Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ

ngan trang

New member
Tác giả: Nguyễn Khắc Viện

"Nhiệm vụ của chúng ta là chứng minh cho toàn thế giới thấy rằng khát vọng không được thỏa mãn của con người hướng tới tiến bộ kinh tế và công bằng xã hội có nhiều cơ may được thực hiện hơn bởi những con người tự do lao động trong khuôn khổ những thể chế dân chủ."


JOHN KENNEDY

Do André Maurois trích dẫn trong tác phẩm

Histoire Parallèle

(Lịch sử song song, trang 365)​


LỜI GIỚI THIỆU​


Độc giả Việt Nam từng biết đến Nguyễn Khắc Viện với nhiều tác phẩm có giá trị như: Bàn về đạo Nho, Việt Nam một thiên lịch sử, Từ sinh lý đến dưỡng sinh, Tìm hiểu tâm lý trẻ con... trong đó, có nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Pháp giới thiệu đất nước, lịch sử, nền văn hóa truyền thống và con người Việt Nam đến bạn bè thế giới.

Khi bác sĩ Nguyễn Khắc Viện qua đời, tôi có viết một bài báo nhỏ, trong đó tôi ví ông như một cây sậy dáng dấp nghiêng nghiêng nhưng không bao giờ rạp đổ. Ẩn chứa trong cái vẻ bề ngoài yếu ớt ấy lại là một bộ óc tư duy mạnh mẽ. Ngoài những hoạt động xã hội, ông còn nổi tiếng là một nhà báo, nhà văn hóa đa tài.

Ngoài năng lực ngoại ngữ thông thạo, tri thức uyên bác, Nguyễn Khắc Viện còn có bút pháp sắc sảo của một nhà báo lão luyện, ông đã có công lớn giúp cho các bạn đọc nước ngoài hiểu biết sâu sắc về đất nước và con người Việt Nam.

Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ là tác phẩm cuối cùng ông viết ở Pháp trước khi về định cư ở Việt Nam. Có lẽ vì thế mà nhiều bạn đọc trong nước, kể cả trong giới sử học vẫn chưa được biết đến.

Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ viết về bối cảnh của miền Nam Việt Nam kể từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Đó là thời kỳ mà cuôc kháng chiến chống thực dân Pháp đã thắng lợi, Hiệp định Genève được ký kết với điều khoản nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền ngang vĩ tuyến 17 và cuộc Tổng tuyển cử hòa bình thống nhất nước Việt Nam sẽ diễn ra 2 năm sau đó.

Điều đáng nói là sau gần nửa thế kỷ được đọc lại tác phẩm của Nguyễn Khắc Viện, chúng tôi, những nhà viết sử chuyên nghiệp phải ngả mũ khâm phục những điều ông viết. Tính hấp dẫn không chỉ thể hiện trong cách hành văn sinh động và sáng sủa (cho dù đã qua bản dịch) mà còn thể hiện ở lối tư duy rất biện chứng khi lựa chọn, sắp xếp các dữ kiện tạo cho người đọc sự tin cậy rằng "lịch sử đã diễn ra đúng như vậy".

45 năm sau đọc lại cuốn sách này, chiêm nghiệm lại những gì đã diến ra tiếp sau những gì Nguyễn Khắc Viện đã viết, tôi càng thấy khâm phục ông. Điều đó cũng có nghĩa là càng thấy cuốn sách của ông có giá trị, cái giá trị lâu bền của một pho sử, cho dù chỉ là lịch sử của một thời kỳ ngắn ngủi.


Tháng 4 năm 2008​



DƯƠNG TRUNG QUỐC​
 
LỜI MỞ ĐẦU​


Ngày 23 tháng 9 năm 1945, dưới sự che chở của quân đội Anh, người Pháp mở cuộc tiến công vũ trang đánh vào chính quyền cách mạng vừa mới thành lập. Cuộc chiến tranh Đông Dương bắt đầu.

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, tại Điện Biên Phủ, Tướng De Castries bị quân đội nhân dân Việt Nam bắt làm tù binh, sau một trận đánh kéo dài 55 ngày đêm, đạo quân viễn chinh Pháp bị mất 16000 người, đa số thuộc những đơn vị tinh nhuệ của quân đội Pháp.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, các hiệp định đình chiến được ký kết tại Genève, theo đó nước Pháp công nhận độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và sự thống nhất của nước Việt Nam. Để cho việc tập kết của quân đội hai bên được thực hiện, nước Việt Nam tạm thời được chia thành hai miền, Bắc và Nam, ngăn đôi bởi dòng sông Bến Hải chạy dọc theo vĩ tuyến 17, miền Bắc được đặt dưới quyền của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn bộ chỉ huy quân đội Pháp chịu trách nhiệm thi hành các điều khoản của Hiệp định Genève tại miền Nam. Tổng tuyển cử phải được thực hiện chậm nhất vào tháng 7 năm 1956, để bầu ra một chính phủ thống nhất cho toàn nước Việt Nam.

Trong khu vực miền Bắc,việc thi hành các hiệp định không thành vấn đề, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nắm chắc sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam, đã không ngừng tìm cách tạo mọi thuận lợi cho việc thi hành các hiệp định nhằm tiến tới tổng tuyển cử và đẩy nhanh sự tái thống nhất đất nước.

Thế nhưng, mặc dù các hiệp định đã được ký kết giữa Pháp và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vẫn có một đối tác thứ ba sắp sửa nhúng tay can thiệp một cách quyết định vào hướng diễn biến của tình hình ở miền Nam Việt Nam.

Thực ra, từ năm 1950, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã có mặt tại chỗ rồi đóng góp một phần lớn cho những chi phí của cuộc chiến tranh Đông Dương, và cuộc đình chiến đã được ký kết ngược với ý muốn của họ. Do không ngăn đuowjc việc ý kết này, Hoa Kỳ chuẩn bị huy động toàn bộ sức mạnh của mình nhằm làm cho các hiệp định đã được ký kết không thể thực hiện được.

Ngày 7 tháng 7 năm 1954, viên cựu quan lại theo đạo Thiên CHúa là Ngô Đình Diệm (mà trong cuốn sách này chúng tôi gọi tắt là Diệm, theo kiểu người Việt Nam vẫn gọi), từ Mỹ trở về hất cẳng Bửu Lộc là người của Pháp, tự tay nắm lấy quyền điều khiển chính phủ Bảo Đại.

Ngày 8 tháng 9 năm 1954, đúng 50 ngày sau khi đặt bút ký các Hiệp định Genève, nước Pháp ký với Mỹ và Anh, hiệp ước Đông Nam Á (OTASE) là vế thứ hai ở Viễn Đông song đôi với hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ở phía tây.
 
Chiếc chìa khóa mở cửa vào Nam Việt Nam được chuyển từ tay của Pháp sang tay Hoa Kỳ, các Hiệp định Genève vừa được ký chưa ráo mực đã bị phủ nhận. Nhà nước Nam Việt Nam đã ra đời như thế, cái Nhà nước mà lịch sử tiếp theo sau đó sẽ mang dấu ấn không thể gột rửa của tất cả những nhân tố đã làm bà đỡ cho nó ra đời: sự chối bỏ trách nhiệm của nước Pháp, ý chí của Hoa Kỳ quyết ngăn chặn phong trào cách mạng Việt Nam, tập hợp lại tại miền Nam của các thế lực phong kiến Việt Nam.

Trải dài từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, miền Nam Việt Nam có diện tích rộng 170000km2. Với số dân khoảng 14 triệu người (so với 160000km2 và 16 triệu dân ở miền Bắc[1]).

Vê mặt địa lý, có thể phân biệt ba vùng chính sau đây:

Nam Bộ, bao gồm chủ yếu vùng châu thổ sông Đồng Nai, là vùng đất của những cánh đồng lúa rộng và phì nhiêu, Nam Bộ là vựa lúa của Việt Nam. Chỉ riêng châu thổ sông Cửu Long đã có 2300000 héc-ta đất trồng trọt và Nam Bộ đã xuất khẩu 1500000 tấn gạo mỗi năm.

Từ sông Bến Hải đến tận Nam bộ, dọc theo bờ biển, là một chuỗi dài những cánh đồng nhỏ, bị kẹp giữa biển và núi, đông dân nhưng nghèo, điều kiện kinh tế và dân cư ở đây gợi nhớ đến những điều kiện của miền Bắc. Đó là phần giữa và phía nam của Trung Bộ (tên cũ là An Nam). Tổng diện tích đất canh tác vào khoảng 300000 héc-ta.

Cao Nguyên là một vùng rộng lớn trải dài từ thung lũng sông Đồng Nai ở phía nam đến vĩ tuyến 17 ở phía bắc. Phần lớn đó là những cao nguyên có độ cao từ 700m đến 800m so với mặt biển. Vùng đất đó được hình thành từ sự phân hủy của đá bazan, một loại đất rất tốt, phù hợp một cách kỳ lạ với các loại cây công nghiệp: cao su, chè, cà phê... vẫn còn những diện tích rộng mênh mông chưa khai phá.

Trong số 14 triệu dân của miền Nam Việt Nam, phải tính đến khoảng 400000 người Khơ Me (hay Cao Miên), sống chủ yếu ở các tỉnh thuộc miền Tây Nam Bộ, 700000 người Trung Quốc sống tập trung chủ yếu ở Chợ Lớn và hơn 600000 người bao gồm những nhóm tộc người khác nhau sống trên các vùng cao nguyên. Trước đây, người ta gọi chung họ là "mọi", chúng tôi sẽ không dùng thuật ngữ này vì trong tiếng Việt nó bao hàm một ngụ ý không hay, và sẽ dùng các từ "cư dân" hay "nhóm tộc người" của Tây Nguyên.

Ngay từ đầu. có thể lưu ý rằng, khác với phần lớn các nước chậm phát triển, Nam Việt Nam là một miền đất giàu nông sản, với một sản lượng lương thực rất dư thừa. Miền Nam sẽ không phải trải qua những khó khăn cực lớn về cung cấp lương thực như miền Bắc, chỉ cần bằng sự viện trợ của mình, Hoa Kỳ đã có thể dễ dàng khởi động việc công nghiệp hóa để biến Nam Việt Nam thành một cái "tủ kính" thật sự, một cực hấp dẫn đối với các nước khác ở Đông Nam Á. Thế nhưng, lịch sử lại đã quyết định một cách khác.
____________________________________________
[1] Các cơ quan chính thức cung cấp những con số sau đây về dân số năm 1960:
- Nam Bộ 63% tương đương với 8760933
- Đồng bằng miền Trung 31% tương đương với 4329761
- Tây Nguyên 6% tương đương 604823
Không nên ảo tưởng về sự chính xác của những số liệu này. Không một cuộc điều tra dân số nào được tiến hành, lý do đơn giản vì chính quyền miền Nam chưa bao giờ kiểm soát được toàn bộ vùng nông thôn, nơi tập trung đến 85% dân số.
 
Dự định của chúng tôi là vạch lại tiến trình lịch sử của miền Nam Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1963, một lịch sử đầy ắp sự kiện, bởi lịch sử của những chế độ bị khủng hoảng triền miên thu hút sự quan tâm của các sử gia và ký giả nhiều hơn là những nước được sống trong yên bình. CÓ thể phân biệt thành ba giai đoạn trong cái thời kỳ ngắn ngủi chỉ kéo dài được tám năm này:

1. Từ ngày 21 tháng 7 năm 1954 đến ngày 28 tháng 4 năm 1956, quân đội Pháp vẫn còn đóng ở Nam Việt Nam. Trong khi Chính phủ Hoa Kỳ buộc nước Pháp phải từ bỏ xứ sở này để trao quyền điều khiển vào tay họ, chính quyền Diệm dần dần loại bỏ tất cả các nhóm thân Pháp, khi cần còn dùng cả vũ lực. Bộ máy quân sự của Mỹ và các thể chế của chính quyền Diệm được thiết lập.

2. Sau khi quân đội Pháp rút, Hoa Kỳ lên ngôi ông chủ độc tôn, chính phủ Diệm từ chối không chịu tổ chức tổng tuyển cử như đã dự kiến trong các hiệp định đình chiến. Những hiệp định này bị lâm vào thế bất khả thi, một phần do sự chối bỏ trách nhiệm của một trong số những đối tác chủ yếu có trách nhiệm thi hành hiệp định là Pháp. Phía Pháp đã cẩn thận rút hết quân đội của mình trước thời hạn tổng tuyển cử tháng 7 năm 1956.

Thế là bắt đầu "thời đại hoàng kim" của chính quyền Diệm có thể tha hồ thi thố các dự định của mình, dưới sự chỉ đạo của những cố vấn Hoa Kỳ. Nam Việt Nam trở thành tài sản riêng của gia đình Diệm và như chính miệng Diệm nói, biên giới của Hoa Kỳ trải rộng đến tận vĩ tuyến 17. "Thời đại hoàng kim" này kéo dài đến cuối năm 1960, là thời điểm được đánh dấu bằng sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng.

3. Bởi vì nhân dân Việt Nam đã nhanh chóng phản ứng; và chế độ nào càng tự cảm thấy mình bị mất lòng dân thì lại càng ra tay đàn áp, mà càng ra tay đàn áp thì cường độ những cuộc đấu tranh của nhân dân lại càng lên cao.

Ngày 11 tháng 11 năm 1960, một số quân nhân tổ chức một cuộc đảo chính không thành với ý định lật đổ Diệm, một bằng chứng cho thấy toàn thân chế độ này đang bị lung lay.

Sau ngày đó, chính quyền Diệm chỉ còn là một cái bóng, duy nhất còn lại sự thống trị của Hoa Kỳ và dần dần biến thành một cuộc can thiệp vũ trang thật sự. Một cuộc chiến tranh không tuyên bố, theo cách nói của Thời báo New York, bắt đầu ở miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến tranh này vả chăng đã được Chính phủ Kennedy chính thức hóa ngày 8 tháng 2 năm 1962, khi họ thành lập một bộ chỉ huy quân sự của Mỹ ở Sài Gòn.

Về phía mình, nhân dân Việt Nam đứng trước nguy cơ có thể bị tiêu diệt, bắt đầu có những biện pháp tự vệ: đấu tranh vũ trang xuất hiện kết hợp với đấu tranh chính trị, và ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Cuộc chiến tranh không tuyên bố này vẫn đang tiếp diễn.

Việc nghiên cứu những sự kiện xảy ra từ năm 1954 sẽ cung cấp cho chúng ta ý niệm về một lối thoát khả dĩ cho một tình hình nguy hiểm như ở miền Nam Việt Nam thời đó.

Nam Việt Nam lúc đó là một trong những khu vực nhạy cảm của thế giới, tại đây cuộc đối đầu Đông-Tây, những cuộc xung đột nổ ra từ phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội đang diễn ra dưới những hình thức nghiêm trọng và nguy hiểm nhất, chứa đựng nguy cơ đe dọa nền hòa bình thế giới.

Nghiên cứu một vấn đề mang tính thờ sự và nóng bỏng như thế là việc chẳng mấy dễ dàng. Tư liệu thì tản mạn và nằm trên mặt các báo chí hàng ngày nhiều hơn là trên các trang sách. Với những gì có thể tập hợp được từ trong các ấn phẩm của Việt Nam, Pháp và Mỹ, chúng tôi đã thử chỉ ra một số cột mốc, cố gắng thử cung cấp chút ánh sáng cho những ai đang phân vân tự hỏi về tương lai đất nước này.

Bở vì đất nước này là đất nước của chúng tôi, nên xin bạn đọc đừng ngạc nhiên nếu những dòng dưới đây đôi khi ít nhiều nhuốm màu cảm xúc. Chúng tôi đã cố gắng hết sức khách quan càng nhiều càng tốt, nhưng lẽ tự nhiên, trái tim của một con người làm sao có thể không rung động khi phải kể lại những tai họa đang giáng xuống quê hương mình, hay khi mô tả lại những chiến tích anh hùng của đồng bào mình. Tính khách quan lịch sử đâu phải là sự bàng quan lạnh lùng trước bất hạnh của những con người.


Paris, tháng 3 năm 1963​
 
TỪ CHẾ ĐỘ THỰC DÂN NÀY SANG

CHẾ ĐỘ THỰC DÂN KHÁC

(1954-1956)​





HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ Ở VIỆT NAM​


Theo lẽ tự nhiên, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ không thích chân không. Năm 1945, khi chiến tranh thế giới kết thúc, nước Mỹ hùng cường với sức mạnh dồi dào của mình, đã ra công quyết trám cho kỳ hết tất cả những lỗ hổng toang hoác do sự sụp đổ mà các cường quốc thực dân để lại. Trong khu vực Thái Bình Dương, họ đã có thể đứng vững chắc ở Philippine, nắm trong tay tiềm lực công nghiệp của Nhật Bản, cùng với lãnh thổ của các nước, cũng như nhiều căn cứ khác rải khắp đại dương mênh mông này; Hà Lan, Pháp, Anh, đều đã mất chỗ đứng. Chỉ còn đại lục châu Á. Tướng Marshall được phái sang Trung Quốc, đội quân hùng hậu của Tưởng Giới Thạch được trang bị cẩn thận, nào có đáng gì mấy tỉ đô la so với giải đất Trung Hoa mênh mông.

Ở Đông Dương, hoạt động của các phái viên Hòa Kỳ làm những nhà cầm quyền Pháp rất lo ngại. "Những phái viên đầu tiên của cường quốc lớn nhất trong "Tứ Cường" đã không hề giấu diếm rằng họ coi sự ra đi của chúng ta là một đi không trở lại... Trong viễn cảnh diễn biến tình hình ở khu vực này, ta thấy khá rõ là Anh và Mỹ hình như đã xóa tên nước Pháp khỏi bản đồ châu Á, chí ít là với danh nghĩa một cường quốc thực dân"[2].

Nhưng các phái viên của Washington đã không tính đến một điều bất ngờ đang chờ đợi họ, tổ chức Việt Minh, trong suốt thời kỳ Việt Nam bị Nhật Bản chiếm đóng, họ đã duy trì những mối liên lạc với các sĩ quan của Mỹ, đã giúp đỡ và cứu những sĩ quan Hoa Kỳ được thả dù xuống sau lưng quân Nhật. Nhưng sau khi giành được chính quyền, với một triệu đồng bạc Đông Dương trong ngân khố và hai triệu người dân chết đói, trên một đất nước ở phía bắc thì bị quân đội của Tưởng Giới Thạch, ở phía nam thì quân đội Anh chiếm đóng, chính tổ chức Việt Minh đó đã khước từ những đề nghị viện trợ của Hoa Kỳ, để chọn con đường thương lượng với Pháp là cường quốc thực dân cũ đã từng thống trị Việt Nam.

Cuộc chiến tranh Đông Dương đã bắt đầu như thế: từ năm 1945 đến năm 1950, Hoa Kỳ đã buộc phải bằng lòng về những âm mưu thủ đoạn ở hậu trường, nhưng họ đã uổng công vô ích. Năm 1947, đại sứ Hoa Kỳ William Bullit đã có những cuộc hội đàm với Bảo Đại, nhưng về hiệu quả trước mắt thì chẳng đi đến đâu. Nước Pháp cứ tưởng rằng chỉ một mình mình cũng đủ sức giải quyết vấn đề Đông Dương như giải quyết một cuộc chiến tranh thuộc địa như hồi thế kỷ 19.
______________________________________
[2] Paul Mus: Le Vietnam, sociologie d'une guerre trang 34 (Việt Nam, một cuộc chiến tranh dưới góc độ xã hội học). Cũng nên tham khảo Sainteny: Histore d'une paix manguée (Lịch sử về một nền hòa bình bị đánh mất).
 
Thế nhưng, cuộc kháng chiến của Việt Nam cứ lớn mạnh từng ngày và đến tháng 10 năm 1950, đạo quân viễn chinh Pháp bị giáng một đòn thất bại vang dội ở Cao Bằng. Cũng cvaof lúc đó, chính quyênf nhân dân Trung Quốc được thiết lập ở BẮc Kinh, biên giới phía bắc của VIệt Nam được mở rộng về phía phe xã hội chủ nghĩa. Ngày 19 tháng 10 và ngày 22 tháng 11 năm 1950, trước Quốc hội Pháp, Nghị sĩ Đảng cấp tiến Mandes - France đã trình bày rõ những khả năng lựa chọn của nước Pháp lúc bấy giờ.

"Chỉ có hai giải pháp. Một là thực hiện những mục tiêu của chúng ta ở Đông Dương bằng sức mạnh quân sự. Giải pháp quân sự có nghĩa là thêm một cố gắng to lớn và ồ ạt nữa, một cố gắng đủ lớn và đủ nhanh chóng để vượt lên trước sự phát triển vốn đã rất lớn của những lực lượng đang đối đầu với chúng ta. Giải pháp thứ hia là tìm kiếm một thỏa ước chính trị, đương nhiên là với những kẻ đang chiến đấu chống lại chúng ta. Phải lựa chọn chọn thôi. Ngoài giải pháp quân sự, chỉ còn mỗi một khả năng đó là thương lượng..."[3]

Chính phủ Pháp đã chọn một con đường thứ ba: quốc tế hóa cuộc xung đột. Nước Pháp sẽ tiếp tục chiến đấu ở Đông Dương, nhưng không còn chỉ vì những mục tiêu của riêng mình giống như quân Mỹ khi tham chiến từ tháng 6 năm 1950 ở Triều Tiên, đội quân viễn chinh Pháp chiến đấu nhân danh thế giới tự do, với mục tiêu gián tiếp là nhằm vào cách mạng Trung Hoa. ở Triều Tiên, Hoa Kỳ đã tung ra toàn bộ sức mạnh quân sự của mình; những thiệt hại của họ đã vượt qua tất cả những thiệt hại mà họ đã phải chịu trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai trên tất cả các mặt trận cộng lại. Lực lượng kháng chiến của Triều Tiên và của quân đội cách mạng Trung Quốc đã tỏ ra mạnh hơn dự kiến. Hiệp ước quân sự Trung-Xô tháng 2 năm 1950 làm mọi cuộc tiến công quân sự nhằm đánh trực tiếp vào "đất thánh" Trung Quốc là không thể. Cuộc chiến tranh triều Tiên đương nhiên đã làm chậm công cuộc xây dựng kinh tế của Trung Quốc, nhưng các cường quốc phương Tây đã thất bại trong mưu đồ đưa Tưởng Giới Thạch trở lại cầm quyền. Nam Triều Tiên tuy nhiên vẫn là một căn cứ quân sự của Mỹ, với một đội quân đông hơn 600000 người được trang bị dồi dào, và kẻ độc tài Lỹ Thừa Vãn vẫn không ngớt lên tiếng đe dọa sẽ lại "Bắc tiến".
_____________________________
[3] (Tư liệu: Các cuộc tranh luận ở Quốc hội 1950).
 
Ở Việt Nam, với bất cứ giá nào cũng phải duy trì cho được một cứ điểm ở sườn phía nam Trung Quốc, vì quyền lợi của phương Tây. Vậy là "tín dụng" của Hoa Kỳ được ban phát rộng rãi cho đội quân viễn chinh Pháp - một phái đoàn quân sự Hoa Kỳ, phái đoàn MAAG[4] sang đóng ở Sài Gòn. Tuy nhiên, đã vung đô la của mình ra thì Chính phủ Hoa Kỳ cũng đồng thời muốn áp đặt các quan điểm của mình, Học thuyết Hoa Kỳ của không ngớt chê trách chính phủ thực dân lỗi thời của Pháp, sự ngoan cố của họ không chịu trao quyền cho những "nhà quốc gia chính nghĩa chân chính", mà chỉ muốn sử dụng những tên bù nhìn. Theo luận điệu của Hoa Kỳ, sở dĩ những người Cộng sản đã động viên được nhân dân Việt Nam đứng lên chống lại phương Tây đó chủ yếu là do lỗi của những kẻ cai trị người Pháp. Phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhưng đồng thời phải tạo lập cho được một quân đội "quốc gia", một Chính phủ "quốc gia", để đánh lại kháng chiến Việt Nam phải dùng người Việt Nam, bằng cách nhồi nhét vào đầu óc họ tinh thần chiến đấu chống Cộng sản, và cung cấp cho họ mọi viện trợ tài chính và cật chất cần thiết. Người Pháp nhất trí về mục tiêu cuối cùng này, nhưng quyết không vì thế mà nhường chỗ cho người Mỹ. Chính vì vậy, mặc dù ngay từ năm 1949, Chính phủ Hoa Kỳ đã thử đặt ngô Đình Diệm vào cái ghế Thủ tướng của chính phủ Bảo Đại, nhưng họ chỉ uổng công vô ích. Về phía mình, lực lượng kháng chiến Việt Nam đã tỏ ra dai sức hơn so với dự kiến của đối phương, và viện trợ của Hoa Kỳ, tuy mỗi năm một tăng thêm, vẫn không sao giúp được đội quân viễn chinh Pháp giành được thế chủ động.

Báo chí Pháp đã đưa ra những số liệu sau đây về những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh: (Đơn vị: đồng quan Pháp).

2010-03-20_213310.jpg

Tại Washington, Phó Tổng thống Nixon, đô đốc Radford, các Tướng Ridgway, Twning và viên Bộ trưởng ngoại giao bừng bừng khí thế tiến công là Foster Dulles đều đinh ninh chỉ một quyết tâm là nghiền nát chò kỳ được lực luwongj kháng chiến của Việt Nam và đặt lên toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam một chính quyền quốc gia chủ nghĩa, sẽ gắn liền vận mệnh của đất nước này với "thế giới tự do". Hoa Kỳ đã ký kết xong một loạt hiệp ước cho phép họ sử dụng cả một chuỗi dài những căn cứ quân sự ở châu Á và trên Thái Bình Dương bằng hiệp ước A.N.Z.U.S với Úc và Tân Tây Lan ký tháng 9 năm 1951, với Philippine hồi tháng 8 cùng năm, những hiệp ước quân sự với Nhật Bản ký tháng 3 năm 1953, với Pakistan tháng 5 năm 1954. Ngày 22 tháng Giêng năm 1952, trước Quốc hội Hoa Kỳ, Foster Dulles phát triển ý tưởng về một hiệp ước chung cho toàn bộ khu vực Thái Bình Dương. Ngày 7 tháng Giêng năm 1953, trong thông điệp gửi Quốc hội Hoa Kỳ, Tổng thống Truman nói:

"cái mà chúng ta cần không đơn giản chỉ là một lực lượng vũ trang ở trung tâm có đủ sức đẩy lùi mọi cuộc xâm lược. CHúng ta cũng cần có moịt lực lượng vũ trang bố trí suốt dọc theo những ranh giới ngoại vi của thế giới tự do, một hệ thống phòng vệ cho các đồng minh của chúng ta và cho chính chúng ta."

Bình luận về chương trình viện trợ cho Đông Dương ngày 6 tháng 5 năm 1953, Foster Dulles tuyên bố:

"Tình hình quốc tế rất nghiêm trọng. Toàn bộ Đông Nam châu Á đang đứng trước nguy cơ lớn, và nếu Đông Dương bị mất thì sẽ nổ ra một chuỗi phản ứng dây chuyền trong toàn bộ khu vực Viễn Đông và Đông Nam Á."
__________________________________________________ ___
[4] Military Aid and Advisory Group (Nhóm viện trợ và cố vấn quân sự).
 
Tháng 4 năm 1954, Foster Dulles viết trên tạp chí Foreign Affairs.

"Hệ thống căn cứ của thế giới tự do là bộ phận hợp tành của nền an ninh tập thế của thế giới đó."

Cuộc đình chiến tháng 7 năm 1953 ở Triều Tiên càng làm cho Chính phủ Hoa Kỳ thấy cần phải giữ cho được toàn bộ Đông Dương trong hệ thống được gọi là phòng thủ của thế giới phương Tây.

Tại Pháp, phe chủ trương quyết đánh tới cùng mà hiện thân là Bidault được sự ủng hộ của đảng MRP và phái cực hữu đang cầm quyền và hoàn toàn chấp nhận quan điểm của Hoa Kỳ. Ngày 29 tháng 11 năm 1953, tuần báo Thụy Điển Expressen đăng lời tuyên bố vang dội khắp thế giới của Chủ tịch hồ CHí Minh trong một cuộc phỏng vấn: "... Nếu Chính ohur Pháp đã rút đươhc bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn ký kết một cuộc đình chiến và giải quyết vấn đề Việt Nam bằng thương lượng thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng xem xét những đề nghị của phía Pháp... Việc thương lượng đình chiến chủ yếu là giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp."

Trả lời phỏng vấn của tờ tuần báo Thụy Điển này, một người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Pháp nói rằng người ta "không làm chính trị bằng những mục rao vặt trên báo", và mãi đến tận tháng 3 năm 1954, khi Thượng Nghị sĩ Savary thuộc Đảng Xã hội là người đang có ý định tiếp xúc với Hồ Chí Minh, Bidault xòn nói với ông này:

"Hồ Chí Minh sắp đầu hàng đến nơi rồi, chúng tôi sẽ đánh bại ông ta. Chớ tiếp sức cho ông ta bằng một tiếp xúc theo kiểu này."[5]

Chính phủ Laniel-Bidault đang chuẩn bị giải pháp của mình cho vấn đề Đông Dương: Tổng tư lệnh mới, Tướng Navarre, đã trình với Washington một kế hoạch "bình định" nhất định sẽ đánh bại cuộc kháng chiến của Việt Nam trong vòng 18 tháng. Tháng 9 năm 1953, Hoa Kỳ cấp 385 triệu đô la để trang bị cho đội quân của Bảo Đai. Cuối tháng 9, Tướng Navarre tung ra chiến dịch Mouette ở phía nam vùng châu thổ Bắc Kỳ, theo hướng đánh vào Thanh Hóa. Ngày 20 tháng 11, sáu tiểu đoàn đã chiếm khu lòng chảo Điện Biên Phủ, cách Hà Nội 300km về hướng Tây Bắc: đó là chiến dịch Castor. Ngày 20 tháng Giêng năm 1954, quân Pháp đổ bộ ở Tuy Hòa thuộc miền Trung Việt Nam. Đó là dấu hiệu mở đầu chiến dịch Atlante, mà theo dự tính của bộ chỉ huy Pháp, sẽ bình định toàn bộ khu vực phía nam vĩ tuyến 18. Với viện trợ của Hoa Kỳ, quân số đội quân của Bảo Đại, ngày 1 tháng Giêng năm 1954, được tăng lên 210000 người. Theo dự án của Pháp và Mỹ, đội quân này sẽ tăng lên đến 400000 người ngày 1 tháng Giêng năm 1956.

Thế nhưng quân đội nhân dân Việt Nam sẽ cho thấy sức chiến đấu và hiệu quả chiến đấu của mình cao hơn so với những gì mà kế hoạch Navarre đã dự tính. Các cuộc hành quân Mouette và Atlante kết thúc thất bại, và chiến tranh du kích, đặc biệt trong vùng châu thổ Bắc Kỳ, đã lớn lên ngang tầm vóc của một cuộc chiến tranh thật sự. Quân đội nhân dân Việt Nam phản công ở Lào, trên các cao nguyên ở miền Trung Việt Nam; Điện Biên Phủ vốn được dự định sẽ trở thành một cứ điểm, tại đó quân dù và quân lê dương của Pháp sẽ được dịp "xơi tái quân Việt"[6] lại trở thành một cái bẫy dành cho những đơn vị ưu tú nhất của đội quân viễn chinh Pháp.
______________________________________
[5] Lacoutare và Devillers: La fin de la guerre (Sự kết thúc chiến tranh).

[6] Casser du Viet.
 
Để cứu đội quân đang gặp nạn này, ngày 20 tháng 3, Chính phủ Pháp phái Tướng Ely sang Washington, ông tướng này nhận được từ đô đốc Radford, Tổng tham mưu trưởng quân đội hoa Kỳ, lời đảm bảo với Pháp sẽ nhận được sự giúp đỡ trực tiếp bằng quân sự của Hoa Kỳ. Ngày 4 tháng 4, Thủ tướng Pháp Laniel yêu cầu Chính phủ Hoa Kỳ cho không lực của Mỹ can thiệp một cách ồ ạt hòng cứu vãn cứ điểm Điện Biên Phủ[7].

Ngay từ 29 tháng 3, trong diễn văn đọc tại Câu lạc bộ Oversea Press (câu lạc bộ báo chí hải ngoại), Foster Dulles đã tìm cách chuẩn bị trước dư luận Mỹ một cuộc can thiệp trực tiếp ở Đông Dương.

"Việc mở rộng xuống vùng Đông Nam Á, cho dù bằng cách nào đi nữa, của hệ thống chính trị nước Nga Cộng sản và nước Trung Hoa đồng minh của họ, là một mối nguy hiểm nghiêm trọng đe dọa toàn bộ cộng đồng tự do. Hoa Kỳ cho rằng không thể chấp nhận một cách bị động khả năng của một sự bành trướng như thế, mà điều chúng ta phải làm là đương đầu với nó bằng một hành động thống nhất. Điều này có thể hàm chứa những nguy cơ nghiêm trọng, nhưng dù sao những nguy cơ đó sẽ vẫn ít nghiêm trọng hơn nhiều so với những gì mà chúng ta phải đối mặt trong vài ba năm nữa nếu chúng ta không tỏ ra kiên quyết ngay từ hôm nay."

Dư luận Hoa Kỳ đã không phản ứng theo hướng mà viên Ngoại trưởng mong muốn, bài học của cuộc chiến tranh Triều Tiên đang còn quá nhức nhối. Các thủ lĩnh ở quốc hội Hoa Kỳ muốn nước Anh phải cùng vào cuộc. Tuy nhiên, Bộ Tổng tham mưu Hoa Kỳ nghĩ rằng mình có thể buộc được các chính phủ phải làm theo ý mình; ngay từ đầu tháng 4, hai tàu sân bay của hạm đội 7, chiếc Boxer và chiếc Philippine Sea đã tiến vào vị trí trong vịnh Bắc Bộ, chở những máy bay tiêm kích có nhiệm vụ hộ tống những máy bay ném bom hạng nặng sẽ cất cánh từ Manila. Ngày 14 tháng 4, Tướng Partridge chỉ huy không lực ở Viễn Đông đến Sài Gòn. Ngày 16 tháng 4, Nixon, Phó Tổng thống Hoa Kỳ, công khai tuyên bố với bào chí rằng chính phủ nước này, nếu cần sẽ gửi quân sang Đông Dương. Ngày 24 tháng 4, hai ngày trước khi hội nghị Genève khai mạc, Bidault còn gửi thư cho Dulles để đòi Mỹ can thiệp, cho rằng quân đội nhân dân Việt Nam tập trung xung quanh Điện Biên Phủ sẽ là dịp để không lực Hoa Kỳ giáng cho họ một đòn quyết định. Cả Mỹ và Pháp đều sốt ruột chờ đợi câu trả lời của Anh, câu trả lời đó là: "không". Nước Anh gắn bó quá mật thiết với các nước châu Á trong khối "thịnh vượng" chung của mình, đặc biệt là Ấn Độ, cho nên hiểu rằng sẽ chẳng bao giờ dư luận châu Á chịu chấp nhận sự can thiệp trực tiếp của quân đội Anh ở Đông Dương. Ngày 26 tháng 4, Hoa Kỳ thử cố gắng một phen cuối cùng, bằng cách huy động các thành viên của khối A.N.Z.U.S, nhưng các nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ, do sự khước từ của nước Anh, đã chống lại. Thế là người ta đã tránh được, chỉ trong gang tấc, cuộc can thiệp của Hoa Kỳ vào Đông Dương. Tuy nhiên, như Foster Dulles nói sau này, thế giới lúc bấy giờ đã ở "bên bờ vực thẳm". Một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba đã suýt nổ ra.
__________________________________________________ _
[7] André: Laniel Le drame indochinois trang 85 (Tấm thảm kịch Đông Dương).
 
Không thể cho quân đội Mỹ trực tiếp can thiệp vào Việt Nam, Chính phủ Hoa Kỳ sẽ ra sức ngăn cản các nước thương lượng. Cuộc chiến tranh kéo dài sẽ cho phép người ta tìm được một cơ hội khác để bộ máy chiến tranh của Hoa Kỳ vào cuộc. Tuy nhiên, 10 ngày sau khi hội nghị Genève khai mạc, ngày 7 tháng 5 năm 1954, Điện Biên Phủ thất thủ: Trận đánh lớn nhất trong lịch sử chiến tranh thuộc địa đã kết thúc với phần thắng thuộc về kháng chiến Việt Nam. Đội quân viễn chinh Pháp đã bị thiệt hại ở Điện Biên Phủ đến 16000 quân, mà đa số thuộc những đơn vị tinh nhuệ: lính dù, lê dương, lính Ta-be[8].

Những hậu quả của Điện Biên Phủ chẳng bao lâu đã phát triển đồng thời trên hai bình diện quân sự và chính trị. Tinh thần của đội quân viễn chinh Pháp, và đặc biệt của đội quân Bảo Đại, bị ảnh hưởng nặng nề. Ngày 24 tháng 6, vị trí An Khê thất thủ và toàn bộ khu vực Tây Nguyên ở miền Trung được giải phóng. Ngày 1 tháng 7, quân Pháp rút khỏi các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Phủ Lý, Ninh Bình, kể cả hai giáo phận Công giáo thuộc các tòa giám mục Phát Diệm và Bùi Chu ở phía nam châu thổ sông Hồng với hai triệu rưỡi dân. Tuy nhiên, dù tình hình quân sự xấu đi nhanh chóng cũng không thể vì thế mà jeets luận rằng chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng một đòn trí mạng vào đội quân viễn chinh Pháp còn đông đến 500000 người, với những phương tiện vật chất, không quân, thiết giáp, pháo binh, vẫn tải vẫn vượt xa so với quân đội nhân dân Việt Nam. Đành rằng quân đội Pháp không còn có thể tính đến việc đáng bại kháng chiến Việt Nam, nhưng một kế hoạch co cụm các mặt trận đã được dự trù cho trường hợp các cuộc xung đột còn kéo dài. Ở miền Bắc, người ta sẽ chỉ giữ trục Hà Nội-Hải Phòng, ở phía nam núp sau dãy núi chạy dọc theo vĩ tuyến 18, toàn bộ quân lực của Pháp sẽ được tập trung lại để giữ vững toàn bộ miền Nam Việt Nam trong khi chờ đợi sự can thiệp của các lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ sẽ lại tạo sức mạnh cho một cuộc tiến công mới đánh lên miền Bắc, lần này với sự phối hợp của quân đội Mỹ[9]. Đành rằng, bộ máy chiến tranh của Pháp đã bị sứt mẻ nhiều, nhưng các lực lượng vũ trang của nhân dân Việt Nam cũng chưa đủ sức để có thể giải phóng toàn bộ đất nước một cách nhanh chóng, mà một cuộc can thiệp của Hoa Kỳ, tuy rằng tạm thời đã được gạt đi, nhưng nguy cơ vẫn luôn luôn còn đó.

Tại Genève, Bidault và Foster Dulles cố công cố sức làm hội nghị thất bại. Bidault nhất quyết không muốn nghe đến những điều kiện chính trị, ông ta không muốn thừa nhận nền độc lập của Việt Nam ngoại trừ thông qua vai trò của chính phủ Bảo Đại. Nguyễn Quốc Định, đại diện của Bảo Đại, chỉ đưa ra một đề nghị đơn giản là sáp nhập các lực lượng vũ trang kháng chiến vào quân đội của Bảo Đại, dưới một quyền hành chính trị duy nhất là chính phủ Bảo Đại.

Tuy nhiên, chiến thắng Điện Biên Phủ đã có những hệ quả chính trị hết sức quan trọng: phong trào hòa bình trên thế giới và nhất là ở Pháp đã phát triển rất mạnh. Ngày 12 tháng 6, Chính phủ Laniel-Bidault bị lật đổ, ngày 18 tháng 6, Chính phủ Mendes-France được bầu vào ghế thủ tướng với 419 phiếu thuận, 47 phiếu chống, và 143 phiếu trắng. Con số này phản ánh quy mô và xu thế của dư luận ở Pháp.
___________________________________
[8] Đơn vị lục quân gồm những chiến binh người Ma-rốc. ND

[9] Tướng Navarre: Agonie de L'Indochine (Đông Dương hấp hối).
 
Tình hình chính trị và quân sự vào tháng 7 năm 1954 mang những nét sau đây: Trong trường hợp chiến tranh kéo dài, quân đội Pháp rất có thể sẽ bị buộc phải rút hết khỏi toàn bộ khu vực phía bắc vĩ tuyến 18; ở phía nam Việt Nam, ở Campuchia và Lào chiến tranh du kích có thể sẽ cứ kéo dài. Nhưng vẫn chưa thể đưa đến một kết thúc nhanh chóng bằng quân sự. Chính phủ Mendes-France có thể sẽ bị lật đổ. Vậy chính phủ lên kế vị nó sẽ làm gì ? Các lực lượng phe cánh tả liệu đã đủ mạnh để ngăn không cho phe cánh hữu xin một cuộc can thiệp ồ ạt bằng quân sự của Mỹ và đặt toàn thể thế giới trước việc đã rồi ?

Về phía Việt Nam, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, các nhà lãnh đạo nhận thức rất rõ về mối nguy hiểm từ phía Hoa Kỳ; các cuộc thương lượng vốn nhằm mục đích giành cho được từ tay người Pháp sự công nhận quyền độc lập, nhưng đồng thời, phái đoàn Việt Nam ở Genève còn cố gắng, bằng sự nhân nhượng với Pháp để có được một cuộc đình chiến, nhằm tránh không cho Hoa Kỳ gia nhập cuộc chiến và biến toàn thể đất nước Việt Nam thành một bãi chiến trường khổng lồ. Ngày 10 tháng 5, ba ngày sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, Phạm Văn Đồng tại Genève đưa ra 3 đề nghị.

- Nước Pháp sẽ thừa nhận quyền độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

- Việt Nam sẽ tôn trọng các lợi ích kinh tế và văn hóa của Pháp.

- Việt Nam sẽ nghiên cứu khả năng gia nhập khối Liên hiệp Pháp.

Tính chất ôn hòa của những yêu sách được đưa ra như trên sau một chiến thắng quân sự lẫy lừng đã làm kinh ngạc nhiều nhà quan sát, và tương phản với sự ngoan cố của Bidault. Dư luận Pháp đã không thể không nhận thấy sự ngoan cố đó. Bidault sẽ bị loại bỏ. Người ta đã không còn có thể tách rời các vấn đề quân sự với các vấn đề chính trị. Hẳn rằng, tương quan lực lượng trên bình diện quân sự, nguy cơ về một cuộc chiến tranh lan rộng lôi kéo nhiều bên vào cuộc đã không cho phép lực lượng kháng chiến Việt Nam đánh chiếm tất cả các mục tiêu của mình. Nhưnh Chính phủ Pháp đã buộc phải nhượng bộ:

- Về mặt cụ thể, trao trả lại khu vực ở phía bắc vĩ tuyến 17 cho chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Về nguyên tắc, thừa nhận quyền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, những nguyên tắc sẽ phải được cụ thể hóa bằng tổ chức tổng tuyển cử bầu ra một Chính phủ thống nhất cho cả nước, chậm nhất vào ngày 20 tháng 7 năm 1956.
__________________
 
Thế là, nền độc lập dân tộc đã trở thành hiện thực trên nửa phía bắc của nước Việt Nam, Campuchia và Lào cũng trở thành những quốc gia độc lập thật sự. Một điều nữa không kém phần quan trọng, chúng ta đã tránh được nguy cơ một cuộc xung đột lan rộng ra toàn thể. Từ lâu, đây là lần đầu tiên, một vấn đề nóng bỏng giữa phương Đông và phương Tây đã được giải quyết bằng con đường thương lượng. Khác với vấn đề Triều Tiên, các cuộc thương lượng đã kết thúc với một hiệp ước không chỉ về quân sự mà cả về chính trị. Nước Việt Nam, trên nửa phần phía bắc của mình, sắp sửa có thể dồn tâm sức vào công cuộc xây dựng, tiến dần tới chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc cũng sẽ thúc đẩy nền kinh tế của mình tiến bộ nhanh chóng, tạo nên cơ sở vững bền để dứt khoát trở thành một nước xã hội chủ nghĩa hùng cường. Như vậy, các Hiệp định Genève ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 là một thỏa hiệp, một thỏa hiệp có lợi cho hòa bình thế giới, các điều khoản của những hiệp ước này dẫn đến việc thiết lập ở Đông Dương một khu vực trung lập rộng lớn về phương diện quân sự. Đối với nhân dân Việt Nam, vấn đề còn lại là phải hoàn thành nền độc lập của mình bằng cách đấu tranh để thi hành những hiệp định này. Bằng cách gắn liền chính sách giải phóng dân tộc với công cuộc bảo vệ hòa bình thế giới, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã tránh được cho đất nước mình khỏi bị biến thành một bãi chiến trường giữa Đông và Tây, và cứu vãn được hòa bình thế giới. Nhưng sự chấp nhận đất nước bị chia cắt, cho dù có được ghi trong các hiệp định chỉ là tạm thời, cũng không vì thế mà không gây nên những xúc động lớn trong tâm tư tình cảm của người Việt Nam. Các nhà lãnh đạo Việt Nam, sau khi đã lèo lái cuộc chiến tranh với một bàn tay bậc thầy, đã biết tỏ rõ sự khôn ngoan về chính trị, chấp nhận những thỏa hiệp cần thiết. Lời phát biều của Hồ Chí Minh ở cuộc họp ngày 15 tháng 7 năm 1954 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, chứng tỏ rằng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có đánh giá hết sức khách quan về tình hình, không tự cho phép mình say sưa với những chiến thắng rực rỡ trên mặt trận quân sự.

"Những thắng lợi của ta làm cho nhân dân ta và nhân dân thế giới phấn khởi, làm cho địa vị ngoại giao của ta ở Genève vững chắc, những thắng lợi của ta buộc địch phải nói chuyện với ta. So với những điều mà Bollaert đưa ra hồi năm 1947, thì thái độ của Pháp ngày nay thay đổi khá lớn. Từ ngày kháng chiến đến nay, thế ta ngày càng mạnh, thế địch ngày càng yếu... Nhwung chúng ta cần hết sức chú ý. thế mạnh và yếu ấy là tương đối, không phải tuyệt đối. Ta chớ chủ quan khinh địch. Thắng lợi của ta làm cho đế quốc Mỹ bừng tỉnh.

Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, âm mưu và kế hoạch can thiệp của Mỹ cũng thay đổi để kéo dài chiến tranh Đông Dương, quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương, phá hoại Hội nghị Genève, tìm mọi cách hất cẳng Pháp để chiếm ba nước Việt, Miên, Lào, biến nhân dân Việt, Miên, Lào thành nô lệ của Mỹ và gây thêm tình hình căng thẳng trên thế giới.

Do đó, Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt, Miên, Lào... Qua hội nghị Genève, mâu thuẫn của các đế quốc càng rõ rệt. Pháp muốn nói chuyện, Anh nhập nhằng, Mỹ thì phá hoại. Đến nay Mỹ càng bị cô lập...

Hiện nay, Chính phủ Pháp do phe chủ hòa nắm, việc chấm dứt chiến tranh Đông Dương có nhiều khả năng hơn...

Cho đến này ta đã tập trung lực lượng để tiêu diệt lực lượng thực dân Pháp xâm lược. Bây giờ, Pháp đang nói chuyện với ta, đế quốc Mỹ thì đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp, mũi nhọn của ta phải chĩa vào đế quốc Mỹ...

Trước kia, khẩu hiệu của ta: "Kháng chiến đến cung." Nay vì tình hình mới, ta cần nêu khẩu hiệu mới là "hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ."Để chống đế quốc Mỹ can thiệp, kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, ta phải nắm vững lá cờ hòa bình, chính sách của ta có thay đổi: Trước ta tịch thu tài sản của đế quốc Pháp, nay đã đàm phán thì có thể theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi, mà giữ lợi ích kinh tế và văn hóa của Pháp ở Đông Dương. Trong đàm phán thì phải nhân nhượng nhau đúng mực. Trước nói: đánh đuổi và tiêu diệt hết quân Pháp, nay đã đàm phán đưa ra yêu cầu và Pháp đã bằng lòng định kù rút quân. Trước kia, ta không đếm xỉa đến Liên hiệp Pháp, nay ta nhận bàn việc tham gia Liên hiệp Pháp một cách bình đẳng và tự nguyện. Trước kia ta chủ trương tiêu diệt ngụy quân, ngụy quyền để thống nhất, bây giờ ta dùng chính sách khoan đãi, dùng biện pháp toàn quốc tuyển cử để đi đến thực hiện thống nhất toàn quốc...

Muốn ngừng bắn thì phải điều chỉnh khu vực, nghĩa là quân đội địch phải tạm tập trung vào một vùng để rút dần, quân đội ta cũng tập trung vào một vùng. Ta phải có vùng rộng lớn, đủ những phương tiện để xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng mà không ảnh hưởng đến các vùng khác... Khi điều chỉnh và trao đổi khu vực, vùng mà địch sẽ đến tạm đóng thì đồng bào vùng ấy sẽ thắc mắc, có người sẽ bi quan thất vọng, dễ bị địch lợi dụng. Ta phải nói cho đồng bào biết rõ: vì lợi ích toàn quốc, lợi ích lâu dài mà tạm thời phải chịu đựng, đó là một điều vẻ vang mà toàn quốc rất biết ơn...

Giành lại hòa bình không phải là việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ, phức tạp, nó có những điều kiện có lợi, cũng có những khó khăn... Mỹ ra sức phá hoại việc lập lại hòa bình ở Đông Dương, phe chủ hòa Pháp thì vẫn chưa dứt khoát với ảnh hưởng của Mỹ. Tình hình đang ở thời kỳ biến chuyển lớn, lại nhiều khó khăn và phức tạp... Những tư tưởng sia lầm có thế nảy ra như sau: "tả" khuynh, có người thấy thắng, muốn đánh bừa, đánh đến cùng... chỉ thấy Pháp mà không thấy Mỹ, thiên về tác chiến... Họ đề ra những điều kiện quá cao, địch không chấp nhận được. Việc gì họ cũng muốn nhanh, không biết đấu tranh cho hòa bình là gian khổ và phức tạp. Tả khuynh thì sẽ bị cô lập, sẽ xa rời nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới... Hữu khuynh thì bi quan tiêu cực, nhân nhượng vô nguyên tắc, không tin tưởng vào lực lượng của nhân dân, làm nhụt tinh thần phấn đấu của nhân dân, quên tác phong gian khổ, chỉ muốn một đời sống yên ổn và dễ dàng...

Hiện nay, đế quốc là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ. Bất kỳ người nào, nước nào không thân Mỹ đều có thể làm mặt trận thống nhất (dù là tạm thời) với ta. Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt[10]".
__________________________________
[10] Hồ Chí Minh tuyển tập, tập II, trang 445.
 
Tại Hoa Kỳ, tin đình chiến được tiếp nhận một cách đắng cay. Ngay ngày hôm sau, anh em Alsop viết trên tờ New York Herald Trubue (Diến đàn thông tin New York):

"Đây là một thảm họa làm lung lay toàn bộ thế cân bằng lực lượng mong manh ở châu Á. Một mất mát to lớn khó bù đắp nổi bằng những món lợi kêism được từ châu Âu. Và đây là một sự bất hạn mà chính phủ Hoa Kỳ không thể nào được coi là người ngoài cuộc."

Tuần báo New Statesman and Nation của Đảng Lao động ANh khẳng định rằng Mỹ là kẻ duy nhất bị nếm mùi thất bại, còn một số Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ thì nói đến một vụ đầu hàng Minich mới. Ngày 20 tháng 8, Eisenhower tuyên bố trước Quốc hội:

"QUân đội Việt Minh được người Trung Quốc yểm trợ đã giành được những thắng lợi trong khu vực Đông Dương, mặc dù quân đội của Liên hiệp Pháp và các Quốc gia liên hiệp đã mất gần tám nămchieens đấu, bất chấp những vũ khí và thiết bị hiện đại mà Hoa Kỳ đã cung cấp cho họ."

Không đưa được quân của mình vào Đông Dương, Chính phủ Hoa Kỳ sau khi đình chiến, liền nhanh chóng bắt tay vào việc thực hiện dự án mà họ đã ôm ấp từ lâu: Thiết lập một hệ thống quân sự của phương Tây trong khu vực Đông Nam châu Á và dựng nên một đội quân hùng mạnh của miền Nam Việt Nam mà Hoa Kỳ sẽ giành lấy từ tay người Pháp quyền tổ chức và huấn luyện.

Mục tiêu trước mắt của Hoa Kỳ trong mùa xuân 1954 là khuyến khích người Pháp cứ tiếp tục cuộc chiến tranh và can ngăn họ chớ có điều đình. Nột cuộc đình chiến, đối với ông ta (tức Foster Dulles) chỉ là một thủ đoạn để trnah thủ thời gian cần thiết cho việc huấn luyện một đội quân Nam Việt Nam hùng mạnh và để dựng nên một hệ thống phòng thủ Đông Nam châu Á lần này sẽ xuyên qua Sài Gòn chứ không phải Hà Nội như trước nữa."[11]
____________________________________
[11] Lacouture - Duvillier, sách đã dẫn trang 104.
 
Vấn đề là phải nhanh chóng hàn gắn lại khối liên minh phương Tây đã bị phương hại ở châu Á bởi hội nghị Genève năm 1954 về đông Dương. Ngay từ ngày 6 tháng 9 năm 1954, tại Manille đã tổ chức hội nghị bàn về hiệp ước quân sự Đông Nam Á, được gọi là SEATO (South East Asia Treaty Organisation - Tổ chức Hiệo ước Đông Nam Á).Điều 4 của tổ chức này ghi rõ: "Trong trường hợp xảy ra cuộc xâm lược hay tấn công vũ trang chống lại những bên hay những vùng được chỉ rõ trong hiệp ước, thì các bên ký kết sẽ hành động."

Thuật ngữ xâm lược, bản hiệp ước vạch rõ, bao hàm hết cả mọi hình thức xâm lược, kể cả sự "lật đổ". Nếu một phong trào nào đó phát sinh tại một trong những nước ở Đông Nam Á bị các bên ký kết coi là một cuộc lật đổ, thì tổ chức SEATO có thể tính đến một hành động quân sự chung. Tường thuật về một cuộc họp sau đó của tổ chức này, nhà báo André Fontaine của báo Pháp Le Monde viết: "Lật đổ là một từ rất tiện để chỉ toàn bộ những hoạt động hợp pháp hay không hợp pháp nhằm mục đích đấu tranh trong nội địa của những quốc gia là thành viên của hiệp ước này chống lại các chính quyền liên hiệp với Hoa Kỳ."[12]

Một nghị định thư kèm theo nói rõ thêm rằng:

"Hoa Kỳ, thành viên của hiệp ước này, thừa nhận rằng Lào, Campuchia, Nam Việt Nam sẽ được hưởng những điều lợi được đề ra trong Điều 4."

Đây rõ ràng đi ngược với các Hiệp định Genève: "Hai bên ký kết sẽ chú ý giữ gìn để các khu vực giao cho mình không tham gia bất cứ một liên minh quân sự nào."

Khối liên minh mang danh của Đông Nam châu Á bao gồm: Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Úc - tức chủ yếu là những nước cường quốc phương Tây. Trong số các nước châu Á, chỉ có Thái Lan, Philippine và Pakistan, là những nước mà chính phủ của họ đèu gắn bó chặt chẽ với Hoa Kỳ. Những nước quan tọng nhất của Đông Nam Á như: Ấn Độ, Miến Điện, Ceylan, Indonesia đều đã từ chối tham gia, vì họ cảnh giác với cái khối liên minh đang tập hợp lại với nhau cả ba cường quốc thực dân có thành tích bất hảo nhất. Ngày 29 tháng 9 năm 1954, Nehra tuyên bố trước Quốc hội Ấn Độ:

"cần phải tự hỏi liệu Hiệp ước Manille đã làm dịu đi hay làm tăng thêm sự căng thẳng ở Đông Nam châu Á ? Hiệp ước ấy có góp phần làm cho Đông Nam Á hay một bộ phận khác của thế giới nhích gần thêm dù chỉ một bước, tới hòa bình và an ninh hay không. Thực ra, tôi chẳng thấy sự căng thẳng giảm bớt hay hòa bình nhích gần thêm. Trái lại, bầu không khí thuận lợi được Hội nghị Genève tạo nên đã bị làm xấu đi một phần. Đây đúng là một chuyện bất lợi."

Ngày 6 tháng 4 năm 1956, hoàng thân Sihanouk nói trước Đại hội Sangkum:

"Hoa Kỳ trách Campuchia đã không gia nhập khối SEATO. Nhân dân Campuchia coi SEATO là một khối quân sự và gia nhập khối này là vi phạm Hiệp định Genève ."

Khái niệm xâm lược bị đáng đồng với "lật đổ" khiến cho tất cả các dân tộc châu Á cảnh giác, nhất là khi nó được khua lên bởi các cường quốc thực dân.

"Cốt lõi của vấn đề, Walter Lippman viêt, Đông Dương không hề bị một đội quân của Trung Quốc hay Liên Xô xâm lược, mà chính là những người cách mạnh Đông Dương đang thâm nhập từ làng này sang làng khác."[13]

Ngay từ năm 1949, trước Hội các tổng biên tập báo chí Mỹ (American Society of Newspaper Editors), Acheson đã nói:

"Xâm lược không chỉ có nghĩa là tiến công bằng quân sự, mà còn là chiến tranh bằng tuyên truyền và phá hoại ngầm từ bên trong các nước tự do."[14]
__________________________________
[12] Le Monde, ngày 6 tháng 3 năm 1956.

[13] Trích dẫn của báo Tribune des Nation ngày 7 tháng 1 năm 1955.

[14] Aragon trích dẫn Histore parallèle tập II, trang 193.
 
Song song với việc dựng lên Khối quân sự Đông Nam Á, Hoa Kỳ ngay lập tức sau khi đình chiến, đã ráo riết thiết lập những cơ quan quân sự, kinh tế, hành chính của mình ở Nam Việt Nam, bất chấp các điều khoản của các Hiệp định Genève. Ngay từ ngày 21 tháng 7, Eisenhower công bố rằng Hoa Kỳ không hề bị ràng buộc bởi các hiệp định này. Phái đoàn quân sự MAAG, đáng lẽ phải rút về nước, lại được tăng cường. Phái đoàn USOM (US Organization Mission), có nhiệm vụ phân phối tiền của Mỹ, đặt các cơ quan của mình trong khách sạn lớn nhất ở Sài Gòn và các cố vấn của mình trong các bộ của Diệm. Một phái đoàn của trường Đại học Michigan lo vấn đề giáo dục và phụ trách luôn các cơ quan an ninh. để cho đại tá Lansdale có đất thi thố tài năng. một chuyên gia Hoa Kỳ khác điều khiển các cơ quan "cải cách điền địa". Nào chính khách, nào tướng lĩnh, nào giáo chủ Hoa Kỳ qua qua lại lại như mắc cửi giữa Washington và Sài Gòn, nơi mà rất nhiều giáo đoàn thuộc đủ các laọi của công giáo Hoa Kỳ, dưới bàn tay thúc đẩy mạnh mẽ của hồng y giáo chủ Spellman, đến để khởi động lại các tổ chức công giáo Việt Nam, làm cho các cha cố người Pháp bực tức và nắm luôn vấn đề người tị nạn. Tương O'Daniel chỉ huy phái đoàn MAAG, Le Land Barrows chỉ huy phái đoàn USOM, còn Tướng Collins thì ngày 4 tháng 11 năm 1954 được chỉ định làm đại diện đặc biệt của Eisenhower bên cạnh Ngô Đình Diệm với hàm đại sứ. Đó chính là những ông chủ thật sự của Nam Việt Nam. Tướng Collins đã từng chỉ huy ở Triều Tiên, và sau đó từng cầm đầu nhóm thường trực của khối Bắc Đại Tây Dương. Về việc bổ nhiệm ông ta ở Sài Gòn, báo New York Herald Truleme bình luận:

"Việc bổ nhiệm Tướng Collins là dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy tầm quan tọng của đất nước này đối với Washington, cũng như nỗi lo lắng mà đất nước này gây ra cho Hoa Kỳ. Nguyên tổn tham mưu trưởng quân đội Hoa Kỳ sẽ có nhiệm vụ phối hợp tất cả mọi hoạt động của tất cả các cơ quan Hoa Kỳ ở Việt Nam, một trách nhiệm thật đặc biệt quan trọng."
 
Ngày 23 tháng 12, đô đốc Radford đến Sài Gòn hội đàm với Diệm về các vấn đề quân sự. Ngày 12 tháng 2 năm 1955, Diệm công bố rằng Tướng O'Daniel sẽ phụ trách việc huấn luyện quân đội của Nam Việt Nam, thay cho bộ chỉ huy Pháp. Những phù hiệu của Pháp bị cho vào lửa để thay bằng những phù hiệu Hoa Kỳ.

Sang đầu năm 1955, ngày 21 tháng 2 rồi ngày 7 tháng 3, giữa chính quyền Diệm và Chính phủ Hoa Kỳ, những hiệp định viện trợ kinh tế được ký kết. Những hiệp định này sẽ được cụ thể hóa trong những cuộc thương lượng từ ngày 22 đến 25 tháng 6, nhằm giúp chính quyền Diệm xây dựng quân đội của mình, theo chương trình đã được Diệm trình bày trước đó, với Tướng Collins từ ngày 12 tháng Giêng năm 1955. Các hiệp định ký kết giữa Hoa Kỳ chính quyền Diệm tiếo tục những hiệp định đã được ký trước đó giữa Hoa Kỳ với chính quyền Bảo đại ngày 7 tháng 9 năm 1951, và những thông điệp trao đổi giữa hai cChinhs phủ trong các ngày 18 tháng 12 năm 1951 và 19 tháng 2 năm 1952. Tất cả những hiệp định song phương này quy định các phương thức viện trợ trong khuôn khổ của đạo luật về "chương trình tương trợ quốc phòng" (Mutual Defence Assistance Program) thường được biết dưới tên gọi bằng những chữ viết tắt theo kiểu Mỹ là MDAP. Luật này quy định rõ rằng bất cứ nước nào không thi hành các điều kiện của hiệp ước song phương đều sẽ không được nhận bất cứ một hình thức viện trợ nào và nếu sự viện trợ nói trên không đem lại kết quả là tăng cường nền an ninh của Hoa Kỳ thì viện trợ đó sẽ không được cấp phát.

Chính phủ Diệm cam kết thi hành khoản 1, Điều c của hiệp ước đã được Bảo Đại ký năm 1951:

"Nước Việt Nam cam kết góp phần tối đa khả năng của mình về người, tài sản và phương tiện để duy trì những lực lượng phòng thủ của riêng mình và của thế giới tự do."

Ngày 22 tháng 4 năm 1955, một thông báo của đại biện lâm thời Hoa Kỳ ở Sài Gòn nói rõ thêm: "Trưởng phái đoàn MAAG từ nay sẽ đảm đương tất cả mọi trách nhiệm về tổ chức và huấn luyện quân đội Nam Việt Nam."

Cũng như ở Triều Tiên, mục tiêu số một của chính sách Hoa Kỳ ở Nam Vuệt Nam là tạo nên một đội quân hùng mạnh và thiết lập tại đây một căn cứ quân sự được trang bị những phương tiện hiện đại nhất. Lấy cớ thu hồi vật liệu chiến tranh đã cấp cho quân Pháp trước đấy ở Đống Dương (cứ như thể là Hoa Kỳ cần thu hồi đồ phế liệu cũ), vào đầu năm 1955, một phái đoàn quân sự mới, phái đoàn TERM (Temporary Equipment Recovery Mission - phái đoàn tạm thời có nhiệm vụ thu hồi trang thiết bị) được phái sang tăng cường cho MAAG. Sự sốt ruột của Hoa Kỳ muốn gấp gáp dựng lên một đội quân Nam Việt Nam hùng mạnh đã bộc lộ không chút úp mở trong thái độ của những đại diện nước này:

"Trong thời gian Tướng O'Daniel chủ trì việc huấn luyện quân đội Việt Nam, từng có lần, để buộc ông bạn đồng minh đang còn tỏ ra dè dặt phải vâng theo ý mình, ông ta đã đấm tay xuống bàn và quát lên: ai là người trả tiền ? Các sĩ quan Việt Nam liền xin tạm nghỉ họp để hội ý, rồi sau đó trở lại báo cáo xin vâng."[15]
____________________________________
[15] Báo Pháp Le Monde, ngày 4 tháng 1 năm 1957.
 
Sau một chuyến đi nghiên cứu ở Việt Nam, Nghị sĩ công đảng Anh William Warbey miêu tả một cách chi tiết sự có mặt của Hoa Kỳ ở đây như sau:

"Mục tiêu chủ yếu của sự viện trợ này (tức viện trợ của Hoa Kỳ) là củng cố uy quyền của Diệm bằng cách cung cấp cho ông ta những lực lượng vũ trang được trang bị tốt và nhưng đơn vị cảnh sát quân đội cơ động. Viện trợ quân sự của Mỹ năm 1955 đã lên đến 234800000 đô la, năm 1956 là 102200000 đô la và đến năm 1957 sẽ lên đến khoảng 200 triệu đô la. Khoảng 2000 sĩ quan của quân đội Hoa Kỳ hiện có mặt ở Việt Nam, núp dưới cái vỏ của khoảng nửa tá tổ chức mang những tên khác nhau: MAAG, TRIM (Phái đoàn thanh tra và tổ chức lại việc huấn luyện), CATO (Tổ chức huấn luyện các nhóm chiến đấu), TERM... Chỉ riêng phái đoàn TERM trong tháng 6 năm 1956 đã đưa sang 400 sĩ quan, trong đó 80 người là sĩ quan cao cấp, bất chấp Ủy ban kiểm soát quốc tế nhiều lần phản đối. Bất chấp danh nghĩa tạm thời trong tên gọi, phái đoàn TERM đến lúc đó vẫn tồn tại. Nó rất có ích cho người Mỹ dùng danh nghĩa đó để vứt bỏ những trang thiết bị của thời kỳ chiến tranh Đông Dương nay không còn dùng được nữa, để thay bằng trang thiết bị hiện đại. Đó là thủ đoạn của họ để né tránh những điều khoản của Hiệp định Genève cấm nhập thiết bị chiến tranh, trừ khi để thay thế thiết bị cũ.

Quân đội của Diệm lúc này gồm có 150000 người được trang bị và huấn luyện từ trên xuống dưới bởi những sĩ quan Hoa Kỳ.Cảnh sát quân sự gồm 45000 người, được các sĩ quan Hoa Kỳ huấn luyện chiến đấu, hành quân ngang dọc khắp xứ sở này, tay lăm lăm súng trường và súng tiểu liên, đầu đội mũ sắt của quân đội Hoa Kỳ. Do người Mỹ đã làm lại tất cả mọi con đường lớn, đội quân cảnh sát này có thể cơ động một cách nhanh chóng. Ngược lại các tuyến đường sắt vì không có ích gì về phương diện quân sự, đều bị bỏ mặc không được khôi phục."[16]

Cả các quan chức Hoa Kỳ lẫn chính quyền Diệm đều không hề giấu giếm ý đồ xây dựng cho xong bộ máy quân sự đồ sộ này. Ngay từ ngày 13 tháng 2 năm 1955, khi mà vị trí quyền lực của ông ta vẫn chưa lấy gì làm vững chắc, Diệm đã tuyên bố trong một cuộc họp báo:

"Vấn đề phái đoàn quân sự Hoa Kỳ tổ chức và huấn luyện quân đội quốc gia Việt Nam đã được bàn cãi nhiều lần, ngay từ trước khi kết thúc chiến sự ở Đông Dương. Một chương trình do chính phủ Việt Nam đề ra đã được tất cả các nước liên quan chấp nhận và bắt đầu được thực hiện từ hôm nay."

Trong bản tin của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 11 tháng 6 năm 1956, chúng ta đọc được lời tuyên bố sau đây của W.Robertson, Thứ trưởng phụ trách các vấn đề Viễn Đông, tại hội nghị "Những người bạn Mỹ của Việt Nam" ngày 1 tháng 6 năm 1956:

"Những cố gắng đầu tiên của chúng ta nhằm giúp Việt Nam duy trì các lực lượng an ninh gồm một đội quân chính quy 150000 người, một đội cận vệ cơ động 45000 người và những đơn vị địa phương chống lật đổ trong cac làng xã. Chúng ta đang cung cấp cho các lực lượng này tiền, thiết bị và chúng ta có nhiệm vụ huấn luyện quân đội Việt Nam. Chúng ta cũng giúp tổ chức, huấn luyện và trang bị cho cảnh sát Việt Nam."

Cần nói rõ rằng người đứng đầu các cơ quan cảnh sát của thành phố New York là người đã được mời sang để đào tạo các nhân viên cảnh sát của Nam Việt Nam. Quân đội của Bảo Đại chỉ gồm những tiểu đoàn để đảm đương những nhiệm vụ thứ yếu, vấn đề là phải xây dựng những sư đoàn có đủ sức cho những chiến dịch lớn. Ngày 22 tháng 3 năm 1955, Tướng O'Daniel tiết lộ với các nhà báo:

"Điều cần phải làm bây giờ và khó khăn nhất, là xây dựng những đơn vị lớn xuất phát từ cấp tiểu đoàn. Rất nhiều các đơn vị này đã chiến đấu tốt với tư cách là những tiểu đoàn riêng lẻ. Thế nhưng bây giờ phải tiến tới đơn vị đặc chủng, tức là đơn vị sư đoàn, bởi chỉ có sư đoàn mới đáp ứng được những đòi hỏi của chiến lược hiện đại, dù trong chiến đấu tập trung hay trong chiến đấu với những tiểu đoàn phân tán."[17]
__________________________________
[16] Báo France - Observateur, ngày 8 tháng 8 năm 1957.

[17] Việt Nam Presse (Thông tấn Việt Nam) cơ quan thông tấn chính quyền Nam Việt Nam ngày 23 tháng 3 năm 1955.
 
Hàng trăm sĩ quan Nam Việt Nam được gửi sang các căn cứ quân sự của Mỹ ở Philippine, Nhật Bản, Nam Triều Tiên và Hoa Kỳ để được đào tạo và tập luyện. Nhiều trường quân sự được mở hoặc mở rộng thêm ở ngay trên đất Nam Việt Nam, Thủ Đức, Đà Lạt, Nha Trang, ở trung tâm huấn luyện Quang Trung không xa Sài Gòn. Tháng 7 năm 1956, quân đoàn đầu tiên ra đời, cuối năm 1957 đến lượt quân đoàn thứ hai. Đây cũng là thời điểm quân đội chính quy Nam Việt Nam có thể được coi là đã hoàn thành thời kỳ chuẩn bị.

"Năm 1956, tổng số quân 150000 được gom lại từ những thành phần chiến đấu của trung đoàn bộ binh, lính dù và lính thủy đánh bộ.

Ngày nay, sự thành lập mới đây của hai quân đoàn đã biến quân đội của Cộng hòa Việt Nam thành một đội quân hiện đại, đủ sức đáp ứng những yêu cầu của chiến tranh hiện đại."[18]

"Được hỏi về những tiến bộ của quân đội Việt Nam kể từ ngày ông ta có mặt tạu đây với dnah nghĩa là trưởng phái đoàn MAAG, Tướng O'Daniel nói rằng đã thực hiện được những tiến bộ quan trọng, đặc biệt ở trung tâm huấn luyện Quang Trung, được tổ chức một cách tuyệt hảo và hoạt động rất tốt, Tướng O'Daniel nêu bật nhiều mặt của sự tiến bộ này, như là các cuộc hành quân tập trận của các sư đoàn, những thành tích về bắn súng, phương pháp huấn luyện hoàn hảo, chất lượng chỉ huy và tinh thần của các tân binh."[19]

Không quân, năm 1954 hầu như là con số không, đã phát triển khá mạnh, song song với việc phát triển mạng lưới các căn cứ không quân. Cần phải có những nguồn dự trữ, những lực lượng bổ sung cho các lực lượng chính quy này. Một đội dân quân mang tên Bảo An Đoàn, đã được tổ chức, mỗi tỉnh một tiểu đoàn và một hoặc hai đại đội ở cấp quận, trang bị đúng như của bọ binh, gồm cả pháo binh hạng nhẹ. Trong mỗi làng thành lập một đội phòng vệ dân sự, gọi là Dân vệ, tổ chức thành từng tiểu đội từ 10 đến 15 người được trang bị vũ khí hạng nhẹ, và được huấn luyện đều đặn theo từng thời kỳ. Vào năm 1958, có thể ước lượng số quân như sau:

Quân chính quy: 150000 người.

Dân binh (Bảo An Đoàn): 60000 người.

Cảnh sát: 45000 người.

Dân vệ: 100000 người.

Năm 1958 chưa hề có một trường đào tạo sĩ quan nào, những trường quân sự Thủ Đức thì huênh hoang tuyên bố đã đào tạo được, tính cho đến tháng 3 năm đó, tới 3296 sĩ quan. Thậm chí chương trình đào tạo còn nhằm rất xa;

"Có những giới người Mỹ có thẩm quyền cũng đã tiết lộ rằng, một số sĩ quan Việt Nam có thể được huấn luyện sử dụng những tên lửa kiểu Wake-Corporal, súng đại bác nguyên tử 280 ly, những rốc-két kiểu Honest-John có sẵn trong các kho ở Okinawa, thậm chí cả những tên lửa đất đối không kiểu Nike."[20]
_________________________________________
[18] Times of Vietnam (Thời báo VIệt Nam - tuần báo xuất bản ở Sài Gòn, ngày 1 tháng 3 năm 1958).

[19] Times of Vietnam (Thời báo VIệt Nam ngày 14 tháng 6 năm 1958).

[20] Times of Vietnam (Thời báo VIệt Nam ngày 19 tháng Giêng năm 1957).
 
Như Nghị sĩ công đảng Warbey đã cho biết, việc di chuyển những lực lượng vũ trang này đòi hỏi phải có một mạng lưới đường chiến lược lớn. Lại cần phải có một mạng lưới căn cứ không quân hiện đại. Tất cả đã được thực hiện, theo kiểu Mỹ, tức là đại quy mô. Hai công ty Hoa Kỳ, hãng Capital Engineering và Johnson Drake Piper được giao thầu các công trình này. Xin chớ có chút ảo tưởng nào về những khoản tín dụng được cấp dưới danh nghĩa viện trợ kinh tế trong ngân sách của Hoa Kỳ, đại đa số những khoản tiền này đều đổ vào những công trình chiến lược. Chẳng bao lâu, trong khi nền kinh tế nói chung lâm vào cảnh hoàn toàn trì trệ, người ta thấy Nam Việt Nam tự trang bị cho mình một loạt những công trình cầu cống có thể chịu đựng những xe hơi vận tải nặng 30 tấn. Điều kỳ lạ hơn nữa, những con đường này chủ yếu đều quy về hướng một vùng thưa dân cư nhất, kinh tế kém phát triển nhất trong nước, tức là vùng Tây Nguyên. Đường số 9 chạy từ Đong hà đến biên giới Lào được gia cos; tất cả các con đường chạy từ bờ biển đến Tây Nguyên đêu được mở rộng, đường 19 và 19 bis từ Quy Nhơn đi Pleiku, được kéo dài thêm đến tận biên giới Lào và Campuchia, đường số 21 từ Nha Trang đi Buôn Ma Thuật và nhất là đường Sài gòn-Biên Hòa đến tận Buôn Ma Thuật, rồi từ Buôn Ma Thuật đến Pleiku, Đà Nẵng, Huế, chạy song song trong nội địa với đường số 1 chạy dọc ven biển. Chỉ nhìn qua trên bản đồ đủ thấy hệ thống đường sá này được gắn với hệ thống đường ở Thái Lan đã được Hoa Kỳ xây dựng. Người Nhật Bản trước đó đã từng ôm ấp dự định sử dụng Tây Nguyên như một trung tâm chiến lược chung cho cả khu vự Nam Đông Dương, nhưng họ đã lực bất tòng tâm.

Ngày 19 tháng 8 năm 1957, Công báo của chính quyền Nam Việt Nam đăng nghị định ra lệnh truy thu, để xây dựng một xa lộ từ Sài Gòn đi Biên Hòa, dài 32km:

Một dải đất rộng 100m dành cho xa lộ.

Hai dải đất rộng 950m dọc theo hai bên lòng đường.

Chi phí cho xa lộ này ước tính 70 triệu đô la[21]. Chính phủ Diệm khẳng định con đường này có tầm quan tọng sống còn đối với nền kinh tế quốc dân, nhưng không ai không thấy rằng giao thông bằng xe hơi ở Nam Việt Nam chưa phát triển đến mức đòi hỏi phải ưu tiên xây dựng một xa lộ lớn đến như thế. Ngay trước khi nghị định này được công bố, một tờ báo ở Sài Gòn viết:

"Theo các Hiệp định Genève, Hoa Kỳ không có quyền đặt căn cứ không quân ở Việt Nam. Chính vì vậy mà họ sắp xây dựng xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa để có thể khi cần sử dụng mặt đường ấy làm đường băng, cho máy bay hạ cánh và cất cánh, kể cả máy bay phản lực[22]. Căn cứ không quân kiểu đặc biệt này nhằm hoàn thiện cả một mạng lưới sân bay mà bộ chỉ huy Hoa Kỳ đã có sẵn ở Nam Việt Nam. Những sân bay chính Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Cap Saint-Jacques, Đà Nẵng, Phủ Bài, Nha Trang đều được mở rộng, với những trang thiết bị tối hiện đại (ra đa, thiết bị điện tử, nhà để máy bay) nhằm tiếp nhận hạ cánh và cho cất cánh những phi cơ phản lực thuộc loại lớn nhất. Báo chí Sài Gòn không ngớt lời say sưa ca ngợi những trang thiết bị của Tân Sơn Nhất, sân bay hiện đại nhất ở châu Á, với hai đường băng được đúc bê tông, một đường dài đến 2700m và một đường 1800m. Không kém phần hiện đại là sân bay Ban mê Thuột, ở trung tâm của Tây Nguyên là nơi chẳng tiếp thu bất cứ luồng hành khách hay hàng hóa nào. Hàng chục sân bay khác, với quy mô nhỏ hơn, được xây dựng trên khắp miền Nam.

Những căn cứ hải quân ở Đà Nẵng, Nhà Bè được mở rộng, trang bị hiện đại. Theo báo Gazette de Saigon số ra ngày 1 tháng 6 năm 1958, các công trình đang được tiến hành sẽ biến Đà Nẵng thành "một trong những căn cứ quân sự hiện đại nhất."
_______________________________________
[21] Cách mạng Quốc gia, ngày 4 tháng 5 năm 1958.

[22] Thời Luận, ngày 4 tháng 8 năm 1957.
 
Đương nhiên toàn thể bộ máy quân sự này đòi hỏi những trang thiết bị lớn, buộc các sĩ quan, kỹ thuật viên Hoa Kỳ phải đi lại như mắc cửi. Tất cả cảnh tượng này ngang nhiên diễn ra trước mũi của Ủy ban kiểm soát quốc tế. Họ chỉ biết ghi nhận các sự kiện, hoặc đưa ra những lời phản đối mà cả người Mỹ lẫn chính quyền Diệm đều bỏ ngoài tai. Bộ chỉ huy Pháp chịu trách nhiệm về việc thi hành các Hiệp định Genève lại là kẻ đồng lõa.

"Tổ cố định ở Sài Gòn đã có bản báo cáo lên Ủy ban kiểm soát cho biết những máy bay quân sự, bao gồm máy bay của hải quân Hoa Kỳ, thường xuyên đến sân bay Sài Gòn. Tổ không bao giờ được báo trước về tất cả những chuyến bay đi và đến này. Phái đoàn liên lạc của phía Pháp biết rõ họ có nhiệm vụ phải báo trước bằng văn bản cho tổ quốc tế chúng tôi khi các máy bay đến, và từ nay trở đi, phái đoàn liên lạc Pháp phải có những biện pháp cần thiết để báo trước cho tổ chúng tôi một cách đầy đủ và chính xác...

Việc kiểm soát sân bay Sài Gòn gặp rất nhiều khó khăn, bởi tổ chúng tôi, trong tháng 8 đã bị hạn chế chỉ được đi lại trong khu vực dành cho VIP (thượng khách) và khu vực máy bay hạ cánh... Thế mà tổ đáng ra phải có quyền kiểm soát những nơi người ta bốc dỡ hàng hóa, bất kể trong khu quân sự hay dân sự..."[23]

Ngày 9 tháng 9 năm 1955, Tướng Võ Nguyên Giáp, tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam, đã gửi đến Chủ tịch Ủy ban kiểm soát quốc tế (CIC) một bản ghi nhớ nêu lên nhiều vụ vi phạm các điều kiện quân sự của các Hiệp định Genève của Hoa Kỳ và chính quyền Diệm. Những tài liệu sau đó được Bộ Tổng chỉ huy quân đội nhân dân Việt Nam gửi đến Ủy ban kiểm soát quốc tế cho biết:

- Năm 1955, 15 chuyến tàu chở vật liệu chiến tranh đã được bốc dỡ xuống cảng Sài Gòn.

- Năm 1956: 82 chuyến.

- Năm 1956: 190 chuyến/[24]

Mỗi chuyến hàng có khi lên đến nhiều nghìn tấn: như chiếc tàu Hoa Kỳ, President Pierce ngày 23 tháng 9 năm 1956, đã bốc dỡ 5000 tấn vũ khí. Có nhiều máy bay hoạt động ở Nam Việt Nam để phục vụ các phái đoàn quân sự, núp dưới danh nghĩa "những máy bay riêng của sứ quán Hoa Kỳ".

Đồng thời với việc xây dựng bộ máy quân sự ở Nam Việt Nam, ngày 1 tháng 3 năm 1955, Hoa Kỳ ký với Lào một hiệp định viện trợ kinh tế và quân sự, ngày 11 tháng 3, ký một hiệp định viện trợ quân sự với Campuchia. Do quốc gia này sau đó ít lâu hướng đến chính sách trung lập, cho nên họ đã phải hứng chịu đủ mọi thứ áp lực về kinh tế, quân sự từ các nước láng giềng là Thái Lan và Nam Việt Nam, còn Lào thì vì nằm trong tay các nhóm thân mỹ, được Mỹ chu cấp dồi dào tiền nong, ra sức tìm cách thanh toán các lực lượng Pathet Lào, cho nên, trong những năm sau đó, đất nuwocs này cũng phải trải qua một thời kỳ lịch sử bi thảm, chẳng kém gì Nam Việt Nam.
______________________________
[23]Trích báo cáo số 5 của Ủy ban kiểm soát quốc tế CIC (thời kỳ từ 11 tháng 8 đến 10 tháng 12 năm 1955).

[24] Những ý đố của chủ nghĩa đế quốc ở Việt Nam chống hòa bình và thống nhất. Công bố của Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top