ngan trang
New member
- Xu
- 159
Dư luận nhất trí nêu bật tính chất quân sự của viện trợ Hoa Kỳ cho Nam Việt Nam. Nhận định này càng được khẳng định chính xác bởi tỷ lệ áp đảo của những khoản tín dụng dành cho các quân chủng, mà chúng tôi sẽ cung cấp đầy đủ, chi tiết trong một chương sau. Trên tờ tuần báo Mỹ The Reporter, David Hotham đã miêu tả không khí hoạt động của các phái đoàn Hoa Kỳ tại Sài Gòn như sau:
"Các thành viên phái đoàn Mỹ USOM làm công việc của họ vừa với tinh thần của một đoàn truyền giáo vừa là của một cơ quan phụ trách hành quân. Trong tổng hành dinh khổng lồ của họ chi chít ngang dọc không biết cơ man nào là bàn giấy, trên đó ngồn ngộn những đóng giấy tờ và bản kế hoạch, hàng mấy trăm người Mỹ, đàn ông có, đàn bà có, làm việc liên miên hết giờ này sang giờ khác trong điều kiện khí hậu hết sức mệt mỏi, để giúp đỡ nhân dân một nước mà có lẽ chỉ cách đây mấy tháng, rất nhiều người Mỹ trong số đang làm việc đó chưa từng nghe nói đến bao giờ.
Rõ ràng, sự lo toan chiến lược đã cắm rễ rất sâu trong cách nhìn của nhà cầm quyền Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Nam Á. Mới đây, tôi đã rất kinh ngạc khi nghe một người đứng đầu cơ quan phụ trách về viện trợ của Hoa Kỳ trong khu vực này nóiL: "Nếu muốn hoàn thành tốt một dự án, thì tôi đặt tên cho nó là "hỗ trợ phòng thủ" chứ không gọi là viện trợ kinh tế, như thế công việc của tôi có nhiều cơ may được Washington chấp nhận hơn." (19 tháng 9 năm 1957)
Thật sai lầm khi nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ lao vào công cuộc chinh phục miền Nam Việt Nam về phương diện kinh tế ngay từ bây giờ. Người ta đã dùng tiền của dân Hoa Kỳ đóng thuế để mua của công ty Hoa Kỳ một số hàng hóa nào đó nhằm trợ giúp cho ngân sách của Diệm. Tạm thời trước mắt, người Mỹ đủ thỏa mãn với việc hất cảng người Pháp khỏi vị trí đứng đầu trong nền ngoại thương của xứ này, nhưng các khoản đầu tư thì người Mỹ chưa bỏ ra, mặc dù đã có hiệp định giữa chính quyền Diệm và Washington ký ngạy 5 tháng 11 năm 1957 đảm bảo cho đầu tư Hoa Kỳ khỏi bị sung công và khỏi bị đe dọa bởi các nguy cơ chiến tranh. Tháng Chạp năm 1957, Tướng O'Daniel, với danh nghĩa Chủ tịch hội "Những người bạn Mỹ của Việt Nam" ra lời kêu gọi người Mỹ đầu tư nhưng vô hiệu. Thời điểm chưa chín muồi cho các khoản dầu tư, những đồng vốn của tư nhân sẽ chỉ được bỏ ra khi công cuộc "bình định" đã hoàn thành. Cũng nên nhắc lại rằng tư bản tư nhân của Pháp cũng chỉ được đầu tư ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19, khi đất nước này đã được hoàn toàn bình định.
Thêm vào các phái đoàn quân sự, hành chính và kinh tế, còn nhung nhúc không biết cơ man nào là tổ chức tư nhân, điệu nhạc đệm không thể thiếu cho sự "có mặt của Hoa Kỳ"; lại còn phải nhắc đến sự tràn ngập trên màn ảnh những bộ phim Mỹ và chiếm đến 85% thị phần điện ảnh. Bầu không khí ở Sài Gòn vào thời điểm Hoa Kỳ ngự trị đã được ngòi bút của Tibor Mende dựng thành một bức tranh khá phong phú màu sắc: "Nằm ở góc các con đường Cộng hòa và Thành Thái ở Sài Gòn, là trụ sở của trường dạy tiếng Anh English Language Laboratory lần đầu tiên được mở ở châu Á. Được phái đoàn Hoa kỳ thành lập mùa xuân vừa qua, trường học này sử dụng một phương pháp hoàn toàn mới để dạy tiếng Anh. Nhiều lớp học được trang bị máy ghi âm đặt trong những cabin cách âm, và người học vừa có thể nghe được tiếng đọc của chính mình vừa đồng thời lặp lại bài học được ghi âm ở đường đọc phía trên. Mục tiêu của trường này là đào tạo những thầy dạy tiếng Anh, chuẩn bị cho những sinh viên có khả năng du học ở Mỹ, hoặc những người làm công cho các cơ quan của Hoa Kỳ ở Việt Nam... Cùng với các trường này, tiếng Anh còn có những nhà truyền giáo tình nguyện ở Việt Nam, rất nhiều bà vợ của những người Mỹ đóng tại Việt Nam tập hợp quanh họ những nhóm nhỏ bạn bè và dạy tiếng Anh cho họ...
Nhưng ngoài những nhà truyền giáo tiếng Anh, ở Việt Nam còn có rất nhiều nhân viên của hơn 20 cơ quan của Hoa Kỳ (mà một trong số đó bí hiểm đến mức người ta không thể biết thực chất đó là cơ quan gì). Những viên chứac này lại được đi kèm bởi một đám lúc nhúc rất nhiều đại diện của những tổ chức tư nhân bao gồm từ những hệ thống giáo dục và tổ chức từ thiện đến những hệ thống kỹ thuật và tổ chức mang tính thuần túy tôn giáo. Có các bà đầm già quen thuộc chuyên nhân danh các trường đại học tư nhân săn lùng những sinh viên đáng được hưởng học bổng, có những quý ông đi xe cơ giới phân phát tiền của Ủy ban cứu trợ khẩn cấp (International Rescue Committee) hoặc của quỹ cứu trợ khẩn cấp dành cho trẻ em (Emergency Fund for Children), làn sóng những chiếc xe hơi của nhiều tổ chức công giáo đi cứu giúp những người tị nạn hay nhóm của trường Đại học Michigan, đặt dưới quyền điều khiển của giáo sư Fishel, chuyên lo việc đào tạo một đội ngũ công chức người Việt Nam cho các ngành hành chính, tài chính và cảnh sát.
Phái đoàn quân sự chỉ riêng mình nó đã đông đến hơn 650 người Mỹ lo đào tạo lực lượng vũ trang của Nam Việt Nam. Cơ quan thông tấn Hoa Kỳ USIS (US Information Service) điều khiển các trung tâm thông tấn, các thư viện và các hoạt động tuyên truyền khác. Phái đoàn điều hành Hoa Kỳ USOM (US Operation Mission) gồm khoảng 400 nhân viên. Đây chính là lá phổi nhân tạo của Nam Việt Nam. Nó cung cấp khối dưỡng khí không thể thiếu cho sự sống còn, điều tiết mức hô hấp nhân tạo cần thiết, và đồng thời vừa cầm tù vừa giữ cho con bệnh được sống. Nói một cách ít hình ảnh hơn, phái đoàn USOM cấp cho Nam Việt Nam mỗi năm 320 triệu đô la, tức là hơn ba phần tư khối dưỡng khí mà người bệnh thở."[25]
__________________________________
[25] Báo La Gazette de Lausanne, ngày 23 tháng 4 năm 1957.
"Các thành viên phái đoàn Mỹ USOM làm công việc của họ vừa với tinh thần của một đoàn truyền giáo vừa là của một cơ quan phụ trách hành quân. Trong tổng hành dinh khổng lồ của họ chi chít ngang dọc không biết cơ man nào là bàn giấy, trên đó ngồn ngộn những đóng giấy tờ và bản kế hoạch, hàng mấy trăm người Mỹ, đàn ông có, đàn bà có, làm việc liên miên hết giờ này sang giờ khác trong điều kiện khí hậu hết sức mệt mỏi, để giúp đỡ nhân dân một nước mà có lẽ chỉ cách đây mấy tháng, rất nhiều người Mỹ trong số đang làm việc đó chưa từng nghe nói đến bao giờ.
Rõ ràng, sự lo toan chiến lược đã cắm rễ rất sâu trong cách nhìn của nhà cầm quyền Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Nam Á. Mới đây, tôi đã rất kinh ngạc khi nghe một người đứng đầu cơ quan phụ trách về viện trợ của Hoa Kỳ trong khu vực này nóiL: "Nếu muốn hoàn thành tốt một dự án, thì tôi đặt tên cho nó là "hỗ trợ phòng thủ" chứ không gọi là viện trợ kinh tế, như thế công việc của tôi có nhiều cơ may được Washington chấp nhận hơn." (19 tháng 9 năm 1957)
Thật sai lầm khi nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ lao vào công cuộc chinh phục miền Nam Việt Nam về phương diện kinh tế ngay từ bây giờ. Người ta đã dùng tiền của dân Hoa Kỳ đóng thuế để mua của công ty Hoa Kỳ một số hàng hóa nào đó nhằm trợ giúp cho ngân sách của Diệm. Tạm thời trước mắt, người Mỹ đủ thỏa mãn với việc hất cảng người Pháp khỏi vị trí đứng đầu trong nền ngoại thương của xứ này, nhưng các khoản đầu tư thì người Mỹ chưa bỏ ra, mặc dù đã có hiệp định giữa chính quyền Diệm và Washington ký ngạy 5 tháng 11 năm 1957 đảm bảo cho đầu tư Hoa Kỳ khỏi bị sung công và khỏi bị đe dọa bởi các nguy cơ chiến tranh. Tháng Chạp năm 1957, Tướng O'Daniel, với danh nghĩa Chủ tịch hội "Những người bạn Mỹ của Việt Nam" ra lời kêu gọi người Mỹ đầu tư nhưng vô hiệu. Thời điểm chưa chín muồi cho các khoản dầu tư, những đồng vốn của tư nhân sẽ chỉ được bỏ ra khi công cuộc "bình định" đã hoàn thành. Cũng nên nhắc lại rằng tư bản tư nhân của Pháp cũng chỉ được đầu tư ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19, khi đất nước này đã được hoàn toàn bình định.
Thêm vào các phái đoàn quân sự, hành chính và kinh tế, còn nhung nhúc không biết cơ man nào là tổ chức tư nhân, điệu nhạc đệm không thể thiếu cho sự "có mặt của Hoa Kỳ"; lại còn phải nhắc đến sự tràn ngập trên màn ảnh những bộ phim Mỹ và chiếm đến 85% thị phần điện ảnh. Bầu không khí ở Sài Gòn vào thời điểm Hoa Kỳ ngự trị đã được ngòi bút của Tibor Mende dựng thành một bức tranh khá phong phú màu sắc: "Nằm ở góc các con đường Cộng hòa và Thành Thái ở Sài Gòn, là trụ sở của trường dạy tiếng Anh English Language Laboratory lần đầu tiên được mở ở châu Á. Được phái đoàn Hoa kỳ thành lập mùa xuân vừa qua, trường học này sử dụng một phương pháp hoàn toàn mới để dạy tiếng Anh. Nhiều lớp học được trang bị máy ghi âm đặt trong những cabin cách âm, và người học vừa có thể nghe được tiếng đọc của chính mình vừa đồng thời lặp lại bài học được ghi âm ở đường đọc phía trên. Mục tiêu của trường này là đào tạo những thầy dạy tiếng Anh, chuẩn bị cho những sinh viên có khả năng du học ở Mỹ, hoặc những người làm công cho các cơ quan của Hoa Kỳ ở Việt Nam... Cùng với các trường này, tiếng Anh còn có những nhà truyền giáo tình nguyện ở Việt Nam, rất nhiều bà vợ của những người Mỹ đóng tại Việt Nam tập hợp quanh họ những nhóm nhỏ bạn bè và dạy tiếng Anh cho họ...
Nhưng ngoài những nhà truyền giáo tiếng Anh, ở Việt Nam còn có rất nhiều nhân viên của hơn 20 cơ quan của Hoa Kỳ (mà một trong số đó bí hiểm đến mức người ta không thể biết thực chất đó là cơ quan gì). Những viên chứac này lại được đi kèm bởi một đám lúc nhúc rất nhiều đại diện của những tổ chức tư nhân bao gồm từ những hệ thống giáo dục và tổ chức từ thiện đến những hệ thống kỹ thuật và tổ chức mang tính thuần túy tôn giáo. Có các bà đầm già quen thuộc chuyên nhân danh các trường đại học tư nhân săn lùng những sinh viên đáng được hưởng học bổng, có những quý ông đi xe cơ giới phân phát tiền của Ủy ban cứu trợ khẩn cấp (International Rescue Committee) hoặc của quỹ cứu trợ khẩn cấp dành cho trẻ em (Emergency Fund for Children), làn sóng những chiếc xe hơi của nhiều tổ chức công giáo đi cứu giúp những người tị nạn hay nhóm của trường Đại học Michigan, đặt dưới quyền điều khiển của giáo sư Fishel, chuyên lo việc đào tạo một đội ngũ công chức người Việt Nam cho các ngành hành chính, tài chính và cảnh sát.
Phái đoàn quân sự chỉ riêng mình nó đã đông đến hơn 650 người Mỹ lo đào tạo lực lượng vũ trang của Nam Việt Nam. Cơ quan thông tấn Hoa Kỳ USIS (US Information Service) điều khiển các trung tâm thông tấn, các thư viện và các hoạt động tuyên truyền khác. Phái đoàn điều hành Hoa Kỳ USOM (US Operation Mission) gồm khoảng 400 nhân viên. Đây chính là lá phổi nhân tạo của Nam Việt Nam. Nó cung cấp khối dưỡng khí không thể thiếu cho sự sống còn, điều tiết mức hô hấp nhân tạo cần thiết, và đồng thời vừa cầm tù vừa giữ cho con bệnh được sống. Nói một cách ít hình ảnh hơn, phái đoàn USOM cấp cho Nam Việt Nam mỗi năm 320 triệu đô la, tức là hơn ba phần tư khối dưỡng khí mà người bệnh thở."[25]
__________________________________
[25] Báo La Gazette de Lausanne, ngày 23 tháng 4 năm 1957.