Sấm sét trên Thái Bình Dương

Ổn định và lật ngược thế cờ

Chu vi Đại Đông Á

Trong khi tại Đông Nam Á các trận đánh diễn ra như chúng ta vừa thuật lại, Hải quân Nhật đã bí mật nới rộng cuộc chinh phục đến các quần đảo nhỏ tại trung bộ Thái Bình Dương. Một số quần đảo đó như Mariannes, Carolines và Marshall, đã từng thuộc về họ trong trận đại chiến trước. Các quần đảo khác được đặt thuộc quyền uỷ trị của Mỹ, Úc hay Anh. Ngoài các đảo Wake và Guam được dùng làm trạm tiếp nối của Mỹ giữa Hạ Uy Di và Phi Luật Tân, không một quần đảo nào được đặt trong tình trạng phòng vệ, đến nỗi công việc chiếm hữu chúng trông giống như một cuộc đi dạo của lực lượng quân sự.


Trong vùng Tây Nam Thái Bình Dương, cuộc tiến quân của Nhật cũng dễ dàng như thế. Sau khi chiếm đóng các đảo lớn Halmahera và Céram ở phía nam Phi Luật Tân, các bộ phận hải quân đến đóng tại Blak và trong vài hải cảng khác nằm trên bờ biển phía bắc của Tân Guinée.


Tân Guinée là một hòn đảo rộng mênh mông, chỉ mình nó đã rộng gấp đôi quần đảo Nhật Bản, có hình dáng giống như một con khủng long bự và hơi gù lưng mà chiếc xương sống là một dãy núi dài 2.500 cây số bao phủ bởi một thứ rừng già rậm rạp nhất thế giới. Năm 1942 ngoài việc không thám sát dãy núi này, người Nhật cũng không tính chuyện vượt qua vì chẳng lợi ích gì, vì chính chiếc bụng của con khủng long cũng là một sa mạc rộng lớn. Phần duy nhất đáng chú ý của đảo là phần đuôi kéo dài của con khủng long vốn cũng bị dãy trường sơn chia đôi, nhưng tại hai viền Nam và Bắc lại có một loạt hải cảng tuyệt vời phía sau lan tràn một khu vực đầy tài nguyên khoáng sản và canh nông. Chính khúc đuôi giống như đoạn ruột thừa này đã được Tổng hành dinh Thiên hoàng lựa chọn. Vì không thể đến đó theo ngõ phía Nam do sự chật hẹp và các mối nguy hiểm của eo biển Torrès nằm giữa bụng con khủng long tại mũi York với mũi đất xa nhất của Úc châu, quân Nhật xâm chiếm theo ngõ phía Bắc. Các đoàn quân khởi hành từ đại căn cứ hải quân Truck, tháng 1 năm 1942 đã đổ bộ lên Nouvelle-Bretagne và Nouvelle-Irlande và đặt căn cứ vững chắc trong các hải cảng Rabaul và Kavieng. Chỉ cần bước một bước là có thể chiếm các hải cảng Lae và Salamaua tại Tân Guinée; cuộc hành quân này đã được thực hiện gần như chẳng phải đánh nhau gì cả, các đội quân trú phòng của Úc được lệnh rút lui dọc theo bờ biển cho đến tận Port-Moresby, hải cảng chính của bờ phía Nam.


Giờ đây cái quạt khổng lồ đã trải ra từ Miến Điện cho đến quần đảo Kouriles. Nhờ chiếm hữu được hàng rào Mã Lai, bờ biển phía Bắc của Tân Guinée, Tân Bretagne và Tân Irlande, các quần đảo Gillbert và Marshall, Nhật Bản được đảm bảo bằng một chuỗi gần như liên tục các điểm tựa, cụ thể hoá vòng đai “chu vi Đại Đông Á” trên một đường bán kính trung bình 3.500 cây số chung quanh Đông Kinh. Bên trong chu vi này, Nhật Bản hoàn toàn rảnh tay khai thác các giếng dầu hoả, mỏ khoáng sản, đồn điền cao su, ruộng lúa, tóm tắt, tất cả nguyên liệu mà Nhật Bản thiếu.


Cái giá phải trả cho những tài nguyên giàu có này thấp đến mức khó tin: Hải quân Nhật chỉ mất có năm phóng ngư lôi hạm, tám tàu ngầm và 50.000 tấn thương thuyền; Lục quân gần như đã bước ra khỏi cuộc phiêu lưu mà không bị sứt mẻ gì: 10.000 chết và 4.000 bị thương. Riêng phần thành tích chiến đấu của Hải quân, Lục quân và nhất là Không quân Nhật thì thật đáng sợ. Chín thiết giáp hạm, bảy tuần dương hạm, một hàng không mẫu hạm nhẹ (chiếc HMS Hermes bị tiêu diệt trên Ấn Độ Dương do phi cơ của Nagumo sau một cuộc đột kích tại Chlombo), vô số các chiến hạm nhỏ đủ loại, 200.000 tấn thương thuyền mà phần đông hàng hoá đều được thu hồi nguyên vẹn và đem ra sử dụng lại, không nói đến chừng 300.000 tù binh vừa quân sự vừa dân sự phải làm việc để xây dựng lại các đổ nát và tái lập sự khai thác canh nông và kỹ nghệ.


Chính tai biến khổng lồ này đã đưa toà Bạch Ốc đến chỗ phải sửa đổi lại các kế hoạch. Quyết định “Germany first” đã đặt chiến trường Thái Bình Dương vào tình trạng lu mờ như ngọn đèn đêm, nhưng ngọn đèn đêm này hoàn toàn sắp tàn lụn. Hải quân Mỹ chỉ có tổng cộng, trên Thái Bình Dương, ba hàng không mẫu hạm nhờ phép lạ thoát khỏi cuộc oanh tạc tại Trân Châu Cảng và chừng mười tuần dương hạm. Chúng đã cố sức hoạt động đáng ca ngợi bằng cách thực hiện các cuộc đột kích bên ngoài vòng đai chu vi Đại Đông Á, nhưng vô ích, đấy chỉ là vết muỗi đốt trên da voi. Gia dĩ một trong các hàng không mẫu hạm ấy, chiếc Saratoga, lại rủi ro gặp một tàu ngầm Nhật và bị nó tặng một thuỷ lôi khiến phải chạy về nằm ụ tại San Francisco nhiều tháng trời. Như vậy là chỉ còn lại hai mẫu hạm-chiếc Lexington và chiếc Enterprise-để ngăn chặn hạm đội Nhật nếu nó muốn tái diễn cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng hay nới rộng vòng vây phía Nam để bao vây luôn Úc châu (Trong số ba mẫu hạm của hạm đội Thái Bình Dương, hai chiếc, Saratoga và Lexington được đóng năm 1927. Chúng được đóng bằng thân của các tuần dương hạm sau khi thay đổi cách sắp đặt bên trong nhiều lần để thích nghi với vai trò mới. Đấy là các chiến hạm chạy nhanh (33 gút) và cũng như các tuần dương hạm được võ trang 8 khẩu 203 ly, nhưng các cơ cấu dành cho phi cơ-đặc biệt là hầm chứa xăng-thì lại tương ứng với quan niệm của một kỷ nguyên khác. Song le, vì chúng di chuyển gần cả 40.000 tấn, lại có một phi đạo 280 thươớ, chừng 80 phi cơ chở trên mỗi chiếc có thể hoạt động dễ dàng. Trái với các lợi điểm đó, thành tàu quá cao và ống khói khổng lồ của chúng tạo thành một mục tiêu dễ bị trông thấy từ đằng xa. Chiếc hàng không mẫu hạm thứ ba, chiếc Enterprise đóng năm 1938, và các nhà chế tạo đã biết lợi dụng kinh nghiệm thu thập được với các chiếc trước. Nó chỉ chở được 20.000 tấn, nhưng vì nó chỉ được trang bị súng phòng không, nó có thể chuyên chở cùng một số lượng phi cơ như hai chiếc trên. Hơn thế nữa nó còn có ưu điểm trội hơn là rất dễ vận dụng và các cơ cấu kiến trúc liên quan đến phi cơ đều toàn hảo). Đấy chính là các đe doạ có mức độ trầm trọng đối với Hoa Kỳ đến nỗi chính sách diên trì không thể nào tiếp tục được nữa. Vả chăng công luận đã bắt đầu xì xầm và báo chí thì đặt tít lớn: “Hạm đội trở thành cái quái gì rồi?” Sau khi một tàu ngầm Nhật táo tợn đến nỗi dám đến oanh tạc ban đêm vào các giếng dầu tại Texas, nội vụ sắp đến chỗ bùng nổ.
 
Kể từ khi có vụ bãi chức các con vật tế thần, Bộ Tư lệnh tối cao Hải quân được cải tổ hoàn toàn. Đô đốc King, trở thành tư lệnh hạm đội thế chỗ Đô đốc Stark, là một người có khí phách khác hẳn. Ông không bao giờ chấp nhận chịu đựng gian không than vãn các quyết định không ăn khớp. Nhờ vừa nắm quyền tư lệnh hạm đội Đại Tây Dương, ông có cơ hội thuận tiện để trình bày với Tổng thống về ưu tiên của cả hai chiến trường. Ông xung đột rất nặng với Bộ trưởng Hải quân Anh, Sir Dudley Pound vì theo như lời lên án của ông, thì đã không chịu tôn trọng lời cam kết tại Đông Nam Á và quá “ỷ lại” vào Hải quân Mỹ để hộ tống các đoàn công voa Anh. Vì lối ăn nói thẳng thừng như thế cho nên các cuộc can thiệp của ông tại Bộ tham mưu hỗn hợp liên quân thường được đánh dấu bằng các vụ la lối ầm ỹ.


Người thay thế Kimmel đứng đầu hạm đội Thái Bình Dương, Đô đốc Nimitz, lại là một con người khác hẳn. Chính ông cũng là một cấp chỉ huy đầy nhiệt tâm, nhưng cách hành động thì uyển chuyển hơn. Sự khéo léo và các biện pháp mà nhờ đó ông biết cách nắm một hạm đội Thái Bình Dương mất tinh thần sau vụ Trân Châu Cảng đã đảm bảo cho ông sự hậu thuẫn của tất cả các cấp thuộc quyền. Chỉ có trong tay hai mẫu hạm và mười tuần dương hạm, ông phải liên tục bổ khuyết yếu điểm. Tình trạng của ông cũng giống như một lính chữa lửa, để dập tắt đám cháy mà chỉ có một vòi phun nước bị thủng nhiều lỗ luôn luôn phải buộc đầu này thắt đầu kia. Bất kể sự tận tuỵ vô điều kiện của thuộc viên và sức chịu đựng dẻo dai lạ kỳ mà các chiến hạm của hạm đội từng chứng tỏ, tình trạng khốn khó này không thể kéo dài thêm. Nhờ sự khẩn nài của King, hàng không mẫu hạm Yorktown được gọi yừ Đại tây dương đến nhập vào hạm đội Thái Bình Dương. Sự tăng viện này giúp Nimitz thành lập ba “lực lượng đặc nhiệm”, mỗi lực lượng tiếp hợp chung quanh một hàng không mẫu hạm. Hệ thống tổ chức này cho thấy mềm dẻo hơn và thích nghi với tình hình dễ hơn là hệ thống hạm đội cũ. Trên nguyên tắc do một Đô đốc chỉ huy, các lực lượng đặc nhiệm này có thể gồm có một tuần dương hạm và khu trục hạm thay đổi, chúng có thể được tập trung cho một sứ mạng xác định và sao đó lại trở về tình trạn tự trị. Chính các Đô đốc cũng vậy, họ cũng có thể thay phiên nhau chỉ huy lực lượng này hay lực lượng kia. Hệ thống tổ chức do hoàn cảnh bắt buộc ấy đã mang lại những kết quả tốt đẹp đến nỗi được tổng quát hoá và kéo dài cho đến hết chiến tranh.


Vừa mới nhận được chiếc Yorktown tăng cường, Đô đốc Nimitz liền phái nó đến nhập đoàn với chiếc Lexington tại vùng biển Corail để thực hiện toan tính oanh tạc Rabaul đã từng bị thất bại. Cuộc hành quân dự liệu vào ngày 10 thaán 3 năm 1942 cũng không mang lại kết quả hơn lần trước, vì lẽ Rabaul có một tổ chức canh phòng quá chặt chẽ. Phó Đô đốc Brown chỉ huy lực lượng đặc nhiệm đã chứng kiến tinh thần hiếu chiến của các phi công khu trục Nhật, nên tính toán rằng hy sinh các phi công oanh tạc cơ của mình là điều vô ích. Do đó ông quay trở về nhưng lại lấy một quyết định rất thích nghi là đưa lực lượng đến Port-Moresby và cho oanh tạccơ cất cánh ra khởi bằng cách vượt lên trên dãy núi Owen Stanley-dãy núi chia đuôi của con khủng long ra làm hai phần Nam Bắc-để bất ngờ oanh tạc hai hải cảng Lae và Salamaua. Sự xuất hiện đột ngột của các oanh tạc cơ Mỹ trên các sườn núi đã thoát khỏi tầm khu trục cơ Nhật và các cơ sở hải cảng bị trúng vài quả bom. Những thiệt hại vật chất không đáng kể, nhưng hiệu quả tinh thần thì rất quan trọng. Nói chung thì đó là lần đầu tiên phi cơ Mỹ biểu dương sức mạnh, các giới chỉ huy Nhật thật không bao giờ lại có thể tưởng tượng đó là chính các phi cơ của các hàng không mẫu hạm mà họ đã đẩy lùi 15 ngày trước đó tại Rabaul. Họ tin là chúng từ Port-Moresby đến và do đó ước tính quá cao các phương tiện mà lực lượng trú phòng Úc và Tân Tây Lan có trong tay tại Tân Guinée.


Trong thực tế các phương tiện này chỉ là số không. Tại Port-Moresby chỉ có hai phi đạo không được sửa soạn kỹ, nên chỉ có các khu trục cơ là có thể cất cánh. Mac Arthur cũng mới đặt chân đến Úc châu cùng ngày hôm đó, chưa hề có chỉ thị, lẫn chiến hạm và binh sĩ nào để tăng viện cho đội quân trú phòng đang ngoắc ngoải gồm 7.000 người mất tinh thần và bị bệnh sốt rét quật ngã ấy. Nếu quân Nhật đẩy mạnh thêm về phía nam thêm một mũi tấn công nữa thì họ đã lấy được Port Moresby cũng như toàn thể phần còn lại rồi. Đô đốc Inoue chỉ huy hạm đội thứ 4 và không đoàn 24 không hải quân đã không tin rằng nên thực hiện sáng kiến này, do đó đã bỏ qua một cơ hội chắc sẽ không bao giờ còn đến lại nữa.


Tóm tắt, trong các huấn thị của Inoue, không có điểm nào có thể chính thức hoá một sáng kiến như thế. Tổng hành dinh Thiên hoàng rất chia rẽ nhau về một cơ hội mới nhằm bành trướng vòng đai chu vi Đại Đông Á. Lục quân thì vì đang tung ra toàn diện lực lượng tại Miến Điện hầu cắt đứt những liên lạc cuối cùng giữa Trung Hoa và Đồng minh cho nên nhất định không chịu phân tán lực lượng của mình trên một chiến trường thuần tuý thuộc Hải quân vốn là thứ yếu đối với Lục quân. Chính bản thân Yamamoto, người đã thực hiện xong tất cả các mục tiêu của kế hoạch miền Nam, cũng muốn giữ phần chủ lực của hạm đội liên hợp trong hải phận bản quốc, ngày nào mà ông còn chưa hết chuyện với các lực lượng hải quân Mỹ. Theo ý ông, điểm yếu của vòng đai chu vi nằm về phía đông và đông bắc, nơi đó, dãy quần đảo Hạ Uy Di và Aléoutiennes-vẫn luôn luôn nằm trong tay quân Mỹ-nh chĩa một mũi giáo nhọn hướng ngay vào quả tim Nhật Bản. Ngày nào chưa chiếm được đảo san hô Midway và các đảo Atu và Kiska, thì nền an ninh của quần đảo Nhật Bản còn chưa được đảm bảo. Và nếu, điều này rấy có thể xảy ra đối phương tung ra tất cả lực lượng hải quân vào trận chiến để phòng vệ các pháo đài chủ yếu này thì đây là một cơ hội rất tốt để tiêu diệt chúng nhờ ưu thế số lượng vĩ đại của hạm đội liên hợp.
 
Tình thế thật khá nghịch thường, chính Đô đốc Nagano, Tổng Tham mưu trưởng Hải quân vốn là người luôn luôn hoà dịu, lại trở thành người biện hộ cho sự bành trướng vòng đai chu vi trong vùng phía Nam Thái Bình Dương. Ông ước tính rằng phải chiếm Port-Moresby và quần đảo Salomon ngay lập tức bằng cách lợi dụng tình hình rối loạn toàn diện của Đồng minh trong khu vực này. Bằng cách khoá chặt vùng biển Corail trước Úc châu Nhật sẽ loại từ các căn cứ xuất phát cho một cuộc phản công mai hậu, và hành động này chỉ phải trả giá bằng một sự nối dài vô nghĩa lý các đường giao thông liên lạc mà thôi. Có lẽ ông ta hy vọng rằng luận cứ chót ấy sẽ làm Yamamoto hết đường biện bạc với kế hoạch tấn công vào Midway mà ông ta xét đoán là quá liều lĩnh. Thật vậy vấn đề đường giao thông liên lạc đã được đặt ra với tất cả mẫn nhuệ vì các khoảng cách quá lớn lao giữa các giếng dầu vừa chiếm được và các xưởng lọc dầu tại chính quốc. Sự huỷ diệt phần lớn các xưởng lọc dầu trên các đảo bị chinh phục khiến cho Nhật cần phải gửi dầu thô về nước và phải gửi lại các loại nhiên liệu bằng tầu dầu để tiếp tế cho lực lượng Hải quân và không quân; từ đó phát sinh cả một hệ thống giao thông vĩ dại treê một đoạn đường 6.000 hải lý (11.000 cây số), đặc biệt rất dễ bị tàu ngầm địch tấn công lại thêm vào đó phí tổn trở nên cực kỳ đắt đỏ. Một sự bành trướng mới vòng đai chu vi về hướng quần đảo Aléoutiennes và Midway sẽ gia tăng thêm một dịch vụ chuyên chở phụ tới trên một đoạn đường khứ hồi dài 4.000 hải lý mà hạm đội thương thuyền Nhật không thể nào cáng đáng nổi một cách lâu dài.


Trong khi tại Đông Kinh các cuộc thảo luận cực kỳ sôi động giữa người ủng hộ và kẻ chống đối các kế hoạch tương lai, King theo đuổi một cách có phương pháp công việc tổ chức phòng vệ những điểm tựa cuối cùng của ông trên Thái Bình Dương. Quần đảo Samoa đã nhận được một trung đoàn Thuỷ quân lục chiến (Là một đơn vị tự trị của quân đội Mỹ, có pháo binh, chiến xa và không lực riêng) và một lực lượng viễn chinh 17.000 người đã được gửi đến Tân Calédonie và được Toàn quyền Pháp Sautot, mới ngả theo phe Pháp quốc Tự do rộng tay đón tiếp. Các đảo san hô Palmyre, Canton và Christmas được sửa sang lại thành trạm tiếp nối cho các phi cơ bay ngang qua Thái Bình Dương và 4.000 kỹ thuật gia ra sức làm việc để xây cất một căn cứ tiếp liệu cho chiến hạm tại Borabora trong các quần đảo thuộc Pháp. Về phần mình, Tân Tây Lan cũng đã tăng viện cho quân trú phòng trên quần đảo Fiji và Úc cũng đã làm như thế tại Port-Moresby.


Rồi đến vấn đề định giới hạn trách nhiệm của các giới chức Hải quân và Lục quân, nghĩa là giữa Nimitz và Mac Arthur. Ý định đầu tiên của Roosevelt là giao cho Mac Arthur một thẩm quyền chỉ huy tuơng ự như cuủaavell trong cơ cấu ABDA bao trùm không phân biệt Hải hay Lục quân. Nhưng cả Marshall lẫn Nimitz không ai ưa Mac Arthur. Rõ ràng là họ sợ các phản ứng của ông và nết cứng đầu đến trở thành chuyện truyền kỳ của ông. Marshall thì sợ rằng ông không còn tâm trí mềm dẻo cần thiết để thích nghi với một quyền chỉ huy chưa từng có trong lịch sử, trong đó chiến hạm và phi cơ sẽ đóng vai trò ưu thế. Về phần King, thì không muốn nghe nói đến chuyện một Đô đốc lại thuộc quyền một tướng lĩnh bộ binh-và nhất là cái ông tướng ấy. Như vậy, họ đồng ý về nội dung, nhưng sự áp dụng xem ra cực khó. Làm sao có thể phân chia một chiến trường hoàn toàn gồm có các vùng biển mênh mông rải rác vô số đảo lớn đảo nhỏ, hay đảo san hô mà không có đặc điểm nào giúp phân biệt đảo này với đảo kia được chứ? Cuộc thảo luận kéo dây dưa đến mức Roosevelt quyết định giải quyết lấy một mình. Cố vấn Harry Hopkins của Tổng thống chủ trương rằng, nghiêng người trên một bản đồ Thái Bình Dương, ông vạch một đường viết chì theo một kinh tuyến lướt qua Phi Luật Tân và quyết định những gì xảy ra bên trái là thuộc Mac Arthur và những gì ở bên mặt thì về phần Nimitz. Phần chia cắt bất hợp lý này ít ra cũng được một điểm là đơn giản, và ai nấy đều vui vẻ nghe theo. Các huấn thị chi tiết được soạn thảo rất lâu, nhưng chúng có một đoạn mở đầu thật phân minh: “sứ mạng của ông là ngăn chặn quân địch trong các giới hạn hiện thời và sự chuẩn bị cho một cuộc phản công trong tương lai. Thật ngắn gọn, thật hay, và không ai đòi hỏi gì thêm.


Nimitz đòi hỏi ngay một Phó Đô đốc để được uỷ quyền chỉ huy tại chỗ các lực lượng đặc nhiệm đang hành quân trong khu vực Đông Nam Thái Bình Dương. King chỉ định Đô đốc Ghormeley, bản doanh của ông này được đặt tại Auckland thuộc Tân Tây Lan. Như thế, ngay trong tình thế hỗn loạn, một tổ chức chỉ huy khởi điểm đã được thành hình, cũng có giá trị như một tổ chức kia, bởi vì, sau khi được chiến trận thử thách, nó kéo dài không thay đổi cho đến cuối cùng.
 
Ba mươi giây trên Đông Kinh

Không một cuộc cải tổ ngoạn mục nào đã được thực hiện trên đây có thể vuốt ve được công luận Mỹ vốn phải ngậm đắng nuốt cay từ hơn bốn tháng qua. Người ta đã ráng sức làm cho công luận vui lòng với các câu chuyện tường thuật các cuộc không chiến 1 chống 10 diễn ra tại Trung Hoa dưới sự điều khiển của Tướng Claire Lê Chennault, người sát cánh với Tưởng Giới Thạch nắm quyền chỉ huy không lực Trung Hoa và nhóm American Volunteer Group, do ông ta đứng ra tuyển mộ từ năm 1939. Mặc dầu đấy là các chiến công vũ dũng phi thường, chúng chỉ chứng tỏ cho dân chúng Mỹ biết rằng trong giới trẻ tuổi Hoa Kỳ có những thanh niên can đảm tuyệt vời, nhưng vì không bao giờ nghi ngờ gì đến sự kiện đó, sự tường thuật các chiến công này càng làm trầm trọng tổng mối oán hận sự bất lực của các giới lãnh đạo.


Với ý thức vận động quần chúng bén nhạy, Roosevelt hiểu rằng phương cách duy nhất để tái lập lại lòng mến chuộng của dân chúng là tổ chức một hành động lừa dối ngoạn mục mà ông vừa có ý tưởng thoáng qua. Cơ hội đã đến do một Đại tá phi công thuộc Lục quân Mỹ, chuyên viên oanh tạc, tác giả một kế hoạch mà mục tiêu không hơn không kém là ném bom xuống Đông Kinh. Điểm xứng đáng nơi Tổng thống là quan tâm đến kế hoạch này, một kế hoạch mà ban sơ vào thời kỳ đó dường như phát sinh từ một dưỡng trí viện.


Viên Đại tá, tên James Doolittle, cam đoan là có thể cất cánh từ một hàng không mẫu hạm với các oanh tạc cơ trung bình B-25 Mitchell vừa mới được mang ra sử dụng, bay đi ném bom xuống Đông Kinh rồi sau đó cầu may bằng cách cố bay đến Vladivostok hoặc tất cả phi trường bạn trên lãnh thổ Trung Hoa. Roosevelt ra lệnh cho chỉ huy trưởng không lực thuộc Lục quân và các chuyên viên không lực thuộc Hải quân nghiên cứu dự án này. Tất cả đều có ý kiến rằng mặc dầu quá táo bạo, nhưng cũng có đủ may mắn để thành công, nên thử. Thoạt tiên có vẻ lơ là, Đô đốc King sau này cũng để cho bị thuyết phục vì ông thấy đã có hàng không mẫu hạm Hornet chiếc mới nhất cùng loại với các mẫu hạm Yorktown, Enterprise vừa chấm dứt chạy thử sau nhiều sự thay đổi. Vì chiếc mẫu hạm này cần thực hiện một chuyến hải hành để thử sức chịu đựng, cơ hội này rất tốt để thử thách nó mà không vì thế làm chậm trễ sự tham chiến của nó trên chiến trường Thái Bình Dương.


Ngày 4 tháng 4 năm 1942, hàng không mẫu hạm Hornet nhổ neo từ San Francisco với 16 oanh tạc cơ B-25 đậu trên sàn, và 80 phi công sẽ lái chúng bay đi tấn công. Sau cuộc ghé bến Trân Châu Cảng và được thông báo các tin tức cuối cùng về các phi trường có thể đáp xuống được tại Trung Hoa, chiếc Hornet lại khởi hành đến một điểm hẹn với lực lượng đặc nhiệm chung quanh chiếc Enterprise do Phó Đô đốc Halsey chỉ huy và sẽ hộ tống nó cho đến cách bờ biển Nhật Bản 700 cây số và sau đó đưa nó trở về hải cảng sau khi phóng các phi cơ lên không.


Phần đầu của cuộc hải hành không xảy ra chuyện gì, nhưng bình minh ngày 8 tháng 4 năm 1942 (ngày theo Đông Kinh), lúc đi vào hải phận do Nhật kiểm soát, lực lượng đặc nhiệm thấy một chiếc phóng ngư lôi hạm địch. Hải pháo của các hộ tống hạm hành động tức khắc và đánh chìm chiếc tàu chiến của Nhật lúc ấy dại dột muốn cắt ngang đường của hạm đội Mỹ. Trước biến cố bất ngờ này, Doolittle và Halsey kinh hoàng. Làm sao biết được liệu trước khi chìm, quân Nhật có kịp gửi đi lời kêu cứu SOS và báo động Đông Kinh hay không? Tung ngay cuộc tấn công trước giờ ấn định há chẳng hơn sao? Chiếc Hornet còn cách duyên hải Nhật đến 1.200 cây số, một khoảng cách vượt quá xa mức dự liệu, nhưng đó là cách duy nhất chắc chắn có thể đến được mục tiêu trước khi nhà cầm quyền Nhật cho áp dụng các biện pháp đề phòng.


Trong một chớp mắt quyết định đã dứt khoát. Doolittle bình tĩnh ra lệnh và đích thân xem xét mọi thứ sẵn sàng. Động cơ của 16 oanh tạc cơ bắt đầu nổ và Doolittle leo lên chiếc đầu tiên. Đến 8 giờ 18 phút, ông nhả thắng và chạy trên phi đạo đầy bọt nước biển do các lượng sóng cao phủ lên. Giờ phút ấy thật cảm động. Ai cũng rung sợ phải thấy chiếc phi cơ của vị chỉ huy đâm xuống biển. Mặc dầu sóng lớn, ông Đại tá đã cất cánh theo một kiểu cách hoàn hảo. Lợi dụng các đợt sóng nhấp nhô, 15 chiếc khác cất cánh tiếp theo cách nhau vài phút. Từ trên đài chỉ huy chiếc Enterprise, Đô đốc Halsey đưa mắt nhìn theo một lát rồi ra lệnh cho hạm đội mở hết tốc độ quay trở về Trân Châu Cảng, vì lúc bấy giờ hạm đội đang ở sâu quá trong vòng bán kiín hoạt động của các thuỷ phi cơ thám sát thuộc hải quân Nhật.


Trong lúc đó, đoàn oanh tạc cơ tập họp thành đội hình, và bay là là mặt biển để tránh khỏi bị rada đối phương khám phá, hướng thẳng đến Đông Kinh. Trên suốt đường bay, phi đoàn không hề gặp một phi cơ nào của địch. Trong thực tế, trước khi bị chìm, chiếc tàu tuần tiễu của Nhật đã kịp gửi đi hiệu lệnh kêu cứu và chỉ rõ vị trí của mình. Khoảng cách với duyên hải xa quá khiến cho tín hiệu mơ hồ đến nỗi Bộ Tư lệnh Nhật không tin là phải báo động ngay tức khắc cho các lực lượng không quân.
 
Cuộc đột kích của Doolittle được thực hiện đều đặn như kim đồng hồ xoay. Giữa trưa, trong khi các đường phố Đông Kinh đang bày cảnh náo nhiệt thường lệ, tiếng phi cơ gầm thét làm mọi người ngước mặt nhìn lên. Ai cũng nghĩ là một cuộc biểu dương sức mạnh mới của không quân và sau vài phút ngưỡng mộ, lưu thông trở lại nhịp bình thường. Nhưng tiếng bom đầu tiên nổ và tiếng cao xạ DCA đã mau lẹ biến niềm say sưa chiến thắng êm dịu ấy thành thái độ sửng sốt. Đám đông hỗn loạn ùa chạy để kiếm chỗ ẩn thổ sơ trong vài ngôi nhà đúc tại khu vực trung tâm. Các xe chữa lửa chạy như bay trong các đường phố chật hẹp trong khi còi báo động hú vang. Và khi khói lửa từ các đám cháy bốc cao lên bầu trời trong tiết xuân kế cạnh Hoàng cung, sự sửng sốt của quần chúng biến thành sự kinh hoàng.


Tại Tổng hành dinh Thiên hoàng, các chức sắc cao cấp sửng sốt đến nỗi phải một lát sau họ mới quyết định được các biện pháp, Nagano ra lệnh cho Yamamoto cho hạm đội nhổ neo ngay lập tức. Tất cả các khu trục cơ của Nhật đều cất cánh để ngăn chặn. Nhưng đã quá trễ! Đoàn B.25 đã bay đi mà không cần biết đến kết quả. Cả 16 chiếc đều bình an, nhưng chúng còn phải trải qua giai đoạn khó khăn nhất. Số xăng rất ít còn lại không cho các phi công cơ may bay đến các phi trường Trung Hoa. May thay một luồng gió mạnh từ đằng sau đẩy họ về phía lục địa Á châu, nhưng những cơn giông và thì giờ chậm trễ đã làm họ mất khả năng định hướng.


Những thử thách gay go đang chờ đợi họ. Các sự bố trí để đón họ trên các phi trường Trung Hoa đã không được nghiên cứu kỹ. Vì các lý do phải giữ bí mật, người ta đã lơ đễnh không báo trước rằng họ sẽ đến, cho một người duy nhất có thể đảm bảo sự thành công của họ: Tướng Claire Lee Chennault, người vẫn luôn luôn ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch nhưng giờ đây là Tư lệnh Không lực 14 của Mỹ. Ông tướng ấy là một Outsider, một người ngoài, vốn đã rời khỏi quân đội từ nhiều năm qua và được gọi trở lại phục vụ trong những điều kiện giống y như Mac Arthur nghĩa là do các biến cố thúc đẩy. Những đấng thanh giáo tại Ngũ giác đài coi ông như là một người làm trò múa rối vì ông coi thường các quy tắc ước lệ và đã cách mạng hoá chiến thuật săn giặc bằng cách bắt các phi công tập nhào lộn từng nhóm thường làm quan khách rùng mình. Nhưng kinh nghiệm cho thấy ông có lý và các kết quả phi thường đạt được trong các cuộc không chiến chống Nhật tại Trùng Khánh và Miến Điện, trong lúc trên khắp tất cả các chiến trường khác Không quân Mỹ chỉ ghi nhận toàn thất bại, đã bắt buộc Bộ Tổng Tư lệnh phải xin lỗi. Chennault đã tổ chức một hệ thống canh chừng trải dài cho đến tận khu vực bị chiếm đóng của Trung Hoa. Vậy thì chắc chắn là ông có thể hướng dẫn các oanh tạc cơ của Doolittle đến các phi trường yên ổn. Nhưng vì lý do bí mật, người ta đã lơ là không chịu báo tin cho ông.


Kết quả thật thê thảm. Ngay khi bay đến được bờ biển, các phi công nhận thấy rằng tìm một phi trường để đáp trong bóng tối bi thảm này là một điều gần như không thể được. Doolittle và phi hành đoàn, chiếc đầu tiên, nêu gương, và nhảy dù ra khỏi phi cơ. Họ được phi haàn đoàn 9 chiếc khác bắt chước ngay, 50 chiếc dù mở ra trong đêm tối, một chiếc bị tréo dây làm cho một quân nhân thiệt mạng. Các chiếc B-25 khác toan tính đáp xuống đất ngay khi họ lờ mờ phân biệt được hình dáng bờ biển, và họ đã gặp nhiều hoàn cảnh bất ngờ khác nhau. Một chiếc rơi xuống biển nhưng khá gần bờ nên phi công và phi hành đoàn bơi vào bờ được. Một chiếc khác lật úp trong ruộng lúa, may thay không bị thiệt hại nhiều. Chiếc thứ ba có số phận bi thảm hơn: đâm xuống một giải cát và tất cả phi hành đoàn đều bị thương ít nhiều. Trong số ba chiếc còn lại, một chiếc bay hướng về Mãn Châu và đáp xuống được cách Vladivostok 35 cây số. Hai chiếc khác rơi và giữa vùng bị Nhật kiểm soát. Trong số 10 nhân viên phi hành, hai người bị chết đuối trong khi cố gắng thoát ra khỏi phi cơ, 8 người khác bị bắt ngay. Bị kết án là đã oanh tạc vào vị trí không có tính cách quân sự, họ bị mang ra xét xử. Hai sĩ quan và một trung sĩ bị tử hình và bị treo cổ sau khi bị tra tấn, năm người bị đưa vào trại tập trung trong đó một người bị chết ngày vì kiệt sức.


Nhờ may mắn lạ kỳ, phần đông các phi công khác đều sống sót sau cuộc phiêu lưu kinh hồn. Nhờ sự tận tuỵ của nông dân Trung Hoa đến đón, họ thoát khỏi các đoàn tuần tiễu Nhật, và đến được Trùng Khánh sau không biết cơ man nào là nghịch cảnh. Sau nhiều tháng lo âu chờ đợi người ta được biết rằng trong số 80 nhân viên phi hành của chiếc Hornet chỉ có 8 tử trận hay bị mất tích. Rõ ràng đấy là một tỷ lệ nhỏ bé so với một cuộc đột kích táo bạo nhất trong lịch sử. Nhưng không có một chiếc B-25 nào kịp thời được thu hồi lại cả. Là người rất cần các phi cơ này và biết rằng có thể cứu chúng thoát nếu được báo tin, Chennault đã phản đối Ngũ Giác Đài một cách dữ dội. Hố chia cách giữa con người đởm lược ấy và các thượng cấp của ông sau đó không ngừng rộng thêm ra-làm cho nước Mỹ bị thiệt hại nhiều nhất, bởi vì đó không những chỉ là chiến thuật gia lỗi lạc nhất về không lực săn giặc, mà còn là người Mỹ duy nhất có các dữ kiện hính xác nhất về Trung Hoa và dân tộc xứ ấy.
 
Đêm canh cùng chiến trận

Kết quả đầu tiên của vụ đột kích Doolittle là đặt lại trên bàn hội nghị của Tổng hành dinh Thiên hoàng vấn đề vòng đai chu vi Đại Đông Á còn bỏ dở dang. Sau cuộc nghiên cứu các B-25 mà những mảnh vụn được tìm thấy tại trung Hoa, phải chấp nhận một sự thật hiển nhiên: các phi cơ này cất cánh từ trên một hàng không mẫu hạm. Chứng cớ cho thấy rằng quần đảo Nhật bị bỏ trống trải trên các mạn sườn phía bắc và phía đông. Một lần nữa Yamamoto đã thấy đúng. Cần phải áp dụng kế hoạch tấn công Midway của ông để ngăn không cho Thiên hoàng bị xúc phạm theo kiểu này một lần nữa. Trái bom duy nhất rơi vào trong ngự viên tại hoàng cung đã dấy lên một sự xúc động mà toàn diện mọi người đều cùng lúc cảm thấy.


Song lẽ, vì các mệnh lệnh liên quan đến cuộc xâm chiếm quần đảo Salomon phía bắc và hải cảng Port-Moresby đang được xúc tiến thi hành, Tổng Tư lệnh Nagano khẩn nài để cho các cuộc hành quân này được tiếp tục. Nhật Bản đang ở vào cực điểm của sức mạnh; do đó rất có thể mở cuộc tấn công cùng lúc trên cả hai mặt trận. Yamamoto chịu điều khiển cuộc hành quân mà không kêu gọi hai hàng không mẫu hạm đang canh chừng ngoài khơi Salomon. Lực lượng của hạm đội liên hợp có sẵn trong vùng hải phận chính quốc-4 hàng không mẫu hạm lớn, 2 mẫu hạm nhẹ, và toàn diện hạm đội thiết giáp hạm đối với ông có vẻ đủ để chiếm Midway và quần đảo Aléutiennes.


Yamamoto rời Đông Kinh với thẩm quyền toàn diện do Bộ Tổng tham mưu giao phó cho, và trở về soái hạm-chiếc thiết giáp hạm khổng lồ Yamamoto-để chỉnh bị lại các kế hoạch hành quân. Tay cao cờ điên cuồng này sắp làm tiêu tan hẳn hay gia tăng gấp đôi danh tiếng vang lừng là một lãnh tụ chiến tranh của mình.


Tại Mỹ, cuộc đột kích Doolittle đã làm bùng lên một niềm phấn khởi lạ kỳ. Báo chí bất chấp liêm sỉ phóng đại tầm quan trọng của các thiệt hại vật chất đã được giáng lên đầu người Nhật, và tung ra một tấm màn trinh liệt che đậy các điều kiện tiếp đón các phi hành đoàn tại Trung Hoa. Công luận lắng dịu một thời gian. Như vậy là mục tiêu đã đạt được.


Không bị xúc động vì niềm say sưa chiến thắng hời hợt này, King không có ảo tưởng nào đối với những ngày sắp đến mà nay đang được chuẩn bị. Chiếc máy trứ danh Système Magic, vốn đang có vẻ gục từ vụ Trân Châu Cảng, vừa mới bừng tỉnh dậy ít lây nay. Cho đến lúc đó nó chỉ được khai thác để mở các khoá mật mã ngoại giao; mệnh lệnh im lặng vô tuyến dược các chiến hạm Nhật tôn trọng triệt để không cho phép thu thập đủ yếu tố thiết lập lưới mật mã của địch. Nhưng giờ đây, nhiều hạm đội Nhật được rải ra trong vô số căn cứ Hải quân phía Nam Thái Bình Dương, chúng trao đổi tín hiệu cho nhau theo một loại mật mã PK-2 mà các chuyên viên điều khiển Magic đã giao phó cho sự khôn ngoan của bộ máy kỳ diệu này. Kể từ giữa tháng 4 năm 1942, khối lượng các tín hiệu này cho phép nghĩ rằng có cái gì rất đáng nghi đang bắt đầu tại phía Nam và King đã yêu cầu các chuyên viên giải mật mã gia tăng nỗ lực gấp đôi để chọc thủng màn bí mật của khoá PK-2. Vào cuối tháng, họ gần như đã đạt kết quả và King đã có thể báo trước cho Nimitz cuộc đổ bộ rộng lớn của Nhật phía Bắc Salomon và tại Port-Morseby.


Thật dúng lúc! Hai mẫu hạm Enterprise và Hornet đã không trở về hải cảng sau chuyến khứ hồi nhằm hướng Đông Kinh chiếc Lexington thì có mặt tại Trân Châu Cảng để được tiếp tế và cho thuỷ thủ đoàn nghỉ ngơi đôi chút, sau khi liên tục chiến đấu từ đầu; chiếc Yorktown đang được chăm sóc lại tại Tongatabu (quần đảo Fiji). Nimitz liền ra lệnh cho hai chiếc sau nhổ neo đến điểm hẹn ngày 30 tháng 4 cùng với các tuần dương hạm có mặt tại phía Nam. Hơn nữa ông hứa với Ghormley là sẽ phái cho ông chiếc Enterprise càng sớm càng tốt. Giao cho Đô đốc Fletcher lực lượng đặc nhiệm được cấu tạo như thế, ông chỉ ra một huấn thị ngắn gọn “chống lại cuộc đổ bộ của địch và tiêu diệt hải lực địch”.


Ngày 2 tháng 5 năm 1942 các hàng không mẫu hạm Mỹ tiến vào biển Corail theo ngõ phía Nam đang ngay lúc vài tuần dương hạm Nhật hộ tống vài dương vận hạm đến Tulagi men dọc theo đảo lớn Bougainville mà một phần đã bị Nhật chiếm đóng. Một “trinh sát viên cận duyên” người Tân Tây Lan ở lại đảo cho đến phút chót và rút lui về Santa-Isabel cùng với chiếc máy phát tin bằng một xuồng của người bản xứ, đã cung cấp tin này cho Tổng hành dinh của Mac Arthur, Fletcher đã được báo trước, liền cho một phi cơ trinh sát cất cánh lúc rạng đông ngày 3 tháng 5. Ông nhận được điện vắn tắt sau; “Chiến hạm tập trung trong hải cảng Tulagi”.


Bắt đầu quen thuộc với biển Corail, Fletcher biết ngay Tulagi nằm ở đâu. Một hòn đảo nhỏ không có gì quan yếu, bị vô số đảo nhỏ bao bọc chung quanh, nhưng có thể neo chiến hạm rất tốt và được chọn lựa vì vị thế trung tâm như là thủ đô hành chính của quần đảo Salomon. Ông nghĩ rằng phải toan tính để trục quân Nhật ra khỏi đấy. Các hàng không mẫu hạm Yorktown và Lexington được lệnh men theo bờ phía Nam đảo Guadalcanal và phóng các oanh tạc cơ vượt ngang qua các rặng núi trên đảo xa để xuất hiện đột ngột từ trên các chiến hạm địch đang bỏ neo tại Tulagi.
 
Đến trưa ngày 3 tháng 5 năm 1942, các phi công trở về gần như toàn vẹn. Cứ theo lời họ thì quân Nhật hoàn toàn bị đánh bất ngờ và cửa biển Tulagi ngập đầy xác tàu. Đối với ngày chiến thắng đầu tiên các phi công Mỹ còn quá lạc quan hơn cả những đồng nghiệp Nhật Bản của họ…


Sau khi đi lại tuần phòng đến tối một cách vô ích vì không thu được tin nào mới về lực lượng hải quân địch, lực lượng đặc nhiệm của Fletcher chạy xuống phía nam để kịp đến điểm hẹn vào bình minh hôm sau với chiếc tàu dầu vĩ đại Neosho sẽ đến tiếp tế cho các chiến hạm.


Công cuộc tiếp tế kéo dài suốt ngày 4 tháng 5. Công việc kéo ngang các vòi dầu cặn giữa các chiến hạm đang chạy, việc chuyển giao thư từ do chiếc Neosho mang đến việc trao vài tân binh đổi lấy các quân nhân trừ bị được giải ngũ, đã tạo nên không khí náo nhiệt và đầy lạc quan gữa các thuỷ thủ đoàn. Rồi cuộc tuần hành lại tiếp tục hướng về bắc, và đêm tối trải qua mà không có biến cố nào làm rộn chuyến hải hành bình yên này. Đô đốc bắt đầu nghi ngờ giá trị của tin tức do Trân Châu Cảng chuyển đến trong khi nhìn thì giờ trôi qua. Các cuộc tuần tiễu bằng phi cơ thám thính liên tục từ sáng sớm đã không hề báo hiệu một tí gì về việc trông thấy “Kanawishi-thuỷ phi cơ thám thính vĩ đại của Nhật” vẫn không ngừng bay lượn trên các bờ biển Corail.


Vào khoảng 4 giờ chiều, khi các lời bình luận tuôn tràn trên các cầu tầu cũng như trong các phòng thường trực báo động, trong lúc gió kéo mây che kín một bầu trời vốn đã mờ mờ vì sương mù, thì các loa phóng thanh của tất cả các trung tâm thu tin trên các chiến hạm đã làm chấn động các hiệu thính viê đang ngủ gật:

“Ariel gọi Yorktown; Kanawishi ở phía bắc, cao độ 18.000 bộ!”

Tất cả các phi cơ đang bay đều nghiêng cánh hướng về phía kẻ nhìn trộm và các loa phóng thanh vẫn vang dội không ngừng tiếng nói chát tai; Joan gọi Ariel; hiểu rồi tôi theo anh”, ”Lily gọi Kate: tôi thấy có cái gì trong 320, tôi đến đó”…

Nhưng cơn mưa nhiệt đới đã chấm dứt những sự thổ lộ không mấy kín đáo này. Mẫu hạm Yorktown báo hiệu cho tất cả: “Trở về tàu”. Chiếc Kanawishi biến mất sau khi phát một tín hiệu, Đô đốc Nhật Bản biết chắc được thành phần và vị trí của lực lượng đặc nhiệm Mỹ.


Đêm 6 rạng ngày 7 tháng 5 năm 1942 ấy, mây tan mau lẹ trên bầu trời, làm như Thượng đế muốn cho những kẻ có thể chết vào ngày mai trông thấy một lần cuối cảnh đẹp nhất của vũ trụ. Dường như các hàng không mẫu hạm kéo theo sau dòng sông Ngân hà uốn lượn chập chờn theo làn sóng biển vỡ tan tành tô điểm một chỏm bạc trên các bóng đen di động ban đêm. Tất cả đều vĩ đại và đẹp mê hồn trong cái im lặng dửng dưng của vũ trụ ban đêm. Các thuỷ thủ trinh sát đêm đứng trên các cầu tàu, các sĩ quan trực nhật, các hạm trưởng, các hoa tiêu trong thế báo động đều ngắm nhìn quang cảnh đ nhất phô diễn trước mắt họ trong tứ ánh sáng thanh cao trác tuyệt này.

Chắc những người sống sót sau trận hải chiến sẽ không bao giờ quên được.
 
Biển Corail

Không nên đánh nhau trong một vùng biển san hô. Các bên đối phương của năm 1942 nhờ đấy mà có kinh nghiệm trên. Những ngày 7 và 8 tháng 5 chỉ là những ngày đầy ngộ nhận, hỗn độn và lầm lỗi to lớn.


Trong cái góc đó và vào thời kỳ này, những trò quỷ quái của thời tiết chắc chắn là đứng về phe Nhật Bản, bởi vì hạm đội của Takagi, người được Inoue giao cho quyền chỉ huy cuộc hành quân Mo-đánh Moresby-chuyển dịch dọc theo phía bắc Salomon, rồi đến tận quần đảo Louislade mà không lúc nào gió mùa ngừng mang phủ bên trên một lớp mây dày che chở. Hệ thống bố trí của Takagi gồm có 2 phần: một lực lượng đổ bộ được hộ tống bởi vài trung đoàn và một hàng không mẫu hạm nhẹ-chiếc Soho-và một lực lượng che chở gồm có hai mẫu hạm lớn nhất của hạm đội Nhật, chiếc Shokaku và chiếc Zuikaku mà sứ mạng là che chở từ xa và không quá tiến sâu vào cuộc hành quân đổ bộ dường như không có gì là khó khăn đặc biệt.


Trong khi các dương vận hạm chở quân đổ bộ và các chiến hạm hộ tống tập họp tại quần đảo Shortland phía nam Bougainville, hai chiếc Shokaku và Zuikaku thì tuần tiễu phía đông Salomon. Chúng chỉ phải tiến vào biển Corail vào phút chót để nếu cần, giáng một đòn từng phạt làm gương cho những hải lực nào của đối phương dám mạo hiểm vào đấy.


Phút chót nói đây là ngày 7 tháng 5, ngày mà các dương vận hạm chở quân đổ bộ được vài phi cơ của chiếc Soho che chở sẽ phải băng ngang qua quần đảo Shortland tại eo biển Jomard (Louiside) theo đường chéo phía bắc biển Corail.


Lúc ấy Takagi không được biết một tí gì về vị trí của lực lượng đối phương. Do vậy, ông đưa đoàn công voa chở quân đổ bộ tiến vào biển Corail mà không có một chỉ dẫn nào khác hơn là một sự nghi ngại mơ hồ rằng nhóm phi cơ nhỏ bé đã từng tấn công Tulagi ngày 4 tháng 5 rất có thể là đã cất cánh từ một hàng không mẫu hạm nào đó. Gia dĩ đó là một viễn ảnh không làm ông sợ mà còn mong cho xảy ra là đằng khác. Theo tin tức tình báo mà ông biết thì hiện có ba mẫu hạm Mỹ trong vùng bắc Thái Bình Dương và một mẫu hạm ở phía Nam, ít có thể nào-ngoại trừ phải là một phù thuỷ-mà nó lại biết ngày và giờ của cuộc tấn công Port-Moresby. Takagi tin cậy vào các phi cơ thám thính Kanawishi có tầm hoạt động rất xa để được thông báo trước các sự xê dịch của đối phương.


Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên… chiếc mẫu hạm Mỹ nói đây không phải là chiếc duy nhất và ngoài ra, vì bộ máy Magic, nó lại là một phù thuỷ.

Bình minh ngày 7 tháng 5 năm 1942, tất cả đã được khởi động với một sự mau lẹ sấm sét. Phi vụ thám thính đầu tiên do chiếc Yorktown phóng lên đã khám phá lực lượng đổ bộ Nhật trong eo biển Jomark. Bốn phi đoàn lập tức cất cánh tấn công và chiếc mẫu hạm đáng thương Sôh của Nhật bị đánh bất ngờ trước khi kịp phóng các phi cơ của mình lên không trong không đầy 15 phút đã lãnh đủ 13 trái bom và 7 thuỷ lôi. Các phi đoàn Mỹ khi rút lui còn thấy nó chìm tỏng một chùm tia lửa khổng lồ. Khi ấy các dương vận hạm chở quân đổ bộ phân tán theo lệnh của người chỉ huy lực lượng hộ tống đang xét đoán không thể nào tiếp tục cuộc tấn công vào Port-Moresby vì thiếu sự che chở của không lực.


Gần như cùng lúc đó một Kanawishi đang tuần thám báo hiệu trông thấy phía đông nam một mẫu hạm và một tuần dương hạm đang tìm cách thoát ra khỏi biển Corail. Lập ức Đô đốc Takagi ra lệnh cho các phi cơ thuộc hai mẫu hạm Shokaku và Zuikaku lúc ấy đang ở cách điểm chỉ định chừng 30 hải lý, cất cánh đuổi theo. Cuộc tấn công cũng diễn tiến với mức độ mãnh liệt như các phi công Mỹ đã làm với chiếc Soho và kết quả cũng rất thảm hại. Chiếc “mẫu hạm” bị tấn công phát hoả từ đầu đến đuôi và chìm lỉm sau một tiếng nổ kinh hồn… Những phi công oanh tạc sau cùng rất nóng nảy muốn tấn công mà chưa được may mắn ném bom, liền ùa đến chiếc “tuần dương hạm” đang toan tính một cách tuyệt vọng chạy trốn sau một màn khói. Nó bị bắt kịp và đến lượt bị đánh chìm ngay khiến cho các phi công chiến thắng không kịp ý thức được các lầm lẫn tai hại kế tiếp nhau: Chiếc tàu lớn có hình dáng khổng lồ mà họ cho là một hàng không mẫu hạm, không gì khác hơn là chiếc tàu dầu vô tội Neosho đã trút hết dầu cho các chiến hạm; riêng chiếc “tuần dương hạm” thì thật ra đấy là chiếc khu trục hạm Sima được giao nhiệm vụ hộ tống tàu dầu.


Khi trở về mẫu hạm, các phi công Nhật được đón tiếp như thường lệ sau một đại chiến công và mãi nhiều giờ sau đó, khi đối chiếu các bằng chứng thu thập được, ban tham mưu của Takagi mới bắt đầu nghi ngờ sự thật được báo cáo.


Trong thời gian này Đô đốc Nhật Bản được biết cuộc mạo hiểm ghê rợn đã xảy đến cho mẫu hạm Soho và lần này được thông báo tin tức chính xác hơn về lực lượng đặc nhiệm Mỹ nhờ một Kanawishi khác trông thấy rõ, ông liền ra lệnh cho tất cả oanh tạc cơ có sẵn cất cánh truy lùng.


Chiều xuống đã lâu và những cơn mưa rào nhiệt đới lại bắt đầu. Một trận đụng độ hỗn loạn giữa các phi cơ đã xảy ra tại phía tây, trong đó các oanh tạc cơ cất cánh từ Rabaul đến cứu viện chiếc Soho khai hoả vào bất cứ chiến hạm nào vừa trông thấy, trong khi đó các pháo đài bay B-17 của Mac Arthur cũng làm như vậy.


Trong tiìn trạng không thể nào tái lập trật tự ngay gữa cuộc thao diễn lực lượng ấy, Fletcher đã kêu các đoàn tuần tiễu của ông trở về để giữ cho lực lượng còn nguyên vẹn dành cho trận chiến quyết định mà ông tiên liệu sẽ xảy ra ngày mai.
 
Vào khoảng 6 giờ chiều, tất cả phi cơ của chiếc Yorktown và chiếc Lexington đều đáp xuống mẫu hạm ngoại trừ một. Đêm tối mịt. Mưa rào nối tiếp nhau. Các toán chuyên viên làm việc trên các sàn tàu trơn trượt. Trên boong những trinh sát viên ban đêm dò xét chân trời để kiếm chiếc phi cơ về trễ.


Đột nhiên một ánh lửa chớp chớp trong mây. Đấy chỉ có thể là chiếc phi cơ đang được chờ đợi. Người ta thấy nó hạ dần xuống chiếc Lexington, và các đèn rọi được thắp sáng để đáp lại dấu hiệu nhận nhau.


Vài giây sau, ha, ba, bốn, năm ánh sáng xuất hiện tiếp theo sau chiếc thứ nhất. Từ trên đài chỉ huy chiếc Lexington người ta thấy chúng bay thành hàng theo một tứ tự không chê vào đâu được. Một phi đoàn phi cơ Nhật sắp đáp xuống chiếc Yorktown! Sự xuất hiện này đã tạo ra sửng sốt đến nỗi không ai nổ súng… Phải đợi đến lúc chiếc phi cơ về trễ ý thức được mình bị rơi vào tổ ong vò vẽ nên xả một tràng đại liên, thì các giàn cao xạ DCA trên các chiến hạm mới quyết định khai hoả. Đoàn phi cơ của mẫu hạm Shokaku (vì quả thật là chính nó) biến mất trong đêm tối không cần biết chuyện gì xảy ra sau đó.

Đấy là điểm chấm hết cho một ngày lừa phỉnh nhau. Trong cả hai bên đối thủ, thần kinh nghiệm của các phi công bị thử thách nặng nề.


Đêm tối trôi qua, sau đó quả là một đêm canh chừng đụng trận. Giờ đây, mỗi người đều biết rằng hai lực lượng đặc nhiệm cách nhau rất gần và bình minh hôm sau sẽ xảy ra trận đánh quyết định. Số phi cơ của mỗi bên đối phương gần bằng nhau: vào khoảng 120 chiếc. Riêng về phẩm chất thì rõ rệt bên phía Nhật có ưu thế hơn: khu trục cơ Zéro trội hẳn loại Wildcat của Mỹ, các oanh tạc cơ đâm bổ có giá trị bằng nhau, nhưng các phi cơ phóng thuỷ lôi Nhật và nhất là các quả thuỷ lôi của họ thì rõ rệt vượt xa những chiếc TBD Devastotor của Mỹ.


Bình minh ngày 8 tháng 5 năm 1942, các phi cơ tuần thám của 2 bên cất cánh cùng một lúc, các mẫu hạm Nhật ở phía Bắc nhờ thời tiết mưa gió nên được che chở tương đối. Chiếc Yorktown và chiếc Lexington chạy phía nam rất lộ liễu và bị khám phá trước tiên bởi một phi cơ của Shokaku nó báo động ngay lập tức.


Vài phút sau một phi cơ của chiếc Yorktown nhờ một khoảng trời sáng, may mắn trông thấy hạm đội Nhật liền thông báo vị trí cho Đô đốc Fletcher, ông cho phi đoàn của mình cất cánh ngay.


Quân Nhật đã tung phi cơ của họ để tấn công. Thế là hai đoàn phi cơ giao nhau trên không mà chẳng trông thấy nhau. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai hạm đội sắp đương đầu với nhau ngoài tầm mắt trông rõ không phả bằng hải pháo, mà bằng không lực của mình.


Cuộc đọ sức không rõ ràng gì lắm. Được ưu thế nhờ thời tiết, phi cơ Nhật cùng lúc tấn công vào cả hai chiếc Yorktown và Lexington. Chiếc thứ nhất lãnh hai trái bom, chiếc thứ hai, ba quả trong đó có một quả nổ dưới đáy tàu. Đã có lúc Fletcher tin là bại trận rồi vì chằng có tin tức gì về cuộc tấn công của đoàn phi cơ Mỹ. Do vậy ông vô cùng thoải mái khi nghe qua loa phóng thanh giọng nói của một phi công thuộc chiếc Yorktown vốn đang la hét trong một trạng thái phấn khích vô bờ: “Mẫu hạm địch bốc cháy! Tôi đến thanh toán nó đây!”. Sau đó ông phải chờ phi cơ của mình chở về mới biết được kết quả của trận chiến.


Trong thực tế, vì bị mây cản trở, các phi đoàn Mỹ chỉ có thể tấn công một mẫu hạm Nhật mà thôi. Chiếc Shokaku vốn thật sự chỉ bị hai quả bom. Sàn đáp bị thổi bay đến nỗi không thể đón bất cứ chiếc phi cơ nào của nó được, nhưng chiếc Zuikaku thì hoàn toàn còn nguyên vẹn.


Thấy chiếc Lexington dường như đã làm chủ được ngọn lửa và có thể chạy với tốc độ 25 nút, Fletcher ra lệnh cho hạm đội xuôi về phía Nam với tốc độ này. Ông đã bẻ gãy cuộc tấn công của địch, nên ông rời bỏ chiến trường, thì cũng là trong thế của kẻ thắng và trong sự hài lòng.


Bên phía Nhật, căn cứ vào báo cáo của các phi công, Takagi ước tính rằng hai mẫu hạm Mỹ đã bị đánh chìm và ra lệnh cho hạm đội quay trở về Rabaul.


Nói chung các Đô đốc của hai bên đều ca khúc khải hoàn và đấy là hậu quả bất ngờ của trận hải chiến theo một kiểu hoàn toàn mới lạ này.


Không một vị Đô đốc nào lại có cái nhìn bao quát về trận đánh và không ai có thể can thiệp trong khi trận đánh đang diễn tiến. Do đó không ai ngạc nhiên khi thấy con số ước lượng của họ về mức thiệt hại của đối phương có đôi phần giàu tưởng tượng. Fletcher và Takagi nói chung đều đã đánh bóng mình, và chỉ có một cuộc phân tích chặt chẽ các báo cáo của họ, các ban tham mưu mới xác định được những nét chính của một chiến thuật chiến đấu ấu trĩ.


Trong thực tế, Đô đốc khó mà làm cho thượng cấp của ông thừa nhận rằng ông đã mang về một chiến công lớn lao nếu một biến cố bất ngờ không xảy đến, để xác nhận một cách chậm trễ báo cáo khoác loác của các phi công Nhật. Chiều ngày 8 tháng 5, trong lúc các toán an ninh của chiếc Lexington tin rằng đã diệt được ngọn lửa, thì một tiếng nổ kinh hồn làm rung chuyển đáy tàu. Vì cách xếp đặt cũ các hầm chứa xăng, một hỗn hợp chất khí nổ đã lan tràn trong một hầm tàu mà các vách thép mỏng đang còn nóng bỏng. Lửa lại vùng cháy dữ dội hơn, mặc dầu các đội cứu hoả nỗ lực tối đa cũng không làm sao chế ngự được. Lập tức nhiều tiếng nổ và đám cháy khác bùng lên và chiếc Lexington đáng thương, bùng cháy như cây đuốc mất hẳn lá và dàn máy, bắt đầu trôi theo làn gió như một xác tàu hư. Đến 17 giờ hạm trưởng (Đại tá F.Sherman) ra lệnh bỏ tàu, và các tuần dương hạm, khu trục hạm do Fletcher phái đến cứu các người bị thương lên trước rồi với các thuỷ thủ lành mạnh sau. Các toán an ninh còn tiếp tục chiến đấu chống lửa cho đến khi hạm trưởng chắc chắn đã không bỏ người nào lại sau. Rồi ông lại cho họ di tản và là người sau chót rời chiếc sàn tàu nóng bỏng cùng với Đô đốc Fitch, bằng một chiếc thang dây.
 
Đến 18 giờ 30 một tiếng nổ kinh hồn vang dội từ chiếc xác tàu: hầm chứa thuỷ lôi của phi cơ phóng thuỷ lôi phát nổ. Ngọn lửa chiếu sáng bầu trời bốc lên cao đến nỗi Đô đốc Fletcher phải ra lệnh cho một khu trục hạm dùng thuỷ lôi đánh chìm ngọn đuốc cháy rực ấy. Chiếc chiến hạm dũng cảm mà các đoàn thuỷ thủ thân mật gọi là “Lady Lex”, và cho đến lúc ấy, một mình đã lập thành tích nhiều hơn tất cả các chiến hạm Mỹ cộng lại, chìm từ từ xuống biển và biến mất dưới một đám mây hơi nước đang dập tắt ngọn lửa của đám cháy.


Hồi chung cục bi thảm của chiếc Lexington đã đập một đòn thẳng vào con tin Đô đốc Nimitz. Thành quả tuyệt vọng của Fletcher, ngăn chặn được cuộc xâm lăng của Nhật tại biển Corail, đã giúp ông lấy lại can đảm giữa các niềm lo âu mới đang tràn ngập tâm trí ông. Thật vậy máy Magic tiên báo rằng Yamamoto đang chuẩn bị một cuộc tấn công vĩ đại nhắm vào quần đảo Midway và phía tây quần đảo Aléoutiennets. Vì đã gửi chiếc Enterprise về phía Nam để hậu thuẫn cho lực lượng đặc nhiệm của Fletcher, tại Trân Châu Cảng, ông chỉ còn lại chiếc Hornet. Đây là một chiến hạm cực tốt vừa được mang ra sử dụng và được điều khiển một cách tài tình bởi Đại tá hạm trưởng Mitscher, một trong các phi công lỗi lạc nhất thuộc không lực hải quân, nhưng chưa bao giờ đụng trận. Như vậy không thể có vấn đề một mình ông đương đầu với cả hạm đội liên hợp. Thế mà Midway lại có thể bị tấn công ngày một ngày hai. Khi nào và bằng cách nào? Ông chẳng biết gì cả, nhưg điều ông chắc chắn là nếu quân Nhật đặt chân lên được các “quần đảo này vốn là đoạn cuối cùng của một dãy đảo nhỏ kéo dài thuộc quần đảo Hạ Uy Di, thì căn cứ Trân Châu Cảng quí báu vừa được xây dựng lại với biết bao khó nhọc sẽ thất thủ cũng mau lẹ như-nếu không phải là mau lẹ hơn-Hồng Kông và Tân Gia Ba.


Tình thế nghiêm trọng đến nỗi ông phải lấy ngay lập tức quyết định chủ yếu. Để cho sự rủi ro thêm toàn vẹn, Đô đốc Halsey ngã bệnh phải đi nằm nhà thương sau chuyến đột kích Doolittle trở về. Ông triệu dụng Đô đốc Spruance (thay Halsey chỉ huy lực lượng đặc nhiệm) và Đại tá Mitschet, hạm trưởng chiếc Hornet. Tất cả đều đồng ý khẩn cấp yêu cầu Hoa Thịnh Đốn gửi tất cả không lực có sẵn đến tăng viện để phòng thủ các quần đảo và không để mất một phút gọi mẫu hạm Enterprise và nếu có thể chiếc Yorktown trở về. Đối với chiếc sau, tất cả còn lệ thuộc vào các chỗ hư hỏng chưa được xác định.


Ít ra về phương diện này, tin tức giúp yên tâm mau lẹ. Máy tàu hoạt động bình thường và sàn tàu phi đạo có thể được sửa chữa tạm thời. Việc sửa chữa toàn diện sẽ được thực hiện tại Trân Châu Cảng trong vòng ba hay bốn tuần.


Nimitz ra lệnh cho Fletcher trở về Trân Châu Cảng với tốc lực tối đa và báo cho hải quâ công xưởng biết trước chi tiết các sửa chữa cần thiết để cho công tác có thể bắt đầu ngay khi chiếc Yorktown cập bến. Phía Nam chỉ còn lại năm tuần dương hạm Mỹ và bộ phận hải quân Úc thuộc Đô đốc Grace của Anh… Mặc kệ biển Corail, mặc kệ Mac Arthur và quần đảo Salomon. Trong hoàn cảnh hiện tại, chính Midway là nơi cần cứu vãn.


Đối với những người biết được bí mật, những ngày sắp đến sẽ trôi qua trong cơn sốt và trong nỗi âu lo. Magic không còn cung cấp thêm giữa về ý định của bộ chỉ huy tối cao Nhật Bản. Một tình trạng vô tuyến báo hiệu điềm xấu đã thay thế cho cảnh lắm lời thường lệ. Một sự im lặng tương tự như thế cũng đã xảy ra trước cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Than ôi, rất có thể là cuộc hành quân M1 đã khởi động rồi.
 
Midway-Một hạt cát trong Thái Bình Dương

Vừa dắt trung đội chạy như tập thể thao dọc theo bờ vịnh kín như chiếc hồ nước mặn, trung sĩ Price, tiểu đoàn 3 thuỷ quân lục chiến Mỹ, vừa nguyền rủa không ngừng.Bị hãm trên đảo san hô lố bịch hẻo lánh giữa Thái Bình Dương trong mùa xuân năm 1942 này, quả thật là ngu… Vả lại do lỗi của anh ta nữa chứ! Chính anh ta đã xin đổi đến Midway! Phải! Anh ta đã làm thế. Vì đã xem một số hình ảnh. Ngay trước khi chiến tranh bùng nổ… Chúng thật hấp dẫn, những tấm ảnh đó: căn cứ hải quân, bến thuỷ phi cơ, công ty Cable, các phi đạo của Pan American… Người ta đã đặt các thiếu nữ đứng trên thang máy bay. Những cô tiếp viên phi hành nổi bật lên nền trời xanh lơ khó tin. Thật là cả một trò lừa bịp!


Giờ đây tất cả đều mới đặt chân đến, anh và các đồng đội. Mặc cho các hoạt động có vẻ khôi hài đang ào ạt diễn ra từ tháng 4, rõ rệt là không còn có thể làm gì để cứu vãn hòn đảo được nữa. Quân Nhật chỉ có việc đến, họ sẽ chớp lấy các đảo san hô, các “bông hoa của Thái Bình Dương”, và hơn thế nữa, tất cả mọi người! Ít ra cũng là những gì còn lại của số người trên đảo… Bởi vì tự nhiên là phải đánh nhau rồi, nhất là các thuỷ quân lục chiến, để nêu gương, trong khi đó thâm tâm ai nấy đều nghĩ rằng làm như vậy là hoàn tòn ngu xuẩn…


Đang nghĩ đến đó thì trung sĩ Price, vẫn chạy đều, vấp phải một ổ trứng hải âu: dẫm vỡ các trứng chim, chửi thề như bọng, ra hiệu cho trung đội dừng lại ngay giữa bãi phân chim và phóng tầm mắt nhìn phong cảnh chung quanh. Đột nhiên một bầy chim bay lên che kín bầu trời. Chúng ở đấy hàng ngàn con vừa bay lên khỏi các dải cát thuần một màu trắng đến nhức mắt. Những chiếc cánh rộng đủ giữ chúng trên không, con này sát cánh con kia, nhờ những cái đập cánh theo hình dấu mũ, nhịp theo những tiếng kêu sợ hãi.


Một trong các tai ách của các đảo là bọn hải âu ấy. Chúng kêu rú suốt ngày đêm làm như để than khóc vì bị rủi ro mắc kẹt trên đảo Midway… Ban đêm, nếu thoát khỏi bị muỗi đốt, thì ta có thể tin chắc là sẽ bị khúc bi ca của chúng làm giật mình thức giấc. Trong khi đó dưới các hầm trú ẩn lợm giọng vì không khí ẩm thấp, thế nào cũng có một “chú lính mới” làm nổ súng hoặc một tay hoạt kê la lớn “Bọn lùn đấy!... để gây ra một đợt hoan hô toàn diện.


Phải nói rằng, từ một tháng qua, thần kinh mọi người bị căng thẳng tột đọ. Không phải chỉ vì chưa bao giờ quân Nhật có vẻ ở gần như thế, nhưng trái lại quân Mỹ thì liên tục gửi cho họ cả một chuỗi tàu bè đổ lên bến tàu nhỏ bé Sand Island, vốn đã tràn ngập vật dụng, nào thép gai, nào đạn dược, súng phòng không, vật liệu thay thế đủ loại làm như để chịu đựng một cuộc bao vây bất tận. Hàng không đoàn trọn vẹn các phi cỡ lỗi thời đáp xuống phi đạo vừa mới làm xong trên đảo Eastern Island và vì các hăng ga đã đầy nhóc, người ta phải phân tán chúng ra ngoài các bãi phân chim. Ngoài ra, trong những ngày mới đây, một số đông khác thường gồm các sĩ quan cấp tướng đã đến thanh sát hệ thống phòng thủ và biểu dương với đội quân trú phòng một thái độ ân cần thân thiết đến mức phải rất ngây thơi mới không hiểu rằng ngày J không còn xa nữa…


Chính trong viễn ảnh đó mà trung sĩ Price huấn luyện tân binh theo nhịp độ gấp đôi. Ý thức được trách nhiệm của mình anh chấm dứt sự nghỉ ngơi để đi sâu xuống hầm tiếp nối, sát bờ cát với tất cả hệ thống phòng thủ trên đảo. Phải làm cho các tân binh trẻ tuổi quen thuộc với hệ thống mê lộ phức tạp đó, một hệ thống hầm hố giúp cho toàn diện đội quân trú phòng luôn luôn ở trong tình trạng báo động và luôn luôn ở sẵn trong chiến hào.


Bài học Trân Châu Cảng đã có ảnh hưởng. Ngoài các bồn chứa xăng lớn, các hăng ga của công ty hàng không PAA và ba phi đạo, tất cả những gì trên đảo Midway đều sống dưới hầm ẩn nấp.


Khi chấm dứt buổi huấn luyện tân binh, trung sĩ Price trở về vị trí chiến đấu của mình, một căn hầm tối tăm dùng làm bộ chỉ huy đại đội. Tại đấy anh thấy ngổn ngang nhiều dụng cụ lạ lùng nơi đó có nhiều cuộn dây ló ra. Viên toán trưởng đặc trách chất nổ, một trong các bạn cũ của anh, đang làm việc để thiết trí một mạch điện phá hoại nhằm cho nổ tất cả các cơ sở khi những người lính phòng vệ cuối cùng bị quân Nhật tràn ngập. Vì anh ta đã được lệnh kín miệng để khỏi làm xao động tinh thần binh sĩ, anh ta tránh né tất cả câu hỏi. Tất nhiên là rất tò mò và ganh tị với các chuyên viên kỹ thuật, đột nhiên Price xen vào câu chuyện:

-Cái trò máy móc của anh buồn cười thật. Một kiểu rada mới chăng? Bộ anh tính dùng điện giật chết bọn lùn à? Chỉ cách vận dụng một tí coi…

Chuyện gì đã xay ra đúng ngay lúc đó. Không ai có đủ thì giờ để mở cuộc điều tra. Đấy cũng vẫn chỉ là một tiếng nổ kinh hồn làm rung chuyển toàn đảo. Bồn chứa xăng chính sẽ cung cấp xăng cho các vòi tiếp tế tại phi đạo vừa nô tung với tiếng động vĩ đại.


Khi viên sĩ quan công binh đến báo cáo cho trung tá hải quân Simard, chỉ huy trưởng căn cứ, về sự bất cẩn đáng tiếc này, ông chờ đợi ít ra là cũng bị xử bắn. Hoàn toàn ngạc nhiên, ông thấy ông ta đang chuyện trò náo nhiệt với bạn đồng nghiệp Shannon, trung tá, chỉ huy trưởng thuỷ quân lục chiến và họ đang cụng ly Whisky với nhau. Khi ông ấp úng mấy lời xin lỗi, người ta đã ra hiệu, cắt ngang lời ông ngay:

“Tất nhiên, tất nhiên… một vụ làm quấy nhỏ… Không thể nào chiên trứng mà không đập vỡ quả trúng… Dù sao vụ này cũng chứng tỏ được một điều, đó là cái hiệu tạp hoá phá hoại đáng ghét của anh tác động quá tốt!”.


Viên sĩ quan công binh can đảm được giải thích mau lẹ tại sao lại có thái độ nhân từ này: hai chàng vừa được công điện báo cho biết là vừa được thăng cấp bậc…
Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc tấn công chắc sẽ xảy đến vào ngày mai…
 
Thật vậy, 900.000 lít xăng dự trữ tại Sand Island vừa mới cháy hết thì ba phi đoàn Nhật tấn công vào Midway từ ba phía nhập lại.

Trên chiếc Yamamoto, chiến hạm khổng lồ 70.000 tấn với chín đại bác 430 ly thách thức tất cả mọi chiến hạm, đang rẽ sóng, vị tư lệnh không thể nào bại trận của “hạm đội liên hợp”, Đô đốc Yamamoto bình tĩnh đi lui tới trên boong tàu. Mũi chiếc thiết giáp hạm sáng chói trong ánh mặt trời hoàng hôn nhuộm một màu vàng hoa cúc như trên các đồ dùng vương giả. Trời tốt, có vẻ còn quá tốt là đằng khác, vì lực lượng vũ trang vĩ đại đi theo tàu ông chắc bị trông thấy từ trên cao khoảng một cách rất xa. Nhưng đấy là một viễn tưởng đã được tiên liệu và chẳng quan trọng gì. Không phải như tại Trân Châu Cảng, có vấn đề nghiền nát một hạm đội hùng mạnh, nhưng đây chỉ là vấn đề chiếm hai hòn đảo nhỏ gần như không có phòng thủ gì cả, vấn đề triệt hạ mũi giáo nhọn chĩa thẳng về phía Nhật nằm ngay đầu của dãy quần đảo san hô Hạ Uy Di. Con người đã từng, bằng một cái phẩy tay, hất văng quyền sở hữu của Đồng minh trên các đảo thuộc Thái Bình Dương, biết rõ có thể chiếm Midway khi nào ông muốn. Điều thú vị nhất đối với ông là việc kéo đuôi con sư tử để khiêu khích nó làm một phản ứng không phải lúc. Yamamoto như một con nhện nằm giữa chiếc lưới bủa giăng, hy vọng kéo số chiến hạm ít ỏi còn lại của hải quân Mỹ về phía hạm đội khổng lồ của mình. Phía bắc, ông đã phái hạm đội hàng không mẫu hạm của ông, chính hạm đội đã tấn công Trân Châu Cảng, do cùng vị tư lệnh Nagumo chỉ huy, trang bị cùng các phi công cũ. Hạm đội tiến dưới sự che chở của mây trời để khởi động cuộc oanh tạc ồ ạt xuống Midway vào ngày mai. Về phía đông nam, các dương vận hạm hướng thẳng về phía các đảo mục tiêu để đổ bộ quân xung kích lên bờ. Cách đấy hàng trăm dặm, hàng rào tàu ngầm và thuỷ phi cơ có tầm hoạt động xa đang rình rập phản ứng của hạm đội Mỹ. Chính lực lượng thiết giáp hạm của ông cũng đang trên đường săn đuổi con mồi.


Tay cao cờ Yamamoto toan tính làm chuyện đội đá vá trời. Ông chỉ còn đợi tín hiệu vô tuyến báo cho biết đối phương đã rơi vào bẫy.

Ông chẳng bao giờ nhận được tín hiệu ấy, bởi vì các cơ sở thuộc quyền đã phạm phải một lỗi lầm không thể tha thứ. Người ta đã chuyển một điện văn tối mật qua đường dây vô tuyến: lệnh cho hạm đội đổ bộ đang tập họp ở Saipan phải nhổ neo ngày 27 tháng 5 để đến tiếp hợp với các tuần dương hạm hộ tống thuộc hạm đội liên hợp tại một địa điểm mà toạ độ được xác định… Đó chính là điều mà chiếc máy Magic đang chờ đợi.


Bộ tham mưu của Nimitz có thể suy ra, từ tin tức chủ yếu ấy, đại cương sự bố trí của Nhật. Giờ đây ông tin chắc rằng cuộc tấn công vào các đảo san hô sẽ xảy ra ngày 3 hay 4 tháng 6 năm 1942 dưới sự che chở của một cuộc vận dụng khổng lồ các hàng không mẫu hạm và chiến đấu hạm. Một cuộc đấu tranh với thời gian bắt đầu và số phận của chiến tranh lệ thuộc vào đó.


Đến Trân Châu Cảng ngày 25 tháng 5, mẫu hạm Enterprise lập tức cùng với chiếc Hornet tách bến hướng đến Midway. Chiếc Yorktown đến nơi ngày 27, được các toán chuyên viên chăm sóc và như có phép lạ, đã được sửa tạm trong có ba ngày, mang hiệu kỳ của Đô đốc Fletcher, tư lệnh tối cao, và được hai tuần dương hạm nặng cùng sáu khu trục hạm hộ tống. Fletcher ấn định cùng với Spruance-vẫn ở trên chiếc Hornet-một điểm hẹn cách Midway 200 hải lý về phía đông bắc, tại đó cả hai lực lượng đặc nhiệm sẽ phải được tiếp tế.

Các mệnh lệnh của Nimitz cho các Đô đốc rất mềm dẻo và rõ ràng:

“Bố trí phía đông bắc Midway và giữ khoảng cách trong giới hạn ngoài tầm hoạt động của thám thính cơ thuộc hạm đội tấn công. Ngay khi các phi cơ thám thính của ta trên các đảo đã định được vị trí hạm đội địch, quí ông hãy ráng tấn công liên tục nhiều đợt để giảm thiểu sức mạnh của nó…

Hãy áp dụng nguyên tắc rủi ro có tính toán và chỉ phô bày chiến hạm của mình ra trước sự đe doạ của một hải lực mạnh hơn, khi nào quí ông được đảm bảo có thể giáng cho địch các thiệt hại lớn hơn tổn thất phía mình”.


Spruance đã thêm vào các chỉ thị tổng quát đó một nhật lệnh cho các thuỷ thủ đoàn:
“Ta đang chờ đợi một cuộc tấn công xâm chiếm Midway, lực lượng tấn công của địch có thể gồm nhiều chiến hạm đủ loại kể cả bốn hay năm mẫu hạm, nhiều dương vận hạm và các chiến hạm khác. Nếu địch vẫn không biết có sự hiện diện của các lực lượng đặc nhiệm chúng ta, ta có thể đánh thình lình vào hông các mẫu hạm địch, từ phía đông bắc Midway. Các cuộc hành quân mai hậu sẽ lệ thuộc vào kết quả của những cuộc tấn công này, của các tổn thất do các đơn vị trên đảo Midway gây ra cho địch, và cả các tin tức liên quan đến chuyển động của hạm đội địch. Một kết cục thích đáng sẽ là một phần thưởng lớn lao cho xứ sở chúng ta”.


Từ ngày 1 tháng 6, các thuỷ phi cơ thám thính PB-Y từ Midway đã bay tuần thám xa đến 600 hải lý phía tây các đảo. Tất cả các không đoàn đều tập hợp tại các phi đạo của San và Eastern Island-16 oanh tạc cơ đâm bổ của thuỷ quân lục chiến, 7 khu trục cơ Wildcat, 18 pháo đài bay B-17 và 4 oanh tạc cơ B-26 của lục quân-sẵn sàng nhào vào các hàng không mẫu hạm địch ngay hiệu lệnh báo động đầu tiên. Nếu gặp cơ may các mẫu hạm Nhật lầm lẫn phái hết cùng một lúc các phi cơ của họ bay đến tấn công Midway, rất có thể bằng cách hy sinh công cuộc phòng thủ các đảo, giáng chọ địch các thiệt hại đủ để họ phải e dè…
 
Kế hoạch của Nimitz là như thế. Theo kế hoạch này, trung sĩ Price, đại tá Jimard và đại tá Shannon bị bỏ rơi mặc cho số phận hẩm hiu. Toàn thể đạo quân trú phòng trên đảo Midway đóng vai trò con mồi và cũng như con giòi của ngư phủ, nếu không bị cá ăn, thì cũng bị rỉa cho thủng không ít…


Tin tức chính thức đầu tiên xác định hải lực Nhật đến gần được báo cho Midway chiều ngày 3 tháng 6. Một chiếc PB-Y có tầm hoạt động xa, lúc quay về vì đã đến giới hạn bán kính hoạt động, đã trông thấy hạm đội đổ bộ. Ngay khi có hiệu lệnh báo động, B-17 và Catalina cất cánh nhiều đợt kế tiếp và lao vào địa. Nhưng vì khoảng cách còn xa cho nên vài quả bom và thuỷ lôi ném xuống lúc hoàng hôn chẳng mang lại kết quả gì. Chỉ có phi vụ cuối cùng thực hiện ngay trong đêm tối là đánh trúng được một mục tiêu bằng thuỷ lôi vì một ngọn lửa lớn đã bùng lên soi sáng bầu trời cho đến rạng đông.


Hôm sau, ngày 4 tháng 6 năm 1942, lúc 5 giờ, một Catalina lại ra hiệu báo động mới. Lần này chính các phi cơ địch bay đến Midway. Nhiều oanh tạc cơ của hải quân Nhật lập đội hình chặt chẽ và được nhiều khu trục cơ hộ tống. Hướng phi cơ địch bay đến dường như cho thấy rằng các hàng không mẫu hạm đã phóng chúng lên đang có mặt phía tây bắc các đảo, và tất cả phi cơ chiến đấu của Midway cất cánh bay đi tấn công. Than ôi chúng ra đi mà không có hộ tống, 7 khu trục cơ phải ở lại để chờ những kẻ tấn công.


Hai đoàn phi cơ giao nhau trên không với khoảng cách rất xa, phi đoàn Nhật Bản, thuần nhất và được hộ tống kỹ, phi đoàn Mỹ tạp nhạp và không được hộ tống gì cả.
Một giờ trôi qua, thời gian mà những binh sĩ phòng vệ các đảo chờ đợi quyết định của số phận thế nào cũng phải xảy đến..


Đến 6 giờ 30, tiếng cao xạ DCA nổ ran như sấm, tiếp ngay sau đó là tiếng bom chát chúa. Tất cả các kiến trúc của Sand đều đổ sụp xuống trong ửa đỏ. Bầu trời tối sầm vì một lớp khói làm cản trở các khu trục cơ Mỹ theo dõi cuộc chiến đấu.


Về phía mình, phi đoàn oanh tạc cơ của thuỷ quân lục chiến cũng khám phá thấy địch và bắt đầu tấn công vào các mẫu hạm Nhật, nhưng các khu trục cơ đáng sợ Zéro đã đâm vào chúng như những con diều hâu và bắn hạ gần hết.


Hai giờ sau, vài chiếuc hiếm hoi còn sống sót sau cuộc tàn sát, hạ cánh xuống phi trường Eastern Island vừa được hấp tấp sửa sang lại. Chỉ huy trưởng đoàn quân trú phòng lập bảng kết toán cho buổi sáng. Nếu tổn thất của thuỷ quân lục chiến thấp một cách kỳ diệu: 16 chết và 28 bị thương, thì tổn thất của các phi công thật nặng: 50 người trong đó có 25 sĩ quan. Vài phi cơ hiếm hoi trở về được, bay nặng nề như có chì trong cánh. Hệ thống phòng không bị triệt tiêu. Sand và Eastern chỉ còn cách chờ chống quân đổ bộ của địch bằng gươm giáo của mình.


Lúc đó không ai không thể nghĩ rằng hai hòn đảo vừa chịu đựng cuộc tấn công đầu tiên và cũng là cuộc tấn công cuối cùng của cuộc chiến tranh.


Trên các hàng không mẫu hạm Nhật, các phi công khu trục lần lượt đáp xuống để lấy tiếp tế, được các thuỷ thủ đoàn tiếp đón trong tiếng hoan hô vang dậy. Mặc dầu đã quen với các chiến thắng dễ dàng, vụ hạ các phi cơ của Midway như kiểu bắn chim bồ câu đã kích thích họ quá mức và toàn diện mọi người đều hân hoan. Chỉ riêng Phó Đô đốc Nagumo là có đôi phần bối rối. Trên boong chiếc Akagi, ông đang thảo luận với các cấp thuộc quyền. Đó là một người nặng nề, hai hàng lông mày rất rậm, và hàng râu mép điểm hoa râm. Trái ngược hẳn với vị tư lệnh tối cao vốn là một con người lanh lẹn và nóng nảy, ông có một vẻ trầm tĩnh như lực sĩ thế vận hội và phản ánh những truyền thống của lực lượng hải quân kỳ cựu. Hơn nữa, chính ông lại không phải là một phi công và mặc dầu có kinh nghiệm dồi dào, một vài ảnh hưởng đã thoát khỏi sự hiểu biết của ông. Ông không muốn bị định vị sớm quá và thái độ quyết tâm mà các phi công Mỹ đã chứng tỏ đã gây ấn tượng sâu xa nơi ông. Do đó ông đã tỏ vẻ khó chịu phần nào khi viên không đoàn trưởng vừa chỉ huy cuộc oanh tạc các đảo đến báo hiệu cho ông rằng cần một đợt oanh tạc thứ hai để tiêu diệt hoàn toàn các cơ sở trên đảo Midway. Số chín mươi ba phi cơ trừ bị sẵn sàng cất cánh trên hai trong số các mẫu hạm của ông đều được gắn đầy bom đặc biệt và thuỷ lôi để tấn công hạm đội địch. Nếu phái chúng đi tấn công Midway, phải đưa chúng xuống hăng ga và thay đổi bom đạn.


Nagumo ngần ngại không muốn lấy một quyết định vốn đe doạ phô bày hạm đội của ông ra trước một nguy cơ trầm trọng nhất: cơ nguy bị địch tấn công ngay giữa lúc di chuyển phi cơ. Nhưng các sĩ quan trẻ hiếu thắng của Bộ tham mưu đã có mặt ở đấy rồi, chung quanh ông, và áp lực ông bỏ qua những sợ hãi vô ích đến thế… Ông sợ bị coi là một kẻ nhút nhát và rốt cuộc phải nhượng bộ.


Thời gian trôi và sự thiếu vắng mọi dấu hiệu báo động dường như đã làm cho những người lạc quan có lý. Khi việc thay bom gần như hoàn tất thì một hiệu lệnh vô tuyến được chuyển đến gây kinh hoàng trên khắp các sàn tàu. Hiệu lệnh phát xuất từ một thuỷ phi cơ thám sát đang tuần thám phía bắc Midway: “Thấy địch! Nhiều chiến hạm, có một mẫu hạm!”.
 
Lúc ấy là 8 giờ 30. Một giờ trước đó chắc tin ức này sẽ được tiếp đón trong không khí phấn khởi. Đó là cơ hội được chờ đợi từ lâu để thanh toán trọn hạm đội Mỹ. Trong khi giờ đây các phi cơ trừ bị còn nằm trong hăng ga đang được thay bom và đợt phi cơ tấn công Midway đầu tiên trên đường băng về cũng sắp xuất hiện để đáp xuống mẫu hạm.


Đã có lúc Nagumo toan cho cá phi cơ trong tình trạng mới được thay bom lên và ra lệnh cất cánh tấn công địch, nhưng ông còn ngần ngại vài phút và để cơ hội trôi qua. Các phi cơ từ Midway trở về bắt đầu xuất hiện. Vài chiếc báo hiệu bị hư hỏng, nhiều chiếc khác cho biết sắp hết xăng. Quá chậm, phải để cho chúng hạ cánh.


Ngọn lao đã phóng đi! Vài khu trục cơ cất cánh vôi vàng để bố trí bên trên đoàn phi cơ trở về. Các phi cơ này có trách nhiệm che chở cho một công tác cực kỳ nguy hiểm là sự tiếp nhận trên các mẫu hạm đang chứa đầy phi cơ trong hang ga ngay giữa cuộc chuyển dịch bom và thuỷ lôi. Công cuộc huấn luyện các thuỷ thủ đoàn kỹ đến nỗi tất cả các công việc ấy được thực hiện mà không gây ra một trở ngại nào. Và các công việc ấy ké dài không dưới một giờ… Khoảng thời gian trong đó lúc nào người ta cũng phải chờ đợi các chấm đen các phi cơ địch xuất hiện trên bầu trời.


Đúng 9 giờ 30 chuyện không tránh được đã xảy đến. Một phi đoàn phóng thuỷ lôi tiến gần đến chiếc Akagi. Đấy là phi đoàn của chiếc Hornet được phóng lên không ngay khi các phi cơ thám thính Mỹ biết được vị trí của các mẫu hạm Nhật. Các phi cơ đáng thương ấy đã bay lạc rất lâu trước khi khám phá được mục tiêu trong lớp sương mù ban mai. Chúng đều cạn xăng, nhưng không kém phần quyết tâm tiếp tục lao vào chiếc soái hạm Nhật Bản để ít ra sự hy sinh của họ không hoàn toàn vô ích…


Các khu trục cơ Zéro chờ sẵn ở đấy. Từ trên cao chúng bổ nhào xuống các phi cơ tấn công. Tất cả phi đoàn của chiếc Hornet đều bị bắn bốc cháy rơi xuống và các phi công đều bị tử trận ngoại trừ một người, chuẩn uý Gay, trong chiếc xuồng cao su cấp cứu như ngồi trong ghế hạng nhất, chứng kiến một quang cảnh dị thường nhất mà con người có thể nhìn ngắm được.


Thật vậy, các phi cơ của mẫu hạm Hornet vừa chìm khuất xuống biển, hai phi đoàn phóng thuỷ lôi khác (của mẫu hạm Enterprise và Yorktown) tấn công chiếc Akagi theo thế gọng kềm trong khi một phi đoàn thứ ba phụ trách chiếc Hiryu. Cao xạ DCA vạch các đạn đạo đầy trời, các khu trục cơ bắn tung ra mọi hướng. Những ánh lửa đỏ rực bốc cháy trên biển cả giúp đếm được số lượng nạn nhân Mỹ. Tuy vậy cuộc tàn sát lần này không toàn vẹn vì các khu trục cơ Nhật có phần làm việc không xuể. Nhiều chiếc Zéro vì hết xăng, đã phải đáp xuống mẫu hạm đang khi đánh nhau. Không còn chiếc nào canh chừng từ trên cao nữa.


Trên mẫu hạm Akagi, Nagumo vì vững tin rằng tất cả chiến hạm của ông đều không bị tổn thương nên ra lệnh tung phi cơ xung kích đến tấn công các mẫu hạm địch. Trên soái hạm, vài khu trục cơ trừ bị rồi vài oanh tạc cơ đang xếp hàng nối đuôi nhau. Các phi cơ Zéro đầu tiên bắt đầu cho quay động cơ hết tốc độ, được thuỷ thủ đoàn chào tiễn bằng tiếng hoan hô.. rồi thình lình một tiếng kèn vang dội. Nững trinh sát viên vừa la lớn: “Coi chừng oanh tạc cơ đâm bổ!.


Bất ngờ hoàn toàn! Tiếng rít kinh hồn của phi cơ làm mọi người phải cúi rạp xuống, tiếp ngay sau đó là cả một loạt tiếng nổ thật sự. Ngọn lửa loé lên trên chiếc Akagi. Chiếc thang máy trung ương bị thổi bay và qua lỗ hổng toang hoác ấy khói cuồn cuộn bốc lên làm tê liệt các đội cứu hoả. Lửa tràn vào các hăng ga sắp đầy phi cơ phóng thuỷ lôi khiến chúng lần lượt nổ tung. Mẫu hạm Akagi, biến thành lò lửa, chỉ còn là một xác tàu trong chốc lát… Bị các sĩ quan thôi thúc, Nagumo chấp thuận để cho thuộc viên chuyển qua một tuần dương hạm. Có lẽ ông sẽ có thể nắm lại hạm đội?


Than ôi! Một cái liếc nhìn trên mặt biển đã tước mất của ông ảo vọng ấy. Chiếc Kaga đã chịu đựng một cuộc tấn công còn hung dữ hơn. Nó chạy ngang dọc như một con thú bị đánh cho đến chết bởi vì máy tàu còn chạy được, nhưng bên dưới các cơ khí viên không còn nhận được mệnh lệnh nữa và phải vẫy vùng trong bóng tối. Cửa hầm bị chặn ngang và gió lại khêu thêm ngọn lửa. Các cầu tàu bị nung đỏ, từng chùm thuỷ thủ bị thiêu sống ghê rợn và rụng xuống biển. Riêng đối với những người dưới hầm tàu, không một ai có thể thoát ra khỏi lò lửa ấy.


Xa hơn một chút, mặc dầu cũng bị trúng bom và thuỷ lôi, chiếc Soryu vẫn còn chiến đấu chống lửa, nhưng tất cả các phi cơ đều bị thiêu rụi. Hạm đội đầy kiêu hãnh của Nagumo chỉ còn lại mẫu hạm Hiryu đang mở hết tốc lực chạy về phía Bắc…


Trên cầu tàu chiếc Yamamoto đang dẫn đầu hạm đội thiết giáp hạm cách đấy chừng ba trăm dặm vị Tư lệnh hạm đội liên hợp đang lâm vào tình trạng âu lo vô bờ bến. Ông nhận được cả một cơn mưa tin tức xấu, dồn dập đưa đến theo cùng với nhịp độ ăn bom của chiếc Akagi. Con người sắt thép, cho đến lúc đó chỉ biết có chiến thắng ấy, đột nhiên ngã quị. Theo một vài người hiếm hoi được chứng kiến quang cảnh thì hình như ông trở nên ngây ngô và không ai dám lại gần. Ông bước từng bước chậm rãi, gặm dần nắm cơm vắt mà lệ tràn khoé mắt…
 
Khi ông tĩnh tâm trở lại, ấy là để tung hạm đội hùng mạnh của mình đến cứu các hàng không mẫu hạm. Nhưng khoảng cách xa đến nỗi chỉ sau vài giờ hải hành, ông từ bỏ ý định.


Vả chăng, ông có thể làm gì bây giờ đây? Hy vọng cuối cùng của ông là mẫu hạm Hiryu, chiếc duy nhất còn nguyên vẹn, mà các phi cơ vừa đến tấn công chiếc Yorktown. Có lẽ nó đánh bại được hạm đội địch nếu, đúng như điều ông hy vọng, hạm đội ấy không còn mẫu hạm nào khác. Có thể là vị thần vạn năng che chở vương quốc đang đè nặng lên cán cân và rốt cuộc may mắn sẽ quay trở lại…


Quả thật đã có lúc may mắn ngập nừng quay lại thật. Các oanh tạc cơ của mẫu hạm Hiryu đã đến tấn công chiếc Yorktown đúng lúc nó đang đón phi cơ trở về, và cùng một loạt tai biến vốn đã làm chìm chiếc Akagi đang tái diễn. Chiếc mẫu hạm Mỹ bốc cháy!


Một giờ trôi qua trong sự chờ đợi tin tức đầy âu lo. Thế rồi niềm phấn khích ngự trị trên các cầu tàu chiếc Yamamoto đột ngột tắt ngấm. Không ai dám mang bản điện văn tuyệt vọng vừa được gửi đến: Hiryu bị hai đợt oanh tạc cơ tấn công đang bốc cháy từ trước ra sau… Nó đang chạy chậm chạp lên phía bắc và biến mất trong ánh hoàng hôn.


Thế là hết. Tin thuỷ thủ đoàn chiếc Yorktown đang bị bốc cháy phải bỏ tàu đã không làm cho Đô đốc xao lãng khỏi dòng tư tưởng đen tối của ông. Là một trong những chiến lược sáng suốt hiếm hoi của Nhật, Yamamoto không hề có ảo tưởng. Ông ý thức được lầm lẫn chí mạng mà ông vừa chạm phải. Chính ông, một người suốt đời làm việc để cung ứng cho Nhật một hạm đội hàng không mẫu hạm đáng sợ nhất thế giới, nay đứng đây, bất lực, trên boong con quái vật khổng lồ 70.000 tấn này, mà trong hoàn cảnh hiện tại đã trở thành vô hại như một con rắn biển. Ông không còn dám áp dụng cho đến cùng các ý tưởng cách mạng của mình để làm biến thành một đống sắt vụn cả một đoàn thiết giáp hạm và đại bác khổng lồ vốn không còn chỗ đứng trong các cuộc chiến tranh hiện đại nữa.


Không bao giờ ông khuyến cáo gây nên cuộc chiến tranh này, nhưng khi ông bị áp đặt bởi chiến tranh, ông đã hành động với tất cả nhiệt tình mà ông có thể có được. Ông biết rằng mình có sáu tháng để thắng hoặc là bại trận. Không bao giờ ông có thể thay thế bốn mẫu hạm này lẫn tinh hoa của các phi công đã biết mất cùng với chúng, trong khi mà người Mỹ thì lại đóng thêm tàu, thêm nữa và huấn luyện hàng ngàn tân binh…
Đến đêm, Đô đốc Ysokoru Yamamoto rút lui vào phòng riêng, tự tay thảo lệnh rút quân toàn diện.

Nhật Bản không phải là đã thua một trận đánh, mà là thua cả cuộc chiến tranh.

Trong thời gian đó, tại Midway, trung sĩ Price và trung đội của anh rời bỏ những pháo đài không đáng kể. Đã từ nhiều giờ qua, họ dấn mình vào một cuộc đi đi, lại lại hùng tráng giữa các xà lan đậu trong căn cứ hải quâ và các phi đạo của phi trường Eastern. Họ lăn những thùng xăng, đẩy những xe goòng, khuân vác những “can” xăng. Họ phải tiếp tế nhiên liệu bằng mọi phương tiện bất ngờ cho các phi cơ vừa mới đến: các phi cơ của chiếc Yorktown đáng thương mà người ta mới được tin là đang chìm và của chiếc Enterprise vốn không thể trở về mẫu hạm sau khi thanh toán chiếc Hiryu. Những câu chuyện sôi nổi của các phi công mà họ phải giúp đưa ra khỏi phòng lái đã làm họ quên hết nhọc mệt của chính mình. Thất thểu, lấm đầy bùn, kiệt sức, bị khói của các đám cháy bôi đen từ đầu đến chân, họ dẫm lên bãi phân chim, tiếp tục các chuyến công tác mệt nhoài. Đối với tinh hoa của các đơn vị xung kích thuộc thuỷ quân lục chiến Mỹ, công tác của phu khuân vác ấy, thật chẳng lấy gì làm chói lọi cho lắm…


Nhưng đấy, chiến tranh là như thế. Hôm qua, chính họ là các đơn vị anh hùng hy sinh, những chiến sĩ gác giặc ở tiền đồn sẵn sàng chịu đựng vố kinh khủng đầu tiên. Người ta phủ lên họ những săn sóc ân cần, người ta cho thăng cấp bậc, người ta còn tha thứ cả cho Price khi anh làm nổ cả bồn chứa xăng… Giờ đây thì chẳng còn là gì cả, những điều động chẳng quan trọng gì. Họ phải chạy chọt rầm rộ để đừng bị đối đãi như những binh sĩ tiền tuyến nữa mới được.


Khi chiếc phi cơ cuối cùng đáp xuống sau khi cố gắng săn đuổi hạm đội Nhật đang rút lui, đại tá Shannon tập họp trung đoàn 3 thuỷ quân lục chiến và giải thích tầm quan trọng của chiến thắng đầy tuyệt vọng vừa mới được các hàng không mẫu hạm Mỹ mang về. Rồi để an ủi họ vì không có mặt trong hàng ngũ những vị anh hùng trong ngày lịch sử này, ông nói thêm trong không khí im lặng kỳ lạ của bầu trời lấp lánh đầy sao:

“Hoà bình đã trở lại đây, tại Midway, nhưng đối với chúng ta, thuỷ quân lục chiến, chiến tranh mới chỉ bắt đầu!”.

Chắc ông không tin rằng mình đã nói đúng đến thế. Một tháng sau, trung đoàn 3 đổ bộ lên Guadalcanal.
 
Guadalcanal

Trạm thống khổ đầu tiên
Vào mùa hè năm 1942, khi các đài phát thanh trên toàn thế giới bắt đầu nói đến Guadalcanal, thì địa danh bí mật này đã làm mọi người vểnh tai nghe. Guadalcanal? Nó là cái gì nhỉ? Một “con kênh” nối liền hai nội hải chắc… Phải, nhưng là nội hải nào kia chứ? Đâu đó tại phía nam Thái Bình Dương chăng?... Phải vận dụng đến cuốn Grand Atlas mới khám phá thấy, mà khong phải là ít ngạc nhiên đâu, trong thực tế đó chỉ là một hòn đảo (gia dĩ lại được viết đúng theo chính tả là Guadalcanar) và hòn đảo này thuộc quần đảo Salomon, nằm giữa một số đảo khác mang những tên Tây Ban Nha cùng một âm điệu buồn buồn: Santa Cruz, San Cristobal, Malaita, Santa Isabel, những địa danh tương phản một cách buồn rầu với một loạt địa danh tươi vui của quần đảo Mariannes và Carolines từng làm cho địa đồ khu vực trung ương Thái Bình Dương thêm vui vẻ.


Một khi đã vứt bỏ được sự mơ hồ về địa lý này, thì vẫn còn có một điểm mơ hồ khác cũng gây bối rối: Trời đất quỉ thần tại sao người ta lại sắp đánh nhau tại một nơi như thế?


Câu giải thích chính thức, mãi lâu về sau mới được đưa ra, đã không làm mọi người thoả mãn lắm: Guadalcanal là một trong các đảo nằm xa nhất về phương bắc của quần đảo Salomon, dường như là có thể tạo thành một căn cứ xuất phát cho một mũi tấn công sắp đến của Nhật nhắm vào Tân Hébrides, nơi quân đội Mỹ vừa đưa quân đến đồn trú. Thoạt nhìn sự chọn lựa này có vẻ bất kỳ đến nỗi, quần chúng vốn khao khát cái gì hợp lý, nên mau lẹ chấm dứt sự chú ý đến góc trời cô liêu ấy.


Trong thực tế, công chúng lầm to bởi vì trong chiến tranh, sự tình cờ thường đóng một vai trò lớn hơn là sự hợp lý.

Viên tướng Nhật chiếm hữu quần đảo nhỏ Tulagi đối diện với, Guadalcanal, thấy quần đảo này hoàn toàn không thích đáng cho việc xây cất một phi trường, do đó theo sáng kiến riêng, ông đã phái các toán tuần thám lên các đảo kế cận để tìm kiếm một thế đất trống và dễ dọn dẹp hơn.


Chính các cha sứ công giáo làng Visale bản xứ, nằm tận cùng phía tây bắc Guadalcanal gần mũi Espérance, đã thấy một trong các toán tuần thám ấy xuất hiện tại một khúc quanh con đường đất, chiều ngày 3 tháng 7 năm 1942. Một sĩ quan và chín binh sĩ đi theo đến gõ cửa nhà thờ. Được Cha bề trên tiếp đón rất lạnh nhạt, viên sĩ quan đòi gặp Đức cha Aubin, giám mục địa phận Salomon, mà ông ta biết là có mặt tại Visale.


Vị giáo chủ, một người Pháp chừng 60 tuổi, từng sống tại quần đảo 37 năm, đã lịch sự phản đối sự xâm nhập của các quân nhân vào các trụ sở của giáo hội. Viên sĩ quan Nhật thông báo cho đức giám mục là y sẽ đưa Cha bề trên đến trại binh để giải quyết vấn đề liên quan đến một sự hợp tác tương lai và sẽ mang trả lại sau ba ngày. Rõ ràng là y cần nhân công bản xứ và sở cậy các nhà truyền giáo để tuyển người. Y đã giữ lời, nhưng trong chuyến viếng thăm thứ nhì, y lấy mất chiếc tàu của phái bộ truyền giáo, máy thu thanh, rương hòm của những người Âu châu và người Trung Hoa tỵ nạn, các tủ lạnh, nông cụ và cả các ống dòm…


May cho các nhà truyền giáo, làng Visale, cũng như các làng khác trên bờ biển phía bắc đảo Guadalcanal kế cận mũi Espérance, nằm dựa lưng vào các mỏm núi đá hiểm trở trên các sườn núi thật dốc đứng. Chỉ cách đó chừng 30 cây số về phía đông nam bờ biển mới trở thành bằng phẳng và ngay hàng thẳng lối. Mặc dầu rất tiếc vì không đặt phi trường được gần các làng đông dân cư nhất, quân Nhật quyết định chọn cửa sông Lunga và chỉ để tại Visale một văn phòng tuyển mộ. Do đó Đức cha Aubin có thể tiếp tục quản giáo khu của mình và giúp đỡ các con chiên bổn đạo trong các cuộc thử thách đang dồn dập đổ đến.


Guadalcanal có hình dáng như một con sâu dài 150 cây số mà chiếc lưng có ngấn là do hàng chục con sông đổ ra cửa biển. Nếu đảo Tulagi và các đảo kế cận có vẻ quyến rũ và đẹp như tiên cảnh bao nhiêu thì Guadalcanal lại ủ dột và khắc khổ bấy nhiêu. Một dãy trường sơn cao ngất chạy từ đầu đến cuối đảo. Trong đoạn chính giữa của dãy núi này nhiều ngọn đã vượt cao lên đến 2.500 thước. Nhìn từ ngoài khơi, hòn đảo xuất hiện như một khối màu lục và xanh biếc, phủ đầy các đám mây tích tụ nhiệt đới trắng nõn bám thường trực các chỏm núi. Viền quanh bờ biển là những dãy bọt trắng của những lượn sóng dài vỡ tan khi xô vào đỉnh các bãi san hô chìm khuất một nửa dưới lớp phù sa do các con sông mang xuống. Chính trên vùng bờ biển phù sa phía bắc này mới có loại cây cối độc nhất được trồng trọt: khoai lang ngọt, xoài, và nhất là dừa mà thân cây đạt đến kích thước khổng lồ. Khắp mọi nơi, núi đá chạy ra sát tận biển.


Ngay từ các dãy núi đâm ngang ra đến biển là bắt đầu một khu vực rừng rậm thù nghịch, lầy lội, nằm giữa những cánh đồng lầy rồi dần dần nhường chỗ cho rừng già. Rừng quái gở khủng khiếp gồm toàn cây cối thậm cổ xưa mà cành lá đan vào nhau nhọn đến ngọn tạo thành một chiếc vòm màu xanh liên tục không bao giờ mặt trời có thể xuyên qua được. Một lớp cây leo khổng lồ, cây dứa hoang và cây đước đen, dày đặc rối bù, nẩy nở trong không khí nóng bức của một nhà kiếng thấm nước, nuôi dưỡng một lớp lá cây mục nát lầy lụa chỉ có côn trùng và loại thằn lằn sinh sống. Chính từ tấm bọt biển ướt đẫm mênh mông ấy, rỉ ra phía bờ biển vô số dòng suối con ngập nước và dần dần xói mòn mặt huyền vũ nham dưới lớp lá cây mục nát, sau đó họp lại thành sông chảy thẳng ra biển, cắt ngang bãi san hô bằng những đường trùng lệch lạc không đều.


Trong phần chính giữa của bờ biển phía bắc nơi có những cửa sông lớn nhất, cánh đồng phù sa trải dài hàng 4 hay 5 cây số vào sâu bên trong. Chính tại đó, giữa hai con sông Lunga và Tenaru, những binh sĩ tuần thám Nhật đã chọn lựa thế đất thuận tiện. Nó sẽ trở thành địa bàn của những trận đánh khốc liệt nhất trong chiến tranh.
Đoàn quân đóng tại Lunga từ những ngày đầu tháng 7 năm 1942, gồm chừng năm trăm thuỷ quân lục chiến, phần đông là tiền thám viên và các chuyên viên kỹ thuật. Họ có vài xe kéo chạy xích, xe rơ-moóc và xe ủi đất, một máy phát tin và một trạm rada còn thô lậu nhưng rốt cuộc cũng đã được hoàn thành. Nhân công bản xứ được tuyển mộ trong các làng làm việc chẳng có hứng thú gì dưới làn roi tàn bạo của các hạ sĩ quan Nhật. Địa điểm làm phi đạo đã được chọn lựa rất cẩn trọng và, được bóng dừa nguỵ trang, các chuyên viên ủi bằng phẳng có thể đẩy vệt đẩy vệt đất được ủi tiến về phía trước mà không sợ các phi cơ tuần thám của Mỹ, đôi khi lục lạo trong quần đảo Salomon, đánh hơi được chuyện gì đang được âm mưu bên dưới.
 
Kể từ các cuộc hải chiến trong biển Corail, Tulagi vẫn còn như là một cây gai trong gót giày cua Đô đốc Ghormley. Trong các kế hoạch phản công mai hậu của ông, sự giải phóng hải cảng này là sứ mạng ưu tiên. Nhưng Mac Arthur, nay đã có trong tay hai sư đoàn Mỹ và sư đoàn 7 của Úc vừa từ Trung Đông hồi hương, thì lại cổ xuý một cuộc tấn công vào Rabaul. Ông muốn thực hiện càng sớm càng hay một cuộc đổ bộ lớn lao lên Tân Irlande và Tân-Angleterre, bước đầu tiên của cuộc tiến quân ngược lên phía Phi Luật Tân. Cuộc hành quân này đòi hỏi sự tham dự của tất cả các mẫu hạm cơ hữu và một sư đoàn thuỷ quân lục chiến được huấn luyện để đổ bộ bằng xe lội nước và tất nhiên là được trang bị các quân dụng thích nghi. Nói cách khác, Mac Arthur đòi hỏi toàn diện các lực lượng nằm trong tay Ghormley.


Nimitz và King chính thức chống lại kế hoạch này trong khi nó lại được tướng Marshall và Bộ tham mưu lục quân ủng hộ nhưng không có gì là hứng thú lắm.

Chính vì thế mà trận đánh đầu tiên tại quần đảo Salomon đã diễn ra gữa Auckland, Melbourne, Trân Châu Cảng và Ngũ đài giác với những với những phát súng điện văn, chỉ thị, hay các đặc sứ. Trận đấu tranh thật nóng bỏng. Mỗi người bảo vệ miếng bít tết của mình một cách bạo tợn. Ghormley muốn trước hết chiếm Tulagi rồi sau đó tiến ngược lên chiếm hết đảo này đến đảo khác. Mac Arthur muốn tấn công thẳng vào Rabaul. Tất nhiên là ông chấp thuận chiếm Tulagi khi đi ngang qua, nhưng đối với ông đó chỉ là một cuộc hành quân phụ thuộc nằm trong kế hoạch toàn diện của ông. Và, vì ông xét rằng sự thống nhất chỉ huy là điều không thể không có, nếu ông muốn thấy Ghormley được đặt thuộc quyền ông để thi hành kế hoạch.


Cuộc thảo luận đã đến một khúc quanh hết sức gay gắt nên được đưa lên các thẩm quyền cao hơn. Để kết thúc, Đô đốc King đề nghị một giải pháp dung hoà: Cuộc tấn công Rabaul được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn đầu gồm có việc chiếm Tulagi (Đô đốc Ghormley sẽ phụ trách), giai đoạn hai sẽ được thực hiện song hành dọc theo một bên là quần đảo Salomon và bên kia là Tân Guinée (Mac Arthur sẽ nắm quyền chỉ huy). Ghormley được yêu cầu đi Melbourne để thuyết phục Mac Arthur chấp thuận kế hoạch này. Cuộc hội kiến diễn ra lạnh nhạt. Cả hai người đều giữ vững lập trường và chia tay nhau trong không khí xung đột gay go.


Trong khi Hoa Thịnh Đốn ngần ngại không muốn đương đầu với vị anh hùng của Corregidor, một biến cố bất ngờ đã xảy đến thúc giục chấm dứt ngay cuộc khủng hoảng.


Ngày 9 tháng 7-hai ngày sau cuộc hội kiến Ghormley-Mac Arthur-một thuỷ phi cơ PB-Y tuần thám trên phía nam quần đảo Salomon trong một cảnh trí thông thường là rất trống vắng, chợt thấy vài tàu vận tải nhỏ dọc theo bờ biển Guadalcanal. Viên phi công vội ẩn vào trong mây và khá vui sướng vì có thể đến gần mà không bị trông thấy. Nhiều xà lan đổ bộ vật liệu và hàng đoàn nhân công bản xứ tiến theo hàng dọc như bầy kiến vào bên trong. Vụ sử dụng nhân công này có ý nghĩa gì đây? Đã đến lúc cần biết rõ điều đó. Chiếc phi cơ đổi hướng trong mây và được điều khiển để chỉ ló ra trên dãy núi đâm ngang đầu tiên. Và thình lình qua một khoảng trời sáng, viên phi công chợt thấy bên dưới, nhiều xe ủi đang hoạt động dưới bóng dừa. Anh ta lay cánh tay người ngồi bên cạnh-một đại tá thuọc Bộ tham mưu của Mac Arthur-và dùng ngón tay chỉ tấm thảm xanh giờ đây đang diễn qua thật nhanh dưới cánh phi cơ bay nghiêng, anh hét vào tai viên đại tá: “Ông nhìn kia kìa! Chúng đang làm một phi đạo!”.
Nắm được tin tc chủ yếu này rồi, chiếc phi cơ lại bay lên cao và đổi hướng quay về phía tây để trở lại căn cứ.


Vài giờ sau, khi bản điện văn mật mã của viên đại tá được gửi đến bản doanh Melbourne, không khí tại Bộ tham mưu hết sức sục sôi. Những kẻ độc miệng cho rằng phải mất cả tiếng đồng hồ mới khám phá ra điểm bí mật do các phi công chỉ định trên bản đồ cũ kỹ của Anh. Sau đó người ta lục lạo các huấn thị hải vụ và cuốn Guide Bleu về các vùng biển phía nam. Vì kết quả thu lượm được không có là bao, Mac Arthur cho tìm kiếm tất cả những người Anh tị nạn đã từng ở trong vùng này. Những lời khai mơ hồ của họ ít ra cũng phù hợp được ở một điểm: cửa sông Lunga là một cảnh trí man rợ do các đỉnh san hô cắt ngang và chung quanh bị bao bọc bởi một khu rừng rậm không thể nào đi xuyên vào được, nơi đó khí hậu thật dễ sợ. Tóm tắt, đó là địa điểm cuối cùng của trái đất mà một phi trường đang được xây cất. Vốn hay khinh thường các tin tức không báo, Mac Arthur tin lời các cư dân Anh hơn là bản điện văn của các phi công chiếc Catalina. Do đó ông ra lệnh thám sát một lần nữa để xác nhận tin này.


Nhưng tin tức cũng đã được đưa đến Auckland, nơi mà Bộ tham mưu của Ghormley, vốn biết rõ địa hình khu vực quần đảo Salomon hơn, định ngay được vị trí cửa sông Lunga và cánh đồng phù sa chẳng khó khăn gì. Một điện văn được hoả tốc gửi về Hoa Thịnh Đốn, đề nghị thực hiện gấp cuộc hành quân chiếm Tulagi và bổ túc thêm bằng cuộc đổ bộ đột ngột lên Guadalcanal để chiếm hữu phi trường quí giá đang được xây cất ấy trước khi quân Nhật kịp sử dụng.


Ngày 10 tháng 7 một công điện của Hoa Thịnh Đốn, gửi đồng thời cho Ghormley và cho Mac Arthur, ra lệnh “đổ bộ ngay lập tức lên Guadalcanal bất kể tổn thất để chiếm phi trường đang được hoàn thành”. Lập tức Ghormley gửi một đại diện đến gặp Mac Arthur để yêu cầu ông tăng phái cho một phần trong số 50.000 quân Úc và Mỹ đang có sẵn tại Port Morsesby. Ông tướng từ chối thẳng từng. Ông sợ một cuộc tấn công mới trong khu vực này và nại rằng không chắc ông đủ quân số cần thiết để đẩy lui địch…


Các biến cố xảy ra sau đó xác nhận sự lo sợ của ông là vững chắc. Một đoàn quân Nhật xuất phát từ Lae đã lên đường toan tính vượt qua đèo thuộc dãy núi Owen Stanley. Nếu thành công, họ sẽ đột ngột đánh úp Port Morsesby với sự yểm trợ của không quân và các đơn vị nhảy dù. Được báo trước cuộc điều động này, Mac Arthur tổ chức một cuộc phục kích rộng lớn trên triền phía Nam dãy núi để lợi dụng địa hình cực kỳ khó khăn hiểm trở hầu có thể đánh thình lình, và tiêu diệt trọn đoàn quân Nhật. Kế hoạch này đã thành công mỹ mãn. Quân Nhật, bị kiệt sức sau nhiều tuần lễ leo núi và gần như tất cả đều bị lâm bệnh nhiệt đới, hoàn toàn bị tàn sát trong các hẻm núi. Không một binh sĩ nào thoát thân được. Chiến công này làm tinh thần quân sĩ được nâng cao và xác nhận vĩnh viễn uy tín của Mac Arthur. Không còn ai nghĩ đến việc trách cứ ông từ chối không chịu gửi quân tăng viện cho Ghormley khiến ông này đành bằng lòng với các đoàn thuỷ quân lục chiến duy nhất để tấn công Tulagi và Guadalcanal.
 
Cuộc đổ bộ

Thoạt tiên ngày J của cuộc đổ bộ kép này được ấn định là 1 tháng 8 năm 1942, nhưng vì Sư đoàn 1 tlqc chỉ mới đến Wellington có mười lăm ngày và vì phải dự liệu hai cuộc hành quân bằng xe lội nước, nên Ghormley quyết định dời lại đến ngày 7 tháng 8.


Ngay cả với sự trì hoãn này, hạn kỳ cũng quá ngắn. Mệnh lệnh giữ bí mật tuyệt đối đã được ban hành và tại Wellington không ai có lấy được một ý niệm cỏn con nào về điểm đến của Sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến cũng như của xe lội nước đang được chất đống trong kho. Lý do được đưa ra là một cuộc thực tập đổ bộ lớn lao sẽ được tổ chức tại đảo Koro trong quần đảo Fiji.


Công việc đưa người và chiến cụ xuống tàu tại Wellington bắt đầu trong một không khí căng thẳng. Mùa đông đã đến. Mưa lạnh rơi tầm tã. Các phu bến tàu khuân vác các kiện hàng liên miên từ mộtt háng qua, nay từ chối không làm việc nữa. Chỉ huy trưởng căn cứ hải quâ Mỹ không có một thẩm quyền nào đối với các công nhân có chân trong các nghiệp đoàn này, phải kêu gọi thuỷ quân lục chiến đến thay thế họ. Hoặc vì bực dọc hoặc vì vụng về, chiến cụ không được chăm sóc nhẹ nhàng cần thiết. Những chiến binh ưu tú ấy không hề có một xu hướng nào đối với nghề khuân vác. Lập tức người ta thấy Coca Cola và thuốc lá từ các kiện hàng bằng giấy cactong, đổ tung téo thành sông trên bến tàu. Tin rằng họ sẽ tham dự một cuộc thực tập, thuỷ quân lục chiến sẽ đi đến đấy một cách cương quyết… Còn lâu, những người đáng thương ấy, mới nghi ngờ rằng trong vài tuần lễ nữa, kỷ niệm về cái kho tàng bị phung phí dễ dàng này sẽ ám ảnh họ qua những đêm không ngủ.


Nhờ sự khuyến khích vui vẻ, hoặc trừng phạt, công cuộc chất hàng lên tàu hoàn tất dưới cơn mưa như thác, và các phu bến tàu bất đắc dĩ phải dồn đống vào giữa sân tàu trong bộ quân phục vĩnh viễn ướt nhẹp. Đoàn công voa mười ba hải vận hạm đặt dưới quyền chỉ huy của Đề đốc Turner, mà hiệu kỳ đươợ kéo lên chiến hạm chỉ huy, chiếc Mac-Cawley, nhổ neo rời Wellington ngày 31 tháng 7.


Cái cớ của một cuộc thực tập không phải hoàn toàn láo. Thiếu tướng Vandegrift, tư lệnh Sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến, quả đã có khẩn cầu được chấp thuận cho ít ra cũng là một cuộc tổng dượt.


Cuộc đổ bộ lên Koro còn lâu mới được coi như thành công. Tuy vậy nó giúp sửa chữa các lầm lỗi, chỉnh đốn lại hàng ngũ binh sĩ và nhất là để cho các tướng lĩnh tiếp xúc nhau, những người sẽ chịu trách nhiệm về cuộc phiêu lưu vĩ đại mà chưa bao giờ có cơ hội gặp gỡ bàn luận với nhau.


Chính Đô đốc Fletcher, vẫn luôn luôn có mặt trên mẫu hạm Enterprise, là người chỉ huy toàn bộ cuộc hành quân. Lực lượng đặc nhiệm của ông được các mẫu hạm Saratoga và Wasp vừa mới từ Đại Tây Dương đến tăng cường. Bao quanh lực lượng mẫu hạm là sáu tuần dương hạm mà trong đó có hai chiếc của Úc. Đô đốc Anh Crutchley do Mac Arthur cho mượn cùng với hai tuần dương hạm Úc, được bổ nhiệm làm phụ tá cho Đô đốc Fletcher. Ngoài ra ông còn có lực lượng đổ bộ baằn xe lội nước đích danh do Đề đốc Turner chỉ huy và sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến do tướng Vandegrift làm tư lệnh.


Ngày 7 tháng 8, lúc 9 giờ sáng, trong khi Fletcher và các mẫu hạm của ông đảm trách phần vụ che chở trên không, lực lượng đổ bộ chia làm hai toán cùng lúc đổ quân lên Tulagi và Guadalcanal.


Khắp nơi địch quân bị hoàn toàn bất ngờ. Tại Tulagi, 3.500 thuỷ quân lục chiến Nhật, phân tán rất mỏng trên đảo, không có thì giờ để tập họp để chống lại 6.500 thuỷ quân lục chiến Mỹ. Ẩn vào các ngọn, họ cương quyết chống trả và phải mất 48 giờ quân Mỹ mới lôi họ ra khỏi các hang động trú ẩn được.


Tại Guadalcanal, trái lại, phi trường đang được xây cất chỉ được phòng bởi vài trăm binh sĩ. Vandegrift đổ bộ cùng với 10.500 quân của ông lên phía đông sông Lunga mà không gặp một cuộc tấn chống cự nhỏ nào. Sáng ngày 8 tháng 8, ông điều động binh sĩ trên một mặt trận rộng lớn vượt qua hai con sông ngăn cách ông với mục tiêu, tiêu diệt các chốt phòng thủ trong đó quân Nhật dùng súng tự động bắn ra, và dễ dàng xâm nhập phi trường.


Đến 16 giờ, thuỷ quân lục chiến Mỹ chiếm hữu được phi trường. Các công nhân đã biến mất không kịp phá huỷ gì cả. Tất cả dụng cụ đều được tìm lại còn nguyên vẹn ngoại trừ một xe ủi đất bị một trung sĩ cuồng tín cương quyết phá hoại bằng một chiếc vồ bọc sắt. Số quân trú phòng còn lại biến mất trong rừng rậm. Ngay tối hôm đó các tiểu đoàn công binh bắt tay vào việc để hoàn tất phi đạo vốn đã được quân Nhật khởi công rất tốt.


Nhưng nỗ lực của quân nhu thì không theo kịp… Ngay trong ngày 7 tháng 8, vài oanh tạc cơ Nhật đã đến làm tán loạn các ghe buồm chở quân dụng. Chính những ghe này cũng được đóng rất tệ và các thuỷ quân lục chiến lại đóng vai trò phu khuân vác, thấy khó mà bốc dỡ hàng lên khỏi chúng. Các thùng vật liệu chất trên bãi như kim tự tháp, số người ít quá không sao di chuyển chúng hết được. Đến tối, Turner phải cho ngưng đổ bộ vật liệu để tránh khỏi tình trạng bị kẹt bến toàn diện.
 
Hôm sau ngày 8 tháng 8, oanh tạc cơ Nhật từ Rabaul bay đến hàng loạt và mặc dầu số tổn thất lên cao, cuối cùng cũng tràn ngập được đoàn khu trục cơ của Fletcher. Nhịp độ bốc dỡ quân dụng khỏi các hải vận hạm chậm chạp hơn và đến tra thì tình thế cho thấy rõ ràng là thời gian một ngày không đủ để hoàn tất công việc.


Mặc cho sự mệt mỏi của quân lính, Turner quyết định tiếp tục làm đêm. Ông muốn bằng mọi giá phải chấm dứt công việc trước bình minh hôm sau vì Fletcher đã báo cho ông biết rằng dự trữ xăng của ông gần cạn và phải mang lực lượng đặc nhiệm về Espiritu Santo để được tiếp tế.


Đến 21 giờ, kết quả bốc dỡ dở tệ đến nỗi ông được báo cho biết rằng hơn một nửa quân dụng của Sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến còn nằm trên hải vận hạm và tàu chở hàng.


Turner thấy mình bị đặt trước một thế tiến thoái lưỡng nan: hoặc là bỏ ơi thuỷ quân lục chiến với quân dụng rút xuống còn một nửa, hoặc là phơi bày toàn diện lực lượng đổ bộ cho địch quân phá huỷ hoàn toàn nếu, theo dự đoán của ông, hạm đội Nhật đã lên đường đến tấn công.


Quyết định sẽ có hậu quả lớn lao đến nỗi ông phải cho mời Crutchley và tướng Vandegrift đến chiếc hải vận hạm Mac-Cawley được dùng làm chiến hạm chỉ huy. Crutchley trên chiếc Australia cùng với sáu tuần dương hạm đang tuần tiễu không xa mũi Espérance. Vừa nhận được hiệu lệnh của Turner, ông đến bỏ neo cạnh chiếc Mac-Cawley. Hai vị Đô đốc thảo luận tình hình trong khi chờ đợi Vandegrift vì phải cho người mò mẫm trong đêm tối tìm ông ta tại bộ chỉ huy sư đoàn giữa các hàng rào kẽm gai. Họ hoàn toàn đồng ý là khó có thể nào quân Nhật tấn công ngay trong đêm. Căn cứ Rabaul cách xa đến năm trăm sáu mươi lăm hải lý, tức là hai mươi giờ hải hành và các phi cơ không thám chẳng có báo hiệu trông thấy hải lựuc địch nào trong ngày cả (Ít ra họ cũng tin thế… thật ra từ sáng, một Catalina Úc đã thấy bảy tuần dương hạm Nhật ngoài khơi Bougainville nhưng tiếp theo những sơ sót không tha thứ được, tin tức chỉ được đưa đến Melbourne lúc 18 giờ, quá chậm không khai thác gì được nữa). Trái lại, địch có thể đến vào sáng ngày 9, được che chở bởi một lực lượng khu trục hùng mạnh và được oanh tạc cơ tại Bougainviille hộ tống. Nếu không có hậu thuẫn của các mẫu hạm của Fletcher, hy vọng chống lại một lực lượng như thế là vô ích. Giải pháp duy nhất là rút lui toàn diện các hải vận hạm vào bình minh hôm sau.


Khi tướng Vandegrift đến, hai vị Đô đốc giải thích chi tiết các lý do bắt buộc họ phải chọn giải pháp bi đát này và hỏi ông ta liệu có thể cầm cự đến khi họ trở lại không. Vandegrift vốn là một tay đánh nhau kỳ cựu từng tham chiến tại Nicaragua, Mễ Tây Cơ và Trung Hoa. Đó là cả một tâm trí thực tiễn và hơn nữa ông lại ưa mạo hiểm. Ông trả lời được.


Khi cuộc hội kiến gần kết thúc thì câu chuyện bị ngắt quãng bởi những tiếng súng nổ ồn ào ghê rợn. Ba sĩ quan hấp tấp trèo lên boong và cả một quang cảnh đầy sửng sốt đang chờ đợi họ: mặt biể chung quanh đảo Savo chiếu sáng rực và người ta thấy bóng các tuần dương hạm của Crutchley tách ra trong ánh sáng của các đám cháy. Tiếng súng khởi đi, tiếng đầu đạn nổ tung nối tiếp nhau luân lưu bất tận… Viễn ảnh mà các vị Đô đốc gạt bỏ một giờ trước đó vừa xảy ra: quân Nhật đang tấn công các tuần dương hạm đồng minh tại eo biển giữa mũi Esprérance và Tulagi.


Sự may mắn đã từng từ chối trước Yamamoto nay dường như muốn chuộc lỗi. Khởi hành từ Rabaul ngay từ khi lệnh báo động đầu tiên, một hạm đội gồm có bảy tuần dương hạm, do Đô đốc Mikawa chỉ huy, đã tiến đến Guadalcanal bằng cách vòng qua Bougainville với hy vọng thoát khỏi tầm quan sát của phi cơ tuần thám. Thấy một chiếc Catalina xuất hiện, hạm đội khéo léo quay về phía bắc làm như để trở về Rabaul. Chiếc Catalina không theo dõi và trở về căn cứ. Ngay khi nguy hiểm đã qua, Mikawa lại đưa hạm đội lên đường và vì lẽ các cuộc tuần thám của Mỹ rất hiếm, đoàn tàu hải hành cho đến tối mà không gặp trở ngại nào cả. Đến 23 giờ, hạm đội trông thấy đảo Savo, giảm tốc độ để tránh cho các luồng sóng bạc trắng đằng sau chiến hạm khỏi lôi kéo sự chú ý của các trinh sát viên địch.


Hòn đảo nguyên hoả diệm sơn Savo là một ổ bánh đường bệ vệ nổi lên ngay giữa Guadalcanal và Tulagi. Dường như tạo hoá đã dựng lên nó một cách rành rẽ để canh chừng, như một trụ điện báo ở bờ biển, sự đi lại trong eo biển phân cách mũi Espérance và quần đảo nhỏ bé kia.


Hải đội của Crutch chia làm hai nhóm: chiếc Canberra và chiếc Chicago tuần tiễu giữa mũi Espérance và bánh đường; chiếc Vincennes, chiếc Quincy và chiếc Astoria tuần tiễu chậm phía đông bắc.


Lúc một giờ sáng, chiếc soái hạm của Nhật Chokai vượt qua hai chiếc phóng ngư lôi hạm bố trí tại trạm chính mà không bị khám phá. Với sáu chiếc theo sau, nó tiến với tốc độ 12 gút về phía hai chiếc hạm đồng minh vừa được thấy bóng. Đúng 1 giờ 36 phút bốn chiếc tuần dương hạm dẫn đầu đồng loạt phóng thuỷ lôi vào chúng trong khi ba chiếc sau tách qua bên trái để vượt qua phía đông đảo Savo, nơi xuất hiện bóng nhiều chiến hạm khác. Vài giây sau, hải pháo của các tuần dương hạm Nhật phủ lên hai chiếc Canberra và Chicago một cơn mưa trái phá. Phát hoả và bị nước tràn vào qua hai lỗ thủng lớn, chiếc đầu bị thuỷ thủ đoàn bỏ mặc, trong khi chiếc thứ hai chạy trốn về phía tây. Hạm trưởng thình lình bị các tiếng nổ đánh thức chỉ còn nghĩ đến việc chạy trốn để cứu chiếc tàu, hoàn toàn quên mất rằng Crutchley tạm thời giao cho ông quyền chỉ huy hải đội.
 
Trong thời gian đó, ba tuần dương hạm đoạn hậu của Mikawa len lỏi bằng cách chạy sát bờ đảo Savo cho đến lúc ngang với ba tuần dương hạm Mỹ khác. Đúng lúc các chiến hạm này cho gọi thuỷ thủ đoàn vào vị trí chiến đấu vì được vụ chạm súng trước và hoả châu báo động, thì đến lượt chúng cũng lãnh vô số đạn đại bác bắn ngay kế bên cạnh. Chiếc Quincy, bị chiếc thuỷ phi cơ bốc cháy soi sáng, lập ức lãnh hai thuỷ lôi. Chiếc Vincennes chung số phận tương tự. Riêng chiếc Astoria cố gắng trốn về đảo Savo lại bị lọt vào giữa hai nhóm tuần dương hạm Nhật và chịu một sự trừng phạt cũng nghiêm khắc như thế. Chắc chắn là nó đã bị hạ tại chỗ rồi nếu Đô đốc Mikawa, vì không thấy toàn diện các tuần dương hạm của mình trong cuộc chiến đấu rối loạn, không ra hiệu lệnh tập họp quá sớm về phía bắc đảo. Nhờ án treo đó mà chiếc Astoria có thể sống sót thêm mười giờ, nhưng mặc dầu thuỷ thủ đoàn rất cố gắng, nó cũng phải bị bỏ rơi.


Khi Đô đốc Miakawa đã tập họp xong chiến hạm của mình, ông ngần ngại không biết phải làm gì tiếp. Trong trận đánh sấm sét chỉ kéo dài có 32 phút ấy, năm trong số sáu tuần dương hạm đồng minh bị đánh chìm hoặc vĩnh viễn bị loại ra khỏi vòng chiến. Như vậy ông có quyền thoả mãn rồi. Mặt khác, chiếc soái hạm Chokai nhào vào trong trận đánh hỗn loạn bất ngờ đã bị trúng một trái đạn phá làm huỷ diệt phòng bản đồ. Lại ra đi với tình trạng đui mù trong một eo biển nổi tiếng là nguy hiểm cho các cuộc hải trình, đối với ông là quá táo bạo. Đã hai giờ sáng rồi và các tuần dương hạm địch đang còn lẩn quẩn trong vùng kế cận. Nếu ông tiếp tục tiến tới Guadalcanal chắc chắn sáng sớm mai ông sẽ bị các phi cơ của mẫu hạm Mỹ, mà ông chẳng có gì để đối phó, tấn công ngay chóc. Vì vậy ông ra lệnh cho hạm đội theo mình và mở hết tốc độ trở về Rabaul, bở qua cơ hội hiếm có để tiêu diệt ngay các dương vận hạm của Turner và quân dụng quí báu đang chở trên tàu.


Trong thời gian đó, trên chiếc Mac-Cawley, Turner chờ đợi báo cáo của Crutchley vốn đã ào ạt ra đi tiếp cứu hải đội trên chiếc Australia. Tin tức được đưa đến càng làm cho nỗi kinh hoàng của ông thêm toàn diện. Chiếc Canberra còn chiến đấu với ngọn lửa nhưng nó đang chìm dần. Chiếc Astoria cũng lâm tình trạng tương tự và đang tìm cách giạt vào bờ biển. Riêng chiếc Quincy và chiếc Vincennes thì hoàn toàn bị đánh chìm. Đấy là một tai biến trước nay chưa hề có. Trong sáu tuần dương hạm của hạm đội dưới quyền Crutchley chỉ còn lại một chiếc duy nhất, chiếc của ông, nhờ phép lạ được cứu thoát bởi vì nó không có mặt ở đấy lúc trận đánh xảy ra… Riêng phần chiếc Chicago thì biến mất. Về sau được biết rằng nó đã chế ngực được ngọn lửa nhưng bị loại khỏi vòng chiến và chạy thật chậm về Espiritu Santo. Hạm trưởng, ý thức được lầm lỗi mà mình đã phạm phải, đã tự sát.


Trước Lunga, tiếng súng vang dội và ánh lửa của trận đánh đã gieo rắc hỗn loạn trên các hải vận hạm đang bốc dở hàng. Công việc thật sự không thể nào bắt đầu lại trước bình minh hôm sau.

Turner, ngoài những khuyết điểm khác, còn có một khuyết điểm đôi khi rất tốt: ông cứng đầu như một con lừa. Ông đã hứa với Vandegrift là sẽ cho bốc xuống một nửa quân dụng. Ông giữ lời. Dây liên lạc vừa mới chớm nở giữa hai người vì thế lại càng thắt chặt thêm. Mặc dù lực lượng chuyển vận đổ bộ của ông có thể lâm vào tình trạng hiểm nguy vì các tuần dương hạm địch mà ông tin là còn nằm trong vùng kế cận và các phi cơ oanh tạc Nhật từ sáng sớm đã bắt đầu thả bom xuống đoàn hải vận hạm, Turner vẫn ra lệnh bắt tay vào việc trở lại. Lực lượng chuyển vận vẫn bỏ neo suốt buổi sáng hôm sau. Nó lãnh đạm nhận bom của Nhật, vốn chỉ may mắn gây ra rất ít nạn nhân. Đến quá trưa, Turner hài lòng được biết rằng phi trường sẽ có thể tiếp đón các khu trục cơ trong vòng 48 giờ nữa và các khu trục hạm chuyên chở các thùng xăng sắp khởi hành từ Espiritu Santo. Hơn một nửa quân dụng đã được đưa lên bờ và phần nào yên tâm với số phận của các thuỷ quân lục chiến mà ông sẽ để lại đằng sau mình, Turner cho kéo kỳ hiệu nhổ neo.


Không được hải lực che chở đúng nghĩa của nó và chỉ với một nửa vũ khí, đạn dược và đồ tiếp tế đã tiên liệu, khu vực chiếm đóng của Mỹ trên đảo Guadalcanal sắp sửa lâm vào trường hợp một đội quân trú phòng bị bao vây.


Vandegrift tập họp các sĩ quan và trình bày cho họ tình hình chung. Để kết luận ông nói thêm rằng tổ quốc đang chăm chú nhìn vào thuỷ quân lục chiến và Guadalcanal phải được giữ vững bằng bất cứ giá nào. Phi trường liền được đặt tên là Henderson Field tên của một không đoàn trưởng bị tử trận tại Midway. Tên gọi ấy sẽ có giá trị như một biểu tượng. Khi cuộc họp chấm dứt, các sĩ quan trở về đơn vị phấn khởi vì sự can đảm của ông tướng tư lệnh và các chỉ thị sáng suốt của ông. Ngay đêm đó, niềm phấn khích lan tràn khắp mọi cấp bậc: dầu cho có chuyện gì xảy ra chăng nữa, Guadalcanal cũng sẽ đứng vững.


Ngay từ 15 tháng 8, Vandegrift báo hiệu cho Ghormley là Henderson Field đã có thể hoạt động được. Hôm sau các khu trục hạm chở đầy phuy xăng và nhớt đến trước Lunga Point. Ngày 20 tháng 8, 19 khu trục cơ F4F Grumman và 12 oanh tạc cơ đâm bổ SBD của thuỷ quân lục chiến đáp xuống phi trường. Một chu vi phòng thủ vững chắc đã được thiết lập bao chung quanh phi đạo trên mặt trận 10 cây số. Bất chấp ánh mặt trời gay gắt, mưa rào, và muỗi, những con người ấy, những người đã cáu kỉnh biết bao khi phải khuân vác các thùng chứa quân dụng, đã hoàn tất trong vòng mười ngày một công việc mà trong những lúc khác phải đòi hỏi đến hai tháng…


Về phía quân Nhật, họ ra sức thắng quân Mỹ bằng tốc độ. Khinh thường một cách quá lố tầm quan trọng và nhất là giá trị các lực lượng của Vandegrift, tướng Hyakudate, tư lệnh lộ quân 17 tại Rabaul đã cho các hải vận hạm kiêm phóng ngư lôi đỉnh chở đến Guadalcanal bộ phận tiền phương của một lữ đoàn bộ binh. Một ngàn người đã đổ bộ lên đảo cách Henderson Field chừng 20 cây số về phía đông dưới quyền chỉ huy của đại tá Ichiki. Cuộc đổ bộ này được thực hiện ban đêm đã thoát khỏi tai mắt quân Mỹ, nhưng một toán tuần tiễu của Nhật lại bất cẩn tiến quá xa một cách lộ liễu. Ichiki quyết định tấn công ngay mà không chờ phần còn lại của lữ đoàn được đưa đến. Viên đại tá này vốn vừa từ các thuộc địa Hà lan tại Ấn Độ Dương đến, nơi ông từng biết các chiến thắng dễ dàng, tưởng tượng có thể đánh úp thuỷ quân lục chiến Mỹ trước khi họ kịp chạy vào chiến hào và đẩy họ ra biển chẳng khó khăn gì cả.


Ngày 21 tháng 8, lúc 3 giờ sáng, ông tung quân xung phong vào dải cát chắn ngang trước cửa sông Ilu mà thủy triều rút xuống đã để lộ lên khỏi mựt biển. Ba trăm bộ binh vừa gào thét vừa nhào vào các cứ điểm phòng thủ của Mỹ, vài người còn cắm cả lưỡi lê vào đầu súng. Nhưng lập tức bị phản công bởi vũ khí tự động và pháo binh nhẹ, họ bị giết tại chỗ hoặc phải rút lui. Một giờ sau, Ichiki tấn công trở lại, lần này dựa vào hoả lực yểm trợ của pháo binh. Một cuộc đấu sức cực kỳ dữ dội xảy ra trên cửa sông, nhưng các pháo đội của Mỹ đặt trên các đỉnh đồi san hô phía tây con sông đã cho quân Nhật vào tròng và chặn đứng đà tấn công. Lúc đó Vandegrift phái ba trong các đại đội ưu tú nhất của ông tiến quân về nam để đánh bọc hậu lực lượng của Ichiki trước khi trời tối, các đại đội này đã được rừng rậm che khuất. Đến 9 giờ sáng, họ vượt qua sông trên một chiếc cầu dã chiến. Lệnh xung phong toàn diện được ban hành lúc 14 giờ dưới sự che chở của các phi cơ khu trục vừa mới đến Henderson Field hôm trước. Quân Nhật bị bao vây và bị quấy rối khắp mọi phía, đã kháng cự cực kỳ hung dữ, chứng tỏ lần đầu tiên, sức chịu đựng phi thường mà họ có thể biểu lộ trong các trận đánh phòng thủ. Đến 17 giờ, Ichiki toan tính một nỗ lực cuối cùng để phá vỡ chiếc thòng lọng đang siết chặt chung quanh quân đoàn của mình. Vô ích. Vài binh sĩ thoát chạy được dọc theo bờ biển đều bị liên thanh của các phi cơ bay sát mặt đất bắn gục.


Khi các thuỷ quân lục chiến vượt qua các đống xác tiến vào doanh trại của Nhật, họ chỉ trông thấy còn có 130 người sống sót. Khi dở tấm ván che của một chiếc lều dã chiến dùng làm bộ chỉ huy lên, họ thấy một hình dáng màu trắng nằm sóng sượt trong một vũng máu. Đến phút chót, khoác chiếc Kimôn đại lễ vào người trên đó có ghim một mảnh giấy ghi lời xin lỗi Thiên hoàng, đại tá Ichiki đã dùng dao găm tự mổ bụng.


Thế là xong cuộc xung phong đầu tiên của quân Nhật vào Henderson Field chấm dứt. Chiến công này đã làm cho thuỷ quân lục chiến Mỹ say sưa đôi phần, nhưng Vandegrift biết rằng đấy chỉ mới là một cuộc chạm trán sơ sơ. Ông được tổng hành dinh của tướng Mac Arthur, nay được đặt tại Brisbane, tiên báo rằng phần còn lại của lữ đoàn do tướng Kamaguchi chỉ huy sắp sửa ra khơi dưới sự yểm trợ của một hải lực hùng mạnh.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top