ngan trang
New member
- Xu
- 159
Ngày 12 tháng 11 năm 1943, 14.000 quân nhổ neo từ hải cảng Efaté trong quần đảo Tân-Hébrides. Hai ngày trước đó, các L.S.T chất đầy những máy kéo lội nước mới ra lò từ Hoa Kỳ đến, cũng đã rời Wellington để đến tiếp hợp với lực lượng đổ bộ. Riêng hải đoàn của Đô đốc Hill, từ Trân Châu Cảng, cũng đã lên đường đến điểm hẹn chung được ấn định vào ngày 19 tháng 11 tại phía nam quần đảo Gilbert. Mặc dầu có sự cách trở ban đầu, sự tiếp hợp đã được thực hiện đúng theo thời biểu và hai nhóm hải vận hạm tại Makin và tại Tarawa bắt đầu chuyển quân qua tàu đổ bộ L.C.I đúng thời hạn mong muốn.
Giai đoạn đầu tiên của các cuộc đổ bộ lên bờ biển phải bắt đầu vào bình minh ngày 20 tháng 11 năm 1943 gồm có việc thiết lập ba đầu cầu trên đảo Bétio. Một nằm ngay giữa đảo, hai đầu cầu kia nằm hai bên và cách đều đầu cầu giữa chừng 500 thước.
Đảo Bétio có hình dáng một con két nằm chổng vó dọc theo xích đạo, mà chiếc mỏ hướng về địa cực. Một bến tàu từ rốn con két nhô ra, băng ngang qua hàng rào san hô ngầm thông góc với bờ biển. Các phi đạo của phi trường được thiết lập bên trong sâu một chút, ngay bụng của con chim.
Ba tiểu đoàn tương ứng với 3 đầu cầu phải được đổ bộ lên bờ thành nhiều đợt, trước hết bởi các máy kéo lội nước, tiếp đó và khi nước lên khá cao, bởi các tàu L.C.I và L.C.T.
Ngay từ lúc khởi sự thảm cảnh đã bắt đầu. Sau khi các hải vận bỏ neo trong vùng biển san hô, việc chuyển binh sĩ và chiến cụ được thực hiện không có gì lộn xộn quá, nhưng khi các tàu đổ bộ tập họp tại tuyến xuất phát, chúng liền bị tán loạn vì hoả lực tập trung dày đặc của các giàn súng Nhật trên bờ. Mọi người hoàn toàn bị bất ngờ vì tin rằng chúng đã bị “nghiền ra bột” bởi tác xạ của hải pháo trên thiết giáp hạm. Các khu trục hạm phải tiến vào gần sát bờ mới làm chậm bớt được cơn mưa trái phá rơi xuống các tàu đổ bộ.
Sau cùng, cuộc tập họp trước được dự liệu lúc 7 giờ, nhưng mãi đến 9 giờ mới có thể thực hiện được và khi đợt thứ nhất đến được hàng rào đá ngầm, một hoả lực ác liệt chờ đón họ. Thuỷ triều đã xuống thấp và các máy kéo còn chạy được phải vất vả lắm mới vượt qua được. Các binh sĩ mang quá nặng phải nhảy xuống cách bãi biển rất xa, và trong cuộc đi bộ kiệt sức của họ, sáu trăm người đã bị giết hoặc bị thương. Những người lọt lưới được liền chạy tán loạn, tìm cách thoát hiểm trong các thế đất gồ ghề hiếm hoi. Nhiều máy kéo lội nước, cực nhọc rút ra để quay trở lại chở đợt thứ hai, phải chất đầy người bị thương. Nhiều thương binh còn mắc trên hàng rào đá ngầm và các binh sĩ vùng vẫy trong nước tập họp lại để ẩn núp sau đó. Đến 10 giờ, rốt cuộc chừng vài trăm binh sĩ đã đặt được chân lên bãi biển nhưng các đơn vị thì hoàn toàn tan rã. Binh sĩ không tìm thấy được sĩ quan của mình và không chịu tuân hành mệnh lệnh triệt để. Bị kẹt cứng trong các hố cá nhân, cách chiến luỹ bằng thân cây viền theo bờ biển có vài thước, họ nghe tiếng đạn rít trên đầu do các xạ thủ mai phục đằng sau móng đá của bến tàu nhắm bắn và không dám thò mũi ra ngoài. Không một điều tiên liệu nguyên thuỷ nào được thể hiện. Cả Đại tá Shoup lẫn đại đội chỉ huy của ông đều không ai đặt chân lên bờ được. Sáng kiến nằm trong tay các trung đội trưởng. Gần như tất cả trung đội trưởng đều đã kháng cự với sự can đảm tuyệt diệu và chính một người trong số đó đã cứu vãn tạm thời tình thế.
Toán tiền sát viên của trung uý Hawkins và trung sĩ Price bám chặt được vào móng của bến tàu. Hiểu rõ nguy cơ giết người mà quân đổ bộ phải lãnh đủ do đạn tác xạ cạnh sườn của các xạ thủ đại liên Nhật Bản đang mai phục trong các bờ đá của chân móng bến tàu, Hawkins gọi tên từng người một, tập họp một số đông nhất binh sĩ thuộc quyền, rồi dẫn họ nhào lên vừa xung phong vừa thét: “Phải tiến đến đó!”.
Sau một trận cận chiến kinh hồn, các binh sĩ tiền sát của Hawkins quét sạch được tất cả các cổ đại liên mà binh sĩ Nhật tiếp tục bắn cho đến phút chót. Chắc chắn là hệ thống liên lạc với Đô đốc Shibasaki đã bị hư hại do cuộc hải pháo của các khu trục hạm lúc đó đạt đến cường độ mãnh liệt, bởi vì không có một thuộc viên nào của ông ta có sáng kiến phản công quân Mỹ. Dầu sao chăng nữa, bến tàu rốt cuộc đã được giải toả. Nhưng quân đổ bộ đã không thể sử dụng được vì quân NHật, nấp trên ngọn dừa tưới đạn xuống đấy không ngừng nghỉ, tuy vậy, các tàu L.C.T đã có thể cặp vào bến bằng cách nấp vào sau các bờ đá của con đê chặn sóng, và vài chiến xa nhẹ còn chạy được vào cả trong đất liền.
Đến trưa, Đại tá Shoup đổ bộ và lập ban chỉ huy trên chiếc mái sụp đổ của một lô cốt lớn bị đối phương bỏ lại. Chỗ này, đầu cầu đổ bộ có chiều sâu 20 thước. Khi bóng đêm phủ xuống, ông thấy đằng sau mình cả một đoàn máy ủi và tàu đổ bộ vĩ đại đủ mọi kiểu. Gần như tất cả đều cặp được vào đầu con đê chặn sóng. Binh sĩ bắt đầu tiến lên theo hàng dọc, hoặc bò theo đường dẫn ra bến tàu hoặc ẩn nấp bên dưới nó. Khi đêm tối hoàn toàn, Shoup nhận được tin mừng đầu tiên trong ngày, một đại đội của ông đã cặp được vào bờ rất xa về phía tây-trên chiếc mỏ của con két-tại một địa điểm mà sự phòng thủ của Nhật không đáng kể. Đại đội tiến về phía đông gần 500 thước và nối kết được với những toán quân nhỏ lạc lõng trong vùng kế cận.
Khi được thông báo về tình hình của binh sĩ đổ bộ-nghĩa là vào lúc đêm đã rất khuya-thiếu tướng Julian Smith gửi cho Shoup một điện văn vắn tắt: “Chuẩn bị tấn công khi trời vừa sáng. Tôi sẽ gửi cho anh hai tiểu đoàn tăng viện”.
Mặc dầu thuỷ quân lục chiến không hề được nghỉ ngơi từ lúc 6 giờ sáng, không một ai có thể có lấy mọt phút nghỉ mệt. Không những họ bị cuốn hút vào công cuộc chuẩn bị tấn công vào sáng ngày hôm sau, mà ánh sáng của hoả châu, tiếng úng liên miên của các chiến hạm và mùi hôi thối dễ sợ bốc ra từ các xác chết mà khi thuỷ triều rút xuống, nằm phơi đầy bãi biển, tất cả những thứ đó không thể nào thích nghi cho giấc ngủ được.
Giai đoạn đầu tiên của các cuộc đổ bộ lên bờ biển phải bắt đầu vào bình minh ngày 20 tháng 11 năm 1943 gồm có việc thiết lập ba đầu cầu trên đảo Bétio. Một nằm ngay giữa đảo, hai đầu cầu kia nằm hai bên và cách đều đầu cầu giữa chừng 500 thước.
Đảo Bétio có hình dáng một con két nằm chổng vó dọc theo xích đạo, mà chiếc mỏ hướng về địa cực. Một bến tàu từ rốn con két nhô ra, băng ngang qua hàng rào san hô ngầm thông góc với bờ biển. Các phi đạo của phi trường được thiết lập bên trong sâu một chút, ngay bụng của con chim.
Ba tiểu đoàn tương ứng với 3 đầu cầu phải được đổ bộ lên bờ thành nhiều đợt, trước hết bởi các máy kéo lội nước, tiếp đó và khi nước lên khá cao, bởi các tàu L.C.I và L.C.T.
Ngay từ lúc khởi sự thảm cảnh đã bắt đầu. Sau khi các hải vận bỏ neo trong vùng biển san hô, việc chuyển binh sĩ và chiến cụ được thực hiện không có gì lộn xộn quá, nhưng khi các tàu đổ bộ tập họp tại tuyến xuất phát, chúng liền bị tán loạn vì hoả lực tập trung dày đặc của các giàn súng Nhật trên bờ. Mọi người hoàn toàn bị bất ngờ vì tin rằng chúng đã bị “nghiền ra bột” bởi tác xạ của hải pháo trên thiết giáp hạm. Các khu trục hạm phải tiến vào gần sát bờ mới làm chậm bớt được cơn mưa trái phá rơi xuống các tàu đổ bộ.
Sau cùng, cuộc tập họp trước được dự liệu lúc 7 giờ, nhưng mãi đến 9 giờ mới có thể thực hiện được và khi đợt thứ nhất đến được hàng rào đá ngầm, một hoả lực ác liệt chờ đón họ. Thuỷ triều đã xuống thấp và các máy kéo còn chạy được phải vất vả lắm mới vượt qua được. Các binh sĩ mang quá nặng phải nhảy xuống cách bãi biển rất xa, và trong cuộc đi bộ kiệt sức của họ, sáu trăm người đã bị giết hoặc bị thương. Những người lọt lưới được liền chạy tán loạn, tìm cách thoát hiểm trong các thế đất gồ ghề hiếm hoi. Nhiều máy kéo lội nước, cực nhọc rút ra để quay trở lại chở đợt thứ hai, phải chất đầy người bị thương. Nhiều thương binh còn mắc trên hàng rào đá ngầm và các binh sĩ vùng vẫy trong nước tập họp lại để ẩn núp sau đó. Đến 10 giờ, rốt cuộc chừng vài trăm binh sĩ đã đặt được chân lên bãi biển nhưng các đơn vị thì hoàn toàn tan rã. Binh sĩ không tìm thấy được sĩ quan của mình và không chịu tuân hành mệnh lệnh triệt để. Bị kẹt cứng trong các hố cá nhân, cách chiến luỹ bằng thân cây viền theo bờ biển có vài thước, họ nghe tiếng đạn rít trên đầu do các xạ thủ mai phục đằng sau móng đá của bến tàu nhắm bắn và không dám thò mũi ra ngoài. Không một điều tiên liệu nguyên thuỷ nào được thể hiện. Cả Đại tá Shoup lẫn đại đội chỉ huy của ông đều không ai đặt chân lên bờ được. Sáng kiến nằm trong tay các trung đội trưởng. Gần như tất cả trung đội trưởng đều đã kháng cự với sự can đảm tuyệt diệu và chính một người trong số đó đã cứu vãn tạm thời tình thế.
Toán tiền sát viên của trung uý Hawkins và trung sĩ Price bám chặt được vào móng của bến tàu. Hiểu rõ nguy cơ giết người mà quân đổ bộ phải lãnh đủ do đạn tác xạ cạnh sườn của các xạ thủ đại liên Nhật Bản đang mai phục trong các bờ đá của chân móng bến tàu, Hawkins gọi tên từng người một, tập họp một số đông nhất binh sĩ thuộc quyền, rồi dẫn họ nhào lên vừa xung phong vừa thét: “Phải tiến đến đó!”.
Sau một trận cận chiến kinh hồn, các binh sĩ tiền sát của Hawkins quét sạch được tất cả các cổ đại liên mà binh sĩ Nhật tiếp tục bắn cho đến phút chót. Chắc chắn là hệ thống liên lạc với Đô đốc Shibasaki đã bị hư hại do cuộc hải pháo của các khu trục hạm lúc đó đạt đến cường độ mãnh liệt, bởi vì không có một thuộc viên nào của ông ta có sáng kiến phản công quân Mỹ. Dầu sao chăng nữa, bến tàu rốt cuộc đã được giải toả. Nhưng quân đổ bộ đã không thể sử dụng được vì quân NHật, nấp trên ngọn dừa tưới đạn xuống đấy không ngừng nghỉ, tuy vậy, các tàu L.C.T đã có thể cặp vào bến bằng cách nấp vào sau các bờ đá của con đê chặn sóng, và vài chiến xa nhẹ còn chạy được vào cả trong đất liền.
Đến trưa, Đại tá Shoup đổ bộ và lập ban chỉ huy trên chiếc mái sụp đổ của một lô cốt lớn bị đối phương bỏ lại. Chỗ này, đầu cầu đổ bộ có chiều sâu 20 thước. Khi bóng đêm phủ xuống, ông thấy đằng sau mình cả một đoàn máy ủi và tàu đổ bộ vĩ đại đủ mọi kiểu. Gần như tất cả đều cặp được vào đầu con đê chặn sóng. Binh sĩ bắt đầu tiến lên theo hàng dọc, hoặc bò theo đường dẫn ra bến tàu hoặc ẩn nấp bên dưới nó. Khi đêm tối hoàn toàn, Shoup nhận được tin mừng đầu tiên trong ngày, một đại đội của ông đã cặp được vào bờ rất xa về phía tây-trên chiếc mỏ của con két-tại một địa điểm mà sự phòng thủ của Nhật không đáng kể. Đại đội tiến về phía đông gần 500 thước và nối kết được với những toán quân nhỏ lạc lõng trong vùng kế cận.
Khi được thông báo về tình hình của binh sĩ đổ bộ-nghĩa là vào lúc đêm đã rất khuya-thiếu tướng Julian Smith gửi cho Shoup một điện văn vắn tắt: “Chuẩn bị tấn công khi trời vừa sáng. Tôi sẽ gửi cho anh hai tiểu đoàn tăng viện”.
Mặc dầu thuỷ quân lục chiến không hề được nghỉ ngơi từ lúc 6 giờ sáng, không một ai có thể có lấy mọt phút nghỉ mệt. Không những họ bị cuốn hút vào công cuộc chuẩn bị tấn công vào sáng ngày hôm sau, mà ánh sáng của hoả châu, tiếng úng liên miên của các chiến hạm và mùi hôi thối dễ sợ bốc ra từ các xác chết mà khi thuỷ triều rút xuống, nằm phơi đầy bãi biển, tất cả những thứ đó không thể nào thích nghi cho giấc ngủ được.