ngan trang
New member
- Xu
- 159
Anh hùng ca của thuỷ quân lục chiến
Các tin tức đáng lo ngại từ Melbourne chuyển đến cho Ghormley đã xuất phát từ một nguồn cung cấp vừa bất ngờ vừa phi chính thống, nguồn tin mà cho đến lúc ấy quân Mỹ chấp nhận với rất ít tin tưởng.
Các nhà chức trách của Liên hiệp Anh và chính phủ Úc đã mô phỏng theo kiểu cơ quan tình báo Anh, tổ chức một màng lưới nhân viên tình báo gọi là “coast watchers” (trinh sát viên duyên hải) trên các đảo thuộc quyền tại phía nam Thái Bình Dương. Các nhân viên này được tuyển mộ hoặc trong số công chức của cơ quan hành chính, hoặc trong số các chủ đồn điền sống trên các đảo từ lâu. Phần đông đấy là những người bạo gan, biết rất rõ rừng sâu và rất quen thuộc với phong tục tập quán của dân bản xứ mà họ có thể giao tiếp bằng thổ ngữ. Họ đã được huấn luyện từ thời bình về các sứ mạng tình báo và mỗi người có một máy phát tin xách tay giúp họ có thể liên lạc được với Melbourne. Khi quân Nhật đến chiếm đảo, họ rút lui vào rừng với các hướng đạo viên bản xứ. Trên các đảo như Tân Bretagne, họ vẫn ẩn trốn trong rừng nhờ sự thông đồng của dân bản xứ. Tại Bongainville, viên chức Read rút lên phía bắc đảo, trong khi phía nam, chủ đồn điền Paul Mason, một người nhỏ thó chừng 40 tuổi mà dưới một vẻ bề ngoài hiền lành nhu nhược, ẩn giấu cả một ý chí và một tinh thần táo bạo khó tin, thì canh chừng các eo biển cho đến đảo Shortland. Cả hai người này sẽ vẫn giữ vững cứ điểm của mình cho đến khi lãnh thổ họ được giải phóng, bất chấp các thử thách tàn bạo, mà không hề được tưởng thưởng, được thăng cấp gì cả, và trong gần một năm trời đã liên tục cung cấp nhiều tin tức vô giá.
Tại Tân Georgie, chính viên chức hành chính Tân Tây Lan, tên Đonal Kennedy phụ trách việc canh chừng địch. Sau vô số nghịch cảnh phải chịu đựng, ông đến ở trên bán đảo Ségi nằm về phía cực nam của đảo, tại đó ông sống trong một ngôi nhà xa hoa theo kiểu một nhân vật của Jack London. Không những chỉ thông báo cho Henderson Field các phi đoàn và hải lực địch đi qua, ông còn thu lượm các phi công bị bắn hạ và cùng với các cảm tử quân bản xứ luôn luôn làm cho các toán quân Nhật đi lùng kiếm phải chịu thất bại.
Vào cuối tháng 8, được ông báo cho biết rằng hải quân Nhật đang thể hiện một mức hoạt động không ngừng gia tăng giữa Rabaul và Shortland, Ghormley ra lệnh cho Fletcher nhổ neo với các mẫu hạm Enterprise và Saratoga được hộ tống bởi một thiết giáp hạm (đây là chiếc North Carolina vừa mới được tách khỏi hạm đội Đại Tây Dương để đến tăng cường cho hạm đội của Ghormley), bốn thiết dương hạm và mười khu trục hạm.
Về phía Nhật, Yamamoto phái Nagumo với các mẫu hạm Shokaku, Zuikaku và tiểu hạm Ryujo đến phía đông quần đảo Salomon để che chở tầm xa cuộc đổ bộ quân của tướng Kawaguchi.
Hai lực lượng hải quân Nhật, Mỹ gặp nhau ngày 24 tháng 8 trong các điều kiện gần tương tự với trường hợp xảy ra trong biển Corail. Các phi đoàn Mỹ bay đến chiếc tiểu mẫu hạm Tyujo đi đầu, trong khi đó phi cơ của chiếc Zuikaku tấn công chiếc Enterprise và chiếc thiết giáp hạm North Carolina. Nhiều trận không chiến cực kỳ dữ dội đã nối tiếp nhau không ngừng suốt buổi sáng mà không quyết định được kết quả cuộc chiến. Chiếc Enterprise bị trúng ba quả bom, tay lái bị hư Riêng chiếc Ryujo thì bị chìm ngay đợt tấn công đầu tiên.
Vào quá trưa, bầu trời phủ đầy mây và hai bên đối thủ tách rời nhau ra. Đến tối Fletcher quyết định dứt chiến và đưa chiến hạm của ông trở về Espiritu Santo.
Cuộc đụng độ không có kết quả rõ rệt này một lần nữa lại được hai bên coi là chiến thắng của mình. Có lẽ đó là một chiến thắng của Mỹ thật nếu như chiếc Saratoga lại không bị trúng thuỷ lôi của một tàu ngầm Nhật khiến bị hư hại nặng trên đường về. Các cuộc giao đấu ấy gia dĩ lại không có ảnh hưởng gì đến tình hình tại Guadalcanal. Chúng không ngăn cản được lữ đoàn bộ binh của Kawaguchi đổ bộ trong đêm tối về phía đông nhờ các khu trục hạm đi đi lại lại.
Lần này Vandegrift bị đe doạ bởi một lực lượng quan trọng khác hẳn với đoàn quân của Ichiki: hơn bảy ngàn người nay đã có mặt trên đảo và đang chuẩn bị một cuộc xung phong mới.
Trong thời gian hai tuần lễ tiếp theo, hai bên đối thủ phân phối lực lượng, dự liệu cho cuộc chiến đấu. Vandegrift nhận thêm được hai trung đoàn tăng viện của sư đoàn 2 thuỷ quân lục chiến đang được thành lập và Kawaguchi tiếp đón các binh sĩ tiên phong của công binh và đã cực nhọc vạch được một con đường mòn khá rộng trong rừng rậm giúp bọc vòng chu vi phòng thủ của Mỹ về phía nam và nối tiếp được với các thuỷ quân lục chiến Nhật đang đóng tại phía tây sông Lunga từ đầu cuộc chiến.
Các tin tức đáng lo ngại từ Melbourne chuyển đến cho Ghormley đã xuất phát từ một nguồn cung cấp vừa bất ngờ vừa phi chính thống, nguồn tin mà cho đến lúc ấy quân Mỹ chấp nhận với rất ít tin tưởng.
Các nhà chức trách của Liên hiệp Anh và chính phủ Úc đã mô phỏng theo kiểu cơ quan tình báo Anh, tổ chức một màng lưới nhân viên tình báo gọi là “coast watchers” (trinh sát viên duyên hải) trên các đảo thuộc quyền tại phía nam Thái Bình Dương. Các nhân viên này được tuyển mộ hoặc trong số công chức của cơ quan hành chính, hoặc trong số các chủ đồn điền sống trên các đảo từ lâu. Phần đông đấy là những người bạo gan, biết rất rõ rừng sâu và rất quen thuộc với phong tục tập quán của dân bản xứ mà họ có thể giao tiếp bằng thổ ngữ. Họ đã được huấn luyện từ thời bình về các sứ mạng tình báo và mỗi người có một máy phát tin xách tay giúp họ có thể liên lạc được với Melbourne. Khi quân Nhật đến chiếm đảo, họ rút lui vào rừng với các hướng đạo viên bản xứ. Trên các đảo như Tân Bretagne, họ vẫn ẩn trốn trong rừng nhờ sự thông đồng của dân bản xứ. Tại Bongainville, viên chức Read rút lên phía bắc đảo, trong khi phía nam, chủ đồn điền Paul Mason, một người nhỏ thó chừng 40 tuổi mà dưới một vẻ bề ngoài hiền lành nhu nhược, ẩn giấu cả một ý chí và một tinh thần táo bạo khó tin, thì canh chừng các eo biển cho đến đảo Shortland. Cả hai người này sẽ vẫn giữ vững cứ điểm của mình cho đến khi lãnh thổ họ được giải phóng, bất chấp các thử thách tàn bạo, mà không hề được tưởng thưởng, được thăng cấp gì cả, và trong gần một năm trời đã liên tục cung cấp nhiều tin tức vô giá.
Tại Tân Georgie, chính viên chức hành chính Tân Tây Lan, tên Đonal Kennedy phụ trách việc canh chừng địch. Sau vô số nghịch cảnh phải chịu đựng, ông đến ở trên bán đảo Ségi nằm về phía cực nam của đảo, tại đó ông sống trong một ngôi nhà xa hoa theo kiểu một nhân vật của Jack London. Không những chỉ thông báo cho Henderson Field các phi đoàn và hải lực địch đi qua, ông còn thu lượm các phi công bị bắn hạ và cùng với các cảm tử quân bản xứ luôn luôn làm cho các toán quân Nhật đi lùng kiếm phải chịu thất bại.
Vào cuối tháng 8, được ông báo cho biết rằng hải quân Nhật đang thể hiện một mức hoạt động không ngừng gia tăng giữa Rabaul và Shortland, Ghormley ra lệnh cho Fletcher nhổ neo với các mẫu hạm Enterprise và Saratoga được hộ tống bởi một thiết giáp hạm (đây là chiếc North Carolina vừa mới được tách khỏi hạm đội Đại Tây Dương để đến tăng cường cho hạm đội của Ghormley), bốn thiết dương hạm và mười khu trục hạm.
Về phía Nhật, Yamamoto phái Nagumo với các mẫu hạm Shokaku, Zuikaku và tiểu hạm Ryujo đến phía đông quần đảo Salomon để che chở tầm xa cuộc đổ bộ quân của tướng Kawaguchi.
Hai lực lượng hải quân Nhật, Mỹ gặp nhau ngày 24 tháng 8 trong các điều kiện gần tương tự với trường hợp xảy ra trong biển Corail. Các phi đoàn Mỹ bay đến chiếc tiểu mẫu hạm Tyujo đi đầu, trong khi đó phi cơ của chiếc Zuikaku tấn công chiếc Enterprise và chiếc thiết giáp hạm North Carolina. Nhiều trận không chiến cực kỳ dữ dội đã nối tiếp nhau không ngừng suốt buổi sáng mà không quyết định được kết quả cuộc chiến. Chiếc Enterprise bị trúng ba quả bom, tay lái bị hư Riêng chiếc Ryujo thì bị chìm ngay đợt tấn công đầu tiên.
Vào quá trưa, bầu trời phủ đầy mây và hai bên đối thủ tách rời nhau ra. Đến tối Fletcher quyết định dứt chiến và đưa chiến hạm của ông trở về Espiritu Santo.
Cuộc đụng độ không có kết quả rõ rệt này một lần nữa lại được hai bên coi là chiến thắng của mình. Có lẽ đó là một chiến thắng của Mỹ thật nếu như chiếc Saratoga lại không bị trúng thuỷ lôi của một tàu ngầm Nhật khiến bị hư hại nặng trên đường về. Các cuộc giao đấu ấy gia dĩ lại không có ảnh hưởng gì đến tình hình tại Guadalcanal. Chúng không ngăn cản được lữ đoàn bộ binh của Kawaguchi đổ bộ trong đêm tối về phía đông nhờ các khu trục hạm đi đi lại lại.
Lần này Vandegrift bị đe doạ bởi một lực lượng quan trọng khác hẳn với đoàn quân của Ichiki: hơn bảy ngàn người nay đã có mặt trên đảo và đang chuẩn bị một cuộc xung phong mới.
Trong thời gian hai tuần lễ tiếp theo, hai bên đối thủ phân phối lực lượng, dự liệu cho cuộc chiến đấu. Vandegrift nhận thêm được hai trung đoàn tăng viện của sư đoàn 2 thuỷ quân lục chiến đang được thành lập và Kawaguchi tiếp đón các binh sĩ tiên phong của công binh và đã cực nhọc vạch được một con đường mòn khá rộng trong rừng rậm giúp bọc vòng chu vi phòng thủ của Mỹ về phía nam và nối tiếp được với các thuỷ quân lục chiến Nhật đang đóng tại phía tây sông Lunga từ đầu cuộc chiến.