Sấm sét trên Thái Bình Dương

Sự di chuyển lực lượng muộn màn này lẽ ra đã có thể đạt được mục tiêu nếu như chiếc hàng không mẫu hạm được những người tun tin loan báo, đã thật sự lên đường đi Viễn Đông. Thế mà thực tế không phải như vậy… Chiếc Indomitable, mà sự hoàn tất gặp rất nhiều khó khăn và các cuộc chạy thử đã chấm dứt trong vùng biển Caraibles, đã bị thất bại như khó tưởng tượng được rằng khi biết việc bất lợi này mà Đô đốc Tom Philips còn chấp nhận tiếp tục cuộc hành trình. Ông vừa rời các bạn đồng sự của Không lực Hoàng gia, những người đã cùng ông làm việc trong suốt một năm để làm tê liệt các thiết giáp hạm của Đức bỏ neo trong hải cảng Brest. Ông không lạ gì những nguy cơ mà các thiết giáp hạm phải đương đầu trước các phi cơ phóng thuỷ lôi và các oanh tạc cơ đâm bổ. Trong lúc cáo biệt các đồng sự của Lục quân và Không quân RFA, Thống chế Không quân Harris, tư lệnh đơn vị Bomber Command một trong các tướng lĩnh viễn kiến nhất về cuộc chiến, đã nói khi bắt tay ông: “Don’t forget your umbrella Tom!” (Đừng quên chiếc dù không lực săn giặc!). Philips đã cười với người bạn thân với một cái nháy mắt để ông ta yên tâm. Tuy vậy sau đó, ông đã chẳng hề để tâm đến lời khuyến cáo này.


Đến Tân Gia Ba ngày 2 tháng 12 năm 1941, ngày 5 Sir Tom Philips lấy phi cơ đi Manille để hội kiến với Mac Arthur và Đô đốc Hart. Ông thấy họ rất tin tưởng vào các cứ điểm vững chắc của Mỹ tại Phi Luật Tân, nhất là khi họ vừa nhận được nhiều “pháo đài bay” B-17, kiểu phi cơ tối tân nhất của kỹ nghệ hàng không. Không gạt bỏ khả năng mở cuộc tấn công của Nhật vào các thuộc địa Hà Lan tại Ấn Độ Dương, họ ước tính rằng đấy là cả một mối đe doạ trường kỳ và đảm bảo với ông một sự hỗ trợ của Mỹ ngày càng tăng, trong giới hạn của công thức “All but war”. Nhưng tối ngày hôm sau, 6 tháng 12, có tin một đoàn công voa Nhật mới được phát giác trong Vịnh Xiêm La. Chắc đó là một sự lấn áp mới của Nhật trên xứ sở nhỏ bé Đông Nam Á này, tương tự như những lấn áp mà họ đã làm cách mấy tháng trước tại Đông Dương bằng cách lợi dụng sự bại trận của Pháp. Biến cố không kém phần nghiêm trọng và vị Đô đốc Anh lập tức quyết định cáo biệt các chủ nhân.


Từ Manille hấp tấp ra đi ngày 7, tối hôm đó Philips đến Tân Gia Ba và thảo luận với vị Tổng tư lệnh Sir Robert Brooke, về cơ hội thuận tiện để tung ra đúng lúc cuộc tấn công được dự liệu trong kế hoạch dưới danh hiệu “Matador”, mà nội dung gồm có việc chiếm đóng Thái Lan để đi trước cuộc xâm lăng của Nhật. Thật vậy ai cũng tin rằng đoàn công voa bị phát giác đêm trước tiến về Singora, một hải cảng của Thái Lan nằm cách biên giới Mã Lai vài chục cây số về phía bắc. Vừa mới nhận được lệnh từ Luân Đôn, theo đó chỉ tung ra “cuộc hành quân Matador" là nếu có bằng cớ chắc chắ quân Nhật vi phạm qui chế trung lập của Thái Lan, Sir Robert Brooke ước tính rằng phải chờ đợi, trước khi chủ động một hành động quân sự có hậu quả lớn lao như thế, cho đến khi có tin tức chính xác hơn về hải trình của đoàn công voa Nhật.


Cuộc hội kiến giữa hai tướng lĩnh vừa mới chấm dứt thì cả một làn sóng tin tức báo động đổ đến chấm dứt thái độ do dự của vị Tổng tư lệnh. Chỉ huy trưởng cảng Khota Baru, nằm ngay biên giới Thái Lan, báo cáo một cuộc đổ bộ lên bờ biển và một cuộc hải pháo dữ dội. Vài giờ sau, trong khi Bộ tham mưu ban hành mệnh lệnh cho các phi trường để khởi động một cuộc không tập nhắm vào đoàn công voa Nhật Bản, các đài rada Tân Gia Ba báo hiệu có một đoàn phi cơ lạ đang bay về phía đảo này.


Đến 4 giờ 40 sáng, thành phố đang còn sáng trưng ánh đèn, đột nhiên bị đánh thức vì tiếng bom nổ. Công tác chuyển lệnh báo động đến các nơi đã do các chấp hành thiếu kinh nghiệm và thiếu lương tâm đảm trách. Sự bối rối tương tự cũng đã làm tê liệt phản ứng ở mọi cấp thuộc hệ thống chỉ huy và sáng ngày 8 tháng 12, tất cả các phi trường tại Mã Lai bị oanh tạc nặng nề mà không một phi cơ săn giặc nào của Anh cất cánh được. Cuộc tấn công sấm sét này nhắm vào các đoàn phi cơ vốn đã yếu thế hơn về lượng lẫn phẩm đã mang lại những hậu quả thảm hại: Ngay từ đầu tiên của cuộc xung đột, quân Nhật đã làm chủ được bầu trời trên bán đảo Mã Lai.


Nếu cuộc oanh tạc lần đầu tiên vào Tân Gia Ba không gây hậu quả quân sự nào-các phi cơ Nhật bị chiếu sáng bất chợt, đã không thể nào phân biệt được mục tiêu-thì nó lại gây hậu quả thê thảm trên tinh thần dân chúng. Hai trăm nạn nhân thiệt mạng trong khu bản xứ quá đông đúc và người Mã Lai cho đến lúc đó vốn tin tưởng rằng sức mạnh của Anh là vô địch, đột nhiên mất hẳn ảo tưởng. Tiếp theo đó là một tình trạng rối loạn tiềm năng và mau lẹ bùng nổ thành cơn hỗn loạn gây xáo trộn sâu xa công cuộc cai trị tại thuộc địa. Cảm nghĩ khinh thường tương tự cũng lan tràn tại một vài đơn vị quân Ấn Độ đang được đưa ra nằm ở tuyến đầu và câu chuyện truyền kỳ về ưu thế tuyệt đối của quân lực Nhật Bản lan truyền mãi cho đến cả trong hàng ngũ quân Anh. Riêng về phần các nhà chức trách dân sự, những người đã bất cẩn bộc lộ niềm tin tưởng lạc quan và đã tuyên bố với những ai muốn nghe nói đến một cuộc xâm lăng của Nhật Bản là hoàn toàn không thể nào có được, thì họ đã bị mất hết lòng tin của dân chúng kể cả dân bản xứ Á châu lẫn người Âu châu.


May thay, còn có hải quân! Trong một môi trường chủ yếu là hàng hải như thế này, Hải quân Hoàng gia Anh đã giữ được cho uy tín khỏi bị sứt mẻ.
 
Thiết giáp hạm Prince Of Wales và tuần dương hạm Repulse

Vào thời đó, Tân Gia Ba là viên ngọc đẹp nhất của xâu chuỗi những bến ghé cho thương thuyền bao chung quanh lục địa Á châu. Đấy là hải cảng xinh tươi nhất và cũng là hải cảng hạng nhất đối với du khách từ Âu châu đến. Ngay khi vừa bước chân xuống tàu, sức quyến rũ đông phương đã làm nghẹn cổ du khách với những bó nhang cháy rực trước chùa chiền, mùi xào nấu của các xe hàng ăn lưu động, những thớ thịt rung rinh, những thực phẩm kỳ lạ và những cửa hàng bí mật phảng phảng những làn khói siêu nhiên. Bến tàu và đường phố treo đầy những bảng hiệu vàng chói và những biểu ngữ bằng vải; sôi sục một thứ tiếng ồn ào không dứt, xen vào những tiếng lách cách chói tai và tiếng kêu la hổn hển của những người kéo xe. Tại đấy ta có thể cảm thấy luồng thương vụ khổng lồ trao đổi giữa Đông phương và Tây phương như nhịp tim đập của mạch máu trong cơ thể. Đối với những kiều dân Anh vốn sống hơi tách biệt một chút trong các biệt thự kiểu cổ thời Victoria, được một thứ rừng thẳm con con che chở khỏi những cái nhìn tò mò của người ngoài, thì Tân Gia Ba, với những kho quân dụng và những pháo đài mạnh mẽ, là cả một biểu tượng sống động của hào quang chiến thắng thuộc Vương quốc. Riêng phần các thuỷ thủ của Hải quân Hoàng gia, thì từ trên cao của các chiến hạm, họ hãnh diện ngắm nhìn hải cảng trù phú ấy, nơi mà tàu bè của cả thế giới đi qua trong không khí hoà bình kiểu “Pax Britannica” vốn được đảm bảo dưới họng súng đại bác của họ.


Chắc chắn vì biết trách nhiệm chung của mình trong việc duy trì không khí hoà bình xưa cũ ấy mà hơn ai hết họ mẫn tiệp thấy sự xúc phạm của mấy anh lùn Nhật Bản là khó lòng tha thứ được. Đối với Đô đốc Philips, quyết định phải ban hành là đương nhiên: ông sắp đưa các thiết giáp hạm xuất trận và giáng cho quân xâm lăng một vố trừng trị sấm sét.


Khi Đô đốc Tom Philips vừa mới rời khỏi văn phòng Tư lệnh thì người ta báo đưa cho ông bản tin khó tưởng tượng nổi về tai biến tại Trân Châu Cảng. Ông nhảy lập tức đến Bộ tham mưu Không quân để yêu cầu Tướng Pulford che chở trên không cho sư đoàn trong cuộc xuất trận vào ngày mai. Sau khi khu trục cơ săn giặc đêm của ông trở về không, tiếp theo cuộc oanh tạc của Nhật, Pulford trả lời một cách mơ hồ: tất cả đều lệ thuộc vào tin tức ông ta nhận được từ biên giới Thái Lan, nơi mà hai trong số ba phi đoàn của ông được tung vào trận đánh.


Khi trở về chiến hạm Prince of Wales sau một đêm mệt nừ, Philips triệu tập các hạm trưởng và các sĩ quan chính yếu của ông. Trong buổi hội này, tất cả mọi tin tức địch tình đều được mang ra cứu xét. Quân Nhật đã đổ bộ lên Khota Baru và Singora dưới sự che chở ở tầm xa của một thiết giáp hạm thuộc cùng loại với chiếc Kongo-thiết giáp hạm cũ thời 1914-và năm tuần dương hạm kiểu mới hơn. Không ai biết số lượng phi cơ Nhật đặt căn cứ tại Đông Dương, nhưng mọi chỉ dẫn đã cho thấy đó là một lực lượng rất đáng kể. Vậy thì chỉ cần một sự che chở hạn chế của khu trục cơ cũng đủ cho phép Lực lượng Z đánh bất ngờ vào các dương vận hạm chở quân của Nhật rồi sau đó sẽ quay trở lại hạm đội che chở của đối phương. Giờ thuận lợi nhất để tấn công đoàn dương vận hạm Nhật ở Khota Baru là bình minh ngày mốt, 10 tháng 12. Điều này đòi hỏi phải nhổ neo từ Tân Gia Ba ngay đêm nay lúc 17 giờ.


Tất cả các sĩ quan hiện diện đều nhất trí thừa nhận rằng Hải quân Hoàng gia không thể nào toan tính điều gì trong những hoàn cảnh trầm trọng như vầy, và rằng cuộc hành quân do Đô đốc đề nghị là “liều lĩnh nhưng chấp nhận được”.


Vài giờ sau, chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse ra lệnh sẵn sàng nhổ neo. Đến 17 giờ 35 hai chiến hạm được bốn khu trục hạm hộ tống tiến ra khỏi hải cảng hướng về phía đông để trong đêm sẽ chạy vòng quần đảo nhỏ Anambas hầu tránh khu vực hải phận bị nghi ngờ là có mìn.


Bóng đêm ngày 8 rạng ngày 9 tháng 12 buông xuống rất sớm dưới một bầu trời đầy mây xám và mưa to. Các thủy thủ đoàn thích thú được biết rằng họ sẽ được đi “tìm cuộc đánh nhau”. Niềm tin của họ vào các đại chiến hạm mà họ đang ở trên đó là niềm tin tuyệt đối. Không một ai trên tàu lo lắng thật sự.


Tại Sài Gòn, Bộ tư lệnh Hải quân Nhật vì sợ sự can thiệp của đoàn chiến thuyền Anh quốc mà tất cả các đài phát thanh trên thế giới đều loan báo là đã đến Tân Gia Ba, nên vội tăng cường các biện pháp đề phòng cẩn mật. Đô đốc Kondo, tư lệnh hạm đội số 2 đã nhổ neo với hai thiết giáp hạm và năm tuần dương hạm. Ngoài công cuộc thám sát liên tục được các máy bay trên chiến hạm thực hiện, nhiều tàu ngầm được bố trí chờ đợi đây đó trong quần đảo Anambas.


Các cuộc thám sát chưa mang lại kết quả nào thì lúc 14 giờ ngày 9 tháng 12, một trong các tàu ngầm tuần tiễu thấy lực lượng Hải quân Anh từ xa. Điện văn xác định vị trí do tàu ngầm này đánh đi đã tạo ra biến động toàn diện tại Sài Gòn. Một phi đoàn sẵn sàng cất cánh để oanh tạc đêm một lần nữa vào Tân Gia Ba đã được chặn lại kịp thời. Người ta vội vàng thay thế bom bằng thuỷ lôi và các phi cơ xếp hàng để chờ cất cánh ngay lập tức. Hạm đội của Đô đốc Kondo lúc ấy đang ở phía nam đảo Côn Đảo, chuyển hướng về phía Tây để cắt ngang đường về của đối phương và phóng các phi cơ thám sát lên trời.


Trong suốt ngày 9 tháng 12 đó, lực lượng Z tiếp tục hải trình lên phía bắc bằng cách chạy theo chữ chi. Trời xấu, mây thấp và mưa rào liên miên làm tràn ngập các cầu tàu, nhưng chếin hạm vẫn đường bệ rẽ sóng trên mặt biển Nam Hải. Kế hoạch của Đô đốc Philips có vẻ diễn tiến trong những điều kiện thuận lợi nhất.
 
Tuy nhiên, đến 18 giờ 20 một khoảng trời sáng hiện ra, các binh sĩ canh gác của Lực lượng Z thoáng thấy chiếc bóng tí Honolulu của một phi cơ bay rất cao. Vừa lúc Đô đốc ra lệnh hướng về phía tây bắc để tiến đến hải cảng Khota Baru. Sự xuất hiện của chiếc phi cơ lạ mặt đã gieo rắc mối kinh hoàng trên cầu tàu chiếc Prince of Wales. Trong lúc ấy Philips vẫn tiếp tục con đường hy vọng rằng chiếc phi cơ độc nhất ấy không thấy được các chiến hạm. Nhưng một giờ sau, một phi cơ khác lại bay trên đoàn tàu. Không thể nghi ngờ gì nữa, quân Nhật đã xác định được vị trí của Lực lượng Z, và hy vọng tấn công bất ngờ các dương vận hạm địch vào bình mình sáng hôm sau trở thành ảo vọng.


Gần như cùng lúc đó, một điện văn từ Tân Gia Ba được gửi đến cho chiếc Prince of Wales. Nó báo hiệu sự hiện diện của hai hàng không mẫu hạm Nhật phía nam vịnh Thái Lan và sự tập trung mạnh mẽ các oanh tạc cơ trên các phi trường tại Đông Dương. Điện văn còn thêm rằng các phi trường của Anh phía bắc Mã Lai bị oanh tạc nặng nề và không thể nào gửi đến Khota Baru lực lượng không quân che chở được yêu cầu cho ngày mai.


Những tin tức tai biến tuôn đến như thác đổ này làm cho những ngần ngại của Đô đốc trở nên có lý. Đến 20 giờ 50 ông ra lệnh cho Lực lượng Z quay ngược trở lại để trở về Tân Gia Ba.

Bầu trời lại bị mây che kín và bóng đêm đen tối đặc biệt. Đô đốc tin chắc rằng việc đổi hướng của ông không bị quan sát và nhờ bóng tối, ông có thể tránh xa khu vực nguy hiểm mà không lo ngại gì cả.

Thật vậy 4 giờ trôi qua mà không có cuộc báo động mới nào. Trên cầu tàu Prince of Wales người ta bắt đầu hít thở tự do.


Beê phía Nhật Bản trái lại, tình trạng báo động khẩn cấp hơn bao giờ hết. Các oanh tạc cơ đã trở về không trên phi trường Tân Sơn Nhất và không một tàu ngầm nào có thể tiếp xúc được đối phương. Đô đốc Kondo, vốn không có ý đương đầu ngay trong đêm với các chiến hạm khổng lồ của Anh mà các họng súng lớn gấp đôi vũ khí của ông, đã hướng thẳng hạm đội lên phía Bắc để chờ kết quả cuộc thám sát vào cuộc bình minh hôm sau.

Chính lúc đó bàn tay Thượng Đế can thiệp vào.

Lúc 1 giờ sáng ngày 10, Đô đốc Philips đang nằm nghỉ trong phòng trực, được một sĩ quan mang điện văn đến trình đánh thức dậy. Tân Gia Ba báo cho ông biết rằng một cuộc đổ bộ mới của Nhật đang diễn ra tại Kuantanr trên bờ biển Mã Lai. Sĩ quan phụ trách hải hành nghiêng người trên bản đồ và trình Đô đốc rằng Kuantan nằm giữa Tân Gia Ba và Khota Baru không đầy 6 giờ đường đối với chiếc Prince of Wales. Lập tức Sir Tom Philips ra lệnh tiến thẳng đến đấy. Ông đâu có bếit, con người khốn khổ, ông sẽ lao đầu một cách vô ích vào tình trạng nguy khốn như thế nào!


Hai giờ sau, một tàu ngầm Nhật đang tuần tiễu phía tây bắc quần đảo Anambas từ xa trông thấy Lực lượng Z và nhắm phóng luôn sáu quả thuỷ lôi nhưng không quả nào trúng đích. Chúng còn chạy cách xa các chiến hạm là đằng khác vì các xạ thủ không thấy được luông sóng sau chiến hạm. Nhưng chiếc tàu ngầm báo hiệu cho Đô đốc Kondo về cuộc tấn công và cho biết vị trí phỏng định. Tin tức này rất quan trọng. Giờ đây Kondo biết rằng lực lượng Anh sắp đi qua phía tây quần đảo Anambas. Ông ra lệnh cho Tân Sơn Nhất cho cất cánh tất cả các oanh tạc cơ và oanh tạc cơ phóng thuỷ lôi sẵn có nhằm về hướng đó một giờ giờ trước bình minh.


Không biết rằng mình đã lộ vị trí một lần nữa, Tom Philips tiếp tục tiến tới Kuantan và đến nơi khi trời vừa hừng sáng. Thuỷ thủ đoàn các chiến hạm đều ở vào thế chiến đấu và các xạ thủ đại bác sắp sửa khai hoả vào các dương vận hạm địch. Nhưng mặt trời nhô lên trên một vùng biển trống trơn… Trong vòng ba khắc đồng hồ-từ 8 giờ đến 8 giờ 45-Lực lượng Z chạy dọc theo bờ biển chầm chậm mà không thấy gì ngoài vài chiếc ghe. Do lương tâm nghề nghiệp, Đô đốc phái một chiến hạm hộ tống đến thám sát chúng, rồi với tư thế hoàn toàn bình tĩnh, ông ra lệnh chạy nhanh về Tân Gia Ba.


Bộ tư lệnh Nhật vì không bao giờ tính toán đổ bộ lên Kuantan cho nên không hề tưởng tượng rằng Lực lượng Z lại có thể tiến gần vào bờ biển như thế, bất chấp nguy cơ rơi vào bãi mìn, cũng vì vậy đoàn phi cơ từ Tân Sơn Nhất bay trên vùng biển thật xa bờ về phía đông đã không trông thấy đoàn tàu Anh. Chúng nới rộng vùng tìm kiếm mãi tận khu vực cách Tân Gia Ba 200 hải lý, rồi vì sợ thiếu xăng, đành quay trở về.


Một loạt chuyển động tuy không ăn khớp này, đã khoá chặt số phận của Lực lượng Z.
Đến 10 giờ 20, trong lúc chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse rời xa bờ biển chạy theo hướng đông nam, các màn rada của chúng nổi lên nhiều chấm trắng: đó là các oanh tạc cơ phóng ngư lôi Nhật đang bay trở về căn cứ phía bắc…


Lập tức tiếng kèn báo động vang dội. Lệnh báo động được loan đi: “Có phi cơ bên phải!”. Các vũ khí loại Vickers nòng đôi được chụp vào các nắp sa thạch để tránh nóng đỏ. Tất cả các vũ khí nhắm ngay vào các phi cơ địch đang xuất hiện trên bầu trời xanh như vô số viên ngọc chói sáng. Các sĩ quan phụ trách hướng bắn chống phi cơ dùng dụng cụ riêng tính toán khoảng cách và giác độ. Giờ đây chỉ còn chừ khoảng cách giảm dần để khai hoả vào các phi cơ tấn công mà số lượng ngày càng đông.


Ngay lúc các súng cao xạ bắt đầu nổ đinh tai, một toán chín oanh tạc cơ đầu tiên thả bom xuống chiếc Repulse. Phần lớn đều rơi ra ngoài nhưng một trái đã trúng vào hầm chứa phi cơ khiến nó bốc cháy. Toán an ninh hướng chiếc máy phóng phi cư và trút chiếc phi cơ đang chảy xang xuống biển. Hoả hoạn được dập tắt ngay và thiệt hại không đáng kể. Một tiếng la thắng át cả tiếng ồn ào: đó là các xạ thủ cao xạ đang thét lớn “Trúng nó rồi!”. Một phi cơ Nhật vừa bị hạ và một cột nước vĩ đại bốc lên cao hàng trăm thước khỏi chiến hạm.
 
Đợt báo động nóng bỏng vừa qua, chín phi cơ khác nhào tới chiếc thiết giáp hạm. Lần này chúng bay xuống sát mặt nước bất chấp hoả lực khủng khiếp bắn chặn. Ba phi cơ bị hạ, nhưng sáu chiếc khác phóng được thủy lôi và hai quả trúng chiếc Prince of Wales bên trái phía sau.


Lần này thì cả một tai hoại. Máy điều khiển bánh lái bị hư, trục quay chong chóng bên trái bị gãy tung để lại đằng sau môt lỗ thủng lớn. Chiếc chiến hạm tả tơi tìm chỗ trốn. Nó chỉ có thể chạy chầm chậm và chiếc Repulse thì vượt qua không tỏ vẻ vì là muốn điều động đến tiếp cứu. Chính nó cũng bị đe doạ bị một đợt phi cơ thứ ba tấn công và phải chạy theo chữ chi để tránh các luồng sóng.


Đến 12 giờ 20, sau một thời gian yên lắng ngắn, đợt tấn công thứ ba đã đến. Phi cơ tấn công chia làm hai toán: sáu chiếc nhắm vào chiếc Prince of Wales và sáu nhắm vào chiếc Repulse. Chiếc đầu lại lãnh ba quả thuỷ lôi, chiếc thứ nhì một quả thôi. Nhưng ba phút sau một đợt tấn công mới thúc vào chiếc tuần dương hạm chiến đấu kỳ cựu không còn khả năng trả miếng nữa. Không thể thoát được các đợt xung phong hung dữ từ khắp mọi phía, chiếc Repulse bị đánh đến chết bởi bốn thuỷ lôi mới. Nó bị lật nghiêng và trong lúc thuỷ thủ đoàn trượt theo thân tàu để nhảy xuống nước, nó chúi xuống từ từ và chìm lỉm.


Tuy nổi danh là không thể bị đánh chìm được, thiết giáp hạm Prince of Wales cũng không còn sống lâu hơn. Lại bị chín phi cơ khác tấn công và trở thành bất lực, đến phiên chiếc chiến hạm đường bệ chìm xuống nước. Lúc 14 giờ ngày 10 tháng 12, nó biến mất trong một đám mây khói khổng lồ. Một phóng ngư lôi hạm can đảm tiến đến gần vớt được hai phần ba thuỷ thủ đoàn (Chừng 1.200 người. Số phận của thủy thủ đoàn chiếc Repulse ít may mắn hơn vì xuồng cấp cứu không thể thả xuống được. Chỉ có 780 người được vớt lên mà đa số đều bị thương) nhưng cả Đô đốc lẫn Hạm trưởng đều không có mặt trong số những người sống sót. Họ không thể hay không muốn rời chiến hạm.


Tin tức về tai biến mới này đập mạnh vào trái tim Anh quốc. Mới đêm trước đây Churchill còn dự tính với ông Bộ trưởng Hải quân thành lập một hải lực hùng mạnh của Đồng minh xung quanh hai chiến hạm ấy để giữ vững biên giới Mã Lai, nay ông thật sự rụng rời khi hay tin ấy. Vì sắp lên đường qua Mỹ, ông đến Quốc hội đọc một diễn văn, cố gắng quân bình chứng cớ thất bại này bằng cách nói đến sự bố trí mặt trận Nga Sô và sức mạnh kỹ nghệ của Hoa Kỳ. Lời nói của ông được lăắn nghe trong một không khí im lặng lạnh lẽo. Trong Thứ dân Nghị viện này, nơi làm việc của các đại biểu một dân tộc mà ngành hàng hải là chủ yếu, mỗi người đều bối rối cảm thức rằng đây không phải là hồi chung cục thảm bại của một trận hải chiến thường nhưng kết cục bi thảm của chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse là hồi chuông báo tử của thời đại thiết giáp hạm và từ sự kiện đó, là hồi chuông báo tử của thuộc địa Anh quốc…


Tại Tân Gia Ba, sự xúc động còn lớn lao hơn. Người Nhật nay đã làm chủ tuyệt đối bầu trời và mặt biển. Họ sẽ có thể mang đến tận khắp nơi bao nhiêu tăng viện cũng được. Đạo quân nhỏ bé của Anh đang chiến đấu dũng cảm trong rừng rậm tại các cứ điểm rải rác, chẳng chóng thì chầy sẽ bị đẩy ra biển và giờ đây mỗi người đều biết rằng sẽ không có một “Dunkerque” nữa.

Quả thật đã không có một Dunkerque nào.


Cùng ngày hôm ấy, 10 tháng 12, các thành phần xung kích của đạo quân thuộc Tướng Yashimura từ Singora đến đã tấn công và đặt chân lên biên giới Mã Lai, đẩy lùi hai lữ đoàn Anh bảo vệ cứ điểm. Đạo quân xâm lăng tràn lan khắp nơi theo hai đường giao nhau, một phía tây, một phía đông dọc theo dãy núi chạy dài từ bắc đến nam Mã Lai.


Kế hoạch phòng thủ của Anh chủ yếu là dựa vào sự thành công của một cuộc phản công trên biên giới Thái Lan. Trong trí vị Tổng Tư lệnh Sir Robert Brooke, sự chiếm đóng mau lẹ các phi trường của Thái Lan chắc sẽ phải tạo cho quân Anh một ưu thế không quân địa phương tuyệt đối giúp họ đập tan mọi mưu toan xâm lăng từ trong trứng nước. Nhưng để ngăn chặn viễn ảnh của các cuộc đổ bộ lên bờ biển, các phi trường tại Mã Lai phải được phòng vệ vững chắc. Các phi trươờn này được thiết lập rải rác dọc theo những cánh đồng bằng phù sa nằm viền phía tây của rặng núi xương sống, trên bán đảo một hệ thống phòng thủ chiều sâu đã được thiết lập chung quanh chúng. Sự kiện này làm cho các sư đoàn quân Anh bị rải mỏng dọc theo bờ biển phía tây của bán đảo.


Các cuộc đổ bộ bất thần tại Singora và Khota Baru giúp cho quân Nhật chiếm được tất cả các phi trường tại Thái Lan và tại Khota Baru ngay trong ngày đầy tiên, do đó kế hoạch của Anh biến thành hư vô. Phần lớn phi cơ của Anh bị tiêu diệt trên mặt đất bởi các cuộc oanh tạc liên miên, và một vài chiếc hiếm hoi còn sót lại phải rút lui về phía nam. Các lữ đoàn phòng vệ các phi trường này lần lượt bị tấn công, và vì không có hậu thuẫn của không quân, chúng phải rút lui và cố sức tập trung vào khu vực giữa núi và biển.


Chính các khu vực được phù sa bồi đắp này tập trung tất cả công cuộc canh tác của bán đảo và các đồn điền cao su. Chúng được nối liền với nhau bằng một hệt hống đường bộ và thiết lập từ Johore đến Bangkok, nhưng một vài điểm tựa hiếm hoi được thiết lập tại đấy đã phô bày cho không quân Nhật những tấm bia đỡ đạn tuyệt diệu. Trong tuần lễ kế tiếp, nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra dưới các cuộc oanh tạc không ngừng nhằm chống lại một địch thủ đông hơn và được huấn luyện kỹ hơn. Tiến sâu trên đường bộ với loại chiến xa hạng nhẹ, theo sau các đơn vị thiết giáp Nhật là các đơn vị bộ binh ưu tú tràn ngập khắp nơi bằng xe đạp mà họ lấy cắp khi tràn qua làng mạc. Các lữ đoàn Anh đang tháo lui không có đường rút nào khác hơn là lẩn vào các khu rừng lân cận. Họ thấy bị cô lập ngay tại đó, không có phương tiện truyền tin lẫn pháo binh yểm trợ.


Phải biết rõ rừng rậm Mã Lai mới hiểu nỗi thống khổ mà những con người khốn khổ ấy phải chịu đựng. Ngoài đầm lầy và ruộng lúa, khoảng cách trông rõ của họ bị hạn chế trong tầm vài chục thước. Một đơn vị lọt vào đấy phải tổ chứ phòng thủ tứ phía. Quân Nhật thì rất thông thạo trong việc khai thác cảm giác sợ hãi hỗn loạn xâm chiếm các toán quân Anh lạc vào trong thế giới thù nghịch ấy. Họ tung vào rừng rậm các toán xung kích thường chỉ gồm vài chục người, nổ súng rời rạc khắp mọi phía và tạo cho quân Anh cảm tưởng bị bao vây. Khi đơn vị quân Anh cố gắng tổ chức lại để toan tính phá vòng vây rút lui, họ sẽ bị tấn công từ mạn sườn bởi đoàn người hung hăng lao đến với gươm dao. Lối thoát duy nhất của họ là bắn mù quáng để tìm cách ra khoảng trống với cơn nguy bị tiêu diệt bởi không quân hay hoả lực của thiết giáp địch.


Thoạt tiên các đồn điền cao su có vẻ như có thể giúp ích cho công cuộc điều quân, nhưng các cấp chỉ huy quân Anh lại tìm thấy tại đấy một thứ thất vọng khác. Những hàng cây thẳng tắp vô tận của hàng ngàn thân cây trơn tru và cách khoản nhau đều đặn đã làm cho việc xác định vị trí không thể nào thực hiện được. Trong rừng cao su, con người dễ dàng mất khả năng định hướng. Một sự rối loạn nhỏ xảy ra trong khi di chuyển, dẫn dắt mau lẹ cả đơn vị tán loạn hoàn toàn. Mọi cố gắng tập họp đều bị tê liệt vì ám ảnh thấy quân địch xuất hiện đột ngột dọc theo hàng thân cây dài viền quanh các khoảng đất trống. Lúc ấy những người bị cô lập cảm thấy chóng mặt. Sự thất vọng xâm chiếm cả những người can đảm nhất.


Một đoàn quân không được huấn luyện kỹ để học cách thoát ra khỏi hiện tượng đó và chỉ biết chịu đựng một cách thụ động, sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn và mau lẹ. Quân Nhật thì đã được huấn luyện như thế trước khi qua tham chiến. Quân Anh thì không làm như vậy, quân Úc lẫn cả quân Ấn lại càng không. Do đó các trận đánh để rút lui mau lẹ trở nên có tính cách một cuộc chạy trốn hỗn loạn, đối với những người sống sót, kết thúc trong những trại lao tác ghê gớm của “những chiếc cầu sông Kwai”.
 
Cuộc xâm chiếm Phi Luật Tân

Trong khi về phía tây những trận đánh đầu tiên diễn ra tại Ma Lai, về phía đông người Mỹ cũng phải chịu đựng những thất bại đau đớn tại Phi Luật Tân.

Thật vậy, kế hoạch miền Nam đã tiên liệu việc tiêu diệt các kẻ gây rối đang đe doạ cạnh sườn con đường chuyển vận đoàn quân xâm lăng chính yếu của Nhật Bản.

Nhờ màng lưới gián điệp xuất sắc, Yamamoto đã xác định giá trị của hệ thống phòng vệ Hoa Kỳ trên quần đảo Phi Luật Tân. Một tiểu hạm đội tuần dương hạm, vài tàu ngầm đặt căn cứ tại cửa khẩu Cavite trong vịnh Manille, hay hay ba sư đoàn bộ binh được thành lập với người bản xứ do các huấn luyện viên Mỹ chỉ huy. Không có gì có thể làm ông quá lo âu. Chắc ông có thể “qua mặt” dễ dàng những tiền đồn mong manh này mà sự tiêu diệt hạm đội Mỹ tại Trân Châu Cảng làm tiêu tan mọi hy vọng được yểm trợ. Nhưng đến phút chót, ông vừa được biết có 36 phi cơ B-17 vừa mới đến Manille, những pháo đài bay trứ danh mà vào thời đó không có một kiểu nào tương đương. Do đó ông đã ra lệnh oanh tạc ồ ạt các phi trường và đổ bộ vài đơn vị bộ binh lên phía bắc đảo Lujon, đảo quan trọng nhất và gần Đài Loan nhất trong quần đảo Phi Luật Tân.


Ngay trong thời bình, bộ tham mưu Mỹ cũng không bao giờ quan niệm có thể bảo vệ chừng 1.700 đảo và 8.000 đảo nhỏ của quần đảo tản mác này mà diện tích 300.000 cây số vuông trải dài trên hơn mười vĩ độ giữa đường xích đạo và các chí tuyến (Đúng 1.400 cây số). Quân đội của xứ “Commonwaelth” này được thành lập từ năm 1934 dưới sự giám hộ của Mỹ gồm binh sĩ được tuyển mộ tại địa phương và được huấn luyện bởi Tướng Mac Arthur, một trong các tướng lĩnh nổi bật nhất của Hoa Kỳ.


Là con của một người từng chủ toạ cuộc giải phóng lãnh thổ Phi Luật Tân thời chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha, ông tướng này đã tham dự các trận đánh đầu tiên tại quần đảo, đã đóng ở đấy hai lần, và có dây liên lạc thân hữu với quốc trưởng, Tổng thống Quezon.


Năm 1930, sau một binh nghiệp chói sáng, khi Douglas Mac Arthur leo lên chiếc ghế tối cao Tổng tham mưu trưởng Quân đội Hoa Kỳ, ông đã không quên xứ này, một xứ sở mà ông xem như là tài sản riêng của gia đình. Ông luôn luôn có ý tưởng thành lập một đạo quân Phi Luật Tân được các huấn luyện viên Mỹ chỉ huy và biến quần đảo thành ra tiền đồn của Hoa Kỳ trên Thái Bình Dương.


Chính sách này không thu được thắng lợi tại Quốc hội Mỹ, và năm 1935, khi ông được Tướng Malin Craig thay thế tại Ngũ giác đài, thì không ai làm gì để tăng cường căn cứ hải quân Cavite lẫn hòn đảo nhỏ Corregidor, vị trí phòng thủ lối ra vào vịnh Manille. Riêng phần đạo quân Phi Luật Tân thì mặc dầu có các nỗ lực của ông, đã giảm xuống còn vài ngàn “hướng đạo sinh” được huấn luyện theo kiểu Mỹ và vài sư đoàn tuyển mộ từ người bản xứ vốn chỉ có trên giấy tờ. Mặc dầu đã leo lên đến tận đỉnh của hệ cấp quân sự, Douglas Mac Arthur cũng không làm sao biến được các ý tưởng của ông thành ra có giá trị thực tiễn, và ông cho đó là niềm cay đắng của mình. Hiểu rằng không còn có thể chờ đợi được gì nữa trong xứ mình với một chức hàm thuần tuý, ông xin Tổng thống Roosevelt phái qua Phi Luật Tân trong danh nghĩa trưởng phái bộ. Do tính cách quân sự lẫn chính trị của danh nghĩa này, ông sẽ đứng đầu một quái trạng tạo nên bởi sự hiện diện của một tướng lĩnh bốn sao trong vị trí chỉ huy một đạo quân trơ xướng ốm yếu. Tổng thống Roosevelt thoả mãn yêu cầu này và vị cựu Tổng tham mưu trưởng quân lực Mỹ hân hoan đến nhận lại các chức vụ cũ của mình bên cạnh ông bạn Quezon.


Hai năm sau, mặc dầu nhiệm vụ ông còn lâu mới hoàn tất, Mac Arthur bị gọi về Mỹ đột ngột không một lời giải thích “để phục vụ trong quân đội chính quốc”. Hành động đầu tiên của ông là gửi đơn từ chức, nhưng vì nghi ngừ có âm mưu gì, Tổng thống Quezon đã can gián ông. Do đó ông tướng nghe theo lời khuyên của bạn đáp ngay chuyến tàu đầu tiên về biện minh cho mình trước Roosevelt. Cuộc tiếp kiến thoạt tiên không được nồng đượm lắm, nhưng vốn là người biết đánh giá cao những kẻ có cá tính, Tổng thống Roosevelt để cho bị thuyết phục rằng không thể bỏ mặc Phi Luật Tân cho một vị thống đốc dân sự nào đó, và cho phép Mac Arthur về hưu rồi trở lại cạnh Quezon với một tước vị bán chính thức: “Cố vấn quân sự".


Trong vai trò mới, ông đi biểu dương một hoạt động đáng kể đến nỗi danh hiệu cố vấn được thay thế mau lẹ bởi một danh hiệu ồn ào hơn “Field Marshall của quân đội thuộc xứ liên hiệp Phi Luật Tân”. Dưới sự thúc đẩy gắt gao của ông, trong vòng hai năm, đạo quân này lên đến 100.000 người. Nhờ ảnh hưởng cá nhân, ông được sự hậu thuẫn vô điều kiện của Tướng Satherland, trưởng phái bộ quân sự Hoa Kỳ để huấn luyện đạo quân của ông và để chỉ huy cả họ nữa. Nhưng, ngoài vài sự cung cấp vũ khí, sự giúp đỡ chính thức chỉ giới hạn trong việc cho mượn tạm vài huấn luyện viên trích ra trong đoàn quân chừng hai mươi ngàn người dưới quyền của Sutherland. Không một yêu cầu nào do Quezon gửi cho Tổng thống Roosevelt để tổ chức hệ thống phòng vệ quần đảo, để cải thiện các phi trường tại đấy và biến căn cứ hải quân Cavite thành một Tân Gia Ba thứ hai, được thoả mãn cả.
 
Do đó, ông tướng có vóc dáng cao lớn, vẫn còn giữ vẻ trẻ trung lạ lùng, đã trải qua những năm trước chiến tranh trong một chức vụ, ngồi không ăn lương, vàng son như thế. Ông sống với bà vợ trẻ (Đó là cuộc hôn nhân thứ hai của ông-cuộc ly dị của ông đã gây tai tiếng rất nhiều tại Hoa Thịnh Đốn và tạo thêm động lực để đẩy ông đi Phi Luật Tân) và người con nhỏ trong một căn nhà sang trọng nằm trên tầng chót của khách sạn lớn nhất Maniille. Mọi sự chuyển dịch của ông là cả một sự phô trương kiểu Á Đông. Ông chỉ huy theo cách của Lyautey, với một quyền uy thay đổi, ôn hoà khi phải làm như thế vì một thứ lòng tốt rất quý phái vốn biết làm rung động và lôi cuốn những quả tim. Nhưng ông chỉ điều khiển độc có quân đội Phi Luật Tân.


Tháng 7 năm 1941, khi cuộc tấn công của Nhật vào Đông Dương rốt cuộc đã mở mắt người Mỹ, vấn đề tăng viện cho Phi Luật Tân được đặt ra với tất cả nhạy bén. Tướng Marshall đề nghị gửi cho Tướng Sutherland tăng viện về người và chiến cụ cũng như sự thiết lập một căn cứ không quân cho các pháo đài bay. Nhưng một không đoàn chiến đấu có tầm mức quan trọng đó phải được một tướng lĩnh không quân chỉ huy. Thật khó mà đặt ông ta dưới quyền một tướng lĩnh khác cùng cấp bậc, đó là trường hợp ông tướng trưởng phái bộ quân sự Mỹ. Cần phải tìm một tướng lĩnh khác có hơn một sao…

Một người gợi ý: “Tại sao không phải là Mac Arthur?”

Marshall không ưa ông quan chuyên chế địa phương có dáng điệu như một đại minh tinh màn bạc ấy, do đó đã nhăn mày. Trái lại, Roosevelt thì lại thấy ý kiến ấy là tuyệt diệu. Gia đình Mac Arthur luôn luôn theo đảng Cộng hoà. Chính Douglas cũng có ảnh hưởng không chối cãi được trong đảng. Nếu không làm cho con người quái quỉ ấy bận rộn việc gì, ông ta có thể trở thành một ứng cử viên gây khó chịu trong các cuộc bầu cử Tổng thống. Gọi ông trở lại quân đội là sắp xếp được hết mọi chuyện…


Chính vì vậy mà ngày 27 tháng 7 năm 1941, trong khi đang ăn trưa trên chiếc sân thượng tràn ngập hương hoa ngoại quốc của đại khách sạn Palace tại Manille, Douglas Mac Arthur được biết rằng ông bị mất tước vị “Field Marshall của quân đội Phi Luật Tân” để được gắn lon Trung tướng khiêm nhường hơn nhiều-cùng cấp bậc mà ông đã lên lên đến nơi, cũng tại nơi này hai mươi lăm năm trước (Qui tắc xưa cũ của quân đội Mỹ bó buộc việc phục hồi cấp bậc này chỉ có tính chất tạm thời). Quả thật là người ta đã ban thưởng cho ông một trong những chức vụ chỉ huy cao cấp nhất của quân đội Hoa Kỳ: đó là chức vụ chỉ huy chiến trường Thái Bình Dương mới vừa được sáng lập.


Nhà quân sự lão thành đã nhận sự đãi ngộ ve vuốt này sau khi hạ bệ mà không chau mày. Thái độ đầu tiên của ông là từ chối. Nhưng, trong lúc ấy, nhờ một thông tin viên bí mật báo cho biết nội vụ, Tổng thống Quezon hấp tấp chạy đến. Ông ta nhón gót ôm hôn ông tướng và đeo vào vai ông, tìm cách xoay chuyển cái nhìn lạnh lùng của ông bằng cặp mắt van lơn.

”Tất cả những gì chúng tôi có là của ông. Tất cả những gì mà chúng tôi được như bây giờ là nhờ ông!” Tổng thống Phi Luật Tân thì thầm.

Niềm hăng say cao cả, giọng nói chân thành, Mac Arthur đành nhượng bộ. Ông chấp nhận nhiệm vụ bạc bẽo là phòng thủ với gần như bàn tay trắng, xứ sở này, một xứ sở có một dân tộc được ông yêu thương và nơi đó ông được yêu thương.


Ngọn lao đã phóng đi. Ông bắt đầu làm việc với nhiệt tâm mãnh liệt vẫn luôn luôn thúc đẩy ông trong hành động. Trong vài tháng trời ông đã sẵn sàng đưa ra chiến trường một đạo quân thuần nhất, đã cho xây doanh trại đồn trú dành cho đoàn quân mà rốt cuộc người ta đã chấp thuận gửi cho ông, ông phái các xe ủi đất nới rộng phi đạo các phi trường Clark Field và Nichols Field tại Lujon, và phi trường Del Monte tại Mindanao. Ông cho thiết trí đại bác phòng không chung quanh các cứ điểm quan trọng và thiết trí hai đài rada vừa được ban cấp trên núi cao phía bắc và phía nam Lujon.


Ba tháng sau, ông có trong tay 60.000 binh sĩ Phi Luật Tân, 12.000 hướng đạo kinh nghiệm chiến đấu trong rừng rậm và 20.000 quân Mỹ do tướng Sutherland nhường lại để trở thành Tham mưu trưởng của ông. Vũ khí của họ còn bất ổn định, chiến xa cũ kỹ nhưng kỷ luật thì hoàn toàn và tinh thần thì rất cao.


Công cuộc phòng thủ đảo Lujon được phân chia cho hai đạo quân. Khu vực phía bắc đặt dưới quyền của một trong các môn đệ được ông yêu mến nhất của trường West Point, tướng Wainwright, người được ông đặt hoàn toàn tin tưởng. Chính ông sở cậy đạo quân này để chịu đựng vố đầu tiên trong trường hợp bị xâm lăng.


Ngày 4 tháng 11 1941, tướn Brereton, một phi công kỳ cựu thuộc thế hệ đầu tiên, đáp xuống phi trường Clark để nắm quyền chỉ huy không lực. Tháng 12, Brereton có trong tay 72 khu trục cơ, trong đó có 18 P-40 kiểu mới nhất và 35 pháo đài bay B-17. Kế hoạch phòng thủ của Mac Arthur tiêu liệu rằng các pháo đài bay này sẽ đến oanh tạc các phi trường của Nhật tại Đài Loan ngay khi chiến tranh bùng nổ. Chúng phải đặt căn cứ tại Del Monte trên hòn đảo lớn Mindanao, nằm ngoài tầm oanh tạc cơ Nhật.


Tối hôm trước ngày 8 tháng 12, một phần sự di chuyển này đã được thực hiện: 18 chiếc B-17 đến Del Monte, 17 chiếc còn lại ở Clark Field trong khi chờ đợi các công tác sắp xếp đã định trước.


Vì thận trọng, Mac Arthur cho phép Đô đốc Hart, tư lệnh Hạm đội Á châu gửi ba tuần dương hạm và sáu khu trục hạm của ông ta xuống biển Java và ở lại đó chờ đợi tình hình sáng sủa hơn. Ông chỉ giữ lại tại căn cứ Cavite hạm đội tàu ngầm và các khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi.


Mac Arthur tin chắc rằng đã làm tất cả những gì trong phạm vi thẩm quyền để chịu đựng trong hai tuần lễ vố tấn công xâm lăng trong tương lai-nghĩa là thời gian cần thiết để Hạm đội Thái Bình Dương đến tiếp cứu.
 
Trưa ngày 6 tháng 12, khi Đô đốc Sir Tom Philips từ Tân Gia Ba đến thăm, Mac Arthur tiếp ông với lòng trắc ẩn kín đáo của một người độc thân cường tráng mà một người thân trong gia đình vừa đến báo tin một trong các con cái lâm bệnh. Thật vậy “các thuộc địa” của Anh và Hà Lan tại Viễn Đông đối với ông có vẻ được thể hiện một cách lý tưởng và có thực chất hơn là xứ “Commonwealth Phi Luật Tân” được hạm đội Thái Bình Dương bảo vệ nhiều. Ông đảm bảo với Sir Tom Philips rằng chính phủ Mỹ vốn đã cung cấp cho Anh và Nga những số lượng vũ khí khổng lồ để chịu đựng cuộc chiến tranh tại Âu châu sẽ can thiệp đúng lúc nếu sự đe doạ của Nhật trở nên rõ rệt hơn. Sự hiện diện của chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse tại Viễn Đông là một lá bài tẩy quan trọng và phải sẵn sàng sử dụng chúng tối đa bằng cách nghiên cứu ngay từ bây giờ những nét chính của một sự hợp tác trong tương lai. Những nét chính này sẽ được ấn định cùng với Đô đốc Hart trong cuộc hội nghị tham mưu mà ông đề nghị đích thân chủ toạ vào sáng ngày mai.


Nhưng hôm sau, 7 tháng 12, có tin cho biết một đoàn tàu Nhật đã được phát hiện trong vịnh Thái Lan. Như chúng tôi có nói, Sir Tom Philips xếp hành lý và hấp tấp trở lại Tân Gia Ba.


Dầu vị Đô đốc Anh đã ra đi, buổi hội nghị cũng vẫn được tổ chức. Đa số có ý kiến rằng đoàn tàu ấy đang trên đường đến Thái Lan. Sau Đông Dương thuộc Pháp, những yêu sách lấn át của Nhật lan tràn như vết dầu loang. Tổng thống Roosevelt khó thể chấp nhận một cách thụ động hành động thách đố mới này. Vậy thì phải đặt quân lực trong tình trạng báo động. Các đài rada liền được lệnh canh chừng liên tục, các ổ cao xạ thường trực sẵn sàng khai hoả, các phi cơ sẵn sàng cất cánh và các tàu ngầm gia tăng gấp đôi các cuộc tuần tiễu.

Đến tối, vì không nhận được điện văn nào mới, Mac Arthur và các cộng sự viên bình yên đi ngủ.

Đúng lúc họ chìm vào giấc ngủ, sáu hàng không mẫu hạm của Đô đốc Nagumo quay hướng và tung thuỷ lôi vào Trân Châu Cảng. Tại Đài Loan, 100 oanh tạc cơ chạy ra khỏi hăng-ga và xếp hàng dọc theo phi đạo. Tại Khota Baru, đoàn công voa đầu tiên của Nhật đã đến đích.


Chắc rằng độc giả tin là bị đánh thức bởi tiếng vang động của bom, cùng với các tướng lĩnh. Độc giả sẽ thất vọng. Tướng Sutherland bị lôi ra khỏi giường lúc 3 giờ 30 sáng chính là do tiếng chuông điện thoại reo. Sĩ quan trực tại Bộ tham mưu xin lỗi đã làm rầy ông tướng vào một giờ giấc quá sớm nhưng người ta vừa được nghe đài phát thanh loan tin một cuộc tấn công chớp của Nhật vào Trân Châu Cảng. Vì có quá nhiều tin đồn đại sai lạc trong mấy tuần trước đó nên Sutherland không ra lệnh áp dụng các biện pháp báo động nào nữa. Ông chậm rãi mặc quân phục và lên xe đến Bộ tham mưu. Không khí ở đấy có vẻ khích động dữ, mỗi người bình luận một kiểu các thông cáo của báo chí mà các hiệu thính viên vừa bắt được. Ông tướng đòi xem các công điện chính thức. Ông chẳng thấy gì khác hơn là các vấn đề thường nhật. Ông quyết định chờ sự xác nhận trước khi báo cho Mac Arthur. Rồi ông soạn thảo một điện văn báo động chung.


Đến 5 giờ, các tin tức do nhiều đài phát thanh thương mại phát đi càng nhiều và chính xác đến mức ông phải nhấc chiếc điện thoại liên lạc trực tiếp với tướng Mac Arthur.

-Trân Châu Cảng? Ông không nghĩ đến chỗ đó sao! Đấy là cứ điểm vững nhất, ông tướng trả lời. Rồi ông thêm:

-Cám ơn Dick! Và gác máy.

Thật hay giả, tin tức ấy cũng không đáng cho ông phải đặc biệt can thiệp vào. Mọi kế hoạch đều bị đình chỉ, mọi biện pháp đã được thi hành, mỗi người đã biết việc phải làm trong trường hợp có sự gây hấn hay chiến tranh bùng nổ. Chỉ còn việc chờ đợi các biến cố.


Trong chiến tranh, sự tình cờ luôn luôn đóng vai trò quan trọng. Trong các kế hoạch chuẩn bị kỹ nhất, vẫn có các góc cạnh bị che khuất và các điểm không chính xác. Trong số các sự việc khôn lường trước được, đứng hàng đầu là khí tượng, thứ khoa học phù thuỷ ấy.


Luôn luôn lạc quan một cách cương quyết, Yamamoto đã điều hợp nhiều cuộc tấn công khác nhau bằng cách giả định một cách “tiên thiên” rằng thời tiết tốt sẽ đứng về phía ông. Thế mà rõ ràng là không thể nào trong cùng một ngày, cùng một giờ, những điều kiện khí tượng lại giống nhau tại nhiều địa điểm trên trái đất xa cách như Hạ Uy Di, biển Nam Hải và vịnh Thái Lan. Nhưng ông là tay chơi bài và ông toan tính chuyện bất khả. Sự liều lĩnh này suýt bắt ông phải trả giá đắt.


Ngày 8 tháng 12 (Ngày của Đông Kinh), trước bình minh một chút, khi 192 oanh tạc cơ của không đoàn 21 và 22 thuộc không lực Hải quân, do Phó Đô đốc Tsukahara chỉ huy, xếp hàng từ đầu phi đạo của các phi trường ở Đài Loan sẵn sàng bay đi oanh tạc Phi Luật Tân, thì một làn sương mù dày đặc bao phủ toàn đảo và cản trở hoàn toàn các cuộc cất cánh.


Lát sau, vào lúc mà Fushida trút bom xuống Trân Châu Cảng, phi cơ của Tsukahara vẫn luôn luôn bị đóng đinh xuống mặt đất chờ đợi một khoảng trời trong. Thời gian chờ đợi này kéo dài 4 giờ… Ta có thể dễ dàng tưởng tượng nỗi kinh hoàng của các cấp chỉ huy thuộc Bộ tư lệnh Nhật và những lời cầu nguyện của họ nhiệt thành đến mức nào. Chắc chắn là quân Mỹ nhờ được báo tin cuộc oanh tạc tại Trân Châu Cảng, đã cho tất cả các phi cơ cất cánh và nạp đạn cho tất cả vũ khí phòng không để chờ đợi các kẻ đến tấn công. Hiệu quả bất ngờ, lá bài tẩy chủ yếu của Yamamoto, dường như hoàn toàn vô dụng.
 
Tại Lujon, những giờ đầu tiên của buổi sáng trôi qua trong không khí hoàn toàn bình thản. Tuy nhiên, đến 9 giờ, căn cứ thủy phi cơ trong vịnh Davao báo hiệu bị một thuỷ phi cơ thám sát của Nhật ném một quả bom. Tướng Brereton liền cho một không đoàn khu trục cất cánh. Một lát sau, mười bảy chiếc pháo đài bay B-17 cất cánh trong một phi vụ thường lệ. Chúng phải hạ cánh sau đó một giờ, rồi đổ đầy xăng chờ bay đi tấn công Đài Loan vào quá trưa, nếu cuộc xâm lăng Davao được xác định. Đến 10 giờ, các khu trục cơ bay về mà chẳng trông thấy gì và đáp xuống phi trường sau khi che chở cho mười bảy pháo đài bay hạ cánh. Trong thời gian đó, các phi cơ P-40 mới đến đang lấy xăng trước các hăng-ga phi trường Clark và các phi công đang than phiền điều kiện cư trú tệ hại. Họ bỏ đi ăn sáng trong khi chờ đợi cuộc tạp dịch bất tận này chấm dứt.


Đúng lúc đó, sương mù trên đảo Đài Loan tan dần và hai không đoàn phi cơ thuộc Hải quân Nhật được năm mươi bốn khu trục cơ Zéro hộ tống phóng lên bầu trời sáng sủa. Chúng chờ đợi chịu đựng các cuộc tấn công dữ dội ngay cả trước khi đến mục tiêu. Tuy vậy phi vụ của họ chẳng xảy ra chuyện gì. Các phi cơ thám thính Mỹ cất cánh từ sáng sớm quả thật đã trở về căn cứ từ lâu vì sương mù mà họ đã gặp ngoài khơi.


Vào lúc 11 giờ 30, đài rada phía bắc Lujon báo hiệu có một đoàn phi cơ quan trọng bay đến theo hướng Nam cách bờ biển năm mươi hải lý. Lệnh báo động được chuyển đến tất cả các phi trường. Nó chỉ đến phi trường Clark đúng giữa trưa, lúc các phi cơ P-40 vừa đổ đầy xăng lần lượt cất cánh từng chiếc một.


Đến 12 giờ, một đợt 27 oanh tạc cơ Nhật bay đến bên trên phi trường, trút hết bom và quay về mà chẳng phải lo ngại gì. Mục tiêu lớn lao quá: 17 pháo đài bay sắp hàng như vậy vịt, những chiếc cánh vĩ đại xếp chồng lên nhau từng cặp, phản chiếu ánh mặt trời chói lọi.


Những toán người dưới đất, kinh hoàng, trông thấy cả một tấm màn gần như liên tục gồm những điểm ság trút xuống, lớn dần như giọt lệ. Mọi người chạy tứ tán trong khi tiếng còi báo động sầu thảm cất lên. Rồi thì là tiếng bom nổ như sấm động, và vô số cột khói thoạt tiên đột ngột, rồi đường bệ bốc lên bao phủ cả bầu trời đầy mây trắng như sữa.


Đợt thứ nhất vừa biến đi, một trung chuyển khác, còn ghê rợn hơn vì không khí mờ mịt khói lửa, đã bắt các kẻ chạy trốn chậm chân dán người xuống mặt đất. Một đợt thứ hai tương tự đợt đầu tiên đến phiên trút bom xuống phi trường.

Sau một thời gian nghỉ ngơi 15 phút, quang cảnh lại tái diễn một lần thứ ba…

Khi sự hỗn loạn dịu dần, hàng khói đen cuồn cuộn bốc lên trên phi trường với những ánh lửa đỏ hồng loé lên ngang dọc: mười bảy pháo đài bay, hơn năm mươi sáu khu trục cơ và hai mươi phi cơ đủ các loại mà các bình chứa xăng tuôn ra hàng suối xăng biến phi trường thành một biển lửa mênh mông.

Lực lượng xung kích của Mac Arthur chỉ còn lại một đống sườn sắt bốc khói.

Vài giờ sau, một phi đoàn nhỏ oanh tạc cơ Nhật lại tiêu diệt vài chiếc P-35 trên phi trường tiếp cứu Aparri, phía bắc Lujon, và các tàu vận tải đầu tiên đổ bộ binh sĩ lên các bãi biển kế cận mà không bị một chống đối nào. Cuộc chinh phục Phi Luật Tân bắt đầu.


Tại làm sao mà không ai có ý tưởng tổ chức các cuộc tuần tiễu liên tục và nhất là các pháo đài bay cất cánh ngay để oanh tạc các phi trường ở Đài Loan? Tại làm sao mà tướng Brereton lại có thể phạm vào điều bất cẩn là đem trở về phi trường Clark, vốn nằm trong tầm hoạt động của oanh tạc cơ Nhật, 17 pháo đài bay đã cất cánh trong một phi vụ bay điều chỉnh? Tại sao ông không cho áp dụng trước vài giờ kế hoạch oanh tạc Đài Loan dự định sẽ thực hiện vào buổi chiều? Biết bao nhiêu câu hỏi vẫn còn chưa được trả lời.


Hai tướng Sutherland và Brereton đổ lỗi cho nhau về sự thiếu sót này. Dường như hai ông đã xung đột dữ dội, nhưng tướng Mac Arthur vốn không thể không biết tình trạng ấy, đã phải chấm dứt tàn nhẫn sự xung đột giữa hai người. Kết quả rất đáng công.


Mac Arthur vẫn luôn từ chối không soi sáng các bí mật ấy. Ông đã làm câm họng các tin đồn đại về vấn đề này bằng cách cho công bố vài tháng sau một thông cáo trong đó ông hoàn toàn che chở vị tư lệnh không quân của ông. Lúc ấy, gương chiến đấu chói sáng của các đơn vị quân đội Phi Luật Tân và nhiệt tâm khiến ông vẫn ở lại tại bộ chỉ huy của pháo đài Corregidor dưới các cuộc oanh tạc tàn khố của Nhật đã biến ông thành anh hùng dân tộc, mà dưới mắt công chúng Hoa Kỳ, biểu tượng cho sức đề kháng của dân tộc Mỹ; do đó không còn vấn đề trách cứ ông về những sai lầm đã qua lẫn vấn đề hạ bệ ông nữa.


Mac Arthur lại còn là người duy nhất trong tất cả các tướng lĩnh Đồng minh phải chịu đựng vố tấn công bất thần đầu tiên ngày 7 tháng 12, được hưởng một thời hạn đủ để phản ứng chống trả. Thế mà, mặc dầu ông đã chứng tỏ hoàn toàn thụ động, ông là người duy nhất không bị cách chứ tư lệnh. Sau này ta sẽ thấy chẳng những ông không bị khiển trách gì, mà các biến cố bi thảm đầu năm 1942 lại khiến ông được bơm lên chức vụ Tư lệnh đạo quân quan trọng nhất của Mỹ tại Thái Bình Dương.


Sau khi làm chủ được bầu trời và mặt biển tại Phi Luật Tân một cách dễ dàng giống như tại Mã Lai, quân Nhật có thể yên chí hoàn tất nhiệm vụ của mình. Ngày 10 tháng 12, trong lúc các dương vận hạm chở quân đổ bộ vốn phải rút lui vì sương mù hôm trước, tiếp tục con đường tiến về vinh Lingayen-trên bờ biển tây bắc Lujon-chính các phi cơ đã từng oanh tạc các phi trường lại nhào đến căn cứ hải quân và thành phố Cavite nằm trong vùng vịnh Manille. May thay, hải cảng trống trơn, vì hạm đội nhỏ bé của Đô đốc Hart đã đến tiếp hợp với các hạm đội của Hà Lan và của Úc trong vùng biển Java. Tại Phi Luật Tân chỉ còn lại chừng mười tàu ngầm đang rình các tàu đổ bộ tận ngoài khơi và một vài khinh tốc đỉnh phóng thuỷ lôi.


Trong khi các biến cố trên đang diễn ra, quân đôi xâm lăng của Nhật ở Hoa Nam tràn vào thuộc địa nhỏ hẹp của Anh tại Cửu Long đối diện đảo Hồng Kông, và vô hiệu hoá mau lẹ hải cảng và căn cứ hải quân. Các đoàn quân Anh bị số đông địch tràn ngập, vội rút lên các đỉnh núi cao trên đảo để đánh trì hoãn như ở Mã Lai. Nhưng cuộc chiến đấu anh dũng của họ cũng không trì hoãn được một ngày nào sức tiến quân vũ bão của Nhật. Kể từ 20 tháng 12 năm 1941, không còn gì có thể ngăn Hạm đội liên hợp tiếp tục các cuộc chinh phục về phía nam. Sáu mẫu hạm của Đô đốc Nagumo đã trở về Kuré, nơi đây sau khi ăn mừng vì xứng đáng với chiến thắng tại Trân Châu Cảng, chúng lại điền khuyết phi công và phi cơ. Yamamoto phái chúng đến đảo Palau (quần đảo Carolines), nơi có một căn cứ hải quân quan trọng. Sự bố trí ban đầu của hạm đội được sửa đổi lại nhằm mục đích tấn công dứt điểm, lần này nhắm vào hàng rào ngăn chặn Mã Lai, nghĩa là dãy đảo (Sumatra, Yaya, Bali, Soembava, Florès và Timor-là những đảo quan trọng nhất) trải dài theo chiều ngang dọc theo kinh độ 10 nam giữa bán đảo Mã Lai và tân Guinée. Ngoài tính cách là thành lũi cuối cùng trước Úc châu, các đảo này, vốn được người Hà Lan khai khẩn tốt đẹp, tạo thành một trong các thuộc địa giàu có nhất thế giới. Cũng chính vì để chiếm hữu các mỏ dầu, các đồn điền cao su, và các mỏ đồng và vì, bị thúc đẩy bởi lệnh phong toả sự cung cấp nguyên liệu do Tổng thống Roosevelt ban hành, mà Nhật Bản khai mào chiến tranh. Do đó cuộc chiếm đóng thật mau các đảo ấy là mục tiêu số một của kế hoạch phía Nam.
 
Một năm với khởi điểm đen tối


Hàng rào Mã Lai

Kể từ 15 tháng 12 năm 1941, nhờ đi sớm hơn lịch trình, Yamamoto ra lệnh cho thuộc cấp phải hạn chế rủi ro. Hiệu quả bất ngờ, cho đến lúc đó, đã đóng vai trò lớn lao trong các chiến thắng, từ nay sẽ không còn nữa. Giờ đây, tất cả những gì còn lại của Hải và Không quân Đồng minh đã được tập trung về biển Java-một vùng biển khép kín, rải rác đá ngầm, và vùng biển cạn khó nhận biết, không thể nào đưa hàng không mẫu hạm và thiết giáp hạm vào đó. Các căn cứ xuất phát của Hải quân Nhật-Cam Ranh tại Đông Dương và Davao tại Mindanao thuộc Phi Luật Tân-đều nằm cách xa mục tiêu mới cũng gần cả ngàn cây số. Một hải trình mà các tàu đổ bộ phải chạy mất hai ngày như thế đòi hỏi một sự bảo vệ liên tục của không quân. Vậy thì tiên quyết là phải đảm bảo một chuỗi phi trường thiết lập trên các đảo gần với đường vận chuyển của các dương vận hạm ấy: đảo Bornéo lớn lao và các đảo Célèbes.


Ngày 16 tháng 12, một bộ phận nhỏ của Thuỷ quân lục chiến được đổ len Miri, trên đảo Sarawark thuộc Bồ Đào Nha, và chiếm đóng phi trường. Lập tức vài khu trục oanh tạc cơ của không đoàn 21 từ Sài Gòn đến đáp xuống đấy. Mười ngày sau, cùng một cuộc hành quân tương tự đã diễn tiến tai Kuching, về phía nam của xứ này. Sự chống cự của Bồ Đào Nha gần như là số không.


Tiên liệu một phản ứng mạnh hơn nơi người Anh và Hà Lan, cuộc xung phong vào các hải cảng chính phía Bắc và phía Đông các đảo lớn Bornéo và Célèbes được giao cho các đơn vị chuyên môn của hải quân đội-đặc biệt là đoàn quân đổ bộ Sasebo, đơn vị đầu tiên của lực lượng Hải quân xung kích. Các không đoàn 21 và 22 thuộc đại đoàn không quân 11, do Đô đốc Tsukahara chỉ huy-chính các không đoàn đã tiêu diệt các pháo đài bay của Brereton tại Clark Field-rời Đài Loan để đến Davao. Một đoàn hai mươi tám phi cơ chở ba trăm bốn mươi bốn binh sĩ nhảy dù, đến nhập đoàn với hai không đoàn ấy, và bình mình ngày 10 tháng 11 năm 1941, các đoàn công voa rời Davao hướng về Tarakan, hải cảng dầu lửa quan trọng nhất của đảo Bornéo, thuộc địa Hà Lan.


Đạo quân trú phòng Tarakan chỉ có 1.300 người, mà hai phần ba là các quân nhân trừ bị không hề được huấn luyện quân sự tí nào. Hiểu rằng chống trả vô ích, viên Tư lệnh Hà Lan khi thấy cả một khối vũ khí vĩ đại ấy tiến đến gần, liền quyết định đốt các giếng dầu. Đoàn công voa Nhật buông neo cách bờ biển mười hải lý, vì khói từ các đám cháy do gió mùa mang đi bao phủ mặt biển trong một làn sương mù. Họ phải đợi đến hôm sau mới đổ bộ, nhưng quân Nhật chiếm phi trường mà chẳng tốn một tí hơi sức nào, và vài giờ sau phi cơ của Tsukahara đáp xuống thong thả.


Cùng lúc đó, đơn vị đổ bộ Sasebo đến Menado phía cực bắc Célèbes và ba trăm ba mươi bốn binh sĩ nhảy dù được thả xa hơn một chút về phía Nam, gần phi trường Kema.


Đó là lần đầu tiên Nhật sử dụng đến quân dù, và ngọn gió mùa thổi mạnh làm phân tán các biệt kích quân, nhưng quân trú phòng Hà Lan lại còn yếu hơn quân ở Tarakan và cả hai phi trường bị chiếm đóng mà không có một cuộc chống cự nào. Vài oanh tạc cơ Đồng minh từ đảo Amboine kế cận đến thực hiện một hành động giống như tấn công, và bốn pháo dài bay-thuộc lực lượng không quân của Brereton còn sót lại-vốn được rút về Java, đã bay đến thả bom xuống đoàn tàu đổ bộ. Mức độ trông thấy rõ rất kém, phi hành đoàn không được huấn luyện kỹ, bom rơi cầu âu chẳng tạo được tác dụng nào.


Sau chiến thắng này, quân Nhật lại chịu nghỉ ngơi một thời gian. Tất cả các phi trường chiếm được liền được sửa sang lại và được bố phòng. Các dương vận hạm đi đi lại lại để mang quân đội đến và lực lượng hải quân lo tập họp để đánh trận cuối cùng.


Phó đô đốc Kondo, Tư lệnh hạm đội số 2, đến Davao với các thiết giáp hạm và tuần dương hạm của ông. Lực lượng xâm lăng được chia ra làm hai đoàn: đoàn đầu tiên (lực lượng đông bộ và trung tâm) đặt dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Takhoashi, đoàn thứ hai (lực lượng tây bộ) dưới quyền Phó Đô đốc Ozawa. Mỗi đoàn lại được phân chia làm hải đội tương ứng với các mục tiêu phải đạt, với các dương vận hạm, hộ tống hạm và lực lượng che chở của Hải quân như Không quân. Để cho tất cả đều được chuẩn bị, hạm đội hàng không mẫu hạm của Đô đốc Nagumo được đặt dưới quyền của Đô đốc Kondo.


Trước khối khí giới khổng lồ và được tổ chức hoàn hảo hơn gấp bội, trước các đạo quân xung kích gan dạ nhờ các các chiến thắng liên tiếp ấy, phía Đồng minh có gì để chống đối lại? Vài tuần dương hạm và khu trục hạm của ba quốc gia khác nhau, chừng ba mươi tàu ngầm phân tán trong các quần đảo và hành động đơn độc, vài không lực trơ xương và chẳng có chiếc mẫu hạm nào.
 
Trong tình cảnh mạnh ai nấy lo sau các cuộc bại trận liên tiếp cả ở Mã Lai lẫn ở Phi Luật Tân, các ban tham mưu cũng không được tha cho. Sir Brooke Popham bị thay thế bởi Trung tướng lục quân Percival vốn đã phải vất vả mới đến được nhiệm sở là đảo Tân Gia Ba bị bao vây. Đô đốc Hart của Mỹ, người chỉ huy hạm đội các tuần dương hạm (vẫn được gọi một cách kiêu kỳ là Hạm đội Á châu) được đưa đến biển Java từ tháng 11 năm 1941, đã rời Corregidor trên một tàu ngầm ngày 25 tháng 12 để đến Batavia. Khi đến nơi, ông ngạc nhiên được biết rằng người ta đã bơm ông lên chức Tổng Tư lệnh các lực lượng Hải quân Đồng minh tại biển Java. Ông lại trở thành phụ tá Hải quân cho tướng Wavell của Anh, Tư lệnh quân Anh tại Ấn, cho đến lúc đó, một quyết định tại toà Bạch Ốc giữa Churchill và Rosevelt đã nâng ông này lên chức vụ ít ai thèm muốn lo Tổng Tư lệnh ABDA-ký hiệu bí mật này vốn là chữ viết tắt chỉ định toàn diện các lực lượng Mỹ, Anh, Hà Lan và Úc rải rác trong các quần đảo tại Đông Nam Á.


Sự chỉ định Tư lệnh ABDA đã là đầu đề của các cuộc thảo luận gay go trong phạm vi Bộ tham mưu liên quân (Joint Chiefs Staff) bắt đầu được hoạt động tại Hoa Thịnh Đốn. Churchill, cố tranh đấu để cho tôt Mỹ lấy quyết định “Germany first”, đã không còn mấy hy vọng cưu vãn Tân Gia Ba t khi thiệt mất chiếc Prince of Wales và chiếc Rupeles. Số phận của các thuộc địa Hà Lan tại Ấn thì chỉ làm ông lưu tâm có một nửa, và ông không nghĩ bắt một trong các tướng lĩnh của ông gánh vác thêm trách nhiệm về một tai hoạ mới. Phần Roosevelt thì chẳng có sẵn ai dưới tay. Đã có lúc ông nghĩ đến Mac Arthur, nhưng ông này lại cương quyết không chịu rời Corregidor, nơi ông đang chỉ huy công cuộc chống cự của quân đội Phi Luật Tân đang bị bao vây trên bán đảo Bataan.


Thấy cuộc thảo luận sắp đi đến chỗ bế tắc, Tổng thống Mỹ liền đưa ra tên Wavell như là một nhà quân sự có thể đem lại sự đồng tý nhất trí. Được vuốt ve vì sự đề cao vị cứu tinh của Ai Cập, rốt cuộc Churchill đã bằng lòng.


Hoàn toàn biết rõ tình hình thực tế, Wavell thấy liều thuốc vừa được cấp cho thật là đắng. “Người ta đã trao vào tay tôi không phải là một đứa con hoang mà là những đứa con song sinh!” ông tâm sự với một trong những người thân tín. Trong tư cách là Tư lệnh quân lực tại Ấn, ông thường đến Tân Gia Ba và từ lâu đã biết rõ tính cách tuyệt vọng của các trận đánh trì hoãn của quân Anh trên bán đảo Mã Lai.


Ngày 9 tháng 1 năm 1942, khi ông đến Batavia nhậm chức, 85.000 người thoát vây tại Mã Lai, gần như đã rút hết về đảo Tân Gia Ba nhỏ bé, sẵn sàng chống lại quân địch trong một cuộc chống cự khốc liệt. Không thể nào còn có vấn đề bắt một đơn vị nào quay trở lại để phòng ngự hàng rào ngăn chặn Mã Lai nữa. Riêng phần các đơn vị mà Luân Đôn đã trích ra từ lực lượng đóng tại Ai Cập trong thời kỳ còn hy vọng cứu vãn bán đảo, thì cũng đã bị chặn lại tại Colombo vì mối đe doạ của Nhật tại Miến Điện. Do đó ông chỉ còn có các đạo quân trú phòng yếu ớt của Hà Lan trên đảo Sumatra và Java (chừng 25.000 người) và vài tiểu đoàn Anh hoặc Ấn đã thoát ra được khỏi Bornéo. Một nhúm quân nhân đó rõ rệt là không thể nào đẩy lui được một cuộc tấn công của Nhật Bản. Giải pháp duy nhất đối với ông là trì hoãn cuộc tấn công này lâu chừng nào hay chừng đó để cho quân Mỹ từ Úc có thể đến tăng viện được. Để đạt được mục tiêu trì hoãn này, ông có trong tay các lực lượng hải quân và không quân, mặc dầu ít hơn và phân tán hơn, nhưng cũng rất đáng kể.


Tại Batavia, ông thấy một quang cảnh rối loạn không thể tưởng tượng. Cuộc tản cư của thường dân và lính đào ngũ từ Mã Lai, Tân Gia Ba, Bornéo và Célèbes đã bắt đầu. Hải cảng chật ních tàu bè mà nơi đến thì lại ở trong tay địch. Nhà chức trách Hà Lan làm việc không xuể. Mỗi người đều lo thủ thân và từ chối tuân lệnh với lý do “chờ chỉ thị của chính phủ mình”. Do vậy, công việc đầu tiên của ông là tái lập trật tự và tổ chức một Bộ tham mưu hỗn hợp Đồng minh.


Giao quyền chỉ huy các lực lượng bộ chiến cho tướng Hà Lan Ian Der Poorten, ông đặt không lực dưới quyền chỉ huy của tướng Mỹ Brereton. Sự chọn lựa này cũng chẳng thích hợp gì. Brereton là một chuyên viên ngành oanh tạc chiến lược chưa bao giờ chỉ huy-ở nơi nào khác ngoai trừ Manille-các đại đơn vị không quân. Hơn nữa, các pháo đài bay của ông đến Java mà không có nhân viên dưới đất, không có phụ tùng thay thế gần như hoàn toàn vô dụng. Mối ưu tư lớn lao nhất của ông là đưa chúng ra khỏi tình trạng tệ hại này càng sớm càng hay. Wavell mau lẹ ý thức được rằng Brereton chẳng có ích lợi gì cho ông cả. Ông liền quyết định cho rút về các phi trường tại Palem-bang phía nam Sumatra, các phi đoàn săn giặc và oanh tạc tại Tân Gia Ba vì bị phô bày quá lộ liễu ở đấy, và giao cho một Phó Thống chế không quân Hoàng gia RFA. Sau đó ông nới rộng quyền chỉ huy này đến các không lực Hà Lan và các phi đoàn săn giặc Mỹ bắt đầu được phái từ Úc đến.


Riêng phần hải lực Đồng minh thì một mệnh lệnh của Bộ tham mưu hỗn hợp Đồng minh đã giao cho Đô đốc Hart, lực lượng này đủ mạnh để ngăn chặn quân Nhật mở cuộc tấn công cấp thời. Hạm đội của Đô đốc Hà Lan Ian Doorman gồm có ba tuần dương hạm hạng nhẹ, chiếc De Ruyter, chiếc Java và chiếc Tromp, hạm đội của Đô đốc Mỹ Glassford có một tuần dương hạm nặng, chiếc Houston, hai tuần dương hạm nhẹ Boise và Marblehead, và hạm đội của Phó Đô đốc Anh Collins (cựu Hạm đội China fleet) còn gồm tuần dương hạm nặng Exeter, tuần dương hạm nhẹ Perth và một đám các chiến hạm nhỏ già nua của Anh hay của Úc. Cùng với bảy chiến hạm chính yếu ấy còn có thêm bảy khu trục hạm Hà Lan, chín Mỹ, bốn Anh, cũng như một hạm đội tàu ngầm 38 đơn vị (13 Hà Lan, 25 Mỹ).
 
Về phương diện tổng quát, hải lực Đồng minh như vậy có thể so sánh được với lực lượng hải quân Nhật có ý định mạo hiểm đi vào biển Java, nhưng có điểm khác nhau là chúng không được thuần nhất, chia rẽ vì ngôn ngữ khác nhau, không có chủ thuyết chiến thuật và không có phương tiện báo hiệu chung.


Hơn nữa, ở cấp chỉ huy tối cao, còn lâu mới có đồng quan điểm. Đã chứng kiến các cuộc oanh tạc xuống căn cứ Cavite và Corregidor, Hart không còn có ảo tưởng gì về việc thắng trận. Ông chỉ có một ý tưởng là giữ cho các tuần dương hạm của ông hoạt động phía Đông Java để giúp chúng chạy trốn kịp thời về Úc châu. Collins, bị ám ảnh bởi sự phòng thủ Tân Gia Ba, chỉ quan tâm đến những gì xảy ra tại phía Tây. Riêng phần Phó Đô đốc Hà Lan Ian Helfrich, Tư lệnh Hải quân Hà Lan, rất bực bội phải nhận sự lệ thuộc của người ta áp đặt lên ông. Ông ước tính một cách hữu lý rằng tốt hơn hết là đặt tất cả hải lực Đồng minh dưới quyền ông và sử dụng Bộ tham mưu của ông hơn là đặt ra một Bộ tham mưu mới vào phút chót. Trong tình cảnh trái nghịch nhau đó, Hart chấp nhận giải pháp đơn giản nhất: để cho các Tư lệnh hạm đội quyền có sáng kiến rộng rãi và chỉ can thiệp vào bằng cách ra lệnh cho Hải quân Mỹ mà thôi.


Chính ông là người được vinh dự nhờ một sứ mạng tấn công hữu hiệu đầu tiên đánh vào hạm đội tập trung của Nhật. Ngày 20 tháng giêng, được tin có một đoàn công voa lớn lao đang bỏ neo ngoài khơi Balikpapan, ông ra lệnh cho Đô đốc Glassford tiến đến tấn công. Chiếc Boise và chiếc Marblehead vừa đến Kupang, hải cảng chính của đảo Timor để được tiếp tế nhiên liệu sau kế hoạch hộ tống các đoàn công voa khởi hành từ Úc và trở về. Ngay khi được tiếp tế xong, Glassford nhổ neo cùng với hai tuần dương hạm và bốn khu trục hạm để đến trước mặt Balikpapan lúc 2 giờ sáng ngày hôm sau nữa.


Ngay khi khởi hành, rủi ro đã xảy ra, chiếc Boise, mà Glassford dùng làm chiến hạm chỉ huy và dẫn đầu, đụng phải đá ngầm trong eo biển Sape. Một vết thủng quan trọng làm nước tuôn vào được phát giác, Đô đốc phải kéo cờ lệnh trên tuần dương hạm Marblehead và cho chiếc Boise trở lai Úc châu. Giây lát sau, chính chiếc Marblehead dừng lại vì hỏng máy. Sau khi sửa chữa tạm thời, chiếc tuần dương hạm lại tiếp tục chạy nhưng vì nó chỉ có thể chạy với tốc lực 15 gút, Glassford đành để cho các khu trục hạm vượt qua tiến về phía Balikpapan và cho chúng điểm hẹn để che chở chúng khi rút lui.


Bốn chiến hạm nhỏ này, được đặt dưới quyền chỉ huy sáng chói của Đại tá Paul Talbot, đến Balikpapan lúc 3 giờ sáng và thấy một đám dương vận hạm tập trung lớn lao của Nhật in bóng đằng sau ánh lửa của các chiếc giếng dầu đang bốc cháy. Trong hơn một giờ, các khu trục hạm len lỏi vào giữa đoàn tàu vừa chạy vừa bắn và phóng tất cả các thuỷ lôi. Bị bất ngờ, vì cuộc tấn công đột ngột, quân Nhật phản ứng chậm chạp và khi các khu trục hạm tập họp để giải cứu, chúng không còn thể nào đuổi kịp kẻ tấn công. Tất cả chiến hạm Mỹ trở về Sourabaya mà không bị trở ngại gì.


Đấy là chiến thắng đầu tiên của các chiến hạm Đồng minh kể từ khi khởi đầu chiến tranh và quân Mỹ hân hoan ca khúc khải hoàn, tuy nhiên những gì lẽ ra phải là một cuộc tàn sát, trong thực tế chỉ như một vết kim châm. Gần như tất cả các thủy lôi của Mỹ đều tác động tệ hại, chạy ngang qua bên dưới tàu địch rồi nổ thật chậm hoặc là tịt ngòi luôn. Tổn thất của Nhật giới hạn trong số bốn chiếc tàu chở hàng và một tàu hộ tống nhỏ. Các cuộc đổ bộ có chậm đi đôi chút, nhưng không gián đoạn.


Tuy vậy cuộc tấn công tại Balikpapan đem lại một kết quả may mắn: nó làm cho mũi tiến quân của Nhật quyết định lấy một điểm tựa khác tại Bandermasin, phía bị trì hoãn lại ít lâu, thật vậy Bộ tư lệnh Nhật tây Bornéo, trước khi khởi cuộc tấn công.


Tháng giêng yên tĩnh trôi qua không bị cuộc báo động mới mẻ nào và, ngày 2 tháng 2, Hart muốn tái diễn cuộc tấn công với sự hậu thuẫn của Hải quân Hà Lan, vào Balikpapan mà lần trước đã gần đạt được thành công hoàn toàn. Một lực lượng hải quân đột kích được thành lập đặt dưới quyền chỉ huy Phó Đô đốc Doorman với những chiếc De Ruyter, Tromp, Marblehead và Houston, ba khu trục hạm Hà Lan và bốn của Mỹ. Hải Lực nhổ neo tại Sourabaya trong đêm, nhưng đến sáng ngày 3 tháng 2, trong lúc lực lượng xung kích đang chạy theo hàng dọc cách phía bắc Bali 50 hải lý, thì một đoàn 80 oanh tạc cơ Nhật đột ngột hiện ra khỏi các đám mây và ném bom xuống đoàn chiến hạm Đồng minh. Ba tuần dương hạm bị trúng bom và Doorman phải cho lệnh quay lui để trở về Tjilatjap, trên bờ biển phía nam Java, hải cảng duy nhất nằm ngoài tầm oanh tạc cơ Nhật. Khi đến Tjilatjap, bảng kết toán những thiệt hại nặng nề: tuần dương hạm Marblehead bị hư nặng đến nỗi phải gửi về Mỹ, chiếc Houston bị sập tháp pháo phía sau và bộ phận điều khiển hướng bắn chống phi cơ bị hỏng. Chỉ có chiếc cuối cùng này là có thể được sửa chữa tại chỗ, tuy nhiên chiếc Houston vẫn cứ đuợc giữ lại vì sáu khẩu 203 ly còn bắn được.


Đấy không phải là tai biến độc nhất trong ngày, một thương thuyền chở súng phòng không của Mỹ trên đường đi đến Palembang bị đánh chìm ngoài khơi Sumatra và một tiểu đoàn chuyên viên tác xạ phòng không bị mất tích trong một tai nạn xe lửa kinh hồn gần Batavia.
 
Vài ngày sau, cơ sở tình báo thuộc quyền thông báo cho Wavell một hải lực tập trung của Nhật đang được thành lập tại quần đảo Anambas. Tân Gia Ba đã bị vây hãm, đích đến của các chiến hạm này chỉ có thể là Sumatra vì nơi đây các mỏ dầu hoả phong phú tạo thành mục tiêu chính yếu của địch. Ông ra lệnh ngay cho Doorman tập họp tất cả các chiến hạm có mặt tại phía tây Java và cho Brereton tung ra tất cả các oanh tạc cơ có sẵn trên quần đảo Anambas. Không có một pháo đài bay nào ở trong tình trạng bay được, do đó chính các oanh tạc cơ của không lực RFA vừa mới đến Palembang được giao cho sứ mạng này.


9 giờ tối ngày 11 tháng 2, chừng 20 chiếc Blênhim và Hudson nối đuôi nhau ở đầu phi đạo. Khi vài chiếc đầu tiên vừa cất cánh, một cơn giông nhiệt đới ào đến và mau lẹ biến thành cuồng phong dữ dội. Ba phi cơ rơi vỡ tan ở cuối phi đạo, chiếc thứ tư cất cánh được nhưng phải quay về và đáp xuống ngay. Chỉ có 5 chiếc Hudson là bay đến được Anambas nhưng thời tiết quá xấu và hoả lực phòng không quá dữ dội đến nỗi các phi công phải ném bom đại và quay về Palembang.

Sáng hôm sau, tin tức cho hay là đoàn tàu địch đã nhổ neo hướng về phía Nam. Cuộc xâm chiếm Sumatra bắt đầu.


Trong những ngày 12 và 13 tháng 2, một thời tiết dễ sợ vẫn tiếp tục che chở đoàn công voa Nhật tránh khỏi không lực RFA. Mặc dầu bị tấn công vài lần, toàn thể đoàn tàu đã đến được eo biển phân cách Palembang và đảo Banka. Bộ binh Anh và Hà Lan bị hải pháo từ các chiến hạm địch mau lẹ gây tán loạn và các xuồng đổ bộ bắt đầu đổ quân lên bãi biển. Bình minh ngày 14, ba trăm sáu mươi binh sĩ nhảy dù Nhật được thả xuống vùng lân cận phi trường chính của Palembang trong khi đó các khu trục cơ Nhật bắn phá vào các phi cơ-may thay không có là bao nhiêu-còn đậu dưới mặt đất. Sau những trận đánh rất dữ dội kéo dài suốt ngày, Tư lệnh các đơn vị quân đội Hà Lan quyết định tập trung lực lượng tại phi trường chính. Nhưng các phi cơ Nhật được tiếp tế ngay tại phi trường này lại cất cánh lập tức và bắn xối xả liên tục vào các đơn vị bộ binh Đồng minh. Sáng ngày 15 tháng 2, không còn vấn đề phản công nữa nhưng chỉ còn vấn đề là làm sao rút lui thật nhanh để đến được Java qua Ostaven và eo biển Sonde.


Trong khi các trận đánh trên đang diễn ra, Đô đốc Doorman theo lệnh của Hart, đã cho phân tán mỏng các chiến hạm phía nam Bali để đặt chúng ra ngoài tầm oanh tạc cơ địch và giờ đây đang tập họp chúng để đến tấn công các đoàn công voa Nhật tại Sumatra. Nhưng các chiến hạm này lại ở cách xa mục tiêu đến 800 hải lý.


Mãi đến tối ngày 14 tháng 2, những chiếc De Ruyter, Java, Tromp và Exeter được hộ tống bởi tuần dương hạm hạng nhẹ của Úc Hobart, bốn khu trục hạm Hà Lan và sáu của Mỹ, mới đến được eo biển Sonde.


Đoàn tàu vượt qua eo biển trong đêm tối mịt, khiến chiếc phóng ngư lôi hạm của Hà Lan Van Ghent, bị mưa lũ che khuất, đã đụng phải đá ngầm bị thiệt hại nặng nề. Bình minh hôm sau, đoàn tàu ra ngoài khơi đảo Banka, chạy vòng phía Bắc đảo này để đánh bọc hậu đoàn dương vận hạm Nhật đang buông neo trước Palembang.


Đến 8 giờ sáng ngày 15, do một khoảng trời sáng, đoàn tàu Đồng minh bị một phi cơ Nhật trông thấy. Một giờ sau, đợt phi cơ oanh tạc đầu tiên bay đến. Bay cao khỏi tầm đạn DCA của các chiến hạm, nhưng các oanh tạc cơ này cũng vẫn thả bom rất chính xác và hạm đội của Doorman đành bỏ cuộc tấn công. Nhờ các vận chuyển liên tục, các tuần dương hạm tránh được các đòn trực tiếp và chỉ phải chịu đựng vài quả bom nổ gần; nhưng cuộc báo động nóng bỏng biết bao! Vào khoảng 6 giờ chiều, Doorman tập họp được hạm đội trở lại và chạy trở về eo biển. Hôm sau, hạm đội trở về buông neo tại Tjilatjap. Chiếc tuần dương hạm cũ kỹ Hobart và các chiến hạm tuần tiễu nhỏ của Anh có vẻ bị đe doạ quá nên được phép chạy về Colombo.


Chứng cứ cho thấy rằng, không được không quân che chở, hạm đội Đồng minh chỉ có thể hành quân ban đêm bằng cách áp dụng chiến thuật “Hit and run” (đánh và chạy).
Ngày 15 tháng 2 còn được đánh dấu bởi nhiều thảm hoạ khác. Tại Tân Gia Ba, quân Nhật chiếm được các hồ chứa nước ngọt. Dự trữ xăng cũng như đạn pháo binh đều cạn. Các tướng lĩnh chỉ huy ba điểm tựa, đang còn đánh nhau với địch, báo cho Percival rõ rằng mọi cuộc phản công đều bất khả và quân đội thiếu nước không thể nào chiến đấu hơn 24 giờ nữa. Toan tính rút lui về thành phố và tổ chức chiến đấu từ nhà này qua nhà kia đã có lúc được liệu đến nhưng số lượng người tị nạn Âu châu về bản xứ đông đến nỗi một quyết định như vậy chắc chắn sẽ kéo theo một cuộc tàn sát không thể tưởng tượng được, Percival báo cáo cho Wavell rõ tình trạng bi thảm hiện tại của ông. Điều này là cả một đòn búa bổ kinh hồn đối với Wavell. Ông vẫn còn hy vọng Tân Gia Ba đứng vững vài tuần và ý tưởng về một đạo quân Anh với quân số quan trọng nhường ấy lại phải đầu hàng làm ông không thể chịu đựng nổi. Ông trả lời Percival bằng cách nhắc lại rằng mỗi giờ phút đứng vững có tầm quan trọng sống còn và phải chiến đấu “chừng nào có thể gây được thiệt hại cho địch quân”. Khi nhận được điện văn này những quân nhân đáng thương phòng vệ Tân Gia Ba phải nấp kín trong hâầm bị cơn khát và sốt hành hạ, rõ ràng là không còn khả năng gì gây tổn thất cho địch. Đến một giờ trưa, Percival gửi một đại diện đến gặp tướng Yamashita, ông này đòi hỏi phải đích thân tư lệnh quân Anh đến gặp. Điều kiện đầu hàng thật khắc nghiệt. Chừng 80.000 quân Anh phải đầu hàng với tất cả quân cụ và các thường dân phải được đoàn ngũ hoá để tái lập công sở và các tư gia bị bom đạn phá huỷ. Môộ vài cuộc hành quyết công khai và cuộc tàn sát các người bị thương đang nằm chật ních trong các bệnh viện đánh dấu bước khởi đầu của một chế độ chiếm đóng tàn nhẫn nhất trong chiến tranh.
 
Cùng ngày hôm đó, tuần dương hạm Houston của Mỹ cùng với ba khu trục hạm hộ tống rời hải cảng Darwin (Úc châu) để che chở cho hai dương vận hạm chở quân Úc lên đường đến Sourabaya. Bình minh hôm sau, đoàn tàu bị oanh tạc cơ tấn công và một phi cơ thám thính báo cáo cho Wavell biết có nhiều hàng không mẫu hạm ở phía bắc đảo Timor. Để tránh một thảm hoạ mới, ông ra lệnh cho Hart cho các dương vận hạm quay về Darwin và gọi chiếc Houston đến Tjilatjap. Tin tức do ABDA nhận được này hoàn toàn chính xác. Sáng ngày 19 tháng 2, trong khi các dương vận hạm vừa trở về Darwin, các mẫu hạm của Nagumo giáng cho hải cảng này một đợt tấn công tiêu huỷ. Tất cả các cơ sở hải cảng và bến tàu đều bị tiêu diệt, các tàu chở đạn nổ tung, bốn chiếc khác đều bị tiêu diệt, các tàu chở đạn nổ tung, bốn chiếc khác bị đánh chìm hay bị lật nghiêng. Mười khu trục cơ Mỹ trên đường bay đến Java bị hạ và 13 chiếc khác bị tiêu diệt trên mặt đất. Đến giữa trưa, các oanh tạc cơ của không đoàn 21 Nhật đến thay phiên cho phi cơ thuộc các hàng không mẫu hạm để hoàn tất công việc san bằng các cơ sở hải cảng Darwin thành bình địa. Đến tối ngày bi thảm đó, 11 chiến hạm Đồng minh bị mất, 25 phi cơ bị huỷ diệt cũng như tất cả kho hàng tiếp tế dự trữ. Mục tiêu đầu quí giá Darwin vốn là trạm tiếp sức cho lực lượng tăng viện của Hoa Kỳ đến Java bị loại bỏ trong vòng nhiều tháng.


Song song với cuộc tấn công này, quân Nhật bắt đầu đổ bộ lên Bali. Helfrich ra lệnh cho Doorman vội vàng tập trung các tuần dương hạm lúc đó đang được phân tán mỏng, để tấn công lực lượng đổ bộ bằng mọi giá. Thấy rằng thời gian đã quá chậm trễ không thể tập họp chiến hạm trước khi tấn công, Doorman ấn định một điểm hẹn phía Tây Bali. Ông nhổ neo từ Tjilatjap với chiếc De Ruyter và chiếc Java trong khi đó chiếc Tromp còn ở trước Batavia mở hết tốc độ chạy về phía Đông. Java là chiến hạm đầu tiên thấy địch quân và khai hoả lúc 10 giờ đêm vào các tàu chở quân địch. Trong cuộc đụng độ ngắn ngủi sau đó, một tàu phóng ngư lôi Hà Lan bị trúng một tạc đạn và bị chìm sau khi nồi súp-de nổ tung. Vì một chiếc khác bị mắc cạn trong eo biển Bali, lực lượng hộ tống của Doorman giảm thiểu còn hai khu trục hạm. Ông ra lệnh ngưừn chiến đấu chờ chiếc Tromp đến cùng với bôn khu trục hạm Mỹ. Nhưng hệ thống liên lạc vô tuyến quá xấu, không thể lập được liên lạc với nhau và chiếc Tromp với bôn khu trục hạm chạy trước, đến chiến trường lúc một giờ sáng mà không biết chuyện gì đã xảy ra. Các khu trục hạm Mỹ phóng tất cả thuỷ lôi mà không giảm tốc độ vào các chiếc bóng nổi bật trên khối bờ biển đen sậm. Không có quả nào nổ cả. Các khu trục hạm hộ tống của Nhật đuổi theo ngay và rơi vào chiếc Tromp vốn đang khai hoả vào chúng và bị bắn chìm một chiếc. Thế rồi đến lượt nó cũng bị trúng đạn và một khu trục hạm Mỹ bị đánh chìm.


Đến 2 giờ 30 sáng, các tuần dương hạm của Doorman đến tiếp cứu nhưng một tuần dương hạm và nhiều khu trục hạm của Nhật đuổi kịp chiếc Tromp và tập trung hoả lực vào nó, mức độ hư hỏng trầm trọng đến nỗi phải khó nhọc lắm nó mới thoát khỏi cuộc săn đuổi. Sợ bị phi cơ Nhật trông thấy khi trời sáng, Doorman chạy theo chiếc Tromp để che chở cho nó rút lui và cả hạm đội trở về đến Sourabaya lúc rạng đông.

Với sự chiếm giữ Bali, quân Nhật khoá chặt được cánh cửa đông phương của chiếc bẫy chuột,


Hart bị một vố nặng do sự thất bại của các tuần dương hạm dưới quyền. Ông chỉ còn lại năm chiếc-cùng với chiếc Houston đã bị hư hỏng nặng-là tượng trưng cho sự tham dự của Mỹ vào chiến cuộc. Tướng Brereton vốn đã cho di tản từng chiếc pháo đài bay quí giá về Colombom cũng đã tự rút về đó theo chiếc cuối cùng, nhường lại quyền tư lệnh không lực của ABDA cho phó Thống chế không quân Anh Maltby. Hart quyết định theo gương ông ta và đề nghị quyền chỉ huy hải lực cho Đô đốc Helfrich là người trong thực tế đã hành xử quyền này trong mấy ngày qua. Hoa Thịnh Đốn chấp thuận, ông lấy phi cơ đi Úc và trở về Mỹ. Khi bước chân xuống phi trường ông trả lời các ký giả đến phỏng vấn: “Tất cả những gì tôi có thể nói là chúng tôi bị đánh tơi bời hoa lá”. Ông không được khen thưởng gì và hôm sau xin về hưu.


Ngày 20 tháng 2, Uỷ ban tham mưu hỗn hợp tối cao Đồng minh báo cho Wavell biết rằng “Java phải được bảo vệ với sức mạnh cuối cùng vì tầm quan trọng của sự chiếm hữu và rằng ông có thể sử dụng tất cả phương tiện hải quân còn dùng được trên khu vực chiến trường thuộc chiến trường thuộc ABDA cũng như các phi cơ Mỹ được phái từ Úc đến”. Hôm sau ngày 21, cùng nguồn tin trên cho Wavell biết rằng trách nhiệm phòng thủ Miến Điện của ông được rút lại và tất cả tăng viện của Anh nay được chuyển đến chiến trường này. Một lát sau cùng ngày hôm ấy, một điện văn yêu cầu ông dời bộ tư lệnh “đến địa điểm nào và vào lúc nào thuận tiện cho ông nhất”.


Wavell trả lời các mệnh lệnh tráo trở này rằng Bộ tư lệnh ABDA của ông không còn nữa, điều thích nghi nhất không phải là di chuyển nó mà giải tán nó. Ông thêm rằng công cuộc chống giữ Java sẽ được giao lại cho người Hà Lan và đề nghị giao quyền chỉ huy cho Thống đốc các thuộc địa Hà lan là Van Starkenborgh.


Đề nghị này được chấp thuận, ABDA bị giải tán lúc 9 giờ ngày 25 tháng 2 năm 1942 sau 9 tuần lễ hiện diện. Hành động sau cùng của Wavell trước khi bỏ mặc người Hà Lan cho số phận đáng buồn của họ là ra lệnh cho hàng không mẫu hạm Langley của Mỹ và chiếc tàu chở hàng Seawitch đang tải các khu trục cơ đến Miến Điện, chuyển hướng tiến về Tjilatjap. Sau đó, ông lên chiếc vận tải cơ độc nhất có thể bay đến Colombo. Viên phi công chiếc máy bay này không có một ý tưởng nào về vị trí của Tích Lan và chỉ có được một bản đồ du lịch. Khi thấy trên bản đồ này địa điểm được chỉ định, anh ta tuyên bố rằng “mọi chuyện đều OK cả” và cất cánh mà không hỏi gì thêm. Chuyến bay thật sôi động, trong những rung chuyển do cuồng phong nhiệt đói gây ra, một đám cháy phát khởi trong hầm chứa hành lý nhưng phi hành đoàn dập tắt được. Như phép lạ, chiếc phi cơ đến được Colombo giữa đêm tối. Ông tướng bị kiệt sức vì những đêm thức trắng và những thử thách tinh thần phải chịu đựng, đã ngủ vùi trong suốt chuyến bay và chẳng biết chuyện gì đã xảy ra cả…
 
Wavell ra đi chỉ để lại toàn là những người thắp đèn đường. Nếu việc ông ra đi có thể biện minh được thì sự kiện bỏ đi ấy sau không biết bao nhiêu người khác, đã không làm cho tinh thần của các chiến binh được nâng cao. Điều đó gây cho mọi người cái cảm nghĩ ghê rợn là “đàn chuột đã rời bỏ con tàu”… Tại Batavia, tại Bandoeng và tại Sourabaya những người tỵ nạn chạy đến với vợ con loan truyền các tin đồn kinh khủng. Phần đông họ từ Tân Gia Ba chạy đến. Tàu chở họ bị địch phóng thuỷ lôi dọc đường, nhiều ghe tàu khác bị gió mùa đánh lạc hướng, bị sóng lớn trên Ấn Độ Dương vùi dập. Người ta đọc được trong những cặp mắt thất thần của họ nỗi kinh hoàng mà họ đã chịu đựng. Nhiều người là binh sĩ đào ngũ trá hình kém cỏi dưới những bộ y phục lấy cắp được, những người còn lại, tả tơi trong những bộ quân phục phai màu. Đường phố ngổn ngang những đổ vỡ, chật ních xe cộ đủ loại. Mỗi giờ trôi qua không khí ẩm ướt của đại hoạ lại bị đè nặng dưới sức nóng ẩm của gió mùa.


Trong vùng biển khốn khổ ấy, chỉ có các cấp chỉ huy Hà Lan là còn giữ được bình tĩnh. Được giải thoát khỏi sự giám hộ giả tạo của ABDA vốn chỉ làm cho tình hình đáng buồn thêm trầm trọng, rốt cuộc họ thấy hoàn toàn được chủ động tại xứ mình và tự do tổ chức công cuộc phòng vệ hơn. Thuộc địa Hà Lan là xứ sở của họ. Vấn đề chủng tộc bị giảm thiểu rất nhiều nhờ các cuộc hôn nhân hỗn hợp, gần như không còn được đặt ra nữa. Dân bản xứ là những người được đồng hoá mạnh mẽ nhất vượt xa tất cả các thuộc địa của Âu châu tại Viễn Đông. Vậy thì ý chí kháng cự nay đã nhất trí. Nhưng phương tiện thì còn quá thiếu thốn, không đáng kể.


Tướng Der Porten Tư lệnh lục quân có trong tay chừng 25.000 người thuộc quân đội Hà Lan và chừng 10.000 dân quân Mã Lai, rất can đảm nhưng không có kinh nghiệm chiến đấu. Ông cho tập họp tất cả những binh sĩ không quân của các đơn vị đã ra đi hoặc bị tiêu diệt thành các đơn vị chiến đấu. Hai trung đoàn DCA của Anh từ Sumatra đến, hai tiểu đoàn Úc, nhiều chiến xa nhẹ và các giàn rada vừa được chở đến đã tăng cường thêm cho đạo binh thiếu đồng nhất mà ông đã kích thích được tinh thần nhờ nêu gương ngay giữa cảnh hỗn loạn toàn diện do các cuộc oanh tạc không ngừng gây ra.


Điểm yếu của hệ thống phòng thủ rõ ràng là tình trạng thê thảm của không quân, nhưng bầu trời luôn luôn đầy mây và những đêm tối mịt mùng có lẽ đã giúp bù trừ vào sự yếu kém đó. Hơn nữa Phó Thống chế không quân Anh Maltby, người đã đưa từ Sumatra về nhiều phi đoàn, hiện đang phân phối chúng ra bốn phi trường trên đảo Java. Đó là một cấp chỉ huy ngoại hạng mà quyền uy sáng chói đã tạo nên nhiều phép lạ. Ông có ngày lập tức 35 oanh tạc cơ, 26 thám thính cơ và 25 khu trục cơ-lực lượng này đang chờ thêm các khu trục cơ do chiếc Langley và Seawitch sẽ mang đến vào ngày 27 hay 28 tháng 2.


Do đó, giờ đây là cả một cuộc chạy đua với thời gian mà sự thành công hoàn toàn dựa vào hoạt động của hải quân nhằm trì hoãn các cuộc đổ bộ của Nhật trong 2 tuần lễ cần thiết để quân tăng viện của Mỹ từ Úc có thể đến kịp. Helfrich cho tập họp về phía Đông Java tất cả các chiến hạm Đồng minh còn để lại cho ông và giao cho Đô đốc Doorman là người phần lớn đã từng dắt chúng tham dự các trận hải chiến. Hạm đội mới được thành lập như thế cũng khá mạnh: hai tuần dương hạm nặng (Houston và Exeter) có tổng cộng một giàn đại bác 12 khẩu 203 ly, ba tuần dương hạm nhẹ (De Ruyter, Java và Perth) tổng cộng 25 khẩu 150 ly, chín khu trục hạm (4 Mỹ, 3 Anh và 2 Hà Lan), không nói đến chừng 20 tàu ngầm rải rác trong quần đảo.


Phía bên kia chiến tuyến, say sưa chiến thắng vì đã chiếm đóng pháo đài được phòng vệ vững chắc nhất của Đồng minh một cách dễ dàng không ngờ, bộ tư lệnh Nhật không hề tưởng tượng rằng sẽ gặp một sự kháng cự mãnh liệt tại Java. Sau các cuộc oanh tạc mà chiến hạm Đồng minh phải chịu đựng trên biển cả cũng như trong hải cảng, giới chỉ huy Nhật đã ước tính rằng chúng đã bị đánh chìm hết, hoặc là bị hư hỏng nặng nề hết. Các phi công tấn công chúng đã trở về ca khúc khải hoàn. Cứ như lời họ thì vùng biển Java đã trở thành một “cái hồ của Nhật Bản”.


Kinh nghiệm quá mới mẻ. Chưa ai biết rằng các phi công oanh tạc đã ước lượng quá đáng hiệu quả của bom đến mức nào, trong cảnh lửa đạn mù mịt và khói do các vụ nổ gây ra và rằng thật khó cho họ biết bao nhiêu khi phân biệt giữa một trái bom “trúng đích” luôn luôn tàn phá kinh khủng và một quả bom “rơi gần” mục tiêu chỉ tạo ra vài hư hỏng nhẹ. Bằng cách giảm xuống một nửa thành tích của các phi công, Đô đốc Kondo tiến tới kết luận là chỉ còn lại hai tuần dương hạm và vài khu trục hạm của Đồng minh là còn sử dụng được. Do đó ông quyết định chiếm các đảo cuối cùng của hàng rào chặn Mã Lai mà không chờ đợi thêm và tung các đoàn công voa của ông về phía Java mà không cần một sự che chở nào khác hơn một nhóm tuần dương hạm như ông đã làm tại Célèbes, tại Bornéo và tai Timor.


Mối đe doạ của tàu ngầm có vẻ đáng sợ nhất đối với ông, vì thế một hải đội khu trục hạm được tăng cường cho đoàn công voa phía đông, đoàn tàu phải di chuyển một hải trình dài ngoài biển khơi. Ngoài ra, ông hoàn toàn tin tưởng vào sự khéo léo của các hạm trưởng tuần dương hạm, vốn là những người rất thuần thục trong kỹ thuật dạ chiến, và các quân sĩ canh phòng trên cầu tàu, vốn được lựa chọn rất kỹ trong số những binh sĩ sống trong bóng tối và rình bóng đêm tinh nhuệ không khác gì mèo.


Để ngăn không cho tăng viện từ Colombo hay từ Úc đến, ông nhổ neo cùng hai thiết giáp hạm và bốn hàng không mẫu hạm của Nagumo đến dàn phía nam hàng rào chặn Mã Lai trong thời gian tiến hành cuộc đổ bộ.
 
Áp dụng các chỉ thị của ông, 56 tàu chở quân đổ bộ thuộc đoàn công voa phía tây được các tuần dương hạm của Phó Đô đốc Ozawa che chở, ngày 25 tập họp trong eo biển Banka, từ đó, chúng chỉ có một lóng tay phải vượt qua là đến bờ biển Batavia kế cận và eo biển Sonde. 41 tàu đổ bộ thuộc đoàn công voa phía đông, một số từ Balikpapan đến, một số từ Bandjermasin đến, nhổ neo sáng sớm ngày 26 tháng 2 để đến các điểm tập hợp lựa chọn để đổ bộ chung quanh Sourabaya. Lực lượng hộ vệ đoàn công voa này mạnh hơn cả, gồm có hai tuần dương hạm nặng của Phó Đô đốc Takeo Takagi-chiếc Nashi và chiếc Haguro-hai đoà khu trục hạm mỗi đoàn do một tuần dương hạm nhẹ hướng dẫn và ba phi đội thuỷ phi cơ để đảm bảo che chở chống tàu ngầm cho đoàn công voa.


Ý tưởng điều quân của Phó Đô đốc Takagi rất đơn giản: giữ cho tiểu hạm đôi của ông cách đoàn tàu đổ bộ hai dặm về phía trước, bằng cách sử dụng các khu trục hạm sao cho có thể ngăn chặn hải lực địch trong trường hợp lực lượng này có thể toan tính vượt thoát ra khỏi hải cảng.


Ngày 25 tháng 2, một số các phóng ngư lôi hạm đổ bộ lên đảo Bawean, nằm cách Sourabaya 100 cây số về phía bắc, một toán cảm tử thủy quân lục chiến để thiết lập tại đấy một đài phát tin.


Nhờ một phi cơ thám thính báo cho biết cuộc điều quân này, Đô đốc Helfrich ra lệnh cho Doorman tập họp tất cả các tuần dương hạm và lập một hàng rào phía Bắc đảo Madoera kéo dài về phía Đông cho đến bờ phía Bắc của Java nơi che chở hải cảng Sourabaya. Vì không thấy một bóng chiến hạm nào của địch, toàn thể hạm đội trở về Sourabaya để tiếp tế nhiên liệu.


Tối ngày 26, Helfrich họp Đô đốc Doorman và tất cả các hạm trưởng để ra chỉ thị liên quan đến trận chiến quyết định không thể nào không xảy ra vào hôm sau. Một vài sự sắp xếp đơn giản được quyết định để tránh việc trao đổi tín hiệu càng nhiều càng hay. Các khu trục hạm thì vẫn được tập họp theo nhóm quốc gia, trong khi đó các tuần dương hạm thì xếp nối nhau theo hàng dọc trong thứ tự De Ruyter (soái hạm), Exeter, Houston, Perth và Java. Vì không được huấn luyện kỹ để bay đêm, người ta đã quyết định để các phi cơ thám thính của các tuần dương hạm lại đất liền để tránh các đám cháy vì xăng trong khi đang chiến đấu.


Helfrich chấm dứt hội nghị bằng cách tuyên bố rằng các thuỷ thủ đoàn Hà Lan nhất quyết chiến thắng hay là chết, và cám ơn các hạm trưởng Anh, Úc và Mỹ đã nhận lời theo hạm đội Hà Lan trong sứ mạng chủ yếu này. Ông nói thêm rằng giá trị mà họ đã chứng tỏ trong mấy tuần qua là một đảm bảo chắc chắn cho quyết tâm mà họ sẽ mang theo khi chiến đấu, rồi ông cáo biệt họ mà không hề giấu vẻ xúc động. Đô đốc Doorman và các hạm trưởng còn ở lại với nhau một lát trước khi chia tay. Họ sẽ không bao giờ còn gặp lại nhau, vì tất cả, ngoại trừ một người, (Hạm trưởng chiếc Perth được quân Nhật vớt lên khi tàu chìm. Chính nhờ các bằng cớ mà ông đã viết khi bị bắt, diễn tiến trận đánh mới được dựng lại) đều bị mất tích trong cuộc tàn sát rùng rợn.


Ngay khi trở về tàu De Ruyter, Doorman ra lệnh nhổ neo. Một cuộc dò xét mới được tổ chức tận ngoài khơi đảo Badoera ngay trong đêm, nhưng không gặp gì. Sáng ngày 27 tháng hai, Đô đốc quyết định gửi về Sourabaya để bổ túc việc tiếp tế các chiến hạm hầu có thể ra khơi lại khi đêm về.


Đoạn đường về không xảy ra gì khác hơn là bị vài phi cơ Nhật từ Bali bay đến thả bom, nhưng đến 14 giờ 30, trong lúc hạm đội sắp vào hải cảng, một điện văn tối khẩn được gửi đến cho Soái hạm De Ruyter: một đoàn công voa địch được hộ tống rất mạnh mẽ đã bị phát giác từ hơn một giờ cách đảo Bawean hai mươi hải lý về phía Tây. Sau cùng Doorman định được vị trí của địch. Ông ra lệnh cho hạm đội quay mũi để đến đối diện với địch quân.


Kể từ lúc các oanh tạc cơ Nhật thấy hạm đội Đồng minh, các thuỷ phi cơ thám thính Nhật không ngừng bí mật bay theo dõi trên không. Nhờ vậy Đô đốc Takagi mau lẹ đoán trước một cuộc điều động các tuần dương hạm của Doorman. Ông lập tức di chuyển hạm đội để cắt đường về của nó tại phía Nam đảo Bawean và ra lệnh cho các tàu đổ bộ chạy trốn về phía Tây.


Không biết gì về vị trí của hạm đội địch, Doorman tiếp tục chạy nhanh để kịp tấn công các đoàn công voa lúc chập tối. Trong hai giờ tiếp theo đó, các hạm trưởng Đồng minh hối tiếc một cách cay đắng sự vắng mặt của các phi cơ quan sát. Để báo tin hạm đội địch đến gần, Đô đốc chỉ có chiếc khu trục hạm Anh Electra vốn được phái đi đầu hạm đội để làm hướng đạo. Trên các cầu tàu ai nấy lo âu rình xem hiệu lệnh của chiếc tàu nhỏ đang mở hết tốc độ chạy trong tầm trông thấy của các bạn đằng sau.


Đến 16 giờ, một chiếc đèn rọi bật cháy trên chiếc Electra. Đó là dấu hiệu cho biết “Thấy tàu địch…” 16 giờ 10, sau khi giảm tốc độ, Electra báo hiệu “hai tuần dương hạm, 12 phóng ngư lôi phía bắc-đông bắc”. Vài phút sau hai tuần dương hạm nặng Exter và Houston khai hoả khi còn cách địch 27.000 thước. Các tuần dương hạm nhẹ chỉ có pháo đội 150 ly không thể bắn xa như thế, chạy theo mục tiêu mà không thể bắn được. Lập tức chung quanh chúng những cột nước khổng lồ tung lên cao trong lúc đó các khẩu đại bác điên cuồng của chúng lại không trả đũa được. Đấy là các đại bác 203 ly của chiếc Nashi và chiếc Haguro đang khạc đạn theo một nhịp độ ngày càng mau.


May thay, với khoảng cách như thế, tác xạ của Nhật cũng bị phân tán xa mục tiêu và cuộc chiến đấu tay dôi này kéo dài trong suốt 20 phút dưới hình thức một cuộc trao đổi tác xạ tầm xa không kết quả gì cả.
 
Hai đối thủ không ai tìm cách tiến gần đối phương-Doorman, bởi vì ông muốn tránh cho đoàn tuần dương hạm của mình bị hoả lực địch vây kín, Takagi, bởi vì không muốn rơi vào một hạm đội đông hơn và không bao giờ tính chuyện để rơi vào tầm hoả lực của tuần dương hạm nhẹ của đối phương. Ông còn nổi khùng vì lúc đó đã cho lệnh tấn công bằng thuỷ lôi, với khoảng cách như thế-không có cơ may thành công nào.


Một trong các khu trục hạm Nhật bị trúng một trái phá 150 ly của chiếc Perth và tất cả hạm đội Nhật đều quay mũi sau một màn khói. Thành quả nấy kích thích lòng can đảm của binh sĩ Đồng minh và Doorman nghiêng đường tiến của hạm đội để tiến gần các tuần dương hạm địch.


Nhưng đối phương của ông, với sự chính xác đáng ngạc nhiên của hệ thống tác xạ trên các tuần dương hạm nhẹ, điều động để giữ khoảng cách và chờ cho các khu trục hạm đến đủ gần địch để ra lệnh một đợt tấn công mới bằng thuỷ lôi.


Không chờ đợi kết quả, hạm đội Nhật trở hướng mạnh để chặn hạm đội Đồng minh theo hình chữ T và khai hoả tất cả các đại bác 203 ly.

Đến 17 giờ, một tạc đạn trúng vào một nồi xúp de của chiếc Exeter, bắt nó phải tránh qua một bên để cho chiếc Houston chạy theo sau khỏi bị chạm vào.


Chính đây là một đòn tiền định. Chiến hạm này có cả một huyền thoại. Chính nó, hai năm trước đã bắt buộc chiếc thiết giáp hạm bỏ túi của Đức, chiếc Graal Spee phải tự đâm vào mình tại Montevideo. Sau thử thách kinh khủng này, hình như không còn gì trên thế giới có thể ngăn chặn nó được. Khi chiếc Houston thấy Exeter nghiêng về bên trái, nó theo ngay chẳng ngần ngại gì. Nhưng một khối hơi nước khổng lồ đã che ngay tầm quan sát của nó và hiểu ngay là đã phạm phải sai lầm to lớn. Than ôi, quá chậm! Hai chiếc Perth và Java theo sau phải giảm tốc độ đột ngột. Để cho sự rủi ro thêm toàn vẹn, một thuỷ lôi phóng tử xa đến thế lại trúng một khu trục hạm Hà Lan, chiếc Kortenaer khiến nó chìm lỉm trong một đám lửa vĩ đại. Tất cả hạm đội của Doorman tán loạn ngay giữa khói lửa trong lúc các tuần dương hạm của ông đến gần địch và sẵn sàng khai hoả.


Một quang cảnh hỗn loạn xảy ra sau đó giữa các khu trục hạm đôi bên trong các cuộc bắn trực xạ sát bên nhau mỗi khi gặp khoảng trời sáng bất ngờ. Các chiến hạm lớn không thấy tàu của Đô đốc đâu trong khi soái hạm vẫn lặp lại không ngừng bằng quang hiệu mệnh lệnh trứ danh “All ship, follow me!” (Tất cả, hãy theo tôi”).


Bên phía Nhật, tình thế cũng rối loạn nhưng ít trầm trọng hơn. Takagi biết rằng ông chỉ bị mất có các khu trục hạm và các phi cơ quan sát đã cho ông biết quang cảnh hỗn loạn của đối phương. Ông cho hạm đội lùi xa về phía bắc để “suy nghĩ tiếp”.


Khí gió mùa thổi đến làm bầu trời sáng dần, sau cùng Doorman cũng tập họp được các chiến hạm thuộc quyền, và vì địch quân đã biến mất, ông lại dẫn chúng tiến lên phía bắc để cô bọc vòng các tuần dương hạm Nhật và sau đó đợi đoàn tàu đổ bộ mà giờ đây theo ông đã đến rất gần…


Không bao giờ người ta biết được tại sao ông bỏ ngang dự tính này sau vài giờ vì ông không trở về để giải thích, nhưng ta chỉ biết rằng đột nhiên ông trở hướng xuống về Nam. Tiếng đại bác đã im bặt. Trên chiến trường hoang vắng, chỉ có vài thuỷ thủ tuyệt vọng trên mặt biển ngập đầy dầu mazut. Chiếc chiến hạm dũng cảm Exeter vốn đã sống một cuộc đời đầy thử thách nay còn chạy chầm chậm về Sourabaya, có một khu trục hạm đi kèm. Các tuần dương hạm sắp thành đội hình hàng dọc chạy theo soái hạm De Ruyter.


Đêm đến, gió mùa kéo mây che phủ bầu trời. Không khí ẩm ướt len lỏi khắp nơi khiến cho không khí nóng bức bên trong tàu trở thành khó thở.


Ai nấy đều đặt ra câu hỏi: Người ta sẽ làm gì?... “Người ta”, đấy là Đô đốc, vị chủ nhân của định mệnh. Trên các chiến hạm Hà Lan thì không có vấn đề gì. Nhưng trên các chiến hạm Úc, Mỹ, Anh?


Mặt trăng mọc lúc 21 giờ. Hạm đội luôn luôn tiến về phía Nam. Liệu có phải trở về hải cảng tay không để rồi bị phi cơ địch ngày mai bắn như vịt không?


Đến 21 giờ, Doorman kiểm điểm lại tổn thất và thấy rằng dầu sao chúng cũng tương đối nhỏ và tính rằng chắc ông còn cơ may gặp đoàn tàu đổ bộ địch. Mặc dầu đang ở cách Sourabaya không đến một giờ, ông ra lệnh cho hạm đội quay về phía tây, nhưng để cho bốn khu trục hạm Mỹ vào hải cảng vì đã phóng hết thuỷ lôi rồi.


Đêm tối tuyệt đối yên tĩnh. Các thuỷ thủ đoàn được nghỉ ngơi đã lấy lại sức. Quyết định của Đô đốc tiếp tục ra đi tấn công được đón tiếp với sự vui mừng trên khắp chiến hạm.


ửa giơờnữa trôi qua mà không có biến cố nào. Thế rồi sự im lặng đè nặng của đêm tối vùng nhiệt đối bị xé toang dữ dội bởi một tiếng nổ. Một ngọn lửa bừng bừng loé ra bên phải đoàn tàu, đấy là chiếc khu trục hạm Anh Jupiter vừa bị nổ tung.


Mặc dầu Doorman không hiểu tí gì về nguyên nhân của thảm cảnh này, ông nghiêng đội hình về phía bắc sợ gặp phải một hàng rào tàu ngầm và cuộc hải hành tiếp tục với sự đều đặn đáng lo ngại.
 
Đến 22 giờ, các binh sĩ canh đêm của chiếc De Ruyter báo hiệu thấy vô số mảnh tàu vỡ nổi trên mặt biển. Người ta phân biệt được ngay đó là các bè cấp cứu chở ngập xác người và những cái đầu đen đủi. Những gì còn lại gớm ghiếc của số người bị đắm tàu.


Mặc dầu có lệnh khắt khe do chính ông ban hành là không được cứu ai cả trong khi chiến đấu. Doorman cho tách rời chiếc khu trục hạm cuối cùng của hạm đội để đến giúp đỡ những người bị nạn. Con người sắt đá ấy, người không ngần ngại đưa cả hạm đội đến chỗ hy sinh, đột nhiên nhường bước cho một hành động đầy tình thương. Có lẽ lúc đó ông đã mất hết tất cả hy vọng chiến thắng và muốn trình bày với Thượng đế một bằng chứng về lòng nhân đạo sâu xa của ông.


Không đầy một giờ sau, hai bóng tàu hiện ra dưới ánh trăng. Tất cả các tuần dương hạm Đồng minh đều khai hoả một lượt. Cùng lúc đó mặt biển phía trước được hoả châu chiếu sáng rực. Đấy là ánh sáng phát ra từ các phao cháy sáng do phi cơ thám thính Nhật rải dọc theo đường bay để giúp cho chiến hạm Nhật tác xạ dễ dàng.


Kể từ lúc đó, các biến cố đến dồn dập theo nhịp độ điên cuồng. Nhiều cột nước vọt lên cao chung quanh đoàn tàu Đồng minh và chiếc De Ruyter bị trúng đạn. Chiếc Houston và Perth lạng ra một bên để tránh đụng chạm. Ngay cả trước khi chúng kịp chạy ngang hàng với chiếc Soái hạm, hai tiếng nổ dữ dội chế ngự tất cả tiếng súng chát chúa. Cách nhau vài giây, chiếc De Ruyter đi đầu và chiếc Java đi sau chúng nổ tung chiếu sáng cả bầu trời. Cả hai chiến hạm lần lượt bị trúng thủy lôi do kẻ thù vô hình phóng đến.


Hai tuần dương hạm còn sống sót gần như hết đạn và nhiên liệu. Thuỷ thủ đoàn kiệt sức. Hạm trưởng chiếc Perth, một người Úc lực lưỡng, do thâm niên đã trở thành tư lệnh hạm đội, ra lệnh cho chiếc Houston theo mình và quay lui hết tốc độ về Batavia. Như nhờ phép lạ, hai chiến hạm thoát ra khỏi vùng pháo cháy sáng nơi hai xác tàu Hà Lan đang hấp hối. Trận chiến danh dự đã kết thúc.


Cuộc gặp gỡ lãng mạn đã chấm dứt như thế, một cuộc gặp gỡ diễn tiến mà không có một oanh tác cơ nào, không có một phi cơ phóng thuỷ lôi nào can thiệp vào để làm cho quang cảnh hỗn độn thêm. Do bởi sự tình cờ của hoàn cảnh, hai đối thủ đều theo đúng các nghi thức xưa cũ do chính người Nhật thiết lập 40 năm về trước trong trận hải chiến lừng danh tại eo Tsoushima.


Kinh nghiệm đắt giá xảy ra quá bất ngờ cũng như quá xưa cũ này sẽ không còn tái diễn. Mất tích cùng với chiếc soái hạm, Karel Doorman đã lật qua một trang lịch sử.


Ngày 27 tháng 2 năm 1942 tiền định ấy lại được đánh dấu bằng một tai biến khác. Chiếc hàng không mẫu hạm Langley và chiếc tàu hàng Seawitch mà Wavell cho trở hướng chạy về Tjilatjap chạy về gần đến đích thì gặp đoàn oanh tạc cơ của Đô đốc Nagumo đang canh giữ ngoài khơi. Sàn tàu chiếc Langley-một tàu chở hàng cũ được biến cải từ thời chiến tranh 1914-phủ đầy khu trục cơ P-40. Nó không có máy phóng phi cơ và không một phi cơ nào có thể cất cánh. Bị đánh ngất ngư bởi hai thuỷ lôi, nó chìm xuống biển mang theo số hàng quí báu. Riêng chiếc Seawitch mà các oanh tạc cơ Nhật để cho chạy trốn thì cũng chẳng còn gì để chờ đợi. Ngay khi vừa đến Tjilatjap, một đợt oanh tạc mới cực kỳ dữ dội đã nhấn chìm nó xuống đáy trước khi các phi cơ đóng thùng được bốc dỡ lên bờ.


Thống đốc Van Starkenborgh nay không còn phi cơ lẫn chiến hạm nữa-đến lượt chiếc Houston và chiếc Perth bị gục ngã trước hạm đội của Ozawa trong khi chạy trốn về eo biển Sonde (Chiếc Tromp bị nằm ụ từ 20 tháng 2 tại Sourabaya đã chạy trốn được qua ngõ eo biển Bali dưới một lớp nguỵ trạng thần tình bằng cây leo vĩ đại. Bốn khu trục hạm Mỹ sống sót cũng làm được như thế)-chỉ có thể chống lại quân xâm lăng chiến thắng bằng một cuộc kháng cự tượng trưng. Cuộc kháng chiến này rồi cũng chấm dứt ngày 8 tháng 3 năm 1942 bằng cuộc đầu hàng vô điều kiện.


Làm chủ được hàng rào ngăn chặn Mã Lai, quân Nhật đã đạt tất cả các mục tiêu. Trận chiến phi thường này đã kết thúc sau khi chỉ kéo dài chín mươi ngày.
 
Corregidor

Corregidor là một đảo nhỏ có hình dáng con nòng nọc hoàn toàn nằm trong con lạch dẫn vào vịnh Manille. Thật ra không hoàn toàn nằm ngay giữa, mà gần bên bờ phía bắc con lạch hơn: mũi Mariveles cực điểm của bán đảo Bataan. Đầu con nòng nọc là một chỏm núi đá cao 200 thước và đường kính 1800 thước. quân Mỹ xây dựng ở đấy bốn pháo đài chế ngự biển khơi và đồn trú tại đấy. Đuôi con nòng nọc trải dài về phía đông và chìm xuống vịnh Maniile. Nó cũng là một dãy núi đá hiểm trở, ít ra cũng là phần nằm về phía tây. Cổ con nòng nọc là một cánh đồng nhỏ phân cách hai núi đá bên này và bên kia. Phía đuôi có nhiều triền đồi cực kỳ cheo leo đến nỗi quân đội phải cho đào đường hầm dài 200 thước vốn sẽ trở nên vô cùng quí giá trong các cuộc oanh tạc sau này.


Khi rời bỏ Manille, Mac Arthur đến đặt văn phòng trong các kiến trúc của quân trú phòng tại cực điểm của chiếc đuôi, kế bên một phi trường nhỏ. Ông chọn một biệt thự thật xinh cất trên một chỏm đá dưới các pháo đài để làm nơi cư ngụ. Một cánh nhà ngang được dùng làm bản doanh, cánh kia dành cho người vợ trẻ và đứa con trai bốn tuổi của ông.


Chính từ địa điểm quan sát từ trên cao này mà ông tướng đã điều khiển đạo quân Phi Luật Tân rút lui về bán đảo Bataan bằng cách quan sát bằng ống nhòm.


Từ ngày 29 tháng 2 năm 1941, cuộc oanh tạc của Nhật diễn ra hàng ngày. Địch quân xâm nhập vào khắp chung quanh vịnh Manille. Thực phẩm hiếm hoi, cuộc sống trên đống đá cô quanh ngày càng khắc nghiệt. May thay, quân Nhật tại Phi Luật Tân, vốn không được đông lắm, bằng lòng với cuộc bao vây quân Mỹ trên bán đảo và chờ đợi sự đói khát và mệt mỏi bắt họ đầu hàng.


Mặt trận 22 cây số phân cách hai bên đối địch được phòng thủ tương đối dễ dàng và không có gì xứng đáng với sự hiện diện của một Trung tướng cả. Nhưng Mac Arthur lại rất thăm thiết với đạo quân Phi Luật Tân và quyết tâm tôn trọng đến cùng những cam kết của ông với Tổng thống Quezon, Quốc trưởng Phi Luật Tân. Ông đã từn tuyên bố urbi ot orbi-và vẫn còn tuyên bố khi có cơ hội-rằng không thể nào Hoa Kỳ, trong khi hàng ngày gửi sang Âu châu hàng trăm chuyến tàu vận tải và cả một làn sóng phi cơ, lại không có phương tiện đến tiếp cứu các chiến sĩ tạ Bataan mà, trong chiều hướng diễn tiến của sự kiện, vốn là những chiến sĩ duy nhất giữ vững được một mặt trận kháng địch.


Lợi dụng những đường dây liên lạc cuối cùng còn lại, ông nhắc lại với Tổng thống Roosevelt rằng đây là những cam kết danh dự được đưa ra nhân danh cá nhân ông và rằng về phần ông, không bao giờ ông bỏ mặc Phi Luật Tân lại cho số phận hẩm hiu của xứ này.


Sự xác định lập trường có tính cách vừa chính trị vừa chiến lược này đã vượt quá xa chức chưởng của một Trung tướng cho dầu là một Trung tướng uy danh lừng lẫy đi chăng nữa. Nó gây bối rối rất nhiều cho Roosevelt khiến ông ta không biết làm sao thoát ngõ bí. Đô đốc King cực chẳng đã phải bằng lòng gửi nhiều tàu ngầm và các chiến hạm nhỏ, hai ba lần tránh được các chiến hạm tuần tiễu Nhật, đến tiếp tế cho quân trú phòng. Các khinh tốc đỉnh của Asiatic Fleet còn tại chỗ, thực hiện được vài chuyến đi về giữa Corregidor và các đảo lân cận chưa bị Nhật chiếm đóng. Nhưng đấy chỉ vừa đủ để có những gì giúp binh sĩ khỏi chết đói.


Vì mọi ưu đều hướng cả về Âu châu, tướng Marshall chống đối việc gửi quân và cả việc tăng cường vài phi cơ cho lực lượng không quân vẫn còn rải rác tại các phi trường trên các đảo.


Do đó chính trong trạng thái phẫn nộ chất chứa, mà Mac Arthur theo dõi bằng máy thu thanh, qua các làn sóng quấy phá cực mạnh của Nhật, diễn tiến các cuộc hành quân và những nỗ lực vô vọng của Wavell để bảo vệ hàng rào ngăn chặn Mã Lai.


Tân Gia Ba thất thủ làm ông phẫn uất. Trong các cuộc hội nghị tham mưu, Tân Gia Ba được coi là một “thành trì không thể bị chiếm được. Mới hai tháng trước đây, Đô đốc Philips của Anh còn lặp lại với ông như thế. Là người đương đầu với quân Nhật tại Bataan với một nhóm người nhỏ bé nhưng quyết tâm, ông chấp nhận được rằng một đạo quân 85.000 người được một không lực mạnh mẽ yểm trợ lại có thể bị đánh đưa đến hoàn cảnh phải đầu hàng mà không chiến đấu gì cả. Bị cô lập hoá quá lâu trong lãnh địa của mình, ông đã tiêm nhiễm tinh thần của dân sống ở đảo luôn luôn có khuynh hướng xem quê hương của mình như trung tâm điểm trái đất.


Ngày 23 tháng 2 năm 1942, một sĩ quan hớt hải đến tổng hành dinh cầm trong tay một điện văn đóng dấu “ưu tiên tuyệt đối” Mac Arthur chững chạc mở ra và mặt ông biến sắc. Roosevelt ra lệnh cho ông phải rời Corregidor ngay lập tức để đi Melbourne và nắm quyền Tổng Tư lệnh mới được thành lập tại đấy cho chiến trường Tây Nam Thái Bình Dương.


Đi Melbourne? Tại sao không đi Nam Cực luôn? Hiển nhiên là các anh thầy rùa ở Hoa Thịnh Đốn đã bị mất trí rồi!
 
Ông vứt bản điện văn và bắt đầu đi lòng vòng trong văn phòng như một con gấy bị nhốt trong chuồng. Nửa giờ sau, ông lấy quyết định: ông sẽ trả lời Roosevelt bằng một danh từ Mỹ tương đương với tiếng của Cambronne (Cambronne (Pierre), Đại tướng Pháp sinh ở Nantes (1770-1842). Ông chỉ huy một đạo quân ở Waterloo; bị địch quân đang vây khốn ông thúc giục đầu hàng, ông trả lời: “Thà chết chứ không bao giờ đầu hàng”). Đối với ông không còn giải pháp nào khác. Người ta đã đập vỡ ông, biếm nhục ông. Ông đã đưa ra lời cam kết danh dự với người Phi Luật Tân và bây giờ đây, người ta ra lệnh cho ông “căng buồm chuồn đi” để cho họ ở lại trong cảnh bối rối tận cùng!

Thế thì không! Ông sẽ trả lời “Không. Thật đơn giản. Không, không và không!”.

Khi ông thảo văn bản trả lời nổ tung xong, ông tập họp các cộng sự viên cao cấp lại: Tham mưu trưởng sutherland, Đô đốc Rockwell, Tư lệnh hải lực. Ông rất muốn mời Tư lệnh Lục quân đến, nhưng tiếng súng vọng từ trên các đồi xuống đã ngăn ông lại.


Khi các tướng lĩnh đến, Mac Arthur một tay chìa cho họ bản điện văn của Tổng thống và tay kia điện văn trả lời của ông. Trước sự ngạc nhiên hoàn toàn của ông, hai quân nhân cao quí ấy lắc đầu trong im lặng với sự biểu lộ bất đồng ý kiến rõ rệt. Rồi họ lựa lời khéo léo nói với vị chỉ huy rằng chức vụ Tư lệnh mà ông được giao phó có tầm quan trọng tối cao vừa đối với nước Mỹ vừa đối với Đồng minh, rằng có lẽ Wavell vừa bị bãi chức sau cuộc đại bại tại Mã Lai và rằng quân đội và dân tộc Mỹ giờ đây hướng mắt chăm chú vào ông…


Ông tướng sắp ngắt lời cộng sự viên nhỏ con của mình thì Sutherland, vốn là người hiểu rất rõ thượng cấp của mình, tiếp lời đúng lúc. Ông gợi ý rằng sự bổ nhiệm ông không có mục đích nào khác hơn là giao phó cho ông một đạo quân chắc chắn đang được tập trung tại Úc nhằm tái chiếm Phi Luật Tân.


Mac Arthur suy nghĩ. Nếu Sutherland nói đúng, bổn phận của ông đã được vạch ra rồi. Ông phải nhận. Nhưng trước hết ông phải đảm bảo được như thế đã. Do đó ông để cho các cộng sự viên cáo lui và nói với họ là ông sẽ suy ngh lại.

Sáng hôm sau, ông soạn một điện văn khác uyển chuyển hơn điện văn trước: “Vì các cuộc hành quân đang tiếp diễn và các nghĩa vụ đã kết ước, tư lệnh không thể rời khỏi Corregidor ngay được”.


Ba ngày sau, hạm đội của Doorman bị tiêu diệt tại biển Java. Hàng rào Mã Lai rơi vào tay quân Nhật. Lúc ấy Mac Arthur mới hiểu tại sao Tổng thống vội vàng đến thế.

Cùng với Rockwell đang nghiên cứu các điều kiện và ngày giờ của chuyến khởi hành sắp đến, thì ngày 10 tháng 3 năm 1942, một điện văn mới của Roosevelt lại được đưa đến, lần này rất cương quyết: “Đi Melbourne ngay lập tức”.


Mac Arthur đến thăm Wainwright ngoài mặt trận. Ông tập họp các cộng sự viên chính và giải thích cho họ rõ tình hình. Cuộc họp mặt rất cảm động. Vị tướng lĩnh lão thành không còn tìm được lời để diễn ta hết tình cảm của ông đối với người học trò cũ đã phải chịu đựng gánh nặng kinh hồn của chiến trận và có thể là người mà ông sắp để lại cho trách nhiệm của sự bại trận. “Hãy cố giữ vững cho đến khi tôi trở lại và hãy nói lại với tất cả mọi người rằng tôi sẽ trở lại!”.


Công việc tổ chức cuộc khởi hành không phải là dễ. Chiếc tàu ngầm dự định đến ngày 27 tháng 2 từ lâu đã được phái đi làm nhiệm vụ khác. Ông phải tìm cách khác. Rockwell đề nghị dùng các khinh tốc đỉnh của ông, những chiếc PT boat trứ danh, kể từ khi hạm đội Á châu ra đi, đã từng làm chuyện phi thường để tiếp tế cho Bataan. Mac Arthur cho gọi trung uý Bucknell, người chỉ huy đoàn tàu đến. Đấy là một cậu thanh niên 25 tuổi có nét mặt rất cởi mở.

-Anh có thể chở tôi đến Mindanao nơi đó sẽ có máy bay từ Úc đến đón tôi không?
Bucknell tính nhẩm phỏng định trọng lượng của ông Trung tướng với ban tham mưu và gia đình của ông, các thư ký với hồ sơ của họ, vài người giúp việc. Cả một thế giới đó với hành lý… Các chiến hạm của anh thường chỉ được tiên liệu để chứa chí người của thuỷ thủ đoàn. Luật hiếy khách cấm đưa lên tàu thêm quá ba hay bốn người… Nhưng suy cho cùng, thì đây là thời chiến mà! Anh đã chẳng cùng với bốn khinh tốc đỉnh của mình, tám ngày trước, đã cứu 296 người bị đắm tàu của một chiến hạm bị chìm vì trúng mìn lúc chạy ra eo biển đó sao?

-Thưa Trung tướng, ông tính lúc nào khởi hành? Anh ta trả lời không ngần ngại gì nữa.
Hôm sau khi anh thấy trên bến có 40 người và một chiếc cam nhông vĩ đại chất đầy thùng bộng, va li, anh hối tiếc là đã không trình bày vài điểm dè dặt… nhưng đã quá trễ, phải cố chất tất cả mọi thứ xuống bốn chiếc khinh tốc đỉnh. Đêm tối không trăng rất thuận lợi. Cần nhất là phải làm nhanh để tránh không cho một phi cơ Nhật đến chúi mũi vào câu chuyện gia đình này.


Ông tướng bước lên chiếc tàu của Bucknell với bà Mac Arthur, cậu Arthur Douglas Mac Arthur, chị vú, sĩ quan tuỳ viên, Sutherland và vài người khác. Đô đốc Rockwell lên chiếc thứ hai. Chiếc thứ ba và thứ tư chia phần còn lại.


Khi mặt trời vừa lặn thì đoàn tàu nhổ neo. Các khinh tốc đỉnh cố gắng giữ khoảng cách gần nhau, nhưng một điểm hẹn cũng được tiên liệu tại một đảo nhỏ giữa đường đi đến Mindanao để giúp chúng tập họp lại trước khi bắt đầu phần nguy hiểm nhất của cuộc hành trình: một đoạn đường biển mà trên đó các động cơ vì đã quá mệt mỏi sau ba tháng đi lại liên miên rất có hy vọng thối chí không chịu chạy nữa.


Cuộc hải trình rất sôi động. Các khinh tốc đỉnh chở quá nặng nổ máy khó nhọc trong đáy sóng sâu. Mặt biển dường như bao phủ bởi các bóng đen đáng lo ngại và các luồng sáng thỉnh thoảng xuất hiện bắt buộc các hạm trưởng phải thắng mạnh làm hành khách ngã chúi vào trong “phòng ăn” chật hẹp được biến thành phòng ngủ. Đến nửa đêm các khinh tốc đỉnh phân tán cách nhau rất xa.


Chính chiếc thứ ba lại đến điểm hẹn trước, mặc dầu nó đã bị trễ mất ba giờ so với thời biểu. Nó phải đợi chiếc chở ông Tướng suốt cả một ngày tại đấy. Ông này khi đến lại từ chối tiếp tục đi mà không có Đô đốc Rockwell vốn đi trên một chiếc mà dường như máy móc bị trục trặc ngay khi khởi hành. Quả thật nó đã bị trục trặc máy móc nhưng sau cùng cũng đến được, rất trễ giữa đêm khuya, ba trong bốn động cơ của nó ngưng chạy. Phải bỏ nó lại và chia các hành khách lên hai chiếc khác. Riêng chiếc thứ 4 thì phải tự giải quyết bằng cách tiếp tục đi mà không đợi nó.
 
Đoạn thứ hai của cuộc hành trình lại càng khổ nhọc hơn đoạn đầu nhiều. Từ nửa đêm gió nổi lên thổi hàng loạt với cơn mưa như thác đổ. Tất cả hành khách đều kiệt sức, ướt loi ngoi, ngã quị vì những cơn say sóng rùng rợn. Không có vấn đề chạy chậm lại vì phải tuyệt đối đến được bờ biển Mindanao trước khi trời sáng.


Nhờ phép lạ, động cơ của hai chiếc khinh tốc đỉnh anh dũng chịu đựng sự thử thách và đến chiếc vịnh nhỏ vừa kịp, tại đây một tiểu đội tiền sát Mỹ đang chờ đón. Ngày 13 tháng 3 năm 1942 lúc 10 giờ sáng, mọi người tập họp dưới hăng ga phi trường Cogayan, phía bắc đảo. Điều thiếu thốn duy nhất là ba chiếc pháo đài bay được tiên liệu đến rước ông tướng và đoàn tuỳ tùng. Viên chỉ huy trưởng phi trường cho biết một chiếc bị rơi vỡ tan khi mới đến, hai chiếc khác ở trong tình trạng phải cho bay không trở về Úc. Ông ta hy vọng có hai chiếc mới sẽ đến vào hôm sau.


Thời gian chờ đợi kéo dài ba ngày. Viên Đại tá Mỹ lâm vào tình trạng nguy khốn kịch liệt bởi vì phi cơ Nhật mà ông ta không có gì để chống cự, lảng vảng rình mò khắp nơi và nếu chúng đánh hơi được chuyện gì đang xảy ra, chúng có thể thực hiện dễ dàng một mẻ lưới ngon lành nhất trong suốt cuộc chiến tranh.


Phần ông tướng thì lại vui vẻ. Ông đã chịu đựng rất cừ cuộc thử thách trên mặt biển. Đó là một con người ưa mạo hiểm và là một con người của các hoạt động đã làm thay hình đổi dạng. Trước những nguy cơ, ông biểu lộ một thái độ khinh thường quen thuộc. Một hôm, Tổng thống Quezon, bạn ông, ép ông phải vào hầm nấp khi bom địch rơi như mưa, ông vừa cười vừa trả lời: “Ông đừng có lo! Có nhiều trường hợp một ông tướng chết lại tốt hơn là một ông tướng sống!”.


Sau cùng, quá nửa đêm ngày 17 tháng 3, hai chiếc pháo đài bay chở nặng, cất cánh rời khỏi Mindanao đi Port Darwin. Cuộc hành tình bình yên và đến 9 giờ sáng phi cơ đáp xuống phi trường Batchelor Field. Phi trường quá lộ liễu đối với các cuộc tấn công của Nhật đến nỗi một phi cơ khác gần như cất cánh ngay lập tức với ông tướng và đoàn tuỳ tùng để có thể giúp ông mượn đường hoả xa xưa cũ, cách đó 1000 cây số về phía nam, đưa đến Adelaide. Khi sang phi cơ, Mac Arthur hỏi viên phi công Mỹ về tình tình tại Úc:

-Có bao nhiêu quân sĩ ở đây để phản công?

Người sĩ quan trẻ chưa bao giờ được nghe nói gì đến vấn đề này, trả lời ấp úng:

-Thưa Trung tướng, tất cả những gì tôi được biết là chúng ta chỉ có một nhóm người nhỏ tại Úc mà thôi…

Sau khi phi cơ cất cánh, Mac Arthur quay sang vừa cười vừa nói với Sutherland:

-Bọn trẻ giống nhau cả, họ chẳng biết chuyện gì xảy ra…

Phi cơ đáp xuống ngay giữa sa mạc cạnh một nhà ga xe lửa sau ba giờ bay. Hai toa xe lửa có trần chạm trổ được móc vào một đầu máy bằng đồng đỏ đang khạc ra từng quả cầu hơi nước trắng. Mac Arthur và đoàn tuỳ tùng ở trong các toa chật hẹp nhưng tiện nghi mà ghế bọc da sáng loáng và các màn cửa thêu dường như xưa cũ từ thời nữ hoàng Victoria. Đối với các hành khách nhọc mệt này thì đây là cả một góc thiên đường, là sự di dưỡng sau cơn ác mộng bom đạn, là sự nghỉ ngơi sau nhiều đêm tức trắng.


Hôm sau, trong chuyến hành trình diệu vợi qua sa mạc, ông tướng xua đuổi các ưu tư bằng cách kể cho cậu bé Arthur, đầy kinh ngạc, nghe các cuộc phiêu lưu của những người Úc tiền phong: các cuộc tấn công xe ngựa bởi những tay “convicts” nổi loạn, các chiến tích rùng rợn của tên cướp Ben Joyce, mối đe doạ của đàn kangourous xuất hiện đột ngột bằng cách nhảy như một đám mây châu chấu…


Tại Adelaide phải miễn cưỡng rời bỏ các toa xe nhỏ nhồi xóc của xứ thần tiên để bước lên các toa xe sang trọng do chính phủ Úc đặc biệt phái đến đón. Đối với cậu con, nếu không phải là đối với người cha, cuộc phiêu lưu điên cuồng đã chấm dứt.


Sự thức tỉnh thật tàn bạo. Khi đến Melbourne, Mac Arthur sửng sốt biết rằng viên phi công trẻ tại Darwin đã nói đúng sư thật. Trên khắp nước Úc chỉ có độ chừng 25.000 quân Mỹ, gần như hầu hết là pháo thủ phòng vệ duyên hải, pháo thủ phòng không hay chuyên viên công binh. Không có đơn vị không quân nào, nhưng có 200 phi cơ phân tán trên khắp một lục địa cũng rộng bằng lãnh thổ Hoa Kỳ. Còn hơn thế nữa! Ngoài một lữ đoàn bộ binh vừa đến Perth, tất cả các sư đoàn bộ binh của Úc còn đang ở tại Trung Đông hay Ấn Độ. Không những không có vấn đề đạo quân viễn chinh để tái chiếm Phi Luật Tân, mà cũng chẳng còn gì để phòng vệ một lãnh thổ mông mênh cô quạnh như thế trên địa cầu mà phần cực bắc bị bao bọc bởi các quần đảo gần như hoàn toàn nằm trong tay Nhật.


Tất cả những tin tức ấy rơi trên người ông như những hột mưa đá trong cơn giông tố. Mặt ông tái xanh. Lần đầu tiên trong đời ông suýt bị xỉu. Ông thì thầm qua làn môi mím chặt: “Xin Thượng đế giúp đỡ!” và khắp chặt mình trong toa xe lửa.


May thay, một niềm khích lệ lớn lao chờ đợi ông ở cuối cuộc hành trình bất tận. Người đón tiếp ông đứng đen nghẹt sân ga, và khi ông bước xuống, tiếng hoan hô vang trời. Nhiệt tình đầm ấm đó cũng chờ đợi ông nơi Thủ tươớn Curtin, ông ta không giấu giếm là do sự khẩn nài cấp bách của mình, Tổng thống Roosevelt mới chỉ định ông. Vài giờ sau, ông phải bất ngờ đọc một diễn văn khác tại Quốc hội. Ông vẫn mặc bộ quân phục kaki bạc màu và chiếc nón kết khổng lồ viền lá sồi kim tuyến mà những cơn mưa lũ nhiệt đói đã làm méo mó phần nào. Mặc cho vẻ tiều tuỵ biểu lộ sự mệt mỏi ghê gớm, những lời ông nói ra đã làm rung động quả tim người lắng nghe ông. Ông nói với tất cả những người lạ mặt ấy rằng ông cảm thấy như đang ở nhà mình cùng với họ, rằng tất cả mọi người đều được kết nối chặt chẽ với nhau bằng dây liên lạc huyết thống, bởi cùng chung lý tưởng cùng yêu mến tự do và rằng ông đến đây để chiến thắng hay để cùng chết với họ.


Mỗi người đều cảm thấy ông nói đúng và cái ông tướng có bộ dáng như một đại tài tử trở lại sân khấu này đã có một đức tính chủ yếu đối với họ: Ông có quả tim hoàn toàn kết chặt với phía thiện lương.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top