ngan trang
New member
- Xu
- 159
Cả khu rừng nguyên sinh rộng hàng trăm hecta bi san thành bình địa. Kho bị cháy, phần lớn bể chứa và tuyến đường ống bị tàn phá nặng nề. Một số chiến sĩ của Tiểu đoàn 668 hy sinh, lực lượng của Tiểu đoàn 337 đang nối nhau vác ống cũng bị B52 đánh vào đội hình làm hơn 70 chiến sĩ hy sinh và bị thương.
"Tuyến đi Ra Mai không khắc phục được, tôi bàn với anh Phan Tử Quang là chỉ còn cách làm theo phương án 2 đi từ đỉnh 900m vượt qua 1.001 m để vào bản Cò. Sẽ gặp nhiều khó khăn khi thi công nhưng có rừng rậm, núi cao để gây bất ngờ cho địch" - trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại.
Thế nhưng thách thức lớn nhất là địa hình quá hiểm trở nên không thể đưa máy bơm (nặng 2,8 tấn) vào chân đỉnh 1.001 m để bơm xăng vượt qua. Để khảo sát được tuyến này, một số chiến sĩ của đội khảo sát đã hy sinh vì bom dội, vì trượt chân xuống vực. "Để vượt từ đỉnh 900m qua đỉnh 1.001m khi không đưa được máy bơm vào chân đèo 1.001 m, ... phải bỏ van điều chỉnh áp suất ở đoạn ống đổ xuống chân đèo 900m. Vì vậy, điểm sâu nhất của đường ống giữa đỉnh 900m và 1001 m đạt áp suất rất cao (khoảng 30-35 kg/cm2) gần với giới hạn cho phép của đường ống. Với áp suất đó, dòng xăng từ đỉnh 900m đổ xuống đã vượt qua được đỉnh 1001 m vị trí có bình độ khoảng 850m".
Đúng ngày 22/12/1969, lễ khánh thành tuyến đường ống xăng dầu từ kho K200 (km 21, đường 18) vào kho K5 (nam Bản Cò) được tiến hành sau gần 10 tháng thi công. Trong thời khắc thiêng liêng này, tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên xúc động nói: "Hôm nay, chúng ta đang chứng kiến một sự kiện có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Đoàn 559 đưa vào vận hành đoạn đầu tuyến đường ống dẫn xăng dầu chiến lược nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam”.
Sau buổi lễ, mọi người tận mắt chứng kiến một công trình đặc biệt: 4 vòi cùng lúc tiếp xăng cho một tiểu đoàn xe chỉ mất một giờ rưỡi, nếu cấp phát qua phuy hoặc xitéc như trước đây phải mất hơn ba giờ.
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại thời khắc đó: "Tôi như thấy qua dòng xăng tuôn chảy bóng dáng hàng trăm chiến sĩ đang vượt núi, băng sông gùi cõng những ba lô xăng, can xăng năm nào? Chỉ những người trong cuộc, hoặc chứng kiến những tháng ngày đắng cay, cơ cực, khi mà một giọt xăng vào tới chiến trường được đổi bằng cả bát mồ hôi, thậm chí bằng máu, mới ý thức được tầm thế lớn lao của sự kiện đưa đường ống xăng dầu Trường Sơn vào vận hành".
Để ngụy trang, đường ống, trạm bơm và các kho được chôn ngầm hoặc làm trong hang đá. Khi vượt sông, đường ống đi ngầm nhưng có những đoạn sông, suối nhiều đá ngầm, dòng chảy mạnh phải làm cầu treo ống (sông Sêrêpôc).
Ngoài những hiểm nguy rình rập từ các loại mìn lá, mìn dây, bom bi, khi đi kiểm tra sự cố nhiều chiến sĩ đã bị ngộ độc xăng. "Có lần đi kiểm tra tuyến ống, thấy một nữ chiến sĩ cứ ngồi cười sằng sặc, chỉ huy hỏi gì cũng cười. Thì ra, đường ống bị bom bi đánh thủng, xăng phun thành sương khiến nữ chiến sĩ đó bị ngộ độc xăng. Mãi đến khi các kỹ sư tìm ra phương pháp phát hiện điểm bị sự cố từ xa mới giảm được thương vong, ngộ độc xăng cho bộ đội. Phương pháp này đã hạn chế việc huy động bộ đội chạy theo hàng trăm km trên tuyến tìm chỗ hỏng. Nhiều lúc chạy băng rừng ban đêm mà không được dùng đèn pin, thương lắm!", đại tá Mai Trọng Phước ngậm ngùi.
Còn với thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu, đến nay vẫn không nguôi ngoai trước cái chết bi thương của đồng đội: "Khi phát hiện bom đánh đứt tuyến, anh Quy - trạm trưởng trạm bơm ở Ka Tần đã lao ra nối ống. Trong lúc thao tác bất ngờ xăng trong ống phun ra tưới khắp người, ngập đầy vũng bom dưới chân. Cùng lúc ấy một loạt bom dội tiếp, nơi anh đứng trở thành biển lửa. Đồng đội nhìn thấy nhưng không sao cứu được".
"Tuyến đi Ra Mai không khắc phục được, tôi bàn với anh Phan Tử Quang là chỉ còn cách làm theo phương án 2 đi từ đỉnh 900m vượt qua 1.001 m để vào bản Cò. Sẽ gặp nhiều khó khăn khi thi công nhưng có rừng rậm, núi cao để gây bất ngờ cho địch" - trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại.
Thế nhưng thách thức lớn nhất là địa hình quá hiểm trở nên không thể đưa máy bơm (nặng 2,8 tấn) vào chân đỉnh 1.001 m để bơm xăng vượt qua. Để khảo sát được tuyến này, một số chiến sĩ của đội khảo sát đã hy sinh vì bom dội, vì trượt chân xuống vực. "Để vượt từ đỉnh 900m qua đỉnh 1.001m khi không đưa được máy bơm vào chân đèo 1.001 m, ... phải bỏ van điều chỉnh áp suất ở đoạn ống đổ xuống chân đèo 900m. Vì vậy, điểm sâu nhất của đường ống giữa đỉnh 900m và 1001 m đạt áp suất rất cao (khoảng 30-35 kg/cm2) gần với giới hạn cho phép của đường ống. Với áp suất đó, dòng xăng từ đỉnh 900m đổ xuống đã vượt qua được đỉnh 1001 m vị trí có bình độ khoảng 850m".
Đúng ngày 22/12/1969, lễ khánh thành tuyến đường ống xăng dầu từ kho K200 (km 21, đường 18) vào kho K5 (nam Bản Cò) được tiến hành sau gần 10 tháng thi công. Trong thời khắc thiêng liêng này, tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên xúc động nói: "Hôm nay, chúng ta đang chứng kiến một sự kiện có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Đoàn 559 đưa vào vận hành đoạn đầu tuyến đường ống dẫn xăng dầu chiến lược nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam”.
Sau buổi lễ, mọi người tận mắt chứng kiến một công trình đặc biệt: 4 vòi cùng lúc tiếp xăng cho một tiểu đoàn xe chỉ mất một giờ rưỡi, nếu cấp phát qua phuy hoặc xitéc như trước đây phải mất hơn ba giờ.
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại thời khắc đó: "Tôi như thấy qua dòng xăng tuôn chảy bóng dáng hàng trăm chiến sĩ đang vượt núi, băng sông gùi cõng những ba lô xăng, can xăng năm nào? Chỉ những người trong cuộc, hoặc chứng kiến những tháng ngày đắng cay, cơ cực, khi mà một giọt xăng vào tới chiến trường được đổi bằng cả bát mồ hôi, thậm chí bằng máu, mới ý thức được tầm thế lớn lao của sự kiện đưa đường ống xăng dầu Trường Sơn vào vận hành".
Để ngụy trang, đường ống, trạm bơm và các kho được chôn ngầm hoặc làm trong hang đá. Khi vượt sông, đường ống đi ngầm nhưng có những đoạn sông, suối nhiều đá ngầm, dòng chảy mạnh phải làm cầu treo ống (sông Sêrêpôc).
Ngoài những hiểm nguy rình rập từ các loại mìn lá, mìn dây, bom bi, khi đi kiểm tra sự cố nhiều chiến sĩ đã bị ngộ độc xăng. "Có lần đi kiểm tra tuyến ống, thấy một nữ chiến sĩ cứ ngồi cười sằng sặc, chỉ huy hỏi gì cũng cười. Thì ra, đường ống bị bom bi đánh thủng, xăng phun thành sương khiến nữ chiến sĩ đó bị ngộ độc xăng. Mãi đến khi các kỹ sư tìm ra phương pháp phát hiện điểm bị sự cố từ xa mới giảm được thương vong, ngộ độc xăng cho bộ đội. Phương pháp này đã hạn chế việc huy động bộ đội chạy theo hàng trăm km trên tuyến tìm chỗ hỏng. Nhiều lúc chạy băng rừng ban đêm mà không được dùng đèn pin, thương lắm!", đại tá Mai Trọng Phước ngậm ngùi.
Còn với thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu, đến nay vẫn không nguôi ngoai trước cái chết bi thương của đồng đội: "Khi phát hiện bom đánh đứt tuyến, anh Quy - trạm trưởng trạm bơm ở Ka Tần đã lao ra nối ống. Trong lúc thao tác bất ngờ xăng trong ống phun ra tưới khắp người, ngập đầy vũng bom dưới chân. Cùng lúc ấy một loạt bom dội tiếp, nơi anh đứng trở thành biển lửa. Đồng đội nhìn thấy nhưng không sao cứu được".