• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Sấm sét trên Thái Bình Dương

Ngày 12 tháng 11 năm 1943, 14.000 quân nhổ neo từ hải cảng Efaté trong quần đảo Tân-Hébrides. Hai ngày trước đó, các L.S.T chất đầy những máy kéo lội nước mới ra lò từ Hoa Kỳ đến, cũng đã rời Wellington để đến tiếp hợp với lực lượng đổ bộ. Riêng hải đoàn của Đô đốc Hill, từ Trân Châu Cảng, cũng đã lên đường đến điểm hẹn chung được ấn định vào ngày 19 tháng 11 tại phía nam quần đảo Gilbert. Mặc dầu có sự cách trở ban đầu, sự tiếp hợp đã được thực hiện đúng theo thời biểu và hai nhóm hải vận hạm tại Makin và tại Tarawa bắt đầu chuyển quân qua tàu đổ bộ L.C.I đúng thời hạn mong muốn.


Giai đoạn đầu tiên của các cuộc đổ bộ lên bờ biển phải bắt đầu vào bình minh ngày 20 tháng 11 năm 1943 gồm có việc thiết lập ba đầu cầu trên đảo Bétio. Một nằm ngay giữa đảo, hai đầu cầu kia nằm hai bên và cách đều đầu cầu giữa chừng 500 thước.


Đảo Bétio có hình dáng một con két nằm chổng vó dọc theo xích đạo, mà chiếc mỏ hướng về địa cực. Một bến tàu từ rốn con két nhô ra, băng ngang qua hàng rào san hô ngầm thông góc với bờ biển. Các phi đạo của phi trường được thiết lập bên trong sâu một chút, ngay bụng của con chim.


Ba tiểu đoàn tương ứng với 3 đầu cầu phải được đổ bộ lên bờ thành nhiều đợt, trước hết bởi các máy kéo lội nước, tiếp đó và khi nước lên khá cao, bởi các tàu L.C.I và L.C.T.


Ngay từ lúc khởi sự thảm cảnh đã bắt đầu. Sau khi các hải vận bỏ neo trong vùng biển san hô, việc chuyển binh sĩ và chiến cụ được thực hiện không có gì lộn xộn quá, nhưng khi các tàu đổ bộ tập họp tại tuyến xuất phát, chúng liền bị tán loạn vì hoả lực tập trung dày đặc của các giàn súng Nhật trên bờ. Mọi người hoàn toàn bị bất ngờ vì tin rằng chúng đã bị “nghiền ra bột” bởi tác xạ của hải pháo trên thiết giáp hạm. Các khu trục hạm phải tiến vào gần sát bờ mới làm chậm bớt được cơn mưa trái phá rơi xuống các tàu đổ bộ.


Sau cùng, cuộc tập họp trước được dự liệu lúc 7 giờ, nhưng mãi đến 9 giờ mới có thể thực hiện được và khi đợt thứ nhất đến được hàng rào đá ngầm, một hoả lực ác liệt chờ đón họ. Thuỷ triều đã xuống thấp và các máy kéo còn chạy được phải vất vả lắm mới vượt qua được. Các binh sĩ mang quá nặng phải nhảy xuống cách bãi biển rất xa, và trong cuộc đi bộ kiệt sức của họ, sáu trăm người đã bị giết hoặc bị thương. Những người lọt lưới được liền chạy tán loạn, tìm cách thoát hiểm trong các thế đất gồ ghề hiếm hoi. Nhiều máy kéo lội nước, cực nhọc rút ra để quay trở lại chở đợt thứ hai, phải chất đầy người bị thương. Nhiều thương binh còn mắc trên hàng rào đá ngầm và các binh sĩ vùng vẫy trong nước tập họp lại để ẩn núp sau đó. Đến 10 giờ, rốt cuộc chừng vài trăm binh sĩ đã đặt được chân lên bãi biển nhưng các đơn vị thì hoàn toàn tan rã. Binh sĩ không tìm thấy được sĩ quan của mình và không chịu tuân hành mệnh lệnh triệt để. Bị kẹt cứng trong các hố cá nhân, cách chiến luỹ bằng thân cây viền theo bờ biển có vài thước, họ nghe tiếng đạn rít trên đầu do các xạ thủ mai phục đằng sau móng đá của bến tàu nhắm bắn và không dám thò mũi ra ngoài. Không một điều tiên liệu nguyên thuỷ nào được thể hiện. Cả Đại tá Shoup lẫn đại đội chỉ huy của ông đều không ai đặt chân lên bờ được. Sáng kiến nằm trong tay các trung đội trưởng. Gần như tất cả trung đội trưởng đều đã kháng cự với sự can đảm tuyệt diệu và chính một người trong số đó đã cứu vãn tạm thời tình thế.


Toán tiền sát viên của trung uý Hawkins và trung sĩ Price bám chặt được vào móng của bến tàu. Hiểu rõ nguy cơ giết người mà quân đổ bộ phải lãnh đủ do đạn tác xạ cạnh sườn của các xạ thủ đại liên Nhật Bản đang mai phục trong các bờ đá của chân móng bến tàu, Hawkins gọi tên từng người một, tập họp một số đông nhất binh sĩ thuộc quyền, rồi dẫn họ nhào lên vừa xung phong vừa thét: “Phải tiến đến đó!”.


Sau một trận cận chiến kinh hồn, các binh sĩ tiền sát của Hawkins quét sạch được tất cả các cổ đại liên mà binh sĩ Nhật tiếp tục bắn cho đến phút chót. Chắc chắn là hệ thống liên lạc với Đô đốc Shibasaki đã bị hư hại do cuộc hải pháo của các khu trục hạm lúc đó đạt đến cường độ mãnh liệt, bởi vì không có một thuộc viên nào của ông ta có sáng kiến phản công quân Mỹ. Dầu sao chăng nữa, bến tàu rốt cuộc đã được giải toả. Nhưng quân đổ bộ đã không thể sử dụng được vì quân NHật, nấp trên ngọn dừa tưới đạn xuống đấy không ngừng nghỉ, tuy vậy, các tàu L.C.T đã có thể cặp vào bến bằng cách nấp vào sau các bờ đá của con đê chặn sóng, và vài chiến xa nhẹ còn chạy được vào cả trong đất liền.


Đến trưa, Đại tá Shoup đổ bộ và lập ban chỉ huy trên chiếc mái sụp đổ của một lô cốt lớn bị đối phương bỏ lại. Chỗ này, đầu cầu đổ bộ có chiều sâu 20 thước. Khi bóng đêm phủ xuống, ông thấy đằng sau mình cả một đoàn máy ủi và tàu đổ bộ vĩ đại đủ mọi kiểu. Gần như tất cả đều cặp được vào đầu con đê chặn sóng. Binh sĩ bắt đầu tiến lên theo hàng dọc, hoặc bò theo đường dẫn ra bến tàu hoặc ẩn nấp bên dưới nó. Khi đêm tối hoàn toàn, Shoup nhận được tin mừng đầu tiên trong ngày, một đại đội của ông đã cặp được vào bờ rất xa về phía tây-trên chiếc mỏ của con két-tại một địa điểm mà sự phòng thủ của Nhật không đáng kể. Đại đội tiến về phía đông gần 500 thước và nối kết được với những toán quân nhỏ lạc lõng trong vùng kế cận.


Khi được thông báo về tình hình của binh sĩ đổ bộ-nghĩa là vào lúc đêm đã rất khuya-thiếu tướng Julian Smith gửi cho Shoup một điện văn vắn tắt: “Chuẩn bị tấn công khi trời vừa sáng. Tôi sẽ gửi cho anh hai tiểu đoàn tăng viện”.


Mặc dầu thuỷ quân lục chiến không hề được nghỉ ngơi từ lúc 6 giờ sáng, không một ai có thể có lấy mọt phút nghỉ mệt. Không những họ bị cuốn hút vào công cuộc chuẩn bị tấn công vào sáng ngày hôm sau, mà ánh sáng của hoả châu, tiếng úng liên miên của các chiến hạm và mùi hôi thối dễ sợ bốc ra từ các xác chết mà khi thuỷ triều rút xuống, nằm phơi đầy bãi biển, tất cả những thứ đó không thể nào thích nghi cho giấc ngủ được.
 
Đến sáng, hai tiểu đoàn tăng viện đến, Shoup ra lệnh tấn công. Các binh sĩ dồn cục sau bộ chỉ huy của ông ra khỏi chiến luỹ, được các phi cơ của thuỷ quân lục chiến đâm xuống sát mặt đất tác xạ “straffing” liên tục. Nhưng hoả lực của quân Nhật trong các lô cốt còn dày đặc hơn hôm qua. Bất chấp lựu đạn được phóng qua các kẽ hở của thân cây và súng phun lửa, quân Nhật tiếp tục bắn. Sau một giờ nỗ lực ngoài sức người, Shoup phải chấp nhận một sự thực hiển nhiên: cuộc phản công bị bảy gãy từ trong trứng nước. Phần lớn sĩ quan của ông bị chết hoặc bị thương. Hawkins, viên sĩ quan từng thực hiện chuyện phi trường với nhóm tiền sát viên của mình bị một mảnh đạn trái phá vào chân và ba mảnh vào vai. Mặc dầu anh từ chối không chịu cho di tản, Price phải lên thay anh nắm quyền chỉ huy… Shoup điện thoại cho Julian Smith báo rằng ông không còn làm chủ được tình hình. Ông thiếu tướng trả lời: “Ráng giữ vững vài giờ nữa, tôi sẽ gửi trung đoàn 6 đến cho anh”.


Trung đoàn này là đơn vị trừ bị chót của toàn diện cuộc hành quân đổ bộ. Trung tướng Holland Smith đã giữ nó lại để dự phòng trường hợp cuộc đánh chiếm Makin gặp khó khăn. Thế mà phản ứng tại Makin không đáng kể và vì đội quân trú phòng Nhật không qua 400 người hòn đảo ấy đã bị chiếm đóng từ sáng. Tổn thất duy nhất của hải lực đổ bộ tại đó là một mẫu hạm hộ tống, chiếc Liscomb Bay, rủi ro bị một tàu ngầm Nhật phóng thuỷ lôi đánh chìm. Turner và Holland Smith từ lâu tin tưởng rằng sự việc tại Bétio cũng dễ dàng như thế, nên khi nhận được hung tin, họ mở hết tốc độ chạy về Tarawa.


Lời hứa sắp đưa trung đoàn 6 đến tăng viện chắc chắn đã làm yên tâm những binh sĩ cố thủ ba đầu cầu đổ bộ tại Bétio, nhưng phải giữ vững vài giờ và không một ai biết có thể làm được việc này hay không. Binh sĩ của Shibasaki chiến đấu với một sức mạnh hung tàn. Chắc chắn lúc ấy vị Đô đốc Nhật đang có mặt bên cạnh binh sĩ của ông ta, ngay giữa lòng cuộc chiến, chuẩn bị phản công để hất quân Mỹ ra biển. Tổn thất của quân Mỹ lên đến mức dễ sợ. Xác chết xếp thành đống chung quanh đầu cầu đổ bộ. Các khẩu trọng pháo phải được vác đến sát lô cốt để bắn vào các lỗ châu mai, vì chúng không gây hiệu quả gì trên các thân cây bằng gỗ hay cây dừa được khôn ngoan nối kết với nhau bằng các mấu thép. Từ các thân cây còn đứng vững, những xạ thủ ưu tú Nhật, bắn hạ từng binh sĩ Mỹ lộ liễu với mức độ chính xác không chê được. Các sĩ quan than phiền với Shoup là những thành phần binh sĩ ưu tú của họ đã bị giết và những người khác bắt đầu mất can đảm. ”Các anh chỉ cần bảo: ai muốn theo tôi?”. Shoup trả lời. “Nếu có 10 người theo, các anh nên cho là đã sung sướng. Ít thật đấy, nhưng còn hơn không có ai!”.


Đến 13 giờ, mùi hôi thúi của xác chết nồng nặc đến nỗi các binh sĩ khiêng cáng phải dìm xác xuống nước. Trung uý Hawkins đáng thương, ngất ngư, phải được di tản bằng một cái bè cao su. Năm trong sáu sĩ quan thuộc tiểu đoàn lập đầu cầu chính giữa đã bị giết… Rõ ràng là binh sĩ đã chịu đựng đến cùng. Shoup đi từ đại đội này đến đại đội kia xác định rằng-mà không tin chắc lắm-quân tăng viện sắp đến.


Nửa giờ trôi qua… một thế kỷ! Shoup thấy trước tai biến toàn diện. Nhưng đột nhiên ông nghe đàng sau một thứ xì xầm bắt ông phải quay lại: vùng san hô bao phủ những chấm đen và những tua bọt sóng. Đấy là các tàu đổ bộ quân trừ bị đang lao vào các bờ biển với tất cả sức mạnh của động. Cùng lúc đó một đám mây oanh tạc cơ đâm bổ tràn ngập trên các công sự phòng thủ của Nhật. Hầu hết các tàu chờ quân đổ bộ ủi vào bờ vô sự.


Hai giờ sau, gần 1000 chiến binh mới và khoẻ khoắn được đưa lên bờ cùng với chiến xa nhẹ, pháo binh và các cấp chỉ huy. Cuộc phản công mà ai cũng sợ, đã không xảy ra. Chắc Đô đốc Shibasaki phải vùi thây dưới đống đổ nát của một hầm trú ẩn nào đó bởi vì một vẻ hoang mang đang bộc lộ bên phía quân Nhật.


Nhiều xe Jeep bắt đầu chạy dọc theo chân thành luỹ. Đầu cầu bên trái đột nhiên mở rộng được gần 100 thước. Ngọn gió chiến thắng kích thích lại tinh thần can đảm của các đại đội bị khốn khổ nhất. Chiến trường bị một lớp khói bao phủ càng dày đặc hơn vì giờ đây còn có thêm khói từ các đám cháy bốc lên từ các hầm trú ẩn. Chiến binh Nhật đều tự để cho bị thiêu sống tại chỗ hơn là đầu hàng. Không có một tù binh nào… Chỉ có những xác chết cháy thành than và các thân người nát bét bị bom giết chết và hất từ ngọn cây dừa xuống đất. Cùng với bóng đêm, tiếng huyên náo giảm dần. Chiến thắng của thuỷ quân lục chiến giờ đây đã được đảm bảo. Tên Tarawa đã đi vào lịch sử, làm lu mờ một cách rất bất công địa danh Bétio, nhưng cần gì! Một sự thất bại có thể đưa lại nhiều hậu quả đáng sợ vừa tránh được trong gang tấc.


Ngày 22 tháng 11 năm 1943 còn được đánh dấu bằng các trận đánh gay go vì các pháo đài sau cùng của Nhật, mặc dầu bị tràn ngập bởi cả một làn tuyết băng toàn xe tăng, pháo binh và binh sĩ, vẫn tiếp tục chiến đấu đến cùng. Trong tổng số 4.500 quân trú phòng, người ta chỉ tìm thấy còn có 400 công nhân Cao Ly là còn sống. Nhưng trung đoàn 2 thuỷ quân lục chiến phải trả giá đắt cho chiến công này. Trong 48 giờ, toàn diện lực lượng binh sĩ đổ bộ đã bị tổn thất 3.300 chết, bị thương hoặc mất tích, bằng số tổn thất tại Guadalcanal trong sáu tháng…


Khi ký giả Robert Sherrod, người cùng đổ bộ với thuỷ quân lục chiến và theo dõi trận đánh tại tuyến đầu, đến hỏi đại tá Shoup phép lạ đã diễn ra như thế nào, người anh hùng của Bétio trả lời bằng câu đơn giản sau: “Người ta yêu cầu chúng tôi giữ vững, và, lạy chúa, chúng tôi đã giữ vững!”.
 
Số phận bị thúc giục

Cuộc tấn công vào Bétio quá đắt giá. Nhiều đơn vị ưu tú bị tàn sát, nhiều tàu đổ quân và xe lội nước bị tiêu huỷ. Nhưng các bài học rút ra được từ cuộc tấn công vào một tiểu đảo được phòng thủ kiên cố ấy đều vô giá cho nỗ lực tiếp tục tấn công. Cuộc đánh chiếm quần đảo Gilbert chỉ là bước đầu để tiến lên quần đảo Marshall, nơi có các đảo lớn có thể đưa cả hạm đội vào trú ẩn, và là nơi quân Nhật có năm hoặc sáu phi trường. Biết rằng chúng được phòng thủ chặt chẽ Nimitz muốn tấn công ngay để lợi dụng sự bối rối gây ra cho địch sau cuộc xung phong vào Bétio. Nhưng tám ngày oanh tạc và hải pháo liên tục đã không đủ giảm thiểu hệ thống phòng thủ của tiểu đảo san hô Bétio, thì phải cả tháng oanh kích như thế mới vô hiệu hoá được hệ thống phòng thủ trên các đảo lớn thuộc quần đảo Marshall. Hơn nữa, lực lượng chuyển quân đổ bộ của Turner cần phải được bổ chính lại và Spruance lai muốn chờ bốn mẫu hạm mới và hai thiết giáp hạm sắp từ Mỹ đến.


Địch quân làm gì trong thời gian đó? Họ có toan tính mở cuộc hành quân lớn đánh quần đảo Gilbert để khiêu khích hạm đội của Spruance không?

Nimitz không biết gì cả và phải tiên liệu một viễn ảnh như vậy. Do đó ông đặt hạm đội này trong tìng trạng báo động trong suốt tháng 12 năm 1943, bắt hạm đội thực hiện các cuộc oanh tạc trên các đảo Kwajalein và các cuộc tuần thám trên hải cảng Truk và trên quần đảo Mariannes.


Song song với các hoạt động này, Uỷ ban tham mưu hỗn hợp cho phép Mac Arthur đổ bộ lên mũi Gloucester về phía cực tây của Tân-Bretagne. Quân Nhật đã thiết lập một phi trường tại đó để giúp họ ngăn cản mọi sự di chuyển trên hai eo biển Vitraz và Dampier mà lực lượng hải quân chuyển vận đổ bộ khó khăn nên ông đòi hỏi và được sự hỗ trợ của sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến mới được thành lập lại sau những thử thách gay go tại Guadalcannal. Sư đoàn này, với thêm 2.500 bộ binh tăng viện, đổ bộ lên mũi Gloucester ngày 26 tháng 9. Chừng 6.000 hay 7.000 quân Nhật bảo vệ phi trường bị đánh hoàn toàn bất ngờ phải rút lui vào rừng già kế cận mà các điều kiện còn tệ hơn cả ở Guadalcannal. Bệnh kiết lỵ, thương hàn và sốt rét tạo ra nhêìu nạn nhân hơn là súng đạn trong 15 ngày đụng độ sau đó. Tuy vậy, ngày 16 tháng 1 năm 1944, một chu vi phòng thủ kiên cố đã được thiết lập quanh phi trường, nên Mac Arthur đã có thể bắt đầu kế hoạch tiến quân bằng các bước nhảy ếch dọc theo xương sống đảo Tân-Guinée.


Lo âu vì sự khởi đầu các hoạt động bất ngờ này tại phía tây nam, Koga trở về Đông Kinh để thảo luận về chiến lược phòng thủ mà từ nay ông đành phải chấp nhận. Ông đã quyết định rằng chi vi Đại Đông Á sẽ được giới hạn về phía đông bằng một phòng tuyến mới chạy qua các quần đảo Mariannes, Truk và Biak và các cứ điểm tiền phương trên quần đảo Marshall sẽ được tăng viện tối đa bằng các phi cơ còn sót lại tại Rabaul, đoạn bỏ mặc chúng. Phòng tuyến mới sẽ được bảo vệ quyết liệt không chấp nhận một ý tưởng rút lui nào và nếu hải lực Mỹ mạo hiểm vượt qua, hạm đội liên hợp còn nguyên vẹn có thể tung ra trận quyết định mà từ hai năm nay không lúc nào ngừng chuẩn bị. Nhưng còn phải làm thế nào cho các không đoàn thuộc các mẫu hạm bị tiêu diệt tại Rabaul và tại Bougainville được bô sung ngay lập tức.


Koga được hứa rằng các nhu cầu về phi cơ và phi công sẽ được ưu tiên thoả mãn, ông cũng đã yêu cầu cho tạm thời rút các mẫu hạm lui về Tân Gia Ba và về quần đảo Mã Lai, nơi chúng có thể được tiếp nhiên liệu và huấn luyện các phi công mới khi nào họ dần đần được đến. Song song với cuộc rút lui chiến lược này, Koga đã được thượng cấp chấp thuận một kế hoạch cải tổ hạm đội liên hợp căn cứ trên những nguyên tắc mới mẻ. Các đại thiết giáp hạm Musachi, Yamato và chiếc Nagato1 (Không mạnh bằng các chiếc kia, Nagato là một thiết giáp hạm 35.000 tấn, võ trang 8 đại bác 360 ly hoàn toàn được canh tân) cũng như hai thiết giáp hạm cũ, Kongo và Haruna, sẽ được sử dụng để che chở cho các mẫu hạm sẽ là vũ khí phòng vệ chính yếu. Về mặt cơ cấu, hạm đội liên hợp được chia làm hai hạm đội: hạm đội thứ nhất gồm có ba đoàn mẫu hạm tổng cộng 9 mẫu hạm, và 15 khu trục hạm hộ tống; hạm đội thứ hai gồm có năm thiết giáp hạm phân làm hai hải đội và mười tuần dương hạm nặng phân thành ba hải đội.


Phó Đô đốc Ozawa, người đã chỉ huy với sự thành công, ai cũng biết, cuộc xâm chiếm Sumatra và Java, lãnh quyền chỉ huy hạm đội mẫu hạm được mệnh danh là “Hạm đội lưu động số 1”. Hạm đội thiết giáp được giao cho phó Đô đốc Kurita, chiến sĩ kỳ cựu tại Midway và tại Guadalcanal, Ugaki, cựu tham mưu trưởng của Yamamoto, sống sót nhờ phép lạ sau cuộc phục kích tại Bougainville, nắm quyền chỉ huy lực lượng thiết giáp hạm khổng lồ.


Một quyết định chiến lược khác bổ túc cho các sự sắp xếp bố trí trên: không lực số 1 của hải quân mà quyền chỉ huy vừa được giao cho Phó Đô đốc Kakuta (phi công kỳ cựu, nguyên chỉ huy trưởng không lực số 2 của các mẫu hạm) sẽ được phân phối cho các căn cứ trên đất liền rải dọc theo chu vi phòng thủ mới từ Iwo Jima cho đến Kiak (Tân Guinée) ngang qua quần đảo Mariannes và tiểu quần đảo Palaos. Kakuta, với chừng 1.500 phi cơ trong tay, đặt ban chỉ huy tại Tinian, thuộc quần đảo Mariannes.
 
Tất cả các biện pháp ấy không phải đã được Tổng hành dinh Thiên hoàng chấp thuận dễ dàng. Những giới chức cao cấp sống trong tháp ngà cách xa chiến trường hàng ngàn cây số ấy, khó chấp nhận rằng Nhật Bản phải rút lại thế phòng thủ trong khi còn có cả một hạm đội nguyên vẹn và một đạo quân đang bành trướng-thêm vào đặc tính này, còn là một đạo quân quen chiến đấu thắng lợi trong thế một chống mười. Phải cần cả một sức mạnh thuyết phục của vị tư lệnh hạm đội liên hợp, mới lấy được quyết định. Trong các cuộc bàn cãi, ông không ngừng bị Tojo đương đầu vì cho rằng hải quân đã bi quan quá đáng. Tojo còn đi xa đến mức đòi hỏi cho bộ binh Nhật “vinh dự đảm bảo công cuộc phòng thủ quần đảo Mariannes” mà ông ta tin là có thể biến tất cả các đảo thành “những thành trì không thể bị chiếm được”. Koga nhận sự cung hiến này với tất cả lịch sử nhưng cương quyết giữ vững lập trường. Đó là một con người có vóc dáng cao lớn, nét mặt khắc khổ, mà vẻ Á châu chỉ lưu lại vết tích bằng đường nhăn mờ trên hai hàng lông mày. Được nhào nặn trong các truyền thống hải quân kỳ cựu, ông cũng có cùng tâm trí công kích như vị tiền nhiệm của ông. Ông có cái nhìn rất sáng suốt về tình hình tổng quát và là một trong các lãnh tụ duy nhất của Nhật có thể đối phó với tình thế trầm trọng. Tính cách cương nghị trong thái độ của ông, tính cách sáng suốt trong sự trình bày của ông, và tính cách táo bạo trong các giải pháp đề nghị của ông, đã khiến cho những người chống đối phải nghe theo ông. Khi ông rời Đông Kinh để trở lại Truk, ông được Tổng hành di Thiên hoàng ban cấp cho toàn quyền.


Trong tháng giêng năm 1944, Koga làm việc liên miên với viên tham mưu trưởng của ông, Đề đốc Fukudomé, để xây dựng chi tiết của cơ cấu tổ chức mới. Ngay từ cuối tháng giêng, tin tức đã được đưa đến cho biết rằng quần đảo Marshall phải chịu đựng các cuộc oanh tạc ngày đêm bởi các phi cơ của mẫu hạm địch mà theo các quan sát viên, số lượng không ít hơn 12 chiếc! Koga lập tức gửi những phi cơ sau cùng của ông đến tiếp cứu. Đã có lúc ông ngần ngại muốn gửi một nhóm tuần dương hạm đến cứu viện quân trú phòng trên quần đảo Marshall, nhưng rồi ông rút lui ngay ý định trước mối đe doạ có thể bị tàn sát hết. Ngày 3 tháng 2, ông cho nhổ neo các thiết giáp hạm Yamato và Nagato đến Palaos và chiếc Mushashi trở về Nhật để thực hiện các sửa chữa khẩn cấp. Vì năm tuần dương hạm bị hư hại quá nặng trong các cuộc oanh tạc tại Rabaul cũng đang còn ở Nhật, cho nên các chiến hạm của hạm đội liên hợp trong vài tháng tới sẽ bị phân tán nguy hiểm. Nhưng Koga không tưởng tượng được rằng hạm đội Mỹ, tham dự trong hiện trạng vào các cuộc tấn công lên quần đảo Marshall, lại có thể bắt đầu các cuộc tấn công mới trước thời hạn vài tháng này. Hơn nữa, ông còn có gì để chọn lựa. Ông phải chờ đợi cho các chiến hạm được sửa chữa và các phi cơ mới chế tạo được đưa đến.


Ưu tư chính yếu của Koga kể từ khi lên nắm quyền tư lệnh là tái lập các không đoàn. Hơn 7.000 phi cơ và bằng chừng đó phi công đã bị tiêu diệt trong trận chiến tại quần đảo Salomon-hai lần lớn hơn tổng số phi cơ và phi công của Nhật lúc chiến tranh mới phát động. Kỹ nghệ hàng không, vốn chỉ có thể sản xuất trong thời gian ấy là 400 phi cơ mỗi tháng, nên không thể nào bù đắp được cho tình trạng bị xuất huyết ấy, bởi vì số lượng phi cơ bị lục quân trích ra từ đó để cung ứng cho chiến trường Trung Hoa và Miến Điện đã làm giảm phần cung cấp yếu kém hàng tháng cho hải quân xuống còn một nửa. Nói về mặt phi công thì tình hình không khá hơn. Phẩm chất của hoa tiêu giảm sút từng tháng một. Sự thiếu hụt tàu bè vận tải đã làm chậm trễ việc chuyển giao phi cơ, những phi công trẻ mới được đào tạo ở Nhật được giao cho nhiệm vụ lái phi cơ vừa mới ra lò đưa đến các căn cứ trên Thái Bình Dương, vì thiếu kinh nghiệm nên các tổn thất gây nên bởi những sai lầm trong kỹ thuật phi hành đã lên đến mức báo động. Một nỗ lực vĩ đại đang xúc tiến tại chính quốc để sửa chữa cho các lầm lỗi này nhưng các nỗ lực ấy không thể nào đạt được hiệu quả toàn diện trước năm hay sáu tháng nữa. Vậy thì bổn phận của Koga là giữ cho hải đoàn hàng không mẫu hạm còn nguyên vẹn cho đến ngày ấy. Căn cứ vào những tổn thất nặng nề, mà quân Mỹ phải chịu đựng vè chiến hạm đủ mọi loại và nhất là về hàng không mẫu hạm trong thời kỳ chiến trận tại Salomon, ông có lý do vững chắc để nghĩ rằng họ sẽ không thắng được trong cuộc chạy đua tốc độ.


Koga, cũng không hơn gì bất cứ đại lãnh tụ nào của Nhật, lúc đó không có được một ý niệm chính xác về khả năng vĩ đại của kỹ nghệ Mỹ. Nhiều biến cố sẽ mau lẹ làm ông mở mắt.

Ngày 29 tháng giêng năm 1944, lực lượng đặc nhiệm của mẫu hạm do Đề đốc Mitscher chỉ huy, vị cựu hạm trưởng mẫu hạm Hornet trong vụ oanh tạc Đông Kinh, vốn là một phi công sáng chói của không lực hải quân Mỹ, bắt đầu tham chiến tại khu vực miền Trung Thái Bình Dương. Lực lượng được cấu tạo do hai mẫu hạm kỳ cựu của chiến trận tại Salomon, chiếc Enterprise và chiếc Saratoga, bốn mẫu hạm cùng loại với mẫu hạm Essex và sáu mẫu hạm nhẹ cùng loại với chiếc Independence. Hai thiết giáp hạm tối tân và nhiều tuần dương hạm che chở cho lực lượng về mặt phòng không.


Vừa thực hiện các cuộc oanh tạc ngoạn mục trên các phi trường tại Marshall, các phi cơ tuần tiễu của Mitscher bay trên Truk gần như hàng ngày trong tuần lễ đầu tiên của tháng 2. Những nỗ lực anh hùng của vài khu trục cơ Nhật còn sử dụng được trong quần đảo Carolines, hoàn toàn trở nên bất lực trong việc ngăn chặn phi cơ tuần thám Mỹ. Lần này, Koga phải nhận chân một sự thực hiển nhiên: hải quân Nhật đã mất quyền làm chủ bầu trời trên các căn cứ chính yếu trong Thái Bình Dương. Lập tức ông quyết định rút bộ tư lệnh về Palaos và mang theo ông các tuần dương hạm cuối cùng ngoại trừ một chiếc ở lại với bốn khu trục hạm để đảm bảo các sứ mạng tuần thám.
 
Quần đảo Palaos tuyệt đẹp đối với Koga là cả một hải cảng mỹ miều sau khi rời bỏ địa ngục Truk. Nhưng khi vừa mới đến, bộ tham mưu bị một làn sóng hung tin nhận chìm: một lực lượng chuyện vận thuỷ bộ hùng mạnh chở 41.000 người và các máy móc đổ bộ được cải thiện, ào ạt xuyên nhập vùng biển san hô Kwajalein, tràn ngập hệ thống bố phòng của Nhật và trong ba ngày, lấy được các phi trường chính. Bất kể sự chiến đấu hăng say của quân trú phòng mà mọi điểm đều xứng đáng giống như các binh sĩ tại Bétio, không có gì có thể cưỡng lại được cơn hồng thuỷ máy kéo lội nước bọc sắt kiểu mới, chiến xa xung kích, pháo binh và bộ binh đang tấn công lên các đảo này. Ngày 7 tháng 2, đảo Kwajalein, đảo quan trọng nhất do vị trí nằm ngay lối ra vào phía nam của vùng biển san hô mênh mông cùng mang tên như nó, hoàn toàn lọt vào tay quân Mỹ và 6.000 quân trú phòng Nhật Bản bị tiêu diệt. Hai dải cát Roi và Namur trấn giữ các lối ra vào phía bắc vùng biển san hô Kawajalein cũng bị thất thủ. Các phi cơ Mỹ từ Bétio đến, liền đặt căn cứ trên các phi trường, và nhờ ưu thế áp đảo về số lượng đã vô hiệu hoá tất cả hệ thống phòng không của Nhật tại quần đảo Marshall. Không quan tâm đến các đảo Laluit, Mili và Wotje mà đạo quân trú phòng mạnh mẽ hơn cả, các Đô đốc Mỹ lập tức tổ chức bất thần một cuộc đổ bộ lên Einwetok, đảo san hô nằm ở vị trí xa nhất về phía bắc của quần đảo Marshall. Nắm giữ vọng canh tiền phương này, quân Mỹ không phải chỉ làm sây sát chu vi Đại Đông Á, mà thật ra trong chốc lát họ mở một kẽ hở rộng 2.500 cây số.


Cùng ngày đánh chiếm Eniwetok, hai lực lượng đặc nhiệm Mỹ tổng cộng 12 mẫu hạm lao vào căn cứ hải quân Truk với hy vọng bắt gặp bất chợp hạm đội liên hợp đang bỏ nào tại đấy. Nhưng lần này chiếc lồng trống trơn. Các biện pháp phân tán của Koga đã tránh cho hải quân Nhật một Aboukir thứ hai. Tuy nhiên cuộc oanh tạc xuống Truk không kém phần thảm khốc cho quân Nhật: nó kéo theo tổn thất 200.000 tấn thương thuyền và 275 phi cơ, không nói đến một tuần dương hạm và bốn khu trục hạm bị đuổi kịp ngoài khơi trong khi chúng ra sức chạy trốn. Hơn thế nữa tất cả mọi cơ sở thuộc hải cảng Truk đều bị tiêu diệt.


Thực tại đã vượt quá xa những dự kiến đen tối nhất của Đô đốc Koga. Từ nay ông đã thua trong cuộc chạy đua tốc độ với người Mỹ. Không bao giờ các không đoàn lẫn hạm đội mẫu hạm của ông còn có thể sẵn sàng đúng lúc để đương đầu với lợi thế, trước các lực lượng hải quân kinh khủng của địch nữa. Trước tầm rộng lớn của thảm hoạ, ông phải lấy một quyết định đau đớn là rút lui thêm một lần nữa. Quần đảo nhỏ Palaos không cung ứng các lợi điểm giống như pháo đài vững chắc Truk. Vị tổng tư lệnh hạm đội liên hợp không chịu bỏ rơi nó để tập trung chủ lực vào biển Phi Luật Tân và biển Célèbes kế cận khu vực dầu hoả Bornéo. Tin loan báo về một thảm hoạ mới đã xác tín thêm quyết định của ông: thật vậy, đạo quân của Mac Arthur vốn không ngừng tiến ngược lên theo xương sống đảo Tân-Guinée, vừa đổ bộ lên quần đảo Amirauté từ đó đe doạ pháo đài Biak vốn là chốt cực nam của vòng đai chu vi phòng thủ Đại Đông Á.


Thấy rằng chính căn cứ Palaos cũng không còn là nơi ẩn nấp các cuộc oanh tạc của Mỹ, Koga quyết định rút lui bản doanh của ông về Davao trong đảo Mindanao thuộc Phi Luật Tân.


Ngày 31 tháng 3 năm 1944, hai thuỷ phi cơ bốn máy cất cánh khỏi vùng biển Korok thuộc quần đảo Palaos. Trên chiếc thứ nhất có Đô đốc Koga với hai sĩ quan tuỳ viên, Đề đốc Fukudomé, tham mưu trưởng, bay trong chiếc thứ hai với người phụ tá và các thư ký. Hai phi cơ nhắm đến vùng biển Davao nơi vị Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp sẽ thiết lập tổng hành dinh mới, trong một giờ đầu tiên chúng được các khu trục cơ của căn cứ Korok hộ tống, rồi tiếp tục đường bay không có hộ tống hướng đến Phi Luật Tân với chỉ hai giờ bay. Gần như ngay sau đó, hai chiếc thuỷ phi cơ gặp một cơn giông và lúc bay vào mây, không trông thấy nhau nữa.


Tại Davao, Đô đốc chỉ huy trưởng căn cứ được bí mật thông báo vị tổng tư lệnh sẽ đến nhưng không có thời biểu chính xác, vì thế ông không thực hiện các biện pháp báo động nào khác trước khi trời tối. Nhưng đêm tối trải qua mà vẫn không có tin tức gì, Đô đốc liền báo động cho các cứ điểm trinh sát tại Phi Luật Tân. Sáng ngày 1 tháng 4, ông được biết một phi cơ bốn máy bị hạ trên đảo Cébu ngay giữa đêm tối trong lúc nó cố gắng đáp dọc theo bờ biển. Một đoàn quân thám sát được gửi đến tận nơi. Xác chiếc thuỷ phi cơ được tìm thấy trong rừng sâu, riêng phần các hành khách, tất cả đều bị thương nặng thì bị người bản xứ mang vào trong rừng. Phải mất hai ngày săn đuổi mới giải thoát được. Mặc dầu bị thương, Đề đốc Fukudomé được đưa về Davao, tại đó ông đã kể lại cuộc phiêu lưu của mình1 (Bị dân bản xứ bắt, Fukudomé bị giao cho một toán hướng đạo Phi Luật Tân mà lãnh tụ-một người Mỹ-vừa rơi vào tay quân Nhật. Không biết đang giữ trong tay một nhân vật quan trọng như thế nào, các người hướng đạo đề nghị đánh đổi lấy vị chỉ huy của họ. Đó là một trong các cuộc thương lượng độc nhất kiểu này trong suốt cuộc chiến trên Thái Bình Dương). Phi cơ của ông bay vào trong một trận cuồng phong nhiệt đới kinh khủng, nhưng nhờ kinh nghiệm già dặn của một phi công, ông thoát ra khỏi được trong gang tấc bằng cách bẻ lái về phía nam bay sát mặt biển. Hành động này đưa ông lạc quá xa trục bay khiến cho xăng cạn dần và phải đáp tai hại xuống đảo Cébu. Rất có thể là Đô đốc Koga không có may mắn tương tự và có thể phi cơ ông bị rơi ngoài khơi, vì không bao giờ còn nghe ai nói đến ông nữa.
 
Kế hoạch A-Go

Tháng 4, tháng 5 năm 1944. Trên đổ biểu tổ chức vĩ đại của uỷ ban tham mưu hỗn hợp, các hàng cột tương ứng với những tháng ngày định mệnh này, nổi bật lên trong một màu xám vì chống chất vô vàn con số, các yếu tố biến đổi, các ước tính. Tất cả mọi sự việc ở đấy đều lệ thuộc vào cuộc hành quân Overlord, cuộc đổ bộ vĩ đại tại Normandie vốn sẽ phải quyết định số phận của cuộc chiến tranh tại Âu Châu. Trong các sự dự liệu cũ về chiến trường Thái Bình Dương, thì sự chiếm đóng bảy đảo san hô Mili, Jalut, Majuro, Maloelap, Wotffe, Kwajalien và Eniwetok sẽ kéo dài 2 tháng. Bình thường thì nó phải chấm dứt vào tháng 4 và 1 tháng nghỉ ngơi đã được xem là cần thiết trước khi mở cuộc tấn công tiếp.


Cuộc tiến quân thần tốc của Nimitz đã làm xáo trộn các tiên liệu này. Đại quân đảo Marshall đã bị vô hiệu hoá ngày 15 tháng 3 và căn cứ Truk bị tiêu diệt. Lực lượng của Spruance chỉ bị các tổn thất không đáng kể, không có gì ngăn trở một đợt tiến quân mới nếu kế hoạch cho phép thay đổi thời biểu. Nhưng không thể được. Giống như một chuyến xe lửa tốc hành đã phóng trên đường ray, guồng máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ phục vụ cho một số quá đông người thụ hưởng đến nỗi không thể nào thay đổi gì được nơi nó. Gia dĩ kế hoạch tấn công lên quần đảo Marianné đã không được uỷ ban tham mưu hỗn hợp chấp thuận vì bị Mac Arthur thúc giục, uỷ ban còn ngần ngại không biết phải theo đường lối nào.


Vả lại, ông Tướng sôi sục chẳng cần chờ được bật đèn xanh mới thực hiện thêm một bước nhảy nữa trên lộ trình của mình. Từ lâu ông có thói quen hành động không cần chờ đợi khi ông thấy chắc chắn thành công mà không cần phải xin bất cứ một sự giúp đỡ nào. Đó là trường hợp cuộc hành quân được dự trù sắp đến gồm có trước hết “By-Pass” căn cứ không quân hùng mạnh Wewak rồi chiếm duyên hải đảo Hollandia, 300 cây số xa hơn về phía tây, nơi có rất nhiều phi trường lớn.


Cuộc xung phong đổ bộ lên Hollandia, mà trước đó đã được chuẩn bị kỹ bởi một loạt oanh tạc có phương pháp, đã diễn ra trong các ngày đầu tháng 6, đúng lúc quân sĩ của Eisenhower lan tràn khắp Normandie. Cuộc đánh chiếm cũng thành công như cuộc đổ bộ tại Âu châu nhưng đã đưa lại một trong những niềm thất vọng sôi động nhất trong cuộc chiến định mệnh này: Các phi trường của Hollandia bị ngập nước vì nằm kế cận hồ Sentani, không thể nào làm khô được và hoàn toàn không thích nghi cho các pháo đài bay cất cánh… Nhưng cần gì! Cuộc đổ bộ tại Normandie đã thành công1 (Đọc “Hitler và trận đánh Normandie”-Sông Kiên xuất bản. Sách đã phát hành), chiếc đầu con bò cái ốm yếu đã bị vượt qua. Từ Aléoutennes đến Tân-Guinée, các lực lượng Mỹ đang hào hứng sửa soạn cuộc xung phong quyết định.


Về phía Nhật Bản, vụ mất tích của Koga đã đưa đến một tình trạng do dự. Tổng hành dinh Thiên hoàng đã để hơn một tháng2 (Đô đốc Takáu, tư lệnh khu vực tây nam Thái Bình Dương xử lý thường vụ) mới chỉ định người kế vị ông là Đô đốc Toyoda, người cho đến lúc đó vẫn chỉ huy khu vực hải quân Yokosuka. Trong tư cách là chỉ huy trưởng căn cứ hải quân quan trọng bao bọc cả vịnh Đông Kinh này, Đô đốc Toyoda đã tham dự chặt chẽ vào việc thiết lập các kế hoạch phòng thủ quần đảo Nhật Bản. Ông cũng đã trông nom công cuộc cải biến thành hàng không mẫu hạm chiếc Shinano, thiết giáp hạm thứ ba cùng loại với chiếc Yamato, vốn đã được lên khung tại công xưởng Yokosuka. Tổng hành dinh Thiên hoàng đặt niềm kỳ vọng lớn lao nhất vào chiếc siêu hàng không mẫu hạm 71.000 tấn này. Một mẫu hạm có thể mang theo 100 phi cơ và gần như không thể nào bị đánh chìm được. Nhưng Toyoda chưa bao giờ hành sử quyền chỉ huy trên mặt biển trong thời gian chiến tranh, và tên ông gần như là xa lạ với tất cả thuỷ đoàn. Đúng vào lúc quyết định ấy, chính đây là một điểm yếu trầm trọng. Có lẽ ông có thể bù trừ yếu điểm này bằng cách đặt bộ chỉ huy trên một trong các chiến hạm của mình, chiếc siêu thiết giáp hạm Musachi hoặc mẫu hạm mới Taiho rực rỡ vừa mới được mang ra sử dụng. Các giải pháp khác nhau ấy đều đã được đưa ra nghiên cứu tại Tổng hành dinh Thiên hoàng, sau cùng cơ cấu chỉ huy tối cao này chọn lựa một giải pháp dung hoà: Toyoda sẽ đặt hiệu kỳ của ông trên chiếc tuần dương hạm Oyodo, trên nguyên tắc vẫn bỏ neo tại Kisakaru trong vịnh Đông Kinh, nhưng sẽ di chuyển tuỳ theo tình thế.


Công thức tạp nham này sẽ cho thấy là không thực hành được. Năm tháng sau, khi mối đe doạ của các pháo đài bay Mỹ trên lãnh thổ Nhật Bản trở nên chính xác, Toyoda rời tuần dương hạm để thiết lập bộ chỉ huy trên đất liền, trong các hầm trú ẩn dưới mặt đất thuộc viện đại học Keio, lân cận Đông Kinh. Ông có đi ra ngoài vài tuần để đích thân đến Đài Loan nhận quyền chỉ huy không lực thuộc hải quân đúng lúc các trận đánh tháng 10 năm 1944 đang diễn tiến. Sau khi trận chiến thất bại, ông có ý định đến Phi Luật Tân, nhưng bộ tham mưu ép ông trở về Đông Kinh, và sau đó, ông ở tại đấy cho đến khi chiến tranh kết thúc.
 
Chính trong bối cảnh đó mà chúng ta thấy có các mệnh lệnh hành quân do Toyoda soạn thảo nhắm vào các trận đánh quyết định-và đặc biệt là kế hoạch A-Go nổi tiếng bắt đầu có hiệu lực từ lúc có cuộc tấn công của Mỹ vào quần đảo Mariannes. Kế hoạch này lặp lại các nét chính của kế hoạch Koga. Tuy nhiên kế hoạch nhấn mạnh nhiều hơn đến sự cần thiết phải hoà nhập về mặt chiến thuật không lực của lục quân và của hải quân vào trong một cơ cấu duy nhất, và xác định rõ ràng các khu vực mà ông hy vọng sẽ xảy ra một trận quyết định với lực lượng Mỹ. Đấy là khu vực phía Nam, giữa quần đảo Carolines và Tân-Guinée vốn được coi là khu vực có thể xảy ra chiến trận nhất. Khu vực quần đảo Mariannes trở thành thứ yếu. Ý tưởng hành quân thì vẫn như cũ: nhử chủ lực hạm đội mẫu hạm địch đến càng gần dãy phi trường trên các đảo càng tốt để cho phi cơ trên các phi trường này có thể hỗ trợ các không đoàn của mẫu hạm Nhật.


Vì số lượng phi cơ cần thiết chỉ có thể được tập trung vào cuối tháng 5 năm 1944, cho nên tất cả các đơn vị được lệnh từ chối đụng độ cho đến nhật kỳ ấy. Các điểm tiên liệu trong kế hoạch đã chú trọng vào tuần lễ sau cùng của tháng 5 năm 1944, đến 450 phi cơ của hải quân trong khu vực phía bắc phân phối trên các căn cứ Iwo-Jima, Saipan, Tinian và Guam, và đến 510 phi cơ trong khu vực phía nam được phân phối trên quần đảo Carolines, Phi Luật Tân, Célèbes và Tân-Guinée. Quá ít. Mỗi một khu vực ấy cũng đã rộng bằng cả Đại Tây Dương giữa quần đảo Antilles và Dakar, và mật độ của các phi cơ đặt căn cứ trên mặt đất trong mỗi khu vực tỏ ra quá yếu. Hơn nữa, do sự kiện quân Mỹ đã loại trừ căn cứ Truk và các phi trường Nhật trên quần đảo Carolines về phía đông, cho nên một thứ no man’s land không được phòng thủ sẽ nằm giữa giới hạn bán kính hoạt động của các phi cơ đặt căn cứ trên đất liền trên hai khu vực.


Để cố bít kẽ hở nguy hiểm này, ban tham mưu của hạm đội liên hợp đã cho thay đổi kiểu chiến đấu cơ đang được sản xuất (oanh tạc cơ đâm bổ Susei và phi cơ phóng thuỷ lôi Tenzan) để cho chúng có một bán kính hoạt động 400 dặm, trội hơn 30% bán kính hoạt động của phi cơ Hellcat Mỹ vốn chỉ có 280 dặm. Loại phi cơ đầu tiên kiểu này đã được đưa ra khỏi công xưởng vào cuối tháng 4 năm 1944 và được ưu tiên gửi đến Tân Gia Ba, nơi mà tất cả mẫu hạm của Ozawa đang được tập họp để huấn luyện. Vị tư lệnh hạm đội lưu động số 1 hy vọng còn có ba tuần nữa để hội nhập các phi cơ mới. Các cuộc thực tập ban ngày và ban đêm nối tiếp nhau theo một nhịp độ điên cuồng. Từ trên xuống dưới ai cũng mơ hồ cảm thấy ván bài sắp đánh sẽ có tầm quan trọng sống còn cho Nhật Bản. Nhưng chín mẫu hạm của hạm đội lưu động số 1, trong đó có chiếc Taiho, mới đến gia nhập, vượt trội hơn hẳn tất cả các mẫu hạm đang chạy trên mặt biển, và các siêu thiết giáp hạm của Ugaki, đã gây ra một cảm tưởng về sức mạnh đến nỗi chiến thắng gần như là một điều chắc chắn. Do đó chính trong không khí say sưa này mà tiếng cồng đầu tiên của hiệp quyết định vang lên một cách bất ngờ.


Ngày 20 tháng 5 năm 1944, Mac Arthur, thấy rằng Hollandia không cung cấp được cho các oanh tạc cơ của ông những căn cứ xuất phát mà ông cần thiết để phá tan công cuộc phòng thủ trên quần đảo Phi Luật Tân, mưu toan một cuộc đổ bộ bất ngờ lên đảo Biak, bất chấp khoảng cách quá lớn giữa nó và các căn cứ của ông và bất chấp tầm quan trọng của lực lượng trú phòng trên đảo. Đấy là một cuộc hành quân táo bạo nhất và có hậu quả lớn nhất trong suốt cuộc chiến của Mac Arthur. Lực lượng thuỷ bộ số VII do viên Đề đốc trẻ tuổi Fechteler xử lý quyền chỉ huy. Ngày 27 tháng 5 đã thành công trong việc đổ bộ 10.000 quân lên đảo. Mặc dầu đạo quân trú phòng Nhật trên tiểu quần đảo này cũng đông đến cả chục ngàn người, nhưng họ đã không đẩy lùi được quân tấn công. Viên Đại tá chỉ huy quân Nhật đã cho lập chung quanh các phi trường một hệ thống phòng thủ chiều sâu vô cùng kiên cố bẻ gãy được cuộc tiến quân của Mỹ, nhưng ông ta không thể đẩy họ ra biển. Binh sĩ của Mac Arthur đã tiến sát phi trường trong tầm súng đại bác, cho nên quân Nhật không thể sử dụng các phi trường được nữa.


Chốt Biak được coi như vô cùng quan trọng cho công cuộc phòng thủ khu vực phía nam đến nỗi vị tư lệnh hạm đội liên hợp phải tổ chức ngay một cuộc hành quân để đẩy lùi quân xâm chiếm. 2.500 thuỷ quân lục chiến Nhật được đưa lên khu trục hạm tại Mindanao để đi tiếp cứu; các thiết giáp hạm Musachi và Yamato cùng với lực lượng tuần dương hạm hộ tống hùng mạnh áp đảo, sẵn sàng can thiệp. Song Toyoda đã không dám ra lệnh nhổ neo hạm đội lưu động số 1 của Ozawa vì các chiến hạm bị phân tán rải rác đang huấn luyện và không sẵn sàng chiến đấu với hiệu năng tối đa. Nhưng vì hạm đội thiết giáp của ông rất cần sự che chở của không quân để có thể đương đầu với hạm đội Mỹ, ông ra lệnh cho Ozawa gửi một phần phi cơ và một số phi công ưu tú đến Mindanao.


Do sự kiện này, các kế hoạch A-Go, vốn được soạn thảo hết sức tỉ mỉ, đã bị một sự xáo trộn đầu tiên. Tại Mindanao, mọi người đều tin rằng sắp có một sự can thiệp cấp kỳ của hạm đội Mỹ tại khu vực phía Nam Thái Bình Dương. Vị Đô đốc chỉ huy cuộc hành quân tiếp cứu vì nhận được một điện văn báo hiệu sai lầm là có sự hiện diện của một mẫu hạm Mỹ nên đã vội cho lực lượng quay lui mà không chờ có sự xác nhận. Trong lần toan tính thứ hai, ông ta gặp các tuần dương hạm của Crutchley đang canh gác ngoài khơi Biak, và ông ta đã ẩn tránh mà không tấn công, tin rằng đang có chuyện với bộ phận tiền phương của một hải lực quan trọng.
 
Nhưng cùng ngày ấy-ngày 8 tháng 6 năm 1944-vị Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp được thông báo rằng các mẫu hạm Mỹ đã rời khỏi quần đảo Marshall để tiến về quần đảo Mariannes. Mọi hy vọng của một cuộc gặp gỡ tại khu vực phía nam đều tiêu tan. Cuộc hành quân tiếp cứu Biak bị huỷ bỏ ngay và hạm đội lưu động số 1 được lệnh quay trở về Tawi-Tawi phía bắc Bornéo để được tiếp tế. Sau đó nó sẽ phải đến tiếp hợp với hạm đội thiết giáp của Kurita và sau khi tiếp nhận các phi cơ biệt phái, cùng với các thiết giáp hạm lên đường tiến tới Saipan “để tìm kiếm hải lực địch tại đó và tiêu diệt chúng cùng một lúc”.


Ngày 15 tháng 6, Ozawa và Kurita thực hiện cuộc tiếp hợp hai lực lượng trong quần đảo Phi Luật Tân. Trong thời gian đó, các mẫu hạm Mỹ thực hiện các cuộc oanh tạc tàn phá Saipan và một không đoàn còn tiến xa đến tận Iwo-Jima cách 400 cây số phía bắc quần đảo Mariannes. Sau đó ít lâu, phi cơ thám sát của Kusaka thấy một hải lực gồm nhiều trăm chiến thuyền đang trên đường tiến tới Mariannes. Sáng ngày 15, Toyoda chuyển đến các Đô đốc thuộc hạm đội liên hợp bản điện văn sau đây: “Nhiều lực lượng quan trọng của địch đã bắt đầu các cuộc đổ bộ trong vùng Saipan-Tinian. Hạm đội liên hợp sẽ tấn công chúng trong hải phận quần đảo Mariannes để tiêu diệt chúng. Áp dụng kế hoạch A-Go cho trận đánh quyết định".

Ngọn lao đã phóng đi. Cuộc gặp gỡ sẽ xảy ra ở cách quá xa căn cứ không quân của Kujaka.

Chiều ngày 16 tháng 6, hạm đội liên hợp tiến ra khỏi các eo biển thuộc quần đảo Phi Luật Tân và được tiếp tế bổ túc dầu cặn trong ngày 17 bằng các tàu dầu của hạm đội. Nhiều tin tức rất chính xác hôm ấy được đưa đến cho Ozawa, liên quan đến sự phân phối hải lực Mỹ. Một lực lượng mẫu hạm tuần tiễu ngoài khơi Saipan và dường như muốn ở lại đó trong suốt cuộc hành quân xâm chiếm; rất nhiều chiến hạm, trong số đó có các mẫu hạm nhẹ và các mẫu hạm hộ tống, phụ trách che chở cho cuộc đổ bộ và oanh tạc thúc giục không ngừng nghỉ các phi trường và hệ thống phòng thủ trên bộ tại Guam, Saipan và Tinian.


Nhờ có thì giờ trong suốt ngày 17 để hoàn tất kế hoạch tấn công, Ozawa không chờ đợi mệnh lệnh của Đông Kinh, ra lệnh lên đường tấn công, trên các chiến hạm, tinh thần căng thẳng từ giờ phút. Các thuỷ thủ đoàn đã được thông báo những biến cố trọng đại đang được chuẩn bị, biển lặng, bầu trời đêm lấp lánh ánh sao. Các điều kiện hết sức thuận tiện cho một cuộc tấn công bằng phi cơ. Các hoa tiêu ngồi chờ trong phòng báo động trong cơn sốt mệnh lệnh cất cánh.


Đến nửa đêm, một đệp văn từ Đông Kinh gửi đến và sau đó được công bố trên tất cả các chiến hạm thuộc hạm đội. Điệp văn ký tên vị Tổng tư lệnh hạm đội và được soạn thảo như sau: “Tôi kính cẩn cúi đầu chuyển đến quí ông bản điệp văn của Thiên hoàng mà Tổng hành dinh vừa đưa đến.-Cuộc hành quân đang xúc tiến sẽ có vô vàn ảnh hưởng sâu xa đến số phận vương quốc. Chúng tôi hy vọng rằng các lực lượng hải quân sẽ ráng hết sức mình và cũng sẽ thu đạt được các kết quả tuyệt vời như trận đánh Tsoushima.


Được khuyến đại bởi âm vang mênh mông của tước vị thiên hoàng, đấy chính là sự khích lệ tối hậu cho tất cả chiến hạm mà tư lệnh các hải đoàn phổ biến trước ngày xảy ra trận chiến vĩ đại. Bất chấp sự mệt mỏi tột độ của những ngày trước đó, không một người nào tính đến chuyện nghỉ ngơi. Từ trên xuống dưới hệ cấp các đơn vị, trong tâm trí mọi người đều nghĩ đi nghĩ lại các hành động phải làm trong cuộc thử thách vĩ đại ngày mai.


Ý tưởng điều quân của Ozawa rất đơn giản: lợi dụng bán kính hoạt động cực lớn của các phi cơ mà ông vừa nhận được (gần gấp đôi bán kính hoạt động của phi cơ Mỹ) để đồng loạt tung chúng về phía hạm đội địch, rồi tiến đến gần mà không sợ bị tấn công cho đến khoảng cách vừa tầm của các phi cơ kiểu cũ mà bán kính hoạt động yếu hơn. Lúc đó các mẫu hạm địch sẽ hoặc bị hư hại, hoặc quá bận phòng thủ nên không thể nghĩ đến chuyện tấn công. Như thế, ông có thể tiếp đón các phi cơ thuộc đợt đầu lên mẫu hạm và tuyên bố một đợt tấn công thứ hai với sự yểm trợ của các không đoàn đặt căn cứ trên đất liền. Các thiết giáp hạm khổng lồ và các tuần dương hạm sẽ can thiệp tiếp theo bằng hải pháo để tiêu diệt những gì còn nổi trên mặt biển. Kế hoạch táo bạo này có tính cách vô vùng hữu lý. Nhưng nó đã phạm nhiều lầm lỗi.


Ozawa là một sĩ quan hải quân sáng chói đã từng chia sẻ binh nghiệp giữa sự chỉ huy trên biển và các văn phòng thuộc bộ Tổng tham mưu. Ông được nhào nặn bởi các chủ thuyết thuộc nhiều trường phái chiến tranh và có thiên phú đáng kể về mặt tổ chức-tư thế của ông trong các cuộc hành quân tại Mã Lai là một bằng chứng-nhưng ông không phải là một phi công và không biết thích nghi các phương pháp của ông với thứ vũ khí mới mà kỹ thuật đã vượt khỏi tầm hiểu biết của ông. Quen thấy các phi công Nhật vượt trội hẳn phi công Mỹ, ông không ý thức được một cách chính xác tình trạng giảm giá trị mà các không đoàn của ông phải chịu đựng từ khi những phi công tân tuyển thay thế các phi công lão luyện. Ông cũng không tưởng tược được rằng các căn cứ không quân trên các đảo, được cao xạ D.C.A bảo vệ mạnh mẽ, lại có thể bị phi cơ địch vô hiệu hoá. Kế hoạch của ông có phần nào dựa trên sự tiếp tay của các phi cơ đặt căn cứ tại Saipan, Tinian và Guam; thế mà ngay cả trước khi trận đánh bắt đầu, các phi cơ này đã bị tiêu diệt thật sự ngay trên mặt đất bởi các oanh tạc cơ hạng nặng của quân đội Mỹ hoặc bị hạ từ trên không bởi vô số khu trục cơ của các mẫu hạm nhẹ đang tuần tiễu trong quần đảo Mariannes.


Sự thận trọng đòi hỏi phải chiến ngay khi nhận biết được tin tức này. Thế nhưng một biện pháp như thế không thể nào phù hợp với tâm tánh của vị tư lệnh hạm đội lưu động. Ông không hề nghĩ đến biện pháp ấy.
 
Ozawa là một người nhỏ thó mảnh khảnh, nét thanh tú và dáng vóc sinh động. Cái nhìn của ông lọc qua hai hàng lông mi gấp nếp chiếu sáng rõ một khuôn mặt bất động. Một cảm tưởng về sự bình tĩnh không có gì lay chuyển được và về sự quyết tâm lạnh lùng, đã thoát ra từ nhân cách ông. Ông có thiên phú tạo niềm tin nơi kẻ thuộc quyền nhờ những tia sáng chói lọi từ nơi đức tự tin mãnh liệt của chính ông.


Khi Ozawa được báo cho biết có sự hiện diện của các hải lực địch cách 50 hải lý về phía tây nam Saipan lúc 7 giờ sáng ngày 19 tháng 6 năm 1944, 246 phi cơ có tầm bán kính hoạt động lớn của hải đoàn 1 và 2 được lệnh cất cánh. Cuộc hành quân diễn tiến nhỏ trong một cuộc thực tập. Đến 8 giờ, hai mẫu hạm cư phi cơ cất cánh đổi hướng về phía nam để giữ khoảng cách. Mỗi người đưa mắt theo dõi đoàn phi cơ hùng hậ bay xa dần trong bầu trời xanh biếc. Toàn diện hạm đội lưu động đều phấn khởi vì niềm tin tuyệt đối vào sự thành công.


Đột nhiên, đài chỉ huy của soái hạm được báo động bởi một phi cơ tuần thám đang bay sát mặt nước theo lối chữ chi kỳ lạ để tránh sự chú ý. Gần như lập tức các trinh sát viên báo hiệu có nhiều luồn sóng thuỷ lôi và chiếc phi cơ đâm thẳng góc xuống một trong các thuỷ lôi ấy rồi vỡ tan, cách soái hạm vài chục thước. Sự hy sinh anh hùng ấy dường như đã tránh cho chiếc Taiho khỏi bị đe doạ một chốc lát sau khi đột ngột chạy tréo sang một bên, nó lại tiếp tục hướng đi ban đầu. Vài giây sau, một tiếng nổ điếc tai làm rung chuyển chiếc chiến hạm: một thuỷ lôi thứ hai đã trúng đích! Cách sắp đặt các phòng ngăn dưới hầm tàu Taiho đã được nghiên cứu kỹ đến nỗi chiếc đại chiến hạm chịu đựng tiếng nổ như là một mũi kim chích vào da. Sau khi chậm lại một chút, nó trở lại tốc độ bình thường trong lúc các toán an ninh lo bít các chỗ nước tràn vào. Không có gì thay đổi kế hoạch khởi thuỷ. Chiếc Taiho chỉ chứng tỏ một điểm yếu và vừa hợp thức hoá danh tiếng “mẫu hạm không thể bị đánh chìm” của nó.


Một niềm lo âu bắt đầu biểu hiện trên đài chỉ huy của soái hạm khi chẳng có tin tức gì về các đoàn phi cơ tấn công được chuyển đến sau hai giờ chờ đợi. Đến 10 giờ, Ozawa ra lệnh phóng đợt xung phong thứ hai, khoảng cách với địch quân giờ đây giảm xuống đủ để cho các phi cơ có bán kính hoạt động ngắn can thiệp vào. Ngay lúc đó, thang máy của chiếc Tahio lại bị hư làm chậm trễ giờ khởi hành của các phi cơ và mãi đến 12 giờ 30 chúng mới có thể cất cánh được. Vài phút sau, nhiều phi cơ Nhật, trong số đó nhiều chiếc dường bị như bị khó khăn, bay trên chiếc đại chiến hạm, để đáp xuống. Sự vận chuyển để tiếp nhận gần như tận, nhất là khi ai nấy rất nóng lòng muốn biết kết quả của trận đánh.


Báo cáo của các phi công kiệt sức, mà phần đông phải được giúp đỡ mới bước ra khỏi phòng lái được, đã gieo rắc mối kinh hoàng trên đài chỉ huy của soái hạm. Đợt tấn công đầu tiên thoạt kỳ thuỷ đã gặp mây, rồi cả một đoàn phi cơ địch đông như bầy ong ẩn đằng sau, cách mục tiêu hơn 30 hải lý (35 cây số) chờ đợi chúng. Trong cuộc đụng độ rối loạn xảy ra sau đó, các phi cơ Nhật bị số đông phi cơ địch áp đảo. Đa số bị bắn hạ, nhưng vài chiếc chắc đã vượt được hàng rào phi cơ ngăn chặn của hạm đội Mỹ. Chắc chắn chúng đã có thể tấn công địch và đáp xuống Guam sau khi hết xăng vì người ta không thấy chúng trở lại nữa.


Khi biết được các tin tức này, Ozawa đã do dự một lúc, rồi quyết định tung đợt cuối cùng 42 chiếc của hải đoàn số 1. Khi các phi cơ vừa cất cánh hết, một tiếng la lớn vang đến đài chỉ huy của mẫu hạm Taiho: chiếc Shokaku lúc đó đang chạy ngang hàng cách hai dặm, bị trúng đạn ở mạn hữu đang tuôn ra một làn mây khói. Tiếng động do một vụ nổ xa xa đã làm tiêu tan mọi nghi ngờ: đến lượt chiến hạm bị trúng thuỷ lôi!


Trên mẫu hạm Shokaku, các toán an ninh quen thuộc với các hư hại trong khi đụng độ, đã dập tắt được ngọn lửa do tiếng nổ gây ra và sau một giờ chiến đấu, nguy cơ cháy xăng có vẻ đã đi qua.


Trong lúc đó vài phi cơ của đợt hai bắt đầu đáp xuống chiếc Taiho. Thấy mẫu hạm Shokaku đã chế sự được các hư hỏng, Ozawa ra lệnh cho hai mẫu hạm tiến về phía đông để tiếp đón hai đoàn phi cơ cuối cùng sau khi chiến đấu trở về. Không một phi cơ nào của Mỹ đến tấn công hạm đội Nhật. Những hư hỏng duy nhất gây ra cho hạm đội cua rông đều do các tàu ngầm địch rủi ro gặp phải trên trục tiến quân. Mặc dầu các phi cơ trở về với nhịp độ rất yếu, ông có quyền nghĩ rằng quân Mỹ phải bị thiệt hại khá nặng nên phải rút lui về phía đông để khỏi bị thiệt hại thêm.


Theo như các nhân chứng có mặt lúc đó thì vị Tư lệnh hạm đội lưu động số 1 “rạng rỡ lạc quan” trong lúc đột nhiên, cả một loạt tiếng gầm kéo dài làm vỡ tan sự im lặng, lúc đó là 15 giờ. Thoạt tiên ông cho đó là tiếng nổ của lựu đạn chống tiềm thuỷ đỉnh do các khu trục hạm vốn có nhiệm vụ săn đuổi liên tục tàu ngầm Mỹ tung ra. Nhưng khi thấy chiếc Shokaku, ảo tưởng biến mất. Nhiều cuộn khói bốc cao cho đến cột buồm và, hai phút sau, một tiếng nổ phát ra vang dội, phóng một chùm tia lửa lên cao. Rồi các cuộc khói đen quay cuồng do gió thổi tạt lên mặt biển trên hai luồng sóng sau chiến hạm. Mẫu hạm kỳ cựu của những trận đụng độ hùng tráng trên biển San hô và quần đảo Salomon lần này phải gục ngã vì cháy xăng.


Ozawa vừa mới có thì giờ ra hiệu cho chiếc Zuikaku đến gần, 15 phút sau một tai nạn bi thảm đã làm đài chỉ huy soái hạm bối rối. Hơi xăng lan tràn dưới đáy hầm và từ các loa phóng thanh lệnh báo động được ban ra: “Nguy cơ cháy xăn”. Tất cả các mạch điện đều bị cắt trong các ngăn bị đe doạ khiến gây ra một cảnh hỗn loạn. Thuỷ thủ đoàn trên chiếc Taiho không cùng có kkn như của chiếc Shokaku. Người chỉ huy an ninh, hoảng hồn vì tỷ lệ lớn lao các ngăn tàu mà hơi xăng tràn, liền ra lệnh mở hệ thống quạt để thông hơi đáy tàu. Mệnh lệnh điên rồ này cũng như một mồi lửa đưa xuống dưới một thùng thuốc súng. Đáy mẫu hạm đồng loạt biến thành một lò lửa thép và xô ngã các tường vách ngăn cách hầm tàu. Hầm máy bị lửa tràn ngập và tất cả các động cơ đều ngừng quay. Mẫu hạm nghiêng và nắt đầu chìm.
 
Đô đốc Ozawa ra lệnh di tản và cùng với bộ tham mưu chuyển sang chiếc tuần dương hạm gần nhất. Vừa đặt chân lên đó, ông thấy mẫu hạm Taiho chúi xuống từ đằng sau và biến mất trong sự rung chuyển vĩ đại.


Khi đêm xuống, bộ tham mưu của ông đặt tại các phòng ốc chật hẹp của tuần dương hạm Majuro, Ozawa tuyệt đối bình tĩnh soạn thảo các huấn lệnh cho hạm đội lưu động số 1. Ông đã bị những tổn thất nặng nề, nhưng ông còn lại một đại mẫu hạm, chiếc Zuikaku, chiến hạm luôn luôn may mắn, và toàn diện lực lượng mẫu hạm nhẹ. Ông chưa có con số chính xác các phi cơ được tiếp nhận trở lại, nhưng tính toán rằng những chiếc không trở về chắc đã xuống Guam hoặc Rota trong quần đảo Mariannes. Hơn nữa, các báo cáo của những phi công sống sót sau trận đánh đã nhấn mạnh đến bốn mẫu hạm nặng của Mỹ bị đánh chìm và một số lớn khu trục Hellcat bị bắn hạ.


Do đó Ozawa suy tính rằng không có lý do gì không tiếp tục cuộc tấn công. Một điểm hẹn liền được ấn định với các tàu tiếp tế vào ngày mai, trong khi đó mệnh lệnh tiếp tục các cuộc không thám vào lúc bình minh được chuyển đến cho các mẫu hạm của hạm đội. Sau đó Đô đốc ra lệnh im lặng vô tuyến hoàn toàn cho tất cả các chiến hạm đang hành quân trong vùng.


Đêm tối và những giờ đầu tiên của hôm sau trôi qua mà không có báo động mới, Ozawa kết luận rằng hạm đội Mỹ bị khó khăn phải rút về phía đông, nên quyết định đuổi theo.

Mặc dầu những điều tiên liệu của Ozawa hoàn toàn sai lạc (các phi công của ông chỉ có làm hư hại được hai mẫu hạm và một thiết giáp hạm) thì không phải hạm đội Mỹ không tỏ ra kém phần ham chiến đấu. Không có một máy bay tuần thám ban đêm nào đến quấy rối sự yên tĩnh của các chiến hạm Nhật trong khi các thuỷ phi cơ thám sát của Nhật không ngừng quan sát từ xa mọi chuyển động của đối phương. Đối với Ozawa thật khó-nếu không phải là không thể nào tưởng tượng ra nguyên nhân của sự ngần ngại quá thận trọng này.


Trong thực tế, có hai nguyên nhân: một mặt Đô đốc Sprannce, tổng tư lệnh quân lực xâm chiếm quần đảo Mariannes, đã ra lệnh cho Đô đốc Mitscher, tư lệnh lực lượng đặc nhiệm mẫu hạm, đừng rời xa Saipan nơi đang diễn ra cuộc đổ bộ khó khăn; mặt khác, sự ngăn chặn các phi cơ Nhật (mà phi công Mỹ mệnh danh cho là một “cuộc bắn chim bồ câu” vì số lượng nạn nhân lớn quá) đã kéo theo một sự mệt mỏi không phải là ít, đến nỗi Mitscher phải gạt bỏ ý tưởng tung các phi công của mình vào một cuộc phiêu lưu mới.


Mitscher là một phi công lão luyện có vô số giờ bay, và trái ngược với các đô đốc thường vốn hay có khuynh hướng sử dụng máy bay như là đạn đại bác mà không cần nghĩ đến chuyện gì có thể xảy ra cho chúng sau đó, ông chăm sóc tinh thần của các phi công, những chiến sĩ mà ông biết rằng ngày một ngày hai sắp đến sẽ quyết định chiến thắng hay chiến bại. Vì lẽ ông hoàn toàn không biết gì về tổn thất của địch do tàu ngầm gây ra, ông ngại một cuộc tấn công mới sẽ xảy ra ngày 20 tháng 6 và muốn đương đầu với đợt tấn công này với đầy đủ phương tiện của mình. Một buổi sáng nghỉ ngơi, theo ông, là vô cùng cần thiết và cũng không đòi hỏi-đáng lẽ ra ông phải làm-gia tăng thập bội các cuộc tuần thám để tìm lại vị trí hạm đội Nhật.


Thế mà, trong buổi sáng đó, Ozawa đã nhận được một điện văn dài của Kasuka, Tư lệnh không lực tại quần đảo Mariannes, báo tin rằng 17 phi cơ sống sót sau cuộc “bắn chim bồ câu” hôm trước đã khẩn cấp đáp xuống Guam, hoàn toàn không thể cất cánh lại được nữa, và rằng các không đoàn của riêng ông vì bị thử thách quá nhiều bởi các cuộc oanh tạc ồ ạt của đối phương đến nỗi chỉ có thể mang lại cho ông một sự hỗ trợ yếu kém mà thôi. Khi biết được về định mệnh mới này, thái độ lạc quan của Ozawa đột ngột sụp đổ. Ông huỷ bỏ sự tiếp tế đã tiên liệu, và rút lui hạm đội lưu động của ông về Nhật Bản.


Như thế là hai hạm đội đối nghịch xa dần nhau thay vì xáp lại gần nhau và mãi đến 16 giờ ngày 20 tháng 6 một phi cơ tuần thám của Mỹ mới báo hiệu được vị trí hạm đội Nhật Bản. Mặc dầu nhận được lệnh của Đô đốc Spruannce là “tấn công ngay khi có tin chính xác”, Mitscher vẫn ngần ngại không muốn tung ra các không đoàn của mình để tấn công. Quyết định của ông sẽ rất trầm trọng: mặt trời đã hạ dần xuống chân trời và hạm đội Nhật đang ở vào vị trí xa nhất của bán kính hoạt động, điều này bắt buộc các phi cơ phải quay trở về lúc trời tối và bắt buộc tổ chức một cuộc tiếp đón phi cơ hết sức liều lĩnh. Nhưng cơ hội đánh bất ngờ và tiêu diệt hạm đội địch hết sức tốt đẹp. Do đó, rốt cuộc ông chấp nhận mạo hiểm.


Các không đoàn Mỹ tổng cộng 216 phi cơ tấn công làm nhiều đợt từ 18 giờ 20 đến 19 giờ, nghĩa lúc mặt trời lặn. Hạm đội lưu động số 1 vẫn còn phân tán xa nhau, tạo thành nhiều mục tiêu dễ dàng, nhưng sau khi bay một chặng đường 450 cây số, các phi cơ của Mitscher chỉ vừa đủ xăng để thả bom hoặc phóng thuỷ lôi vào chiến hạm đầu tiên trông thấy, rồi quay lui ngay không để mất một giây.


Tham chiến trong các điều kiện này, trận chiến hết sức mơ hồ rối loạn, các phi cơ khu trục của Ozawa mặc dầu số ít, nhưng đã chống cự rất hung dữ. Trong số bảy mẫu hạm của hạm đội lưu động, năm chiếc bị đánh trúng, nhưng chỉ một chiếc bị chìm (chiếc Hiyo) vì bị trúng nhiều bom và hai thuỷ lôi1 (Mà một quả lại do một tàu ngầm phóng đi). Tất cả chiến hạm khác có thể tiếp tục chạy về Okinawa và Nhật Bản. Hạm đội của Ozawa đã thoát khỏi cuộc tàn sát.
 
Trong khi hạm đội lưu động số 1 lao vào bóng đêm, các phi cơ của Mitscher gặp rắc rối to trong khi tìm cách trở lại mẫu hạm của chúng. Mặt trăng lưỡi liềm chiếu sáng các cuộc tấn công sau cùng nay đã bị mây bao phủ cả chân trời che khuất và các phi công phải bay bằng dụng cụ phi hành trong bóng tối hoàn toàn. Các làn sóng vô tuyến bận rộn vì các tiếng gọi lo âu và các chỉ dẫn do chiến hạm phát đi bị chìm ngập trong một thứ tiếng lao xao không nghe rõ được.


Lo âu khi chờ đợi phi cơ trở về, Mitscher đã áp dụng một quyết định chưa từng có trong các niên giám của các cuộc hải chiến. Ông ra lệnh cho tất cả các chiến hạm hướng các đèn rọi lên chiếu sáng bầu trời và cho chiếu sáng sàn đáp các mẫu hạm bằng tất cả mọi phương tiện kể cả đèn pha xe hơi. Sau đó ông tung các phi cơ săn giặc đêm bay lên đón đoàn phi cơ trở về để hướng dẫn chúng đáp xuống tổ ấm.


Cuộc thao diễn nối tiếp sau đó trông thật ngoạn mục. Sáu mẫu hạm nặng và năm mẫu hạm nhẹ chạy trên hai trục dưới một vòm các chùm đèn chiếu sáng và hoả châu. Khi các phi cơ xuất hiện như những con đom đóm sáng bạc, các đèn ròi được tắt đi và các phi công có thể hạ xuống phía các sàn đáp được đèn xe hơi rọi sáng. Nhưng thần kinh căng thẳng quá cho nên mọi chuyện khó thể xẩy ra như trong một cuộc thực tập. Nhiều phi công không móc được dây hãm đà và đâm vào các rào cản, làm chậm trễ những chiếc theo sau; nhiều chiếc khác, hết xăng phải đáp trên biển; sau hết nhiều chiếc chìm luôn xuống nước vì nhiều lý do. Trong tổng số 216 phi cơ cất cánh lúc 16 giờ, chỉ có 116 là được thu hồi. Trong số 100 chiếc thì 20 chiếc bị quân Nhật bắn hạ, 80 bị mất vì tai nạn. Mitscher đã làm tất cả mọi chuyện, và các thuộc viên của ông cũng đã thực hiện chuyện phi thường để cứu các phi công lâm nạn. 101 người được vớt ngay trong đêm và 59 người được cứu khỏi các xuồng cao su hôm sau. Do đó, tổn thất về người chỉ lên đến con số rất thấp 49 bị giết hay mất tích.


Riêng về phần thiệt hại của hạm đội thứ 5 thì không đáng kể: một trái bom đã rơi trên thiết giáp hạm South Dakota, một phi cơ-quyết tử đâm vào thiết giáp hạm Indiana, nhưng không có mẫu hạm nào bị đánh trúng.


Quả thật là thiệt hại không bao nhiêu nếu so sánh với thảm bại mà hạm đội lưu động số 1 phải chịu đựng. Gần như tất cả chiến hạm đều bị hư hại, và trong tổng số 430 phi cơ lúc khởi hành, chỉ còn lại có 35 chiếc là còn có thể bay được.


Ngay khi bỏ neo hạm đội, Ozawa gửi cho vị Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp một lá đơn từ chức diễn tả niềm hổ thẹn đã để cho cơ hội đưa Nhật Bản đến chiến thắng bị trôi qua một lần nữa. Ông tự gán cho sự thất bại của mình nguyên nhân đầu tiên là do sự kém cỏi của ông, nhưng đồng thời cũng là do tình trạng thiếu huấn luyện phi công. Tổng hành dinh Thiên hoàng từ chối không cho ông từ chức vì như thế là kéo theo sự từ chức của Toyoda. Hải quân Nhật Bản trong tình trạng bị săn đuổi không thể nào đủ sức chịu đựng sự thay đổi chức vụ Tổng tư lệnh lần thứ ba.
 
Tiến ngược lên phía Nhật Bản

Một sự chọn lựa khó khăn

Như một võ sĩ quyền anh bị hạ đo ván, vị Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp phải mất một thời gian lâu mới tĩnh trí lại được. Trong một nỗ lực tối thượng để ngăn chặn tiếng cồng bại trận, ông nghiên cứu tập họp các lực lượng của mình. Trong tình trạng hiện thời của hạm đội lưu động số 1, mọi hy vọng cứu vãn quần đảo Mariannes đều bị tiêu tán. Phải cần nhiều tháng trời mới có thể tái lập lại các phi đoàn cho những hàng không mẫu hạm và của các căn cứ trên đất liền tại Đài Loan và Phi Luật Tân. Trong khi chờ đợi phải tìm cách làm chậm lại đà tiến quân của Mỹ bằng cách chống cự kịch liệt tại các đảo còn chiếm đóng và sử dụng tối đa phi cơ và tàu ngầm nhưng không đưa bất cứ một chiến hạm nào còn lại vào vòng mạo hiểm.


Chính vì vậy, trong bầu trời và trên một mặt biển trống vắng, mà các lực lượng của Đô đốc Spruannce có thể đổ bộ lên hết đảo này đến đảo kia từ Saipan cho đến Iwo-Jima. Tuy nhiên, mặc dầu có sự vắng mặt của tất cả những sự can thiệp từ bên ngoài, cuộc kháng cự của quân Nhật mau lẹ mang tính cách kịch liệt đến nỗi nhiều cuộc hành quân được dự liệu trong vài ngày đi phải kéo dài hàng tuần.


Tại Saipan, nơi lực lượng chuyển vận thuỷ bộ của Đô đốc Turner đã đổ bộ dễ dàng trong ngày 15 tháng 6 năm 1944, sau một đợt chuẩn bị mãnh liệt bằng hải pháo và oanh tạc (8.000 người được đổ bộ trong vòng 20 phút) cuộc tiến quân của Mỹ bị chặn kẹt cứng ngay trên bãi biển. Các máy kéo bọc sắt chỉ có thể tiến lên được chừng 30 thước và phần nhiều đã bị các ổ đại bác được nguỵ trang tài tình bắn tan tành. Sau hai ngày chiến đấu mệt nhọc, thuỷ quân lục chiến của sư đoàn 2 bị thiệt mất 1.575 người, tử trận hoặc bị thương và bộ binh đến sau đó chỉ mở rộng đầu cầu được đôi chút. Thiếu tướng Holland Smith hiểu rằng Saipan sẽ là một Bétio thứ hai.


Quả thế thật, nhưng cả Holland Smith lẫn Turner đều không phải chịu trách nhiệm, vì cả hai người đều được các phụ tá thay thế, tướng Harry Schmidt và Đô đốc Hill. Đối thủ đáng sợ của họ, tướng Seito, đã tổ chức trên các sườn của ngọn núi lửa Tapotchau một hệ thống rắc rối gồm các pháo đài, các hang động nối nhau bằng những đường hầm. Toàn bộ được nguỵ trang tài tình đến nỗi các cuộc oanh tạc và hải pháo đã hoàn toàn vô hiệu. Mỗi một hang hốc, mỗi một hầm hố phải bị tấn công bằng Bazoka và súng phun lửa, và phải mất 24 ngày với 77.000 quân Mỹ được 209 tàu chuyên chở đến chiến trường mới đánh bại được 20.000 quân trú phòng trên đảo.


Ngày 7 tháng 7 năm 1944, các tiểu đoàn sau cùng của tướng Seito tung ra một đợt phản công đầy tuyệt vọng. Bốn ngàn binh sĩ và thường dân võ trang đủ loại vũ khí từ đại liên cho đến gậy tre có gắn mũi dao, nhô ra khỏi các hầm hố hò hét “Banzai”1 (Banzai: nghĩa thật sự là “ngàn kiếp sống”. Được sử dụng hoặc để nói một câu chúc tụng-trong khi dự một tiệc rượu chẳng hạn-hoặc như một tiếng la tỏ tình yêu nước để huấn luyện binh sĩ khi xung phong) và “Hy sinh bảy kiếp để cứu tổ quốc!”. Hai đại đội bị đụng trước tiên phải nhường bước cho làn sóng người và người ta lại phải gọi chính Sư đoàn 2 thuỷ quân lục chiến đến trám kẽ hở. Rồi sự can thiệp của pháo binh đã chấm dứt lò tàn sát bằng cách bắn như sấm sét sát ngay cạnh những kẻ sống sót sau cùng. Hôm sau chỉ còn binh sĩ lẻ tử ở phía bắc đảo. Bị quân Mỹ bao vây, vài trăm quân nhân và thường dân lúc đó từ trên đỉnh của bờ biển dốc đứng tại mũi Marti đều nhảy xuống vực tự sát. Xác của tướng Seito không thể nào được nhận ra giữa hàng ngàn xác chết chất thành đống trước các hầm hố hay bị cháy ra tro trong các hang động. Xác của Đô đốc Nagumo, người chiến thắng tại Trân Châu Cảng, tư lệnh hải quân và không lực thuộc hải quân tại quần đảo Mariannes, được tìm thấy trong đống đổ nát của các toà nhà dùng làm Bộ tư lệnh Hải quân. Ông không chịu để cho mang đi và tự bắn một viên đạn vào đầu.


Mức độ kịch liệt của cuộc phòng thủ do Seito chỉ huy đã cho nếm trước mùi vị của những gì phải trả giá cho các cuộc chinh phục trong tương lai. Do đó các cuộc tấn công vào Tinian và Guam đều được một cơn hồng thuỷ toàn bom và đại pháo trút xuống trước. Tại Tinian, sự phá huỷ các cứ điểm phòng thủ kiên cố được dễ dàng nhờ nó nằm gần các bờ biển dốc đứng của Saipan, nơi đại pháo của Mỹ có thể bắn qua, và nhờ sự sử dụng một phương tiện tàn phá mới được mang ra thử lần đầu tiên tại đó: bom Napalm1 (Xăng chứa 6% tinh thể Napalm đông đặc) với hiệu quả làm bốc cháy cho thấy đã vượt hơn loại lân tinh nhiều. Hòn đảo được quét sạch trong chín ngày. Tám ngàn quân trú phòng bị tiêu diệt với giá năm trăm sinh mạng quân Mỹ.


Ngày 2 tháng 8 đến lượt Guam chịu đựng cuộc xung phong của thuỷ quân lục chiến, được chuẩn bị trước bằng một cuộc hải pháo rùng rợn do chính tay một bậc thầy, Đô đốc Conolly, thực hiện. Hệ thống phòng thủ cũng có phương pháp như tại Tinian, và sự hăng say của binh sĩ Nhật rất hữu hiệu, nhưng ưu thế vĩ đại về số lượng của Mỹ đã áp đảo họ một cách mau lẹ.


Ngày 10 tháng 8 năm 1944, công cuộc chiếm đóng các đảo chính trên quần đảo Mariannes chấm dứt. Quân Nhật tổn thất ở đấy mất 43.000 người, nhiều trăm phi cơ và một số lượng tương đương phi công bất khả thay thế. Ba tháng sau, các phi trường dự liệu dành cho các siêu pháo đài bay B-29 đã được thiết lập xong tại đấy. Chiến thắng dường như đang nằm trong tầm tay.


Đấy chính là lúc mà sự tình cơ-loại sức mạnh thứ ba của chiến tranh ấy-lựa chọn để làm xáo trộn các kế hoạch của Đô đốc Nimitz.

Ngày 26 tháng 7 năm 1944, trong lúc công cuộc chinh phục quần đảo Mariannes gần như chắc chắn rồi, Tổng thống Roosevelt đến Honolulu và cho triệu trụng Tướng Mac Arthur đến. Ông muốn đặt Mac Arthur đối diện với Nimitz và chấm dứt sự xung khắc giữa hai người. Theo ông đã đến lúc nhập chung ba chiến trường Thái Bình Dương (nam, tây nam và trung ương) vào làm một vì chiến trường đầu tiên không còn lý do nào để tồn tại nữa kể từ khi chiếm được Bougainville, và sau đó qui định những đường nét chính yếu của cuộc tiến quân về phía Nhật Bản.


Cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra tại Trân Châu Cảng trên chiếc tuần dương hạm Baltimore. Nimitz đã sử dụng trước một bản đồ Thái Bình Dương và giải thích với Tổng thống các lý do biện minh thuận lợi cho một mũi tấn công thẳng vào Nhật Bản, bằng cách tựa vào các tiểu quần đảo Bonins và Volcanos-đặc biệt và Iwo Jia là nơi mà ông đã oanh tạc xuống các phi trường. Các phi trường tại Saipan và tại Tinian sẽ được sửa sang lại để dùng làm căn cứ cho siêu pháo đài bay B-29. Các trung tâm kỹ nghệ và các hải cảng Nhật có thể bị oanh tạc từ mùa thu. Các không đoàn của hải quân Nhật không còn có thể được tái lập nữa và vài mẫu hạm còn chạy được không thể nào tiến ra khơi, thế thì tội gì mà lại nhọc sức chiếm hết đảo này đến đảo khác của các quần đảo phía nam, bởi vì quân trú phòng bị đói khát áp đảo rốt cuộc rồi cũng đến chết mà thôi?
 
Khi Mac Arthur bước lên chiếc Baltimore, với một tuỳ viên duy nhất, mình khoác bộ quân phục tác chiến bằng ni-lông thoáng khí và đầu đội chiếc kết rộng vành, bị những cơn mưa nhiệt đói làm bạc màu, ông chào lại toán gác danh dự đang chào kính ông và tiến vào phòng khách của Đô đốc với cùng một dáng điệu của lực sĩ thế vận động như khi ông vượt qua các bãi biển theo các làn sóng quân sĩ xung phong. Ông bị khích động với nhiệt tâm chực bùng nổ của một tướng lãnh bị lưu đày không bao giờ được phép giải thích quan điểm và từ lâu phải đau khổ chịu đựng các sự chèn ép của Bộ Tổng tham mưu.


Khi chỉ cho ông các cứ điểm sau cùng vừa chiếm được trên bản đồ, Tổng Thống hỏi ông để đánh tan không khí lạnh nhạt:

-“Sao! Douglas, bây giờ chúng ta sẽ đi đâu đây?”.

Câu trả lời bật ra như một viên đạn:

-“Đổ bộ lên Leyte chứ còn đâu nữa, thưa Tổng Thống, và từ đó tiến lên Lujon!”.

Rõ rệt là các thành công của Nimitz đã không làm cho ông đổi quan điểm. Ông luôn luôn tin tưởng sắt đá rằng điều mà ông gọi là “trục Tân-Guinée-Mindanao-Lujon-Đài Loan”, là con đường duy nhất đưa đến Đông Kinh.


Phần biện hộ của ông thật hùng hồn. Ông đã ám chỉ mơ hồ đến các trung đoàn thuỷ quân lục chiến quí báu hi sinh trên các đảo san hô và “cơ hội trôi quí” mới đây để dứt khoát tiêu diệt hạm đội liên hợp Nhật Bản. Rồi ông trở lại luận đề ưng ý nhất của ông: sự cam kết mà ông đã đưa ra khi rời Corregidor là sẽ “trở lại” Phi Luật Tân. Dựa trên lời hứa này, nhiều quân du kích đáng thương đã chiến đấu từ hơn hai năm qua trong các chiến khu Mindanao và Leyte. Danh dự của Mỹ quốc bị thử thách và nếu ông không chu toàn với lời hứa, thì sẽ không còn dân tộc Á châu nào tin tưởng vào lời ông nữa.


Rõ rệt là bị xúc động bởi bài diễn thuyết của Mac Arthur mà giọng nói dần dần nhuốm về giọng điệu của một công tố trạng, phần thì bị một mệt mỏi vì chuyến hành trình, Roosevelt ngước mắt lên nhìn Đô đốc Nimitz với niềm hy vọng được ông ta cung cấp vài yếu tố để trả lời.


Nhưng vô ích, Nimitz là một con người lạnh lùng và quá mực thước vốn rất ghét những hiệu quả của thuật hùng biện. Ông đã nói với Tổng thống những gì cần phải nói. Những luận cứ tình cảm mà người ta thôi thúc ông, không thuộc thẩm quyền ông. Ông im lặng. Ngoài ra ông Tướng còn lớn hơn ông năm tuổi, đã từng nắm giữ chức vụ tham mưu trưởng Lục quân trong khi đó ông chỉ là một Đề đốc đơn thuần. Lòng tôn kính mà ông vẫn chứng tỏ đối với hệ cấp quân đội bắt buộc ông phải lễ phép im lặng.


Sự do dự này đã làm cho Tổng thống bực mình vì là một người cô độc do tật bệnh, Tổng Thống chỉ sống trong những xúc tiếp nhân bản và trí thông minh rộng lớn của ông chỉ tác dụng toàn diện với một kẻ đồng hành để có thể trả lời lại ông Tướng. Các luận cứ của Mac Arthur lại càng đập mạnh vào ông hơn vì ông đã thấy chúng được trình bày trên các cột báo của đảng Cộng Hoà. Từ ít lâu nay cả một chiến dịch được điều hợp rất khéo léo sử dụng các luận đề của ông Tướng để tạo nên biết bao lời châm chích chính sách của toà Bạch Ốc.


Ông ngắt ngang cuộc hội kiên với thái độ hiền hậu thân thiết rất quen thuộc nơi ông và cho các thuộc viên rút lui sau khi xác định thêm rằng họ hoàn toàn đồng ý với nhau về nội dung, do đó họ phải chấm dứt sự bất đồng ý kiến.


Khi trở về Hoa Thịnh Đốn; nhiều mối ưu tư khác đang chờ đợi ông. Tất cả mọi nỗ lực đều dồn về phía chuẩn bị cho Hội nghị liên đồng minh sẽ được khai mạc tại Québec vào đầu tháng 9 năm 1944 để điều hợp các cuộc hành quân trên khắp tất cả chiến trường với mục đích thu đạt nhanh hơn một chiến thắng dường như sắp sửa đến nơi rồi. Mối lo giải quyết cuộc xung đột Mac Arthur-Nimitz lại được để lại cho Uỷ ban tham mưu hỗn hợp; thế nhưng bị công việc trà ngập, Uỷ ban cũng bỏ quên luôn nội vụ. Trong suốt tháng 8, Nimitz được tự do tiếp tục các cuộc oanh tạc trên các quần đảo Bonins và Volcanos trong lúc Mac Arthur và Halsey gia tăng gấp dôi nỗ lực để vô hiệu hoá, bằng các cuộc oanh tạc, phía tây quần đảo Carolines trên đó các căn cứ hải quân kiên cố tại đảo Yap và Palaos đe doạ mạn sườn của mũi tiến quân về phía Mindanao.


Tuy nhiên vào cuối tháng, Uỷ ban tham mưu hỗn hợp vì bị toà Bạch Ốc trách cứ chưa chịu giải quyết mau lẹ việc khó khăn, nên Đô đốc King quyết định nhập chung hai hải đoàn của Halsey và của Spruance làm một. Để tránh tình trạng thống thuộc gây khó chịu, ông quyết định rằng hai vị Đô đốc sẽ lần lượt luân phiên chỉ huy các lực lượng hải quân đang hoạt động. Khi một người đang tham chiến trên mặt biển thì người kia sẽ chuẩn bị kế hoạch tấn công sắp đến, tại bộ tham mưu ở Trân Châu Cảng, và kiểm soát việc sửa chữa cũng như huấn luyện các chiến hạm có mặt tại đấy. Hệ thống luân phiên chỉ huy được quyết định một cách tài tình như thế đã san bằng những khó khăn và cho thấy có tính cách vô cùng thực dụng. Các hải đoàn được mệnh danh là Lực lượng đặc nhiệm 38 (của Halsey) và Lực lượng đặc nhiệm 58 (Spruance). Bên trong, đó chẳng qua cũng chỉ là gồm cùng một số các các chiến hạm, vì các mẫu hạm của Mistcher là rường cột chủ yếu của cả hai Lực lượng đặc nhiệm, nhưng cứ mỗi lần thay đổi người chỉ huy thì danh hiệu của lực lượng cũng thay đổi theo1 (Người ta cũng còn gọi là hạm đội thứ 3 (Halsey) và hạm đội thứ năm (Spruance))


Trong tháng 9 năm 1944, đúng lúc Hội nghị liên đồng minh sắp nhóm họp tại Québec, Uỷ ban tham mưu hỗn hợp chấp thuận kế hoạch tái chiếm quần đảo Phi Luật Tân do Mac Arthur thiết lập và Lực lượng đặc nhiệm 38 do Halsey chỉ huy nhổ neo tiến về phía nam.


Kế hoạch dự liệu các cuộc đổ bộ tiên khởi lên các đảo phía tây quần đảo Carolines, tức là tiểu quần đảo Palaos và đảo Mindanao. Các mẫu hạm của Halsey có bổn phận chuẩn bị cho các cuộc đổ bộ bằng nhiều cuộc oanh tạc liên tục trong suốt một tuần lễ. Nhưng sau thời hạn này, vì thấy không hề gặp một phản ứng nào của không quân địch như đã dự liệu, Halsey suy tính rằng khu vực phía nam gần như đã bị vô hiệu hoá và như thế đổ bộ lên đó là chuyện vô ích. Ông gửi một điện văn cho Đô đốc King đề nghị thọc sâu thẳng vào Leyte, và vì lúc đó King đang có mặt tại Québec với Roosevelt, thủ tướng Anh, và tất cả các thành viên của Uỷ ban tham mưu hỗn hợp, đề nghị của Halsey được chấp thuận tại chỗ.


Thật ra, Halsey hoàn toàn ý thức được nền tảng hợp lý của kế hoạch do Nimitz soạn thảo và không mong gì hơn là thấy Uỷ ban từ chối cuộc đổ bọ lên quần đảo Phi Luật Tân. Nhưng ông không muốn làm Mac Arthur thất vọng, một người mà ông có nhiều liên hệ móc nối, đặc biệt là một khuynh hướng tôn sùng cá nhân nào đó. Ngoài ra, ông cũng hy vọng sẽ tìm thấy cơ hội “đập tan hạm đội liên hợp" tại Phi Luật Tân.


Những sự nhượng bộ hỗ tương liên tiếp ấy dần dần đã làm dịu không khí căng thẳng. Sự phân địch chức trưởng giữa Nimitz và Mac Arthur mơ hồ hơn bao giờ hết, nhưng sự đồng tình tốt đã được tái lập, không còn có những đụng chạm nghiêm trọng xảy ra trong thời gian có các cuộc hành quân nữa. Gia dĩ các cuộc hành quân cũng được giới hạn vào một số rất ít cho đến giữa tháng 10: oanh tạc các phi trường bằng phi cơ của các mẫu hạm và đổ bộ lên các đảo ít được phòng vệ. Sự kiện quan trọng đáng chú ý duy nhất trong chiến dịch một tháng này là sự kháng cự kỳ lạ của tiểu đảo Peleiu-đảo nằm xa nhất về phía nam quần đảo Palaos, sở dĩ có quyết định chinh phục đảo này là vì tầm quan trọng của các phi trường trên đó. 10.000 quân Nhật ẩn nấp trong các hang động và có chiến xa nhẹ đã làm cho chừng 5.000 thuỷ quân lục chiến và 15.0000 bộ binh Mỹ phải thất bại qua nhiều đợt tấn công suốt trong mấy tuần lễ liền. Công cuộc giải phóng toàn diện đảo chỉ hoàn tất trong tháng 11 nghĩa là quá trễ để cho các phi trường đó kịp được sử dụng cho cuộc hành quân đánh chiếm Phi Luật Tân. Cuộc chinh phục vô ích này đã phải trả một giá vượt các cuộc chinh phục Saipan… Riêng về nỗ lực đánh chiếm Phi Luật Tân thì phải trả giá mắc hơn nhưng với lợi ích lớn hơn.
 
Kế hoạch SHO

Trong khi các biến cố trên đây đang diễn tiến, dân chúng Nhật Bản đột nhiên ý thức được mức độ trầm trọng của tình hình. Sự thảm bại của hạm đội lưu động số 1 của Ozawa và cuộc xâm chiếm quần đảo Mariannes không còn có thể được che đậy nữa, và các chuyển động chính trị đã nối tiếp theo đó. Khi tin tức Saipan thất thủ được loan truyền, Tướng Tojo người đòi hỏi “danh dự được đứng ra phòng vệ đảo này”, bị cưỡng bách từ chức. Để thay ông ta trong chức vụ Thủ tướng, Thiên hoàng chọn lựa vị Đô đốc già Suzuki, chiến sĩ kỳ cựu thời chiến tranh Nga-Nhật nổi tiếng là có tư tưởng ôn hoà. Chính phủ mới đã thực hiện các nỗ lực lớn lao để tăng gia tốc độ sản xuất phi cơ, chiến hạm và những đường biểu diễn năng suất kỹ nghệ chiến tranh bắt đầu nhích lên đôi chút.


Nhưng thì giờ thiếu hụt. Hạm đội liên hợp trở thành chiến luỹ cuối cùng chống cự cuộc xâm chiếm quần đảo Nhật Bản, và sự khôn ngoan dường như buộc phải tập trung hạm đội vào Nội hải, đặt dưới sự che chở của Không quân trên đất liền, hầu có đủ thời gian cần thiết để tái trang bị phi cơ và phi công cho hạm đội. Khốn thay, giải pháp này lại không thể áp dụng được vì tình trạng thiếu dầu cặn tại chính quốc. Đô đốc Toyoda bị lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan: hoặc gửi các chiến hạm của ông xuống phía Nam, nơi chúng có thể tìm thấy dầu cặn cần thiết, nhưng lại không thể tiếp nhận cả đạn được lẫn phi cơ, hoặc giữ chúng lại trong Nội hải, nơi chúng có thể tiếp nhận vũ khí mới ra lò, nhưng lại không tìm đâu ra dầu cặn để nhổ neo ra khơi. Ông bèn chọn lựa một giải pháp trung dung: Tất cả các thiết giáp hạm và tuần dương hạm được gửi xuống phía Nam, chỉ một mình hạm đội lưu động số 1 còn gồm có một mẫu hạm nặng và ba mẫu hạm nhẹ là được tiếp tục giữ lại trong Nội hải.


Sau khi tập họp được trong vùng biển Brunei, phía bắc Bornéo, hải đoàn thiết giáp hạm của Đô đốc Kurita dường như trở nên một lực lượng đáng sợ với bảy thiết giáp hạm-trong đó có hai chiếc khổng lồ Yamato và Musachi và 13 tuần dương hạm chạy nhanh, được võ trang hùng hậu. Nhưng hải đoàn này lại hoàn toàn lệ thuộc vào sự che chở của các không đoàn đặt căn cứ trên đất liền tại Đài Loan, Lujon, Leyte và Mindanao, mỗi khi nó tiến ra khỏi căn cứ tập trung.


Kế hoạch của Toyoda-kế hoạch Sho-tiên liệu sự đột nhập lần lượt các chiến hạm của hải đoàn Kurita vào hải phận Phi Luật Tân để tiêu diệt đoàn quân đổ bộ của Mỹ khi họ tiến gần đến Leyte, bằng đại bác hạng nặng trên chiến hạm. Hải đoàn sẽ được chia làm hai đội, một hải đội sẽ chạy qua quần đảo Phi Luật Tân về phía bắc và ló ra khỏi eo biển San Bernardino trong lúc hải đội thứ hai tiến qua quần đảo theo ngõ phía Nam, mượn đường eo biển Surigao.


Toyoda hy vọng rằng các không đoàn trên quần đảo Phi Luật Tân đủ sức che chở cho các thiết giáp hạm của ông và các không đoàn đặt căn cứ trên đảo Đài Loan sẽ giúp đỡ Ozawa khi ông ta đương đầu với các mẫu hạm Mỹ. Niềm hy vọng này rất mong manh vì lẽ sự tiêu hao liên tục mà các không đoàn phải gánh chịu trong các đợt oanh tạc tàn phá của không quân Mỹ. Trong hải đoàn của Kurita, nhiều lời phản đối đã được nêu lên nhằm chống lại ý định điên rồ là đưa “tinh hoa của hạm đội Nhật đến chỗ hy sinh” mà không có không lực che chở để tấn công vào lực lượng hải quân thuỷ bộ của Mỹ. Nhiều sĩ quan do các bản cử làm đại diện, đã đến trình bày những lo ngại với Đô đốc, trên thiết giáp hạm Musachi: “Chúng tôi không sợ chết, nhưng chúng tôi tâm niệm phải cứu vãn danh dự của Hải quân Nhật. Nếu thấy Hải quân bị hy sinh cho một nhiệm vụ nhục nhã như vậy, các Đô đốc Togo và Yamamoto sẽ khóc dưới nấm mồ của họ!” Kurita trả lời: “Tôi biết rằng nhiều người trong các anh không chấp nhận cuộc chiến đấu mà Tổng hành dinh Thiên hoàng chỉ định cho chúng ta, nhưng tình hình nghiêm trọng đến mức không một ai trong các anh có thể tưởng tượng được. Nếu hạm đội của chúng ta bất động trong khi dân tộc bị đe doạ tiêu diệt thi há chẳng đáng hổ thẹn lắm sao? Tổng hành dinh cho chúng ta một cơ may. Phải chấp nhận nó. Ai có thể quả quyết rằng không có cơ may nào để thay đổi chiều hướng chiến tranh bằng một trận chiến quyết định? Các anh cần phải nhớ rằng đôi khi phép lạ vẫn xảy ra!”.


Lúc ấy các sĩ quan có mặt đanh người lại trong cái đập gót chào và hoan hô Đô đốc với tiếng la rung chuyển “Banzai”. Khi trở về tàu của mình, họ đã lặp lại cho tất cả mọi người những lời nói đầy hy vọng mà họ vừa nghe và công việc chuẩn bị liền được tiếp tục trong sự chờ đợi các đại biến cố được loan báo.


Trong bản doanh đặt dưới hầm thuộc Viện Đại học Keio, Toyoda không có ảo tưởng nào về các thiếu sót của kế hoạch Sho. Sự yếu kém của không lực đặt căn cứ trên đất liền đã khiến ông ưu tư hơn bao giờ hết. Những phi công ưu tú nhất của không lực thuộc hải quân đã được tập họp tại Đài Loan, đặt dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Fukudomé1 (Đệ nhị Không lực). Ông cũng muốn thực hiện một nỗ lực tương tự để tăng cường cho đệ nhất không lực đồn trú tại Phi Luật Tân và giao quyền chỉ huy cho Phó Đô đốc Onishi.


Tại Đông Kinh, Phó Đô đốc Takiri Onishi nắm giữ các chức vụ quan trọng của người chỉ huy ngành vật liệu cho không lực của hải quân trong Bộ Võ trang. Đấy là một phi công kỳ cựu luôn luôn có mặt để trám kẽ hở. Ông đã từng chiến đấu tại Trung Hoa trước khi trở thành cánh tay mặt của Đô đốc Yamamoto để cùng soạn thảo kế hoạch trứ danh nhằm tấn công vào Trân Châu Cảng. Sau đó ông đã chỉ huy một trong các không lực, mà trong tháng 12 năm 1941, đã quét sạch bầu trời Thái Bình Dương từ Phi Luật Tân cho đến các thuộc địa của Hoà Lan và đánh chìm hai thiết giáp hạm của Anh, chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse. Toyoda rất coi trọng ông; ông ta biết rằng sự chọn lựa của mình sẽ được nhất trí chấp thuận. Mặc dầu các chức vụ tại Đông Kinh rất quan trọng, Toyoda yêu cầu ông lên đường đi Manile ngay lập tức.
 
Đêm Mabalacat

Trưa ngày 17 tháng 10 năm 1944, một chiếc phi cơ dường như bị khó khăn đã đáp xuống phi trường Nichol’s Field, gần Manile. Một người bước ra khỏi phi cơ, lưng còng xuống vì bộ y phục phi hành nặng nề và tiến đến trước hàng xe đang nhồi xóc chạy trên phi trường lỗ chỗ hố bom để tiếp đón. Đấy chính là Đô đốc Onishi, vừa từ Đông Kinh hấp tấp bay đến đảm nhận quyền chỉ huy đệ nhất không lực tại Phi Luật Tân.
Cuộc hành trình thật bi thảm. Phi cơ phải tránh khỏi Đài Loan vì không quân Mỹ đang mở cuộc oanh tạc dữ dội tại đó. Phi cơ vừa đến được Manille thì cạn xăng.


Một đoàn xe tuỳ tùng được sắp xếp và chạy về thành phố nơi đặt bộ tham mưu của Đệ nhất không lực. Chiếc xe dừng lại trước một biệt thự hào nhoáng chắc phải là rất oai vệ trong những ngày tươi đẹp của năm 1942, nhưng nay bị chìm ngập dưới con mưa như thác đổ và ẩn mình dưới mành lưới nguỵ trang, thoát ra một vẻ buồn tẻ vô hạn.


Càng buồn tẻ hơn nữa là hình dáng của vị chủ nhân toà nhà, Đô đốc Teraoka vừa bị một mệnh lệnh của Thiên hoàng cách chức tư lệnh. Lễ bàn gian được theo nghi thức thường lệ tuy nhiên được thu ngắn lại vì các hung tin được đưa đến. Quân Mỹ đã đổ bộ lên Saloun ngay lối vào vịnh Leyte. Đệ II không lực đặt căn cứ tại Đài Loan từng tấn công các Lực lượng đặc nhiệm của Mỹ mà không thành công, đã tự mình đâm đầu vào chỗ bị tiêu diệt thật sự… Cuộc xâm chiếm Phi Luật Tân có thể đột ngột xảy đến ngày một ngày hai, Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp đã ra lệnh áp dụng kế hoạch Sho để phòng thủ quần đảo.


Sự thành công của kế hoạch này lệ thuộc vào một sự che chở ồ ạt của không quân, thiếu nó, các thiết giáp hạm hùng mạnh của Đô đốc Ugaki sẽ lần lượt bị đánh chìm trước khi tấn công được đối phương. Nhưng tìm đâu ra sự che chở tối cần thiết ấy khi mà giờ đây tại Manille chỉ còn lại hơn 100 phi cơ có thể hoạt động được?


Hai vị Đô đốc thảo luận rất lâu về tình hình. Tại Đài Loan, Đô đốc Fukudomé đã hoàn toàn bị thảm bại. Trong ba ngày oanh tạc, 18 mẫu hạm cơ hữu của hạm đội Mỹ đã tiêu diệt gần 500 phi cơ Nhật trên mặt đất hay trong các cuộc không chiến. Mặc dầu có các báo cáo lạc quan của các phi công, tổn thất của Mỹ dường như rất nhẹ và số lượng quá ít phi cơ còn lại tại Đài Loan chỉ có thể mang lại một sự hỗ trợ yếu ớt cho hạm đội lưu động khi nó phải chặn đầu Lực lượng đặc nhiệm vĩ đại của Mỹ.


Tái diễn toan tính của Fukudomé với các phương tiện không đáng kể của Đệ nhất không lực sẽ là gánh lấy một thảm hoạ còn trầm trọng hơn nếu tham chiến theo các hình thức cổ điển. Vậy thì cần phải vận dụng đến chính các biện pháp cực đoan.


Trong thời gian làm việc tại Đông Kinh, Onishi đã nghiên cứu mọi loại dự án nhằm khắc phục thế yếu của không lực Nhật Bản. Một trong các dự án ấy là sử dụng các “bom bay” được tiên liệu về mặt lý thuyết là sẽ do vô tuyến điều khiển, nhưng trong trường hợp khẩn cấp cũng có thể do một phi công tự sát điều khiển. Trước khi cho xúc tiến dự án được mệnh danh một cách nên thơ là “hoa anh đào” này, Onishi đã tham khảo các cấp chỉ huy cao cấp của hải quân và thảo luận với họ về “các ảnh hưởng tinh thần” có thể xảy ra sau đó. Ông hoàn toàn ngạc nhiên khi bắt gặp nơi những nhân vật này, những người mà ông tin rằng sẽ có thái độ cứng rắn và sự lãnh đạm toàn diện, một thái độ ngần ngại đầy cẩn trọng thuộc về ý thức còn đáng chú ý hơn thái độ của ông nữa. Tất nhiên là giáo điều về sự hy sinh không hề bị xét lại, nhưng ý tưởng chỉ định trước và chỉ định một cách lạnh lùng những phi công trẻ tuổi sẽ phải bắt buộc tự huỷ mình, ý tưởng ấy đánh thức nơi họ đôi chút ngại ngùng. Dự án “hoa anh đào” do đó đã chỉ được theo đuổi trong danh nghĩa rút kinh nghiệm, mà không được quan niệm có ưu tiên tuyệt đối không thể không có để thực hiện trong đoản kỳ.


Khi Đô đốc Teraoka giải thích cho ông rõ chi tiết tình hình tương lai của hạm đội Nhật một khi tiến ra khỏi các eo biển tại Phi Luật Tân, Onishi đã tự trách mình đã tỏ ra yếu lòng một cách đáng khinh trong khi thảo luận dự án “hoa anh đào”. Nếu ông có sẵn 400 hay 500 mẫu vật bay dễ thương ấy, thì hải quân đế quốc Mặt trời mọc đã có thể toan tính tiến ra với những cơ may thành công như hạm đội của tiền nhân được tung ra để tấn công đoàn thuyền của Kubilai Khan. Ngọn gió thần trứ danh-Kamikaze-ngày hôm đó đã càn quét đúng lúc các chiến thuyền của địch sẽ được thay thế một cách hữu hiệu hơn bởi các “đoá hoa anh đào”.


Onishi là một con người không bao giờ bỏ cuộc. Lúc cáo biệt Teraoka, quyết định của ông đã thành hình” ông sẽ thay thế các “Đoá hoa anh đào” bằng các phi cơ xưa cũ đang làm vướng bận các hăng ga trên các phi trường tại Phi Luật Tân, chất đầy bom và phái chúng đến đâm đầu xuống cầu tầu của chiến hạm địch. Ông bước xuống cầu thang của chỗ ở mới và ra lệnh đưa ông đến Mabalacat, bản doanh của bộ tham mưu phi đoàn 201.


Mabalacat là một thị trấn bản xứ nhỏ hẹp chỉ có vài căn nhà kiểu tây phương. Căn lớn nhất được dùng làm tổng hành dinh của không lực thuộc hải quân. Khu vườn trông rất dễ thương, với những cây kiểu nhiệt đới xa hoa, nếu không có cơn mưa như thác đổ lên trên những bức mành rách bươm và nếu không có hai thùng phuy đựng đầy nước mưa rõ ràng là để dùng làm bể tắm cho những người chiếm ngụ. Riêng phần bên trong của ngôi nhà thì nó bày ra quang cảnh của một căn trại của những người lang thang: không có bàn ghế, nhiều giường xếp nhất đống sát vách tường, khắp nơi bừa bãi y phục phi hành, giày vớ, nón bay và khăn mặt.


Trong những lúc khác, quang cảnh hỗn loạn này bày ra khi một Đề đốc đến, chắc đã gây ra một cơn biến động toàn diện rồi, nhưng hai hay ba sĩ quan cao cấp trực nhật tại Bộ tham mưu đang sốt vó bận khảo duyệt các điện văn và điện thoại để ra mệnh lệnh, không có thì giờ đâu mà lo lắng đến chuyện kẻ đến người đi nữa. Mãi đến lúc Onishi vượt qua người tuỳ phái đưa lối để bước ngang qua hành lang tầng lầu thứ nhất, thì một tiếng hô “nghiêm” phát ra trong cổ họng tắt nghẹn của một hạ sĩ quan mới làm mọi người trong nhà giật nẩy mình. Không đầy 20 phút sau, tất cả không đoàn trưởng đều có mặt trong phòng hội.


Đô đốc dò xét vẻ mặt từng người dự hội với sự chăm chú kéo dài, rồi cất lời qua giọng nói chát tai:

Tất cả các anh, ông nói, đều đã biết kế hoạch Sho đang được áp dụng. Nếu nó thất bại, tình thế của Nhật Bản sẽ rất bi thảm. Thế mà nó chỉ có thể thành công nếu các đại chiến hạm của hạm đội tiến lên dưới một chiếc dù không quân hùng mạnh che chở. Chiếc dù ấy, chúng ta không còn phương tiện để cung ứng nữa. Giải pháp duy nhất còn lại cho chúng ta ngăn cản-sẽ chỉ trong vài ngày thôi-không cho phi cơ địch cất cánh khỏi các mẫu hạm. Kết quả này chỉ có thể thu đạt được bằng cách gắn bom 250 kí lô lên các khu trục cơ và tất cả các phi cơ huấn luyện còn lại của chúng ta và phái các phi cơ này bay đến đâm xuống sàn tàu địch.
 
Và, vừa nhắc lại hồi tưởng lịch sử, ông vừa nói thêm:

-Ngọn gió từ các chong chóng phi cơ của các anh sẽ lại là ngọn thần phong Kamikaze và cũng như vào năm 1265, sẽ cứu hạm đội Nhật Bản khỏi bị tiêu diệt.

Những lời nói ấy rơi vào trong sự im lặng giá băng. Không một sĩ quan nào hiện diện lại tỏ ra có một chút cho do dự nếu như Đô đốc yêu cầu họ hy sinh chính mạng sống của họ, nhưng họ biết rằng mạng sống hay cái chết của hàng trăm phi công trẻ tuổi sẽ lệ thuộc vào câu trả lời của họ. Tất cả yêu cầu được bàn định trong một căn nhà kế cận.


Cuộc thảo luận rất ngắn ngủi. Ý tưởng được xổ tung. Nhiều sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc các không đoàn đã từng nghĩ đến phương tiện tuyệt vọng này. Trong các trận không chiến liên miên xảy ra bên trên các phi trường tại Phi Luật Tân, nhiều phi công vì hết đạn đã hạ các oanh tạc cơ Mỹ bằng cách lao vào cánh lái của chúng. Bốn ngày trước đó, Đô đốc Arima, chỉ huy trưởng không đoàn 26, trái với thông lệ, đã quyết định dẫn đầu đợt xung phong thứ hai tấn công vào một Lực lượng đặc nhiệm Mỹ đang tiến về phía Lujon. Lúc khởi hành, ông trình diện trước nhóm phi công, lột bỏ huy hiệu cấp bậc của mình và ngồi vào tay lái của chiếc phi cơ dẫn đầu rồi cất cánh ngay, theo sau ông là 80 khu trục cơ. Không ai còn gặp lại ông nữa. Kéo dài cuộc tấn công quá giới hạn dự trữ xăng, ông đã hoàn toàn tự ý lao mình xuống sàn một hàng không mẫu hạm.


Sau khi gợi lại những gương sáng ấy, các không đoàn trưởng trở lại phòng họp. Onishi vẫn đợi họ tại đấy, ngồi tại chỗ, bất động như một tượng phật bằng đồng. Ông nhướng đôi mày rậm và liếc nhìn một vòng chung quanh.

-Thưa Đô đốc, người chỉ huy thâm niên nhất lên tiếng, chúng tôi hoàn toàn đồng lòng với ông.

Onishi chần chừ một lúc, rồi chỉ trả lời đơn giản “Tốt lắm!”. Và ông bước mau ra khỏi căn phòng sợ rằng sẽ phản bội niềm xúc động đang làm ông đau thắt.

Bây giờ các không đoàn trưởng chỉ còn có việc nói cho các thuộc viên biết quyết định của vị tư lệnh lực lượng. Biết rằng tinh thần đã được chuẩn bị, họ không hề nghi ngờ rằng quyết định ấy sẽ được chấp nhân không than vãn và số người tình nguyện sẽ tràn ngập. Nhưng cũng như Onishi đã làm, họ muốn được sự đồng tình về phương diện tinh thần của các sĩ quan. Vì từ lúc ấy mọi sự do dự đều không thể chấp nhận được, họ bèn dùng một công thức tam đoạn luân rất quen thuộc với những kẻ tài tử trước đa số tuyệt đối: “Anh thích chết bằng cách một chống mười mà không một tí hy vọng nào đạt được kết quả, hay là chết bằng cách mỗi người đánh chìm một mẫu hạm địch hơn?”.


Câu trả lời hoàn toàn nhất trí và chiến thuật Kamikaze được trưng cầu ý kiến trong mọt không khí phấn khởi điên cuồng.

Bộ tham mưu của Đệ nhất không lực liền bắt tay vào việc soạn thảo các mệnh lệnh cần thiết cho sự thành lập “đơn vị Kamikaze”. Đơn vị phải gồm có vài huấn luyện viên-tình nguyện chết như những người khác nhưng là một cái chết bị trì hoãn-có sứ mạng huấn luyện thật nhanh các sinh viên phi công đang thời kỳ thực tập, những người sẽ là chủ lực của đơn vị. Onishi chấp thuận các kỹ thuật vận dụng cực kỳ đơn giản bởi vì các phi công thành thạo rất hiếm có và phải được giữ lại để dẫn dắt đơn vị ra đi tấn công. Với một vài thay đổi để xích nhau thôi, chiến thuật gồm có lao xuống sát mặt nước trên chiến hạm mục tiêu bằng cách quay lưng về phía mặt trời, rồi hướng lên cao một chút và bay theo chữ chi để tránh đạn, sau đó đâm bổ xuống thật sâu vào phút chót.


Những toán đầu tiên đã sẵn sàng vài ngày và, ngay từ ngày 22 tháng 10, một toán đã cất cánh để thử lửa. Sự rủi ro đã muốn rằng trời rất xấu. Bị quáng mắt vì những loạt mưa, các phi công không thấy các Lực lượng đặc nhiệm của địch đâu nên phải quay về. Ngày 23 tháng 10, tình hình khí tượng còn trầm trọng thêm, và sự thất bại tương tự lại tái diễn. Sự hổ thẹn và nỗi kinh hoàng càng lớn lao khi mà cứ một cuộc khởi hành là có một lễ nghi tiến đưa long trọng. Chính Đô đốc Onishi đích thân đến phi trường. Các phi công Kamikaze tập họp chung quanh ông, uống một chén Saké sau khi nâng ly chúc tụng Thiên hoàng. Sau đó họ khoác vào người biển hiệu của đơn vị: một chiếc khăn choàng rộng bằng lụa quấn chung quanh cổ. Rồi tay cầm lưỡi kiếm võ sĩ đạo, họ chạy về phía các phi cơ, Đô đốc chạy theo và đứng im trước chiếc phi cơ thứ nhất để chào từng người chạy qua, những anh hùng trẻ tuổi bay lao về phía thần chết.


Ngày 24 tháng 10, các phi công Kamikaze được huấn luyện lại và một đội hình cổ điển gồm có những phi cơ tốt nhất do các phi công ưu tú của Đệ nhất không lực lái, đã được tung ra tấn công và đã khám phá thấy lực lượng địch ngoài khơi đảo Leyte.


Đã đến lúc! Kể từ ngày 20 tháng 10, bên trong vịnh Leyte, 420 chiến hạm thuỷ bộ đủ mọi kiểu đã đổ bộ lên bờ hai sư đoàn bộ binh mà chẳng phải lo lắng gì cả. Ngày hôm đó, đến chiến trường lúc 10 giờ sáng trên chiếc tuần dương hạm Nashville, Mac Arthur đã dự kiến cuộc đổ bộ. Vài giờ sau, ông yêu cầu một chiếc Landing Craft đưa ông vào bờ. Ngay khu bụng chiếc tàu trượt ầm ĩ lên trên đá sạn của bãi biển San Pedro, ông Tướng bước xuống dọc theo chiếc cửa mở nghiêng xuống bãi, tất cả sĩ quan thuộc bộ tham mưu nối gót theo ông. Ông bước qua khoảng các mấy thước ngăn cách bãi cát, bằng cách lội xuống nước trong những lượn sóng nhỏ xanh biếc viền đầy bọt trắng. Khi đã đặt chân lên mặt cát khô, ông bắt đầu chạy trên bãi cát như một cậu bé tinh nghịch rốt cuộc thoát khỏi được lớp học để chạy nô đùa dưới ánh mặt trời. Thế rồi ông dừng lại đột ngột và quay về phía các sĩ quan ngơ ngẩn vẫn chạy theo cách ông một khoảng, ông la lớn với họ: Các anh tin hay không tin cũng mặc, chúng ta đã đến đấy rồi! “Và lần này, chúng ta sẽ ở lại!”.
 
Trò chơi tàn sát

Bình minh ngày 25 tháng 10, hạm đội của Kurita vốn đã bị tiềm thuỷ đỉnh Mỹ tấn công bất ngờ đêm hôm trước và bị thiệt mất một tuần dương hạm, tiến về phía eo biển San Bernardino, từ đó nó sẽ phơi mình cho các cuộc tấn công của những mẫu hạm Mỹ đang canh phòng ngoài khơi vịnh Leyte. Cuộc tấn công của các phi cơ dưới quyền Onishi thật đáng ngưỡng mộ. Mặc dầu có sự hiện diện của vô số phi cơ khu trục Mỹ, một oanh tạc cơ đâm bổ của Nhật đã liệng được một trái bom trên mẫu hạm Princeton với sự chính xác đến mức nó xuyên qua nhiều hầm tàu và đâm ngang vào hầm chứa thuỷ lôi. Một tiếng nổ khủng khiếp làm chiếc mẫu hạm bắn tung thành từng mảnh và gây tổn thất nặng nề cho tuần dương hạm Birmingham đang tiến đến gần. Phi công Nhật tránh né được và bay về căn cứ theo mệnh lệnh thượng cấp, nhưng sự táo bạo điên rồ mà anh ta đã chứng tỏ khi thực hiện cuộc tấn công đã nhập vào tinh thần Kamikaze và đã chứng minh rằng ngọn gió mới giờ đây khích động toàn thể các phi công.


Quân Mỹ trả đũa sấm sét. Tất cả phi cơ của năm mẫu hạm khác ào ạt tấn công các siêu thiết giáp hạm của Ugaki và mặc dầu có sự dũng cảm phi thường của vào khu trục cơ dưới quyền Onishi, họ đã đánh trúng được chiếc Musachi 17 trái bom và 19 thuỷ lôi. Dầu cho có chắc chắn bao nhiêu chăng nữa, chiếc soái hạm cũng không thể nào chịu nổi một lượng bom đạn như thế và nó chìm dần trong sóng biển. Như thế là chiếc siêu thiết giáp hạm, niềm kiêu hãnh của hạm đội Nhật, biến mất ngày hôm ấy mà không bao giờ bắn được một phát đại bác nào trong suốt cuộc chiến tranh.
Các chiến hạm khác cũng bị trúng bom ít nhiều cho nên sau khi chuyển qua chiếc Yamato, Đô đốc Kurita ra lệnh cho hải đoàn quay lui để chờ đêm tối.


Hành động này là một sự sai trật trầm trọng đối với kế hoạch Sho vì kế hoạch ấy dự liệu một cuộc tấn công đồng thời vào các chiến hạm đổ bộ do bởi hai hải đoàn dưới quyền Kurita, hải đoàn của Ugaki và hải đoàn của Nishimura. Hải đoàn sau đã tiến dọc theo bờ biển Mindanao để tiến vào eo biển Surigao lúc đêm tối; do đó nó đã đến vịnh Leyte trước các thiết giáp hạm khá lâu. Được thông báo khoảng cách chậm trễ này, Toyoda đành phải gửi cho tất cả một bản điện văn ngắn gọn sau: “Lao vào địch với tất cả lực lượng của quí ông”.


Nishimura lao vào tấn công trước. Lúc 2 giờ 30 sáng ngày 25 tháng 10, các khinh tốc đỉnh và khu trục của Đô đốc Kinkaid đang tuần hành trong eo biển Surigao đã phóng vào trục tiến quân vô số chùm thuỷ lôi mà một quả đã đánh chìm được thiết giáp hạm Fuso. Nishimura không vì thế mà không tiếp tục tiến. Người chiến sĩ kỳ cựu mà người ta đã lôi ra khỏi các quân trường tại chính quốc cùng các chiến hạm già nua ấy, đã muốn trút hết các với hầm đạn vào địch quân bằng mọi giá.


Đến 3 giờ 30 sáng, những làn sóng dội ngược trở lại các giàn rada trên cột buồm các chiến hạm Nhật bắt đầu làm cho các mặt kính hiện lên những đốm sao báo hiệu các thiết giáp hạm Mỹ dưới quyền Kinkaid xuất hiện. Vài phút sau, những quả đạn đầu tiên được bắn đi và những vòng cung sáng chói của vô số đạn đạo “Tracers” đã chọc thủng bầu trời tối mịt. Các thiết giáp hạm Mỹ mà phần đông là những chiếc còn sống sót sau vụ Trân Châu Cảng, đã “chắn ngang hình chữ T” các thiết giáp hạm của Nishimura và tưới ngập đạn đại bác vào chúng theo đúng chiến thuật cổ điển đã được Đô đốc Togo sử dụng để chống hạm đội Nga tại eo biển Tsoushima.


Đến 4 giờ, thiết giáp hạm Yamashiro, bốc cháy từ trước ra sau, mới chớm vận dụng để làm lạc hướng tác xạ của địch, nhưng đúng lúc đó bị trúng nhiều thuỷ lôi và biến mất trong một vùng lửa sáng loé. Tuần dương hạm Mogami cũng bị bốc cháy phải lẩn tránh cùng chiếc Shigura còn nguyên vẹn như nhờ có phép lạ. Vừa rút lui, hai tuần dương hạm lại gặp các tuần dương hạm của Đô đốc Shima chạy đến tiếp cứu. Các chiến hạm này sau khi phóng hết thuỷ lôi từ xa nhằm vào các tuần dương hạm địch, cũng quay đầu trở lại. Sự can thiệp của chúng đã quá chậm.


Trước bình minh ngày quyết định ấy, thế là một trong các “mũi kìm” do kế hoạch Sho tiên liệu đã bị bẻ gãy. Nhưng đúng lúc đó, một biến cố bất ngờ xảy đến làm đảo ngược một tình thế đã quá sức tai hại, và nghiêng lợi thế cho quân Nhật. Các hải đoàn mẫu hạm của Halsey, được một phi cơ tuần thám báo tin có sự hiện diện của hạm đội lưu động số 1 thuộc quyền Ozawa về phía bắc Phi Luật Tân, liền nhận được lệnh rời khỏi vị trí canh gác để đến chặn đầu địch. Khi Đô đốc Kurita rốt cuộc cùng với hải đoàn của ông tiến ra khỏi eo biển San Bernardino, ông không thấy một chiến hạm nào của Mỹ và lợi dụng ngay phép lạ này, ông cho mở hết tốc độ lao về phía nam tấn công thẳng vào lực lượng đổ bộ. Lúc ấy các chiến hạm chuyển vận thuỷ bộ này chỉ được che chở bởi độc có các mẫu hạm hộ tống được dự liệu để yểm trợ cho quân đổ bộ. Khi Đô đốc Sprague, tư lệnh một trong các hải đội mẫu hạm hộ tống ấy được báo tin một hạm đội hùng mạnh đang tiến đến gần, ông phải mất ít lâu để xem có phải đó là tàu Nhật hay không. Tôn trọng lệnh im lặng vô tuyến, Halsey đã không thông báo sự ra đi của ông và tin tưởng là đã tránh khỏi được mọi bất ngờ. Khi ý thức hiểm nguy đang đe doạ, ông phân tán các chiến hạm theo một vòng cung rộng lớn và cho tất cả các phi cơ cất cánh đúng lúc các quả đại pháo đầu tiên của Kurita bắt đầu rơi từng chùm siết chặt chung quanh ông. Sáu mẫu hạm hộ tống đáng thương của Sprague, chỉ là những tàu vận tải được trang bị một sàn phi đạo, trở nên các tấm bia đỡ đạn không được phòng vệ trước các đại pháo hùng mạnh của các thiết giáp hạm Yamato, Kongo và Haruna. Chúng chạy về phía nam với tốc độ 17 gút, nhưng vì hạm đội địch chạy mau hơn 10 gút, chúng không có ảo tưởng gì nữa về chung cục của trận đánh. Chính lúc đó, một phép lạ mới đã xảy ra-lần này có lợi cho quân Mỹ. Sprague đã tung lên không gần 200 phi cơ và được chừng 50 phi cơ khác của các hải đội kế cận đến trợ chiến. Như một kẻ lấy trộm tổ ong bị bắt gặp đang hành sự, Kurita bị tấn công bởi những con ong vò vẽ hung dữ đổ dồn bom trên các chiến hạm của ông và càn quét các cầu tàu bằng các loạt đại liên. Hơn nữa những cơn mưa rào liên miên từ trên trời trút xuống đã che khuất mục tiêu, khiến ông tin là đang có chuyện với cả một hải lực mẫu hạm hùng hậu thật sự. Hải đoàn của ông đã bị cuộc tấn công đêm trước làm yếu đi nhiều, cho nên Kurita không dám săn đuổi các mẫu hạm Mỹ mà ông đã ước tính qua tốc độ thật sự của chúng. Sợ sẽ bị rơi vào một tổ ong vò vẽ mới, ông quay lui sau hai giờ theo đuổi và sau khi chỉ đánh đắm được một mẫu hạm hộ tống1 (Chiếc Gambier Bay) và một tuần dương hạm.


Những nỗi khốn khổ của Sprague chưa phải là đã hết. Khi các quả đại pháo cuối cùng vừa rơi xuống thì nhiều phi cơ Nhật xuất hiện trên dãy núi thuộc đảo Samar. Người ta thấy chúng tiến tới theo một đội hình phân tán và thực hiện các động tác nhào lộn bất thường. Đấy là các phi cơ Kamikaze của Onishi, lần này thì thấy được hải đội mẫu hạm hộ tống địch, và cương quyết lao xuống, mỗi chiếc nhắm vào con mồi của mình. Không đầy một giờ, các mẫu hạm Santee, Saint Lo, Suwannee, Kitkum Bay và chiếc Kalinin Bay trông thấy nhiều phi cơ đủ loại bay lượn làm lạc hướng tác xạ của súng phòng không rồi đâm xuống vỡ tan trên sàn tàu. Phần đông các mẫu hạm hộ tống làm chủ được các đám cháy nhưng trên chiếc Saint Lo, bom và thuỷ lôi chứa trong hăng ga đã gây ra một tiếng nổ tai biến. Trận chiến chấm dứt theo cuộc quần ngựa ấy, cuộc quần ngựa đua đầu tiên của cả một loạt ghê gớm và lâu dài.


Sprague đã cứu hải đội của ông thoát chết cơn tai biến, những tổn thất của buổi sáng hôm đó thật là nặng ngoài việc mất chiếc Saint Lo, 1.130 người đã bị giết và 913 bị thương nặng trên toàn thể các mẫu hạm hộ tống. Hơn nữa chiến thuật khủng khiếp của Nhật đã làm giao động tinh thần các thuỷ thủ đoàn. Tin tưởng có sự hiện diện của hải đoàn Halsey bên cạnh, Đô đốc Kinkaid quyết định gửi ba hải đội mẫu hạm hộ tống về Uliti để sửa chữa các chỗ bị hư hỏng.
 
Trận đánh cuối cùng của Ozawa

Trong khi trước vịnh Leyte xảy ra các biến động huyên náo ấy, Lực lượng đặc nhiệm 38 của Đô đốc Halsey đã theo đuổi sát hạm đội lưu động số 1 vốn đang tránh né ở phía bắc để lôi kéo các mẫu hạm Mỹ xa dần hải đoàn của Kurtita theo đúng kế hoạch Sho. Ozawa có bốn mẫu hạm tổng cộng 116 phi cơ, 2 thiết giáp hạm, chiếc Hynge và Ise, 4 tuần dương hạm nhẹ và 9 khu trục hạm. Mặc dầu ông chỉ có thể sở cậy vào một hậu thuẫn yếu ớt của phi cơ trên đảo Đài Loan, ông không ngần ngại tấn công Lực lượng đặc nhiệm của Halsey ngay khi phi cơ tuần thám lúc rạng đông báo hiệu lực lượng Mỹ đến gần. Khoảng cách còn xa và ưu thế đè bẹp của địch với 787 phi cơ trong đó có 402 khu trục cơ đã làm cho toan tính anh hùng này trở nên vô ích. Trong số 76 phi cơ tấn công vào nhóm đi đầu của các mẫu hạm thuộc quyền Mitscher, một vài chiếc bị hạ, chừng 20 chiếc bay đến Lujon và chỉ có 29 chiếc trở lại các mẫu hạm của chúng.


Ozawa tạm thời rút lui rồi điều động để trở lại cách 200 dặm phía bắc Lujon lúc đêm đến. Chắc chắn là ông hy vọng rằng Kurita có thể tấn công trở lại vào rạng đông ngày 25 tháng 10, do đó ông tính rằng bổn phận của ông là phải ở lại đó như là một con mồi để cầm chân hạm đội thứ 3 của Mỹ.


Thật kỳ dị, Halsey rơi vào cái bẫy mà chính ông thường giăng ra để nhử Yamamoto và Koga trong các cuộc đụng độ tại quần đảo Salomon và, tập họp bốn hải đoàn của mình trong đêm, ông tung chúng lên phía bắc theo đội hình rẻ quạt rộng lớn bỏ hạm đội đổ bộ của Kinkaid lại rất xa đằng sau. Bất chấp những lời kêu gọi khẩn cấp và liên tục của Kinkaid, ông từ chối trích bớt một thiết giáp hạm thuộc một hải đoàn thôi để đi tiếp cứu, mặc dầu ông có một ưu thế áp đảo và không hề cần đến những chiến hạm khổng lồ vướng bận này. Bị ám ảnh bởi lòng ham muốn “đập bể bụng vĩnh viễn” hạm đội lưu động, ông không muốn tách rời khỉ bất cứ chiến hạm nào của mình.


Tảng sáng ngày 25 tháng 10, tất cả các mẫu hạm của Mitscher đều báo động, và đến 8 giờ, vì thấy được địch, 200 phi cơ cất cánh bay ùa đến các chiến hạm của Ozawa. Mẫu hạm Chitose bị trúng bom chìm ngay và mẫu hạm vinh quang Zuikaku bị trúng thuỷ lôi phải tách ra khỏi trục. Khi đợt phi cơ thứ hai và thứ ba bay đến, đội hình của chiến hạm Nhật bị hoàn toàn rối loạn. Ý thức được sự bất lực của các phi công cuối cùng còn lại, Ozawa đã gửi cho Onishi tất cả các phi cơ chiến đấu, chỉ giữ lại vài khu trục cơ. Những phi cơ cuối cùng này lần lượt bị hạ hết chiếc này đến chiếc khác; hạm đội lưu động lâm vào thế xuôi tay đưa mình chịu trận trước các đoàn của địch quân. Trò chơi tàn sát của Mitscher tiếp tục như trong một cuộc thực tập. Đến 14 giờ 15, mẫu hạm Zuikaku, lần lượt bị ba trái thuỷ lôi, nghiêng về một bên và chìm lỉm sau vài phút. Ozawa chuyển hiệu kỳ qua tuần dương hạm Oyodo và dẫn đầu hạm đội của ông chạy về phía bắc. Trong cuộc điều động này, ông mất luôn hai mẫu hạm chót là chiếc Chiyoda và chiếc Zuiho. Trong thời gian đầu hôm, phi cơ Mỹ ào ạt dồn về tấn công các thiết giáp hạm Ise và Hynge nhưng không có kết quả, thế rồi mất liên lạc với địch1 (Halsey không chịu gọi chúng về và đưa các lực lượng đặc nhiệm trở lại trước vịnh Leyte. Ông đã nhận được một điện văn hạ nhục của Nimitz như sau: “Lực lượng đặc nhiệm 38 đâu rồi? Cả thế guiơí đang tự hỏi như thế”). Vài chiến hạm còn sống sót đến tiếp hợp với chiếc Oyodo và cùng với nó, trở về được Nhật. Ozawa đã bị những tổn thất kinh khủng-ông không thể nào bị khác hơn được-nhưng là người duy nhất trong số các Đô đốc tham chiến trong kế hoạch Sho, ông đã thành công toàn diện trong sứ mạng đánh lạc hướng bằng cách nhử cho Halsey bỏ đi thật xa khỏi trận đánh chính yếu.


Trong thời gian đó, về phía nam, hải đoàn của Kurita vốn đã để mất cơ hội trời cho để đánh chìm các mẫu hạm hộ tống và các hải vận hạm Mỹ bằng hải pháo, đã rút lui về phía tây ngang qua eo biển Bernardino. Lực lượng đặc nhiệm của Halsey rốt cuộc cũng được quyết định gửi đi lùng kiếm, nhưng vì quá cách xa nên không gây phiền phức gì cho hải đoàn Nhật. Đêm 25 rạng 26 trôi qua mà không có chuyện gì xảy ra cho nó. Kurita gửi một điệp văn cho các đô đốc Onishi và Fukudomé để báo rằng “cơ hội có vẻ tốt đẹp cho một toan tính lấy lại quyền làm chủ bầu trời”. Một công điện cũng được Toyoda gửi đến yêu cầu ông “tái diễn cuộc tấn công nếu ông còn đủ sức làm như thế”. Ông xét đoán rất đứng đắn là “không còn đủ sức nữa” và tiếp tục con đường tiến về phía tây. Thuộc cấp của ông đã phải chịu đựng từ ba ngày qua các cuộc tấn công liên tục của tiềm thuỷ đỉnh, khinh tốc đỉnh và phi cơ địch. Chính bản thân ông, sau đó cũng phải đồng ý rằng đã kiệt sức và chỉ còn có một ý tưởng: cứu vãn các chiến hạm sau cùng và tránh cho các thuỷ thủ đoàn dũng cảm của ông khỏi một cái chết vô ích.


Đến 8 giờ 30 ngày 26 tháng 10, lúc hải đoàn Nhật chạy ngang quan Sibouyan, thì bị 30 chiến đấu cơ tấn công. Một tuần dương hạm trúng thuỷ lôi bị hư hại, và chiếc siêu thiết giáp hạm Yamato lãnh hai quả bom mà không hề hấn gì. Hai giờ sau, 30 oanh tạc cơ B-24 còn oanh tạc soái hạm nữa. Một quả bom nổ trước mũi, một quả khác mở ra bên tả mạn một lỗ hổng to tướng, nhưng nó vẫn tiếp tục rẽ sóng ngay giữa một rừng cột nước biển tung lên cao như những toà nhà mười tầng. Thiết giáp hạm Nagato, mặc dầu bị trúng bốn quả bom, vẫn theo sau lằn sóng rẽ đôi của chiếc Yamato. Hai chiến hạm để lại đằng sau một cái đuôi dầu cặn và mảnh vỡ rộng lớn nhưng vẫn đến được Brunei, có ba tuần dương hạm và tám khu trục chạy theo. Chúng đã trải qua 1.000 hải lý mà không giảm tốc độ mặc dầu bị nước tràn vào và bị nhiều hư hỏng. Sau biết bao nhiêu thảm bại đáng buồn, dầu sao đó cũng là một niềm an ủi. Tuy vậy là một niềm an ủi mong manh bởi vì từ nay chúng cứ đã cho thấy rằng các đại thiết giáp hạm, không có khả năng tự vệ chống lại phi cơ, sẽ không còn một hiệu dụng nào nữa như là một chiến hạm xung kích. Ngoài ra hạm đội của Ozawa đã bị mất tất cả hàng không mẫu hạm.


Hy vọng duy để làm tê liệt cuộc tiến quân của lực lượng Mỹ từ nay là nhấn chìm các lực lượng ấy dưới một đám mây Kamikaze.
 
Cơn thịnh nộ Kamikaze

Trong các cuộc hải chiến tại Leyte, năm phi công do Onishi tung ra theo chiến thuật tấn công tự sát đã giáng cho hạm đội Mỹ nhiều tổn thất hơn cả 500 phi cơ mà Fukudomé đã hy sinh. Trước kết quả kỳ lạ này, tất cả các phi cơ có khả năng cất cánh đều được phân phối cho nhiều phi đội khác nhau và các phi công bắt đầu bổ chính các chiến thuật mới. Onishi tổ chức một cơ cấu dính liền gồm có nhiều huấn luyện viên. Các phi công Kamikaze được ở trong một khu doanh trại đặc biệt-những lều tre dựng sát mé nước đầy muỗi quấy phá-trong đó họ sống như thầy tu qua các buổi huấn luyện và các buổi suy nghiệm bộ luật Bushido. Vì họ quyết tâm trở lại căn cứ nếu hoàn cảnh không giúp họ trông rõ mục tiêu, một vài người đã sống như thế ít lâu trong những điều kiện phi nhân. Kể từ ngày 26 tháng 10 năm 1944, Onishi dùng các không đoàn trưởng của ông để quấy phá chiến hạm Mỹ chung quanh Leyte trong khi các hải vận hạm của Nhật lo tiếp tế nhân bóng đêm cho quân trú phòng trên đảo theo kiểu “chuyến tốc hành Đông Kinh”.


Ngày 29 tháng 10, 45.000 bộ binh Nhật và 10.000 tấn vũ khí và vật liệu đã được đổ bộ lên Ormoc, trên bờ đối diện và 100.000 binh sĩ của Mac Arthur bị mắc kẹt tại các vị trí của họ. Vì lẽ có chừng 350.000 quân Nhật được phân phối trên quần đảo Phi Luật Tân, viễn ảnh tương lai không lấy gì làm sáng sủa lắm cho quân Mỹ. Đô đốc Kinkaid kêu gọi các mẫu hạm của Mitscher đến oanh tạc trong hai ngày xuống phi trường Clark và Mabalacat. Phi cơ Kamikaze trả đũa khốc liệt. Chừng nửa tá phi cơ ấy vượt qua được hàng rào hoả lực phòng không để lao vào ba mẫu hạm và một thiết giáp hạm. Chiếc thiết giáp hạm thoát được trong gang tấc, nhưng các mẫu hạm Intrepid, Franklin và Belleau Wood không thể tránh né được các ngôi sao băng lao xuống nổ tan trên sàn phi đạo hay đài chỉ huy. Ngay đêm đó ba chiến hạm bị hư hại nặng này được đưa hoặc dắt về tận Uliti. Hôm sau Đô đốc Halsey ra lệnh rút lui toàn diện hạm đội thứ 3. Các thuỷ thủ đoàn đã chiến đấu liên miên từ ngày 6 tháng 10. Họ đã hớn hở tham dự các trận đánh trong những tuần lễ đầu, nhưng từ khi nổi cơn cuồng nộ Kamikaze thì tinh thần họ căng thẳng tột độ.


Tin tức về sự thành công này đã gây tiếng vang mênh mông tại Nhật, tại đấy, một thứ điên cuồng bí ẩn xâm chiếm công luận. Mặc dầu quân Mỹ tiến đều, một niềm hy vọng mới phát sinh và được tuyên truyền phóng đại. Báo chí và đài phát thanh đã đi quá mức nồng nhiệt khi ca tụng “các cánh thiên thần lao xuống chiến hạm địch… Những than niên với cặp mắt sáng quắc đang mở đường cho vinh quang chiến thắng… Mỗi người cột một khăn quàng vào đầu, bạn bè nói lời vĩnh biệt với những người trưởng thành và bầu trời xung quanh họ từ từ sáng rực…” lời báo chí tại Đông Kinh.


Hàng trăm người tình nguyện đến trình diện xin được thu vào đơn vị Kamikaze. Rủi thay, máy bay thiếu hụt và khi Onishi thực hiện một chuyến trở về Đông Kinh ngắn trong tháng 11, ông phải mất công lắm mới kiếm được 150 phi cơ. Chúng được các phi công tân tuyển, phần đông không có hơn 100 giờ bay, lái theo ông để đi Đài Loan. Ông để viên tham mưu trưởng lại đấy, đại tá Inoguchi, để thiết lập một trung tâm huấn luyện Kamikaze. Các khoá học kéo dài trong bảy ngày” hai ngày huấn luyện cất cánh với tối đa trọng lưựơng chuyên chở, hai ngày khác huấn luyện bay tập thể theo đội hình, ba ngày chót để học các chiến thuật tấn công khác nhau. Hai phương pháp thường được áp dụng nhiều nhất là đâm xuống 45 độ từ đằng sau mục tiêu sau một cuộc hạ thấp tiên quyết từ 7.000 xuống 1.000 thước, hoặc bay là sát mặt nước tiến đến cách mục tiêu 500 thước, rồi bay ngược trở lên và sau đó đâm thẳng góc xuống. Mỗi lần có thể tấn công bằng một cặp, hai phương pháp cùng đồng thời được áp dụng cho cùng một mục tiêu. Mỗi phi đội một khi đã được đào tạo xong sẽ đến tập họp tại Phi Luật Tân, từ đó sẽ được sáp nhập vào các đơn vị trên đảo Lujon hay đảo Cébu. Vài ngày sau, những kẻ mới học đạo được gửi vào chỗ chết và những người mới đến sẽ thế chỗ họ. Vài phi đoàn chính thống được Onishi giữ lại cũng đã làm chuyện phi thường để yểm trợ quân trú phòng tại Leyte.


Đáp ứng một lời kêu gọi khẩn cấp của Kinkaid, Halsey gửi một trong các lực lượng đặc nhiệm của ông đến thực hiện một cuộc không tập mới xuống Cébu, Clark Field và Mabalacat, nhưng vì mẫu hạm mới Lexington bị hư hại nặng vì một phi cơ Kamikaze, cho nên kinh nghiệm đã không được tái diễn nữa. Tám ngày sau, một Lực lượng đặc nhiệm khác trở lại tấn công “chuyến tốc hành Đông Kinh” mới vốn vẫn tiếp tục tiếp tế cho Leyte. Một tuần dương hạm và ba hải vận hạm Nhật bị đánh chìm, nhưng các mẫu hạm Mỹ Intrpid, Cabot và Essex đều bị phi cơ Kamikaze làm hư hại. Lúc đó Halsey gửi cho Nimitz một điệp văn báo tin rằng “những cuộc tấn công đứt đoạn trên quần đảo Phi Luật Tân theo ông dường như không có lợi”. Vị Tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương lúc ấy quyết định gọi Lực lượng đặc nhiệm 38 về nghỉ ngơi một thời gian.


Vào đầu tháng 12, các phi trường tại Leyte rơi vào tay quân Mỹ và sau cùng đã được sửa chữa lại. Tướng Krueger, tư lệnh đệ lục lộ quân Mỹ có trong tay 183.000 quân nhưng ông đã bị tổn thất 2.250 tử trận và phải cho di tản nhiều ngàn binh sĩ bị thương hay bị các loại bệnh tật khác nhau-kiết lỵ, bệnh nhiệt đới, hay chân bị nhiễm độc năng do tình trạng dẫm đi liên tục trong bùn. Lúc đó ông yêu cầu Đô đốc Kinkaid chuẩn bị đâu đó sẵn sàng cho một cuộc đổ bộ lên Ormoc để cắt đứt cầu liên lạc cuối cùng mà từ đó tăng viện được đưa đến cho đối thủ đáng sợ của ông, tướng Suzuki. Lập tức tất cả các khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi, các khu trục hạm và chiến hạm thuỷ bộ của hạm đội thứ 7 được tập họp và ngày 12 tháng 12 năm 1944, cả một sư đoàn được đổ bộ lên Ormoc. Trước mối đe doạ này, 35.000 quân của Suzuki phải rút lui vào trong bán đảo San Isidro.


Lúc ấy Mac Arthur quyết định coi đảo Leyte như đã được chinh phục xong và bắt đầu chuẩn bị xâm chiếm Lujon. Phía Nhật, Tướng Yamashita, tư lệnh binh đoàn Nhật Bản tại Phi Luật Tân, điện cho Suzuki là phải bỏ Leyte để tập trung về Lujon, “dầu phải tràn ngập nước mắt hối tiếc cho số phận 10.000 anh hùng phải bỏ lại để chiến đấu những trận cuối cùng mà không có một nguồn yểm trợ nào”. 10.000 anh hùng này đã đáp ứng lời kêu gọi chân tình ấy và chứng tỏ là xứng đáng với những truyền thống cao cả nhất của quân lực Nhật Bản, bởi vì họ đã hăng say chiến đấu trong những điều kiện thể chất khốn khổ không thể tưởng tượng được mãi cho đến tháng 5 năm 1945!
 
Mac Arthur trở lại Manille

Kế hoạch của Mac Arthur là đổ bộ lên Lujon tại vịnh Lingayen như quân Nhật đã làm năm 1941, và cũng như họ thọc sâu vào Manille càng nhanh càng tốt. Trong sự vội vã muốn giải phóng các con tin Phi Luật Tân đang chết đói dần mòn trong các trại giam, ông ấn định ngày đổ bộ là 20 tháng 12 năm 1944. Đô đốc Kinkaid lưu ý ông rằng cần phải chiếm đảo Mindoro trước để có thể chuyển vận quân của Tướng Krueger từ Leyte đến Lingayen qua nội hải Soulou dưới sự che chở của không lực đặt căn cứ trên các phi trường thuộc đảo này. Ông Tướng nghe theo và cuộc đổ bộ lên Mindoro được ấn định là ngày 15 tháng 12, trong khi ngày đổ bộ lên Lujon được dời lại cho đến đầu tháng giêng năm 1945.


Cuộc chuyển quân của Krueger từ Leyte đến Mindoro không gặp khó khăn vì Tướng Yamashita không tiên liệu được quả đấm móc này nên đã để cho tiểu đảo này gần như không được phòng thủ. Nhưng các chuyến tàu đi lại cần thiết để chuyển vận 200.000 người và một số vật liệu cồng kềnh vĩ đại đã kéo dài mất hai tuần, trong thời gian đó lực lượng thuỷ bộ của Đô đốc Kinkaid hàng ngày phải chịu đựng các cuộc xung phong của phi cơ Kamikaze.


Tại Lujon và tại Cébu, bằng tất cả mọi thứ mưu chước, Onishi đã tăng cường được cho các đơn vị phi cơ tự sát bất chấp các cuộc oanh tạc liên tục. Các phi công được huấn luyện kỹ hơn số đầu tiên và sự tiến quân đến gần của địch đã khích động toàn thể đơn vị bằng một cơn mưa cuồng nộ quái gở. Về phía ông, Toyoda đã thực hiện một nỗ lực tối hậu để làm chậm đà tiến của Mỹ. Hai chiếc Oyodo và Ashigara-hai tuần dương hạm chót-đã được lệnh khởi hành dưới quyền Đô đốc Kimura để làm tê liệt hải đội vận chuyển quân xâm chiếm. Đại mẫu hạm Unryu, đang còn dở dang, cũng được lệnh nhổ neo đến Phi Luật Tân bằng cách chạy dọc theo bờ biển Nam Hải qua eo biển Đài Loan. Chính bờ biển này đã hoàn toàn bị Nhật chiếm đóng từ Thượng Hải cho đến Hà Nội để đề phòng các cuộc đổ bộ của Mỹ và mọi mưu toan tiếp tế bằng đường biển cho đạo quân của Tưởng Giới Thạch. Thời gian quân Mỹ bị mất đi trong cuộc đổ bộ lên Mindoro đã làm lợi cho Nhật.


Kể từ 15 tháng 12 các đơn vị Kamikaze của Onishi tràn ngập các hải vận hạm và chiến hạm thuỷ bộ của Kinkaid. Năm L.S.T (Landing Ship Tank) và ba Liberty Ships bị đánh chìm và tuần dương hạm Nashville, mang hiệu kỳ của Đô đốc Strubble, bị hư hại nặng, 133 sĩ quan và thuỷ thủ trong đó có tham mưu trưởng của Strubble tử trận sau tiếng nổ của Kamikaze. Mối đe doạ trở nên trầm trọng. Mac Arthur liền ra lệnh cho đệ ngũ không lực gửi gấp 92 khu trục cơ và 13 B-25 đến Mindoro. Kinkaid phân phối các tiềm thuỷ đỉnh chung quanh quần đảo Phi Luật Tân và tập họp đến Mindoro nhiều hải đội khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi.


Ngày 19 tháng 12, tiềm thuỷ đỉnh Redfish may mắn bắt gặp đại mẫu hạm Unryu lộ liễu tại eo biển Đài Loan, và phóng thuỷ lôi đánh chìm nó. Mối đe doạ trầm trọng nhất đã bị gạt bỏ. Ngày 25 tháng 12, khi hai tuần dương hạm của Kimura tiến vào vùng nội hải Soulou để tấn công lực lượng của Đô đốc Strubble, chúng bị tấn công bởi một đoàn phi công đông như ong và các khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi, đến nỗi phải quay trở lại và trở về Nhật Bản. Kinkaid đã thoát nguy và tự khen là đã chiếm Mindoro được


Giai đoạn tiếp theo tiến về Lingayen lại là một việc hoàn toàn khác. Đảo Lujon to lớn được phòng thủ bởi chừng 60.000 quân của Tướng Yamashita, số quân này được tăng cường mau lẹ bởi 10.000 thuỷ quân lục chiến của Đô đốc Ywabachi, tư lệnh căn cứ Manille. Onishi và Fukudomé chỉ huy những gì còn lại của đệ I và đệ II không lực, gần như gồm toàn Kamikaze. Toàn diện đạo quân chiếm đóng Lujon đều được vũ trang cùng mình và quyết định đánh đến chết không có ý tưởng rút lui.


Lực lượng hải quân che chở của Mỹ, với sức mạnh 6 thiết giáp hạm, 6 tuần dương hạm, 12 mẫu hạm hộ tống và chừng 40 khu trục hạm, nhổ neo rời Leyte ngày 3 tháng giêng năm 1945 đặt dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Oldendorf, tiến vào nội hải Soulou qua eo biển Surigao dưới sự che chở của một chiếc dù khu trục cơ hùng mạnh. Trong ngày đầu tiên, các phi cơ của Mỹ thành công trong việc làm tê liệt không cho Kamikaze cất cánh bằng cách oanh tạc các phi trường của chúng. Nhưng kể từ ngày 4 tháng giêng, Onishi tuôn vào hạm đội xâm chiếm một cuộc thao diễn liên tục. Một mẫu hạm hộ tống bị đánh chìm, một chiếc khác bị hư hại nặng cũng như hai tuần dương hạm và một khu trục hạm. Lực lượng hải quân che chở không vì thế mà từ bỏ tiếp tục hải trình đến vịnh Lingayen để oanh tạc hệ thống phòng thủ của Nhật. Cuộc oanh tạc và hải pháo này được dự liệu trong ba ngày trước khi lực lượng chuyển vận thuỷ bộ chuyển quân đến. Đó là ba ngày hoả ngục. Trưa ngày 6 tháng giêng, một trong các chiến hạm đầu tiên, chiếc thiết giáp hạm New Mexico khai hoả đồng loạt 12 khẩu đại pháo 355 ly nhắm vào hệ thống công sự phòng thủ của Nhật. Đứng trên cánh trái của đài chỉ huy, viên hạm trưởng quan sát cuộc tác xạ bằng ống dòm. Bên cạnh ông có trung tướng Herbert Lumsden, sĩ quan liên lạc đặc biệt của riêng Churchill cạnh Tướng Mac Arthur và phóng viên của tạp chí “Time”. Đột nhiên một tiếng la vang lên từ spardeck (chiếc cầu trên boong tàu) và súng cao xạ bắt đầu khạc đạn điên cuồng. Các sĩ quan quay lại và bị chói mắt vì một ngọn lửa đỏ rực soi sáng những cuộn khói bốc ra từ các nòng súng sau khi viên đạn thoát ra. Trước khi họ kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì một tiếng bùng lên vang dội làm bay tung cánh trái của đài chỉ huy và tất cả những người đứng trên đó. Chiến hạm đột ngột chậm lại và tách ra khỏi trục tiến quân. Một Kamikaze vừa đâm xuống tan nát với một sự chính xác quái lại ngay trên đài chỉ huy. Hoàn toàn bất ngờ, vì chiếc phi cơ này vừa bị trông thấy trong đám mây khói bay chữ chi cầu may với một cánh đã bị lửa thiêu rụi ba phần tư. Chiếc thiết giáp hạm dập tắt được ngọn lửa nhưng 30 người-trong đó có hạm trưởng và khách của ông-đã bị giết và có 87 người bị thương.


Vài phút sau, đến lượt khu trục hạm Walk bị bốn Kamikaze tấn công. Hai chiếc đầu hụt con mồi, nhưng chiếc thứ ba đâm bể tan trên cầu tàu gây ra một vụ cháy xăng tại đấy. Hạm trưởng và nhiều thuỷ thủ, biến thành những cây đuốc sống, đã chết vì vết cháy. Hai khu trục hạm khác bị hư hỏng cũng bằng cách đó và một tàu rà mìn bị đánh chìm. Mặt biển Lingayen phô bày một quang cảnh trước nay chưa từng có. Bầu trời hoàn toàn lặng gió. Khói súng cao xạ liên tục rất lâu tan. Bên trên, bầu trời phủ đầy những đốm trắng sau các tiếng nổ của đạn phòng không. Bên dưới, mặt biển dâng lên vì những chùm đạn đạo và nhiều đám khói dày đặc kéo lê sau các chiến hạm bị bốc cháy. Đôi lúc, mọt chiếc nấm đen khổng lồ bốc lên cao, chen lẫn những vạch lửa đỏ rực: một Kamikaze vừa đâm xuống nước.


Thiết giáp hạm California, tuần dương hạm nhẹ Columbia, tuần dương hạm của Úc Australia-mà đây là lần thứ hai bị đánh trúng-lần lượt bị Kamikaze đâm tan nát trên sàn tày hay trên đài chỉ huy. Đến 17 giờ 30, sau một lúc yên tĩnh, tuần dương hạm nặng Louisville phủ đầy khói. Một Kamikaze đâm xuống sàn trước mũi, ngang với đài chỉ huy, Đề đốc Chandler, tư lệnh hải đội, bị thảm xăng bừng lửa phủ ập lên cầu tàu đốt cháy. Ngọn lửa thoát ra từ kẽ hở do trái bom nổ xoi thủng. Chiến hạm, tạm thời bị hư hỏng, rút lui khỏi vòng chiến.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top