Sấm sét trên Thái Bình Dương

Tình thế rất nghiêm trọng. Chưa bao giờ kể từ các trận đánh hỗn loạn tại Guadalcanal, hạm đội Mỹ lại bị những tổn thất đến thế. Oldendorf lại càng lo lắng hơn khi mà hai lực lượng chuyển vận thuỷ bộ, các mẫu hạm hộ tống và chiếc tuần dương hạm Boise chở Mac Arthur và ban tham mưu của ông đã nhổ neo lên đường. Nhưng bóng đêm đổ xuống mà không có báo động mới nào và khi nhận được các báo cáo yên tâm do các hạm trưởng các chiến hạm bị hư hại gửi ông quyết đến, định chờ đến sáng để xem có nên từ bỏ cuộc hành quân hay không.


Ngày 8 tháng giêng năm 1945 ít sôi động hơn. Vài tàu rà mìn bị đánh trúng và tự nhiên là bị tan nát bay tung từng mảnh, và tuần dương hạm Australia, rõ rệt là gặp rủi ro, lần lượt tiếp nhận chiếc phi cơ Kamikaze thứ ba rồi thứ tư. Nhưng chiếc chiến hạm mạnh mẽ của Úc sống thật dai, và khi đã thoát khỏi nguy hiểm, viên hạm trưởng chắc sẽ không ít kiêu hãnh vì kỷ lục lạ lùng này.


Trong thời gian đó, lực lượng xâm chiếm chạy dọc theo bờ biển tây Lujon, tiến đều mà không hề bị một cuộc tấn công nào cả, bởi vì Onishi được biết tin có một Lực lượng đặc nhiệm gồm nhiều mẫu hạm đang bọc vòng phía bắc Phi Luật Tân, nên đã để dành phi cơ Kamikaze cho con mồi quan trọng ấy. Thật vậy, Đô đốc Halsey đã quyết định che chở cho cuộc đổ bộ của Mac Arthur bằng cách oanh tạc tất cả các phi trường tại Đài Loan và dọc theo bờ biển Nam Hải.


Trước khi đến cùng biển Lingayen hai lực lượng chuyển vận thủy bộ của Đô đốc Kinkaid với các mẫu hạm hộ tống và các tuần dương hạm che chở cho chúng cũng bị một vài Kamikaze tấn công. Mẫu hạm Kinkum Bay và tuần dương hạm Boise chở Mac Arthur và bộ tham mưu của ông đều bị tấn công nhưng không bị chìm.


Ngày 9 tháng giêng khi cuộc đổ bộ bắt đầu, tuần dương hạm Columbia bị chiếc Kamikaze thứ hai, nó thoát ra được mà không bị thiệt hại gì nhiều nhưng đã thêm 92 người tử trận vào một danh sách đã quá dài. Dầu cho hung tàn và gây mệt lử đến mấy, các mũi chích của bầy ong vò vẽ ấy cũng không thể nào làm chậm được nhịp đổ bộ lý do là vì cuộc chống cự trên bãi biển quá yếu. Mặc dầu có sự can thiệp quá chậm của nhiều khinh tốc đỉnh chứa đầy chất nổ bắt chước kiểu tàu M.A.S. của Ý, ban đêm lao vào các chiến hạm đổ quân, nhưng các hải vận hạm chở quân và chiến cụ đã có thể chuyển lên bờ tất cả binh sĩ và vật liệu rồi nhổ neo trước khi bình minh ngày 10 tháng giêng ló dạng. Mẫu hạm hộ tống Salamaua suýt bị một Kamikaze đánh chìm, đã kết thúc vận đen của những ngày khủng khiếp ấy.


Trong khoảng thời gian đó, Onishi sử dụng tất cả phi cơ có trong tay để tấn công Lực lượng đặc nhiệm của Halsey và gây cho ông ta những tổn thất nặng nề: 201 phi cơ, 167 phi công, hai mẫu hạm bị hư-chiếc Langley và chiếc Tincoderoga-và một khu trục hạm biến thành cái xác tàu. Nhưng vì tất cả tài nguyên đã cạn, ông quyết định gửi đến Đài Loan, đặt dưới quyền của Fukudomé, 47 phi cơ tốt nhất còn lại. Chính ông, ở lại tại chỗ với 10 phi cơ cũ kỹ chỉ có thể cất cánh được với chừng 30 phi công không thể nào di tản được. Cũng như hạm trưởng một chiến hạm không muốn bỏ tàu, Onishi nghĩ rằng bổn phận của ông là ở lại với những người “hèn mọn” tại các phi trường thuộc Phi Luật Tân, những người trong hơn ba tháng liền đã đảm trách một công việc làm bạc bẽo, việc làm của các cơ khí viên đằng sau bối cảnh của thiên anh hùng ca Kamikaze. Sau khi thiết lập ban chỉ huy trong núi, với một nhiệt tâm bất khuất, ông điều động tổ chức cuộc bố phòng theo chiều sâu tại phi trường Clark với nhân viên của không lực thuộc hải quân được vũ trang bằng đại liên, súng cá nhân và lựu đạn.
Khi công việc đang tiến hành tốt đẹp thì ông nhận được một công điện của Đô đốc Salomon nay là tư lệnh hải quân tại Manille, báo tin là ông phải cấp tốc trở về Nhật do lệnh của Tổng hành dinh Thiên hoàng. Phản ứng đầu tiên của Onishi là từ chối thi hành mệnh lệnh này. Phải có sự khẩn nài tha thiết của viên tham mưu trưởng của ông, đại tá Inoguchi, ông mới bằng lòng rời thuộc viên của mình. Kondo không để cho ông phải đòi hỏi giải thích nguyên nhân: “Tổng hành dinh Thiên hoàng đã chỉ định ông làm tư lệnh tất cả những gì còn lại của không lực thuộc hải quân tại Nhật Bản. Fukudomé sẽ gửi cho ông một phi cơ từ Đài Loan. Ông sẽ đi ngay khi phi cơ đáp xuống Clark.


Onishi nhượng bộ Kondo nói tiếp: “Inoguchi phải tập họp các phi công ưu tú nhất và các cơ khí viên còn sống sót của Đệ I không lực. Nhiều phi cơ khác cũng sẽ đến kiếm họ”.

Vài giờ sau, Onishi và Inoguchi vẫy chào tất cả thuộc viên giữa các pháo đài và hang động mà họ vừa thiết lập. Sự thử thách còn đau đớn hơn nữa vì sự ra đi của những người được tuyển lựa này có thể tạo cho người ở lại một cảm nghĩ đào nhiệm. Hôm sau Onishi rời phi trường Clark. Khi đến Đài Loan, phi cơ của ông thoát khỏi một phi đoàn khu trục Mỹ trong gang tấc. Lúc Fukudomé đến đón ông tại phi trường và chúc mừng sự may mắn mà ông vừa trải qua, ông buồn bã gật đầu. Trăm lần ông thích cái chết hơn là cái thử thách đang chờ ông.


Trong khi binh sĩ của Yamashita tổ chức kháng cự trong các dãy núi xanh om, trên đảo Lujon, đệ lục lộ quân của Tướng Mac Arthur đồn trú chung quanh Lingayen với sự chậm chạp huy hoàng vẫn thường chi phối các cuộc điều động các đại đơn vị. Cuộc kháng cự từng đợt của địch không đáng kể nhưng khung cảnh thiên nhiên của chiến trường và các sự phá hoại của quân Nhật đủ làm tê liệt đà tiến của chiến xa và thiết giáp. Mac Arthur dậm chân nóng nảy. Ông được báo tin rằng gần 3.000 người Phi Luật Tân và vài trăm người Mỹ bị nhốt trong các trại giam ở Manille đang chết đói dần mòn. Thấy rằng không thể nào sửa đổi lệnh di chuyển các sư đoàn bộ binh nặng nề được, ông cho gọi từ Leyte đến sư đoàn 1 khu trục hạm binh thân yêu của ông, sư đoàn mà ông sử dụng để đánh chiếm bất thần quần đảo Amiranté. Khi Tướng Oscar Griswold, tư lệnh sư đoàn, đến Lingayen, Mac Arthur nói với ông: “Hãy thọc sâu vào Manille! Bọc vòng bọn lùn, đẩy dồn bọn lùn lại, nhưng hãy thọc sâu vào Manille và giải phóng các con tin!”.


Sư đoàn 1 đổ bộ ngày 27 tháng giêng, và không có sự yểm trợ nào ngoài hai không đoàn thuỷ quân lục chiến, nó dấn mình vào con đường lồi lõm ngay hôm sau, bắc cầu qua những con sông nước lớn, vượt qua các đầm lầy. Coi thường các khẩu đại bác từ trên đồi cao bắn xuống, băng qua ruộng lúa để bọc vòng các ngã tư đường do quân Nhật chiếm giữ, trong ba ngày sư đoàn tiến xa 80 cây số. Ngày 3 tháng 2 năm 1945 lúc 18h 30, các chiến xa nhẹ của thiếu tướng Chase tiến vào Manille sau khi đẩy dồn các tiền đồn của quân trú phòng. Thiếu tướng thọc sâu bất định vào các con đường tối om và vắng ngắt của thành phố to lớn ấy, nhờ các hướng đạo viên và các chiến sĩ trong các chiến khu thu lượm dọc đường hướng dẫn. Chiến xa vượt qua con sông Pasig chảy ngang qua Manille trên chiếc cầu duy nhất còn lại nguyên vẹn và đột nhập vào tổng hành dinh đặt tại viện đại học San Thomaco, nơi các con tin bị nhốt. Bất ngờ vì cuộc tấn công sấm sét này, quân trú phòng trong viện đại học rút lui về nhiều dãy nhà khác nhau và hoả lực của họ càn quét các con đường kế cận. Chase ra lệnh bao vây khám nhà và gửi các đại biển đến gặp viên Đại tá Nhật, mà sau cuộc thảo luận kéo dài, bằng lòng phóng thích các con tin với điều kiện để cho ông thoát ra khỏi vòng vây cùng với binh sĩ mang theo vũ khí nhẹ. Thoả hiệp này được tôn trọng triệt để và đến bình minh hôm sau, 2.700 người Phi Luật Tân, 300 người Mỹ xanh xao ốm yếu và gần chết đói bước ra khỏi nhà giam, nơi họ bị nhốt suốt trong ba năm chết chóc.


Cuộc ngưng bắn này chỉ là tạm thời. Trước khi bộ binh của đệ lục lộ quân đến, 20.000 quân Nhật có mặt trong thành phố Manille đã có thì giờ đào hào đắp luỹ. Nhiều trận đánh trên đường phố cũng khốc liệt như tại Stalingrad diễn ra trong hai tuần ngay giữa các đống đổ nát, giữa nhiều bức tường đổ sụp lẫn lộn với thép gai và trong một mùi hôi thối không chịu nổi của các xác chết bị ánh mặt trời nhiệt đới hấp nóng. Ngày 3 tháng 3 năm 1945, khi pháo đài cuối cùng của Nhật bị triệt hạ bằng lựu đạn và súng phun lửa, thành phố chỉ còn là một đống gạch vụn ngổn ngang. Khách sạn Manille Hotel là một trong các cao ốc còn đứng vững và Mac Arthur còn có thể leo lên để thăm lại căn nhà xa hoa trong cảnh điêu tàn của ông. Ông tìm thấy lại ở đây chiếc đàn dương cầm vỡ nát, vài cuốn sách và các tài liệu bị cháy đến ba phần tư nằm sóng sượt trên những mảnh vụn của thư viện riêng. Người ta đã đánh nhau tại đó mấy hôm trước, từ tầng lầu này đến tầng lầu khác.


Tại Corregidor, sau khi được giải phóng nhờ một tiểu đoàn dù, ông vui sướng thấy lại được chiếc xe hơi Rolls xưa cũ được đánh bóng loáng và còn chạy được. Ông cho thượng quốc kỳ “sao và sọc” lên cột cờ của đồn binh trong khi cả một trung đoàn hát bản quốc ca. Sau vài phút nghi lễ tiếp đón, ông quay lại phía các binh sĩ tháp tùng và nói với họ: “Tạ ơn Chúa! Này các ông, chúng ta đến nơi rồi đấy!... Đoạn đường đã quá dài!...”

Không một người nào nghe ông lại có thể tưởng tượng được rằng công cuộc giải phóng toàn thể Phi Luật Tân sẽ còn đòi hỏi thêm năm tháng chiến đấu gay go nữa.
 
Vòng vây siết chặt

Iwo Jima, Okinawa

Sau cuộc đổ bộ lên Lingayen, hạm đội thứ 3 trở về Uliti, và Halsey trao quyền chỉ huy lại cho Đô đốc Spruance. Vài hôm sau hạm đội từ Saipan lại khởi hành để bắt đầu các cuộc hành quân tiến về phía Nhật Bản vốn đã bị chậm mất 4 tháng vì quả đấm móc Phi Luật Tân. Kế hoạch hành quân đã được bộ tham mưu của Nimitz và Spruance soạn thảo tỉ mỉ. Kế hoạch gồm có trước hết một cuộc đổ bộ lên tiểu đảo Iwo Jima nơi các phi trường có thể sửa sang lại cho các pháo đài bay sử dụng. Nằm giữa đường đi từ quần đảo Mariannes đến Nhật Bản, Iwo Jima sẽ là một phi trường tiếp cứu tương lai đối với các oanh tạc cơ gặp khó khăn, và là một phi trường đảm bảo sự nối tiếp các khu trục cơ cất cánh tại Saipan vốn không có tầm hoạt động đủ lớn để hộ tống từ đầu đến cuối các pháo đài bay B-29 trong các chuyến bay đến Nhật Bản và trở về. Căn cứ theo các tin tức không thám, Nimitz và Spruance ước tính rằng đảo này không được phòng thủ kỹ.


Iwo Jima biểu tượng cho một tính cách đặc thù thuộc các đảo cùng loại: đặc tính bị xáo trộn từ đầu thế kỷ tiếp theo sau một cuộc động đất dữ dội dưới đáy biển. Nó là một khối không có hình thù gì rõ rệt gồm các phiến dung nham và tro hoả diệm sơn. Không có một mảnh đất nhỏ trồng trọt được, cho nên dân cư trên đảo chỉ là các phu mộ lưu huỳnh trước khi người Nhật nghĩ đến chuyện thiết lập các phi trường trên đó. Trên bản đồ, Iwo Jima mang hình dáng một chiếc đầu của con Tapir, đầu mút của chiếc vòi có tua là một miệng núi lửa vươn thẳng từ mặt biển lên. Dưới chân núi lửa hình nón này, eo đất chỉ rộng từ 5 đến 800 bước, rồi hai bờ biển dang xa nhau đến mức rộng nhất là 5 cây số trong phần tạo thành cái sọ của con Tapir. Chính trong vùng bằng phẳng nằm giữa miệng núi lửa và các dãy núi là nơi có phi trường lớn nhất, nằm sát kế bên một bãi biển thẳng tắp dài 3 cây số. Bãi biển này là một bãi đổ bộ lý tưởng nếu có bị phơi bày dưới làn đạn tác xạ của các đại bác được che giấu trên núi lửa về phía bắc. Các tác giả của kế hoạch xâm chiếm đảo đã bỏ qua điểm bất tiện lớn lao này bởi vì họ nghĩ rằng một hòn đảo nhỏ bé dường ấy sẽ có thể bị hải pháo của thiết giáp hạm cày nát đến mức độ không còn có “một thước đất nào mà không có một hố đạn nổ”.


Chính vì đã dựa trên niềm hy vọng này mà sau ba ngày oanh tạc dữ dội, hải lực thuỷ bộ Mỹ đã đồng thời đổ bộ sư đoàn 4 và 5 thuỷ quân lục chiến1 (Hai sư đoàn mới mẻ vừa được thành lập) trên suốt chiều dài của bãi biển. Ngày đầu tiên, mọi việc đều êm xuôi. Không có một phản ứng nào của địch và phi trường bị chiếm dễ dàng. Hy vọng đã được xác nhận rằng quân trú phòng bị nghiền nát ra bột. Nhưng giữa trưa hôm sau, các sườn núi đột nhiên nhiều ánh lửa nổi lên lốm đốm. Nhiều đại bác ló ra khỏi miệng hầm như những con chim báo giờ trên kiểu đồng hồ cũ rồi biến ngay lập tức. Một lưới đạn đại bác úp chụp lên đầu cầu quân đổ bộ, giết chết 570 thuỷ quân lục chiến và làm bị thương 1.700 người. Trận đánh Iwo Jima bắt đầu.


Nó sẽ kéo dài trong bốn tuần lễ rùng rợn dưới những điều kiện còn tệ hại hơn cả tại Bétio, tại Guam và tại Peleliu, bởi vì tại đây các pháo đài không phải là hầm hố công sự thường bằng thân cây và bằng đá, mà chính là các hang động hùng tráng được sửa chữa lại giữa các khối dung nham, trong đó mùi hôi thối từ xác chết trộn lẫn với hơi lưu huỳnh và hơi nước trên mặt biển bị đè nặng bởi khói phun ra từ các ống khói của các mỏ lưu huỳnh. Tất cả các công sự đều thông thương với nhau bằng những hành lang. Nước, điện, không khí được dẫn vào trong đó bằng các đường ống ngầm dưới đất. Những chỗ ẩn nấp rộng rãi nhất được sửa sang thành bệnh xá, kho vật liệu hay trại lính.


Tác giả của tổ chức phòng thủ kiểu mẫu này là trung tướng Kuribayashi, người mà đài phát thanh Đông Kinh đã nói-ít ra lần này cũng không quá đáng-rằng “bụng chứa đầy nhiệt tâm chiến đấu và biết rõ hòn đảo của ông đến nỗi có thể tìm thấy tất cả các hang chuột trên đó”. Với 20.000 người và vài trăm công nhân Cao Ly, thiên tài của chiến thuật phòng thủ ất đã đương đầu trong suốt 36 ngày dưới một thảm bom như thác lũ và 60.000 thuỷ quân lục chiến Mỹ. Theo lời Đô đốc Nimitz, ông đã đạt đến “mức toàn thiện trong nghẹ thuật làm cho cường độ tác xạ của pháo binh tương xứng với kích thước của phi trường”. Đây là lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh bắt đầu, ông đã ghi khắc vào tâm trí người Nhật mối ưu tư cho sự an toàn của chính bản thân họ; cùng với Shakespeare ông ước tính rằng “một người nhút nhát còn sống còn hơn là một vị anh hùng gục chết” bởi vì một người lẩn tránh một cách có ý thức là có thêm một chiến binh cho ngày mai. Nhưng số “người nhút nhát còn sống” của Kuribayashi không đủ để chặn đứng biển người quân Mỹ vốn đã thay thế luôn luôn các “anh hùng gục chết” bằng các quân đoàn mới, từ từ theo nhu cầu kể từ ngày 10 tháng 3 năm 1945, thuỷ quân lục chiến dưới quyền Tướng Schmidt đã xuyên vào phòng tuyến hỗn loạn của quân Nhật và chia cắt đội quân trú phòng kiệt sức thành từng mảnh vụn.
 
Người ta đã không tìm thấy được xác của Tướng Kuribayashi trong mê cung hang động tại Iwo Jima mà phần lớn đã bị bít kín vĩnh viễn, tuy nhiên giấy tờ lượm được trong một hầm núp dường như cho thấy rằng ông đã tự tử. Các thông dịch viên Nhật của đoàn thuỷ quân lục chiến đã dịch một tài liệu mà họ cho là bản chúc thư của ông tướng, hay đúng hơn là thỉnh nguyện cuối cùng của ông xin Thiên hoàng xá tội, người mà trước đây ông đã chỉ huy đoàn quân danh dự để bảo vệ. Ông diễn tả “những lời xin lỗi hèn mọn nhất vì đã bị bắt buộc phải để cho một cứ điểm chiến lược quan trọng đến thế rơi vào tay quân thù” và trong tài liệu này ông đã có ám chỉ mơ hồ đến sự bại trận không thể tránh khói của Nhật Bản bằng cách khẩn cầu chủ nhân của ông “đừng bao giờ mất niềm tin nơi định mệnh vĩnh cửu của dân tộc”, và hứa với Thiên hoàng là “sau khi chết sẽ hiện về giúp làm hồi sinh quân lực Thiên hoàng”.


Tài kháng cự sau cùng còn lại phía đông bắc của tiểu đảo đã có thể bị tiêu diệt dần dần nhờ nhiều chiến cụ đang còn được thí nghiệm “chiến xa phun lửa, xe ủi đất bọc thép”. Ngày 26 tháng 3 năm 1945, thuỷ quân lục chiến của sư đoàn 5, mặc dầu thể xác và tinh thần mệt mỏi, đã có thể xuyên nhập vào đằng sau quân trú phòng vào trong các hầm hố và hang động. Nhưng 200 quân Nhật xâm nhập ngang qua các phòng tuyến, hôm đó mưu toán một đợt phản công. Họ bị tiêu diệt bởi các tiểu đoàn thu dọn chiến trường đi sau thuỷ quân lục chiến. Đấy là những cái giật mình hấp hối của quân phòng vệ Iwo Jima.


Sự “diên trì” tại Iwo Jima đã giúp cho những người tổ chức cuộc tấn công kế tiếp có đầy đủ thì giờ hoàn thành kế hoạch hành quân. Kế hoạch này gồm có một đổ bộ 120.000 người lên đảo Okinawa rộng lớn nằm cách quần đảo Nhật Bản 300 hải lý về phía nam. Không một sư đoàn thuỷ quân lục chiến nào từng tham dự cuộc chinh phục trước đó sẽ lại được sử dụng trong cuộc đổ bộ này. Iwo Jima là một vụ thuần tuý của “thuỷ quân lục chiến". Okinawa sẽ chủ yếu là của “bộ binh", với sự vận dụng các đại đơn vị, sự sử dụng chiến xa và chiến tranh cơ động. Ngoài kích thước, địa hình của đảo này không có điểm nào có thể so sánh với Iwo Jima. Okinawa là một hòn đảo kéo dài (107 cây số trên 2 đến 5 cây số bề rộng), bờ biển viền xung quanh bị bào xoi, có vẻ bị bỏ rơi ngay giữa mặt biển, như là một miếng cuối cùng của trò chơi ghép hình mà không ai có thể ráp được vào mê cung của bờ biển đối diện.


Bộ tham mưu của Đô đốc Turner hy vọng có thể đổ bộ thật nhanh chóng bốn sư đoàn của thiếu tướng Simon Bolivar Buckner. Với một hạm đội bành trướng hàng tuần, Spruance nay có 20 mẫu hạm1 (Trong đó có 4 của Anh, sau khi Đức đầu hàng, đã được đưa đến cùng với thiết giáp hạm King George V, để nhập đoàn với hạm đội Mỹ-mặc dầu không được yêu cầu), 8 thiết giáp hạm, 15 tuần dương hạm và vố số khu trục hạm, trong số này một vài chiếc được sửa sang lại thành “Pipqueta Radar” để đảm trách nhiệm vụ báo động phi cơ địch từ xa. Các phi đoạ của Tinian đã được nới rộng, các pháo đài bay B-29 của tướng Curtis Le May đã bắt đầu các cuộc không tập dò dẫm đầu tiên trên đất Nhật Bản và chuẩn bị cuộc oanh tạc ồ ạt vào các trung tâm kỹ nghệ. Các mẫu hạm của Mistcher cũng đã thực hiện các cuộc không tập trên những thành phố cận duyên. Do đó lực lượng khu trục cơ địch luôn luôn bị đặt trong tình trạng báo động, nên không thể nào hộ tống các oanh tạc cơ, lại càng ít có thể hy sinh hơn cho các cuộc tấn công tự sát. Gia dĩ, các phi cơ Kamikaze lại được chú ý vì sự vắng mặt tại Iwo Jima và ai cũng hy vọng là quân Nhật đã tung ra những con ma trời cuối cùng rồi.


Trong tâm trí của Uỷ ban tham mưu hỗn hợp, lấy được Okinawa là đảm bảo được cuộc phong toả cuối cùng quần đảo Nhật Bản, giúp thiết lập các phi trường tiếp liên cho pháo đài bay B-29 đặt căn cứ trên lãnh thổ Trung Hoa và cung ứng một căn cứ xuất phát lý tưởng cho cuộc xâm chiếm cuối cùng toàn bộ quần đảo Nhật Bản. Do đó, đây là một cuộc hành quân tối quan trọng về mặt chiến lược, và chính phủ Hoa Kỳ không nề hà tổn thất. Hơn nữa chính phủ Hoa Kỳ còn bí mật nuôi dưỡng niềm hy vọng rằng một sự vận dụng lực lượng như thế nhằm vào các bờ biển, sẽ thúc giục đối phương chấp nhận “đầu hàng vô điều kiện" do Tổng Thống Roosevelt đòi hỏi, mà không cần phải đi đến chỗ đổ bộ lên chính lãnh thổ Nhật Bản.


Hy vọng như thế quả là đã ru mình trong ảo tưởng. Từ lâu, Tổng hành dinh Thiên hoàng đã sợ một cuộc tấn công lên Okinawa, nên đã dồn vào đấy một đạo quân hơn 100.000 người, đặt dưới quyền chỉ huy của Tướng Ushijima, một trong các sĩ quan sáng chói nhất của lục quân. Cuộc kháng cự lâu dài tại Iwo Jima đã giúp hoàn thiện hệ thống phòng tại Okinwa. Trong khi hạm đội Mỹ điều động để tiêu diệt chúng thì tất cả các phương tiện hải quân và không quân Nhật sẽ khởi động trên đảo này. Kế hoạch mang ám danh “Ten-Go” ấy trước hết dựa vào chiến thuật của “các cuộc tấn công đặc biệt”. Hàng ngàn thanh niên được đào tạo cấp tốc thành hoa tiêu, rồi được huấn luyện các kỹ thuật Kamikaze dưới quyền lãnh đạo tối cao của Onishi. Tất cả các phi cơ còn bay được đều được tập trung trên các phi trường tại Kiou Siou. Các bom bay “Hoa anh đào”, các khinh tốc đỉnh Shinio chứa đầy chất nổ và các thuỷ lôi do người lái Koiten đang được sản xuất ồ ạt, bổ túc cho bộ sưu tập vũ khí rùng rợn được đưa ra cho những người tình nguyện tìm cái chết chọn lựa.
 
Hoả thiêu Đông Kinh

Nhưng khi các chi tiết thi hành đang được chuẩn bị, một biến cố xuất hiện đột ngột đã làm thay đổi hoàn toàn không khí cho đến lúc đó tương đối yên tĩnh cho các hội nghị tại Tổng hành dinh Thiên hoàng. Ngày 9 tháng 3 năm 1943, một vụ hoả hoạn bề ngoài có vẻ là do tai nạn đã được loan báo giữa đêm khuya tại khu vực trung ương Đông Kinh, một pháo đài bay B-29 lợi dụng cơ hội đó đã hạ xuống thấp bằng cách ẩn mình trong đám khói. Đến 23 giờ 30, chiếc oanh tạc cơ này bị trông thấy và cao xạ D.C.A bắt đầu hoạt động, nhờ thế toàn thể thành phố lâm vào tình thế bị xác định với những tiêu mốc chính xác. Vài phút sau, các giàn rada báo hiệu cả một đoàn phi cơ vĩ đại đang tiến đến gần, và những trái bom đầu tiên bắt đầu rơi xuống Đông Kinh. Dân chúng ở khu vực công nhân Koto, một khu vực dường như bị đặc biệt nhắm đến, nghe những tiếng nổ chát tai rất khác lạ với tiếng động sắt ngọt của loại bom nổ, và cũng không có những ánh chớp rung chuyển soi sáng bầu trời đột ngột làm hiện ra những mái nhà kiểu Trung Hoa. Không có gì đáng lo lắm, chung qui các quả bom ấy… ít ra cũng rơi cách xa.


Nhưng nửa giờ sau cuộc biểu diễn kỳ lạ đó, một ánh lửa đỏ rực bắt đầu bốc cao lên trên khu vực Koto. Bom vẫn tiếp tục rơi, ánh lửa lan rộng và dần dần đạt đến một cường độ quáng mắt. Cả khu ngoại ô đồng loạt bị hoả thiêu dưới hiệu quả của loại bom đốt cháy có hiệu lực ghê gớm1 (Đây là một loại bom Napalm trứ danh mà một trong các phụ tá của Tướng Le May, thiếu tá Powers, sau khi thấy hiệu quả tại Tainan, đã thuyết phục cấp chỉ huy của mình sử dụng trên các thành phố Nhật-Nay là Trung tướng Powers là tư lệnh lực lượng không quân chiến lược của Hoa Kỳ). Cho đến 3 giờ 30 sáng, các pháo đài bay B-29 liên tiếp bay đến trên thủ đô Nhật Bản với một cao độ mà cao xạ D.C.A. không làm phiền được. Những người dân đáng thương ở các khu vực ngoại ô lập tức thấy bị ngọn lửa bao vây, liền chạy ùa ra tứ phía hy vọng thoát khỏi sức nóng của lò lửa. Nhưng dường như gió vẫn luôn luôn quay cuồng, và luôn luôn hạ ngọn lửa úp chụp lên những kẻ chạy trốn đang chạy tháo lui để rồi đụng phải một biển người khác.


Mặt trời lên cao chiếu sáng một quang cảnh rùng rợn. Những người ốm yếu, bệnh hoạn, già cả, trẻ con bị ngã trước tiên và bị dẫm chết. Những kẻ mạnh nhất chạy đến được bờ sông, kiệt sức nằm sõng sượt bên bờ, “như những con cá trong một cái hồ cạn nước”. Ngọn lửa đã kéo theo một mức độ hấp thụ dưỡng khí đến nỗi không khí dưới mặt đất không thở nổi. Hiện tượng chết ngạt ấy cũng lan tràn trong nhà dân chúng, trong các giao thông hào và hầm trú ẩn. Một khi đã bị hạn chế, ngọn lửa vẫn tiếp tục cháy trong 4 ngày. Sau đó, những người sống sót còn mạnh khoẻ hiếm hoi tiến vào đống đổ nát để tìm thân nhân hay của cải. Rồi các toán hướng đạo sinh đổ đến để tôi ra hàng núi xác chết ít nhiều bị cháy thành than tràn ngập cả đường phố. Xác chết được kéo bằng móc cho đến các xe vận tải để chuyên chở đến lò thiêu xác được ứng biến thiết lập.


Mặc dầu đã cho áp dụng các biện pháp đề phòng, nhưng cũng không thể nào giấu được bản kết toán hãi hùng với dân chúng tại các khu vực khác thuộc thủ đô. Hệ thống vận tải bị hỗn loạn, thực phẩm trở nên hiếm hoi, trên các đường phố tại Đông Kinh, nỗi kinh hoàng có thể đọc được trên khuôn mặt tất cả mọi người.


Tổng hành dinh Thiên hoàng khi nhận được các báo cáo phòng thủ thụ động đầu tiên (hơn 60.000 chết, 48.000 bị thương, hàng chục ngàn nhà cửa bị thiêu huỷ) đã hiểu rằng loại bom lửa mới có thể giúp cho người Mỹ tận diệt dân Nhật trong các ngôi nhà bằng gỗ và bằng giấy của họ. Ngay khi Thủ tướng Nhật được báo tin, ông tiếp xúc với những nhà ngoại giao trung lập ngay lập tức để nhờ họ áp lực với các chính phủ đồng minh nhằm tiến tới thương thuyết hoà bình, nhưng ông cố ý không để cho họ tất cả các tổng bộ trưởng biết-đặc biệt là các bộ trưởng lục quân và hải quân. Thật vậy nếu ý tưởng về một nền hoà bình “nhục nhã” không hề được thoáng qua trong trí óc các lãnh tụ quân sự, thì ý tưởng về một cuộc đầu hàng không điều kiện lại càng không thể nào được họ nghĩ đến. Vả chằn sự phẫn nộ do cái tang ngày 9 tháng 3 gây ra chỉ làm cho nhiệt tâm của họ được củng cố thêm. Giờ đây cuộc hành quân Ten-Go mang một âm vang sâu xa hơn: nó sẽ là một “cuộc xung phong Banzai” đầu tiên mà toàn dân sẽ lao vào để làm cho địch quân phải thất vọng vì kết quả của chiến thắng và bắt địch quân phải trả quá mắc cho chiến thắng ấy.


Các cuộc thảo luận cuối cùng tại Tổng hành di Thiên hoàng được khai diễn trong trạng thái tinh thần mới ấy. Một trong các câu hỏi đầu tiên được đặt ra là sự tham chiến của hạm đội: “Các chiến hạm sẽ làm gì trong lúc lục quân đang hy sinh trong các hang động tại Okinawa và các phi cơ Kamikaze đâm vỡ tan vào các mẫu hạm địch”.


Toyoda không dám trả lời: “Chúng tôi sẽ ở lại các hải cảng trong khi chờ đợi một cơ hội tốt đẹp hơn”. Các tướng lĩnh gặp cơ hội thuận tiện để nói với ông rằng chính vì sự chờ đợi cơ hội tốt nhất này mà xứ sở bị đẩy đến vực thẳm. Do đó ông đành đề nghị một cuộc hành quân đánh lạc hướng với những gì còn lại của hạm đội Ozawa để lôi kéo một phần hải lực của Mỹ đang tập trung chung quanh Okinawa. Giải pháp này dường như cũng không đủ đối với đa số các sĩ quan hiện diện, do đó đã có quyết định phái toàn diện hạm đội vào một cuộc xung phong tự sát để tiêu diệt tất cả chiến hạm Mỹ nào thoát khỏi tay phi cơ Kamikaze.


Một tuần lễ sau, những phi cơ thám sát hiếm hoi còn lại của Nhật còn bay trên hải phận báo hiệu thấy một hạm đội vĩ đại của địch bao phủ mặt biển đến ngút ngàn, đã rời Mariannes và dường như tiến về Okinawa. Cùng ngày hôm đó, quân Mỹ đã đặt đảo nào dưới một đợt oanh tạc và hải pháo nghiêm khắc vốn chỉ là sự khởi động của một cuộc hành quân tấn công
 
Hồi chung cục của Hạm đội liên hợp

Ngày lễ Phục sinh 1 tháng 4 năm 1945, 1.200 chiến hạm đủ mọi cỡ của hạm đội Mỹ bố trí về phía tây nam đảo Okinawa trước các bãi biển đổ bộ. Trong nội buổi sáng, 50.000 quân đã được đổ lên bờ và có thể chiếm các phi trường kế cận Yontan và Kadena mà không gặp một sự chống đối nào cả. Đến 16 giờ các hải vận hạm chính đã có thể nhổ neo đi chở các đơn vị đổ bộ tiếp theo. Chúng bị ngạc nhiên khó chịu với các cuộc tấn công của hai phi cơ Kamikaze, mỗi chiếc đâm trúng một hải vận hạm. Đấy là biến cố duy nhất của ngày đầu tiên. Một sự im lặng hoàn toàn, giống như thế đã đánh dấu 4 ngày kế tiếp. Các đơn vị lần lượt được đổ bộ và bố trí trên phần phía nam đảo. Tướng Buckner đồn trú vững chắc quân sĩ của ông trên các cánh đồng rải rác vườn cây và vườn hoa trải dài từ đỉnh núi Kakazu bị pháo đài xưa cũ Shuri chế ngự, và eo đất rất chật hẹp Ishikawa, thắt chặt lại như một chiếc nịt ngực ngay đoạn giữa hòn đảo rộng lớn.


Dư luận chung rất là lạc quan. Binh sĩ của lục quân trong tâm trí chờ đợi được thấy một cảnh trí lỗ chỗ hố bom đạn như cảnh mặt trăng, đã nói đùa với nhau và nói bóng gió rằng các câu chuyện về Iwo Jima do thuỷ quân lục chiến kể lại đều “đã quá phóng đại như thường lệ”. Phần nguy hiểm nhất của một cuộc hành quân loại này là lúc đổ quân lên bờ, sự kiện đổ bộ thành công 200.000 người dường như là một triệu chứng tốt. Cuộc tấn công vào các đỉnh núi phía Nam đảo, các đỉnh Kazuka và Shuri, được ấn định vào ngày 9 tháng 4.


Tuy nhiên trước bình minh ngày 6, trong khi các chiến hạm Mỹ chuẩn bị thực hiện cuộc hải pháo buổi sáng vào các cứ điểm của Nhật, thì tiếng nổ dòn của cao xạ D.C.A đã phá tan sự im lặng. Những chùm bom đã quấy rộn mặt biển im lặng. Lần này, không còn nghi ngờ gì nữa, địch quân đã phản ứng.


Và phản ứng kinh khủng biết bao! Hai khu trục hạm đang tuần tiễu trước các đại chiến hạm đã hoàn toàn bị Kamikaze phá huỷ, những chiếc khu trục hạm làm mốc rađa có phận sự canh phòng không phận ngoài khơi,phải chịu đựng một trận đánh vô vọng với các phi cơ tự sát ào tới hết đợt này đến đợt khác không ngừng nghỉ. Chính cảnh địa ngục tại Lingayen đã được tái diễn với tầm mức rộng lớn hơn nhiều. Trong vài phút tất cả các khu trục cơ trên các mẫu hạm đều cất cánh và nhiều cuộc không chiến ác liệt diễn ra trên các khu trục hạm làm mốc rada để toan tính chặn đứng phi cơ Kamikaze. Những tiếng nổ của đạn phòng không làm bầu trời nổi đốm đen giống như những quả bong bóng của trẻ con, trong đó những cánh phi cơ Zéro tơi tả hay những thân phi cơ oanh tạc nặng nề nhào lộn theo hình chữ chi. Đa số các máy bay tấn công đã kéo theo sau những vệt khói. Thỉnh thoảng một phi cơ đâm xuống nước bùng cháy một thoáng rồi nổ tan và biến mất trong một xoáy nước đen ngòm. Đôi khi nhiều cuộn khói nặng nề đã bốc lên cao từ chính các chiến hạm. Đến 4 giờ chiều, cơn cuồng nộ dịu hẳn đột ngột cũng như khi bắt đầu. Số lượng các cuộc tấn công tự sát lên đến 355. Một số gần tương đương oanh tạc cơ tung ra các đợt tấn công cổ điển rất hữu hiệu, phi cơ săn giặc Mỹ hoạt động không xuể, gần như không có chiếc nào bị bắn hạn.


Nếu tổn thất về phi cơ của Mỹ cực kỳ thấp, thì tình thế lại khác hẳn đối với hải lực: 6 khu trục hạm bị đánh chìm, 17 chiến hạm các kiểu bị thương tổn trong đó có 10 chiếc vĩnh viễn không còn sử dụng được nữa. Số tử thương là 466, số bị thương-phần đông là bị bỏng khó sống-lên đến 568.


Trong lúc diễn ra loạt tấn công mệt nhoài ấy, hạm đội Nhật đã khởi hành cho chuyến ra đi tự sát, theo đúng kế hoạch Ten-Go. Quyết định dứt khoát đưa thiết giáp hạm Yamato, tuần dương hạm Yahagi và 8 khu trục hạm, tức là gần toàn diện hải lực tại chính quốc của Nhật, vào chỗ chết, đã được chuyển đến cho các giới chức liên hệ. Những người này cũng không ít ngạc nhiên khi biết rằng hải đội được cấu tạo như thế lại được giao cho Phó Đô đốc Ito, mặc dầu ông ta chưa bao giờ chỉ huy một trận hải chiến, mà suốt thời kỳ chiến tranh chỉ làm việc tại Bộ Tổng tham mưu. Sự kiện duy nhất này chứng tỏ rằng Tổng hành dinh Thiên hoàng không có một phút nào nghĩ đến một trận hải chiến thật sự sẽ xảy. Hiểu rằng một cuộc điều động ra đi trong các điều kiện như thế sẽ gây nên biết bao lời chỉ trích, Toyoda phái viên tham mưu trưởng của mình, Kusaka, đến thiết giáp hạm Yamato để hội họp với các sĩ quan cấp tướng của hạm đội. Những giới chức này sau khi biết rõ chuyện gì, yêu cầu một thời hạn để lấy ý kiến các hạm trưởng. Toàn thể đều nhất trí gạt bỏ ý tưởng một sứ mạng-tự sát kiểu này, không phải vì một sự hy sinh nhường ấy đã làm cho họ công phẫn, nhưng bởi vì nó không có một cơ may nào được bù trừ bởi sự phá huỷ một mục tiêu quan trọng.
 
Trên chiếc tuần dương hạm Yahagi, Đề đốc Komura, tư lệnh hải lực nhẹ, triệu tập 6 đại tá và 3 trung tá hạm trưởng dưới quyền. Tham mưu trưởng của ông. Đại tá Hara, sẽ sống sót sau thảm cảnh, đã kể lại cho chúng ta mọi chi tiết về quang cảnh đã diễn ra trên chiến hạm của ông. Chúng ta ghi lại ở đây qua những nét chính:

-“Các ông, Komura nói, tất cả các ông đều đã thấy kỳ hiệu được kéo lên chiếc Yamato ra lệnh cho chúng ta thực hiện hành quân Ten-Go. Cuộc hành quân này đơn thuần chỉ là một cuộc tự sát, và tôi đã nói điều đó với vị tham mưu trưởng của hạm đội liên hợp. Tôi được sự đồng ý của hai vị Đề đốc hiện diện. Phó Đô đốc Ito giữ im lặng khiến tôi không rõ ông nghĩ gì. Như các ông đã biết, tôi là tham mưu trưởng của Ozawa khi ông ta bị phái đi đóng vai trò nhử mồi trong vùng biển Phi Luật Tân. Tôi đã thấy một số lớn binh sĩ của ta bị giết chết. Tôi không chú ý đến số phận của bản thân tôi, nhưng tôi ghê tởm việc bắt thuỷ thủ đoàn của ta hy sinh trong một cuộc hành quân vô ích như vậy. Do đó tôi yêu cầu có một thời hạn để biết quan điểm của các ông”.
Một sự im lặng suy tư tràn ngập khiến không một ai dám khuấy động. Đột nhiên một trong các đại tá hạm trưởng cất lời:

“Có phải Kusaka đến đây dùng sức mạnh bắt ta thi hành lệnh không?

-Ông ta không nói đến mệnh lệnh, Komura trả lời. Không ai có thể ra lệnh cho người khác phải chết. Có thể là ông ta có mệnh lệnh ấy, nhưng ông ta không nhắc nhở đến. Ông ta chỉ đòi hỏi những đề nghị của các ông”.

Viên sĩ quan lại cất lời, giọng lạc hẳn đi: Tôi có mặt với Kurita tại Leyte. Cuộc hành quân ấy đã lố bịch rồi. Cuộc hành quân mà nay chúng ta được yêu cầu thi hành càng lố bịch hơn. Chúng ta sẽ chết tất cả và còn lại gì để phòng vệ chính quốc?”.

Lời thuyết minh này có hiệu lực làm mọi người hết cứng lỗi. Có những tiếng la “chúng tôi cũng nghĩ như ông ấy” Nhiều tiếng thì thầm tán đồng lan tràn. Cuộc hội nghị chuyển qua một khúc quanh kỳ dị. Đô đốc Komura vẫn im lặng, mắt lim dim. Hạm trưởng Hara, người rất có ảnh hưởng trong số các hạm trưởng khu trục hạm lên tiếng:
“Giải pháp thông minh nhất theo ý tôi là thực hiện các cuộc hành quân biệt lập trên trục giao thông quá kéo dài của địch. Chiến hạm của tôi, chiếc Yahagi, có một rada và một máy Sonar mà rốt cuộc ta phải hãnh diện. Tôi sẽ tiêu diệt ít ra là một nửa tá chiến hạm trước khi bị khám phá. Thế còn hơn là giải pháo mà người ta đề nghị cho chúng ta vốn chỉ là đem trứng chọi đá”.


Lúc ấy nhiều hạm trưởng khác cũng đưa ra các đề nghị tương tự. Tất cả đều hãnh diện với chiến hạm của mình và tỏ ra nóng nảy vì ham muốn tung chúng vào trận đánh. Cái chết không quan trọng lắm đối với họ, nhưng với điều kiện là chết để phục vụ cho một cái gì, và họ biết các thuỷ thủ đoàn cũng bị khích động bởi cùng những ham muốn như họ. Một trong các hạm trưởng kết luận cuộc tiếp xúc bằng những lời được nói lên với nhiệt tình chan chứa:

“Toàn diện chiến hạm Asashino của tôi đều được giương về trận đánh, Xin hãy cho nó một cơ may để phục vụ đắc lực cho tổ quốc!”

Lúc đó, Komura cho dọn bữa ăn trưa. Không một ai đụng đến bữa ăn, các sĩ quan tiếp tục trao đổi quan điểm.

Đúng 13 giờ, Đô đốc đi đến chiếc Yamato. Ông trở về lúc 15 giờ và mặt tái ngắt bước vào phòng khách nơi các sĩ quan chờ ông:

“Tôi đã chấp nhận thi hành mệnh lệnh. Nó sẽ có hiệu lực lúc 15 giờ 30”.

Sau khi liếc mắt nhìn quanh, ông kể lại chuyện gì đã xảy ra:

“Tôi đã trình bày quan điểm của các ông và nhấn mạnh rằng tôi cũng chia sẻ quan điẻm ấy. Kusaka và Ito chăm chú nghe tôi. Nhưng khi tôi dứt lời, Kusaka đã giải thích rằng đây là một cuộc điều động đánh hướng để tập trung các phi đoàn của những hàng không mẫu hạm địch trong lúc hàng trăm phi cơ Kamikaze tại Kiou-Siou tấn công vào các chiến hạm chở quân đổ bộ. Ông ta kết thúc bằng cách nói rằng kế hoạch không do ông vạch ra nhưng ông tin rằng đợt ra quân của chúng ta sẽ không kết thúc một cách vô ích như các lần trước. Và để trả lời câu hỏi của một vị Đô đốc, ông ta nói thêm rằng toàn thể xứ sở sẽ phẫn nộ nếu như chiếc Yamato vốn đã bị công khai mệnh danh “khách sạn nổi của những Đô đốc ngu xuẩn” vẫn còn nguyên vẹn khi chiến tranh chấm dứt, sau khi nghỉ ngơi trong 3 năm liền không hề bắn một phát đại bác. Lúc đó Đô đốc Ito phá vỡ sự im lặng đầy bối rối tiếp sau lời của Kusaka.

“Thưa các ông, ông ta bảo, chúng ta được cung ứng một cơ hội để chết một cách vinh dự. Một võ sĩ đạo luôn luôn sẵn sàng hy sinh đời sống của mình”.

“Câu nói nhắc nhở đến chân lý ấy đã chấm dứt cuộc thảo luận. Tất cả chúng tôi đều hứa thi hành mệnh lệnh".

Komura cúi đầu xuống khi nói những lời này, như là để xin lỗi vì đã nhượng bộ áp lực của thượng cấp.

Lúc ấp, đại diện mọi người, Hara lên tiếng, tin chắc là sẽ diễn tả đúng tư tưởng của họ:

“Thưa Đô đốc, chúng tôi xin cám ơn ông đã trình bày ý tưởng của chúng tôi. Nhưng lệnh là lệnh. Chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức mình”.

Các sĩ quan nghiêng người tỏ dấu hiệu dồng quan điểm, và cáo biệt để trở về chiến hạm.
 
Công cuộc chuẩn bị nhổ neo được thực hiện lập tức, rồi các bệnh binh được di tản cũng như các sinh viên sĩ quan đang thực tập và tất cả những nhân viên không cần thiết lắm. Nhiều người trong số này muốn ở lại trên chiến hạm, và phải dùng mệnh lệnh bắt buộc họ rời tàu. Đến tối, Komura triệu tập tất cả các hạm trưởng để ăn bữa cơm vĩnh biệt. Ông đã tìm thấy lại được thái độ nhã nhặng thường lệ và mời các thực khách uống rượu Saké thả giàn. Dạ tiệc diễn ra trong một bầu không khí siêu thực. Ai cũng tỏ ra vui sướng, nhưng sự đùa giỡn trong phòng ăn sĩ quan, những câu chuyện vui về chiến trận tạo nên những tràng cười và hoan hô. Sau khi các hạm trưởng khu trục hạm ra đi, đô đốc Komura và hạm trưởng Hara chấp thuận đến phòng ăn của sĩ quan cấp dưới thuộc chiến hạm Yahagi. Ở đấy cũng thế, rượu Saké chảy như thác cho đến 23 giờ, và đêm thức canh phòng chấm dứt trong một truyền thống thuần tuý Nhật Bản, ai nấy đều che dấu vẻ mệt nhọc và say sưa do sự tôn trọng một sự câu thúc có tính cách nghi lễ.


Hôm sau ngày 6 tháng 4 năm 1945, lúc 16 giờ, siêu thiết giáp hạm Yamato, tuần dương hạm Yahagi và 8 khu trục hạm hộ tống của chúng nhổ neo rời Tokayama để thực hiện chuyến hải trình cuối cùng. Đô đốc Ito ra lệnh men theo bờ biển phía đông đảo Kiou Siou trong đêm tối. Đến 4 giờ sáng ngày 7, ông ra lệnh hướng về phía tây để lôi kéo càng xa càng tốt các phi cơ địch vốn sẽ không chậm trễ cất cánh săn đuổi.


Chúng không chậm trễ thật. Lúc 11 giờ 30, một trong các trạm gác giặc trên đảo Amami báo hiệu “250 phi cơ địch, tiến về phía bắc”. Đó là các phi cơ của Lực lượng đặc nhiệm 58 của Spruance đã từng được báo tin từ đêm hôm trước về sự xuất đầu lộ diện của hạm đội Nhật. Bốn mươi phút sau, các rada của chiếc Yamato thấy chúng xuất hiện trên mặt kính và Ito thông báo tin tức cho tất cả chiến hạm đồng thời ra lệnh dang va nhau và chạy hết tốc lực. Từ trên đài chỉ huy chiếc Yahagi, Komura và Hara thấy chiếc thiết giáp hạm danh tiếng, mà hải quân sùng bái “bằng một thứ niềm tin gần như tôn giáo”, hơi hướng mũi lên trời nâng cao hai làn sóng vĩ đại hai bên sống mũi tàu. Trong cơn mưa phùn bay lất phất, nhìn thấy chiếc thiết giáp hạm thần tuý và hùng tráng ấy rẽ sóng với tốc độ 35 gút, quả là một quang cảnh khích lệ, mặc dầu tình thế đã đến lúc nghiêm trọng. Những người không được dự kiến cuộc tàn sát tại Leyte không thể tưởng tượng được rằng một chiến hạm khổng lồ như thế lại có thể gục ngã dưới sức tấn công của phi cơ. Nhưng Komura là người, đã trông thấy thiết giáp hạm Musachi bị đánh chìm, nên không hề nuôi ảo tưởng.


Lúc 12 giờ 20 trưa, một cơn mưa rào bất chợt bao phủ các chiến hạm trong một màn sương lờ mờ. Không một phi cơ nào bị nhìn thấy mặc dầu các rada canh chừng không phận của chiếc Yawato vẫn có thể theo dõi chúng trên màn ảnh và ra lệnh hướng về phía chúng, tất cả các nòng đại pháo của thiết giáp hạm kể cả những khẩu đại bác khổng lồ 460 ly.


Đột nhiên trinh sát viên của chiếc Yahagi la lớn: “Hai phi cơ tả mạn phía trước!” và lập tức tất cả súng phòng không của tất cả các chiến hạm bắt đầu nổ tứ phía. Không phải chỉ có 2 chiếc phi cơ bay ra khỏi các đám mây mà là 20 chiếc, 40 chiếc, 50 chiếc… Ngay sau đó, bom rơi xuống. Tuần dương hạm Yahagi và các khu trục hạm chạy chữ chi hỗn loạn để toan tránh bom, nhưng, nhưng các làn sóng thuỷ lôi màu lam đã xé mặt biển chung quanh các chiến hạm. Thỉnh thoảng một khu trục cơ đâm bổ xuống ngang các cột buồm và càn quét cầu tàu bằng đại liên.


Đến 12 giờ 40, tức là 10 phút sau khi phi cơ địch đến, chiếc Yamato, bị trúng trái thuỷ lôi đầu tiên. Sáu phút sau đến lượt chiếc Yahagi lãnh một trái ngay hầm máy, giết chết tất cả các nhân viên tại đó. Chiếc chiến hạm chạy lang thang một lát trong khi hạm trưởng Hara gào thét các mệnh lệnh để nắm lại tay lái con tàu, không biết rằng chiến hạm của ông đã bị quả đạn duy nhất ấy làm cho vĩnh viễn bị tê liệt. Từ lúc đó nó trở thành tấm bia cho hơn 100 oanh tạc cơ đâm bổ.


Từ trên đài chỉ huy, Komura và Hara làm khán giả dự kiến cuộc phòng vệ của các xạ thủ đại bác trên chiếc Yahagi. Thỉnh thoảng người ta nghe có tiếng rú lên vì vui sướng: một pháo thủ vừa thấy chiếc bia của mình bốc cháy và rơi xuống như một hòn đá. Những chùm bom siết chặt dần chung quanh chiếc chiến hạm bất động và những tiếng nổ đã làm rung chuyển thân tàu đến mức độ người ta có thể nghe những đầu đinh tán chạm lách cách vào thành tàu và ống khói như tiếng đạn ria chứa trong các trái phá. Thế rồi chuyện không tránh được đã đến. Một trái thuỷ lôi thứ hai phát nổ đã phá vỡ tung phía sau chiến hạm làm nhiều xác người rách bươm bắn lên trời. Ngay lúc đó một oanh tạc cơ đâm bổ đặt một quả bom ngay giữa pháo và tháp phía trước, xoi thủng sàn tàu bọc thép rồi rơi xuống nổ tung dưới đáy kế các hầm dầu. Nếu không có phản xạ tức thì của viên sĩ quan tác xạ cho mở ngay những “van” nhận chìm, thì chiếc Yahagi đã nổ tung cùng với thuỷ thủ đoàn. Thay vì như thế, nó đành chịu chúi mũi thêm một chút và khạc ra nhiều hơi nước, nhiều ngọn lửa hơn mà thôi.


Bản án treo không kéo dài được lâu. Những tiếng nổ kế tiếp nhau theo một nhịp độ đến mức đứng trên đài chỉ huy, hạm trưởng không bao giờ thấy được cùng một lúc 1/4 chiến hạm. Khi khói tan dần, một lỗ thủng khổng lồ xuất hiện ngay nơi giàn đại pháo hoặc nơi sàn đặt ống phóng thuỷ lôi. Độ nghiêng của chiến hạm gia tăng không ngừng, nhưng đều đều, từ tốn, làm như chiếc chiến hạm muốn chết một cách đường bệ. Khi mặt cầu tàu chìm ngang mặt nước và sóng biển xô đến quét sạch các vũng máu, Đô đốc Komura gọi một trong các khu trục hạm cuối cùng còn chạy tốt đến gần để chuyển những người còn sống sót sang rồi tiến thẳng đến Okinawa. Khu trục hạm Isokasé mở hết tốc lực chạy đến gần xác chiếc Yahagi, nhưng khi còn cách 200 thước thì nó biến mất, cũng bị trúng thuỷ lôi-trong một đám mây khói.
 
Thế là hết… Mặt biển bao phủ đầy đầu người đen ngòm. Những kẻ bị đắm tàu bám chặt vào các mảnh tàu vỡ hay mảnh xuồng cấp cứu, vùng vẫy trong một lớp dầu cặn dày, mà không có một tia hy vọng nào được vớt lên. Những người còn tĩnh trí quay đầu nhìn về phía chiếc Yamato vẫn còn tiếp tới ở xa xa cùng với những chùm bom và những tiếng nổ đi kèm. Tất cả những hy vọng và cuộc đời còn sót lại nơi họ đều hướng về chiếc bóng oai nghiêm đường bệ dường như đang thách thức với số phận ấy. Từ lâu vẫn đứng bên nhau, đột nhiên Komura và Hara không còn thấy nhau nữa mà chưa kịp nói một lời vĩnh biệt. Lớp dầu cặn dày đặc nay loang dần, Hara kiệt sức, chập chờn trên một mảnh tàu vỡ mà ông bá chặt vào, rồi thình lình một ánh sáng loé lên ở phía xa kéo ông ra khỏi cơn hôn mê. Ông nhắm mắt lại một lát và khi mở mắt trở lại, mặt biển trở nên trống vắng và yên tĩnh lạ kỳ. Một cột khói trắng khổng lồ bốc lên trời ngay tại chỗ chiếc Yamato hiện hữu trước đó. Những tiếng nổ kế tiếp nhau như sấm động đã làm những nỗi nghi ngờ cuối cùng tan biến: chiếc đại thiết giáp hạm vừa chìm xuống sóng biển.


Khi bóng đêm sắp bao phủ bầu trời, những nạn nhân bị đắm tàu thuộc chiếc Yahagi dường như có nghe một tiếng động cơ đến gần. Vài phút sau, một chiếc canô thuộc một khu trục hạm lần lượt vớt hết người này đến người khác và đưa họ trở lại chiếc Hatsushimo chiến hạm độc nhất của hải lực Nhật Bản còn sót lại như có phép lạ. Chiếc khu trục hạm chở đầy người lấm lem dầu cặn được thuỷ thủ đoàn tẩy sạch và an ủi. Trong bệnh xá, Hara, nằm dài trên chiếc bàn mổ, quan sát viên bác sĩ đang chăm sóc các vết thương của mình. Ông không còn nhớ được gì cả. Không biết mình có bị một vết trầy trụa nào không!


Cuộc sống lại tiếp diễn; ông vui sướng được biết rằng Komura cũng có mặt trên tàu với chừng mười sĩ quan của chiếc Yamato. Chính nhờ họ ông mới biết trường hợp tổn thất chiếc chiến hạm này.


Ngay từ đầu, chiếc Yamato đã bị 1 thuỷ lôi và 2 quả bom đánh trúng. Điều đó không làm nó giảm tốc độ và đại bác phòng không của nó đã hạ mười phi cơ địch. Ba khắc sau, đợt tấn công thứ hai do Mitscher tung ra đã nhắm vào chiếc chiến hạm khổng lồ với mệnh lệnh dứt khoát là phải đánh chìm nó. Trong vòng nửa giờ đồng hồ, hơn 100 oanh tạc cơ đâm bổ và một số lượng phi cơ phóng thuỷ lôi tương đương từ khắp bốn phương trời ùa đến tấn công. Ba quả bom mới rơi trúng và mức tác xạ chậm lại vì các đám cháy càn quét cầu tàu cũng như các kiến trúc thượng tầng. Lúc ấy nhiều đợt phi cơ phóng thuỷ lôi bay đến để tiêu diệt nó. Chín thuỷ lôi trúng vào tả mạn và chiếc chiến hạm bị nghiêng ngay 30 độ. Từ lúc ấy thảm hoạ dồn dập xảy đến. Vài quả đạn 450 ly lăn ra khỏi phòng phân phối, rơi xuống các hầm tàu qua các vết thủng và phát nổ. Mọi nỗ lực để lấy lại sự kiểm soát con tàu đều vô ích, các tường chắn bị rung chuyển đành lần lượt đổ sụp.


Khi mối đe doạ chìm tàu trở nên cấp kỳ, đô đốc Ito cho gọi lên cầu tàu vài sĩ quan hiếm hoi còn sống sót và nói lời vĩnh biệt. Ông phải bám vào thành lan can để khỏi ngã. Đề đốc Ariga, hạm trưởng phải giúp ông ta trèo lên sàn tàu gần như dựng thẳng đứng để trở vào đến phòng trực và tự khoá mình vào trong đó. Chính Ariga cũng đã nhờ một tuỳ viên cột chặt mình vào đường dốc của một hầm trú ẩn khi hải hành và chào các sĩ quan sau khi chúc họ may mắn. Vài giây sau cuộc chia tay cảm động ấy, nhóm sĩ quan bị một tiếng nổ trong lòng chiến hạm hất văng xuống biển và chiếc tàu đột ngột chìm luôn.


Toàn diện nước Mỹ bừng bừng khích động khi nghe tin loan báo ông kẹ Nhật Bản bị đánh chìm. Số lượng 5 hoặc 6 phi cơ của Mitscher bị hạ, và chừng 20 chiếc bị cao xạ D.C.A của các chiến hạm Nhật bắn trúng có vẻ như là một phần cống hiến quá nhẹ cho chiến công này.


Nhật Bản tiếp nhận tin tức ấy với niềm cay đắng đen tối. Lại một ảo vọng nữa bị sụp đổ tan tành sau biết bao ảo tưởng khác. Kết quả rõ rệt nhất của cuộc huỷ diệt lịch sử này là chặn đứng lại trong các hải quân công xưởng của Mỹ và Anh, công cuộc đóng 4 thiết giáp hạm từ 40.000 đến 50.000 tấn, mà các Đô đốc phe Đồng minh, rõ rệt là mù quáng, vẫn cứ khăng khăng đòi hỏi cho bằng được. Lần này chứng cớ rõ rệt cho thấy rằng kỷ nguyên của những “dreandoughts” (thiết giáp hạm) đã cáo chung và một trang sử của hải quân đã được lật qua.
 
Kế hoạch Manhattan

Cái chết của Roosevelt

Những ngày kế tiếp đã làm cho các trang sử lật qua với một nhịp độ mau đến nỗi câu chuyện chiếc thiết giáp hạm Yamato và cuộc kháng cự kịch liệt của quân Nhật tại Okinawa còn chiếm hàng đầu của tin tức thời sự nữa.


Khi những bức ảnh chính thức về cuộc hội nghị của các quốc trưởng tại Yalta xuất hiện trên trang nhất của báo chí, thì những dáng nét bị tàn phá của Tổng thống Hoa Kỳ đã tương phản với khuôn mặt đỏ au của Churchill và khuôn mặt sắc sảo của nhà độc tài tại Mạc Tư Khoa đến nỗi cả dân tộc Mỹ đều thấy khó chịu như mắc một căn bệnh không định nghĩa được. Những bài diễn văn thường điểm một vài nét lạc quan vững chắc của ông giờ đây nhuốm màu sắc một chủ nghĩa thần bí, mà các cộng sự viên thân tín không thể nào hiểu nổi ý nghĩa. Khi lên tiếng nhân dịp lễ kỷ niệm Jefferson, bất ngờ ông nhấn mạnh đến sự kiện theo đó người tiền nhiệm siêu phàm của ông là một nhà “bác học” và trích dẫn các tài liệu viết về “tinh thần huynh đệ của khoa học và mối liên hệ vĩ đại giữa các dân tộc mà công cuộc tìm kiếm chân lý đã kết tạo nên”.


Vài ngày sau, ông phải đọc một bài diễn văn mới nhân dịp lễ nhậm chức nhiệm kỳ 4 của ông. Các bắp thịt mạnh mẽ trên đôi vai lực sĩ của ông chỉ có thể nâng đỡ ông đôi chút bề ngoài khi ông đứng dậy để nói với cử tọa. Ông lại chuyên tâm bắt đầu cùng một luận đề như trước.

“Chúng ta đang đứng trước, ông nói, một sự kiện chủ yếu: nếu nền văn mình phải sống sót, thì khoa học mà chúng ta phải được dạy dỗ là khoa học về những mối giao tiếp giữa con người, về tính cách khả hữu của sự làm việc trong hoà bình cho tất thảy mọi dân tộc”.


Câu nói đầy màu sắc triết lý của Wilson này đối với các cố vấn của ông thật bất ngờ vì họ chờ đợi ông nói đôi lời ám chỉ mạnh mẽ đến các chiến sĩ tại Okinawa và đến sự ghê rợn của những cuộc tấn công của các phi công Thần phong Kamikaze. Nhưng câu nói ấy đã thật sự làm cho một sống rất nhỏ các nhân vật hiện diện ngẩn ngơ, những người được chia xẻ với ông sự bí mật được giữ kỹ nhất của kỹ nghệ chiến tranh Hoa Kỳ. Họ thấy một cách hợp lý trong câu nói ấy có sự phản ánh niềm lo âu của ông trước một tin tức hấp dẫn vừa được thông báo cho ông và họ là những người được biết: sự thực hiện cấp kỳ một quả bom nguyên tử do một nhóm các nhà bác học thuộc đủ mọi quốc tịch cùng làm việc với nhau từ năm 1942 thực hiện. Tin tức này đã tạo ra hậu quả gấp đôi việc sáng chế một quả bom bởi vì không một ai còn chờ đợi nó nữa. Nhưng nó chỉ được thông báo cho một số tối thiểu các nhân vật cao cấp: Tổng trưởng chiến tranh Stimson, tướng Marshall, và đô đốc Leahy, tham mưu trưởng riêng của Tổng thống. Các cơ sở tình báo Mỹ đã từng chứng tỏ khéo léo “đập vỡ được các khoá mật mã” của lịch, quả thật lại còn thành công đáng chú ý hơn nữa trong việc che phủ một màn bí mật không có gì xuyên qua được chung quanh kế hoạch Mahattan, một kế hoạch sau bốn năm cố gắng có lúc phải ngã lòng, nay đã đạt được thành quả phi thường ấy. Những người có trách nhiệm trong cuộc đàm luận về sự bí mật này lại càng xứng đáng hơn nữa khi mà tự xúc tiến kế hoạch đã đòi hỏi những kinh phí lên đến nhiều triệu Mỹ kim và đòi hỏi sự tuyển mộ nhiều nhà máy vĩ đại dưới sự lãnh đạo của một Brain’ Trust vô danh, và chính những người thuộc cơ cấu này cũng bị an trí trong một nơi ẩn dật cách xa nhà máy hàng trăm cây số. Sau một cuộc khởi hành mau lẹ sấm sét dựa trên một kế hoạch thuần tuý khoa học, nhóm Brain’ Trust này đã giải quyết được phần lớn các bài toán làm thế nào để tách rời nhân nguyên tử. Nhiều nhà máy đồ sộ đã được dựng lên tại Oak Ridge trong tiểu bang Tennesse để tách rời những đồng vị của Uranium và đại xí nghiệp Du Pont de Nemours đã dùng các nhà máy của mình tại Chicago để chế tạo những cơ phận của quả bom tương lai.


Nhưng hàng trăm bác học nhà tu trú ngụ tại Los Alamos thuộc tiểu bang Tân Mễ Tây Cơ, nơi họ nghiền ngẫm trong một khung cảnh đầy ứ giải Nobel, đều vấp phải một bài toán nghiêm trọng: làm sao thực hiện, dưới một khối lượng có thể chấp nhận được, phản ứng dây chuyền cần thiết cho sự giải phóng nguyên tử nặng. Chính giải đáp của bài toán này đã vừa được tìm thấy trong tháng 4 năm 1945 ấy. Trung tướng Groves, người đảm trách ngay từ đầu nhiệm vụ điều hợp và khích động các nỗ lực của những nhà bác học thuộc Kế hoạch Manhattan, đến báo tin cho Tổng trưởng Chiến tranh Stimson, ông này trình ngay cho Tổng thống. Tin đến quá trễ. Bá Linh đã bị bao vây chặt chẽ, Hitler1 (Đọc “Những trận đánh lịch sử của Hitler” Sông Kiên in lần thứ tư) đang hấp hối trong căn hầm tại dinh Tể tướng; riêng phần Nhật Bản thì các nhà tiên tri của Ngũ đài giác vẫn khẳng định không ngừng là đang lâm vào tuyệt địa.


Theo sự ước tính của các nhà bác học, cần phải có một thời hạn 3 tháng mới thực hiện được một vụ nổ nguyên tử “có kích thước như thật” đầu tiên để thí nghiệm. Sau đó lại phải mất 1 tháng nữa để hoàn tất một kiểu bom do phi cơ mang được. Có rất nhiều cơ may cho thấy chính phủ Nhật bản sẽ đầu hàng trước nhật kỳ đó.


Thành quả của kế hoạch Mahattan cũng đã tạo nên một biến cố có tầm ảnh hưởng mênh mông không ít, và chính có lẽ những suy tư về tương lai nhân loại đã gợi cho Tổng thống Roosevelt những ám chỉ dự trí về khoa học và về “sự sống còn của nền văn minh”. Chúng ta sẽ không bao giờ được biết quyết định của ông như thế nào về lĩnh vực quân sự, bởi vì ngay từ ngày 10 tháng 4, tình trạng sức khoẻ buộc ông phải nghe lời bác sĩ, và phải từ bỏ những gánh nặng quyền chính để đi nghỉ ngơi vài tuần tại Warm Spring thuộc tiểu bang California. Ngày 12 tháng 4, lúc 17 giờ 25, có điện thoại mời Phó Tổng Thống Truman đến toà Bạch Ốc; Bà Roosevelt đang chờ ông ta tại đấy. Bà tiến lên và nhẹ nhàng đặt tay lên vai ông trong khi thấp giọng nói thì thầm: “Harry, Tổng Thống đã mất!”.


Ngày thứ sáu 13 tháng 4, tại Okinawa, trong lúc lực lượng hải quân thuỷ bộ đang điên cuồng tưới đại bác như sấm động để chặn đứng một đợt phản công hung tàn của Nhật trên một đỉnh núi mới vất vả chiếm được hôm trước, tất cả hiệu kỳ của mọi chiến hạm đều được kéo để tang.


Tin về cái chết của Tổng thống Hiệp Chủng Quốc Mỹ được loan truyền tron đoàn quân của Tướng Buckner do đoàn quân tiếp viện đổ bộ vội vã để trám vào khoảng trống của phòng tuyến bị chọc thủng. Cơn mưa trút xuống không ngừng làm cho cảnh vật bị bom cày nát mang một vẻ ảm đạm. Hy vọng vào một cuộc tiến quân nhanh chóng thế là tiêu tan. Những đỉnh núi xếp theo bậc tại Okinawa được nối liền với nhau bằng một hệ thống hành lang ngầm mà các lối xuất nhập đều hoàn toàn vô hình. Khi quân Mỹ tiến tới, đột nhiên họ bị đánh úp bởi những đại bác đặt trên đường ray xuất hiện đột ngột đằng sau lưng, trên các triền núi mà họ vừa đi qua. Cả các cuộc không tập lẫn tác xạ ghê gớm của hải pháo đều không thể nào làm thương tổn được hệ thống phòng thủ kỳ dị này. Đoàn quân chinh phục của Buckner bị mắc kẹt trong phần giữa đảo trong một thời kỳ vô địch.
 
Hung tin tại Okinawa bắt đầu đến tai các giới chức cao cấp của chính phủ tại Hoa Thịnh Đốn kể từ ngày 20 tháng 4, Tổng trưởng Chiến tranh Stimson, đã thiết lập bản tổng kê lực lượng của Nhật và nhận thấy rằng nếu hải quân và không quân Nhật gần như không còn hiện hữu nữa, thì tình trạng của lục quân Nhật lại khác hẳn. Hai triệu quân được phân phối trong các đạo quân trú phòng khác nhau trên quần đảo Nhật Bản; hai triệu khác trên lãnh thổ Trung Hoa và Cao Ly; cộng thêm 200.000 trong vùng Đông Nam Á; cộng thêm 500.000 trên các thuộc địa của Hoà Lan và Phi Luật Tân, vài trăm ngàn rải rác trên các quần đảo san hô trên Thái Bình Dương.


Cuộc xâm chiếm dự tính lên quần đảo Nhật Bản với 1 đạo quân 6 triệu người đang được thành lập tại Hoa Kỳ và nỗ lực càn quét có hệ thống tất thảy các lãnh thổ bị chiếm đóng sẽ kéo theo những tổn thất khổng lồ mà căn cứ vào số tổn thất trước, các chuyên viên ước tính có thể lên đến 500.000 tử thương và 1.700.000 bị thương. Viên Bộ trưởng Hải quân trẻ tuổi và sáng chói, James Forestal, người thay thế Frank Konx cũng đã đích thân báo cho Tổng trưởng Chiến tranh mối lo âu thật sự của ông do cuộc tấn công của phi công Thần phong Kamikaze gây ra. Các mẫu hạm hạng nặng Wasp, Saratoga và Bunker Hill đã phải trở về Mỹ trong tình trạng thảm thương. Chiếc Franklin phát hoả lúc ngay đang cố gắng trở lại Guam, nhưng không có gì đảm bảo là nó sẽ không bị chìm dọc đường. Nhiều khu trục hạm quý báu đã biến mất cũng như nhiều hải vận hạm và chiến hạm đủ kiểu. Cơn xuất huyết không làm chết người nhưng tổn thất về nhân mạng thì rất nặng nề, tính theo tỷ lệ, số tổn thất sĩ quan lại càng nặng nề hơn nữa: nhiều Đô đốc, Đại tá Hải quân và sĩ quan tham mưu đã bị giết. Đấy là loại nhân sự khó thay thế.


Quân Nhật sắp có ngay cả chục ngàn phi cơ đủ mọi loại bở vì các nhà máy của họ còn sản xuất mỗi tháng bài trăm chiếc. Nếu, như phải tiên liệu như thế, cơn cuồng nộ Kamikaze tăng gia thêm cường độ đi vào lúc thực hiện cuộc đổ bộ cuối cùng lên các đảo Kiou-Siou và Hondo, hạm đội Mỹ sẽ bị đặt dưới một sự thử thách cũng nghiêm trọng như sự thử thách phải chịu đựng từ đầu cuộc chiến.


Nắm vững toàn bộ các tin tức này, Stimson đến toà Bạch Ốc để trình bày cho Tổng thống Truman có một nhãn quan tổng quát về tình hình.

Vì các chức chưởng của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ đã không cho ông có quyền biết các bí mật quân sự, nên Truman đã không biết gì về kế hoạch Mahattan trước khi Tổng Thống qua đời; đúng hơn là ông chỉ được biết có kế hoạch đó và nó đã gây tốn kém nhiều triệu Mỹ kim. Stimson sợ sẽ làm tổn thương đến lòng tự ái của ông khi thú nhận sự giấu giếm vĩ đại này, và lòng vương vấn không ít lo ngại, ông bước vào căn phòng hình thuẫn nơi vẫn còn bừa bộn những mẫu hình chiến hạm và các kỷ niệm cá nhân của người vừa quá cố. Nhưng ngay những lời nói đầu tiên, Truman đã làm ông thấy dễ chịu:

“Tôi không biết gì về kế hoạch này. Ông đã hành động rất đúng khi không nói gì với tôi về nó”, ông vừa cười vừa nói. Sau khi chăm chúc đọc phúc trình do Stimson soạn thảo, ông ngước nhìn con người có cặp mắt ngây thơ ấy, con người mang đến cho ông một cách hết sức khiêm nhường, một tài liệu có thể làm thay đổi bộ mặt hoàn cầu. Giờ đây ông mới hiểu tại sao Roosevelt, dù với 70 tuổi trời và dù thường có những lập trường cục bộ, lại chịu đựng được những gì mà ông ta giữ lại liên quan đến trách nhiệm của những người được giao phó thuộc quân đội Mỹ. Không một lời nào là không để lộ một chút thông minh, và các kết luận, hoàn toàn vứt bỏ những câu kéo vô ích, nêu lên những quyết định phải lấy với một ý nghĩa sắc bén liên quan đến thực tại.

“Tôi hoàn toàn đồng ý với ông, Stimson ạ”, ông nói. “Hãy ra lệnh cho tướng Groves để bắt tay vào việc hầu đốt cháy các giai đoạn chót. Một quả bom phải sẵn sàng để thử với kích thước như thật, trong thời hạn trước ba tháng, và ngay từ bây giờ phải chỉ định một uỷ ban gồm có những nhân vật tài ba nhất của giới khoa học và quân sự để quyết định khả năng sử dụng chất nổ mới”.

Stimson liền cáo lui ngay, để Tân Tổng Thống ở lại với vô vàn trách vụ đang chờ đợi ông. Hai người sẽ không gặp lại nhau trước vài tuần lễ nữa.


Khi trở về Bộ Chiến tranh, Stimson gặp lại tướng Groves đang đi lòng vòng như con gấu bị nhốt trong chuồng trong lúc chờ đợi ông, mặc dầu ông ta nổi tiếng là người bình tĩnh lạ lùng. Vị chỉ huy của khu vực “Mahattan District” là một con người lực lưỡng cao 1m90. Mái tóc đen hơi dợn sóng và nước da ngăm ngăm của ông cho thấy ông có gốc tích xa xôi với người Tây Ban Nha. Ông có vẻ như là một chủ đồn điền cà phê hơn là một sĩ quan cấp Tướng thuộc binh chủng Công binh. Vẻ bề ngoài ấy hoàn toàn rất dễ gây lần lẫm và khi giao cho ông trách nhiệm xúc tiến kế hoạch Mahattan, Stimson đã chứng tỏ cũng sáng suốt khi đề nghị Eisenhower nắm quyền Tổng tư lệnh Quân đội Đồng minh tại Âu Châu. Groves đồng thời là nhà bác học và là nhà quân sự (chính nhờ tài năng kiến trúc của ông mà Mỹ quốc mới có toà Ngũ đài giác danh tiếng ngày nay). Ông có khá nhiều thẩm quyền để theo dõi công việc của các lý thuyết gia, khá thực tiễn và độc đoán để tập trung các nỗ lực của họ vào mục tiêu đã được qui định: sự thực hiện có tính cách thực dụng, “quả bom đặc biệt”. Trong nhóm người phi trường gồm toàn những nhà bác học thượng đẳng về khoa học vật lý nguyên tử, chính Groves là người đã nhận ra nhà bác học trẻ tuổi Robert Oppenheimer thuộc Viện Californie tại đại học Berkeley, gần San Francisco.


Robert Oppenheimer mới có 40 tuổi. Ông không được giải Nobel về Vật lý và tên tuổi ông mới chỉ được một nhóm nhỏ các nhà bác học biết đến. Nhưng dưới mắt ông Tướng, ông có 2 điều xứng đáng khó đo lường: ông ta là dân Mỹ chính cống-cha là một doanh gia Nữu ước gốc Đức đến định cư tại Mỹ lúc 17 tuổi-và có năng khiếu thuyết phục đặc biệt. Sự chọn lựa này sau đó phải chịu biết bao lời chỉ trích gay gắt, nhưng Groves hậu thuẫn cho người được ông che chở cho đến giai đoạn thực hiện sau cùng. Ông đã viết trong tập Hồi ký rằng: “Thành quả đã chứng tỏ tôi có lý. Không ai có thể làm điều mà con người ấy đã làm”. Được thiên phú đến mức tuyệt đỉnh về điều mà các sinh viên gọi là môn “sex-appeal khoa học”, Oppenheimer đã khuất phục thật sự những người nghe ông nhờ vóc dáng có duyên và giọng nói nồng nàn của ông. Ông là một trong những người duy nhất-nếu không phải là người duy nhất-ở trong khu ẩn dật Los Alamos có một niềm tin Tuyệt đối vào sự thành công của kế hoạch Mahattan. Tháng 7 năm 1943 khi ông nhận chức giám đốc phòng thí nghiệm Los Alamos, ông đã ấn định cuối năm sau là ngày nổ trái bom nguyên tử đầu tiên. Nếu hạn kỳ ấy không giữ được thì không phải là do ông. Vả chăng, sự tiên liệu của ông đã chỉ được thể hiện trước vài tháng.


Cặp Groves-Oppenheimer có một điểm xứng đáng rất hiếm có là phối hợp được công việc của nhiều chuyên gia tham dự trong chương trình và giải quyết song hành nhiều vấn đề phức tạp do vấn đề sử dụng quả bom cho mục tiêu quân sự đến lúc đặt ra. Do đó, khi Stimson từ toà Bạch Ốc trở về với sự chấp thuận toàn diện của Tổng thống, thì Groves đã có thể loan báo với ông ta với đôi phần hãnh diện rằng các biện pháp cần thiết đã được áp dụng trong viễn ảnh được chấp thuận ấy và rằng các phi hành đoàn thuộc các pháo đài bay trang bị đặc biệt, đang được huấn luyện để ném quả bom.


Chính trong tháng 9 năm 1944, khi được Oppenheimer thông báo là chắc chắn có một quả bom sử dụng plutonium có thể được thực hiện vào mùa xuân 1945, Groves đã quyết định ấn định hình dáng và thước của quả bom để có thể sửa đổi các pháo đài bay sẽ mang chúng đi. Đấy là một hành động tin tưởng kỳ diệu bởi vì nếu phương pháp mới, nhằm sản xuất gia tốc chất plutonium do bác sĩ Neddemayer đề xướng, đã hoàn tất, thì không một ai biết được phải trong bao lâu mới sản xuất được đủ số plutonium cần thiết. Riêng về phần nhà máy phân cách đồng vị có nhiệm vụ cung cấp U-235, thì nó vẫn chạy với sự chậm chạp đầy khôn ngoan. Một cuộc chạy đua giữa hai phương thức đã xảy ra, và Groves đã phải cho vẽ 2 kiểu bom: quả bom Fat-Man sẽ dùng plutonium và quả Thin-Man hay Little-Boy sẽ dùng U-235. Sau đó, ông yêu cầu Tướng Arnold, Tư lệnh Không quân, người được ông cho biết về kế hoạch, cung cấp 2 pháo đài bay B-29 để có thể sửa đổi nhân mục tiêu đó.
 
Chiếc Enola Gay và chiếc Great Artiste

Trong những ngày cuối cùng của tháng 12 năm 1944, một phi cơ vận tải đưa đến Tinian một viên Đại tá mà mặc dầu có vẻ còn niên thiếu, nhưng được các giới chức quân sự tiếp đón như là một nhân vật tối quan trọng. Quả thật ông có những thư giới thiệu và giấy phép do đích thân tướng Marshall ký để “dành dho Đại tá Tibbets mọi sự dễ dàng trong khi thăm viếng các cơ sở hải cảng và phi trường trên đảo”. Đấy là một con người nhỏ con, vóc dáng trung bình, cặp mắt rất linh động làm rạng rỡ một khuôn mặt dễ thương. Mọi người đều cố hết sức để làm cho sứ mạng của ông được dễ dàng vì dường như đó là sứ mạng cải thiện các cơ sở hiện có. Riêng phần hiểu biết công cuộc canh tân ấy nhằm mục đích gì, thì bí mật. Đối với vấn đề này Đại tá Tibbes hoàn toàn câm lặng.


Vài tuần sau, một toán công binh đến Tinian và bắt tay vào việc. Đến tháng 3 năm 1945, các phi đạo được nối dài, hải cảng được cung cấp những phương tiện bốc dỡ mạnh mẽ và nhiều dãy nhà được dựng lên trong một doanh trại đặc biệt nằm bên ngoài doanh trại của không quân. Khi các công tác vừa hoàn tất thì một phi đội B-29-phi đội Composite Wing 509-đáp xuống đảo. Chính Đại tá Tibbets là người chỉ huy phi đội. Các toán chuyên viên dưới đất đã đến từ hôm trước liền chiếm lấy các phi cơ, trong khi các sĩ quan, dù muốn dù không cũng phải vào ở trong các dãy trại chung quanh thép gai bao bọc.


Hai trong số các siêu pháo đài bay của phi đội có một vẻ kỳ dị: tất cả vũ khí nặng đều biến mất cả, ngoại trừ những khẩu đại liên đằng đuôi. Các phi hành đoàn được nhiều nhân viên dân sự và vài sĩ quan có cấp bậc cao tháp tùng: 1 Hải quân Đại tá, một Hải quân trung tá và nhiều Thiếu tá Không quân. Số lượng lon đáng chú ý này đã tạo cho nhóm người mới đến một vẻ gì đặc biệt. Không thể nói rằng ở đó kỷ luật được buông thả, nhưng nó có dáng dấp khác hẳn. Nó gợi ra hình ảnh của kỷ luật trong một đội bóng bầu dục. Hai siêu pháo đài bay mang trên thân tàu những cái tên cũng đặc thù. Một chiếc tên là Enola Gay, tên mẫu thân của Đại tá Tibbets. Chiếc kia tên là Great Artiste, biệt danh của một trong các thành viên của phi hành đoàn, đại uý Kermit K.Beahan, rất nổi tiếng vì vẻ hào hoa và những thành quả tỏng lĩnh vực giao thiệp với phái yếu.


Các phi vụ huấn luyện-luôn luôn do Tibbets chỉ huy-bắt đầu ngay hôm sau. Các pháo đài bay cất cánh từ 3 chiếc một và mỗi lần như thế chúng quần trên không chừng 10 giờ trước khi trở về căn cứ. Không một ai biết được các đội hình này thi hành những cuộc thực tập bí mật gì. Bí mật bao quanh các phi vụ ấy, lực lượng canh gác tuần phòng xung quanh phi cơ và sự phân cách rõ rệt mà các phi hành đoàn đó phải chịu đựng, đã kích thức cực điểm óc tòm mò của các phi công khác thuộc không lực 20. Thái độ dè dặt và có đôi phần kiểu cách của vài người trong số mới đến, đã mau lẹ trêu tức các tay kỳ cựu tại Tinian khiến họ bị gọi một cách chế giễu là “những chàng trai của chiến thắng”, “những đứa con của vinh quang”, và bị tặng cho những lời nhạo báng ít nhiều có tính cách xúc phạm. Sự xác định thái độ ghét bỏ ấy đã lan tràn nhanh chóng từ trên xuống dưới. Nhóm của Tibbets luôn luôn bị bạc đãi nhất trong phòng ăn sĩ quan và khi lĩnh các vật phẩm hàng tuần. Vì hơi nóng ngày càng ngột ngạt, đời sống trong các doanh trại trở nên cực kỳ khổ nhọc và vẻ giận dữ đã bộc lộ ra ngoài. Ngoài Tibbets, Hải quân Đại tá Parson và Thiếu tá Ferebee, không một ai hiểu được đây là vụ gì và tại sao hầm chứa bom của hai pháo đài bay lại bị sửa đổi và hầu hết vũ khí tự vệ đều bị tháo gỡ hết. Chỉ có những cuộc thực tập lẩn tránh bằng kỹ thuật bán-đâm bổ xuống ở tốc độ cao sau khi ném bom, và các dây nịt đặc biệt móc vào ghế ngồi, là cho phép phi hành đoàn nghĩ rằng một ngày nào đó họ sẽ sử dụng một vật nổ có sức mạnh lớn lao.


Do đó họ rất vui sướng được biết một hải vận hạm vừa đổ bộ lên Tinian những quả bom khổng lồ mang tên hiệu rất rợi ý “quả bí đao Pumpkins”. Họ nghĩ rằng đây là lúc chấm dứt cực hình chờ đợi! Sự chán nản thật là dữ dội khi những người phải đi ném loại bom Pumpkins một cách thận trọng trên những vùng không có dân chúng tại Nhật, khám phá ra rằng những quả bom to lớn ấy chỉ có đặc thù ở khối lượng còn hiệu quả thì dường như cũng giống với loại bom khác. Sự buồn bực bộc lộ đến mức Tibbets, Parson và Ferebee phải hé một góc màn bí mật và hứa với các bạn là những quả bom Pumpkins sẽ được thay thế ngay bằng các chiến cụ có một sức mạnh chưa từng thấy.


Quả thật họ không phải chờ đợi lâu vì đúng vào lúc ấy, nhóm bác học Los Almos đang tập họp trong một đường hầm ngay giữa sa mạc trong khi chờ đợi cho nổ lần đầu tiên một quả bom plutonium. Tại đấy cũng vậy, chính các nhà bác học cũng đã gặp phải những nỗi thất vọng kịch liệt hơn cả các phi hành đoàn của Tibbets nữa. Cuộc thí nghiệm bị hoãn lại nhiều lần vì các lý do kỹ thuật hoặc thời tiết.


Do đó chỉ có một số ít hiện diện trong đường hầm quan sát tại sa mạc Alamogordo ngày 15 tháng 7 năm 1945 lúc 5 giờ sáng khi Groves và Oppenheimer ra lệnh khai hoả chiến cụ to lớn đã từng được đưa lên một đài cao 100 thước từ hai ngày qua. Mặc dầu có mang kính, nhưng cũng hoàn toàn bị loá mắt bởi một tia chớp có sức chiếu sáng phi thường, các nhà bác học đều theo linh tính cúi mình xuống và bám chặt vào tường của căn hầm núp. Họ chờ đợi một làn song chấn động cực kỳ dữ dội và hoàn toàn ngạc nhiên khi chỉ nhận thấy một loạt gió tạt ôn hoà 50 giây sau khi bom nổ. Lúc ấy tất cả những người có mặt tại đấy để lộ thái độ cực kỳ khích động. Oppenheimer bị một cái vỗ vai đến suýt té ngửa. Có những cái bắt tay và những nụ hôm cảm động. Người ta nghe đại tá Parrell, phụ tá của Groves, thét lên oang oang: “Thưa quí ngài, chiến tranh đã chấm dứt!”.
 
Trong khi máy móc mật mã đập lách cách để báo tin thành công, Tổng Thống Truman đã lên đường đi Postdam, Groves liền ra lệnh cho khắp nơi thi hành các biện pháp được ông dự liệu trước từ nhiều tuần lễ. Phần lớn Uranium 235 của quả bom Little Boy được đưa đến San Francisco. Ngay sáng ngày 16, chết liệu ấy được chuyển lên chiếc tuần dương hạm Indianapolis, chiến hạm nhổ neo ngay với tốc độ 32 gút lên đường đi Tinian. Hai trong số các nhà bác học thuộc nhóm Los Alamos, các giáo sư Furman và Nolan cũng lên tàu, cải trang làm hai thuỷ thủ. Vì người ta cho họ huy hiệu xạ thủ đại bác, họ được bổ nhiệm đến một tháp pháo và phải hết sức vất vả để trả lời các sĩ quan lục vấn. Ngoài sự kiện này, cuộc hành trình không gặp chuyện gì lạ. Quả bom Little Boy được đưa lên hải cảng Tinian ngày 26 tháng 7. Cùng ngày hôm đó số lượng U-235 bổ túc cũng được hai phi cơ vận tải C-54 đưa đến. Viên chỉ huy trưởng không vận đã thốt ra những tiếng kêu công phẫn khi thấy phải động viên hai phi cơ khổng lồ để rồi mỗi chiếc chỉ mang hai cái hộp nhỏ, toàn thể chỉ nặng có 50 kilô, nhưng vì mệnh lệnh lại do chính tướng Arnold ký cho nên ông ta phải nhượng bộ.


Tướng Spaatz vừa nhận quyền chỉ huy không lực chiến lược tại Thái Bình Dương cũng đích thân đến Tinian hai ngày trước quả bom Little Boy mang theo mệnh lệnh của Stimson, chỉ thị không đoàn Composite Group 509 “ném quả bom đặc biệt thứ nhất từ ngày 3 tháng 8 ngay cơ hội đầu tiên khi có thời tiết thuận lợi xuống một trong các mục tiêu: Hiroshima, Kokura, Niigaha hoặc Nagasaki”.


Thời hạn 8 ngày cách biệt ấy là để tạo cơ may cho quả bom Fat Man đang được nhồi nhét với tất cả những gì còn lại của plutonium có sẵn sau cuộc thí nghiệm ngày 15 tháng 7. Groves muốn rằng quả Fat Man được sử dụng trước bởi vì chỉ có nó mới được công nhận nhờ cuộc thí nghiệm, nhưng trong trường hợp có sự chậm trễ, quả Little Boy cũng có thể được ném trước.


Kể từ ngày 3 tháng 8, chiếc siêu pháo đài bay Enola Gay do đại tá Tibbets lái, sẵn sàng cất cánh với quả bom Little Boy trong hầm bom. Hai siêu pháo đài bay khác sẽ phải hộ tống, để che chở khi gặp biến cố và để quan sát hiệu quả của trái bom. Tính cách khả hữu của một phản ứng địch rất thấp bởi vì không có một mục tiêu nào ghi trong mệnh lệnh lại bị oanh tạc từ nhiều tháng qua.


Tối ngày 5 tháng 8, quả Fat Man vẫn chưa được đưa đến, và vì các tiên đoán thời tiết thì lại rất tốt, Tibbets tổ chức một cuộc “Briefing” chót cho phi hành đoàn. Sau cùng ông nói rõ sức mạnh kỳ lạ của quả bom này, một sức mạnh tương đương với 20.000 tấn chất nổ TNT, nhưng ông nói thêm rằng theo sự ước tính của các chuyên gia, các kỹ thuật vận dụng mà họ đã được huấn luyện thật sự có thể giúp đưa chiếc Enola Gay bay xa chừng 10 cây số lúc làn sóng chấn động lan đến chỗ phi cơ. Kiến trúc của chiếc máy bay lúc ấy chỉ phải chịu đựng các nỗ lực không quá một nửa trọng lượng giới hạn đã được tính trước (2g thay vì 4g). Sau khi nhắc lại một lần nữa các biện pháp phòng ngừa phải theo: mang kính đặc biệt, và các dây nịt an toàn thật chắc chắn, quay đầu về phía trong phi cơ, chỉ nhìn ra ngoài sau khi bom nổ và ghi chú cẩn thận những điều quan sát được, ông yêu cầu tất cả mọi người hết sức bình tĩnh và tin tưởng bằng cách chấp nhận phần còn bí ẩn của cuộc thí nghiệm này vốn là một cuộc thí nghiệm chưa hề xảy ra lần nào trong lịch sử nhân loại.


Giọng nói nghiêm trang của Tibbets khi đọc bài diễn văn ngắn của ông tương phản hẳn với thái độ cười cợt thường lệ đến nỗi sự huyên náo thân hữu vẫn thường nối tiếp các cuộc hội họp loại này đã không xảy ra. Làm như đột nhiên họ ý thức được tầm nghiêm trọng của sứ mạng sắp phải chu toàn, các hoa tiêu rời nhau trong im lặng để trở về những chiếc giường khắc khổ như của các tu sĩ và cầu nguyện trong khi chờ đợi bình minh hôm sau.


Lúc 0 giờ ngày 7 tháng 8, chiếc pháo đài bay có nhiệm vụ quan sát thời tiết trên mỗi mục tiêu, cất cánh rời Tinian. Đúng 3 giờ 45, chiếc Enola Gay có mặt tại đầu phi trường. Chiếc Great Artiste và pháo đài bay thứ ba theo sau. Tibbets đạp mạnh thắng, cho động cơ quay hết tốc lực, và những viên nham thạch nhỏ trên phi đạo Tinian bị gió thổi bắn tung như những viên đạn. Sau khi thử lại hai hoặc ba lần, Tibbets nới lỏng thắng và chiếc oanh tạc cơ to lớn tiến tới nặng nề trên các giàn bánh xe bẹp dí rồi dần dần gia tăng tốc độ. Đối với phần đông những người đã rành việc có dự kiến cuộc cất cánh lịch sử này, giờ phút đó thật là đầy âu lo. Nếu chiếc Enola Gay chở quá nặng vì xăng bị vỡ tan tại đầu kia của phi đạo với quả bom nguy hiểm Little Boy, thì không một ai có thể biết đúng tai biến nào sẽ xảy ra. Các nhà bác học đưa ra giả thuyết rằng, sự khởi động phản ứng dây chuyền là chuyện không thể xảy ra được, nguy cơ duy nhất phải gánh chịu là một vụ nổ có sức mạnh kém kéo theo những tia Uranium bị bắn tung. Chung qui cũng chỉ là một vụ lộn xộn nhỏ… chẳng có gì nguy cấp. Nhưng họ không có vẻ tin tưởng những gì khác hơn.


Vì thế, khi chiếc Enola Gay với những ngọn đèn báo hiệu vị trí khuất dần tầm mắt, nhảy chồm lên hai lần nhẹ nhàng trước khi bốc lên không, một hơi thở dài khoan khoái thoát ra từ mọi lồng ngực. Các nhà bác học và các nhân vật quân sự trở lại phòng ăn và bàn luận huyên náo những cơ may thành công của cuộc thí nghiệm phi thường. Khó khăn đầu tiên đã được vượt qua.


Thì giờ trôi qua, Nolan, Furman và 20 chuyên viên khác, những người đã o bế con ngựa tơ trước cuộc đua, giờ đây đang chờ đợi, với tâm trạng nóng nảy còn sôi động hơn cả những quân nhân, các tin tức liên quan đến phi vụ Enola Gay và hai pháo đài bay khác.
 
Trên chiếc phi cơ định mệnh, trong thời gian đó mọi việc xảy ra y như trong một cuộc thực tập. Lúc bờ biển Nhật Bản hiện ra trước mắt, chiếc B-29 quan sát cơ báo hiệu: “Trời tốt trên Hiroshima, độ trông rõ tuyệt hảo”. Hướng bay được điều chỉnh để tiến thẳng mục tiêu.

Từ cao độ 10.000 thước1 (Cao độ đặc biệt này do Tibbets lựa chọn vì các lý do an toàn. Cao độ ấy đòi hỏi phải tháo bỏ tất cả các vũ khí). Nhật Bản hiện ra dưới mắt các hoa tiêu của phi hành đoàn như một trang sách địa dư mở rộng trên màu xanh của Thái Bình Dương. Mặc dầu họ rất quen thuộc, quang cảnh này mỗi lần lại đưa họ vào một thứ cảm giác ngây ngất thuộc về địa lý; thế giới xinh đẹp, quả đất tròn, cuộc đời thật tươi thắm. Nhưng điểm mà họ chưa bao giờ được thấy vì khu vực ấy bị cấm, chính là thành phố Hiroshima với kích thước thật sự, khác với hình ảnh lờ mờ khi nhìn ở ngoại biên. Tibbets để ra một lát nhìn cái bàn cờ ô vuông gồm nhà cửa kiểu Nhật với mái nhà màu xám, chung quanh có khu vườn tí hon bao bọc, như ông bám sát ngay vào các chỉ dẫn của Beahan, chiếc oanh tạc cơ đang cố giữ tiêu điểm trong thị trường dợn sóng của chiếc máy nhắm. Những người khác có một vài phút để chiêm ngưỡng sự bài trí bình dị của thành phố mênh mông này.


Nhưng tiếng kèn báo động kêu vang ngay dưới các chiếc nón phi hành. Các động cơ mở cửa hầm bom bắt đầu chạy và dưới chiếc bụng mở rộng của chiếc Enola Gay những mái nhà của Hiroshima xuất hiện dưới ánh chớp mặt trời, gợi lên hình ảnh ngay hàng thẳng lối của mộ chí trong một nghĩa trang.


“Coi chừng! Bốn, ba, hai, một, zéro!”, Little Boy được giải phóng khỏi gốc, nhào lăn xuống trong một tiếng động lớn của các cây sắt nhỏ, trong khi chiếc phi cơ trống rỗng bị chòm lên trước khi đổi hướng và chúi xuống mặt đất. Tất cả nhân viên phi hành đoàn của chiếc Enola Gay thở hổn hển một lát dưới áp lực dữ dội của các dây nịt, rồi như những người máy, một tia loé sáng không thể tưởng tượng làm loá mắt họ bất chấp mặt kính đen của cặp kính hình vòng cung bao kín mắt của những người thợ hàn. Tia chớp thoáng qua rất mau và khi áp lực của thắt lưng giảm bớt, họ kéo bức màn che chở nơi các cửa kính phi cơ, quang cảnh hùng vĩ nhất mà một con người có thể nhìn ngắm được đang diễn ra dưới mắt họ với sự chậm chạp huy hoàng. Trước hết, một quả cầu lửa sáng chói hơn cả mặt trận bốc lên cao đến độ chóng mặt trước khi loang ra thành một lò lửa đỏ rực. Rồi một cột khói trắng bốc lên trời như cái đuôi của một hoả tiễn nở ra bên trên lò lửa đỏ hồng để rồi ẩn dưới một vành hoa mênh mông.
Còn mạnh hơn cả quang cảnh ảo mộng ấy, chiếc Enola Gay bị chấn động vì hai cái tát tàn bạo. Chiếc phi cơ bị rơi một lúc như hòn đá, rồi gượng lại được trong khi tất cả sườn tàu đều rung chuyển. Với một thái độ bình tĩnh tuyệt đối, Tibbets đưa phi cơ trở lại đường bay và la lớn trong máy vi ấm:

“Này các bạn! Chúng ta vừa ném quả bom nguyên tử đầu tiên trong lịch sử!”.

Đến 15 giờ, nhẹ nhàng như một phi cơ kiểu Piper Cub, chiếc Enola Gay đáp xuống phi đạo Tinian. Một cuộc biểu dương đặc biệt của rất nhiều sao và lá sồi đang chờ nó trên phi trường. Tướng Spaatz tiến tới trước đại tá Tibbets lúc đó đang bình tĩnh bước xuống phi cơ sau lưng kéo lê các dây nịt được tháo lỏng. Ông ta gắn lên bộ áo phi hành chiếc huy chương “Distinguished Service Cross”, trong khi một ban nhạc hoan nghênh đứng thành hàng dài, chào các nhân viên phi hành đoàn đang bước xuống từng người một, mang theo bản đồ và tài liệu. Tất cả rượu Whisky dự trữ của vị tư lệnh không lực chiến lược tại Thái Bình Dương đều được hy sinh trong những giờ tiếp theo đó cho cổ họng cháy khát của những con người đã tạo nên chiến thắng khó tin này.


Tại Hiroshima, quả bom của Tibbets đã gây ra những sự tàn phá vượt khỏi sức tưởng tượng. Sau tiếng nổ kinh khủng làm cháy tiên trong nháy mắt 70.000 nhân mạng đang làm công việc thường nhật, một đoàn ma quỉ rùng rợn sắp hàng dọc đi lang thang vô định trong đám mây tro bụi bao phủ thành phố. Tất cả đều ngây ngô lạc thần nghĩ rằng một quả bom đã rơi đúng lên trên nhà mình. Họ chạy trốn khỏi nơi mà họ tưởng là tai biến đã xảy đến và hy vọng thấy được tiếp cứu ở địa điểm xa hơn. Nhưng khi dần dần tiến tới, họ chạm phải một hàng rào lửa hoặc những người chạy trốn khác theo chiều ngược lại. Những người còn giữ lại được cái nhìn bình thường đều phải kinh hãi lùi lại khi thấy những con quỉ mặt cháy bỏng mà “da tay đong đưa như những chiếc găng lộn ngược”.


Những đoàn tiếp cứu đầu tiên đến được ngoại ô thành phố khi các sĩ quan của căn cứ hải quân Kuro kế cận ý thức được tầm rộng lớn của thảm hoạ. Tin tức liền được chuyển về Đông Kinh nhưng tại đây nó đụng phải một thái độ nghi hoặc. Mãi đến 10 giờ đêm, một phóng viên của hãng thông tấn Domei mà ngôi biệt thự tại vùng ngoại ô không bị thiêu huỷ và là người có có can đảm đạp xe đạp đi xuyên qua thành phố, rốt cuộc mới có thể gửi một báo cáo cô đọng cho đài phát thanh. Suốt đêm, nhiều đoàn người từ các thành phố lân cận ùa đến các khu ngoại ô và nhiệm vụ cứu trợ siêu phàm bắt đầu.
 
Khi nhận các báo cáo đầu tiên, các giới chức quân sự hoàn toàn bế tắc không đoán ra được bản chất sát đúng của thứ vũ khí đã rơi xuống Hiroshima. Các ý kiến nêu ra đều khác biệt nhau. Các tướng lĩnh nghĩ rằng đây, hoặc là loại bom hoả tiễn được ném thành chùm vĩ đại, hoặc là một loại mìn khổng lồ được các pháo đài bay còn lớn hơn loại B-29 thả dù xuống. Chỉ có hải quân là nghĩ rằng rất có thể đây là quả bom nguyên tử. Họ được khẩn cầu đừng làm lan truyền dư luận này, và nhiều mệnh lệnh đã được ban hành cho cơ quan kiểm duyệt để giảm thiệu hậu quả của thảm hoạ. Thủ tướng chính phủ Suzuki vốn đã bí mật thương thuyết hoà bình qua trung gian của Nga Sô, liền điện cho viên đại sứ Nhật Sato hoả tốc yêu cầu Molotov chấp thuận gửi giúp những đề nghị mới cho Hoa Kỳ. Những kỳ vọng của Nhật Bản lần này được giới hạn xin được thong thả rút các đạo quân trú phòng ở hải ngoại trở về, xin được tự giải giới mà không có sự chiếm đóng lãnh thổ Nhật Bản và xin tôn trọng quyền uy của Thiên hoàng. Molotov kéo dài các cuộc thương thuyết trong suốt ngày 8 tháng 8 mà không hé hai một lời nào với Hoa Kỳ. Staline đang chuẩn bị một lát dao găm đâm sau lưng: tuyên chiến với Nhật Bản. Ông ta hoàn toàn có lợi khi kéo dài sự xung đột.


Trong thời gian đó một chiếc C-54 được trang bị đặc biệt, do hai phi cơ B-29 hộ tống, rốt cuộc đã chở đến Tinian những thành phần cấu tạo chót của quả bom Fat Man chứa đầy putonium cần thiết. Những cơ phận khác nhau của quả bom thứ hai được ráp vội vàng vì khí tượng còn rất tốt. Mục tiêu chọn lựa là hải cảng rộng lớn Kokura; nếu thời tiết tại đó hỏng, chiếc Great Artiste sẽ cố ném quả Fat Man xuống Nagasaki.


Mối nguy hiểm do sự chuyển vận bằng phi cơ đã được Groves chấp nhận, không những chỉ vì để tranh thủ thời gian, nhưng còn vì ông thấy ít nguy hiểm hơn là sự chuyển vạn bằng đường biển để chở quả bom Little Boy. Thật vậy, tuần dương hạm Indianapolis, sau khi khởi hành khỏi Tinian, đã gặp phải số phận bi thảm. Trong lúc chạy về Phi Luật Tân một mình không hộ tống, nó bị trúng thuỷ lôi ngay trong đêm tối, ngày 29 tháng 7, của một tàu ngầm Nhật Bản. Một sự trùng nhập các hoàn cảnh đã làm cho thảm hoạ thêm trầm trọng. Những tín hiệu S.O.S của chiếc Indianapolis không được ai nghe, và sự bí mật bao quanh chuyến hải hành của nó được giữ cẩn thận đến nỗi không một ai lo lắng gì về sự mất tích của nó. 800 thuỷ thủ sống sót sau khi tàu bị chìm đã phải bám vào các bè hay cano cấp cứu trong suốt ba ngày liền. Gần 500 người trong số đó đã bị chết chìm khi những người tiếp cứu đến được nơi xảy ra thảm hoạ. Biết bao nhiêu là lầm lỗi và sơ xuất đã làm cho Tướng Groves phải rùng mình vì một sự ghê rợn phản hồi…


Tối ngày 7 tháng 8, một trục trặc về vận hành đã được khám phá nơi một trong các động cơ của chiếc Great Artiste liền có quyết định đưa quả bom Fat Man vào hầm chứa của chiếc pháo đài bay Box Car vẫn được dùng làm trừ bị cho đến lúc đó. Tất cả phi hành đoàn của thiếu tá Sweeney chuyển qua chiếc Box Cả lúc này tạm thời được đổi lại tên là Great Artiste. Trong đêm 8 tháng 8, trong lúc tưởng đâu mọi chuyện êm đẹp cả, thì các cơ khí viên báo hiệu chiếc bơm xăng bị hư hỏng. Thiếu tá Ashowrth và phi công Sweeney đến gặp Đô đốc Purnell là người có trách nhiệm về an ninh. Sự hư hỏng chiếc bơm xăng làm giảm bớt 1/4 số xăng dự trữ. Sau những cuộc bàn cãi thật lâu và sau những ước tính chặt chẽ, Purnell tính rằng phải chấp nhận mạo hiểm bởi vì giai đoạn thời tiết tốt đẹp sắp chấm dứt. Hơn nữa Stimson đã nhấn mạnh qua một công điện rằng cần phải ném hai quả bom liên tiếp nhau để gia tăng xúc động tâm lý và để làm cho đối phương tin rằng có cả một kho dự trữ bom vô hạn.


Phi hành đoàn của ba pháo đài bay được tập họp để nghe “Briefing” một lần chót vào lúc 3 giờ sáng. Vì lý do có một số lớn phi cơ Nhật trên đảo Kiou-Siou, cho nên một điểm hẹn được ấn định cho các khu trục cơ che chở tại Yakoshima. Nhiều khu trục hạm và tuần dương hạm cũng phải tuần tiễu theo đoạn đường bay qua của đoàn phi cơ.


Lúc 3 giờ 45 ngày 9 tháng 8, chiếc phi cơ quan sát thời tiết báo hiệu độ trông rõ tại Kokura “chấp nhận được”, chiếc Great Artiste mới, chở nặng, được thiếu tá đưa lên không vừa đúng, theo sau là hai chiếc B-29 quan sát cơ, và lên đường tiến về phía Yakoshima.


Ngay khi khởi hành, đoàn phi cơ đã bay vào mây, kỹ thuật phi hành trở nên khó khăn và các phi cơ thường bay khuất tầm mắt của nhau. Nhiều tia chớp đáng lo ngại vạch lên bầu trời ở phía xa. Tuy vậy, đến rạng sáng, thời tiết khá hơn và các tin tức nhận được lúc 8 giờ báo hiệu rằng độ trông rõ tại Kokura là “thoả đáng”. Nhưng khi bay đến bên trên Yakoshima, Sweenney thấy đằng sau mình chỉ có một pháo đài bay, chiếc thứ ba không thấy đâu cả. Sau 25 phút chờ đợi đầy lo âu, thiếu tá Sweeney quyết định tiếp tục hành trình. Đồng hồ trên phi cơ chỉ 9 giờ và phải còn bay qua 400 cây số nữa. Từ đây chiếc Great Artiste đã bị trễ mất 400 giờ so với thời biểu ấn định trong chương trình.


Than ôi, những thất vọng ấy mới chỉ là bắt đầu. Khi đến Kokura, một cơn mưa phùn nhẹ làm nhãn quan tối sầm lại, Đại uý Beahan, chuyên viên thả bom không thể phân biệt rõ các điểm chuẩn. Chiếc Great Artiste bay qua bay lại trên thành phố, nắp hầm bom mở rộng, bom sẵn sàng và đã ba lần, Beahan không thể ra lệnh ném bom. Đến lần bay thứ ba ngang qua thành phố, hải quân trung tá Ashworth, chuyên viên gắn ngòi bom báo hiệu thấy khu trục cơ Nhật, rồi những cụm khói đen của đạn cao xạ phòng không D.C.A xuất hiện… Yếu tố bất ngờ đã mất, phải bỏ đi! Sweeney đổi hướng phi cơ và nhắm về phía Nagasaki. Nhưng mức dầu xăng hạ dần và độ trông rõ chỉ khá hơn trên Kokuru một chút. Sweeney, Ashworth và Beahan chỉ có vài phút để quyết định. Mặc dầu các mệnh lệnh giao cho họ không có tiên liệu kỹ thuật nhắm bằng rada, nhưng họ đồng ý với nhau rằng đấy là đường lối độc nhất còn lại phải áp dụng. Sau khi lấy một điểm chuẩn trên một đại lộ của thành phố, Sweeney nhìn vào các chỉ dẫn của rada để bay dọc theo thung lũng Urakani trên đó có điểm chuẩn được tiên liệu. Nhà cửa xây từng bậc trên các sườn đồi bắt đầu xuất hiện trong các khoảng không trống mấy. Hình ảnh lờ mờ của hải cảng vạch lên trên mặt kính rada và quả bom đã được ném đi… Có lẽ hơi quá sớm, nhưng còn hơn là không ném được khi phi cơ bay hết chiều ngang thành phố. Cuùn với tia chớp dữ dội giống như tại Hiroshima, cùng cây nấm như thế bốc lên cao và, trong khi chiếc Great Artiste vừa đổi hướng vừa đâm chúi xuống hết tốc độ, nó bị chấn động năm lần như bị một quả đấm khổng lồ giáng xuống. Làn sóng chấn động lần này bị dội lại và phóng đại thêm bởi các ngọn đồi.


Khi yên tĩnh đã trở lại, phi hành đoàn quá kiệt sức đến nỗi không thể quan sát diễn tiến của quang cảnh. Thành phố và hải cảng Nagasaki hoàn toàn bị bao phủ bởi một thảm khói điểm những ánh lửa của các đám cháy. Chiếc pháo đài bay thứ hai bay vòng chung quanh cây nấm khổng lồ mà một khi bị phân tán liền mở lối cho một cột khói mới bốc thẳng lên trời và phản chiếu ánh sáng muôn màu. Sweeney không có thì giờ trì hoãn để ngắm nhìn quang cảnh ảo mộng ấy. Đồng hồ xăng chỉ rõ mức hạ thấp báo động. Không còn có thể có vấn đề trở về Tinian được nữa. Chính Okinawa là nơi phải cố gắng đáp chiếc Great Artiste xuống.


Lúc ấy là 12 giờ 15, máy vô tuyến trên phi cơ gửi về Tinian điện văn qui ước: “Fat Man đã chu toàn nhiệm vụ". Một giờ sau, hòn đảo Okinawa dài ngoằn với những bờ biển uốn cong gồ ghề xuất hiện trong bầu trời xám ngắt. Nhân viên vô tuyến gọi đài kiểm soát phi trường Yontan. Không nhận được hồi âm, anh lập lại lời kêu hai phút một lần, nhưng than ôi, vẫn không có kết quả gì. Độ trông rõ vừa đủ để trông thấy những ngọn núi cao và pháo đài Shuri vốn là chiến trường trong cuộc chiến tranh trên Thái Bình Dương. Sweeney bắt đầu hạ xuống và thấy phi đạo ngay. Dường như nó quá bừa bộn với một số phi cơ ấy mà không có phép của đài kiểm soát là cả một sự nguy hiểm lớn lao, vì thế ông vẫn phải bay vòng trên Yontan và lập lại dấu hiệu báo nguy: “May Day! May Day!”. Trước 14 giờ một chút, đồng hồ xăng chỉ số không, Sweeney ra lệnh bắn hoả tiến báo nguy và tiến vào vị trí đáp. Sau cùng một ánh đèn bật lên trên đài kiểm soát và phi đạo có vẻ được dẹp trống. Chiếc Great Artiste đáp xuống ngay. Phi cơ chạm mặt đất dữ dội. Sweeney phải đảo ngược chong chóng để thắng phi cơ và nó dừng lại đúng lúc ngay đầu phi đạo. Trong sự im lặng trở về, người ta nghe có ai thì thầm: “Tạ ơn chúa!”. Thần kinh căng thẳng đến mức độ không ai nhúc nhích gì được.


Một lát sau, cửa phi cơ mở và một đại uý nhô đầu vào khung phi cơ la lớn: “Trong đó bình yên không? Không có bị hãy tay chân gì chứ?”. Rồi khi mọi sự đều tốt đẹp, ông ta nói một tràng: “Các anh có nghe đài phát thanh không? Người Nga đã tuyên chiến với Nhật và một phi cơ Mỹ đã ném một quả bom nguyên tử xuống Nagasaki!”.


Viên phi công của chiếc Great Artiste vốn là dân Ái Nhĩ Lan chính cống, làm như là giật mình trên ghế và trả lời viên đại uý: “Xuống Nagasaki! Ông khong đùa đấy chứ!”.
 
Tro tàn thảm bại

Tại Đông Kinh quả bom rơi xuống Nagasaki đã biến tâm trạng bối rối của các nhà lãnh đạo Nhật thành ra tình trạng hỗn loạn hoàn toàn. Các nhân viên chính phủ họp thường trực tại phủ Thủ Tướng đã cho phổ biến các thông cáo đưa ra những lời kêu gọi thường mâu thuẫn nhau. Các nhật báo đầu tiên trong ngày 10 tháng 8 chạy những hàng tít lớn về bố cáo của Tổng trưởng Nội vụ: “Dân tộc Nhật Bản đã chuẩn bị cho tình trạng tệ hại nhất. Chúng ta phải thừa nhận rằng sự tệ hại đã đến. Chính phủ sẽ làm những gì có thể làm để cứu vãn Vương quốc và danh dự của dân tộc. Chính phủ chờ đợi nơi nhân dân vượt qua mọi khó khăn để giúp chính phủ tiếp tục nhiệm vụ”. Nhưng trong ấn bản tiếp theo của các nhật báo thì chính một lời kêu gọi của tướng Anami, Tổng trưởng Chiến tranh, thế chỗ bố cáo trên: “Sự chọn lựa duy nhất của chúng ta là lãnh đạo cuộc chiến tranh thần thánh để bảo vệ tổ quốc, ngay cả khi chúng ta phải ăn cả rễ cây và cả khi chúng ta chỉ còn đồng ruộng để nằm. Nếu chúng ta tiếp tục chiến đấu với sự can đảm, chúng ta sẽ tìm thấy lại cái Sống trong cái Chết”.


Đến tối, Suzuki họp các nhân viên chính phủ và các tham mưu trưởng Lục quân và Hải quân để thông báo cho họ kết quả thất bại của các cuộc thương thuyết. Ông loan báo với họ rằng, Thiên hoàng có ý định chuyển đến các Quốc Trưởng đồng minh sự chấp thuận trên nguyên tắc các điều kiện của họ ngay khi nào Ngài nhận được sự xác nhận chính thức là họ từ chối những đề nghị sau chót của Nhật. Phiên họp hết sức sóng gió. Tướng Anami phẫn nộ quyết liệt chống đối. “Lục quân, ông nói, sẽ không bao giờ chấp nhận một sự nhục nhã như vậy!”. Bộ trưởng Hải quân thì ít cuồng nhiệt hơn, nhưng ông cũng phát biểu ý kiến tương tự. Các cấp chỉ huy quân sự thì giữ im lặng. Điểm duy nhất mà tất cả mọi người đều đồng ý là sẽ không đưa ra một sáng kiến hành động nào trước khi nhận được sự xác định từ chối chính thức của đồng minh.


Tình trạng hỗn tạp ngự trị tại Potsdam và tình trạng tắc nghẽn của các đường liên lạc vô tuyến đã làm cho tài liệu này đến trễ mất ba ngày tang tóc. Dân chúng Nhật Bản vốn đã bị yếu kém vì thiếu thực phẩm và bị mất tinh thần vì các cuộc oanh tạc, nên chỉ theo dõi biến cố với sự nhận nhục thụ động. Tổ chức cực đoan Kempi Tai, mà Tojo vẫn còn điều khiển hoạt động, tuyên cáo tử chiến, nhưng quần chúng còn có những lo âu khác hơn là nghe các nhà hùng biện. Những thanh niên được đưa vào các đơn vị Kamikaze bắt đầu đào ngũ. Nhiều người trong số đó đã bị bắt buộc gia nhập và sự tình nguyện của họ chỉ là thuần tuý hình thức. Nhiều cuộc ẩu đả đã xảy ra giữa những tay tổ cứng đầu và những kẻ mềm yếu. Đây là lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh bắt đầu, những quân nhân công khai thúc nhận sự mệt mỏi của họ. Sự nhất trí quốc gia đang tan rã dần.


Sáng ngày 13 tháng 8, sự từ chối tàn bạo các đề nghị của Nhật được đưa đến Đông Kinh. Thủ tướng Suzuki và Ngoại trưởng Togo hấp tấp đến Hoàng cung, Thiên hoàng tiếp họ ngay và với vẻ lạnh lùng bề ngoài, lắng nghe lời loan báo tin tức tai biến ấy. Ông tin cho Suzuki rõ ý định triệu tập một hội đồng đặc biệt vào ngày mai.


Ngày 14 tháng 8 lúc 8 giờ, những binh sĩ phòng vệ Hoàng cung dùng xe gắn máy chạy ồ ạt qua các đường phố để mang đến các nhân viên chính phủ, và các tướng lĩnh thuộc Tổng hành dinh Thiên hoàng thư mời họp long trọng. Vì lý do giờ họp-10 giờ-quá gấp nên họ được miễn mặc trào phục. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản đã xảy ra những sự xáo trộn như thế đối với hiến pháp cũng như đối với nghi thức.


Khi đến Hoàng cung, các nhân vật cao cấp được đưa vào một phòng khách dưới hầm sâu qua một hàng rào quân danh dự và binh sĩ vũ trang. Thiên hoàng tiến vào phòng hội và phác một cử chỉ nghi lễ ngắn gọn thường lệ. Thủ tướng Suzuki đọc ngay một phúc trình trong đó ông trình bày các biến cố của những ngày vừa qua và các lý do đã khiến ông đề nghị chấp nhận đơn thuần tối hậu thư của đồng minh. Đến lượt tham mưu trưởng Lục quân và Hải quân tiếp lời, cả hai đều ước tính rằng lực lượng mà họ đang nắm trong tay còn có thể chiến đấu và còn có thể chống trả cả một cuộc đổ bộ xâm chiếm lãnh thổ. Tổng trưởng Bộ Chiến tranh Anami, mà sự xúc động đã bộc lộ cực điểm, đã bác bỏ một cách cuồng nhiệt sự chấp nhận những điều kiện nhục nhã “sẽ làm cho cả bản thân Thiên hoàng lâm nguy”.


Nét mặt tái ngắt biểu lộ tình trạng thần kinh căng thẳng tột độ, Hiro Hito đưa mắt nhìn khắp lượt những người dự hội và đến lượt ông lên tiếng trong một không khí lạnh lẽ đầy tử khí: “Nếu không còn ai có ý kiến gì để phát biểu, trẫm sẽ diễn tả ý kiến của trẫm. Trẫm yêu cầu các khanh chấp nhận nó. Trẫm thấy chỉ có một lối thoát cho Nhật Bản. Chính vì lý do đó mà Trẫm chấp thuận đề nghị của Đồng minh!”.

Một sự dao động khó tả lan khắp hội trường. Nước mắt rào rụa trên các nét mặt. Những lời than vãn dâng cao âm thầm. Đột ngột phá vỡ nghi thức, tướng Anami khóc nức nở quì mọp xuống chân Thiên hoàng.

“Anami, đừng khóc”, Hiro Hito nói với ông ta. “Nếu Trẫm đi đến quyết định này, chính là do sau khi suy nghĩ lâu dài”.

Khi sự xúc động lắng dịu đôi chút, nhà vua loan báo với hội đồng rằng ông sẽ đích thân nói với dân chúng qua một bài diễn văn sẽ được truyền thanh vào ngày mai. Còn hơn cả sự chấp nhận bại trận nữa, lời tuyên bố này đã làm cho các nhân vật cao cấp ngẩn ngơ thật sự. Nếu Đấng Chí Tôn vốn tượng trưng cho sự vĩ đại của Đế quốc và nhân cách hoá linh tiền nhân vẫn phò trợ cho sự vĩnh phúc của Người lại chấp nhận bước xuống ngai vàng để cho những thần dân hèn mọn nhất được nghe giọng nói uy nghiêm, thì chính bức màn của hai ngàn năm lịch sử đã rơi xuống.


Vào cuối ngày định mệnh đó, một số sĩ quan cao cấp Bộ Tổng tham mưu Lục quân nhóm họp tại trụ sở của Kempi Tai. Nhiều người trong số đó được sự hậu thuẫn của một vài tổng trưởng để lật đổ chính phủ Suzuki.
 
Đến 1 giờ sáng ngày 15 tháng 8, họ đến bản doanh của chỉ huy trưởng quân danh dự phòng vệ hoàng cung, tướng Takeshi Mori và yêu cầu công theo họ. Takeshi Mori từ chối bằng cách nại ra lòng tận tuỵ của ông đối với bản thân Thiên hoàng. Lập tức ông bị hạ bằng một lát kiếm. Tất cả các sĩ quan của đoàn quân danh dự đều bị nhốt trong một phòng của Hoàng cung bởi những người chủ mưu và những cán bộ cuồng tín của tổ chức Kempi Tai. Viên Đại tá thâm niên nhất chiếm lấy khuôn dấu của Tướng Mori và thảo ngay một huấn thị ra lệnh đóng cửa Hoàng cung và gia tăng gấp đôi số lính canh. Trung tướng Hasunuma, tuỳ viên riêng của Thiên hoàng và tất cả các giới chức cao cấp ở trong Hoàng cung đều bị quản thúc tại nhà. Chỉ có viên tổng quản lý hoàng cung và quan chưởng ấn riêng của Thiên hoàng là thoát được mẻ lưới táo bạo này.


Quả thật một tình trạng rắc rối khó giải quyết đã xảy ra từ đầu hôm giúp cho hai viên chức cao cấp thoát ra khỏi Hoàng cung sau khi cho áp dụng các biện pháp cần thiết để có thể tiếp tục thi hành mệnh lệnh của Thiên hoàng. Thật vậy, từ lúc 4 giờ chiều, họ vẫn còn ở kín dưới hầm của Hoàng cung với viên giám đốc Thông tin và ba viên chức thuộc đài phát thanh để hoàn tất việc ghi âm vào một đĩa hát lời tuyên bố của Thiên hoàng. Đĩa hát này sẽ được phát thanh vào 8 giờ sáng mai, những viên chức ấy phải mang nó đi ngay từ đầu hôm. Nhưng những tin đồn đáng lo ngại bắt đầu lan tràn ngoài phố và viêm giám đốc Thông tin liền điện thoại báo tin, cho nên viên Tổng quản lý quyết định cất đĩa hát vào tủ sắt riêng mà một mình ông biết chỗ giấu và ngày mai, đến phút chót mới cho gửi đến phòng vi âm. Các viên chức đài phát thanh rời Hoàng cung sau 11 giờ đêm một chút và khi họ bị bắt ở cổng ra vào thì những chiếc xách tay nhỏ của họ hoàn toàn toàn trống rỗng. Bị đặt dưới một cuộc thẩm vấn tàn bạo, họ không thể nào cho các người dự mưu biết được tin tức gì, khiến họ bị đưa trở lại xuống căn hầm để giúp tìm lại chiếc đĩa ghi âm mà họ muốn chiếm đoạt bằng mọi giá.


Đến 3 giờ 30 sáng, công cuộc tìm kiếm vẫn vô hiệu, và Thiếu tá Hatanakato, một trong những lãnh tụ hiếu động nhất của lực lượng nổi loạn, quyết định đích thân đến đài phát thanh để đưa ra một lời kêu gọi. Đài phát thanh liền bị chừng 30 binh sĩ chiếm đóng và các chuyên viên, dưới sự đe doạ của mũi súng lục, bị bắt buộc phải truyền thanh trực tiếp lời của Hatanakato. Lúc đường dây đã sẵn sàng, thì còi báo nguy của hệ thống phòng thủ thụ động bắt đầu hú vang: các oanh tạc cơ Mỹ bay ngang qua thành phố thật thấp. Nhân viên đài phát thanh đã cắt ngang buổi phát thanh, Hatanakato nhảy đến chụp điện thoại để yêu cầu Tổng hành dinh ra lệnh tái lập các buổi phát thanh.


Trong khi xảy ra vụ xúc động “đứng tim” này, thì những biến cố quyết định đã xảy ra tại Hoàng cung. Tướng Suzuichi Tanaka, tư lệnh Quân đoàn miền đông và là cánh tay mặt cũ của Tojo, dùng xe chính thức của ông tiến đến trước cổng và lính gác đã để cho ông tiến vào vườn. Với một tuỳ viên độc nhất đi theo, ông đột nhập vào phòng những người dự mưu. Uy tín của ông lớn lao đến nỗi, ngay từ những lời kêu gọi đầu tiên yêu cầu phải tuân phục mệnh lệnh chính thức của Thiên hoàng, bốn trong số các Đại tá đã tự bắn một viên đạn vào đầu. Những người khác liệng vũ khí và im lặng rút lui. Riêng phần Hatanakato, được thông báo chuyện gì xảy ra, hấp tấp trở về Hoàng cung và tự sát ngoài vườn ngay khi biết sự thất bại của bạn hữu. Cuộc nổi loạn bị đập tan.


Kể từ 6 giờ 30 sáng, cứ cách nửa giờ đài phát thanh lại loan đi bản tuyên cáo của Thiên hoàng. Công chúng vốn không biết gì về các biến cố bắt đầu tập họp chung quanh các loa phóng thanh được mắc tại khắp các ngã tư đường phố. Trong các vùng ngoại ô, đám đông công nhân tập trung đông đảo trước cửa nhà máy. Còn hơn cả sự chờ đợi những hun tin, sự tò mò được nghe giọng nói của Thiên hoàng đã làm cho không khí im lặng lạ lùng. Khi giọng nói ấy cất lên để loan báo rằng Nhật Bản đã bại trận, nước mắt ràn rụa trên khắp nét mặt mọi người: “số phận đang chờ đợi dân tộc ta chắc chắn sẽ rất khổ nhọc. Trẫm biết rõ những cảm nghĩ sâu xa của tất cả mọi người, thần dân của Trẫm. Tuy nhiên, trước sự cần thiết ghê gớm của giờ phút lịch sử và của định mệnh, Trẫm đã quyết định chuẩn bị một con đường hoà bình thênh thang cho tất cả các thế hệ tương lai, bằng cách chấp nhận điều không thể chấp nhận được và bằng cách cam chịu điều không thể chịu đựng được. Vì có thể cứu vãn cơ cấu kiến trúc của Đế quốc, cho nên Trẫm ở lại với mọi người, với những thần dân thiện lương và trung kiên của Trẫm, tin tưởng vào sự chân thành và sự liêm khiết của tất cả mọi người. Hãy giữ ký lại mọi sự biểu hiện xúc động có thể tạo ra những rắc rối vô ích, mọi cảnh cốt nhục tương tàn có thể gây ra hỗn loạn, làm mọi người bơ vơ lạc lối và mất niềm tin nơi thế giới!”.


Khi giọng nói uy nghiêm của nhà vua chấm dứt, những đám dông dân chúng tan dần và các thị dân từng nhóm hoặc đi về nhà hoặc về các trung tâm tiếp đón người lâm nạn. Suốt ngày và suốt đêm những kẻ cô đơn không nơi ẩn trú tiếp tục đi lang thang vô định trong trạng thái ngơ ngẩn vì những nỗi đau đớn sâu thẳm vô bờ.


Trong ngày hôm đó có rất nhiều người không nghe theo mệnh lệnh của Thiên hoàng “chấp nhận điều không thể chấp nhận được”. Tướng Tanaka, sau khi khuất phục cuộc nổi loạn của các Đại tá, đã tự sát trong văn phòng tại bản doanh của ông. Thống chế lão thành Sugiyama, người tiền nhiệm của Tojo tại Bộ Tổng tham mưu, tự bắn một phát súng lục vào đầu trong khi vợ ông, trong bộ lễ phục, tự mổ bụng giữa một đám hoa theo nghi thức. Cùng lúc đó Tướng Anami tự sát tại nhà, để lại một câu cảm động: “Tôi hy vọng rằng cái chết của tôi sẽ là sự tha thứ cho những lầm lẫn của tôi”. Tại Yokosuka, các nhóm phi công tự sát của hải quân tự nhốt mình trong doanh trại và toan tính tung một khối chất nổ sống Banzai vào số quân cảnh đến giải giới họ. Trong số những nhóm cuồng tín của không lực thuộc hải quân, có những cảnh say sưa và những trận ẩu đả chết người. Đô đốc Ugaki, người chỉ huy các thành phần cuối cùng của đơn vị phi công tự sát, đã tự bước lên một oanh tạc cơ để thực hiện một cuộc tấn công tự sát cuối cùng; tin tức ấy đã được đưa đến làm cho sự khích động của họ lên đến tột độ.


Tối ngày 15 tháng 8, Đô đốc Onishi mời vài sĩ quan về nhà riêng của ông và giữ họ lại cho đến nửa đêm. Đấy là tất cả những người kỳ cựu thuộc Đệ Nhất không lực còn sống sót sau cuộc tàn sát ghê gớm do mệnh lệnh của ông để lại các tài liệu về thiên anh hùng ca Kamikzae và làm chứng cho các nguyên động lực của hành động đó với các thế hệ tương lai.


Vài giờ sau khi họ ra đi, ông tự mổ bụng. Một trong những người thân chạy đến ngay. Đô đốc mổ bụng mình bằng một cây dao găm nhỏ, nhưng chắc vì nó quá ngắn cho nen vết thương không làm ông chết ngay.

Để trả lời cho những người muốn chăm sóc cho ông, ông thầm thì:

-Hãy để tôi yên.

Ông chết sau 12 giờ hấp hối tàn khốc, từ chối mọi sự cấp cứu, làm như ông muốn lấy cái đau đớn của mình để trả món nợ mà ông còn thiếu đối với những phi công trẻ tuổi của Đệ I không lực, nhưng người mà ông từng áp đặt một cơn hấp hối tinh thần còn lâu hơn và có lẽ còn kinh khủng hơn trong những doanh trại thối mục tại Mabalacat.
Người ta tìm thấy được chúc thư của ông. Đấy chính là một chúc thư của một Samourai, một người mà tự tôn sùng tổ quốc được nhân cách hoá nơi cá nhân Thiên hoàng, cấu thành nền tảng căn bản của cuộc sống.


Nhưng, thật kỳ lạ, nơi con người đã từng hy sinh bất kể hàng ngàn thanh niên ấy, người ta cũng tìm thấy được những giọng điệu dịu hiền đầy cảm động với thế hệ trẻ tuổi.

“Tôi nói với đơn vị Kamikaze, đơn vị đã gục ngã một cách anh hùng và là đơn vị gồm những con dân ưu tú của xứ sở.

“Để chuộc lỗi lầm vì đã đưa họ đến cái chết vô ích, tôi xin dâng hiến cái chết của tôi cho linh hồn các thuộc viên của tôi và cho gia đình họ.

“Tôi cũng gửi lời đến thế hệ trẻ tuổi. Hãy rút ra một bài học từ nơi cái chết của tôi. Hãy vâng lệnh Thiên hoàng! Tôi khuyên họ hãy tự trọng và chuyên nhất. Ngay cả trong sự thất bại, cũng phải hãnh diện được là dân Nhật.

“Trẻ con là kho tàng của xứ sở”.

Trong cuộc đối thoại này ở bên kia thế giới, những người chết và những người sống hoà lẫn thân ái với nhau và lời kêu gọi của bậc Samourai lão thành ấy với thế hệ trẻ tuổi cũng là lời nói đồng thời với những anh hùng đã khuất bóng cũng như với những người sống sót hiếm hoi của đơn vị Kamikaze làm như những người này cũng như những người kia đều đã an vị giữa những Kamikaze, những linh hồn phò trợ nước Nhật vĩnh viễn.
 
Giờ phút vinh quang của Mac Arthur

Sau khi nuốt chửng 1.000 nạn nhân, làn sóng tự sát ấy tàn lụi trên những bờ biển của một nước Nhật nhẫn nhục. Quốc gia này đã thoát khỏi cuộc thảm sát và còn thở. Dần dần từng chút một, sự sống lại hồi sinh. Một niềm hy vọng phát hiện: hoà bình! Không còn nghe nói đến bom đạn, lẫn Hara-Kiri, lẫn Kamikaze nữa, không còn nghe trích dẫn cả Tojo lẫn Kempi Tai nữa. Xây dựng lại mái nhà nhỏ bé trong im lặng để được ở trong đó, ăn một nắm cơm rưới một chút rượu Saké, đằng sau một màn chắn gió chống lại những cơn ác mộng.


Ngày 24 tháng 8 năm 1945, ngày mà các sĩ quan Hoa Kỳ đầu tiên sẽ phải đến Nhật bằng phi cơ, mộ cơn gió nóng bốc lên và mau lẹ biến thành một cơn giông tố: một cơn bão mùa hè đến muộn. Những truyền đơn cuối cùng do các phi cơ lén lút ném xuống, những lời kêu gọi nổi loạn sau cùng đều tan loãng vì ngọn thần phong, ngọn gió thần Kamikaze hoà bình đã cứu nước Nhật khỏi bị huỷ diệt hoàn toàn. Ngay trước khi các cơn gió lốc dịu bớt, trật tự khắp nơi đã dược tái lập và ngày 28 tháng 8 lúc 8 giờ, khi chiếc phi cơ Mỹ đầu tiên đáp xuống phi trường Atsugi, vài chiếc xe hơi đã tiến lên đón tiếp như đây là một cuộc viếng thăm xã giao nào đó. Hai sĩ quan bước xuống phi cơ, Đại tá Tent và Thiếu tá Bowers, thông dịch viên tiếng Nhật Tent đang có tâm trạng của một Pérouse bước lên Vanikoro: ông đã viết sẵn chúc thư và chờ bị giết chết. Ông nhanh nhẹn bước lên một chiếc xe hơi mà không biết người ta sẽ đưa mình đi đâu.


Cuộc hành trình không xa. Chiếc xe dừng lại trước một chiếc lều được dựng lên ở đầu phi trường. Trung tướng Arisuýe, Tư lệnh quân khu miền đông đang chờ ông tại đấy và hai sĩ quan bắt đầu thi hành nhiệm vụ giải quyết, với sự hợp tác của Thiếu tá Bowers, các vấn đề do việc đưa quân dù Mỹ đến được đặt ra. Arisuyé đã nghĩ đến tất cả và có vẻ muốn san bằng mọi khó khăn.


Ngay từ hôm sau, nhiều phi cơ C-54 bay đến, chở đầy xăng và vật liệu. Ngày 30 tháng 8, các phi cơ vận tải của sư đoàn 2 nhảy dù hạ cánh xuống phi trường với nhịp độ mỗi phút một chiếc. Đến trưa, đông đảo các sĩ quan được tập họp trên phi trường. Chiếc Bataan phi cơ riêng của Thống Tướng Mac Arthur được loan báo sắp hạ cánh. Thật vậy, chính ông là người được Truman chỉ định để chỉ huy đoàn quân chiếm đóng. Vài phút sau, chiếc phi cơ to lớn lăn bánh trên phi đạo và đến dừng trước hàng sĩ quan dàn chào.


Chiếc bóng cao lớn của ông tướng xuất hiện trong khung cửa mở rộng và dừng lại đó một lát. Ông mang cặp kính đen và cắn chặt răng vào đầu chiếc tẩu thuốc lá lõi ngô danh tiếng. Chiếc nón kết nặng nề viền lá sồi che bóng một khuôn mặt gầy guộc. Ông chầm chậm bước xuống thang, chào lại những người đón tiếp và nói vài lời: “Từ Melbourne tới Đông Kinh, con đường thật xa và khổ nhọc. Nhưng hình như là những mệt nhọc của chúng ta đã được trả giá. Mới cách đây có vài ngày, 300.000 binh sĩ Nhật Bản vũ trang có mặt trong khu vực mà quân ta sắp đến đóng. Tôi có thể loan báo với các ông là họ sẽ rút lui mà không xảy ra một biến cố nào”.


Ngay sau bài diễn văn ngắn ấy, ánh đèn chụp hình loé lên và các máy quay phim bắt đầu kêu rè rè. Ban nhạc của sư đoàn II nhảy dù đánh một bản quân hành và ông tướng bước lên một chiếc xe Hoa Kỳ cũ để tiến giữa hai hàng quân cảnh Nhật Bản đến tận khách sạn Nouveau Grand Hotel tại Yokohama. Con đường bị bom tàn phá đến mức khoảng đường đi qua phải mất những hai giờ. Một không khí tưng bừng như hội chợ dính liền với sự hoan lạc của người Mỹ ngự trị trên sân trước khách sạn. Khi đến nơi, ông tướng được tiếp đón bằng những tiếng sáo miệng khích động, rồi bị tiếng chập choả như sấm động át đi khi ban nhạc chơi bản quốc thiếu và lá quốc kỳ Mỹ vĩ đại gắn 5 ngôi sao của vị tổng tư lệnh đạo quân chiếm đóng được kéo lên cột cờ. Ông “Nhiếp chính” rốt cuộc đã tìm thấy được một lãnh địa đúng với tầm vóc của mình.


Trong khi các nghi lễ này đang diễn ra, lực lượng đặc nhiệm 38, do Đô đốc Halsey chỉ huy được điều động dọc theo bờ biển và các phi cơ của Mitscher bay trên bầu trời Nhật Bản trong một cuộc biểu dương đầy xúc động. Căn cứ Yokosuka đã được hải quân chiếm đóng và vài chiếc L.C.P đã đến tiếp thu cảng Yokohama. Ngày 1 tháng 9, một hải lực đồng minh gồm 258 chiến hạm đủ mọi kiểu buông neo trong vịnh Đông Kinh. Mac Arthur để cho Nimitz chọn lựa địa điểm làm nơi ký kết văn kiện đầu hàng của Nhật Bản và ông này đã đề nghị bãi trống đằng sau thiết giáp hạm Missouri.
 
Chúa nhật ngày 2 tháng 9, nhiều nhân vật được mời dự lễ đã bước lên chiến hạm từ 7 đến 8 giờ và ngồi vào sau một chiếc bàn phủ thảm xanh. Trong số đó có Đô đốc Nimitz và Halsey, Đô đốc Sir Bruce Fraser của Anh, Tướng Leclers, đại diện chính phủ Pháp, và nhiều sĩ quan cấp Tướng thuộc mọi binh chủng. Vào khoảng 8 giờ 30, phái đoàn Nhật đến. Người ta nghe tiếng còi bái hiệu “Lên tàu” và hàng trăm thuỷ thủ và thuỷ quân lục chiến được phép dự kiến liền chen chúc nhau trên những spardeck và những sàn gỗ được dựng lên chung quanh sân thượng dành cho chuyên viên điện ảnh và báo chí. Những ánh đèn chớp loé ngay mặt những thành viên đáng thương của phái đoàn Nhật Bản ngay khi họ đến cầu tàu. Họ nhẫn nhịn tất cả, nhưng rất ít muốn thấy cái không khí hội chợ này, đến nỗi người ta thấy mặt họ đanh lại vì nhục nhã và đau đớn. Một trong các tướng lĩnh để lộ vẻ muốn quay trở lại, nhưng ngoại trưởng mới của Nhật, Shigemitsu, trước đây đã bị cụt chân vì bom của một đảng viên Kempi Tai cực đoan, đang khó nhọc tiến bước với chiếc chân giả, đã phát một cử chỉ ngăn chặn và các đại biểu đến đứng thẳng hàng trước chiếc bàn trải thảm xanh. Họ tạo thành một cái đinh gây nhạc nhiên trong buổi lễ” các quân nhân thì mặc những bộ quân phục cắt xấu xí, đầu đội những chiếc mũ hình nón cụt có lưỡi trai rất rộng đứng chen với các viên chức dân sự áo đuôi chồn dài, quần sọc, găng trắng và nón cao cổ.


Khi tất cả đứng dậy sắp hàng theo thứ tự ngôi thứ xong, tu sĩ tuyên uý trên chiếc Missouri đọc vào máy vi âm vô hình vài đoạn thánh kinh và im lặng được tái lập. Lúc đó, cánh cửa phòng khách danh dự được mở rộng và Tướng Douglas Mac Arthur long truợng bước vào cuộc lễ: ông mặc quân phục mùa hè, áo sơ-mi cổ hở trên đó lấp lánh năm ngôi sao. Chỉ có chiếc nón kết viền lá sồi danh tiếng của ông, mặc dầu đã bạc màu là cho thấy tầm quan trọng của cấp bậc. Ông tiến tới chiếc bàn, hai bên cạnh là tham mưu trưởng của ông, Sutherland, và hai sĩ quan cấp Tướng vẻ mặt hốc hác tiều tuỵ và thân hình trơ xương lùng bùng trong những bộ quân phục cũ: đó là tướng Wainwright, người phòng thủ dũng cảm bán đảo Bataan, và tướng Sir Arthur Percival, vị anh hùng đáng thương của Tân Gia Ba vừa được phi cơ đến đón trong một trại tù binh ở Mãn Châu. Mac Arthur với vóc dáng cao lớn, ngạo nghễ nhìn các đại biểu Nhật Bản và nói vài lời trình bày bản chất của các tài liệu mà học phải ký vào. Rồi, rõ rệt là bị bối rối bởi nét mặt khổ hạnh và phong thái đầy cao thượng của những kẻ thù chiến bại, ông đọc bài diễn văn đã được soạn trước trong khi cố tìm cách biến đổi giọng nói để làm dịu bớt các từ ngữ. Khi ông nói đến phần kết luận, không khí cho đến lúc ấy thật giá lạnh, dần dần trở nên ấm áp cùng với sự cảm động bộc lộ rõ rệt của ông. Và để kết luận, ông tuyên bố: “Niềm hy vọng chân thành nhất của tôi mà cũng là niềm hy vọng của toàn thể nhân loại-là một thế giới tốt đẹp hơn sẽ hiện lên, nhân dịp long trọng này, bên trên cuộc tàn sát trong quá khứ, một thế giới đặt nền tảng trên niềm tin cậy và sự thông cảm hỗ tương, một thế giới biết tôn kính phẩm giá con người và cương quyết thoả mãn những khát vọng thân yêu nhất: tự do, độ lượng và công lý!”.


Có lẽ mặc dầu khi nói những lời này, hơn bao giờ hết, Mac Arthur có vẻ như đang quay một cuốn phim cho Hô Ly Vọng, nhưng các đại biểu Nhật Bản, vốn cho đến lúc đó đã nhìn quang cảnh buổi lễ với cặp mắt trống vắng phản ánh sự bất thông cảm tuyệt đối, đã trao đổi với nhau những cái nhìn rụt rè, rồi vẻ mặt rắn đanh của họ dịu dần một cách khó nhận thấy. Về sau, có người trong số họ đã nói rằng “trong giờ phút tuyệt vọng và khốn cùng ấy, một tia sáng chói đã phát hiện từ đích bản thân của Mac Arthur”.


Khi các đại biểu toàn quyền ký tên vào dưới văn kiện, ông tướng nói thêm: “Giờ đây chúng ta hãy cầu nguyện để cho hoà bình được tái lập trên thế giới và để cho thiện chí của tất cả mọi người giúp cho hoà bình được trường tồn mãi mãi”.


Trong khi nghi lễ trên diễn ra, nhiều Landing crafts của hải lực thuỷ bộ đã đưa lên bờ sư đoàn 1 kỵ binh của Tướng Chase, người được lệnh “tiến thẳng về Đông Kinh”. Cuộc điều quân được thực hiện như một cuộc đổ bộ các lực lượng chiến đấu thật sự vì chưa có gì chắc chắn về thái độ của các đơn vị Nhật Bản đồn trú trong khu vực đó. Nhưng mọi chuyện đã xảy ra không gặp khó khăn và ngày hôm sau 3 tháng 9, tất cả sư đoàn đã đặt xong bản doanh trong các doanh trại tại Hara Machida cách Đông Kinh vài cây số.


Lúc đó, trong vùng đồng bằng Kanto, còn có 14 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn thiết giáp và 17 lữ đoàn thuộc các binh chủng khác. Không một ai hoàn toàn yên tâm… Nhưng đã không có một phản ứng nào, các cuộc tiếp xúc được thiết lập không gặp khó khăn giữa người chiến thắng và kẻ chiến bại và trước sự ngạc nhiên của các đoàn quân Mỹ vừa chịu đựng các đợt xung phong hung tàn tại Lujon, thái độ của các quân nhân Nhật Bản không những là nghiêm chỉnh mà còn có vẻ rất hợp tác.


Ngày 8 tháng 9, lúc 8 giờ sáng, tướng Chase long trọng tiến quân vào Đông Kinh, chính ông đi đầu đoàn quân chiến sĩ kỳ cựu của cuộc chiến. Vài giờ sau, đến lượt Mac Arthur đến, với một phi đoàn hộ tống. Ban quân nhạc của Sư đoàn 1 kỵ binh chờ đón ông trên tiền đình Toà Đại sứ Hoa Kỳ giữa một đoàn quân đông đảo mang quân kỳ và hiệu kỳ các đơn vị. Khi ông tướng đặt chân lên thềm, quốc kỳ được kéo lên lầu cột cờ dưới ánh mặt trời chói lọi trong khi ban quân nhạc cử bài “Star-spangled Banner”. Vị tổng tư lệnh tối cao các lực lượng đồng minh quay về phía quan khách và nhìn quốc kỳ tung bay, ông nói mấy lời này: “Cầu cho quốc kỳ của xứ sở chúng ta tung bay dưới ánh mặt trời Đông Kinh trong vinh quang toàn diện như là một biểu tượng của niềm hy vọng dành cho những kẻ bị áp bức và như là một sứ giá đại biểu cho sự toàn thắng của luật pháp!”

Công cuộc chiếm đóng yên ổn nhất lịch sử bắt đầu.
 
Đoạn kết


Qua các thông cáo báo chí, khi được biết cuộc ngưng bắn và cuộc giải giới được thi hành với sự mẫn tiệp và trật tự như thế nào, công luận thế giới đã có đôi chút vội vàng kết luận rằng Nhật Bản đã bị hấp hối từ lâu và rằng cuộc thảm sát ghê gớm tại Hiroshima lẽ ra đã có thể tránh được.


Như chúng tôi đã nhấn mạnh nhiều lần, sửa lưng những đòn của đối phương khi ta có cả hai lá bài trong tay bao giờ cũng là chuyện dễ dàng. Lúc ấy quyết định ném quả bom A xuống Nhật Bản, người Mỹ chỉ có những dự kiện hết sức mơ hồ để đo lường mức độ yếu kém của kẻ thù: các không ảnh những khu vực bị oanh tạc (mà họ đã từng biết là có thể có hiệu quả lừa dối đến mức nào) và các tin tức do các cơ quan tình báo cung cấp, những tin tức không chính xác và mâu thuẫn. Ngược lại, điều mà họ biết quá rõ, chính là sức chiến đấu lạ thường mà quân đội Nhật Bản đã chứng tỏ, và tầm quan trọng của những kho dự trữ vũ khí đạn dược mà Nhật đã tích trữ trên khắp các lãnh thổ chiếm đóng bên trong vòng đai chu vi Đại Đông Á cũ.


Chiến lược do các Đô đốc King và Nimitz đề nghị gồm có bao vây trực tiếp nước Nhật mà không chiếm lại các lãnh thổ mênh mông tại phía Nam Thái Bình Dương, tại Trung Hoa và tại Đông Nam Á, đã dựa vào một định đề vốn chưa được kinh nghiệm kiểm chứng: đó là ưu thế của không quân. Đó là áp dụng đơn thuần, với ít nhiều nguỵ trang, binh thuyết của một tướng lĩnh thời danh người Ý, Douhet, một binh thuyết mà từ mười lăm năm nay vẫn không ngớt gây ra những cuộc tranh luận gay go tại khắp mọi quốc gia. Liệu có thể áp dụng nó cho trường hợp Nhật Bản hay không? Liệu có thể hay không có thể chẹn họng quân đội Nhật, mà không cần phải chiến đấu trên bộ, nhưng chỉ bằng vào sự huỷ diệt vũ khí và các đường giao thông của Nhật? Những kết quả thu đạt được tại Đức quốc có khuynh hướng chứng tỏ rằng không thể, thế nhưng sự tàn hại do bom lửa gây ra lại đưa đến kết luận trái ngược. Song le, những cuộc oanh tạc ấy đòi hỏi một sự vận dụng phi cơ đến mức phải tiên liệu mất hàng nhiều tháng trời, mới mong tiêu diệt được dứt khoát hết các lực lượng của đối phương. Và trong những tháng trời dài dặc ấy, khi mà chiếc đầu con bạch tuộc chưa bị vặn ngược thì những chiếc vòi của nó vẫn tiếp tục bám chặt trên các quần đảo bị “bypass”, cũng như tại Miến Điện và Trung Hoa. Uỷ ban tham mưu hỗn hợp đã rất mạo hiểm khi chấp thuận kế hoạch của các Đô đốc, và Tướng Mac Arthur đã không có lỗi khi luôn miệng nhắc nhở phải đề phòng.


Lúc mà Tổng trưởng Chiến tranh Stimson báo cho Tổng thống Truman biết sự thành công chắc chắn của kế hoạch Mahattan, thì quân trú phòng Nhật Bản tại Okinawa vẫn còn kháng cự. Tướng Simson Bolivar Buckner vừa tử trận tại tiền tuyến. Tổn thất của Mỹ nội trong trận đánh này đã được ước tính lên đến 12.500 tử trận và 36.500 bị thương-tức là 50% lực lượng tham chiến. Mặc dầu tướng Ushijima phải tự sát, và tất cả đạo quân trú phòng trên đảo vốn được lãnh đạo đúng đắn, đã bị tiêu diệt, nhưng vố số những tổ kháng cự lẻ tẻ, gồm binh sĩ cũng như thường dân, vẫn còn chiến đấu với sự hăng say điên cuồng. Trong một góc của hòn đảo chưa bị lọt vào tay quân Mỹ, dân chúng đã đến hợp tác với các binh sĩ hiếm hoi còn khoẻ mạnh để tay không chống lại chiến xa và súng phun lửa đằng sau vị Tổng đốc dân sự được vũ trang bằng thanh kiếm Samourai của ông. Chắc chắn đấy là mùi vị được nếm trước của khung cảnh địa ngục mà một cuộc đổ bộ lên chính lãnh thổ Nhật Bản phải trải qua trên đó 30 triệu công dân Nhật và 2 triệu binh sĩ sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đến người cuối cùng.
Lúc đó, theo lệnh của Truman, Stimson đã chỉ định một “Uỷ ban lâm thời” để nghiên cứu sự sử dụng bom A. Uỷ ban này gồm có 5 nhân vật thuộc giới chính trị và 3 nhà bác học Mỹ được giao cho trách vụ tổ chức nghiên cứu về quân sự từ năm 1940. Mặc dầu 3 nhà bác học này đã tham dự tích cực vào công việc của nhóm Los Alamos, nhưng họ cũng yêu cầu chỉ định một tiểu ban gồm các chuyên viên nguyên tử để hướng dẫn họ. Tiểu ban chuyên viên này, dược gọi là “Scientific Panel”, phải tổ chức hội họp các nhà bác học thượng thặng nổi tiếng nhất trong giới khoa học bất chấp quốc tịch. Tiểu ban giới hạn trong số 7 thành viên mà 4 người là Do Thái gốc ngoại quốc.


Các cuộc thảo luận của “Scientific Panel” và của Uỷ ban lâm thời đã đưa đến việc soạn thảo một “bản khuyến nghị” mà sau đây là các kết luận:

1. Quả bom phải được sử dụng để chống lại Nhật Bản càng sớm càng tốt.

2. Nó phải được ném xuống một “mục tiêu kép” vừa kỹ nghệ vừa quân sự.

3. Không thể đưa ra một lời báo trước nào về bản chất của thứ vũ khí này.


Chính vì nhận được ác kết luận chính thức này mà Stimson đã ra lệnh cho Groves tiến hành nhanh hơn cuộc thí nghiệm tại Alamogordo và chuẩn bị các biện pháp để sử dụng quả bom chống lại Nhật Bản. Nhưng vài ngày sau, tiếng đồn về những khuyến cáo này đã lan tràn trong số các nhà bác học nguyên tử thuộc nhóm Los Alamos và thuộc đại học đường Chicago. Bảy nhà khoa học thuộc đại học này liên nhóm họp dưới quyền chủ toạ của giáo sư lão thành Frank-cựu giám dốc Học viện Vật lý Gottingen, được xem như “giáo hoàng” của thế giới nguyên tử-đã soạn thảo một bản khuyến nghị khác đề nghị rằng sự biểu diễn thứ vũ khí mới phải được tổ chức dưới sự chứng kiến của các đại biểu Liên hiệp Quốc trong một sa mạc hay trên một hòn đảo không có người ở, để chính phủ Nhật có thể được thông báo sức mạnh tàn phá của nó và cạm chịu chấp nhận đầu hàng vô điều kiện.
 
Tài liệu này được đưa đến cho đích thân Stimson, ông ta chuyển ngay cho Uỷ ban lâm thời và Uỷ ban này liền hỏi ý kiến của Tiểu ban chuyên viên. Các thành viên của Uỷ ban không tin rằng phải đề nghị sửa đổi lại lập trường, nại lý do rằng trong tư cách là các nhà khoa học họ không có thẩm quyền để quyết định liệu có nên sử dụng quả bom để chống lại Nhật Bản hay không, ngoài ra họ cũng chẳng biết gì về tình hình quân sự và không biết liệu có thể lôi kéo Nhật Bản đến chỗ đầu hàng bằng các phương cách khác hay không.


Vững tâm vì sự xác định mới phát xuất từ những con người siêu việt này vốn chẳng có thù hiềm gi với Nhật Bản, mà sự suy luận riêng tư chỉ có thể bị ảnh hưởng bởi niềm ưu tư chính đáng là tránh làm tăng thêm tang tóc cho một xứ sở được họ coi như quê hương thứ hai của mình, Stimson không hề nghĩ đến chuyện thay đổi các mệnh lệnh đã được ban hành nữa. Ngọn lao đã phóng đi và đã quá trễ, không thể nào rút lại một quyết định có hậu quả nặng nề như vậy.


Ngày 15 tháng 7 năm 1945, trên đường đi Potsdam, Truman nhận được tin cuộc thí nghiệm thành công tại Alanmogordo. Vài ngày sau, Stimson đến gặp ông để trình bày hiệu quả tàn khốc của chất nổ mới. Hai nhân vật đều đồng ý là không tiết lộ bản chất sát đúng trong thời gian cuộc Hội nghị Liên Đồng minh và chỉ yêu cầu các Quốc trưởng tham dự hội nghị chấp thuận rằng họ sẽ hậu thuẫn cho một lời cảnh cáo long trọng gửi cho Nhật Bản.


Như chúng ta đã thấy, dân tộc Nhật bản đời nào lại chấp nhận một tối hậu thư được trình bày dưới một hình thức mơ hồ như thế và thủ tướng Suzuki, mặc dầu rất hoà hoãn, cũng chỉ có thể trả lời không chấp thuận.


Những liên luỵ chính trị của sự xuất hiện vũ khí nguyên tử đã đến mức lúc ấy Tổng Thống Mỹ không còn có sự chọn lựa nào khác hơn là ném quả bom A xuống Hiroshima. Gia dĩ lãnh tụ quốc gia đồng minh duy nhất được biết rõ bí mật, Winston Churchill, lại mạnh mẽ đứng lên chống đối ý tưởng trì hoãn dầu cho chỉ là một giây đồng hồ, sự sử dụng một phương tiện căn bản như vậy để chấm dứt cuộc xung đột.


Vài ngày trước khi chiếc Enola Gay cất cánh, Stimson nhận được một phúc trình bất ngờ do 60 nhà bác học thuộc mọi quốc tịch ký kết đòi hỏi đặt những công trình nghiên cứu phân cách nguyên tử dưới sự kiểm soát quốc tế và chấm dứt mọi công tác liên quan đến việc chế tạo quả bom. Những tay tập sự phù thủy đột nhiên ý thức được hậu quả rùng rợn của những suy luận khoa học mà họ là tác giả và liền ném một hòn đá xuống ao thả vịt! Những người ký tên gồm có hoặc là những khoa học gia vật lý trẻ tuổi, mới đến chỗ trú ẩn, hoặc là những người kỳ cựu của viện Gottingen, những nhà bác học đầy lòng quảng đại và đầy lý tưởng, đã xếp vào hàng ngũ chủ hoà của các nhà trí thức thiên tả, ngay từ lúc mới trưởng thành. Rõ ràng là họ chẳng có ảo tưởng gì về kết quả của đường lối vận động này, nhưng họ muốn trách nhiệm của họ được bao yểm.


Stimson cho đọc những lời khẩn cầu của họ cho Groves nghe, ông tướng nhún vai với sự thẳng thắn quen thuộc, tuyên bố: “Người ta thấy rõ rằng không một ai trong số các nhà bác học thân mến ấy có thân nhân đang chiến đấu ngoài mặt trận!”. Lúc đó Stimson ưu tư thì thầm: “Nếu tôi không sử dụng trái bom để chấm dứt chiến tranh, tôi sẽ không bao giờ còn dám nhìn ngay mặt một thanh niên Mỹ”…


Thật rõ ràng…. Những ý tưởng thuộc về tình nhân loại từ lâu đã trở thành thứ yếu trong số những ưu tư của các dân tộc đang lâm chiến. Sự hăng say của binh sĩ Nhật Bản, nền tảng vô nhân đạo của họ, một nền tảng mang tính cách ngày càng điên rồ trước sự thảm bại sắp xảy ra, đã khiến cho thảm kích Hiroshima không thể nào tránh được, Little Boy và Enola Gay đã được đưa vào một tiến trình không thể nào đảo nghịch được.


Vốn chỉ có trong tay 2 quả bom, Stimson cần tạo ra một sự xúc động tâm lý tức thời cho phép ông “diễn dich mau chóng ưu thế đè bẹp mà Hoa Kỳ có trong tay do những kết quả kinh tế”. Chấn động tâm lý này cũng cần thiết cho chính phủ Nhật Bản để bước ra khỏi cơn mơ mộng không tưởng về tính cách bất khả chiến bại của mình. Nếu không có nó, hàng trăm ngàn sinh mạng Nhật Bản còn bị hy sinh một cách vô ích. Một cuộc tàn sát chưa từng có sẽ được tránh khỏi, khi mà Thiên hoàng có thể nhẫn nhục “chịu đựng điều không thể chịu đựng nổi và cam chịu điều không thể chấp nhận được”, mà không cần phải rời khỏi ngai vàng.


Được giải thệ nhờ mệnh lệnh của Thiên hoàng, người binh sĩ Nhật đã cứu vãn danh dự của mình. Anh ta đã đẩy lùi giới hạn của chủ nghĩa anh hùng, anh ta đã chứng tỏ cho đến cùng một khả năng kháng cự chưa từng thấy trong lịch sử, và không phải là vấn đề ít kiêu hãnh của dân tộc chiến bại khi mà phải có cả một đại biến khủng khiếp Hiroshima mới thắng được dân tộc ấy.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top