Chỉ một ngôi chùa ở huyện Kiến Xương kề gần thị xã Thái Bình đã có đến ba sư nữ xuất xứ từ Trường Sơn, trong đó có một sư thầy nguyên là đội viên thanh niên xung phong của Tiểu đoàn 25, Binh trạm 14. Tôi chỉ nói thêm rằng họ không hề bi luỵ, mà ngược lại, rất giác và rất ngộ công việc từ thiện mà họ làm, cũng chẳng mong thành Phật mà trước hết là để quên mình lần nữa cho chúng sinh.

Không làm sao biết hết được, hàng triệu lượt người đã đến với Trường Sơn những năm tháng ấy đang sống ở khắp mọi miền của Tổ quốc. Tuy chưa được gặp lại, nhưng tôi hoàn toàn tin rằng, từ lâu họ đã hoà nhập với cuộc sống thường nhật đầy vất vả nhưng còn giữ mãi cốt cách của những người đã từng sống và chiến đấu trên tuyến đường mang tên Bác Hồ vĩ đại.

Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu?

Vâng, cái "con voi" tên là 559 thì bây giờ không thấy, nhưng cái "ngà voi" rất dài thì vẫn tồn tại: Đó là Binh đoàn 12 - Binh đoàn Trường Sơn. Bộ Tư lệnh Trường Sơn thì giải thể nhưng gần 20 đơn vị cấp sư đoàn và trung đoàn (chủ yếu là các đơn vị xe, công binh và các đơn vị kỹ thuật) thì vẫn tồn tại và tồn tại một cách đáng tự hào.

Tuy nhiên, chỉ có các sĩ quan chỉ huy là có người cũ ngày nào. Đội ngũ các chiến sĩ thì là mới cả, đa phần sinh trước và sau năm 1975 chút ít và chỉ biết Trường Sơn đánh giặc thông qua các lời kể. Điều này cũng dễ hiểu, lịch sử đánh Mỹ của Trường Sơn dù dài đến 16 năm vẫn ngắn hơn chặng đường sau chiến dịch của Binh đoàn 12: hơn 20 năm.

Vấn đề làm kinh tế ở nước ta không phải là vấn đề mới. Phan Đình Phùng đã trụ bám ở Trường Sơn trên 10 năm, vừa đúc súng, chế tạo đạn dược, luyện quân vừa làm kinh tế để nuôi quân, chuẩn bị cho việc đánh thực dân Pháp. Việc bộ đội làm kinh tế bộc lộ phẩm chất tốt đẹp là sự không phân biệt tố chất của người chiến sĩ, phần nào là lính, phần nào là dân. ấy thế mà khi chiến tranh kết thúc, Bộ đội Trường Sơn đang còn quản lý một khối lượng xe, máy (ô tô vận tải các loại máy húc, máy ủi, xe lu, máy trộn bê tông...) và các phương tiện kỹ thuật với một khối lượng khổng lồ.

Và thế là một chặng đường mới của Bộ đội Trường Sơn lại được mở ra. Công việc đầu tiên của họ là một công việc mang tính lịch sử: tham gia sửa chữa và xây dựng tuyến đường sắt nối liền Nam-bắc mà suốt mấy thập kỷ đã bị cắt rời và băm nát. Cùng thời điểm, họ còn xây dựng cơ bản Đường Hồ Chí Minh dọc theo Đông Trường Sơn có tổng chiều dài tới 1920 km.

Tôi sẽ không nói tới tất cả các công việc mà đơn vị "hậu duệ" của 559 đã làm, chỉ cốt nhấn mạnh đến một số việc có ý nghiã để các thế hệ mai sau này không thể quên: làm thủy điện Sông Đà (cả hai đơn vị tham gia đều được Nhà nước phong danh hiệu Anh hùng lao động); đường dây siêu cao áp 500 kv Bắc-nam; đường ô tô cấp cao Bắc Thăng Long-Nội Bài; tham gia xây dựng lại đường số 1 đường số 5; xây dựng lại nghĩa trang đồi A1 và Sài Gòn Điện Biên Phủ; nghĩa trang Hàng Dương, Côn Đảo và nhiều công trình khác. Góp phần xây dựng đường sá, cầu cống, các công trình về y tế, văn hoá... tại Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào sau chiến tranh, 5 đơn vị của Binh đoàn 12 đã được Nhà nước ta tuyên dương đơn vị Anh hùng.

Hiện nay, Binh đoàn 12-tên giao dịch là Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn là một trong những tập đoàn kinh tế hàng đầu của đất nước ta đang tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trường Sơn người cũ giờ này ở đâu?

Câu hỏi ấy là câu nhắn tìm đồng đội. Sau biết bao nhiêu năm, sống chết có nhau, giờ mong mỏi được biết về nhau, được gặp lại.

Câu hỏi ấy cũng dành cho tất cả những ai từng một lần tới Trường Sơn nhưng trong sâu thẳm của trái tim vẫn dành một góc cho những người xẻ núi mở đường vào mặt trận ngày nào.
 
MANG CẢ TRƯỜNG SƠN VỀ NHÀ SỐ 4
Ngô Vĩnh Bình


Tôi về công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội 30 năm nay và có cái may mắn là được cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc với nhiều thế hệ nhà văn thuộc đủ các sắc lính, như: đặc công có ông thiếu tướng Dũng Hà, ông đại tá Chu Lai; thông tin có các ông đại tá Anh Ngọc, Hồng Diệu, Lê Thành Nghị; quân tiên phong có tướng Hồ Phương; hải quân có ông thượng tá Trần Đăng Khoa, ông đại tá Tô Nhuần; trinh sát có các ông đại tá Nguyễn Minh Châu, Khuất Quang Thuỵ; quân y có ông đại tá Nguyễn Khải; pháo binh có ông đại uý Ngô Thảo, tư pháp có ông đại uý Nguyễn Đình Tú; vốn là lính lái xe có các sĩ quan trẻ Đỗ Tiến Thuỵ, Phùng Văn Khai...

Với Bộ đội 559, với Bộ đội Trường Sơn thì thời nào cũng có, lúc nào cũng có thể gặp các nhà văn "từ trong rừng ra" nơi " nhà số 4" (trụ sở toà soạn Tạp chí Văn nghệ Quân đội ở số 4 phố Lý Nam Đế Hà Nội), mà là lính Trường Sơn thực sự chính hiệu.

Người mang Tây Nguyên - Trường Sơn ra Thủ đô giải phóng (1954) trước tiên là nhà văn Nguyên Ngọc. Bấy giờ ông là một anh chiến sĩ còn rất trẻ, mới 22 tuổi. Ra Bắc tập kết có chừng hai năm, ông cho trình làng luôn cuốn tiểu thuyết viết về Tây Nguyên nổi tiếng Đất nước đứng lên và được Tổng cục Chính trị điều liền về Văn nghệ Quân đội tham gia Ban biên tập đầu tiên của tạp chí này và tham dự Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ nhất với tư cách là hội viên sáng lập Hội (1957).

Cuốn Đất nước đứng lên với nhân vật Anh hùng Núp và dân làng Bông Hoa đã đem đến cho bạn đọc phương Bắc một cái nhìn mới về một Trường Sơn - Tây Nguyên hùng vĩ và bất khuất. Tiểu thuyết đã được nồng nhiệt đón nhận và sau đó được trao Giải thưởng Văn nghệ Vệt Nam (1954- 1955), được tái bản rất nhiều lần, dịch và xuất bản tại nhiều quốc gia, đưa vào văn tuyển trong nhà trường...

Trong lần vượt Trường Sơn trở lại chiến trường tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này, ông lại có Rừng xà nu (1969) - một tập truyện ký không chỉ mang hơi thở nóng bỏng của chiến trường Tây Nguyên mà còn có sức lay động, cổ vũ rất lớn đối với nhân dân miền Bắc, đặc biệt là lớp trẻ trong sự nghiệp " Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" lúc bấy giờ. Tập truyện Rừng xà nu sau khi xuất bản đã được tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có Giải Lotus của Hội Nhà văn Á Phi.

Đến bây giờ, Nguyên Ngọc vẫn được coi là nhà văn có những trang viết hay nhất về mảnh đất " mái nhà Đông Dương "và là một trong những chuyên gia hàng đầu về Trường Sơn Tây Nguyên của nước ta.

Nhà văn Xuân Thiều cũng là người có những trang viết đáng nhớ về miền đất này. Trước khi giữ cương vị Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội ông đã có nhiều năm tháng chiến đấu dọc Trường Sơn với tư cách là phóng viên mặt trận với bút danh Nguyễn Thiều Nam.
Thôn ven đường - tiểu thuyết; Chiến đấu trên mặt đường ký sự cùng các truyện dài truyện ngắn: Người quản tượng và con voi chiến sĩ, Chuyện làng Rapông, Truyền thuyết quần tiên ... là những tác phẩm xuất sắc viết về cuộc chiến đấu anh hùng của bộ đội và nhân dân ta trên tuyến đường huyền thoại Trường Sơn trong những năm ác liệt nhất. Những trang viết ấy ngời ngời lửa đạn, nhưng cũng đậm đặc chất thơ, nặng tình đồng đội, nặng nghiã đồng bào và chan chứa tình yêu đôi lứa.

Trong số này có những tác phẩm được trao Giải thưởng văn nghệ Giải phóng, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật; đồng thời cũng có những tác phẩm một thời bị coi là "có vấn đề" vì "dám" viết cả những chuyện thuộc về mặt trái của cuộc chiến tranh.

Có một vị tướng cùng thời với Nguyên Ngọc và Xuân Thiều viết ít nhưng kỹ tính trong văn chương là ông Nguyễn Chí Trung. Ông cũng là nhà văn "từ trong rừng ra”. Nói đến ông là người đọc nghĩ ngay tới Bức thư làng Mực viết năm 1969 và mới đây là Rừng khóc của Nàng út- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2008. Bức thư làng Mực như bài ca ca ngợi tinh thần chiến đấu hy sinh của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Tác phẩm được viết cùng năm với thiên tuỳ bút Đường chúng ta đi của Nguyên Ngọc. ông là nhà văn có gắn bó máu thịt với Trường Sơn, đặc biệt là miền đất Khu 5 kiên trung.
 
Nhưng nhà văn chính hiệu Trường Sơn - 559 lại là Đại tá - nhà văn Lê Lựu. ông nổi tiếng bởi các tiểu thuyết Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và nhiều cuốn sách khác viết về nông thôn Bắc Bộ ... nhưng người ta vẫn cứ bảo ông là nhà văn của 559 bới vì ông vào Trường Sơn từ những năm đầu của công cuộc mở đường-mở rừng. ông có tiểu thuyết Mở rừng viết về con đường huyền thoại này từ đầu những năm 70, thế kỷ XX, nhưng có lẽ cái "công” lớn của ông với Trường Sơn không chỉ là tác phẩm mà là ở chỗ đã quần tụ được rất nhiều nhà văn áo lính đến với miền đất này ngay từ những năm lửa khói.

Bấy giờ các lớp tập huấn viết văn do Bộ Tư lệnh Đoàn 559 và Tổng cục Chính trị thường được tổ chức "tại trận". Ở những lớp trai ấy Lê Lựu được cử làm người chủ trì, lo tất các khâu từ chọn học viên, chọn người lên lớp, tổ chức đi thực tế, chấm bài...Cho đến hôm nay đã 40 năm có lẻ qua đi rồi mà những người viết vẽ "đồng môn" hồi ấy gặp nhau vẫn tay bắt mặt mừng, vẫn khôn nguôi những kỷ niệm đẹp về Trường Sơn những năm lửa khói.

Hồi Lê Lựu còn công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, anh chị em viết văn, làm thơ, sáng tác bài hát, vẽ tranh về đề tài Trường Sơn từ các đơn vị địa phương vẫn thường hay lui tới phòng ông. Nhà văn Nguyễn Việt Phương, các hoạ sĩ Đức Dụ, Phạm Lực, các nhà thơ Trọng Khoát, Trần Nhương... ở Tổng cục Hậu cần tuần nào cũng có mặt. Nói lớn, đọc thơ cũng lớn, cười cũng lớn là Trọng Khoát, ông đại tá này không chỉ có nhiều thơ mà còn có cả một kho “tiếu lâm" về Trường Sơn. Nguyễn Việt Phương thì là một tổng kho tư liệu về con đường xuyên Việt vĩ đại này. Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cũng phải lặn lội tìm đến hỏi cụ.

Có những người không tham gia các trại viết, trại sáng tác Trường Sơn nhưng viết và vẽ nhiều viết và vẽ thành công về đề tài đường Trường Sơn, nổi danh vì những sáng tác về Trường Sơn cũng rất hay lui tới thăm Lê Lựu, lui tới "nhà số 4" để gặp gỡ nhau; trao đổi, thông tin cho nhau về đồng đội cũ, về Trường Sơn hôm nay, về những sáng tác mới của mình.

Trong số này có Phạm Tiến Duật - một "danh nhân Trường Sơn", một "con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại", một nhà thơ của Bộ đội Trường Sơn mà ai cũng biết, ông không phải là người có biên chế ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhưng anh em ở tờ tạp chí này luôn coi ông như người nhà giống y như nhà văn Đỗ Chu vậy ông được bạn đọc biết tới sau khi đoạt giải Nhất cuộc thi thơ do báo Văn nghệ tổ chức năm 1969 với chùm thơ viết về Trường Sơn: Lửa đèn, Nhớ, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em cô thanh niên xung phong, sau đó là các tập thơ Vầng trăng quầng lửa (1970), Thơ một chặng đường (1971 ) ...

Thơ ông là cả một Trường Sơn thu nhỏ với những anh bộ đội lái xe vui tính, những chiến sĩ công binh mở đường quả cảm, những cô gái thanh niên xung phong hồn nhiên tinh nghịch ...; những "vùng rừng không dân" với rất nhiều hoa thơm cỏ lạ, rất nhiều chim thú quý và nhiều hơn cả là lửa khói đạn bom. Với những bài thơ về Trường Sơn những năm chiến tranh vừa hiện thực sinh động vừa lãng mạn, có cả "quầng lửa" có cả "vầng trăng”, có bom rơi, có máu đổ nhưng cũng có anh có em, có trai có gái, có "nhìn nhau mặt lấm cười ha ha", có "khăn xanh khăn xanh phơi đầy nắng sớm”.

Phạm Tiến Duật đã trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong thế hệ các nhà thơ thời chống Mỹ và như thế đương nhiên ông là nhà thơ tiêu biểu nhất của Bộ đội Trường Sơn, bộ đội đường dây 559.

Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, người cũng có nhiều bài thơ hay viết về Trường Sơn nói chính anh Duật là người đầu tiên đã đưa được cả Trường Sơn vào thơ, về thành phố, về Hà Nội, về nhà số 4. Có những khi vui chuyện, anh Duật nói, không có những năm ở Trường Sơn, không có Quật.

Lại có nhà phê bình văn học khen thơ ông, cám ơn ông; nói chính ông và các nhà thơ thế hệ các ông đã làm nên một thời đại trong thơ ca Việt Nam. Nghe vậy Phạm Tiến Duật cười kể lại một câu chuyện vui ông bảo, khi nghe bài thơ Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây (được Hoàng Hiệp phổ nhạc thành bài hát cùng tên nổi tiếng) có người bảo cảm ơn mình vì câu thơ "muỗi bay rừng già cho dài tay áo", mình cười "ô hay, sao lại cảm ơn Duật, phải cảm ơn muỗi chứ!".

Cho đến hôm nay bài hát Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây cùng với các bài hát Lá đỏ (Hoàng Hiệp phổ thơ Nguyễn Đình Thi ), Đêm Trường Sơn nhớ Bác (Trần Chung phổ thơ Nguyễn Trung Thu), Bài ca Trường Sơn (Trần Chung phổ thơ Gia Dũng) ... vẫn là những bài ca về Trường Sơn hay nhất, sống mãi với thời gian.
 
Tác giả bài thơ Bài ca Trường Sơn - nhà thơ Gia Dũng cũng là người của "nhà số 4". Ông vốn là lính Sư đoàn 312 anh hùng nhiều năm có mặt ở Trường Sơn, ông viết bài thơ Bài ca Trường Sơn với những câu đầy lãng mạn cách mạng: Trường Sơn ơi / Nơi mà ta qua không một dấu chân người / Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác / Dừng ở lưng đèo mà nghe suối hát / Ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi ...

Những câu thơ bây giờ đọc lại có người tỏ ra nghi ngờ, sao lại "đường ra trận mùa này đẹp lắm"?, đi chiến đấu chứ đi trẩy hội đâu mà “ngắt một đoá hoa rừng cài lên mũ ta đi"?, nhưng ở vào thời điểm cả dân tộc "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / mà lòng phơi phới dậy tương lai" (Tố Hữu), hoặc như “có những ngày vui sao / cả nước lên đường” với những "tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu” (Chính Hữu) là một sự thật.

Vì thế, bài thơ Bài ca Trường Sơn của Gia Dũng vừa mới ra đời đã được nhạc sĩ Trần Chung phổ nhạc và nhanh chóng trở thành bài hát có sức lay động, cổ vũ hàng triệu con tim tuổi trẻ nâng bước họ lên đường chiến đấu. Với thanh niên Việt Nam những năm tháng ấy, câu thơ của Tố Hữu: Trường Sơn đông nắng tây mưa / Ai chưa đến đó như chưa rõ mình là thơ mà cũng là lời hiệu triệu, là lời của nước non kêu gọi người người lên đường đuổi giặc.

Nhà thơ Nguyễn Trung Thu tác giả phần lời bài hát Đêm Trường Sơn nhớ Bác cũng là người hay lui tới trụ sở Tạp chí Văn nghệ quân đội để gặp gỡ những đồng đội viết văn, làm thơ ở Trường Sơn năm nào, bởi ông cũng là một nhà thơ áo lính. Rời Trường Đại học Tổng hợp lên đường nhập ngũ, ông vượt Trường Sơn vào chiến đấu ở chiến trường B.

Một đêm nghỉ lại giữa đại ngàn cùng trăng sao, cùng tiếng suối chảy, cùng tiếng hát văng vẳng, ông chợt nhớ tới Bác Hồ - vị cha già dân tộc năm nào nơi núi rừng Việt Bắc... và trong ông bật lên thành thơ: Đêm Trường Sơn / Chúng cháu nhìn trăng nhìn cây / Cảnh về khuya như vẽ / Bâng khuâng chúng cháu nghĩ / Bác như đã đến nơi này/ ơi đêm Trường Sơn/ nghe tiếng suối trong như tiếng hát xa / Mà ngỡ như từ Pác Bó suối về đây ngân nga / âm vang Trường Sơn, âm vang Trường Sơn / Đường Trường Sơn mang bóng hình của Bác / Đường Trường Sơn chúng cháu dồn chân bước / Con đường của Bác mới đi qua...

Bài thơ hoàn thành ngay sáng hôm sau khi ông và đồng đội tiếp tục cuộc hành quân đánh giặc. Bài thơ là tấm lòng thành kính, là lời hứa của những người lính với Bác nguyện mãi mãi đi theo con đường mà Bác đã vạch ra – con đường "Không có gì quý hơn độc lập tự do", "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giữ cho được độc lập tự do”. Sau khi được phổ nhạc, sức lan toả cả bài thơ càng được lan rộng đến bây giờ, "Đêm Trường Sơn nhớ Bác" vẫn là một trong những khúc ca hay nhất viết về tình cảm của người lính nói chung, của Bộ đội Trường Sơn nói riêng đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu.

Nói về những người lính, những nhà văn đã mang cả Trường Sơn về thành phố, về với Thủ đô với ngôi nhà số 4 còn phải kể đến nhiều tên tuổi khác. Đó là Chính Hữu với những Ngọn đèn đứng gác, Nguyễn Minh Châu với những Dấu chân người lính, Những người đi từ trong rừng ra, Những cánh rừng đầy giấy bay; Nguyễn Khải với Tháng ba ở Tây Nguyên, Khuất Quang Thụy với Trong cơn gió lốc. rồi Trung Trung Đỉnh với cuộc Lạc rừng. Đó là những tác phẩm xuất sắc viết về Tây Nguyên - Trường Sơn của các nhà văn áo lính. Những tác phẩm mà nói đến con đường huyền thoại Trường Sơn, nói đến một thời "Xẻ dọc Trường Sơn” của dân tộc ta mà người đời sau sẽ không thể không nhắc tới.
 
Đường Trường Sơn, Bộ đội 559 trong chiến tranh đã về thành phố theo những trang sách, những bài ca như thế. Đường Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh và cả Tây Nguyên hôm nay cũng về thành phố, về Thủ đô cùng những bài ca, những trang văn ngày nối ngày. Viết về bộ đội làm kinh tế ở Tây Nguyên, Nguyên Bảo có tiểu thuyết Giám định của đất, nhà văn trẻ Đỗ Tiến Thuỵ có tiểu thuyết Màu rừng ruộng; viết về vùng kinh tế mới nơi đây, Nguyễn Trí Huân có tập truyện ngắn Cao nguyên không xa xôi... và nhiều nữa. Đặc biệt là những trang viết của Nam Hà và Nguyễn Hữu Quý.

Ngay từ khi ta làm đường lớn - đại lộ Hồ Chí Minh và đường dây tải điện 500 kv, nhà văn Nam Hà - tác giả của những câu thơ bất hủ Đất nước của những người con gái con trai / Đẹp như hoa hồng cứng hơn sắt thép / Xa nhau không hề rơi nước mắt / Nước mắt chỉ dành cho ngày gặp mặt " đã khoác ba lô, bắt xe tải cùng những người thợ đường dây vượt Trường Sơn một lần nữa để có tập bút ký 500 trang mang tên Dặm dài đất nước. Cuốn sách được Hội Nhà văn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng Giải thưởng cao, được Thủ tướng Võ Văn Kiệt khen ngợi và ký lệnh cấp cho một chiếc xe ô tô con. Chiếc xe này hiện anh em phóng viên Tạp chí Văn nghệ quân đội vẫn đang sử dụng

Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý hiện là Đại tá -Trưởng ban Thơ của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhưng ông vốn sinh ra ở vùng gió Lào cát trắng dưới chân dãy Trường Sơn và là lính của Binh đoàn 12- Bộ đội Trường Sơn. Những bài thơ đầu tiên của ông là những bài viết về Trường Sơn và ông được mọi người biết đến cũng là nhờ những bài thơ này, trong đó nổi nhất là bài Khát vọng Trường Sơn viết dâng hương hồn 10.000 liệt sĩ đang nằm lại Nghiã trang Trường Sơn với những câu: Mười nghìn Trường Sơn trong một Trường Sơn / Mười nghìn bài ca trong bài ca lớn / Mười nghìn cái tên đêm đêm mẹ nhắc /Mười nghìn giấc mơ của mẹ chờ ta /Mười nghìn con đò thương về bến đợi / Mười nghìn hạt giống chưa về phù sa... Bài thơ được trao giải cao nhất trong cuộc thi thơ do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức (1996) và được 3 nhạc sĩ (Phạm Tuyên, Võ Thế Hùng, Văn Chừng ) phổ nhạc thành ba bài hát cùng tên.

Ngoài ba bài hát này, bài Trường Sơn tóc dài của nhạc sĩ Trương Tuyết Mai cũng là bài phổ thơ Nguyễn Hữu Quý. Hơn 30 năm khoác áo quân nhân, trong đó có gần 20 năm là lính Trường Sơn những trang viết của anh (cả thơ, bút ký, truyện ngắn) dường như trang nào dòng nào cũng in đậm chất Trường Sơn, dấu ấn Trường Sơn.

Năm nay - 2009, Kỷ niệm 50 năm Đường Trường Sơn huyền thoại Nguyễn Hữu Quý lại vừa hoàn thành tập trường ca Vạn lý Trường Sơn. Anh tiết lộ, tập trường ca mới của anh không chỉ là "Một nghìn, một vạn Trường Sơn trong một Trường Sơn mà còn có cả máu và nước mắt của nhiều thế hệ chiến sĩ Trường Sơn nửa thế kỷ qua”... Và như thế, tôi nói: nếu như nói Phạm Tiến Duật là nhà thơ của Trường Sơn hôm qua thì cũng có thể nói Nguyễn Hữu Quý là nhà thơ của Trường Sơn hôm nay.

1959 - 2009, 50 năm Trường Sơn cũng là chẵn 50 năm có một đề tài Trường Sơn hiện hữu sáng ngời trong văn học, có một đội ngũ các nhà văn áo lính thế hệ sau nối thế hệ trước tâm huyết với đất và người Trường Sơn, gắn bó máu thịt với những trang viết về chiến tranh cách mạng và người lính. Đội ngũ nhà văn ấy, những trang viết ấy không chỉ góp phần làm phong phú thêm mà còn tạo nên nét độc đáo của văn học Việt Nam hiện đại.
 
NHỮNG CHỚP SÁNG KÝ ỨC TRƯỜNG SƠN
Thanh Thản


Mỗi người lính đã đi qua Trường Sơn đều có một Trường Sơn của riêng mình. Với những người đã nằm xuống thì đành một nhẽ. Nhưng với những người còn sống, tới bây giờ những đỉnh cao Trường Sơn vẫn còn in đậm trong ký ức. Thỉnh thoảng những chớp sáng ký ức lại rực lên...


1

Cự Nẫm, cái tên đã vang lên trong bài hát vượt thời gian của Nguyễn Văn Thương "Bình Trị Thiên khói lửa", là tên của một ngôi làng nhỏ, rất dễ bị lãng quên nếu nó không nằm trên trục đường giao liên, nếu nó không từng là "bệ phóng” cho những đoàn quân lên Trường Sơn.
Làng ấy, như bàn tay của người mẹ vuốt lên tóc con ngày con lên đường ra trận, như cái vẫy tay cuối cùng của đất Quảng Bình tiễn những đoàn quân lên đường 559. Cái làng ấy, cũng là nơi lính ta đã đặt ra biết bao chuyện tiếu lâm mà nhân vật chính là "bọ”, với vô số những đối thoại cười ra nước mắt của "bọ" và các con lính.

Ai đi qua Trường Sơn mà chẳng đã ngủ một đêm cuối cùng trên đất Bắc, đêm cuối ở hậu phương tại ngôi làng ấy. Nghe nói, bây giờ, sau chiến tranh ngót một phần ba thế kỷ, mà ngôi làng vẫn nghèo như thuở ấy, dân làng vẫn khổ như xưa. Có lẽ nói "như xưa” là chưa chính xác, đứng ra, phải nói là "khổ hơn xưa”, vì "ngày xưa” ấy, ngày nào làng cũng đón các đoàn quân ghé lại trước khi lên Trường Sơn, và những người lính với những ba-lô nặng trĩu lương thực, đã san sẻ bớt cho bà con trong làng những gạo, sữa bột ngọt, lương khô... một phần vì tình cảm quân dân, một phần để cho ba-lô bớt... nặng, trước khi vào cuộc đi bộ leo núi dài ngày.

Chiều ba mươi Tết năm ấy, chúng tôi đã có cuộc "liên hoan” cuối cùng với các bọ, các mẹ trong làng, gọi là "ăn Tết trước", kịp để 6 giờ chiều là lên đường. Thực đơn bữa liên hoan gồm có bánh kẹo, lương khô 701, chè Ba Đình, thuốc lá Điện Biên, được coi là một "thực đơn" vào hạng sang lúc bấy giờ. Tôi nhớ cái màu trời chiều 30 Tết, nhớ những mái nhà lợp lá gồi, lợp tranh nhỏ thấp, nhớ những mẹ già cũng thấp nhỏ dưới khung trời xám, nhớ cái không khí cuối cùng của đất Bắc mà chúng tôi sẽ không còn được thấy nữa vào đúng sáu giờ tối 30 Tết.

Bây giờ, sau ngót 40 năm, tôi vẫn chưa có dịp nào quay trở lại Cự Nẫm, càng khó hơn nếu quay lại đúng chiều 30 Tết. Hàng triệu người lính đã qua ngôi làng ấy, đã ngủ một đêm cuối cùng ở đó trước khi vượt Trường Sơn, mấy ai trong số họ quay trở lại nơi ấy được một lần nữa? Và những mái nhà tranh thấp nhỏ đã từng đón hàng chục vạn người lính qua đêm, võng mắc chéo hai tầng, những ngôi nhà ấy vẫn thấp bé mãi vậy sao?


2

Những tiếng súng mừng xuân nổ trước hang đá. Vòm hang âm u giữ lại rất lâu những âm thanh đột ngột trong buổi sớm đầy sương. Trạm 5. Đất Lào. Tỉnh Tà-ven-oọc (Mặt trời mọc). Những chàng trai trẻ măng lố ngố. Những cô gái trẻ măng cười thật tươi, dù mới nín khóc" (trích nhật ký).

Sáng mùng một Tết, không có pháo đốt, chúng tôi đã bắn mấy phát súng mừng xuân. Trước khi hành quân, chúng tôi đã có 15 phút để ăn Tết trên Trường Sơn với đủ cả khóc cười. Khóc nhớ nhà và cười vui như trong một cuộc dã ngoại. Chúng tôi đâu biết những gì sẽ chờ mình phía trước. Nhưng đời là vậy, cứ còn sống là còn khóc còn cười. Dù chiến tranh có bộ mặt đáng sợ như thế nào, chẳng bao giờ nó dập tắt hết được những tiếng khóc và những nụ cười.

Kể từ bước chân mở lối đầu tiên của đoàn quân ông Võ Bẩm, khai sinh con đường 559, đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng, nơi vết bàn chân người lính ăn lõm đá, nơi cái chết đồng hành hàng ngày cùng cái sống, nơi những nấm mộ mọc lên như những cọc tiêu chỉ đường, thì tôi vẫn thấy suốt 2 nghìn cây số ấy, những giọt nước mắt và những nụ cười.

Có lúc người ta chỉ viết về những nụ cười mà quên hoặc cố né tránh những giọt nước mắt. Có lúc, người ta lại chỉ viết về những giọt nước mắt mà không biết sự có mặt của những nụ cười. Tôi cũng đã từng ngạc nhiên: sao ở Trường Sơn mà vẫn còn những kẻ ác, những tên cơ hội, những thằng hèn? Đó là cái ngạc nhiên của người chưa trưởng thành, ở đâu mà chẳng có những người hiền kẻ ác, can đảm và hèn nhát, trung thực và cơ hội? Trường Sơn cũng là một mảng của cuộc đời này, dù là một mảng đặc biệt.
 
Tôi không thể quên một vụ "hạ cờ tây" (thịt cầy tơ) dọc đường. Chúng tôi xé một nửa chiếc chăn mỏng đổi cho đồng bào Khơ me lấy một chú vện. Một tiểu đội trưởng được miễn mang ba lô để ôm chú vện. Đến trạm đã 7 giờ tối. Trong chốc lát triển khai xong kế hoạch. Tôi được phân công gác máy bay. Một cậu nữa gác trạm (gác “đằng mình"). Bộ phận chủ công thịt cầy dưới lòng suối cạn. Phải che kín ngọn lửa, đề phòng máy bay địch và các đồng chí trong trạm phát hiện.

Hơn nửa giờ sau, mọi việc đã hoàn tất. Có cả dồi, nướng, luộc. Có cả thứ rau rừng thơm mùi húng quế. Có cả bi-đông rượu "đồng bào” hơi nhạt nhưng cũng gây được không khí. Chúng tôi hể hả liên hoan". (trích nhật ký). Từ hơn hai chục năm nay, tôi tuyệt đối không ăn thịt chó, nhưng phải thú thật bữa "hạ cờ tây” trên Trường Sơn năm ấy là bữa liên hoan ngoại hạng, ngon nhất mà tôi được ăn từ trước đến nay. Ngon và vui.

Anh đã bao giờ thấy một đàn công rực rỡ bảy màu đột ngột bay lên trước mắt mình? Anh đã thấy một cánh rừng đầy những giò hoa phong lan nở thơm ngát? Anh đã thấy... Nếu không gặp những cái đẹp nho nhỏ những niềm vui nho nhỏ như thế, làm sao chúng tôi đi qua được Trường Sơn.


4

“Buổi sáng ấy tôi bước vào tuổi 25
Ở đường dây 559 - trạm 73
ngày sinh nhật bắt đầu bằng cơn sốt
cổ đắng khô ngồi thở trên đỉnh dốc
bạn mở bi-đông nhường hớp nước cuối cùng
hớp nước cuối cùng giữa cơn sốt đầu tiên
ngày sinh nhật tuổi 25 mình được uống"
(Trích “Những người đi tới biển")

Rất ít khi tôi nhớ ngày sinh nhật của mình, càng không bao giờ tổ chức lễ sinh nhật. Nhưng ngày sinh lần thứ 25 giữa rừng Trường Sơn, với cơn sốt rét đầu tiên, với hớp nước cuối cùng bạn tôi nhường cho trong cơn khát hoa mắt... là những gì tôi cứ phải nhớ mãi. Với tôi, có được một "lễ sinh nhật” như thế là đủ cho cả một đời.


5

Mỗi người lính đã đi qua Trường Sơn đều có một Trường Sơn của riêng mình. Với những người đã nằm xuống thì đành một nhẽ. Nhưng với những người còn sống tới bây giờ, thì thỉnh thoảng, Trường Sơn lại sừng sững hiện lên trước họ như một thách thức. Lại phải leo dốc. Lại chinh phục những đỉnh cao của riêng mình. Lại khóc và lại cười. Đôi khi lại nghe thoang thoảng hương hoa phong lan. Và có lúc nào, trong giấc mơ, được trở lại con đường mòn ấy, thấy hiện trước mắt, không phải một con gấu ngựa, mà rực rỡ cả một đàn công bay lên với đủ bảy màu ...
 
ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH XUYÊN LÒNG ĐẤT
Tuấn Phùng


Đi qua "tam giác lửa"

“Nếu mọi người gọi đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn là một huyền thoại thì công trình đường ống dẫn xăng dầu vượt Trường Sơn là huyền thoại trong huyền thoại đó". Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên - nguyên Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn - đánh giá như vậy về công trình đường ống vượt Trường Sơn đưa xăng dầu vào chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong vòng sáu năm (6/1968 đến 2/1975), những người lính xăng dầu đã làm nên một "đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất” dài gần 5.000KM từ biên giới Việt - Trung vào Bình Phước. Một huyền thoại lịch sử đã được ghi. Huyền thoại về những người đã lập nên kỳ tích và về những người đã ngã xuống để đường ống xăng dầu thông suốt vào Nam. .

Đối xăng bằng máu

Cuối tháng 3/1968, Mỹ tăng cường ném bom nhằm chặt đứt giao thông ở các tỉnh khu IV để băm nát "khu vực cán xoong" từ vĩ tuyến 19 trở vào. Đặc biệt, ba trọng điểm phà Bến Thủy - Nam Đàn - Linh Cảm bị đánh bom triền miên tạo thành một "tam giác lửa" ngăn chặn vận chuyển từ miền Bắc vào. Ngã ba Đồng Lộc cũng bị ném bom cày đi xới lại tạo thành điểm tắc, xe vận tải, xe chở xăng khó lòng qua lọt.
Chiến sĩ đưa xăng qua suối: các đoạn ống cao su nối nhau bị thiếu nên phải dùng ống lồ ô khoét rỗng để nối vào .

Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên vẫn nhớ như in những ngày đứng ngồi không yên vì xe không vượt qua được tuyến lửa để vào Trường Sơn:
"Lúc này ở Trường Sơn, gần nửa tháng Đoàn 559 không còn xăng cho cơ giới hoạt động, kế hoạch vận tải cho mùa khô có nguy cơ bị trì hoãn. Có lúc cả ngàn xe vận tải nằm chờ. Thiếu xăng nên đạn, lương thực, quân nhu không vào được chiến trường. Thiếu gạo, thiếu muối, khẩu phần ăn của chiến sĩ chỉ còn 4 lạng gạo/ngày, có khi chỉ còn 2 lạng".

Lúc này, ở phía trong "tam giác lửa”, Binh trạm 12 nhận lệnh phải bằng mọi giá đưa nốt số xăng dầu còn lại vượt Trường Sơn giao cho Đoàn 559.

Tuy nhiên, tại cửa khẩu Binh trạm 12 (Tuyên Hóa, (Quảng Bình), đoạn ngã ba Khe Ve đến đèo La Trọng bị bom dội làm đất đá trên núi trút xuống tạo thành một đỉnh lầy hàng km. Đã có tám chiến sĩ mất bàn chân do vấp phải các loại mìn lá, mìn gíp... lẫn trong bãi lầy khi cõng hàng qua đó.

Lực lượng công binh phải dùng mìn định hướng, bộc phá nhằm thổi bay bùn đất nhưng tốn hàng tấn thuốc nổ mà bãi lầy vẫn không di chuyển, xe không thể qua. Binh trạm phải bơm xăng vào phi 200 lít rồi cho 4 chiến sĩ khiêng qua bãi lầy.

Nhưng 3 tốp chiến sĩ (12 người) suốt một ngày chỉ khiêng được 15 phuy. Ròng rã hai ngày, binh rạm giao đủ hai xe xăng cho Đoàn 559 nhưng tổn thất nặng nề: một chiến sĩ trượt chân rớt xuống vực, hai chiến sĩ trúng mìn hy sinh.

Không khuất phục, cả binh trạm tiến hành gùi xăng vượt bùn. Xăng được bọc trong 4.000 túi nilông (20 lít/túi) rồi cho vào ba lô để từng người cõng qua trọng điểm. Sau một ngày cõng xăng chân bì bõm lội bùn, đầu hứng đạn chịu bom, 500 chiến sĩ cũng chỉ vận chuyển được 10m3 xăng (đủ hai xe xitec) nhưng 40 chiến sĩ đã bị rộp lưng, bỏng da vì xăng làm giòn túi nilông thấm qua ba lô ướt đẫm cả áo, ngấm vào da thịt.
 
“Một số chiến sĩ gùi xăng bị bỏng rộp da quá nặng, nhiễm độc chì nên hi sinh. Vì vậy Binh trạm trưởng Nguyễn Đàm đã bàn với chúng tôi làm đường ống dẫn xăng qua núi" - đại tá Lưu Vĩnh Cường (nguyên kỹ sư xây dựng kho chứa xăng cho Binh trạm 12 lúc bấy giờ) cho biết về đường ống tự tạo "đặc biệt".

Tôn cuốn, các đoạn ống cao su nối với nhau vẫn thiếu 100M nên phải dùng ống lồ ô khoét rỗng nối vào. Máy bơm đẩy xăng từ sườn phía bắc theo đường ống lên bể chứa (làm bằng phuy 200 lít đặt trên đỉnh đèo) rồi cho xăng tự chảy xuống. Trong vòng hai tháng "đường ống” này đưa được khá nhiều xăng vào phía trong nhưng luôn xảy ra trục trặc vì sau một tuần những đoạn lồ ô bị xăng làm teo tóp lại làm trật điểm nối khiến xăng thất thoát nhiều.

Cũng trong thời gian này, Binh trạm 14 cũng không thể đưa hàng và xăng vào chiến trường. Ngoài các đoạn đường hiểm yếu, cửa khẩu Trà Ang (km 12 và km 16 đường 20) mỗi ngày hứng 30-40 trận bom khiến đường đứt đoạn, xe không thể qua. Binh trạm đã kết các phuy xăng thành bè để thả xuôi sông Nậy, chống ngược sông Son.

Nhưng bè xăng trúng thủy lôi, xăng và máu chiến sĩ loang lổ khắp sông, ba ngày sau vẫn chưa tìm vớt hết thi hài liệt sĩ. Các tổ chuyển tải được lập để kéo từng phuy xăng ngược suối Trà Ang.

Đêm đầu, đối phương ném bom trúng hai phuy xăng khiến ngọn lửa trùm lên cả đoạn suối chụp xuống đội quân chuyển tải, 20 phuy xăng được kéo qua trọng điểm nhưng có chín chiến sĩ hi sinh. Đêm thứ hai kéo được 30 phuy lại thêm 29 người ngã xuống lòng khe. Nước suối Trà Ang thêm một lần đượm máu và xăng.

Kéo ống vượt sông

Ở tuổi 84, đại tá Phan Tử Quang (nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu đầu tiên của quân đội người nhận trách nhiệm xây dựng tuyến đường ống) vẫn nhớ rõ nhiệm vụ mang tính lịch sử từ Quân ủy Trung ương giao phó cho Cục Xăng dầu vừa mới thành lập: làm đường ống vượt Trường Sơn.

Đại tá Quang nhớ lại: "Theo nhận định của Quân ủy Trung ương, đối phương sẽ đánh phá ác liệt các cửa khẩu của hậu phương vận chuyển hàng vào cho đoàn 559. Quân ủy Trung ương đã đồng ý đưa đường ống vào làm tuyến từ Khe Ve vượt đèo Mụ Giạ (Quảng Bình) xuyên qua tây Trường Sơn xuống Lùm Bùm (Lào) để tiếp cận Đường 9 tạo điều kiện thuận lợi cho Đoàn 559 vận tải vào Nam".

Ngày 12/4/1968, 12 cán bộ, chiến sĩ của đoàn khảo sát tuyến đường từ Khe Ve theo đường 12 qua đèo Mụ Giạ sang Lùm Bùm do đại úy Trần Xanh (đang là Phó phòng xăng dầu) làm trưởng đoàn lên đường làm nhiệm vụ.

Đại tá Quang kể: "Nhưng lúc đó các xe chở xăng không thể vượt qua được "tam giác lửa" để chuyển cho Đoàn 559. Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện cử tôi sang báo cáo tình hình với Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp.

Sau khì nghe báo cáo, Đại tướng chỉ thị: "Phải đảm bảo xăng dầu cho Đoàn 559 hoạt động. Đồng ý với phương án của các anh, trước mắt làm đường ống vượt các trọng điểm đánh phá, nhưng sau đó phải làm ngay đường ống vượt Trường Sơn vào càng sâu càng tốt".

Vì vậy đội khảo sát thứ hai do Hoàng Ngọc Minh dẫn đầu tiếp tục đi khảo sát từ Thiệu Dương (Thanh Hóa) vào Nam Đàn, Linh Cảm qua Hương Khê (Hà Tĩnh) vào giáp đoạn đoàn của Trần Xanh đang khảo sát. Công trường 18 được thành lập do Mai Trọng Phước (đang là thiếu tá chủ nhiệm khoa xăng xe vận tải của Trường Sĩ quan hậu cần, sau này là Cục trưởng Cục Xăng dầu) làm đoàn trưởng, thiếu tá Hoàng Sùng làm Chính ủy chuẩn bi vào Nghệ An làm đường ống vượt "tam giác lửa".

Đêm 12/6/1968, hơn 400 người của công trường 18 trong đó có 240 cán bộ, công nhân của Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Thủy lợi, Công ty Gang thép Thái Nguyên, công nhân Xây dựng khu nam Hà Nội) rời Hà Nội hành quân vào Nam Đàn.

Khúc sông Lam nằm giữa bến đò Vạn Rú (xã Nam Đông, nay là Khánh Sơn, Nam Đàn) cách trọng điểm Rú Trét 500m (còn gọi là Rú Chết do kẻ thù đánh phá quá ác liệt) được chọn làm điểm thi công tuyến đường ống đầu tiên.
 
Đúng 21g, hiệu lệnh vượt sông bắt đầu.

Mai Trọng Phước - chỉ huy lực lượng công trường 18 cùng dân quân xã Nam Đông kéo ống phía bờ nam. Phía bờ bắc, lực lượng do Trần Xanh chỉ huy nối ba ống vào nhau, đầu ống lắp cút chữ T để buộc dây. Đến 5h sáng ngày 23/6/1968, 500m đường ống đầu tiên đã vượt sông an toàn. Từ đây, đường ống tiếp tục vượt sông La (Hà Tĩnh) vào Nga Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh).

Ngày 10/8/1968, tuyến đường ống 42 km vượt "tam giác lửa" hoàn thành. Dòng xăng từ kho Đại kho N 1 (Nam Thanh, Nam Đàn) bơm vào kho N2 (Nga Lộc). Chai xăng đầu tiên của dòng xăng đi qua "tam giác lửa” được chuyển ra Tổng cục Hậu cần để báo cáo.

Một kỷ niệm đáng nhớ của cán bộ, chiến sĩ làm tuyến đường ống này là quá trình đào hào đặt ống đều phải làm đêm để che mắt máy bay đối phương nên rất khó chôn ống, tiến độ thi công bị chậm. Đại tá Mai Trọng Phước kể:

“Chúng tôi thấy người dân vẫn làm đồng bình thường mà không bị máy bay ném bom. Khi hỏi, bà con cho biết là đối phương rải truyền đơn bảo dân cứ làm ruộng bình thường, đừng cho bộ đội vào thì nó không đánh. Vì vậy, bộ đội cũng mặc áo tơi, đội nón làm nông dân đào rãnh qua đồng ruộng ban ngày, tối chôn ống. Để bảo đảm bí mật, chúng tôi thông báo với bà con là đặt ống làm thủy lợi dẫn nước sông vào chống hạn cho đồng ruộng phía trong".

Ngoài ra, ban ngày các chiến sĩ nhờ người dân dùng trâu kéo cày theo tuyến để tạo rãnh sâu, đêm đến đào hào chôn ống.

Dòng xăng vượt Trường Sơn

Theo kế hoạch, đường ống từ Ka Vạt (Lào) sẽ đi đến Lùm Bùm vào Đường 9 nhưng đây là con đường vòng cung có cự ly xa. Vì vậy, Tổng cục Hậu cần yêu cầu làm đường ống từ Long Đại (Qủang Bình) theo đường 18 vòng sang Lào để xuống Đường 9.

Ngoài những khó khăn do thiên nhiên gây ra, bộ đội đường ống phải chống lại sự đánh phá khốc liệt của đối phương. Để bảo vệ đường ống, mồ hôi, máu của các chiến sĩ phải đổ nhiều hơn.

Vượt “tam giác lửa" thành công, một bộ phận của công trường 18 tiếp tục dẫn ống vào Hương Khê (Hà Tĩnh) hướng tới Khe Ve (Quảng Bình). Tuy nhiên, lúc này không lực Mỹ lại tăng cường đánh phá các cửa khẩu từ Quảng Bình sang Lào, đặc biệt là các trọng điểm cua chữ A, Ta Lê, Phulanhic...

"Tổng cục Hậu cần yêu cầu thi công nhanh đoạn đường ống vượt đèo Mụ Giạ sang Na Tông (Khăm Muộn, Lào) để đảm bảo xăng cho chiến dịch vận tải nước rút của Đoàn 559. Chúng tôi bàn giao phần việc đang làm cho bộ phận khác, khẩn trương vào Quảng Bình để làm đoạn đường ống từ Cổng Trời vượt qua đèo Mụ Giạ xuống Na Tông” - đại tá Mai Trọng Phước (Chủ nhiệm khoa xăng xe vận tải của Trường Sĩ quan hậu cần, sau này là Cục trưởng Cục Xăng dầu) cho biết.
 
Vượt núi

Giữa tháng 12/1968 tuyến ống hoàn thành, kho Na Tông (500m3) được xây dựng xong nhưng lúc vận hành thử rửa đường ống bằng nước lại không bơm lên được đỉnh đèo Mụ Giạ cao 700m. Lúc đó các chiến sĩ không có kinh nghiệm nên đặt hai máy bơm cùng một chỗ, đến lúc tách hai máy để bơm nối tiếp thì bơm được lên đỉnh đèo.

Cuối tháng 12/1969, đường ống đang bơm vào kho Na Tông thì bất ngờ từng loạt bom từ B52 trút xuống đoạn đường vận tải và kho hàng của đoàn 559 tại trọng điểm.

Vệt bom cắt ngang đường ôtô đã làm vỡ đường ống bám dọc bên đường. Những ngày sau B52 tiếp tục đánh phá đêm ngày không dứt. Đơn vị công binh bạt hàng trăm khối đá tạo thành đường hào 10 km để chôn ống nhưng bom đạn vẫn bóc từng lớp núi đá nghiền thành lớp bột dày.

Đại tá Mai Trọng Phước kể: "Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện gọi tôi ra Hà Nội báo cáo tình hình. Cuối cùng một tuyến đường tránh được làm cách điểm bị đánh chừng 1 km. Nhưng chúng tôi vẫn phải khắc phục như thật trên tuyến bị địch đánh phá để đánh lừa địch.

Lúc nào bị đánh thì đốt các phuy xăng dầu cho chúng tập trung lại thả bom để tuyến tránh vận hành. Vì vây, xăng đã kịp vào kho Na Tông phục vụ đợt vận tải đột kích của Đoàn 559. Đến đêm giao thừa năm Kỷ Dậu xăng vẫn còn đầy kho để chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo. Đợt bom này giúp chúng tôi rút bài học là không được làm đường ống cạnh đường ô tô để khỏi bị đánh lây".

Ngày 3/3/1969, tuyến đường ống đầu tiên vượt Trường Sơn dài 350 km đã nồi thông từ Vinh - Cổng Trời - Na Tông tới kho Ka Vat (Lào). Sáu ngày sau, 4 tiểu đoàn đường ống lần đầu tiên đã vận hành thông suốt dòng xăng từ miền Bắc đến Ka Vat đảm bảo xăng dầu kịp thời cho 5.000 xe của Đoàn 559 tiếp tục đợt vận tải đột kích mùa khô 1968-1969. Từ đây, xe chở xăng dầu của các binh trạm không phải qua trọng điểm để lấy xăng nữa.

“Ở tuyến đường ống đầu tiên, chúng ta có được kinh nghiệm vượt sông, vượt núi. Đây là những kinh nghiệm quí báu để thi công những tuyến sau này thuận lợi hơn", đại tá Phan Tử Quang (nguyên Cục trưởng Cục Xăng dầu đầu tiên của quân đội người nhận trách nhiệm xây dựng tuyến đường ống) nói.

Mồ hôi và máu

Theo đại tá Mai Trọng Phước, phương án làm đường ống xuyên từ phía đông sang tây Trường Sơn theo trục đường ngang thứ năm (đường 18) được tiến hành theo hướng từ Long Đại vào Cẩm Ly (Lệ Thủy, Quảng Bình) rồi vượt các đèo cao 400m, 700m, 900m đến bản Ra Mai gần sông Sê Băng Hiếng (Lào) đi tiếp vào bản Cò (Sa Va Na Khét, Lào) xuống Đường 9.

Tuy nhiên, sau một thời gian vận hành được 200 tấn xăng vào kho Ra Mai cấp phát cho xe vận chuyển và thả phuy theo sông cho binh trạm 9, ngày 6-9-1969 không lực Mỹ dùng B52 rải thảm cắt ngang tuyến ống trên suối Ra Vơ làm lửa bùng cháy cả hai bên suối, rồi đánh ngược theo tuyến ống 3km dọc suối vào kho Ra Mai.
 

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top