ngan trang
New member
- Xu
- 159
Tình thế rất nghiêm trọng. Chưa bao giờ kể từ các trận đánh hỗn loạn tại Guadalcanal, hạm đội Mỹ lại bị những tổn thất đến thế. Oldendorf lại càng lo lắng hơn khi mà hai lực lượng chuyển vận thuỷ bộ, các mẫu hạm hộ tống và chiếc tuần dương hạm Boise chở Mac Arthur và ban tham mưu của ông đã nhổ neo lên đường. Nhưng bóng đêm đổ xuống mà không có báo động mới nào và khi nhận được các báo cáo yên tâm do các hạm trưởng các chiến hạm bị hư hại gửi ông quyết đến, định chờ đến sáng để xem có nên từ bỏ cuộc hành quân hay không.
Ngày 8 tháng giêng năm 1945 ít sôi động hơn. Vài tàu rà mìn bị đánh trúng và tự nhiên là bị tan nát bay tung từng mảnh, và tuần dương hạm Australia, rõ rệt là gặp rủi ro, lần lượt tiếp nhận chiếc phi cơ Kamikaze thứ ba rồi thứ tư. Nhưng chiếc chiến hạm mạnh mẽ của Úc sống thật dai, và khi đã thoát khỏi nguy hiểm, viên hạm trưởng chắc sẽ không ít kiêu hãnh vì kỷ lục lạ lùng này.
Trong thời gian đó, lực lượng xâm chiếm chạy dọc theo bờ biển tây Lujon, tiến đều mà không hề bị một cuộc tấn công nào cả, bởi vì Onishi được biết tin có một Lực lượng đặc nhiệm gồm nhiều mẫu hạm đang bọc vòng phía bắc Phi Luật Tân, nên đã để dành phi cơ Kamikaze cho con mồi quan trọng ấy. Thật vậy, Đô đốc Halsey đã quyết định che chở cho cuộc đổ bộ của Mac Arthur bằng cách oanh tạc tất cả các phi trường tại Đài Loan và dọc theo bờ biển Nam Hải.
Trước khi đến cùng biển Lingayen hai lực lượng chuyển vận thủy bộ của Đô đốc Kinkaid với các mẫu hạm hộ tống và các tuần dương hạm che chở cho chúng cũng bị một vài Kamikaze tấn công. Mẫu hạm Kinkum Bay và tuần dương hạm Boise chở Mac Arthur và bộ tham mưu của ông đều bị tấn công nhưng không bị chìm.
Ngày 9 tháng giêng khi cuộc đổ bộ bắt đầu, tuần dương hạm Columbia bị chiếc Kamikaze thứ hai, nó thoát ra được mà không bị thiệt hại gì nhiều nhưng đã thêm 92 người tử trận vào một danh sách đã quá dài. Dầu cho hung tàn và gây mệt lử đến mấy, các mũi chích của bầy ong vò vẽ ấy cũng không thể nào làm chậm được nhịp đổ bộ lý do là vì cuộc chống cự trên bãi biển quá yếu. Mặc dầu có sự can thiệp quá chậm của nhiều khinh tốc đỉnh chứa đầy chất nổ bắt chước kiểu tàu M.A.S. của Ý, ban đêm lao vào các chiến hạm đổ quân, nhưng các hải vận hạm chở quân và chiến cụ đã có thể chuyển lên bờ tất cả binh sĩ và vật liệu rồi nhổ neo trước khi bình minh ngày 10 tháng giêng ló dạng. Mẫu hạm hộ tống Salamaua suýt bị một Kamikaze đánh chìm, đã kết thúc vận đen của những ngày khủng khiếp ấy.
Trong khoảng thời gian đó, Onishi sử dụng tất cả phi cơ có trong tay để tấn công Lực lượng đặc nhiệm của Halsey và gây cho ông ta những tổn thất nặng nề: 201 phi cơ, 167 phi công, hai mẫu hạm bị hư-chiếc Langley và chiếc Tincoderoga-và một khu trục hạm biến thành cái xác tàu. Nhưng vì tất cả tài nguyên đã cạn, ông quyết định gửi đến Đài Loan, đặt dưới quyền của Fukudomé, 47 phi cơ tốt nhất còn lại. Chính ông, ở lại tại chỗ với 10 phi cơ cũ kỹ chỉ có thể cất cánh được với chừng 30 phi công không thể nào di tản được. Cũng như hạm trưởng một chiến hạm không muốn bỏ tàu, Onishi nghĩ rằng bổn phận của ông là ở lại với những người “hèn mọn” tại các phi trường thuộc Phi Luật Tân, những người trong hơn ba tháng liền đã đảm trách một công việc làm bạc bẽo, việc làm của các cơ khí viên đằng sau bối cảnh của thiên anh hùng ca Kamikaze. Sau khi thiết lập ban chỉ huy trong núi, với một nhiệt tâm bất khuất, ông điều động tổ chức cuộc bố phòng theo chiều sâu tại phi trường Clark với nhân viên của không lực thuộc hải quân được vũ trang bằng đại liên, súng cá nhân và lựu đạn.
Khi công việc đang tiến hành tốt đẹp thì ông nhận được một công điện của Đô đốc Salomon nay là tư lệnh hải quân tại Manille, báo tin là ông phải cấp tốc trở về Nhật do lệnh của Tổng hành dinh Thiên hoàng. Phản ứng đầu tiên của Onishi là từ chối thi hành mệnh lệnh này. Phải có sự khẩn nài tha thiết của viên tham mưu trưởng của ông, đại tá Inoguchi, ông mới bằng lòng rời thuộc viên của mình. Kondo không để cho ông phải đòi hỏi giải thích nguyên nhân: “Tổng hành dinh Thiên hoàng đã chỉ định ông làm tư lệnh tất cả những gì còn lại của không lực thuộc hải quân tại Nhật Bản. Fukudomé sẽ gửi cho ông một phi cơ từ Đài Loan. Ông sẽ đi ngay khi phi cơ đáp xuống Clark.
Onishi nhượng bộ Kondo nói tiếp: “Inoguchi phải tập họp các phi công ưu tú nhất và các cơ khí viên còn sống sót của Đệ I không lực. Nhiều phi cơ khác cũng sẽ đến kiếm họ”.
Vài giờ sau, Onishi và Inoguchi vẫy chào tất cả thuộc viên giữa các pháo đài và hang động mà họ vừa thiết lập. Sự thử thách còn đau đớn hơn nữa vì sự ra đi của những người được tuyển lựa này có thể tạo cho người ở lại một cảm nghĩ đào nhiệm. Hôm sau Onishi rời phi trường Clark. Khi đến Đài Loan, phi cơ của ông thoát khỏi một phi đoàn khu trục Mỹ trong gang tấc. Lúc Fukudomé đến đón ông tại phi trường và chúc mừng sự may mắn mà ông vừa trải qua, ông buồn bã gật đầu. Trăm lần ông thích cái chết hơn là cái thử thách đang chờ ông.
Trong khi binh sĩ của Yamashita tổ chức kháng cự trong các dãy núi xanh om, trên đảo Lujon, đệ lục lộ quân của Tướng Mac Arthur đồn trú chung quanh Lingayen với sự chậm chạp huy hoàng vẫn thường chi phối các cuộc điều động các đại đơn vị. Cuộc kháng cự từng đợt của địch không đáng kể nhưng khung cảnh thiên nhiên của chiến trường và các sự phá hoại của quân Nhật đủ làm tê liệt đà tiến của chiến xa và thiết giáp. Mac Arthur dậm chân nóng nảy. Ông được báo tin rằng gần 3.000 người Phi Luật Tân và vài trăm người Mỹ bị nhốt trong các trại giam ở Manille đang chết đói dần mòn. Thấy rằng không thể nào sửa đổi lệnh di chuyển các sư đoàn bộ binh nặng nề được, ông cho gọi từ Leyte đến sư đoàn 1 khu trục hạm binh thân yêu của ông, sư đoàn mà ông sử dụng để đánh chiếm bất thần quần đảo Amiranté. Khi Tướng Oscar Griswold, tư lệnh sư đoàn, đến Lingayen, Mac Arthur nói với ông: “Hãy thọc sâu vào Manille! Bọc vòng bọn lùn, đẩy dồn bọn lùn lại, nhưng hãy thọc sâu vào Manille và giải phóng các con tin!”.
Sư đoàn 1 đổ bộ ngày 27 tháng giêng, và không có sự yểm trợ nào ngoài hai không đoàn thuỷ quân lục chiến, nó dấn mình vào con đường lồi lõm ngay hôm sau, bắc cầu qua những con sông nước lớn, vượt qua các đầm lầy. Coi thường các khẩu đại bác từ trên đồi cao bắn xuống, băng qua ruộng lúa để bọc vòng các ngã tư đường do quân Nhật chiếm giữ, trong ba ngày sư đoàn tiến xa 80 cây số. Ngày 3 tháng 2 năm 1945 lúc 18h 30, các chiến xa nhẹ của thiếu tướng Chase tiến vào Manille sau khi đẩy dồn các tiền đồn của quân trú phòng. Thiếu tướng thọc sâu bất định vào các con đường tối om và vắng ngắt của thành phố to lớn ấy, nhờ các hướng đạo viên và các chiến sĩ trong các chiến khu thu lượm dọc đường hướng dẫn. Chiến xa vượt qua con sông Pasig chảy ngang qua Manille trên chiếc cầu duy nhất còn lại nguyên vẹn và đột nhập vào tổng hành dinh đặt tại viện đại học San Thomaco, nơi các con tin bị nhốt. Bất ngờ vì cuộc tấn công sấm sét này, quân trú phòng trong viện đại học rút lui về nhiều dãy nhà khác nhau và hoả lực của họ càn quét các con đường kế cận. Chase ra lệnh bao vây khám nhà và gửi các đại biển đến gặp viên Đại tá Nhật, mà sau cuộc thảo luận kéo dài, bằng lòng phóng thích các con tin với điều kiện để cho ông thoát ra khỏi vòng vây cùng với binh sĩ mang theo vũ khí nhẹ. Thoả hiệp này được tôn trọng triệt để và đến bình minh hôm sau, 2.700 người Phi Luật Tân, 300 người Mỹ xanh xao ốm yếu và gần chết đói bước ra khỏi nhà giam, nơi họ bị nhốt suốt trong ba năm chết chóc.
Cuộc ngưng bắn này chỉ là tạm thời. Trước khi bộ binh của đệ lục lộ quân đến, 20.000 quân Nhật có mặt trong thành phố Manille đã có thì giờ đào hào đắp luỹ. Nhiều trận đánh trên đường phố cũng khốc liệt như tại Stalingrad diễn ra trong hai tuần ngay giữa các đống đổ nát, giữa nhiều bức tường đổ sụp lẫn lộn với thép gai và trong một mùi hôi thối không chịu nổi của các xác chết bị ánh mặt trời nhiệt đới hấp nóng. Ngày 3 tháng 3 năm 1945, khi pháo đài cuối cùng của Nhật bị triệt hạ bằng lựu đạn và súng phun lửa, thành phố chỉ còn là một đống gạch vụn ngổn ngang. Khách sạn Manille Hotel là một trong các cao ốc còn đứng vững và Mac Arthur còn có thể leo lên để thăm lại căn nhà xa hoa trong cảnh điêu tàn của ông. Ông tìm thấy lại ở đây chiếc đàn dương cầm vỡ nát, vài cuốn sách và các tài liệu bị cháy đến ba phần tư nằm sóng sượt trên những mảnh vụn của thư viện riêng. Người ta đã đánh nhau tại đó mấy hôm trước, từ tầng lầu này đến tầng lầu khác.
Tại Corregidor, sau khi được giải phóng nhờ một tiểu đoàn dù, ông vui sướng thấy lại được chiếc xe hơi Rolls xưa cũ được đánh bóng loáng và còn chạy được. Ông cho thượng quốc kỳ “sao và sọc” lên cột cờ của đồn binh trong khi cả một trung đoàn hát bản quốc ca. Sau vài phút nghi lễ tiếp đón, ông quay lại phía các binh sĩ tháp tùng và nói với họ: “Tạ ơn Chúa! Này các ông, chúng ta đến nơi rồi đấy!... Đoạn đường đã quá dài!...”
Không một người nào nghe ông lại có thể tưởng tượng được rằng công cuộc giải phóng toàn thể Phi Luật Tân sẽ còn đòi hỏi thêm năm tháng chiến đấu gay go nữa.
Ngày 8 tháng giêng năm 1945 ít sôi động hơn. Vài tàu rà mìn bị đánh trúng và tự nhiên là bị tan nát bay tung từng mảnh, và tuần dương hạm Australia, rõ rệt là gặp rủi ro, lần lượt tiếp nhận chiếc phi cơ Kamikaze thứ ba rồi thứ tư. Nhưng chiếc chiến hạm mạnh mẽ của Úc sống thật dai, và khi đã thoát khỏi nguy hiểm, viên hạm trưởng chắc sẽ không ít kiêu hãnh vì kỷ lục lạ lùng này.
Trong thời gian đó, lực lượng xâm chiếm chạy dọc theo bờ biển tây Lujon, tiến đều mà không hề bị một cuộc tấn công nào cả, bởi vì Onishi được biết tin có một Lực lượng đặc nhiệm gồm nhiều mẫu hạm đang bọc vòng phía bắc Phi Luật Tân, nên đã để dành phi cơ Kamikaze cho con mồi quan trọng ấy. Thật vậy, Đô đốc Halsey đã quyết định che chở cho cuộc đổ bộ của Mac Arthur bằng cách oanh tạc tất cả các phi trường tại Đài Loan và dọc theo bờ biển Nam Hải.
Trước khi đến cùng biển Lingayen hai lực lượng chuyển vận thủy bộ của Đô đốc Kinkaid với các mẫu hạm hộ tống và các tuần dương hạm che chở cho chúng cũng bị một vài Kamikaze tấn công. Mẫu hạm Kinkum Bay và tuần dương hạm Boise chở Mac Arthur và bộ tham mưu của ông đều bị tấn công nhưng không bị chìm.
Ngày 9 tháng giêng khi cuộc đổ bộ bắt đầu, tuần dương hạm Columbia bị chiếc Kamikaze thứ hai, nó thoát ra được mà không bị thiệt hại gì nhiều nhưng đã thêm 92 người tử trận vào một danh sách đã quá dài. Dầu cho hung tàn và gây mệt lử đến mấy, các mũi chích của bầy ong vò vẽ ấy cũng không thể nào làm chậm được nhịp đổ bộ lý do là vì cuộc chống cự trên bãi biển quá yếu. Mặc dầu có sự can thiệp quá chậm của nhiều khinh tốc đỉnh chứa đầy chất nổ bắt chước kiểu tàu M.A.S. của Ý, ban đêm lao vào các chiến hạm đổ quân, nhưng các hải vận hạm chở quân và chiến cụ đã có thể chuyển lên bờ tất cả binh sĩ và vật liệu rồi nhổ neo trước khi bình minh ngày 10 tháng giêng ló dạng. Mẫu hạm hộ tống Salamaua suýt bị một Kamikaze đánh chìm, đã kết thúc vận đen của những ngày khủng khiếp ấy.
Trong khoảng thời gian đó, Onishi sử dụng tất cả phi cơ có trong tay để tấn công Lực lượng đặc nhiệm của Halsey và gây cho ông ta những tổn thất nặng nề: 201 phi cơ, 167 phi công, hai mẫu hạm bị hư-chiếc Langley và chiếc Tincoderoga-và một khu trục hạm biến thành cái xác tàu. Nhưng vì tất cả tài nguyên đã cạn, ông quyết định gửi đến Đài Loan, đặt dưới quyền của Fukudomé, 47 phi cơ tốt nhất còn lại. Chính ông, ở lại tại chỗ với 10 phi cơ cũ kỹ chỉ có thể cất cánh được với chừng 30 phi công không thể nào di tản được. Cũng như hạm trưởng một chiến hạm không muốn bỏ tàu, Onishi nghĩ rằng bổn phận của ông là ở lại với những người “hèn mọn” tại các phi trường thuộc Phi Luật Tân, những người trong hơn ba tháng liền đã đảm trách một công việc làm bạc bẽo, việc làm của các cơ khí viên đằng sau bối cảnh của thiên anh hùng ca Kamikaze. Sau khi thiết lập ban chỉ huy trong núi, với một nhiệt tâm bất khuất, ông điều động tổ chức cuộc bố phòng theo chiều sâu tại phi trường Clark với nhân viên của không lực thuộc hải quân được vũ trang bằng đại liên, súng cá nhân và lựu đạn.
Khi công việc đang tiến hành tốt đẹp thì ông nhận được một công điện của Đô đốc Salomon nay là tư lệnh hải quân tại Manille, báo tin là ông phải cấp tốc trở về Nhật do lệnh của Tổng hành dinh Thiên hoàng. Phản ứng đầu tiên của Onishi là từ chối thi hành mệnh lệnh này. Phải có sự khẩn nài tha thiết của viên tham mưu trưởng của ông, đại tá Inoguchi, ông mới bằng lòng rời thuộc viên của mình. Kondo không để cho ông phải đòi hỏi giải thích nguyên nhân: “Tổng hành dinh Thiên hoàng đã chỉ định ông làm tư lệnh tất cả những gì còn lại của không lực thuộc hải quân tại Nhật Bản. Fukudomé sẽ gửi cho ông một phi cơ từ Đài Loan. Ông sẽ đi ngay khi phi cơ đáp xuống Clark.
Onishi nhượng bộ Kondo nói tiếp: “Inoguchi phải tập họp các phi công ưu tú nhất và các cơ khí viên còn sống sót của Đệ I không lực. Nhiều phi cơ khác cũng sẽ đến kiếm họ”.
Vài giờ sau, Onishi và Inoguchi vẫy chào tất cả thuộc viên giữa các pháo đài và hang động mà họ vừa thiết lập. Sự thử thách còn đau đớn hơn nữa vì sự ra đi của những người được tuyển lựa này có thể tạo cho người ở lại một cảm nghĩ đào nhiệm. Hôm sau Onishi rời phi trường Clark. Khi đến Đài Loan, phi cơ của ông thoát khỏi một phi đoàn khu trục Mỹ trong gang tấc. Lúc Fukudomé đến đón ông tại phi trường và chúc mừng sự may mắn mà ông vừa trải qua, ông buồn bã gật đầu. Trăm lần ông thích cái chết hơn là cái thử thách đang chờ ông.
Trong khi binh sĩ của Yamashita tổ chức kháng cự trong các dãy núi xanh om, trên đảo Lujon, đệ lục lộ quân của Tướng Mac Arthur đồn trú chung quanh Lingayen với sự chậm chạp huy hoàng vẫn thường chi phối các cuộc điều động các đại đơn vị. Cuộc kháng cự từng đợt của địch không đáng kể nhưng khung cảnh thiên nhiên của chiến trường và các sự phá hoại của quân Nhật đủ làm tê liệt đà tiến của chiến xa và thiết giáp. Mac Arthur dậm chân nóng nảy. Ông được báo tin rằng gần 3.000 người Phi Luật Tân và vài trăm người Mỹ bị nhốt trong các trại giam ở Manille đang chết đói dần mòn. Thấy rằng không thể nào sửa đổi lệnh di chuyển các sư đoàn bộ binh nặng nề được, ông cho gọi từ Leyte đến sư đoàn 1 khu trục hạm binh thân yêu của ông, sư đoàn mà ông sử dụng để đánh chiếm bất thần quần đảo Amiranté. Khi Tướng Oscar Griswold, tư lệnh sư đoàn, đến Lingayen, Mac Arthur nói với ông: “Hãy thọc sâu vào Manille! Bọc vòng bọn lùn, đẩy dồn bọn lùn lại, nhưng hãy thọc sâu vào Manille và giải phóng các con tin!”.
Sư đoàn 1 đổ bộ ngày 27 tháng giêng, và không có sự yểm trợ nào ngoài hai không đoàn thuỷ quân lục chiến, nó dấn mình vào con đường lồi lõm ngay hôm sau, bắc cầu qua những con sông nước lớn, vượt qua các đầm lầy. Coi thường các khẩu đại bác từ trên đồi cao bắn xuống, băng qua ruộng lúa để bọc vòng các ngã tư đường do quân Nhật chiếm giữ, trong ba ngày sư đoàn tiến xa 80 cây số. Ngày 3 tháng 2 năm 1945 lúc 18h 30, các chiến xa nhẹ của thiếu tướng Chase tiến vào Manille sau khi đẩy dồn các tiền đồn của quân trú phòng. Thiếu tướng thọc sâu bất định vào các con đường tối om và vắng ngắt của thành phố to lớn ấy, nhờ các hướng đạo viên và các chiến sĩ trong các chiến khu thu lượm dọc đường hướng dẫn. Chiến xa vượt qua con sông Pasig chảy ngang qua Manille trên chiếc cầu duy nhất còn lại nguyên vẹn và đột nhập vào tổng hành dinh đặt tại viện đại học San Thomaco, nơi các con tin bị nhốt. Bất ngờ vì cuộc tấn công sấm sét này, quân trú phòng trong viện đại học rút lui về nhiều dãy nhà khác nhau và hoả lực của họ càn quét các con đường kế cận. Chase ra lệnh bao vây khám nhà và gửi các đại biển đến gặp viên Đại tá Nhật, mà sau cuộc thảo luận kéo dài, bằng lòng phóng thích các con tin với điều kiện để cho ông thoát ra khỏi vòng vây cùng với binh sĩ mang theo vũ khí nhẹ. Thoả hiệp này được tôn trọng triệt để và đến bình minh hôm sau, 2.700 người Phi Luật Tân, 300 người Mỹ xanh xao ốm yếu và gần chết đói bước ra khỏi nhà giam, nơi họ bị nhốt suốt trong ba năm chết chóc.
Cuộc ngưng bắn này chỉ là tạm thời. Trước khi bộ binh của đệ lục lộ quân đến, 20.000 quân Nhật có mặt trong thành phố Manille đã có thì giờ đào hào đắp luỹ. Nhiều trận đánh trên đường phố cũng khốc liệt như tại Stalingrad diễn ra trong hai tuần ngay giữa các đống đổ nát, giữa nhiều bức tường đổ sụp lẫn lộn với thép gai và trong một mùi hôi thối không chịu nổi của các xác chết bị ánh mặt trời nhiệt đới hấp nóng. Ngày 3 tháng 3 năm 1945, khi pháo đài cuối cùng của Nhật bị triệt hạ bằng lựu đạn và súng phun lửa, thành phố chỉ còn là một đống gạch vụn ngổn ngang. Khách sạn Manille Hotel là một trong các cao ốc còn đứng vững và Mac Arthur còn có thể leo lên để thăm lại căn nhà xa hoa trong cảnh điêu tàn của ông. Ông tìm thấy lại ở đây chiếc đàn dương cầm vỡ nát, vài cuốn sách và các tài liệu bị cháy đến ba phần tư nằm sóng sượt trên những mảnh vụn của thư viện riêng. Người ta đã đánh nhau tại đó mấy hôm trước, từ tầng lầu này đến tầng lầu khác.
Tại Corregidor, sau khi được giải phóng nhờ một tiểu đoàn dù, ông vui sướng thấy lại được chiếc xe hơi Rolls xưa cũ được đánh bóng loáng và còn chạy được. Ông cho thượng quốc kỳ “sao và sọc” lên cột cờ của đồn binh trong khi cả một trung đoàn hát bản quốc ca. Sau vài phút nghi lễ tiếp đón, ông quay lại phía các binh sĩ tháp tùng và nói với họ: “Tạ ơn Chúa! Này các ông, chúng ta đến nơi rồi đấy!... Đoạn đường đã quá dài!...”
Không một người nào nghe ông lại có thể tưởng tượng được rằng công cuộc giải phóng toàn thể Phi Luật Tân sẽ còn đòi hỏi thêm năm tháng chiến đấu gay go nữa.