Chuyên đề : Lịch sử Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội

Thăng Long tứ trấn

Thăng Long tứ trấn

Về cụm từ “Thăng Long tứ trấn” hiện vẫn tồn tại hai cách hiểu:

I. Đó là bốn ngôi đền thiêng trấn giữ bốn mặt kinh thành Thăng Long (theo tín ngưỡng dân gian) gồm:

1. Đền Trấn Vũ ở phía Bắc.
2. Đền Kim Liên ở phía Nam.
3. Đền Bạch Mã ở phía Đông .
4. Đền Voi Phục ở phía Tây.


II. Đó là bốn kinh trấn hay còn gọi là nội trấn (ngoài ra là các phiên trấn) bao quanh kinh thành Thăng Long, có nhiệm vụ che chắn, bảo vệ kinh thành ngay từ vòng ngoài khi kinh thành trực tiếp bị đe doạ. Ngoài ra, vì ở gần kinh thành nên bốn kinh trấn còn là những lực lượng có nhiệm vụ “cứu giá” và dẹp yên nội loạn khi kinh thành có biến. Đó là các trấn:

1) Kinh Bắc.
2) Sơn Nam.
3) Hải Dương.
4) Sơn Tây.


Vậy cách hiểu nào là đúng, cách hiểu nào là sai? Để tìm lời đáp cho câu hỏi này, trước hết chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về bốn ngôi đền và bốn kinh trấn được nói trên.

I. Tứ trấn (4 ngôi đền):

1. Đền Trấn Vũ (thường gọi là đền Quán Thánh): Nằm ở đường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Thờ Trấn Thiên Chân Vũ đại đế, người đã có công giúp An Dương Vương (257 – 179 TCN) trừ yêu tà khi xây thành Cổ Loa. Năm 1010, cùng với việc dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho rước bài vị của thần từ Cổ Loa về thờ ở đây. Vì đền ở phía Bắc kinh thành nên còn gọi là trấn Bắc hay trấn Khảm (Khảm, theo bát quái thuộc phương Bắc).

2. Đền Kim Liên: Xưa thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương; nay thuộc phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Thờ Cao Sơn đại vương, tương truyền là một trong số 50 người con trai đã theo mẹ Âu Cơ lên rừng, sau khi Âu Cơ chia tay với Lạc Long Quân. Lúc đầu đền chỉ được xây dựng đơn giản bằng tranh tre, nứa lá, nhưng sau đó nhờ có công âm phù giúp vua Lê Tương Dực (1509 – 1516) từ Thanh Hoá kéo ra kinh thành Thăng Long dẹp yên nội loạn, nên đền đã được trùng tu lớn vào năm 1509 (bài văn bia do Lê Tung soạn, hiện vẫn còn ở đây, có nói về việc này). Vì đền ở phía Nam kinh thành, nên còn gọi là trấn Nam hay trấn Ly (Ly, theo bát quái thuộc phương Nam).

3. Đền Bạch Mã: Xưa thuộc phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, nay đền ở số 3 phố Hàng Buồm, thành phố Hà Nội. Thờ thần Long Đỗ, hiệu là Quảng Lợi Bạch Mã đại vương. Tương truyền, đời Đường Ý Tông (860 – 874), Cao Biền đắp thành Đại La. Một hôm, Biền dạo xem phía ngoài cửa Đông thành, bỗng thấy một dị nhân cưỡi rồng đỏ, tay cầm giản vàng, có mây ngũ sắc bao quanh, bay lên lượn xuống trên mặt thành. Vốn giỏi thuật phong thuỷ, Biền liền lập đàn, đồng thời cho lấy nghìn cân sắt đúc tượng phỏng theo hình dạng thần và dùng “kim đồng thiết phù” để yểm, nhưng bị thần phá được. Người đời nhân đó liền lập đền thờ để cầu thần phù hộ. Về sau, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, cho tu sửa thành Đại La, nhưng công việc trầy trật mãi không xong! Vua thân đến đền cầu đảo thì thấy một con ngựa trắng từ trong đền đi ra, phi một vòng quanh thành, đánh dấu những chỗ cần phải xây. Nhờ đó thành xây xong. Vua thân đến đền cầu đảo thì thấy một con ngựa trắng từ trong đền đi ra, phi một vòng quanh thành, đánh dấu những chỗ cần phải xây. Nhờ đó thành xây xong. Vua liền sắc phong cho thần là Quốc Đô Thành Hoàng đại vương, hiệu là Quảng Lợi Bạch Mã tối linh thượng đẳng thần. Vì đền ở phía Đông kinh thành, nên còn gọi là trấn Đông hay trấn Chấn (Chấn, theo bát quái thuộc phương Đông).

4. Đền Voi Phục (đúng ra là đền Thủ Lệ): Xưa thuộc trại Thủ Lệ, phường Thi Trai, huyện Vĩnh Thuận; nay nằm cạnh vườn thú Thủ Lệ, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Thờ hoàng tử Linh Lang, con của vua Lý Thái Tông (1028 – 1054) và bà phi thứ 9 Dương Thị Quang, nhưng tương truyền vốn là con của Long Quân, tên gọi là Hoàng Châu thác sinh. Là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống và đã hi sinh trên phòng tuyến sông Cầu vào năm 1076. Sau khi mất, được người dân Thủ Lệ lập đền thờ và được nhà vua sắc phong là Linh Lang đại vương thượng đẳng phúc thần. Thần đã nhiều lần âm phù giúp nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông và nhà Lê trong cuộc Trung hưng. Vì trước cửa đền có đắp hai con voi quỳ, nên quen gọi là đền Voi Phục và vì đền ở về phía tây kinh thành, nên còn gọi là trấn Tây hoặc trấn Đoài (Đoài, theo bát quái thuộc phương Tây).

II. Tứ trấn (4 kinh trấn hay nội trấn):

Năm Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490), vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ cả nước, gồm 13 xứ thừa tuyên (sau đổi là trấn). Đến đây mới xuất hiện tên gọi các trấn như: Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương, Sơn Tây. Theo đó:

1. Trấn Kinh Bắc gồm 4 phủ (20 huyện) bao gồm các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và Phúc Yên sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du, Võ Giàng, Quế Dương (5 huyện - thuộc phủ Từ Sơn); Gia Lâm, Siêu Loại, Văn Giang, Gia Định, Lang Tài (5 huyện - thuộc phủ Thuận An); Kim Hoa, Hiệp Hoà, Yên Việt, Tân Phúc (4 huyện - thuộc phủ Bắc Hà), và cuối cùng là: Phượng Nhãn, Hữu Lũng, Yên Dũng, Bảo Lộc, Yên Thế, Lục Ngạn (6 huyện - thuộc phủ Lạng Giang). Vì trấn lỵ ở Đáp Cầu, huyện Võ Giàng (phía Bắc kinh thành), nên Kinh Bắc cũng được gọi là trấn Bắc hay trấn Khảm.

2. Trấn Sơn Nam gồm 11 phủ (42 huyện), tương đương với các tỉnh: Hà Đông, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Hưng Yên sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú Xuyên (3 huyện - thuộc phủ Thường Tín); Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An (4 huyện - thuộc phủ Ứng Thiên); Nam Xang, Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục (5 huyện - thuộc phủ Lý Nhân); Đông An, Kim Động, Tiên Lữ, Thiên Thi, Phù Dung (5 huyện - thuộc phủ Khoái Châu); Nam Chân, Giao Thuỷ, Mỹ Lộc, Thượng Nguyên (4 huyện - thuộc phủ Thiên Trường); Đại An, Vọng Doanh, Thiên Bản, Ý Yên (4 huyện - thuộc phủ Nghĩa Hưng); Thuỵ Anh, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Đông Quan (4 huyện - thuộc phủ Thái Bình); Ngự Thiên, Duyên Hà, Thần Khê, Thanh Lan (4 huyện - thuộc phủ Tân Hưng); Thư Trì, Vũ Tiên, Chân Định (3 huyện - thuộc phủ Kiến Xương); Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang (3 huyện thuộc phủ Trường An); và cuối cùng là: Phụng Hoá, An Hoá, Lạc Thổ (3 huyện - thuộc phủ Thiên Quan). Vì trấn lị ở phía Nam kinh thành, nên Sơn Nam cũng được gọi là trấn Nam hay trấn Ly.

3) Trấn Hải dương gồm 4 phủ (18 huyện), bao gồm các tỉnh: Hải Dương, Hải Phòng và Kiến An sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Đường Hào, Đường An, Cẩm Giàng (3 huyện - thuộc phủ Thượng Hồng); Gia Phúc, Tứ Kỳ, Thanh Miện, Vĩnh Lại (4 huyện - thuộc phủ Hạ Hồng); Thanh Hà, Thanh Lâm, Tiên Minh, Chí Linh ( 4 huyện - thuộc phủ Nam Sách); và cuối cùng là: Giáp Sơn, Đông Triều, An Lão, Nghi Dương, Kim Thành, Thuỷ Đường, An Dương (7 huyện - thuộc phủ Kinh Môn). Vì trấn lị ở phía Đông kinh thành, nên Hải Dương cũng được gọi là trấn Đông hay trấn Chấn.

4) Trấn Sơn Tây gồm 6 phủ (24 huyện), tương đương với các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên, và Sơn Tây sau này. Cụ thể, đó là các huyện: Từ Liêm, Phúc Lộc, Yên Sơn, Thạch Thất, Đan Phượng (5 huyện - thuộc phủ Quốc Oai); An Lãng, An Lạc, Bạch Hạc, Tiên Phong, Lập Thạch, Phù Khang (6 huyện - thuộc phủ Tam Đái); Sơn Vi, Thanh Ba, Hoa Khê, Hạ Hoà (4 huyện - thuộc phủ Lâm Thao); Đông Lan, Tây Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương (5 huyện - thuộc phủ Đoan Hùng); Tam Nông, Bất Bạt (2 huyện - thuộc phủ Đà Dương); và cuối cùng là: Mỹ Lương, Minh Nghĩa (2 huyện - thuộc phủ Quảng Oai). Vì trấn lị ở phía Tây kinh thành, nên Sơn Tây cũng được gọi là trấn Tây hay trấn Đoài.

Đến đây chúng ta có thể thấy cho đến trước năm 1490, các trấn Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương và Sơn Tây chưa được biết đến như một đơn vị hành chính (mà cụ thể ở đây là đơn vị “trấn” trong trường hợp đang xét). Điều đó cũng đồng nghĩa với việc cho đến trước năm 1490, nội hàm của cụm từ “Thăng Long tứ trấn” chỉ là để chỉ bốn ngôi đền: Trấn Vũ, Kim Liên, Bạch Mã và Voi Phục; còn “tứ trấn” với nghĩa là bốn kinh trấn: Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương và Sơn Tây là nghĩa phái sinh sau năm 1490. Như vậy, vấn đề cách hiểu nào đúng, cách hiểu nào sai (được đặt ra ở đầu bài viết) lại được đặt ra với chính từ “trấn” (Nghĩa gốc và nghĩa phái sinh). Trong từng trường hợp cụ thể, nếu “trấn” (trong cụm từ “Thăng Long tứ trấn”) được hiểu theo nghĩa gốc thì đó là bốn ngôi đền, còn nếu được hiểu theo nghĩa phái sinh thì đó là bốn kinh trấn./.

---------------------------------
Tài liệu tham khảo:
- Việt sử thông giám cương mục (Quốc Sử Quán triều Nguyễn – NXB Văn Sử Địa – Hà Nội 1957, 1958, 1959).
- Đại Nam nhất thống chí (Quốc Sử Quán triều Nguyễn – NXB Khoa học xã hội – Hà Nội, 1971).
- Từ điển địa danh lịch sử văn hoá Việt Nam (Nguyễn Văn Tân – NXB Văn hoá thông tin – Hà Nội, 1998).

Theo Phùng Thành Chủng
Nguồn: VCV​
 
THĂNG LONG-HÀ NỘI, MỘT KHÔNG GIAN CHO NHỮNG CẤU TỨ THƠ VĂN​

Lại Nguyên Ân​

Tôi thường nghe người chung quanh nói điều này, vừa như khẳng định, vừa như đòi cắt nghĩa: Làm sao mà nhiều bài hát hay về Hà Nội đến thế, hơn hẳn các địa danh khác trong nước?

Làm sao ư? Điều này tưởng dễ cắt nghĩa, vậy mà cũng chẳng dễ chút nào. Từ thời là thành Tống Bình, thành Đại La, rồi trở thành kinh đô Thăng Long của nhà Lý nhà Trần, Đông Đô của nhà Lê, đất Hà Nội đã là trung tâm đời sống chính trị, xã hội và văn hoá của Đại Việt. Ngay khi Hà Nội chỉ còn là cố đô trong suốt triều Nguyễn, tại miền Bắc cũng không có một trung tâm thứ hai nào ngoài Hà Nội. Những ai muốn lập công, lập thân, lập danh, trước sau đều phải lần lượt đến mảnh đất này thử tài, thử chí, thử vận may. Dấu chân các danh tài, danh sĩ, thời này qua thời khác, ngày nọ nối ngày kia, dẫm chồng lên nhau trên đất Thăng Long-Hà Nội. Mọi cảnh quan nơi đây đều được nhìn kỹ, nhìn lâu, nhìn nhiều hơn ở mọi nơi khác. Các địa danh từ chỗ là những ký hiệu địa lý thuần tuý, khi đi vào ký ức, dần dần tích luỹ vào mình những hàm nghĩa tinh thần, trở thành ký hiệu về những không gian huyền thoại truyền kỳ, hoặc chí ít cũng 1à không gian trữ tình, không gian kỷ niệm… Cảnh rừng cây rậm rạp và mặt nước mênh mông vùng Hồ Tây thời Lý-Trần đã khơi nên những huyền thoại về vũng Trâu Vàng, đầm Xác Cáo. Sương mù dày đặc trên hồ trở thành đồng loã với âm mưu thanh trừng Tiến sĩ Lê Văn Thịnh trong truyền thuyết về viên quan hoá hổ dọa vua. Đến thời Lê, sinh hoạt của con người đã tiến sát tới mép hồ ở nhiều phía, khiến Thánh mẫu Liễu Hạnh xuất hiện nơi đây trong những dáng vẻ đã khá gần với thế gian, như một kỳ nữ cùng ngâm vịnh trên du thuyền với các danh sĩ, như một nữ chủ quán bí ẩn hấp dẫn khách văn chương.

Giao tiếp trong không gian đô thị tạo cơ hội cho những gặp gỡ ít thấy ở không gian thôn xã. Trai thanh gái lịch gặp nhau ngẫu nhiên trên đường phố, trong lễ hội, hai cặp mắt soi vào nhau, hai tấm lòng rung động, rồi hội tan người khuất, chưa kịp biết tên nhau, chưa kịp hỏi nhà nhau, sự thiếu thông tin ngay trong không gian gần gũi dường như tăng nhiệt độ cho những cơn sốt ái tình.

Có ai ngờ cái ngòi nước đen đúa tanh tưởi bên phố Cát Linh bây giờ, vài thế kỷ trước từng mang cái tên đẹp: Con Ngòi Biếc − “Bích Câu”. Có lẽ tại một điểm nào đấy gần đền Bích Câu bây giờ, trong một truyện truyền kỳ, chàng Tú Uyên đã thoáng thấy bóng một mỹ nhân và vội bám gót nàng, nhưng đến Quảng Văn Đình thì người đẹp mất hút. Quảng Văn Đình tức là chỗ chợ Cửa Nam bây giờ, thời ấy chưa thành chợ, chưa có những bát trận đồ của những hàng bún nem bún chả bún ốc bún ngan, những siêu thị với giày dép áo quần mỹ phẩm... làm hút bóng giai nhân trước cặp mắt dõi tìm của các chàng trai. Tiên nữ Giáng Kiều biến mất chỉ để chàng Tú Uyên tương tư mất ăn mất ngủ, phải tìm tới đền Bạch Mã xin thẻ và được một lời hẹn vu vơ tại chợ Cầu Đông, ở đấy có bày bán bức tranh tố nữ với hình dung giống như người đẹp đã gặp. Chàng mua tranh về treo ở thư phòng mình. Tiên nữ, giống như cô Tấm, từ tranh bước ra để kẻ tiên người tục gặp nhau trong một mối tình vừa khác lạ vừa tương tự cuộc sống cõi trần.

Thăng Long từ thời Lê-Trịnh trở về trước là một không gian gồm hai mảng: cuộc sống trong thành và cuộc sống ngoài phố, tuy cách biệt mà vẫn liên hệ chặt chẽ. Sinh hoạt trong thành cần đủ loại dịch vụ từ ngoài phố, là một phần lý do tồn tại của cuộc sống ngoài phố. Nhưng cuộc sống ngoài phố cũng có màu sắc riêng, có sức hấp dẫn riêng.

Đối với những du khách xa xứ đến Thăng Long thời Lê-Trịnh, như trường hợp Alexandre de Rhodes, cái hấp dẫn của vùng ngoại vi là hơn hẳn trong thành nội. Lúc ông mới đến, chúa Trịnh Tráng cho ông ở trong thành, nhưng ông xin được ở ngoài phố. Về sau chúa Trịnh nghe lời dèm, buộc ông rời Thăng Long xuống vùng Ninh Bình, nhưng De Rhodes bí mật trở lại, trú ngụ ở quãng Bạch Mai, Phố Huế ngày nay để truyền đạo. Thông qua một cậu bé 12 tuổi, ông ghi nhận, miêu tả ngữ âm và thu nhặt từ vựng tiếng Việt. Chữ quốc ngữ, như A. de Rhodes mô tả trong cuốn từ điển in năm 1651 ở Roma, đã chủ yếu dựa trên ngữ âm Đàng Ngoài, dựa trên tiếng Việt của người vùng kẻ chợ Bắc Hà.

Bước vào thế kỷ XX, Hà Nội đã thôi là kinh đô quốc gia đến ngót một thế kỷ, cuộc sống phố xá đã thu hút người ta hơn hẳn cuộc sống trong thành. Ít ai được thấy cung điện cũ thời vua Lê: khu ấy đã thành nơi đồn trú của quân Pháp.

Người ta nhắc đến Hà Nội với khu trung tâm mới quanh Hồ Gươm, với nhà hát Tây, nhà giây thép (tức bưu điện), ga xe lửa, vườn bách thú, với phố ta Hàng Ngang, Hàng Đào, Khâm Thiên, Bạch Mai, với các phố tây dài rộng, chạy song song từ phía ga xe lửa đổ ra phía bờ sông Cái… Lớp trai trẻ bước ra đời từ các trường Pháp-Việt sống với một Hà thành như thế. Và “Hà thành hoa lệ”, như câu nói của thanh niên khắp đất Bắc đương thời, đi vào thơ văn với rất nhiều màu sắc, với những biểu tượng mới.

It nơi nào dồn tụ nhiều người làm thơ viết văn như đất Hà thành. Cảnh sống thực của họ và cuộc sống trong thơ văn họ là hai thứ khác nhau.

Người trong giới, lại là “con nhà nòi” như Nguyễn Nhược Pháp, đã hình dung các đám “văn nhân tài tử mươi lăm người” tụ bạ trên những căn gác nhỏ trong ngõ hẻm lầy bùn.

“Sờ bụng không cơm, chìa khuỷu rách
Nhìn trời, họ nhẩm mấy vần thơ
Rồi họ mê đời yêu họ quá
Tri âm là muôn ngàn tim thơ
Rồi mơ đến Bồng Lai cảnh lạ
Song vào Đông Hưng Viên đang chờ!”

Nụ cười của Nguyễn Nhược Pháp là nụ cười thông cảm, thân ái. Đám người của thơ văn ấy còn rất trẻ. Cái khổ cái nghèo, chuyện cơm áo chưa là gì đối với họ. Dẫu từ “chân quê” tới đây hay sinh ra tại đây, họ vẫn bị hớp hồn bởi các thiếu nữ Hà thành, bấy giờ được nhà Cát Tường tô điểm cho một nét lãng mạn mới với kiểu áo dài Le Mure. Những “áo trắng đơn sơ mộng trắng trong” (thơ Huy Cận), những “cô em thơ thẩn đứng bên hồ” trong thơ Thế Lữ, Huy Thông, những “tiên nữ”, “kỳ nữ”, “người gái muôn đời” trong thơ Đinh Hùng, hẳn đều được gợi ý từ bóng dáng xa gần của thiếu nữ Hà Nội đương thời. Gặp lúc thuận lợi, chàng si sấn đến với một câu đố bằng thơ, cốt để làm quen:

“Nhà nàng ở gốc cây mai trắng
Trên xóm mai vàng, dưới đế kinh”

Nghĩa là nhà cô em ở Bạch Mai (mai trắng) phía trên Hoàng Mai (mai vàng), phía dưới phố Huế (“đế kinh”)! Một câu thơ ẩn các địa danh Hà Nội.
Có lần tôi và một ông bạn ngồi suông trong đêm vắng trước cửa bệnh viện Saint Paul chờ tin ca mổ một người bạn khác. Ông bạn trỏ cho tôi ngôi biệt thự cũ chìm trong vòm cây bên kia đường: Thấy không? nơi ấy đấy, ngôi nhà có cái cô, à không, giờ phải gọi là bà, đã từng khiến Vũ Hoàng Chương viết nên khúc ca Mười hai tháng sáu não nuột:

“Là thế! Là thôi! Là thế đó!
Mười năm thôi thế mộng tan tành!”

Tôi chẳng biết có thể tin vào ông bạn vong niên hay không. Và ví thử làm được những “ghi chú xuất xứ” cho những bài thơ “tình mất”, các địa danh Hà Nội sẽ phải được chi tiết hoá đến thế nào: tên phố, số nhà, số tầng...? Nhưng mà các tên riêng, kể cả tên người, đi vào thơ văn, không chắc là tên thật.
Hồi bài thơ Hai sắc hoa ty-gôn xuất hiện trên mặt báo Hà Nội với tên tác giả ký tắt là T.T.Kh., những người như Thâm Tâm, Nguyễn Bính đã bồi thêm những nét thơ gợi những địa danh, những sự việc dường như có thực, tạo cho công chúng cái ảo giác về một câu chuyện thương tâm, cảm động ẩn sau các bài thơ.

Những là:

Vườn Thanh qua đấy năm xưa,
Trọ nhờ đêm ấy giời mưa tối trời.

Những là:

Chuyện xưa hồ lãng quên rồi
Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh!

Những là:

“Đường về Thanh Hoá bao xa …”

như là nối liền với địa chỉ của nữ tác giả có cái tên ký tắt kia. Nhưng Thâm Tâm đã bảo Tô Hoài: “Thanh” là Thanh Giám, tức là vùng sau ga Hàng Cỏ, sau phố Khâm Thiên. Trong thơ của nhóm Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, địa danh ấy cũng tựa như “gác Sơn Nam”: nó không ở Phủ Lý hay Nam Định mà ở ngay Hà Nội. Những cái tên quy ước riêng trở nên lấp lửng trước công chúng, kích thích những liên tưởng, những dò đoán, làm hình thành những giai thoại.

Hà thành trong các tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn là Hà thành của những vận động giải phóng cá nhân khỏi đạo lý của đại gia đình gia trưởng. Hà thành trong phóng sự và tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng là một xã hội đang phải đối mặt với những hậu quả của đô thị hoá, của sự tha hoá nhân cách. Cảm quan về một cuộc sống đô thị thực dân hoá, hỗn tạp, bát nháo, đầy những đam mê, những bạo lực, thấm nhuần từng trang viết của nhà văn tài nâng và yểu mệnh, đã sinh ra và nằm xuống trên đất Hà Nội.

Ở thời của các nhà văn “tiền chiến” này bước vào đời, Hà Nội đã không còn tháp Báo Thiên. Câu chuyện đài Cửu Trùng thời nhà Lê chưa xây xong đã bị phá, − câu chuyện ấy chỉ còn lại vài chữ trong sử cũ. Nguyễn Huy Tưởng đã làm sống lại câu chuyện xây đài như làm sống lại một mơ ước, một tiếc nuối. Trên Thăng Long đã không thành tựu một kỳ đài quốc gia, kẻ sĩ chí lớn thì lâm vào một bi kịch khôn giải.

Những năm 1940, Hà thành thực tại, đi vào Mê hồn ca của Đinh Hùng, trở thành một “hiện tại đô thị” đáng bị đập phá, phế bỏ, để gọi về đây một thiên nhiên hoang sơ, man dại, để tìm lại thứ “hương trinh bạch” thuở hồng hoang, hoặc trở về một thời huyền sử với niềm hân hoan kỳ quặc giống như lời lảm nhảm tiên tri:

Thời đại hoàng kim đã phục hồi
Ta mừng bạo chúa sắp lên ngôi.
Tìm thơ vương giả, xuân lưu huyết,
Mê dáng cung phi, nước ngậm cười.

Thế giới đương thời trong đại chiến khét lẹt mùi súng đạn và tử thi đã làm nảy sinh trong óc nhà thơ những ảo cảnh kinh dị

Những năm 1940, Hà thành trong con mắt Thâm Tâm “Thăng Long đất lớn chí tung hoành” vẫn là chỗ phải ra đi. Lại vẫn bóng dáng một kẻ sĩ lãng mạn in trên sông nước Thăng Long.

Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không

Những năm 1940, cảm quan về sự thay đổi phát lộ qua lời thơ của những thi sĩ mẫn cảm. Rồi những đổi thay đã tới. Nhưng đất Thăng Long-Hà Nội vẫn còn đó, như một không gian địa lý thực tại và như một không gian tinh thần luôn luôn được bồi thêm các sắc thái ngữ nghĩa, cung cấp chất liệu và dung chứa những kết quả sáng tạo.

Nguồn: Người Hà Nội (nguyệt san, bộ mới), số 4 (tháng 4/2000)
 
Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội (từ năm 1991 đến năm 2000)

Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội (từ năm 1991 đến năm 2000)

Năm 1991

Từ 25 đến 29-4
- Đại hội đại biểu lần thứ XI (vòng 1) Đảng bộ thành phố, 548 đại biểu về dự Đại hội đã đóng góp ý kiến vào dự thảo Văn kiện chuẩn bị trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Ngày 16-11-1991.

- Đại hội đại biểu lần thứ XI (vòng 2) khai mạc; 438 đại biểu chính thức thay mặt cho 138.794 đảng viên toàn Đảng bộ thành phố.
Đại hội đánh tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X. Trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế, trong nước, những yêu cầu khách quan đang đặt ra trước Đảng bộ và nhân dân thủ đô trước bước đường đổi mới. Đại hội đặt ra 5 mục tiêu tổng quát:
- Bảo đảm ổn định về chính trị, giữ vững an ninh - quốc phòng, tạo chuyển biến rõ rệt về trật tự đô thị và an toàn xã hội.
- Phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, từng bước ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần nhân dân.
- Tăng cường xây dựng và quản lý đô thị.
- Nâng cao dân trí, xây dựng nếp sống văn minh, thanh lịch, gia đình văn hóa, kiên quyết đấu tranh có hiệu quả chống tham nhũng và tiêu cực xã hội.
- Phát huy dân chủ XHCN đi đôi với tuân thủ pháp luật, kỷ cương xã hội, đổi mới tổ chức và cán bộ, nâng cao vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng, hiệu lực của Chính quyền các cấp và hoạt động của các đoàn thể quần chúng.
Đại hội đã bầu 51 ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ. Tại phiên họp thứ nhất, Ban Chấp hành Đảng bộ bầu 12 đồng chí vào Ban Thường vụ; đồng chí Phạm Thế Duyệt được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Lê Xuân Tùng, đồng chí Phạm Lợi làm Phó Bí thư.

Ngày 12-8
- Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 9 từ ngày 27-7 đến 12-8 đã phê chuẩn địa giới hành chính mới của thành phố Hà Nội, có 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành (Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì); 5 huyện (Đan Phượng, Hoài Đức, Thạch Thất, Phúc Thọ, Ba Vì) và thị xã Sơn Tây được bàn giao về tỉnh Hà Tây (tại kỳ họp Quốc hội đã quyết định tách tỉnh Hà Sơn Bình thành 2 tỉnh: Hà Tây và Hòa Bình).

Năm 1992
Ngày 13-4
- Hội nghị lần thứ 3 Thành ủy đã thông qua Chương trình 05 “Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội Thủ đô” với mục tiêu “Giữ vững ổn định chính trị ở Thủ đô trong mọi tình huống, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động diễn biến hòa bình của địch…”.
Ngay sau khi ban hành Chương trình 05, Thành ủy làm việc với các đồng chí Bí thư Đảng ủy khối các cơ quan, Bí thư Đảng ủy các bộ ngành trung ương và Bí thư Đảng ủy các quân binh chủng đóng trên địa bàn để thông báo nội dung chương trình và bàn kế hoạch phối hợp hoạt động.

Tháng 4

- Thành ủy sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 8B của Trung ương, đánh giá tình hình các tầng lớp nhân dân, công tác dân vận của Đảng, Chính quyền, Mặt trận các đoàn thể. Hội nghị đề ra những giải pháp cụ thể nhằm giải quyết việc làm và đời sống của người lao động, gắn lợi ích và nguyện vọng của hội viên với hoạt động chung của đoàn thể; đổi mới tổ chức bộ máy và phương hướng hoạt động của Mặt trận tổ quốc, phát huy chủ nghĩa yêu nước của toàn dân trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Ngày 5-5

- Thành ủy đề ra Chương trình 06 “Kinh tế ngoại thành và xây dựng nông thôn mới Thủ đô”. Chương trình nêu rõ thực trạng nông nghiệp và nông thôn ngoại thành sau khi thực hiện Khoán 10 - những khuyết điểm còn tồn tại, những khuyết điểm riêng của ngoại thành; đề ra phương hướng, mục tiêu, biện pháp phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới Thủ đô (1992-1995).

Ngày 19-7

- Cử tri Thủ đô đã bầu các đại biểu Quốc hội khóa IX đảm bảo dân chủ an toàn, đúng luật.

Ngày 4-12

- Ủy ban Nhân dân thành phố đã sơ kết, đánh giá kết quả bước đầu của Chương trình 06 và bổ sung những giải pháp lãnh đạo, đầu tư vốn, phát triển thủ công nghiệp, đào tạo cán bộ xã để đẩy mạnh kinh tế ngoại thành.

Ngày 28-12

- Thành ủy họp Hội nghị lần 6 đánh giá tình hình kinh tế - xã hội thành phố năm 1992, khẳng định: Thành phố giữ vững ổn định chính trị, tiến hành có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Kinh tế có bước chuyển biến khá, thu nhập trong nước trên địa bàn tăng 21%, riêng Hà Nội tăng 19,5% so với 1991. Cơ cấu kinh tế bước đầu có sự chuyển dịch tích cực. Sản xuất nông, lâm nghiệp phát triển toàn diện, sản lượng lương thực tăng 30%, đàn lợn tăng 10,3%, đàn bò sữa tăng 20,8%, diện tích trồng rừng tăng 40% so với năm 1991.

Năm 1993
Ngày 12-1
- Thành ủy đề ra Chương trình 18 “Sắp xếp lại sản xuất kinh doanh trên địa bàn Hà Nội”. Thực hiện Chương trình 18, UBND thành phố thành lập Tiểu Ban Chỉ đạo thành phố về đổi mới doanh nghiệp, có kế hoạch chỉ đạo các sở, ngành, quận, huyện tiếp tục sắp xếp lại các đơn vị sản xuất kinh doanh; giải thể những đơn vị thua lỗ, sáp nhập đơn vị sản xuất kinh doanh hiệu quả kém vào các đơn vị làm ăn khá. Đến cuối năm 1993, trên địa bàn Thành phố có 1.012 doanh nghiệp quốc doanh, 888 doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

- Nông nghiệp ngoại thành tiếp tục thực hiện Chương trình 06 của Thành ủy. Sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 209.907 tấn năm 1990 lên 244,244 tấn năm 1993, tăng 16%. Diện tích đất trồng hoa và cây ăn quả ngày càng tăng đưa giá trị sản lượng hàng hóa dịch vụ đạt 14,9 triệu đồng /ha canh tác năm 1991 lên 21,3 triệu đồng trong năm 1993. Do đó, đời sống của nông dân bước đầu được cải thiện. Số hộ nghèo giảm từ 9,17% (1990) xuống còn 5,83% (1993).

Cơ cấu kinh tế trên địa bàn chuyển dịch theo hướng công nghiệp - thương nghiệp, du lịch, dịch vụ - nông nghiệp. Sự khởi sắc của kinh tế Thủ đô có đóng góp to lớn của đội ngũ công nhân viên chức, nông dân - lực lượng trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh.

Ngày 4-2
- Thành ủy đề ra Chương trình 20 nhằm vạch những mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản cho công tác quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, trong những năm cuối thế kỷ XX. Chương trình 20 hướng vào giải quyết các chương trình trọng tâm: lập quy hoạch tổng thể toàn Thành phố và quy hoạch chi tiết các quận; tập trung đầu tư xây dựng mới các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật và môi trường đô thị.

Ngày 10-4
- Hội đồng Nhân dân thành phố khóa X ra Nghị quyết số 51; tiếp đó UBND thành phố thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình 20 và kế hoạch tổ chức triển khai.

Từ tháng 5 đến tháng 8
- Ủy ban Nhân dân (UBND) thành phố chỉ đạo các ngành, UBND các quận, huyện tổ chức kiểm tra và quản lý sử dụng đất. Ngày 18-8-1993, Ban Thường vụ Thành ủy nghe UBND thành phố báo cáo kết quả kiểm tra và xử lý các vụ vi phạm, yêu cầu các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, các đoàn thể phải đưa việc quản lý đất đai vào nề nếp, xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm Luật đất đai.

Ngày 16-9
- Thành ủy họp với các đồng chí Thường vụ quận, huyện ủy phụ trách công tác dân vận, trưởng các đoàn thể và một số ban, ngành của Thành phố để xác định rõ trách nhiệm cụ thể với thanh niên trên các mặt: giáo dục đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu vui chơi lành mạnh, giáo dục thanh thiếu niên chậm tiến, phạm pháp.

Ngày 17-9

- Trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ Hà Nội được thành lập trên cơ sở sáp nhập 3 trường: trường Đảng Lê Hồng Phong, trường Quản lý Nhà nước thành phố, trường Đoàn Trung cấp thành phố.

Năm 1994
Từ 27 đến 29-1
- Thành ủy họp Hội nghị lần thứ 14 để kiểm điểm công tác, bảo đảm an ninh trật tự ở Thủ đô 3 năm (1991-1993), đánh giá tình hình kinh tế - xã hội năm 1993 và đề ra phương hướng năm 1994.
- Trong 3 năm, lực lượng công an và các ngành chức năng đã khám phá 945 vụ án kinh tế, xử lý 298 đối tượng, thu hồi cho ngân sách 4.262.000 đồng. Công an và hải quan cửa khẩu phát hiện và xử lý hơn 200 trường hợp người nước ngoài vi phạm các quy định xuất nhập cảnh.

Ngày 31-1

- Thành ủy ra Chỉ thị 19 về “Tăng cường chỉ đạo triển khai thi hành luật đất đai và luật thuế sử dụng thuế nông nghiệp”.

Ngày 3-3

- Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 84/TTG về “Chấn chỉnh tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh khu vực hợp tác xã tiểu - thủ công nghiệp”. Thực hiện Chỉ thị, UBND thành phố và Sở Công nghiệp tổ chức “Hội nghị sơ kết thí điểm xây dựng hợp tác xã công nghiệp cổ phần”. Hội nghị khẳng định: thành công của việc thí điểm không chỉ giới hạn ở phạm vi củng cố và phát triển ở từng hợp tác xã mà hơn thế, còn đóng góp, giới thiệu với Đảng và Nhà nước một mô hình hợp tác xã đổi mới.
- Đến tháng 10-1994, toàn Thành phố có 134/272 hợp tác xã sản xuất kinh doanh tương đối ổn định

Từ 29 đến 31-3

- Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đảng bộ thành phố, với sự tham gia của 220 đại biểu. Báo cáo chính trị trình trước Hội nghị nêu bật những thành tựu to lớn của Đảng bộ và nhân dân Thủ đô trong việc thực hiện Nghị quyết đại hội lần thứ XI: kinh tế phát triển tương đối toàn diện với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đạt mức tăng trưởng khá; chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội có tiến bộ; cơ sở hạ tầng đô thị bước đầu được hiện đại hóa; đời sống văn hóa xã hội bước đầu được nâng cao.
Báo cáo cũng chỉ rõ những yếu kém, trách nhiệm trước hết thuộc về lãnh đạo và chỉ đạo của Thành ủy và sự điều hành, tổ chức thực hiện của Chính quyền thành phố.

Báo cáo đề ra những nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa: tiếp tục phát triển kinh tế hành hóa nhiều thành phần, củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh; mở rộng kinh tế đối ngoại; đẩy mạnh công tác quy hoạch đô thị; nâng cao chất lượng văn hóa và tiến bộ xã hội; tăng cường công tác an ninh quốc phòng, đấu tranh chống các thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, củng cố chính quyền các cấp theo hướng xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
- Hà Nội bầu bổ sung 8 ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XI.

Ngày 14-5

- Ủy ban Nhân dân thành phố ra kế hoạch chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung thực hiện những vấn đề bức xúc của đô thị.

Ngày 13-7

- Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo UBND thành phố kiểm tra tại chỗ và xử lý kịp thời các đối tượng vi phạm hành lang bảo vệ đê từ Yên Phụ đến Nhật Tân.

Ngày 14-7

- Chợ Đồng Xuân mới được cải tạo do bị cháy, gây thiệt hạn nghiêm trọng về tài sản của Thành phố và nhân dân. Ngay sáng 15-7-1994, Thường vụ Thành ủy họp khẩn cấp, chỉ đạo UBND thành phố, Sở Công thương, quận Hoàn Kiếm nhanh chóng có các biện pháp khắc phục hậu quả cháy chợ và tổ chức sắp xếp chợ tạm Phùng Hưng để các hộ buôn bán ở chợ Đồng Xuân sớm ổn định kinh doanh.

Ngày 23-8

- Thành ủy ra Chỉ thị cho các cấp, các ngành giải quyết di dân, giải phóng mặt bằng trên các tuyến đường đang mở rộng và xây dựng, vừa quan tâm đảm bảo đời sống của các hộ dân đang ở, vừa đẩy nhanh tiến độ thi công.

Ngày 20-11

- Bầu cử Hội đồng Nhân dân 3 cấp được tổ chức chu đáo, diễn ra thuận lợi, đạt kết quả cao, đảm bảo dân chủ, an toàn, đúng luật; 99,5% cử tri Thành phố đã đi bầu cử ; 84 đại biểu trúng cử Hội đồng Nhân dân thành phố; 314 đại biểu trúng cử Hội đồng Nhân dân cấp huyện, quận, 4908 đại biểu trúng cử Hội đồng Nhân dân cấp phường, xã.

Ngày 15-12

- Hội đồng Nhân dân thành phố họp phiên đầu tiên. Đồng chí Lê Ất Hợi được bầu làm Chủ tịch UBND thành phố.

Ngày 19-12

- Chủ tịch nước công bố danh sách 212 “Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng” người Hà Nội, trong đó có 104 Mẹ còn sống. Ngày 22-12-1994 Thành ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hà Nội đã tổ chức long trọng lễ trao danh hiệu “Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng”. Việc làm này mang ý nghĩa chính trị và tư tưởng, tình cảm sâu sắc, có tác dụng giáo dục, động viên, cổ vũ to lớn trong toàn Đảng bộ và nhân dân.

Năm 1995
Ngày 15-2
- Thủ tướng Chính phủ làm việc với các đồng chí lãnh đạo Thành ủy, UBND thành phố đánh giá kết quả kinh tế - xã hội thành phố năm 1994 và có ý kiến chỉ đạo những việc Thành phố cần tập trung làm trong năm 1995 nhằm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội của Thủ đô.

Ngày 28-2

- Ban Thường vụ Thành ủy ra thông báo chỉ đạo về xử lý vi phạm pháp lệnh đê, thống nhất các việc cần tập trung giải quyết.

Ngày 15-3

- Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ xử lý vấn đề đê “Yên Phụ - Nhật Tân”, Ban Chấp hành Đảng bộ họp đột xuất để thống nhất chủ trương lãnh đạo, các biện pháp cụ thể xử lý những vi phạm, hạ quyết tâm đến ngày 30-6-1995 phải kiên quyết trả lại mặt đê, mái đê và lưu thông hai bên thân đê, cách chân đê 5 mét; kịp thời sửa chữa, tu bổ, đảm bảo độ vững chắc, an toàn của đê.

Ngày 29-3

- Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm việc với Bộ Thủy Lợi và UBND thành phố về việc triển khai cụ thể các phương án xử lý kỹ thuật di chuyển các hộ dân, các công trình trong phạm vi cần giải tỏa.
Sau 3 tháng thực hiện, 202 nhà nằm trong chỉ giới đã tự nguyện tháo dỡ hoàn toàn hoặc một phần. Các chính sách đền bù, hỗ trợ dân di chuyển được Thành phố chỉ đạo thực hiện chu đáo. UBND thành phố tạm ứng 6,5 tỷ đồng cho UBND quận Ba Đình và 6,5 tỷ đồng cho UBND huyện Từ Liêm để chi cho việc hỗ trợ dân di chuyển theo chính sách.

Ngày 13-4

- Ủy ban Nhân dân thành phố ban hành kế hoạch “Cải cách một bước nền hành chính Nhà nước của Thành phố”, trước hết cải cách thủ tục hành chính; điều chỉnh tổ chức và các mối quan hệ trong bộ máy hành chính; xây dựng, đào tạo đội ngũ công chức và cán bộ chính quyền cơ sở. Ban Chỉ đạo cải cách hành chính được thành lập do đồng chí Phó Chủ tịch UBND thành phố làm trưởng ban.

Từ tháng 6

- Ủy ban Nhân dân thành phố tổ chức chế độ giao ban thường kỳ hàng tháng giữa Chủ tịch UBND thành phố với Chủ tịch UBND các quận, huyện để nâng cao trách nhiệm cá nhân, đôn đốc, chỉ đạo những công tác trọng tâm.

Ngày 12-7

- Ủy ban Nhân dân thành phố trình Hội đồng Nhân dân thành phố về việc “Điều chỉnh địa giới hành chính quận, huyện thành phố Hà Nội đến năm 2010” căn cứ vào quy hoạch tổng thể mặt bằng Thành phố đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Ngày 28-10

- Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định thành lập quận Tây Hồ.

Từ quý III

- Thành ủy tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp tổng kết việc thực hiện 8 chương trình công tác của Thành ủy. Ba chương trình kinh tế (06, 13, 18) của Thành ủy được mở đường và tạo sức mạnh tổng hợp cho các thành phần kinh tế Thủ đô phát triển. Gắn với các chương trình kinh tế và đô thị, Thành phố chú trọng chỉ đạo các chương trình văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng. Do đó, văn hóa - xã hội của Thủ đô đã khởi sắc; đời sống tinh thần có nhiều mặt được đổi mới, nâng cao.

Năm 1996

Ngày 30-1
- Ban Thường vụ Thành ủy họp, đánh giá công tác lãnh đạo và chỉ đạo năm 1995 và nhận định: Đảng bộ và nhân dân thủ đô đã thu được thắng lợi to lớn trong việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội do Đại hội XI đề ra. Bên cạnh đó, kinh tế - xã hội thành phố vẫn tồn đọng nhiều hạn chế trên bước đường đổi mới; công tác quản lý Nhà nước trên địa bàn còn nhiều sơ hở, gây hậu quả nghiêm trọng như quản lý đất đai, đê kè, quản lý các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa; cải cách nền hành chính triển khai chậm, các biểu hiện trì trệ do phân công, phân cấp quản lý Thành phố, quản lý cán bộ, quản lý đô thị… chậm được khắc phục.

Ngày 7-5

- Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội khai mạc tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt -Xô, 398 đại biểu đại diện cho 14 vạn đảng viên dự Đại hội. Tổng Bí thư Đỗ Mười thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng về dự và phát biểu với Đại hội. Tổng Bí thư biểu dương Đảng bộ, Chính quyền nhân dân Thủ đô đã cố gắng, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1991-1995 và giao cho Đảng bộ nhiệm vụ: phấn đấu xây dựng Thủ đô xã hội chủ nghĩa giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về an ninh quốc phòng, đẹp về văn hóa, cao về trí tuệ, xứng đáng với vị trí, vai trò là Thủ đô của đất nước trong thời kỳ mới.

Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, đề ra phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của thủ đô Hà Nội, với 5 mục tiêu tổng quát 1996-2000 là:
- Đẩy nhanh hơn nữa nhịp độ tăng trưởng kinh tế
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN
- Tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch và quản lý xây dựng theo quy hoạch
- Cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và văn hóa, môi trường sống của Nhân dân
- Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị.

Ngày 9-5
- Đại hội bế mạc, 51 đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XII, tiêu biểu cho trí tuệ, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên con đường đổi mới.

Ngày 13-5
- Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu 15 đồng chí vào Ban Thường vụ Thành ủy. Đồng chí Lê Xuân Tùng được bầu làm Bí thư thành ủy; các đồng chí Hoàng Văn Nghiêm, Phạm Lợi, Trần Văn Tuấn được bầu làm Phó Bí thư thành ủy.

Tháng 7
- Tại kỳ họp thứ 2, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố đã đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 1996 và đưa ra các chủ trương giải pháp chủ yếu chỉ đạo thực hiện 6 tháng cuối năm 1996.

Đối với công nghiệp - thương mại dịch vụ, sau kỳ họp thứ 2, Thường vụ Thành ủy đã tổ chức cuộc tiếp xúc giữa Tổng Bí thư Đỗ Mười với các doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân, liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần thuộc các ngành cơ khí, điện tử, công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải…để góp phần xây dựng cơ chế chính sách và định hướng phát triển các thành phần kinh tế. Đồng thời, Thành phố đầu tư 137 tỷ đồng tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân sản xuất, kinh doanh. Trong năm 1996, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 18,6%, xuất khẩu tăng 33%, trong đó kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng 2,7% tăng 80,2%; kinh tế cá thể chiếm tỷ trọng 60%, tăng 15%.

Ngày 22-11

- Chính phủ ra Nghị định 74/CP về việc thành lập quận Thanh Xuân, quận Cầu Giấy.
Như vậy đến năm 1997, Hà Nội có 7 quận nội thành là: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Ba Trưng, Đống Đa, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy; 5 huyện ngoại thành: Thanh Trì, Từ Liêm, Đông Anh, Gia Lâm, Sóc Sơn.

Năm 1997
Ngày 5-3
- Thành phố nghe báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 02 (1-12-1994) về “Tổ chức quản lý Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp ở Hà Nội”. Sau 2 năm thực hiện, sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã có sự chuyển biến bước đầu, giá trị sản xuất năm 1996 tăng 8,6% so với năm 1995. Một số hợp tác xã: Thành Đồng, Tự Cường (quận Hai Bà Trưng), Sông Hương (quận Hoàn Kiếm), Trúc Sơn (quận Tây Hồ), Trường Sơn (quận Đống Đa) đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.

Ngày 20-6

- Để nâng cao hơn nữa đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, Thành phố chủ trương cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới các khu vui chơi giải trí. Sở Văn hóa Thông tin tích cực chuẩn bị cho lễ kỉ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội.

Ngày 18-8

- Thường trực Thành ủy có cuộc họp chuyên đề bàn về các vấn đề kinh tế đối ngoại; đề ra định hướng và giải pháp chủ yếu để phát triển hoạt động xuất nhập khẩu; phát triển du lịch của Hà Nội đến năm 2000.

Ngày 13-10

- Hội nghị lần thứ 6 Thành ủy đã thảo luận thông qua kế hoạch 16-KH/TU về “Chiến lược cán bộ đến năm 2000”. Hội nghị nhất trí đề ra nhiệm vụ tập trung vào các khâu: đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; đổi mới tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ.

Năm 1997

- Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Thương binh Liệt sỹ, Thành phố đã trích 141 tỷ đồng để trợ cấp một lần cho 139.000 người diện chính sách; Thành phố và các quận, huyện còn cho xây dựng 391 căn nhà mới, sửa chữa 1.150 nhà diện chính sách, tăng hơn 10.000 sổ tiết kiệm, xây dựng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa được 13 tỷ đồng.
- Đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu, các ngành chức năng đã điều tra, khám phá 213 vụ, 297 đối tượng tham nhũng, thu hồi hơn 260 tỷ đồng và 62.000 m2 đất.

Năm 1998
Ngày 13-1
- Hội nghị lần thứ 7 Thành ủy đã thông qua chương trình “Thực hiện một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”. Về 3 nhiệm vụ trọng tâm của chương trình, Hội nghị nhấn mạnh: với tổ chức cơ sở Đảng, cần coi trọng công tác nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, chất lượng đảng viên; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu công tác.

Ngày 18-2

- Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Thành ủy Hà Nội đã tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt phổ biến Chỉ thị, đồng thời có kế hoạch hướng dẫn cơ sở thực hiện.
Trong khi chỉ đạo các điểm xây dựng quy chế, quy ước cụ thể để thực hiện dân chủ ở cơ sở, Thành ủy đã ban hành Quyết định 1418-QĐ/UB về công tác tiếp dân.

Tháng 4

- Thành ủy, UBND Thành phố tổ chức Hội nghị tổng kết công tác tiếp dân 1991-1997. Hội nghị đánh giá những việc làm được, chưa làm được, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của công tác tiếp dân và xác định phương hướng, nhiệm vụ trong những năm tới.

Ngày 8 và 9- 4

- Hội nghị lần thứ 8 Thành ủy (khóa XII) đã thống nhất nhận định: tình hình mọi mặt của Thành phố có nhiều chuyển biến tích cực, nổi bật là tốc độ phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục được giữ vững, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội. Tổng sản phẩm trong nước năm 1996 tăng 13% và 1997 tăng 12,5%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, giảm dần tỷ trọng thương mại - dịch vụ và nông nghiệp.

Ngày 20-6

- Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển Thành phố đến năm 2020. Thành phố đã chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương đẩy nhanh các tiến độ xây dựng quy hoạch các lĩnh vực giao thông vận tải, xây dựng, thủy lợi. Quy hoạch chi tiết 10 quận, huyện và hầu hết các quy hoạch ngành đã được xây dựng, phê duyệt và từng bước công bố.

Một số nhóm dự án trọng điểm giai đoạn 1998-2000 được khởi công. Thành phố xây dựng 69 km đường theo quy hoạch trong đó có một số trọng điểm: đường Trần Khát Chân, đường 32 (đoạn Cầu Giấy - Mai Dịch), đường Cầu Giấy - Hùng Vương (đoạn Kim Mã - Voi Phục), đường Hoàng Quốc Việt, đường Láng Trung - La Thành.
Dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn 1, có một số công trình đã hoàn thành như: hệ thống cống ngầm khu vực Trúc Bạch, Trần Bình Trọng, hồ điều hòa Nam Yên Sở rộng 43 ha, trạm bơm có công suất 15 m3/s

Năm 1999
Đầu năm 1999
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 6 (lần 2) khóa VIII đã ra Nghị quyết “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng”, trên ba lĩnh vực: nhận thức tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ đảng viên. Hội nghị quyết định tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc vận động được tiến hành từ 19-5-1999 đến 19-5-2001, sau đó trở thành nề nếp thường xuyên.
Qua sinh hoạt tự phê bình, phê bình ở các tổ chức Đảng trên toàn Thành phố có 478 đảng viên bị xử lý kỷ luật Đảng, trong đó khiển trách 150, cảnh cáo 197, cách chức 19, khai trừ 82. Nội dung sai phạm chủ yếu là: thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm về nhà đất, cố ý làm trái quy định Pháp luật Nhà nước, ý thức chấp hành Chỉ thị, Nghị quyết không nghiêm, tham ô, tư lợi…

Công tác phát triển Đảng có nhiều tiến bộ. Năm 1999, toàn Đảng bộ Thành phố kết nạp được 4807 đảng viên mới, tăng 9,77% so với năm 1998. Việc đánh giá chất lượng đảng viên hàng năm được các cấp ủy quan tâm. Số đảng viên loại 1 tăng từ 80,8% (năm 1998) lên 82,3% (năm 1999).

Ngày 2-6

- Công ty liên doanh Vinaconex (V.N) và Kolon (Hàn Quốc) khởi công dự án cải tạo mở rộng dự án cấp nước Hà Nội giai đoạn 4. Mục tiêu của dự án là tăng thêm công suất nước sạch lên 60.000m3/ ngày.

Ngày 29-8

- Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Mười đã đến thăm công trình xây dựng Bắc Linh Đàm thuộc dự án xây dựng nhà ở của Thành phố.

Ngày 26-9

- Thành phố tổ chức lễ khởi công xây dựng khu Đô thị mới Định Công 35 ha, cách trung tâm Hà Nội 5 km. Đây là một trong những dự án trọng điểm của chương trình phát triển nhà ở, được thực hiện 5 năm, khi hoàn thành sẽ cung cấp chỗ ở cho khoảng 16.500 người.

Tháng 10

- Thành phố tiếp tục khởi công xây dựng khu nhà ở 228 đường Láng và A6 Thành Công với tổng diện tích sàn 11.000m2, phục vụ việc di dân giải phóng mặt bằng.

Ngày 10-10

- Chào mừng kỷ niệm 45 năm ngày giải phóng Thủ đô, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội chính thức phát sóng, tăng máy phát công suất 10 km cho cả hệ thống phát thanh và truyền hình đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của nhân dân.

Ngày 14-11

- Bầu cử Hội đồng Nhân dân 3 cấp. Nêu cao tinh thần trách nhiệm tham gia xây dựng chính quyền, toàn Thành phố có trên 1.824.000 cử tri (chiếm tỷ lệ 99,75%) đã đi bỏ phiếu bầu đại biểu Hội đồng Nhân dân thành phố (khóa XII) và Hội đồng Nhân dân quận, huyện, phường, xã, thị trấn nhiệm kỳ 1999-2004. Kết quả đã bầu được 85 đại biểu Hội đồng Nhân dân thành phố. Trong kỳ họp thứ nhất, Hội đồng Nhân dân thành phố đã bầu một Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, một Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, bầu một Chủ tịch và 5 Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân.

Năm 1999

- Thành phố tiếp tục giữ vững lá cờ đầu trong hoạt động y tế, thể dục, thể thao, đồng thời thực hiện các chính sách xã hội. Thành phố đã huy động 22 tỷ đồng để xây dựng nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách; duy trì phụng dưỡng 122 bà mẹ Việt Nam Anh hùng của Thành phố và 87 bà mẹ Việt Nam Anh hùng ở Quảng Nam - Đà Nẵng với mức bình quân 200.000 - 300.000 đồng/người; xây mới 150 nhà, sửa chữa 100 nhà ở cho người có công với cách mạng.

- Với những thành tựu quan trọng đã đạt được trong gần 15 năm đổi mới; uy tín ngày càng được nâng cao trong khu vực và quốc tế, Hà Nội đã được UNESCO bình chọn là Thành phố duy nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhận danh hiệu cao quý “Thành phố vì hòa bình”.
Thủ đô Hà Nội tự tin, phấn chấn bước vào năm 2000 - năm có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của Đất nước và Thủ đô.

Năm 2000
Đầu năm 2000
- Liên đoàn Lao động thành phố, các doanh nghiệp trên địa bàn đã phát động phong trào thi đua lao động, sản xuất lập thành tích chào mừng kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, chào mừng Đại hội Đảng các cấp. Thủ đô bừng lên một khí thế và sức sống mới.

Ngày 28-3

- Thành ủy, Ủy ban Nhân dân thành phố mở Hội nghị cán bộ chủ chốt nhằm đẩy mạnh các hoạt động kỷ niệm 990 Thăng Long - Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Thành ủy chủ trì Hội nghị (3). Các nhiệm vụ trọng tâm được xác định: động viên và tổ chức các phong trào thi đua thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở, công trình phúc lợi và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa.

Tháng 3

- Hàng loạt các công trình trọng điểm trong chương trình kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội được triển khai đồng bộ: cải tạo, chỉnh trang các tuyến đê nội thành; làm hồ Yên Sở, cải tạo sông Kim Ngưu; xây dựng hệ thống điện nông thôn; xây dựng nhà Thái Học trong Văn Miếu - Quốc Tử Giám; tôn tạo di tích tượng vua Lê, di tích nhà tù Hỏa Lò, di tích Đoan Môn, Bắc Môn, Hậu Môn, Hậu Lâu trong khu Thành cổ; chỉnh trang khu vực quanh hồ Hoàn Kiếm; xây dựng khu vui chơi giải trí Hồ Tây; xây dựng 990 nhà tình nghĩa, tình thương…
- Sở Văn hóa Thông tin thành phố cùng các chuyên gia lịch sử, văn hóa, các nghệ sỹ đêm ngày chuẩn bị kịch bản lễ hội kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội.

Ngày 7-10

- Tại Hội trường Ba Đình, Ban Chỉ đạo Quốc gia kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long và Thành ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố đã tổ chức trọng thể cuộc mít tính kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội và đón nhận danh hiệu cao quý “Thủ đô Anh hùng” do Đảng và Nhà nước trao tặng. Vinh dự đặc biệt cao quý này không chỉ là niềm vui, niềm tự hào của nhân dân Hà Nội mà còn là niềm vui chung của nhân dân cả nước.

Đêm 8-10

- Tại sân vận động Hà Nội diễn ra Lễ hội 990 năm Thăng Long - Hà Nội có quy mô hoành tráng gây ấn tượng sâu đậm trong đồng bào Thủ đô cũng như cả nước và bè bạn Quốc tế.

Ngày 15-12

- Bộ Chính trị ra Nghị quyết 15 về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà nội trong thời kỳ 2001-2010”. Nghị quyết Bộ Chính trị đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ chính trị (khóa V) và 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới ở Thủ đô; xác định vị trí của Thủ đô “là trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế”. Nghị quyết đề ra phương hướng nhiệm vụ phát triển Thủ đô: “Trong 10 năm tới, gắn với chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, Thành phố phải phát triển kinh tế - khoa học, công nghệ, văn hóa - xã hội toàn diện, bền vững; đảm bảo xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất kỹ thuật và xã hội của Thủ đô XHCN giàu đẹp, văn minh, thanh lịch, hiện đại, đậm đà bản sắc ngàn năm văn hiến, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân; phấn đấu trở thành một trung tâm ngày càng có uy tín ở khu vực, xứng đáng với danh hiệu “Thủ đô Anh hùng”.

Ngày 28-12

- Ủy Ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thủ đô Hà Nội. Với Pháp lệnh này, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta, Nhà nước có một văn bản quy phạm pháp luật dành riêng cho Thủ đô. Nghị quyết Bộ Chính trị và Pháp lệnh về Thủ đô thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, tạo động lực mới để Thủ đô tiến nhanh trên con đường văn minh, hiện đại.

Từ 27 đến 30-12

- Tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội, Đại hội Đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ thành phố Hà Nội được tiến hành. Có 401 đại biểu, đại diện cho 156.000 đảng viên toàn Đảng bộ về dự Đại hội. Đại hội vinh dự đón Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu; các đồng chí cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội đã đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII Đảng bộ Thành phố; nhìn lại 10 năm phát triển kinh tế Thủ đô (1991-2000); tổng kết những kinh nghiệm sau 15 năm đổi mới (1986-2000 ); đề ra định hướng phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô thời kỳ 2001-2010 và nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 2001-2005; thông qua báo cáo tổng hợp ý kiến đóng góp dự thảo các Văn kiện của Ban chấp hành Trung ương Đảng trình Đại hội.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XIII gồm 51 đồng chí, bầu đoàn đại biểu gồm 31 đồng chí đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Ban Chấp hành Đảng bộ đã bầu Ban thường vụ gồm 15 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Ban Chính trị được bầu làm Bí thư Thành ủy; các đồng chí Trần Văn Tuấn, Hoàng Văn Nghiêm, Phùng Hữu Phú làm Phó Bí thư Thành ủy.

Trần Trung Sơn
(3) Tháng 1-2000 Bộ Chính trị phân công đồng chí Lê Xuân Tùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy lên Trung ương nhận nhiệm vụ mới. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị thôi phụ trách công tác tư tưởng văn hóa – khoa giáo của Trung ương để giữ chức Bí thư Thành ủy Hà Nội.


(Nguồn: Sưu tầm)
 
'Phố Phái' - Con phố thứ 37 của Hà Nội


Tác giả: Nguyễn Thuỵ Kha
Nguồn :Tuanvietnam.net


Đã có một Phố Phái - phố thứ 37 của Hà Nội cổ xưa. Lại có một Sân Khấu Phái - sân kháu chèo của riêng Phái tạo ra. Sân khấu chèo của Phái không phải là sân khấu diễn mà là phòng hoá trang ở sân khấu diễn.

"Phố Phái"

Hà Nội bây giờ nhiều phố. Nhưng người ta vẫn chỉ nhớ và thường nói: "Hà Nội 36 phố phường". Cho tới mãi khoảng 30 năm gần đây, người Hà Nội mới xác nhận thêm vào 36 phố kia, một phố mới - phố thứ 37 là "Phố Phái".

"Phố Phái" không dựng trên mặt đất mà dựng từ hồn của 36 phố phường. Nó nằm trong khung vải của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái. "Phố Phái" là những bức tranh về phố cổ Hà Nội của ông. Yêu da diết, yêu lặng lẽ những phố cổ Hà Nội, hoạ sĩ Bùi xuân Phái đã mở ra trên khung vải của mình một mảng về phố với bút pháp độc nghề. Ông đã kiến trúc lại các phố cổ bằng tài năng của mình, hay ngược lại, các phố cổ Hà Nội đã tạo ra sự phát lộ của tài năng Bùi Xuân Phái.

anhphuongart.jpg


'Phố Phái; Ảnh Anhphuong art

Vào tranh Bùi Xuân Phái, các phố cổ Hà Nội bỗng ngơ ngác một dáng vẻ riêng, thăm thẳm một tâm tư riêng. Những rẽ, ngoặt, quanh co, heo hút đều thể hiện bất ngờ dưới thần lực của cây cọ. Những mưa, những nắng, những rêu phong dường như mãi ẩm ướt, mãi mang vẻ quang quẻ và thoang thoảng một mùi phố phường thân thuộc trong bí ẩn của màu.

Nét phố trong tranh Bùi Xuân Phái cứ mãi ngân nga giữa nhiều giai điệu. Một chút gì như "Thăng Long trong khói sương mờ" của Văn Cao. Lại một chút gì "Hàng Đào ríu rít, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Gai" của Nguyễn Đình Thi. Và thoảng rười rượi chảy tràn cùng "chiều hôm qua lang thang trên đường" trong "Thu vàng" của Cung Tiến. Hay ngẩn ngơ cùng "với bao tà áo xanh lên mùa thu" của Đoàn Chuẩn. Rồi cùng Trần Thụ ngẫm thì trên "bao mái nhà dưới nắng vàng nghiêng nghiêng hàng dương liễu".

Thành phố cổ Hà Nội của Bùi Xuân Phái đẹp vậy nhưng nó chỉ thành "Phố Phái" khi có hai người bạn của ông đặt cho nó có tên. Đó là tuỳ bút "Phố Phái" của nhà văn "sinh sự để sự sinh" Nguyễn Tuân và bài thơ "Phố Phái" của nghệ sĩ đa tài Văn Cao. Sau khi gọi tên, nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận cảm "Phố Phái" bằng những ngôn từ linh điệu, phong trần, tầng tầng, lớp lớp, trong một giọng tuỳ hứng đầy hứng hưng phấn của men rượu. còn nghệ sĩ Văn Cao thì quả quyết bằng câu thơ như chợt tìm ra: "Tôi gửi một lá thư về Phố Phái - người đưa thư sẽ mang tới phố anh". Sau triển lãm tranh Bùi Xuân Phái ở Hà Nội, hồi cuối 1984, trong bài viết về triển lãm về bài viết này, nhà thơ Dương Tường cũng đã phải thốt lên một tứ tuyệt:

Có thoáng rợn tên là hơi may
Có hương tóc tên là kỷ niệm
Có một ngõ tên là hò hẹn
Có một ngõ buồn tên là không tên.

Bây giờ "Phố Phái" đã được treo lên bằng nỗi nhớ Hà Nội của biết bao người yêu thương Hà Nội trên khắp xứ sở. Ở Sài Gòn, cũng dịp này cách đây một năm, triển lãm tranh Bùi Xuân Phái, đã được mở ra ở nhà số 43 đường Đồng Khởi. Lại thên một lần "Phố Phái" hiện lên trên các tường nhà Sài Gòn.

Phố Phái có theo các chuyến bay để đến với các căn nhà người Việt xa xứ trên khắp thế giới. Ở đây căn nhà của mỗi người là Việt Nam. Còn "Phố Phái" là biểu tượng của thủ đô Hà Nội. Một nhạc sĩ xa xứ tài năng chỉ nghe nói ở Canada có một người bạn có "Phố Phái". Nhạc sĩ bay ngay từ Mỹ sang Canada chỉ để đứng dưới "Phố Phái" trầm ngâm nhìn về xa xăm.

Bây giờ Hà Nội đã xây dựng dọc ngang quá nhiều, các phố cổ đã chìm lấp trong đại dương kiến trúc tầng tầng lớp lớp. Những sóng nhà dịu dàng của phố cổ đã khuất dưới ngọn sóng bão tố của những công trình xây dựng thiếu một quy hoạch hài hoà, tổng thể. Hãy mở mang Hà Nội đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Nhưng hãy bảo tồn các phố cổ, hãy thực sự trùng tu nó để gìn giữ. Nếu những hành động khẩn thiết này không có, nguy cơ tan biến của 36 phố phường là cầm chắc. Lúc ấy, có khi chỉ còn lại độc nhất phố thứ 37 - Phố Phái.

Bây giờ tôi đang chép bài viết nhỏ này trong một bình minh ồn ã động cơ của Sài Gòn. Nhưng như một lẽ tự nhiên, hồn tôi vẫn tĩnh lặng để nhận ra đầy đủ một "Phố Phái" trong tưởng tượng. Và đâu đây ngân nga một câu hát của Phú Quang: "người nghệ sĩ lang thang hoài trên phố bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi một con đường..."

ResizedImage330600-11423-nguyehuukhoa.jpg


Biếm họa Bùi Xuân Phái qua nét cọ Nguyễn Hữu Khoa

"Chèo Phái"


Đã có một Phố Phái - phố thứ 37 của Hà Nội cổ xưa. Lại có một Sân Khấu Phái - sân kháu chèo của riêng Phái tạo ra. Sân khấu chèo của Phái không phải là sân khấu diễn mà là phòng hoá trang ở sân kháu diễn.

baodatviet.jpg


Ảnh anhphuong art

Bùi Xuân Phái bắt đầu nhập thân vào chiếu chèo khi thế kỷ 20 bước vào thập niên 60. Vở trình làng ông trang trí cùng với tác giả Vân Dung và đạo diễn Trần Hoạt là vở" Sợi tơ vàng". Chính cái hồn nhiên, dân dã của nghệ thuật đã cứu vớt Bùi Xuân Phái ra khỏi những suy tư nặng nề của một thời ngột ngạt. Chèo là người tình thứ hai của Phái song hành cùng người tình thứ nhất là Phố Cổ Hà Nội. Yêu chèo, Phái tìm thấy trong những âm thanh, nhịp điệu ấy một sức sống trường tồn lưu không qua từng số phận diễn viên. Bởi vậy, ông đã dồn tình yêu của mình qua nét, qua màu để thể hiện những số phận thực đó trong phòng hoá trang, trước lúc biến thành vai diễn. Đấy là thân phận ngàn đời của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ.

Phòng hoá trang chèo là ngưỡng cửa giữa đời thường và ước mơ, giữa bi và hài, giữa khóc và cười, giữa trần tục và linh thiêng. Nhìn vào tranh chèo của Phái ta thấy các nét, các màu dường như đang chuyển động rất truyền cảm ra khỏi chính cái khung tranh nhỏ hẹp đó, bay tới cùng tưởng tượng của con người. Một cái quạt trong tay, một gò hồng trên má, một chòm râu dưới cằm, một cây gậy chống đất, một khăn vấn trên đầu, tất cả dường như đang khuấy lên những giai điệu chèo lúc tha thiết và lúc rạo rực, lúc trầm lắng, lúc giục giã. Tranh chèo của Phái như cái chiếu chèo dựng lên cái đẹp trong tâm hồn người, như trải rộng vào mộng mĩ xa xăm. Nó vừa rõ rệt, vừa thấp thoáng, vừa thành thật vừa lãng mạn. Ôi ! Tươi rói những má hường, yếm điều. Ôi ! Gợi cảm những đường nét thanh xuân lúc nở tung khi khép kín, lúc kêu gọi, khi chối từ. Ta như đắm say đến không cùng những gì Phái đã gợi ra từ bố cục, từ ngẫu hứng.

thienvan.jpg


Bùi Xuân Phái, Ảnh Cafe Gallery

Ngoài những số phận diễn viên trong phòng hoá trang, Phái thật tinh tế khi tả những nhạc công đắm chìm trong thần âm. Một ống sáo lanh lảnh, một mảnh tỳ bà thánh thót, một đàn tứ, một song loan, một nguyệt, một nhị, một bầu... nỉ non, réo rắt. Dàn nhạc chèo độc đáo hơn trong tranh Phái. Có lẽ vai diễn duy nhất Phái vẽ nhiều lúc diễn chính là vai hề. Đó là tiếng cười nức nở của một nền văn minh lúa nước vùng châu thổ sông Hồng.

Phái đã vẽ Phố cũng như vẽ Chèo cho đến khi không vẽ được nữa. Ông chung thuỷ với hai người tình cho tới hơi thở cuối cùng. Tranh phố của ông đã được in nhiều, nhưng tranh chèo của ông thì mãi tới năm 1995 - nhà sưu tập Trần Hậu Tuấn - một đàn cháu rất yêu quý mới in thành một tập trang trọng. Có một điều kỳ lạ là khi nhìn vào tranh chèo Phái vẽ các thôn nữ, ta cứ ngỡ như mình đang gặp, đang phải lòng Hồ Xuân Hương - Bà chúa thơ Nôm.

phai.jpg


Bạn hữu và các đồng nghiệp họa sĩ đang xem Bùi Xuân Phái vẽ chân dung. Ghi chú ảnh, từ trái sang: 1) Họa sĩ Lưu Công Nhân, 2) Nhà phê bình mỹ thuật Nguyễn Trân (người ngồi), 3) Nhà sưu tập Việt Chiến, 4) họa sĩ Bùi Xuân Phái (đang vẽ), 5) Họa sĩ Nguyễn Sáng (người ngồi), 6) Nhà sưu tập Phạm Văn Bổng, 7) Nhà điêu khắc Văn Hòe, 8) Họa sĩ Dương Bích Liên, 9) Nhà sưu tập Nguyễn Bá Đạm, 10) Nhà sưu tập Đức Minh. Ảnh Bui Thanh Phuong's Blog



Tranh chèo của Phái quả thật vừa gợi ta nghe văng vẳng những giai điệu chèo cùng những lời thơ "chết người" của nữ sĩ họ Hồ. Điều ấy khiến ta thêm yêu mến vô cùng. Xin được nhắc lại thêm một lần nữa trong bài viết này tứ thơ của Phan Vũ mà Phú Quang đã phổ nhạc "Người nghệ sĩ lang thang hoài trên phố - bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi một con đường". Và bỗng thấy trống vắng khi 10 năm qua vắng Phái.

Bùi Xuân Phái là hoạ sĩ đầu tiên thành công và thành công nhất ở sân khấu chèo. Đưa ra một sân khấu chèo "rất Phái", Phái giống như Toulouse Lantree với các quán nhảy ở Montmartre, đặc biệt là Moulin Roage. Nhưng khác với các danh hoạ trên, Phái không nhấn mạnh, không tuyệt đối hoá, ông nhập thân vào chèo hồn nhiên như chính Chèo, như hơi thở giữa hai nụ hôn.
 
THĂNG LONG – HÀ NỘI, NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ

Theo chính sử của nước ta, mùa thu năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh thành là Thăng Long, nay là Hà Nội. Với bề dày ngàn năm, Thăng Long – Hà Nội là nơi địa linh nhân kiệt, hội tụ tinh hoa văn hoá dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, hình thành văn hiến Thăng Long – Hà Nội, toả chiếu mọi miền Tổ quốc. Năm 2010, Thủ đô Hà Nội tròn 1000 năm tuổi. Đây là một sự kiện trọng đại trong lịch sử nước nhà.

1. Thời kỳ tiền Thăng Long

Thời Hùng Vương, kinh đô đặt ở Văn Lang, vùng đất Thăng Long – Hà Nội lúc đó là một làng quê. Khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, Thục Phán (An Dương Vương) thay thế vua Hùng dựng nước Âu Lạc, dời đô xuống miền Cổ Loa. Kinh đô Cổ Loa đi vào lịch sử với tư cách là kinh thành, thị thành, quân thành, trung tâm đầu não chính trị, kinh tế của nước Âu Lạc. Năm 179 trước Công nguyên, nước Âu Lạc bị Triệu Đà thôn tính. Kể từ đó, Âu lạc rơi vào ách thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc kéo dài ngàn năm, vùng đất Thăng Long – Hà Nội trở thành đại bản doanh của chính quyền đô hộ. Nửa sau thế kỷ VIII, Kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi tổ chức đắp La Thành. Năm 865 – 866, Tiết độ sứ Cao Biền cho đắp đê thành Đại La. Đặc trưng thành Đại La thời Bắc thuộc là quan, quân, dân chúng ở trong một vòng đê ngoài, mang tính chất quân sự, thiếu quy mô sinh hoạt kinh tế, văn hoá của các tầng lớp nhân dân.

Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, nhân dân Thăng Long – Hà Nội luôn bất khuất, quật cường khởi nghĩa chống quân xâm lược. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Hát Môn đập tan ách đô hộ của nhà Hán, xây dựng kinh đô ở Mê Linh, khôi phục nhà nước độc lập. Năm 542 - 544, Lý Bí hào trưởng Thái Bình (vùng Sơn Tây cũ), dấy binh đánh đuổi giặc Lương, lên ngôi hoàng đế, chọn đất dựng chùa “Khai Quốc”, đóng đô ở vùng đất thuộc Thăng Long - Hà Nội (ngày nay), đặt quốc hiệu của nước là Vạn Xuân. Khoảng năm 766 - 779, Phùng Hưng thủ lĩnh vùng Đường Lâm khởi binh kéo đại quân từ vùng núi Ba Vì về bao vây thành Đại La, lật đổ ách đô hộ nhà Đường, xây dựng chính quyền độc lập tới năm 791. Năm 905, Khúc Thừa Dụ, hào trưởng đất Hồng Châu nổi dậy chiếm giữ phủ thành Đại La, tự lập làm Tiết độ sứ, xoá bỏ chính quyền đô hộ. Năm 931, hào trưởng Dương Đình Nghệ tiến quân từ Ái Châu (Thanh Hoá) ra Bắc, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi thành Đại La, khôi phục nền tự chủ từ năm 931 đến năm 937.

Thời tiền Thăng Long các bậc đế vương của nước ta, như: An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền đã chọn đất thuộc vùng Thăng Long – Hà Nội để đóng đô, xây dựng nền độc lập.

2. Thăng Long thời Lý (1010 - 1225)

Năm 1010, ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, đổi tên thành Đại La là thành Thăng Long. Chọn Thăng Long làm kinh đô, Lý Công Uẩn đã đứng trên “chủ thuyết phát triển” và cái nhìn toàn cục của quốc gia để chọn lấy một dải đất đắc địa bậc nhất của nước Đại Cồ Việt xây dựng trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện cao độ ý chí độc lập, tự cường dân tộc.

Thời Lý kinh đô Thăng Long được xây dựng theo kiến trúc “Tam trùng thành quách” 3 vòng thành lồng nhau. Vòng thành ngoài gọi là thành Đại La. Vòng thành giữa gọi là Hoàng Thành, nơi có các cung điện hoàng gia và nơi thiết triều của vua. Kinh thành được bao bọc bởi một toà thành bằng đất phát triển từ đê của 3 con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô ở phía Bắc và phía Tây, sông Kim Ngưu ở phía Nam. Nét nổi bật của kinh thành Thăng Long thời Lý là tận dụng tối đa những điều kiện tự nhiên và tạo ra sự hài hoà với kiến trúc nhân tạo. Dấu ấn Thăng Long thời kỳ này còn được lưu lại ở nhiều công trình kiến trúc đặc sắc, như: đền Đồng Cổ xây dựng năm 1028, chùa Diên Hựu (chùa Một Cột -1049), tháp Báo Thiên (1057). Trong công trình “Thăng Long tứ trấn”, nhà lý xây dựng hoàn chỉnh ba trấn là: quán Trấn Vũ, đền Bạch Mã, đền Voi Phục.... Năm 1070, nhà Lý lập Văn Miếu; năm 1075, mở khoa thi Nho học đầu tiên; năm 1076, tuyển những văn quan có học vào tu nghiệp ở Quốc Tử Giám. Trong công cuộc phục hưng nền độc lập nhà Lý đã đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng nền tảng sự nghiệp văn hoá, giáo dục, đặt nền tảng cho nền giáo dục đại học và nhiều ngành khoa học của nước nhà, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Vào giai đoạn thịnh đạt của nhà Lý, kinh đô Thăng Long đã thực sự trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế, văn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước.

3. Thăng Long thời Trần (1226 - 1400)

Sau 215 năm cầm quyền, triều Lý lâm vào tình trạng suy yếu, không giữ được binh quyền. Năm 1226, nhà Trần thay thế nhà Lý chấm dứt tình trạng loạn ly, thiết lập lại trật tự chính trị - xã hội. Nhà Trần có nhiều chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhìn tổng thể kiến trúc cung đình Thăng Long thời Trần không bề thế như thời Lý. Quy mô kinh thành Thăng Long cơ bản vẫn giữ ranh giới cũ. Năm 1230, nhà Trần sửa chữa thành Đại La và các cung thất, hoạch định lại các đơn vị hành chính; năm 1243 đắp lại Cấm thành. Năm 1253 tu sửa lại Quốc Tử Giám, lập Viện Quốc học, Viện Quốc sử, Giảng Võ đường đào tạo nhiều văn quan, võ tướng tài năng. Nho học được coi trọng và phát triển, chế độ khoa cử được tổ chức chặt chẽ. Từ năm 1247, nhà Trần đặt thêm học vị Trạng nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn (Tam khôi). Thăng Long thời Trần thu hút nhiều nhân tài từ các nơi về học tập. Khoa học quân sự thời Trần là yếu tố cấu thành văn hóa Đại Việt, tạo nên hào khí Đông A.

Kinh đô Thăng Long được quy hoạch lại thành 61 phường với số dân đông đúc hơn, tập trung trong khu vực dân sự, Thăng Long ngày càng rõ nét một thành thị với sự phát triển nhanh của phố, chợ, làng nghề thủ công. Nhà Trần có chính sách ngoại giao thông thoáng nhiều khách buôn nước ngoài đã đến đây làm ăn, sinh sống hoặc cư trú chính trị, như: người Hoa, người Hồi Hột, người Java… Kinh đô Thăng Long thời Trần là thành phố mở, hội tụ tinh hoa văn hoá của nhiều nước trên thế giới. Thời Lý và thời Trần nước Đại Việt nổi tiếng với 4 công trình nghệ thuật “An Nam tứ đại khí” làm bằng đồng: chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng Quỳnh Lâm và đỉnh tháp Báo Thiên. Trong vòng 30 năm (1258 – 1288), đế chế Mông Cổ ba lần đem quân đánh chiếm Thăng Long. Quân dân ta đều chủ động, khôn khéo rút lui chiến lược khỏi kinh thành để bảo toàn lực lượng, sau đó bao vây, phản công quét sạch quân xâm lược. Thăng Long góp phần cùng nhân dân cả nước lập nên chiến công vĩ đại, ba lần đại thắng quân Nguyên – Mông. Nền văn minh Đại Việt, hào khí Thăng Long, hào khí Đông A tỏa sáng, Thăng Long xứng đáng là kinh đô anh hùng của đất nước anh hùng.

4. Thăng Long thời Lê, thời Mạc, Lê Trung hưng (1428 – 1788)

Nhà Trần trị vì được 175 năm thì lâm vào suy thoái. Hồ Quý Ly đại thần nhà Trần thâu tóm quyền lực. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, buộc vua Trần dời triều đình vào Tây Đô. Trong 10 năm cuối triều Trần nước ta có hai Đô là Tây Đô và Đông Đô. Tây Đô có triều đình, có vị thế về chính trị nhưng Đông Đô (Thăng Long) vẫn là trung tâm kinh tế lớn nhất của đất nước. Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, lên làm vua. Nhà Hồ ở ngôi 7 năm thì phong kiến nhà Minh sang xâm lược, cha con Hồ Quý Ly bị giặc bắt đưa về Trung Quốc. Sau gần 500 năm giành độc lập, đến nhà Hồ, nước ta lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Năm 1418, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Sau chín năm kháng chiến, nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng được các vùng từ Nam đến Bắc. Năm 1426, ba đạo quân Lam Sơn tiến ra bao vây thành Đông Quan, chủ động “vừa đánh vừa đàm”,“vây thành diệt viện”, dập tắt mọi hy vọng của giặc Minh trong thành Đông Quan, buộc Vương Thông phải lên đàn thề từ bỏ dã tâm xâm lược và xin rút quân về nước. Ngày 29/4/1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục quốc hiệu Đại Việt, định đô ở Đông Đô. Năm 1430, đổi tên là Đông Kinh. Thời Hậu Lê, kinh thành Thăng Long được quy hoạch và xây dựng theo quy cách đế đô của quốc gia quân chủ tập quyền. Kinh thành được mở rộng sang phía Đông. Trong Cấm thành, một toà thành hình chữ nhật xây gạch với cửa chính là Đoan Môn, nhà Lê xây dựng và bố trí lại nhiều cung điện, lầu gác, thâm nghiêm nhất là điện Kính Thiên xây dựng trên đỉnh núi Nùng. Ngoài Hoàng thành, nhiều kiến trúc mới cũng xuất hiện. Kiến trúc kinh thành thời Lê đạt đến trình độ mực thước, hài hoà. Khu dân sự tiếp tục phát triển và được quy hoạch lại gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương, mỗi huyện có 18 phường. Đông Kinh lúc này đã có những phố chợ buôn bán tấp nập, nhiều phường thủ công nổi tiếng, như: Nghi Tàm, Thụy Chương dệt vải; Yên Thái làm giấy; Hàng Đào nhuộm điều; tranh Hàng Trống…

Năm 1428, Lê Lợi cho lập nhà Quốc Tử Giám. Năm 1442, mở khoa thi Hội đầu tiên, long trọng tổ chức lễ xướng danh, treo bảng vàng, ban mũ áo cho người trúng tuyển, khuyến khích học hành. Nước Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã đạt tới đỉnh cao của một quốc gia phong kiến độc lập. Tuy nhiên, những mâu thuẫn trong nội bộ triều Lê Sơ, từ đầu thế kỷ XVI, đã dẫn tới sự phế truất vua Lê của tập đoàn phong kiến Mạc Đăng Dung (1572). Năm 1588, nhà Mạc huy động dân đắp 3 lần luỹ đất để tăng cường hệ thống phòng thủ kinh thành. Nhưng chỉ 4 năm sau, dưới danh nghĩa phù Lê, họ Trịnh chiếm được kinh thành. Kinh đô chính thức trở lại tên gọi Thăng Long. Triều đình của vua Lê đóng trong Hoàng thành cũ. Phủ Chúa Trịnh được xây bên ngoài, gồm nhiều cung điện nguy nga, chạy dài theo bờ tây Hồ Gươm. Tuy có những biến động về chính trị, nhưng thời Lê, Mạc, Lê Trung hưng, Thăng Long vẫn là một thành thị - thương cảng sầm uất nhất cả nước và vào loại lớn ở Châu Á. Bên cạnh các thương điếm của người Hoa, còn có cả những thương điếm của người Anh, Hà Lan, Đức. Khu vực dân cư trong kinh thành Thăng Long đông đúc hơn trước và có cả nhà hai tầng. Nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật, đặc biệt là về tôn giáo đã được xây dựng thêm.

5. Thăng Long- Hà Nội thời Tây Sơn (1788 - 1802)

Cuối năm 1788, Kinh đô và đất nước Đại Việt lại phải đương đầu với cuộc xâm lược của đế chế Mãn Thanh. Từ Phú Xuân (Huế), vua Quang Trung thống lĩnh đại quân Tây Sơn tiến ra Bắc, giải phóng Thăng Long. Giặc tan, vua Quang Trung về đóng đô ở Huế. Thăng Long là thủ phủ của Bắc Thành. Hoàng thành Thăng Long vẫn được nhà Tây Sơn cho tu sửa, đắp lại những đoạn bị sụt đổ. Chùa Kim Liên (Nghi Tàm), chùa Tây Phương (Thạch Thất), tượng Tuyết Sơn và 18 vị La Hán được tu bổ, tôn tạo; nhiều chuông to, đẹp được đúc. Sau chiến thắng vua Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ và nhân dân thu gom xác giặc, chôn cất và sai lập đàn chẩn tế, tu sửa chùa Bộc làm nơi quy y cho quân sĩ nhà Thanh; ban Chiếu khuyến nông, khuyến khích nhân dân trở về quê cũ khai khẩn ruộng bỏ hoang, phục hồi sản xuất; ban Chiếu lập học khuyến khích các địa phương mở trường học. Lập Viện Sùng Chính để dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm, đưa chữ Nôm lên địa vị chính thức của quốc gia. Lịch sử triều đại Tây Sơn tuy ngắn ngủi, nhưng đã để lại những dấu ấn đậm nét trong trang sử Thăng Long - Hà Nội văn hiến, anh hùng.

6. Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn và Pháp thuộc (1802 - 1945)

Lợi dụng cơ hội vua Quang Trung qua đời (1792), tập đoàn phong kiến Nguyễn Ánh từ miền Nam đánh chiếm Phú Xuân (1801), thăng Long (1802). Kinh đô nhà Nguyễn vẫn đặt ở Phú Xuân, Thăng Long được gọi là Bắc Thành. Hoàng Thành bị phá bỏ, thay vào đó là một toà thành mới hình vuông, xây theo kiểu thành Vô - băng của Pháp. Năm 1831, Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội với tỉnh lỵ là phủ Hoài Đức (thành Thăng Long cũ), Thăng Long được gọi là Hà Nội. Quốc Tử Giám, cơ quan giáo dục cao nhất của đất nước bị dời vào Huế. Tuy không còn là trung tâm chính trị, nhưng Hà Nội lúc đó vẫn là trung tâm kinh tế -văn hoá lớn nhất của cả nước.

Cuối thế kỷ XIX, trước những hành động xâm lược của thực dân Pháp, cùng với nhân dân cả nước, Hà Nội đã đứng lên kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương và người kế nhiệm là Tổng đốc Hoàng Diệu, nhân dân Hà Nội đã anh dũng chống trả các cuộc tấn công của quân Pháp. Nhưng triều đình nhà Nguyễn nhu nhược đã ký “Hiệp ước hoà bình” (1883), công nhận quyền thống trị của Pháp trên cả nước. Hà Nội trở thành đất “bảo hộ” thuộc Bắc kỳ, đặt dưới quyền cai trị của một viên Thống sứ người Pháp. Tháng 7/1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh lập thành phố Hà Nội, gồm đất đai tỉnh lỵ Hà Nội, đứng đầu là một viên Đốc ký.

Chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn của thực dân Pháp làm diện mạo của Hà Nội từ đầu thế kỷ XX có nhiều thay đổi. Các cơ sở hạ tầng được hoàn thành, trước hết là mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, cầu cống, trong đó có cầu Doumer qua sông Hồng. Thành cổ Hà Nội lại bị phá để xây các “khu nhà binh”, công sở. Điện Kính Thiên cũng bị phá huỷ, thay vào đó là nhà con Rồng hai tầng dùng làm sở chỉ huy pháo binh (1886). Đi đôi với việc hình thành các “khu phố Tây” (nằm trên các đường Đinh Tiên Hoàng, Ngô Quyền, Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt…ngày nay), một số công trình khác mang phong cách Châu Âu được xây dựng, như: Phủ Toàn quyền, Phủ Thống sứ, Ngân hàng Quốc gia, Nhà hát lớn, Nhà thờ lớn, nhà Bưu điện, trường Viễn Đông Bác Cổ, ga Hà Nội…

Mặc dù thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo, phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Nội thời Pháp thuộc, đặc biệt là sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (02/1930), lúc âm ỉ, lúc rầm rộ, không bao giờ tắt…Ngày 19/8/1945, thực hiện lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội, hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành đã nhất tề xuống đường đấu tranh giành chính quyền.

7. Hà Nội trong thời đại Hồ Chí Minh

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, công bố trước toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, tại kỳ họp Quốc hội lần thứ nhất Hà Nội được vinh dự chọn làm Thủ đô của cả nước trong kỷ nguyên mới.

Bước vào xây dựng cuộc sống tự do, dân chủ chỉ hơn một năm, nhân dân Thủ đô lại phải đương đầu với một cuộc xâm lược mới của thực dân Pháp. Đêm 19/12/1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc toàn quốc kháng chiến. Sau tám năm trường kỳ chiến đấu, ngày 10/10/1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô.

Hoà bình lập lại, Hà Nội khẩn trương bước vào công cuộc khôi phục và xây dựng kinh tế. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đã hoàn thành thắng lợi việc tiếp quản, nhanh chóng ổn định tình hình, khẩn trương bắt tay vào khôi phục, cải tạo và xây dựng thành phố. Chỉ hơn một tháng sau giải phóng, thành phố đã thông qua kế hoạch phục hồi công thương nghiệp. Không khí hòa bình xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố diễn ra sôi động. Một năm sau giải phóng, Hà Nội đã hoàn thành cải cách ruộng đất. Từ năm 1958 đến năm 1960 tiến hành xong cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và hợp tác hoá nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Bộ mặt thành phố đổi mới từng ngày Sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960 - 1965), Thủ đô đã trở thành trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế quan trọng trong cả nước.

Giữa năm 1966, giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, đánh phá Thủ đô. Tháng 3/1968, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Ngày 2/9/1969, Bác Hồ từ trần. Nhân dân Thủ đô Hà Nội tỏ rõ niềm tiếc thương vô hạn với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, ngày 9/9/1969, hơn 10 vạn cán bộ và nhân dân Thủ đô tới Quảng trường Ba Đình cùng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế dự Lễ truy điệu vĩnh biệt Người với lòng thành kính và biết ơn vô hạn. Tháng 4/1972, Hà Nội trở thành mục tiêu đánh phá lần thứ hai của Mỹ. Cuối năm đó, chỉ trong vòng 12 ngày đêm (18 - 29/12/1972), Mỹ đã trút hàng vạn tấn bom đạn xuống địa bàn Hà Nội. Thể hiện bản lĩnh là “Thủ đô của phẩm giá con người”, quân dân Hà Nội đã lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh sập “uy thế không lực Hoa Kỳ”. Trong hai cuộc chống chiến tranh phá hoại bằng đường không của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, 358 máy bay các loại của Mỹ trong đó có 23 chiếc pháo đài bay B52, 2 chiếc F111 bị tan xác trên bầu trời Hà Nội; 83 máy bay trong đó có 1 máy bay B52 và 2 máy bay F.111 bị tan xác trên bầu trời Hà Tây. Quân và dân Thủ đô Hà Nội đã góp phần quyết định buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris (01/1973), rút hết quân Mỹ và chư hầu về nước. Đúng một năm chín tháng sau, ngày 30/9/1974, tại Tổng hành dinh đóng trong Thành cổ Hà Nội, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương duyệt kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Với sự chi viện hết lòng và toàn diện của quân dân Hà Nội và miền Bắc, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975) đã toàn thắng. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam thống nhất.

Tháng 4/1976, Hà Nội được Quốc hội chung của cả nước quyết định là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện Di chúc của Bác Hồ, Đảng bộ và nhân dân Hà Nội quyết tâm xây dựng Thủ đô “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Hà Nội dấy lên nhiều phong trào thi đua yêu nước tiêu biểu như: phong trào bốn đổi mới trong công nghiệp, áp dụng khoán trong nông nghiệp, xử lý giá, lương, tiền trong lưu thông phân phối; tập trung quy hoạch phát triển đô thị - giao thông nội đô thống nhất; cải tạo lại mạng lưới điện hạ thế và cấp nước sạch; cải thiện nhà ở, giao thông và chiếu sáng đô thị.

Các công trình lớn như sân bay Nội Bài, cầu Thăng Long, cầu Đuống, cầu Chương Dương, đường 6 (đoạn Hà Nội - Hà Đông) và nhiều khu nhà cao tầng ở khu Bắc Thanh Xuân, Kim Giang, Đại học Bách Khoa, tập thể Quỳnh Lôi được xây dựng và đưa vào sử dụng. Một số ngành công nghiệp điện tử, công nghiệp chế biến thực phẩm, cơ khí nông nghiệp, hóa chất, chế tạo máy đã được hình thành. Ngành nông nghiệp Thủ đô áp dụng tốt các kỹ thuật thâm canh, tăng vụ, hình thành nhiều vùng chuyên canh rau ở các huyện Từ Liêm, Đông Anh, Thanh Trì. Kinh tế đối ngoại bắt đầu hình thành.

Với những bước đi quan trọng đó, lần đầu tiên trong kế hoạch 5 năm (1991 – 1995), nhiều mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội đã đạt và vượt toàn diện, nhiều mục tiêu đạt và hoàn thành trước thời hạn. Kinh tế Thủ đô liên tục tăng trưởng ở mức cao, điều đáng kể là bước đầu kinh tế Thủ đô đã có tích lũy. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hình thành cơ cấu kinh tế mới theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.

Giai đoạn 1996 – 2000, thành phố đã tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất, thương mại, dịch vụ then chốt. Những chủ trương và giải pháp quan trọng đó đã tạo sự phát triển kinh tế - xã hội toàn diện của Hà Nội, góp phần đáng kể cho việc động viên nguồn thu ngân sách Nhà nước. So với cả nước: năm 1990 thu ngân sách địa bàn Hà Nội đạt 9,2%, năm 2000 đạt 16,3%. Năm 2000, Hà Nội chiếm 3,6% về dân số và 2,8% diện tích lãnh thổ quốc gia nhưng đã đóng góp với cả nước 7,8% GDP. Đời sống nhân dân có nhiều cải thiện. Bộ mặt của Thủ đô có nhiều thay đổi, vị thế của Thủ đô được nâng lên. Một vinh dự lớn đối với Thủ đô Hà Nội, năm 1999 được tổ chức UNESCO của Liên Hợp quốc trao tặng danh hiệu vẻ vang “Thành phố vì hòa bình” và lấy làm nơi phát động “Năm quốc tế hòa bình – 2000”. Năm 2000, Hà Nội được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Thủ đô Anh hùng.

Thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2000 – 2010), về kinh tế, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Hà Nội tập trung trí tuệ đẩy nhanh tiến độ sắp xếp cổ phần hóa vững chắc doanh nghiệp Nhà nước; đổi mới công nghệ, thiết bị và mô hình quản lý; tích cực thu hút vốn đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cấp hạ tầng đô thị. Những năm đầu của thế kỷ XXI, bộ mặt Thủ đô đổi thay nhanh chóng, Hà Nội đã mở ra 4 hướng với những khu công nghiệp hiện đại như: Sài Đồng A, Sài Đồng B, Bắc Thăng Long, Chèm, Mễ Trì, Thượng Đình, Thanh Trì, Cầu Bươu, Cầu Diễn, Nghĩa Đô, Đông Anh, Sóc Sơn…phát triển công nghiệp Hà Nội gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu và công nghiệp của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh thực hiện thành công bước đi ban đầu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hà Nội trở thành trung tâm du lịch của cả nước, chất lượng dịch vụ du lịch từng bước được nâng cao. Thủ đô Hà Nội tích cực đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng văn hóa sinh thái. Cùng với phát triển kinh tế, Hà Nội tiếp tục đạt nhiều thành tựu nổi bật trong sự nghiệp phát triển văn hóa - xã hội và con người, tạo nên sức mạnh và độ bền vững của quá trình phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.

Những năm đầu thế kỷ XXI, Hà Nội đổi thay từng ngày. Không gian Hà Nội được phân thành các vùng rõ nét. Khu vực trung tâm được bao quanh bằng các đường La Thành – đường Láng - Trường Chinh - Đại La - Minh Khai và dọc hữu ngạn sông Hồng. Khu phát triển mở rộng, được quy hoạch theo hữu ngạn và tả ngạn sông Hồng. Trong đó hữu ngạn gồm khu vực phía Nam cầu Thăng Long, dọc quốc lộ 32. Ở đây, có khu công nghiệp Cầu Diễn, khu công nghệ cao Nam Thăng Long, khu đô thị Ciputra, các khu dân cư tập trung Mai Dịch, Nghĩa Đô, Cầu Diễn, Tây sông Nhuệ, khu dân cư theo quốc lộ 6 và vành đai 3. Các khu công nghiệp Thượng Đình, công viên mới Mễ Trì, khu trung tâm Thể thao quốc gia, khu đô thị mới Trung Yên, Yên Hòa, Thanh Xuân. Khu công nghiệp Xuân Mai, Định Công, Linh Đàm, Cầu Bươu, Mai Động. Khu Bắc cầu Thăng Long; khu thị trấn Gia Lâm – Sài Đồng – Đức Giang – Yên Viên; khu dọc đường quốc lộ 3.

Việc cải tạo, xây dựng Thủ đô thành một đô thị văn minh, hiện đại, xứng đáng với tầm vóc của một Quốc gia khoảng trên một trăm triệu dân, trong thế kỷ XXI là một yêu cầu cần thiết. Quốc hội đã có Nghị quyết số 15-2008/QH12 về mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 260/CT-TTg, ngày 4 tháng 3 năm 2008 về việc tổ chức thực hiện chủ trương mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội. Theo đó, Hà Nội mở rộng bao gồm toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau khi hợp nhất, mở rộng Hà Nội có diện tích 3.340 km2 với gần 6,5 triệu dân, 29 đơn vị huyện, quận; 577 xã, phường, thị trấn; 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao sinh sống.

Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đặt mục tiêu sau năm 2010 xây dựng Thủ đô Hà Nội hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc tương xứng với truyền thống ngàn năm văn hiến. Hướng phát triển của thành phố Hà Nội về phía Tây, hình thành chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây; phía Bắc là cụm đô thị Sóc Sơn - Xuân Hòa - Đại Lải - Phúc Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) và các đô thị khác. Điều chỉnh xây dựng thêm các khu công nghiệp tập trung mới như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn, Thăng Long, Đông Anh, mở rộng khu công nghiệp Đức Giang, Cầu Diễn, Cầu Bươu. Các hệ thống công viên, khu cây xanh, vui chơi, giải trí, khu du lịch các công trình công cộng… được rà soát, quy hoạch, đảm bảo môi trường sống ngày càng văn minh, hiện đại.

Trải qua bao biến thiên của lịch sử, Thăng Long - Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước, là nơi kết tinh tinh hoa của dân tộc, hội tụ nhân tài của đất nước. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội coi trọng việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể, kết hợp hài hoà trong quy hoạch và xây dựng đô thị, phát huy cao độ truyền thống Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến, đoàn kết xây dựng Hà Nội là “Thủ đô xanh, văn hiến – văn minh và hiện đại”, phát huy tốt vai trò là trung tâm lớn về văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, kinh tế và giao dịch quốc tế.

Nguồn: Ban tuyên giáo Trung ương
 
THĂNG LONG – HÀ NỘI, NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ

Theo chính sử của nước ta, mùa thu năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh thành là Thăng Long, nay là Hà Nội. Với bề dày ngàn năm, Thăng Long – Hà Nội là nơi địa linh nhân kiệt, hội tụ tinh hoa văn hoá dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, hình thành văn hiến Thăng Long – Hà Nội, toả chiếu mọi miền Tổ quốc. Năm 2010, Thủ đô Hà Nội tròn 1000 năm tuổi. Đây là một sự kiện trọng đại trong lịch sử nước nhà.

1. Thời kỳ tiền Thăng Long

Thời Hùng Vương, kinh đô đặt ở Văn Lang, vùng đất Thăng Long – Hà Nội lúc đó là một làng quê. Khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, Thục Phán (An Dương Vương) thay thế vua Hùng dựng nước Âu Lạc, dời đô xuống miền Cổ Loa. Kinh đô Cổ Loa đi vào lịch sử với tư cách là kinh thành, thị thành, quân thành, trung tâm đầu não chính trị, kinh tế của nước Âu Lạc. Năm 179 trước Công nguyên, nước Âu Lạc bị Triệu Đà thôn tính. Kể từ đó, Âu lạc rơi vào ách thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc kéo dài ngàn năm, vùng đất Thăng Long – Hà Nội trở thành đại bản doanh của chính quyền đô hộ. Nửa sau thế kỷ VIII, Kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi tổ chức đắp La Thành. Năm 865 – 866, Tiết độ sứ Cao Biền cho đắp đê thành Đại La. Đặc trưng thành Đại La thời Bắc thuộc là quan, quân, dân chúng ở trong một vòng đê ngoài, mang tính chất quân sự, thiếu quy mô sinh hoạt kinh tế, văn hoá của các tầng lớp nhân dân.

Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, nhân dân Thăng Long – Hà Nội luôn bất khuất, quật cường khởi nghĩa chống quân xâm lược. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Hát Môn đập tan ách đô hộ của nhà Hán, xây dựng kinh đô ở Mê Linh, khôi phục nhà nước độc lập. Năm 542 - 544, Lý Bí hào trưởng Thái Bình (vùng Sơn Tây cũ), dấy binh đánh đuổi giặc Lương, lên ngôi hoàng đế, chọn đất dựng chùa “Khai Quốc”, đóng đô ở vùng đất thuộc Thăng Long - Hà Nội (ngày nay), đặt quốc hiệu của nước là Vạn Xuân. Khoảng năm 766 - 779, Phùng Hưng thủ lĩnh vùng Đường Lâm khởi binh kéo đại quân từ vùng núi Ba Vì về bao vây thành Đại La, lật đổ ách đô hộ nhà Đường, xây dựng chính quyền độc lập tới năm 791. Năm 905, Khúc Thừa Dụ, hào trưởng đất Hồng Châu nổi dậy chiếm giữ phủ thành Đại La, tự lập làm Tiết độ sứ, xoá bỏ chính quyền đô hộ. Năm 931, hào trưởng Dương Đình Nghệ tiến quân từ Ái Châu (Thanh Hoá) ra Bắc, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi thành Đại La, khôi phục nền tự chủ từ năm 931 đến năm 937.

Thời tiền Thăng Long các bậc đế vương của nước ta, như: An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền đã chọn đất thuộc vùng Thăng Long – Hà Nội để đóng đô, xây dựng nền độc lập.

2. Thăng Long thời Lý (1010 - 1225)

Năm 1010, ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, đổi tên thành Đại La là thành Thăng Long. Chọn Thăng Long làm kinh đô, Lý Công Uẩn đã đứng trên “chủ thuyết phát triển” và cái nhìn toàn cục của quốc gia để chọn lấy một dải đất đắc địa bậc nhất của nước Đại Cồ Việt xây dựng trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện cao độ ý chí độc lập, tự cường dân tộc.

Thời Lý kinh đô Thăng Long được xây dựng theo kiến trúc “Tam trùng thành quách” 3 vòng thành lồng nhau. Vòng thành ngoài gọi là thành Đại La. Vòng thành giữa gọi là Hoàng Thành, nơi có các cung điện hoàng gia và nơi thiết triều của vua. Kinh thành được bao bọc bởi một toà thành bằng đất phát triển từ đê của 3 con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô ở phía Bắc và phía Tây, sông Kim Ngưu ở phía Nam. Nét nổi bật của kinh thành Thăng Long thời Lý là tận dụng tối đa những điều kiện tự nhiên và tạo ra sự hài hoà với kiến trúc nhân tạo. Dấu ấn Thăng Long thời kỳ này còn được lưu lại ở nhiều công trình kiến trúc đặc sắc, như: đền Đồng Cổ xây dựng năm 1028, chùa Diên Hựu (chùa Một Cột -1049), tháp Báo Thiên (1057). Trong công trình “Thăng Long tứ trấn”, nhà lý xây dựng hoàn chỉnh ba trấn là: quán Trấn Vũ, đền Bạch Mã, đền Voi Phục.... Năm 1070, nhà Lý lập Văn Miếu; năm 1075, mở khoa thi Nho học đầu tiên; năm 1076, tuyển những văn quan có học vào tu nghiệp ở Quốc Tử Giám. Trong công cuộc phục hưng nền độc lập nhà Lý đã đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng nền tảng sự nghiệp văn hoá, giáo dục, đặt nền tảng cho nền giáo dục đại học và nhiều ngành khoa học của nước nhà, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Vào giai đoạn thịnh đạt của nhà Lý, kinh đô Thăng Long đã thực sự trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế, văn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước.

3. Thăng Long thời Trần (1226 - 1400)

Sau 215 năm cầm quyền, triều Lý lâm vào tình trạng suy yếu, không giữ được binh quyền. Năm 1226, nhà Trần thay thế nhà Lý chấm dứt tình trạng loạn ly, thiết lập lại trật tự chính trị - xã hội. Nhà Trần có nhiều chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhìn tổng thể kiến trúc cung đình Thăng Long thời Trần không bề thế như thời Lý. Quy mô kinh thành Thăng Long cơ bản vẫn giữ ranh giới cũ. Năm 1230, nhà Trần sửa chữa thành Đại La và các cung thất, hoạch định lại các đơn vị hành chính; năm 1243 đắp lại Cấm thành. Năm 1253 tu sửa lại Quốc Tử Giám, lập Viện Quốc học, Viện Quốc sử, Giảng Võ đường đào tạo nhiều văn quan, võ tướng tài năng. Nho học được coi trọng và phát triển, chế độ khoa cử được tổ chức chặt chẽ. Từ năm 1247, nhà Trần đặt thêm học vị Trạng nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn (Tam khôi). Thăng Long thời Trần thu hút nhiều nhân tài từ các nơi về học tập. Khoa học quân sự thời Trần là yếu tố cấu thành văn hóa Đại Việt, tạo nên hào khí Đông A.

Kinh đô Thăng Long được quy hoạch lại thành 61 phường với số dân đông đúc hơn, tập trung trong khu vực dân sự, Thăng Long ngày càng rõ nét một thành thị với sự phát triển nhanh của phố, chợ, làng nghề thủ công. Nhà Trần có chính sách ngoại giao thông thoáng nhiều khách buôn nước ngoài đã đến đây làm ăn, sinh sống hoặc cư trú chính trị, như: người Hoa, người Hồi Hột, người Java… Kinh đô Thăng Long thời Trần là thành phố mở, hội tụ tinh hoa văn hoá của nhiều nước trên thế giới. Thời Lý và thời Trần nước Đại Việt nổi tiếng với 4 công trình nghệ thuật “An Nam tứ đại khí” làm bằng đồng: chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng Quỳnh Lâm và đỉnh tháp Báo Thiên. Trong vòng 30 năm (1258 – 1288), đế chế Mông Cổ ba lần đem quân đánh chiếm Thăng Long. Quân dân ta đều chủ động, khôn khéo rút lui chiến lược khỏi kinh thành để bảo toàn lực lượng, sau đó bao vây, phản công quét sạch quân xâm lược. Thăng Long góp phần cùng nhân dân cả nước lập nên chiến công vĩ đại, ba lần đại thắng quân Nguyên – Mông. Nền văn minh Đại Việt, hào khí Thăng Long, hào khí Đông A tỏa sáng, Thăng Long xứng đáng là kinh đô anh hùng của đất nước anh hùng.

4. Thăng Long thời Lê, thời Mạc, Lê Trung hưng (1428 – 1788)

Nhà Trần trị vì được 175 năm thì lâm vào suy thoái. Hồ Quý Ly đại thần nhà Trần thâu tóm quyền lực. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, buộc vua Trần dời triều đình vào Tây Đô. Trong 10 năm cuối triều Trần nước ta có hai Đô là Tây Đô và Đông Đô. Tây Đô có triều đình, có vị thế về chính trị nhưng Đông Đô (Thăng Long) vẫn là trung tâm kinh tế lớn nhất của đất nước. Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, lên làm vua. Nhà Hồ ở ngôi 7 năm thì phong kiến nhà Minh sang xâm lược, cha con Hồ Quý Ly bị giặc bắt đưa về Trung Quốc. Sau gần 500 năm giành độc lập, đến nhà Hồ, nước ta lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Năm 1418, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Sau chín năm kháng chiến, nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng được các vùng từ Nam đến Bắc. Năm 1426, ba đạo quân Lam Sơn tiến ra bao vây thành Đông Quan, chủ động “vừa đánh vừa đàm”,“vây thành diệt viện”, dập tắt mọi hy vọng của giặc Minh trong thành Đông Quan, buộc Vương Thông phải lên đàn thề từ bỏ dã tâm xâm lược và xin rút quân về nước. Ngày 29/4/1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục quốc hiệu Đại Việt, định đô ở Đông Đô. Năm 1430, đổi tên là Đông Kinh. Thời Hậu Lê, kinh thành Thăng Long được quy hoạch và xây dựng theo quy cách đế đô của quốc gia quân chủ tập quyền. Kinh thành được mở rộng sang phía Đông. Trong Cấm thành, một toà thành hình chữ nhật xây gạch với cửa chính là Đoan Môn, nhà Lê xây dựng và bố trí lại nhiều cung điện, lầu gác, thâm nghiêm nhất là điện Kính Thiên xây dựng trên đỉnh núi Nùng. Ngoài Hoàng thành, nhiều kiến trúc mới cũng xuất hiện. Kiến trúc kinh thành thời Lê đạt đến trình độ mực thước, hài hoà. Khu dân sự tiếp tục phát triển và được quy hoạch lại gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương, mỗi huyện có 18 phường. Đông Kinh lúc này đã có những phố chợ buôn bán tấp nập, nhiều phường thủ công nổi tiếng, như: Nghi Tàm, Thụy Chương dệt vải; Yên Thái làm giấy; Hàng Đào nhuộm điều; tranh Hàng Trống…

Năm 1428, Lê Lợi cho lập nhà Quốc Tử Giám. Năm 1442, mở khoa thi Hội đầu tiên, long trọng tổ chức lễ xướng danh, treo bảng vàng, ban mũ áo cho người trúng tuyển, khuyến khích học hành. Nước Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã đạt tới đỉnh cao của một quốc gia phong kiến độc lập. Tuy nhiên, những mâu thuẫn trong nội bộ triều Lê Sơ, từ đầu thế kỷ XVI, đã dẫn tới sự phế truất vua Lê của tập đoàn phong kiến Mạc Đăng Dung (1572). Năm 1588, nhà Mạc huy động dân đắp 3 lần luỹ đất để tăng cường hệ thống phòng thủ kinh thành. Nhưng chỉ 4 năm sau, dưới danh nghĩa phù Lê, họ Trịnh chiếm được kinh thành. Kinh đô chính thức trở lại tên gọi Thăng Long. Triều đình của vua Lê đóng trong Hoàng thành cũ. Phủ Chúa Trịnh được xây bên ngoài, gồm nhiều cung điện nguy nga, chạy dài theo bờ tây Hồ Gươm. Tuy có những biến động về chính trị, nhưng thời Lê, Mạc, Lê Trung hưng, Thăng Long vẫn là một thành thị - thương cảng sầm uất nhất cả nước và vào loại lớn ở Châu Á. Bên cạnh các thương điếm của người Hoa, còn có cả những thương điếm của người Anh, Hà Lan, Đức. Khu vực dân cư trong kinh thành Thăng Long đông đúc hơn trước và có cả nhà hai tầng. Nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật, đặc biệt là về tôn giáo đã được xây dựng thêm.

5. Thăng Long- Hà Nội thời Tây Sơn (1788 - 1802)

Cuối năm 1788, Kinh đô và đất nước Đại Việt lại phải đương đầu với cuộc xâm lược của đế chế Mãn Thanh. Từ Phú Xuân (Huế), vua Quang Trung thống lĩnh đại quân Tây Sơn tiến ra Bắc, giải phóng Thăng Long. Giặc tan, vua Quang Trung về đóng đô ở Huế. Thăng Long là thủ phủ của Bắc Thành. Hoàng thành Thăng Long vẫn được nhà Tây Sơn cho tu sửa, đắp lại những đoạn bị sụt đổ. Chùa Kim Liên (Nghi Tàm), chùa Tây Phương (Thạch Thất), tượng Tuyết Sơn và 18 vị La Hán được tu bổ, tôn tạo; nhiều chuông to, đẹp được đúc. Sau chiến thắng vua Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ và nhân dân thu gom xác giặc, chôn cất và sai lập đàn chẩn tế, tu sửa chùa Bộc làm nơi quy y cho quân sĩ nhà Thanh; ban Chiếu khuyến nông, khuyến khích nhân dân trở về quê cũ khai khẩn ruộng bỏ hoang, phục hồi sản xuất; ban Chiếu lập học khuyến khích các địa phương mở trường học. Lập Viện Sùng Chính để dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm, đưa chữ Nôm lên địa vị chính thức của quốc gia. Lịch sử triều đại Tây Sơn tuy ngắn ngủi, nhưng đã để lại những dấu ấn đậm nét trong trang sử Thăng Long - Hà Nội văn hiến, anh hùng.

6. Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn và Pháp thuộc (1802 - 1945)

Lợi dụng cơ hội vua Quang Trung qua đời (1792), tập đoàn phong kiến Nguyễn Ánh từ miền Nam đánh chiếm Phú Xuân (1801), thăng Long (1802). Kinh đô nhà Nguyễn vẫn đặt ở Phú Xuân, Thăng Long được gọi là Bắc Thành. Hoàng Thành bị phá bỏ, thay vào đó là một toà thành mới hình vuông, xây theo kiểu thành Vô - băng của Pháp. Năm 1831, Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội với tỉnh lỵ là phủ Hoài Đức (thành Thăng Long cũ), Thăng Long được gọi là Hà Nội. Quốc Tử Giám, cơ quan giáo dục cao nhất của đất nước bị dời vào Huế. Tuy không còn là trung tâm chính trị, nhưng Hà Nội lúc đó vẫn là trung tâm kinh tế -văn hoá lớn nhất của cả nước.

Cuối thế kỷ XIX, trước những hành động xâm lược của thực dân Pháp, cùng với nhân dân cả nước, Hà Nội đã đứng lên kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương và người kế nhiệm là Tổng đốc Hoàng Diệu, nhân dân Hà Nội đã anh dũng chống trả các cuộc tấn công của quân Pháp. Nhưng triều đình nhà Nguyễn nhu nhược đã ký “Hiệp ước hoà bình” (1883), công nhận quyền thống trị của Pháp trên cả nước. Hà Nội trở thành đất “bảo hộ” thuộc Bắc kỳ, đặt dưới quyền cai trị của một viên Thống sứ người Pháp. Tháng 7/1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh lập thành phố Hà Nội, gồm đất đai tỉnh lỵ Hà Nội, đứng đầu là một viên Đốc ký.

Chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn của thực dân Pháp làm diện mạo của Hà Nội từ đầu thế kỷ XX có nhiều thay đổi. Các cơ sở hạ tầng được hoàn thành, trước hết là mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, cầu cống, trong đó có cầu Doumer qua sông Hồng. Thành cổ Hà Nội lại bị phá để xây các “khu nhà binh”, công sở. Điện Kính Thiên cũng bị phá huỷ, thay vào đó là nhà con Rồng hai tầng dùng làm sở chỉ huy pháo binh (1886). Đi đôi với việc hình thành các “khu phố Tây” (nằm trên các đường Đinh Tiên Hoàng, Ngô Quyền, Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt…ngày nay), một số công trình khác mang phong cách Châu Âu được xây dựng, như: Phủ Toàn quyền, Phủ Thống sứ, Ngân hàng Quốc gia, Nhà hát lớn, Nhà thờ lớn, nhà Bưu điện, trường Viễn Đông Bác Cổ, ga Hà Nội…

Mặc dù thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo, phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Nội thời Pháp thuộc, đặc biệt là sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (02/1930), lúc âm ỉ, lúc rầm rộ, không bao giờ tắt…Ngày 19/8/1945, thực hiện lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội, hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành đã nhất tề xuống đường đấu tranh giành chính quyền.

7. Hà Nội trong thời đại Hồ Chí Minh

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, công bố trước toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, tại kỳ họp Quốc hội lần thứ nhất Hà Nội được vinh dự chọn làm Thủ đô của cả nước trong kỷ nguyên mới.

Bước vào xây dựng cuộc sống tự do, dân chủ chỉ hơn một năm, nhân dân Thủ đô lại phải đương đầu với một cuộc xâm lược mới của thực dân Pháp. Đêm 19/12/1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc toàn quốc kháng chiến. Sau tám năm trường kỳ chiến đấu, ngày 10/10/1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô.

Hoà bình lập lại, Hà Nội khẩn trương bước vào công cuộc khôi phục và xây dựng kinh tế. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đã hoàn thành thắng lợi việc tiếp quản, nhanh chóng ổn định tình hình, khẩn trương bắt tay vào khôi phục, cải tạo và xây dựng thành phố. Chỉ hơn một tháng sau giải phóng, thành phố đã thông qua kế hoạch phục hồi công thương nghiệp. Không khí hòa bình xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố diễn ra sôi động. Một năm sau giải phóng, Hà Nội đã hoàn thành cải cách ruộng đất. Từ năm 1958 đến năm 1960 tiến hành xong cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và hợp tác hoá nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Bộ mặt thành phố đổi mới từng ngày Sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960 - 1965), Thủ đô đã trở thành trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế quan trọng trong cả nước.

Giữa năm 1966, giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, đánh phá Thủ đô. Tháng 3/1968, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Ngày 2/9/1969, Bác Hồ từ trần. Nhân dân Thủ đô Hà Nội tỏ rõ niềm tiếc thương vô hạn với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, ngày 9/9/1969, hơn 10 vạn cán bộ và nhân dân Thủ đô tới Quảng trường Ba Đình cùng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế dự Lễ truy điệu vĩnh biệt Người với lòng thành kính và biết ơn vô hạn. Tháng 4/1972, Hà Nội trở thành mục tiêu đánh phá lần thứ hai của Mỹ. Cuối năm đó, chỉ trong vòng 12 ngày đêm (18 - 29/12/1972), Mỹ đã trút hàng vạn tấn bom đạn xuống địa bàn Hà Nội. Thể hiện bản lĩnh là “Thủ đô của phẩm giá con người”, quân dân Hà Nội đã lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh sập “uy thế không lực Hoa Kỳ”. Trong hai cuộc chống chiến tranh phá hoại bằng đường không của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, 358 máy bay các loại của Mỹ trong đó có 23 chiếc pháo đài bay B52, 2 chiếc F111 bị tan xác trên bầu trời Hà Nội; 83 máy bay trong đó có 1 máy bay B52 và 2 máy bay F.111 bị tan xác trên bầu trời Hà Tây. Quân và dân Thủ đô Hà Nội đã góp phần quyết định buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris (01/1973), rút hết quân Mỹ và chư hầu về nước. Đúng một năm chín tháng sau, ngày 30/9/1974, tại Tổng hành dinh đóng trong Thành cổ Hà Nội, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương duyệt kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Với sự chi viện hết lòng và toàn diện của quân dân Hà Nội và miền Bắc, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975) đã toàn thắng. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam thống nhất.

Tháng 4/1976, Hà Nội được Quốc hội chung của cả nước quyết định là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện Di chúc của Bác Hồ, Đảng bộ và nhân dân Hà Nội quyết tâm xây dựng Thủ đô “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Hà Nội dấy lên nhiều phong trào thi đua yêu nước tiêu biểu như: phong trào bốn đổi mới trong công nghiệp, áp dụng khoán trong nông nghiệp, xử lý giá, lương, tiền trong lưu thông phân phối; tập trung quy hoạch phát triển đô thị - giao thông nội đô thống nhất; cải tạo lại mạng lưới điện hạ thế và cấp nước sạch; cải thiện nhà ở, giao thông và chiếu sáng đô thị.

Các công trình lớn như sân bay Nội Bài, cầu Thăng Long, cầu Đuống, cầu Chương Dương, đường 6 (đoạn Hà Nội - Hà Đông) và nhiều khu nhà cao tầng ở khu Bắc Thanh Xuân, Kim Giang, Đại học Bách Khoa, tập thể Quỳnh Lôi được xây dựng và đưa vào sử dụng. Một số ngành công nghiệp điện tử, công nghiệp chế biến thực phẩm, cơ khí nông nghiệp, hóa chất, chế tạo máy đã được hình thành. Ngành nông nghiệp Thủ đô áp dụng tốt các kỹ thuật thâm canh, tăng vụ, hình thành nhiều vùng chuyên canh rau ở các huyện Từ Liêm, Đông Anh, Thanh Trì. Kinh tế đối ngoại bắt đầu hình thành.

Với những bước đi quan trọng đó, lần đầu tiên trong kế hoạch 5 năm (1991 – 1995), nhiều mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội đã đạt và vượt toàn diện, nhiều mục tiêu đạt và hoàn thành trước thời hạn. Kinh tế Thủ đô liên tục tăng trưởng ở mức cao, điều đáng kể là bước đầu kinh tế Thủ đô đã có tích lũy. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hình thành cơ cấu kinh tế mới theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.

Giai đoạn 1996 – 2000, thành phố đã tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất, thương mại, dịch vụ then chốt. Những chủ trương và giải pháp quan trọng đó đã tạo sự phát triển kinh tế - xã hội toàn diện của Hà Nội, góp phần đáng kể cho việc động viên nguồn thu ngân sách Nhà nước. So với cả nước: năm 1990 thu ngân sách địa bàn Hà Nội đạt 9,2%, năm 2000 đạt 16,3%. Năm 2000, Hà Nội chiếm 3,6% về dân số và 2,8% diện tích lãnh thổ quốc gia nhưng đã đóng góp với cả nước 7,8% GDP. Đời sống nhân dân có nhiều cải thiện. Bộ mặt của Thủ đô có nhiều thay đổi, vị thế của Thủ đô được nâng lên. Một vinh dự lớn đối với Thủ đô Hà Nội, năm 1999 được tổ chức UNESCO của Liên Hợp quốc trao tặng danh hiệu vẻ vang “Thành phố vì hòa bình” và lấy làm nơi phát động “Năm quốc tế hòa bình – 2000”. Năm 2000, Hà Nội được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Thủ đô Anh hùng.

Thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2000 – 2010), về kinh tế, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Hà Nội tập trung trí tuệ đẩy nhanh tiến độ sắp xếp cổ phần hóa vững chắc doanh nghiệp Nhà nước; đổi mới công nghệ, thiết bị và mô hình quản lý; tích cực thu hút vốn đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cấp hạ tầng đô thị. Những năm đầu của thế kỷ XXI, bộ mặt Thủ đô đổi thay nhanh chóng, Hà Nội đã mở ra 4 hướng với những khu công nghiệp hiện đại như: Sài Đồng A, Sài Đồng B, Bắc Thăng Long, Chèm, Mễ Trì, Thượng Đình, Thanh Trì, Cầu Bươu, Cầu Diễn, Nghĩa Đô, Đông Anh, Sóc Sơn…phát triển công nghiệp Hà Nội gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu và công nghiệp của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh thực hiện thành công bước đi ban đầu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hà Nội trở thành trung tâm du lịch của cả nước, chất lượng dịch vụ du lịch từng bước được nâng cao. Thủ đô Hà Nội tích cực đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng văn hóa sinh thái. Cùng với phát triển kinh tế, Hà Nội tiếp tục đạt nhiều thành tựu nổi bật trong sự nghiệp phát triển văn hóa - xã hội và con người, tạo nên sức mạnh và độ bền vững của quá trình phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.

Những năm đầu thế kỷ XXI, Hà Nội đổi thay từng ngày. Không gian Hà Nội được phân thành các vùng rõ nét. Khu vực trung tâm được bao quanh bằng các đường La Thành – đường Láng - Trường Chinh - Đại La - Minh Khai và dọc hữu ngạn sông Hồng. Khu phát triển mở rộng, được quy hoạch theo hữu ngạn và tả ngạn sông Hồng. Trong đó hữu ngạn gồm khu vực phía Nam cầu Thăng Long, dọc quốc lộ 32. Ở đây, có khu công nghiệp Cầu Diễn, khu công nghệ cao Nam Thăng Long, khu đô thị Ciputra, các khu dân cư tập trung Mai Dịch, Nghĩa Đô, Cầu Diễn, Tây sông Nhuệ, khu dân cư theo quốc lộ 6 và vành đai 3. Các khu công nghiệp Thượng Đình, công viên mới Mễ Trì, khu trung tâm Thể thao quốc gia, khu đô thị mới Trung Yên, Yên Hòa, Thanh Xuân. Khu công nghiệp Xuân Mai, Định Công, Linh Đàm, Cầu Bươu, Mai Động. Khu Bắc cầu Thăng Long; khu thị trấn Gia Lâm – Sài Đồng – Đức Giang – Yên Viên; khu dọc đường quốc lộ 3.

Việc cải tạo, xây dựng Thủ đô thành một đô thị văn minh, hiện đại, xứng đáng với tầm vóc của một Quốc gia khoảng trên một trăm triệu dân, trong thế kỷ XXI là một yêu cầu cần thiết. Quốc hội đã có Nghị quyết số 15-2008/QH12 về mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 260/CT-TTg, ngày 4 tháng 3 năm 2008 về việc tổ chức thực hiện chủ trương mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội. Theo đó, Hà Nội mở rộng bao gồm toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau khi hợp nhất, mở rộng Hà Nội có diện tích 3.340 km2 với gần 6,5 triệu dân, 29 đơn vị huyện, quận; 577 xã, phường, thị trấn; 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao sinh sống.

Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đặt mục tiêu sau năm 2010 xây dựng Thủ đô Hà Nội hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc tương xứng với truyền thống ngàn năm văn hiến. Hướng phát triển của thành phố Hà Nội về phía Tây, hình thành chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây; phía Bắc là cụm đô thị Sóc Sơn - Xuân Hòa - Đại Lải - Phúc Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) và các đô thị khác. Điều chỉnh xây dựng thêm các khu công nghiệp tập trung mới như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn, Thăng Long, Đông Anh, mở rộng khu công nghiệp Đức Giang, Cầu Diễn, Cầu Bươu. Các hệ thống công viên, khu cây xanh, vui chơi, giải trí, khu du lịch các công trình công cộng… được rà soát, quy hoạch, đảm bảo môi trường sống ngày càng văn minh, hiện đại.

Trải qua bao biến thiên của lịch sử, Thăng Long - Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước, là nơi kết tinh tinh hoa của dân tộc, hội tụ nhân tài của đất nước. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội coi trọng việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể, kết hợp hài hoà trong quy hoạch và xây dựng đô thị, phát huy cao độ truyền thống Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến, đoàn kết xây dựng Hà Nội là “Thủ đô xanh, văn hiến – văn minh và hiện đại”, phát huy tốt vai trò là trung tâm lớn về văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, kinh tế và giao dịch quốc tế.

Nguồn: Ban tuyên giáo Trung ương
 
MỘT SỐ GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA NỀN VĂN HIẾN THĂNG LONG – HÀ NỘI

1. Truyền thống yêu nước, hào khí Thăng Long – Hà Nội

Thăng Long – Hà Nội là một trong những Thủ đô lâu đời nhất trên thế giới. Trải nghìn năm, Thăng Long – Hà Nội từng bẩy lần bị giặc chiếm đóng, cả bẩy lần quân dân kinh thành đều nhất tề chiến đấu kiên cường. Trước thế mạnh hung hãn của kẻ thù, chưa đủ sức chống đỡ, quân dân ta chủ động thực hiện kế “thanh dã” rút khỏi kinh thành bảo toàn lực lượng, cho quân giặc “tạm đứng chân” ở Thăng Long một thời gian, rồi bao vây quét sạch chúng đi. Thăng Long – Hà Nội có thế “rồng cuộn, hổ ngồi”, có con người dám đánh và biết cách đánh giặc, thời bình thì thực hiện “ngụ binh ư nông”. Giặc đến, trên khắp đồng quê, làng phố người tay cầm cày, tay cầm gươm, người tay cầm bút, tay cầm súng, vừa duy trì cuộc sống, vừa chiến đấu cứu nước cứu nhà. Giặc đến, trai tráng ra trận, bạch đầu quân cũng hướng theo cờ nghĩa, thiếu niên cũng luyện võ, mài đao. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Sức mạnh lòng dân chính là nhân tố đem lại chiến thắng vẻ vang cho đất nước. Thế kỷ XI, nước lân bang chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt đã chủ động viết hịch “Phạt Tống lộ bố văn” gửi các chúa vùng Ung, Khâm, Liêm rồi mang đại quân tiến thẳng vào sào huyệt để tiêu diệt các kho vũ khí, lương thảo của địch, sau đó lui về lập phòng tuyến vững chắc ở sông Như Nguyệt. Bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” âm vang trên dòng sông Như Nguyệt như lời hiệu triệu của núi sông, khích lệ toàn quân, toàn dân Đại Việt chiến đấu, chiến thắng kẻ thù. Thế kỷ XIII, ba lần quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, ba lần chúng chiếm được kinh thành Thăng Long. Nhưng lần thứ nhất quân dân Đại Việt cho 3 vạn quân Nguyên - Mông “ngủ trọ” trên đất nước ta mười một ngày; lần thứ hai, 50 vạn quân của Thoát Hoan và 10 vạn quân của Toa Đô “ngủ trọ” hơn ba tháng; lần thứ ba, quân dân Đại Việt cho 30 vạn quân Nguyên – Mông “ngủ trọ” 32 ngày, sau đó tổng phản công quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi. Hào khí Thăng Long, in đậm trong bài “Hịch tướng sĩ” bất hủ của Trần Hưng Đạo. Thế kỷ XV, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau mười năm nằm gai, nếm mật, Bình định vương Lê Lợi và quân sư Nguyễn Trãi đã đem đại quân bao vây thành Đông Quan vừa uy hiếp quân giặc, vừa địch vận, vừa diệt viện binh, buộc quân xâm lược phải bó giáo, lên đàn thề xin rút hết quân về nước. Thế kỷ XVIII, với cuộc hành quân thần tốc, bất ngờ sáng mồng Năm Tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung cùng các tướng sĩ Tây Sơn dũng cảm tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, Khương Thượng, đánh thọc sâu vào kinh thành Thăng Long, quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi kinh thành Thăng Long, đồng thời mở ra giai đoạn hợp nhất đất nước từ Bắc đến Nam. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp tấn công Hà Nội. Hai tấm gương trung dũng, lẫm liệt “sống chết với Thành Hà” của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương và Tổng đốc Hoàng Diệu sống mãi với Thủ đô. Trong buổi đầu chống thực dân Pháp, hai lần quân dân Hà Nội mưu trí giết chết sĩ quan chỉ huy của quân Pháp là Gácniê và Rivie ở Cầu Giấy. Chưa thể đuổi giặc ra khỏi thành bằng vũ lực, người dân Hà Nội tìm mọi cách để gây cho quân địch ăn không ngon, ngủ không yên. Những người yêu nước ở Hà Nội đã kết giao lập hội chống thực dân Pháp. Khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thanh niên, học sinh và người dân Hà Nội không ngại hy sinh, gian khổ, một lòng theo Đảng làm cách mạng. Thời cơ đến, Xứ ủy và Thành ủy Hà Nội nhạy bén phất cờ động viên nhân dân nhất tề đứng lên giành chính quyền, giành quyền làm chủ. Thắng lợi của phong trào cách mạng ở Hà Nội đã cổ vũ nhân dân cả nước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hà Nội trở thành Thủ đô của Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Giặc Pháp ngoan cố quay lại xâm lược nước ta, cuộc chiến đấu 60 ngày đêm ở Liên Khu Một với lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã thổi bùng hào khí Thăng Long – Hà Nội, mở đầu cho tám năm trường kỳ kháng chiến. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón mừng đoàn quân Chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô. Đế quốc Mỹ chia cắt đất nước ta, miền Nam còn kẻ thù xâm lược. Tiếng gọi non sông lại thôi thúc các chàng trai, cô gái Hà Nội tạm gác bút nghiên, lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Những người ra đi chiến đấu, in dấu chân trên khắp các chiến trường, có mặt trong các chiến dịch Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, cuộc Tổng tiến công nổi dậy ở Huế - Sài Gòn và kết thúc với sự có mặt của Trung đoàn Thăng Long cắm cờ trên dinh lũy Bộ Tổng tham mưu địch trong chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Những người ở lại vừa tăng gia sản xuất, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn, vừa cầm súng đối mặt với chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Dưới mưa bom rải thảm của giặc Mỹ, Hà Nội bình tĩnh, ngoan cường hiệp đồng với các quân, binh chủng lực lượng vũ trang các tỉnh, thành phố miền Bắc, lập nên kỳ tích “Điện Biên Phủ trên không”, đánh sập “uy thế không lực Hoa Kỳ”, buộc chúng phải ký Hiệp định Pa ri rút quân về nước.

Với tấm lòng yêu nước sắt son, bất khuất, kiên cường, mưu trí, sáng tạo nghìn năm qua người Thăng Long - Hà Nội đã thể hiện sinh động hào khí Thăng Long trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại mới. Hà Nội là “Thủ đô anh hùng” của dân tộc Việt Nam anh hùng; Hà Nội là “Thủ đô của phẩm giá con người”, “Thủ đô vì hòa bình”; Hà Nội nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, tỏa chiếu văn hiến Thăng Long đi khắp mọi miền của Tổ quốc, trở thành niềm tự hào chung của đất nước Việt Nam, tiếp thêm sức mạnh cho mỗi người dân Thủ đô, mỗi người dân Việt Nam sống, chiến đấu, lao động và học tập vì hạnh phúc lớn của dân tộc.
2. Truyền thống nhân nghĩa, khát vọng hòa bình

Hòa bình là khát vọng cháy bỏng của dân tộc ta. Người Thăng Long – Hà Nội cũng như người dân đất Việt không bao giờ muốn chiến tranh. Lịch sử đã ghi nhận lòng khoan dung, nhân ái của nhân dân Thăng Long – Hà Nội ngay cả khi kẻ thù buộc chúng ta phải cầm gươm, cầm súng tự vệ, nhân dân ta vẫn tìm cách “vừa đánh, vừa đàm” cho kẻ thù thoát khỏi cuộc chiến tranh hao người tốn của, tìm cách cho kẻ thù đường rút danh dự.

Ở vào thời điểm nghĩa quân Lam Sơn đã đánh tan đạo quân tiếp viện của nhà Minh, giết chết tướng Liễu Thăng, quân và dân ta thừa cả thế và lực để tiêu diệt quân địch trong thành Đông Quan. Nhưng với lòng nhân đạo muốn tránh chết chóc cho quân sĩ cả hai bên, tránh cho kinh thành khỏi bị tàn phá và tạo sự hòa hiếu giữa hai nước, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì thuyết phục tướng giặc. Nguyễn Trãi viết hàng chục bức thư gửi cho Vương Thông, lời lẽ trong các bức thư vừa thể hiện sự mềm mỏng, khiêm nhường vừa quyết liệt của người đang làm chủ hoàn toàn chiến trường. Vương Thông buộc phải mở cửa thành, lên đàn thề xin rút quân. Với tinh thần nhân đạo cao cả, Lê Lợi đã cấp hàng trăm thuyền, hàng nghìn ngựa, lương thực cho tù binh, hàng binh nhà Minh về nước. Câu chuyện truyền thuyết về vua Lê trả gươm thần cho Rùa vàng ở hồ Lục Thủy tiếp nối một cách tự nhiên trong dòng chảy của lịch sử. Chiến tranh kết thúc hoàn trả Thần Kiếm, đó chính là biểu trưng khát vọng hòa bình của dân tộc ta giữa lòng Thủ đô ngàn năm văn hiến. Nhân nghĩa trở thành truyền thống của dân tộc ta. Trong cuộc giao chiến kẻ địch giơ tay đầu hàng đều được nhân dân ta khoan hồng, đối xử nhân đạo. Chiến tranh kết thúc, nhân dân ta trải thảm cho tù binh, hàng binh về nước an toàn. Hài cốt lính địch bỏ xác trên đất Việt cũng được Nhà nước ta cho tìm kiếm trao trả thân nhân của họ. Nhân dân Thăng Long ngoài việc chôn cất lập đàn chẩn tế chu đáo, còn tu sửa, dựng chùa (chùa Bộc) làm nơi quy y cho vong linh binh sĩ của địch. Hận thù nên cởi, không nên buộc cũng là một triết lý nhân sinh của người Việt. Khắc ghi lịch sử, xóa bỏ hận thù, không quên quá khứ, hướng tới tương lai, đó là truyền thống văn hiến, anh hùng Thăng Long – Hà Nội. Với kẻ thù, người Thăng Long - Hà Nội và người dân Việt Nam luôn thể hiện lòng nhân nghĩa, với đồng bào lòng nhân ái càng được nâng cao, thể hiện bằng hành động thiết thực. Người dân Thăng Long – Hà Nội luôn hằng tâm, hằng sản, góp sức chung tay giúp đỡ mọi người trong cơn hoạn nạn. Đó là nét đẹp trong cuộc sống của người Thăng Long - Hà Nội.

3. Truyền thống tài hoa - trí tuệ Thăng Long - Hà Nội là đất nghìn năm văn hiến, là trung tâm tiêu biểu cho nhiều kỷ nguyên văn minh của dân tộc ta, như: kỷ nguyên văn minh sông Hồng, kỷ nguyên văn minh Đại Việt, kỷ nguyên văn minh Việt Nam.

Thăng Long – Hà Nội là nơi hội tụ nhân tài, hội tụ tinh hoa văn hóa – nghệ thuật, hội tụ tri thức. Trí tuệ của cả dân tộc hun đúc cho Thăng Long – Hà Nội và cũng từ đây trí tuệ Thăng Long – Hà Nội tỏa chiếu ra mọi miền của đất nước nâng cao tầm trí tuệ của dân tộc. Thăng Long – Hà Nội là nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, là nơi để các danh nhân, nghệ nhân phát huy tinh hoa. Năm 1070, Thăng Long có Văn Miếu. Năm 1076, Quốc Tử Giám, nhà Thái học - trường đại học đầu tiên của nước ta được xây dựng, lò luyện “nguyên khí Quốc gia” qua 124 khoa thi đã đào tạo 2.248 tiến sĩ, tên tuổi được vinh danh trên bia đá ở Văn Miếu và sử sách. Thăng Long còn có Giảng Võ Đường, nhà Võ học, đào tạo hàng trăm cống sĩ, võ tướng cho quân đội. Kinh đô Thăng Long là nơi rèn luyện, đào tạo, sản sinh ra:

“Văn quan cầm bút an thiên hạ.
Võ tướng đề đao định thái bình”.

Nền giáo dục Thăng Long – Hà Nội còn lưu danh nhiều nhà giáo tâm huyết với nghề đã tạo nên bao học trò thành danh cho đất nước, như: Chu Văn An, Bùi Xương Trạch, Phù Thúc Hoành, Lê Đức Mao, Đoàn Lệnh Khương, Phạm Quý Thích, Nguyễn Án, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan, Nguyễn Quý Đức, Lương Văn Can…. Noi gương Chu Văn An “người thày của muôn đời”, nhiều nhà giáo đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp trồng người, trung thực với nghề, cam sống hàn vi, không ham danh vọng, bổng lộc. Khẩu ngữ “Tiên học lễ, hậu học văn” còn để lại tới hôm nay. Thăng Long – Hà Nội còn tiêu biểu cho nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nơi hội tụ khách văn chương cả nước. Một thi xã Tao Đàn đời Hồng Đức làm sáng cả mảng văn học thời Lê. Một văn phái Ngô Thì với bao tác phẩm văn chương đồ sộ, khiến trăm họ ngưỡng mộ. Bên những văn nhân, thi nhân người Hà Nội, như: Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đặng Trần Côn, Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Phan Huy Chú, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Lý Văn Phức, bà huyện Thanh Quan…còn có những ngôi sao gốc tứ trấn, có người sinh ở Hà Nội, như: Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương..., có người xứ Đoài, xứ Đông, xứ Bắc, xứ Nam, như: Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Thân Nhân Trung, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Đình Hổ, Lê Quý Đôn…sự nghiệp, công danh được lập trên đất Thăng Long.

Thăng Long – Hà Nội là nơi đào tạo trí thức lớn nhất cả nước, trí tuệ, nhân cách của trí thức Hà Nội tỏa sáng. Các sĩ tử học đạo Thánh hiền, các “tao nhân, mặc khách” bầu rượu, túi thơ” trọng nghĩa, trọng tài lập nghiệp thành danh trên đất đế đô đều có chung phong cách đối nhân, xử thế lịch duyệt, tao nhã. Chí sĩ Hà Thành yêu nước, trọng nghĩa, trọng tài, nhân ái bao dung trong cả vinh lẫn suy; trước tiền bạc, cám dỗ luôn biết kiềm chế không để mất nhân cách; trước hiểm nguy luôn bình tĩnh, sáng suốt tìm đối sách hợp lý; trước kẻ thù, trước cái chết luôn cứng rắn, không run sợ, giữ thần thái, khí tiết. Bên cạnh những nhà chính trị cách mạng, nhà quân sự, nhà giáo, nhà văn Thăng Long – Hà Nội còn có những nghệ nhân, những người thợ tài hoa đã làm sáng danh đất Kẻ Chợ. Nghệ nhân và người thợ đến kinh kỳ đem theo nghề chuyên từ quê nhà, nhu cầu và đòi hỏi khắt khe của khách hàng kinh đô đã làm cho họ có điều kiện rèn luyện tay nghề. Thăng Long - Hà Nội vùng đất trăm nghề, nghề nào cũng khéo. Tên nghề ở Thăng Long - Hà Nội thường gắn với tên làng, tiếng thơm của nhiều làng nghề trên đất Thăng Long – Hà Nội nức tiếng gần xa, như: đúc đồng Ngũ Xã, tranh Hàng Trống, gốm Bát Tràng, the La Cả, lụa trắng Cổ Đô, nón làng Chuông, thêu Quất Động, khảm xà cừ Chuôn Tre....Đất lành, mới đầu chỉ là những tốp thợ ra trú ngụ làm theo thời vụ, dần dà họ kéo theo người trong dòng tộc, người cùng làng ra ở hẳn Thăng Long – Hà Nội. Họ lập nên phường hội, lập phố hàng... vừa sản xuất, vừa kinh doanh góp phần làm thay đổi khu vực “thị”. Họ trở thành người Thăng Long – Hà Nội, cuộc sống gắn bó với thăng trầm của vùng đất này. Sinh cơ lập nghiệp, an cư ở đất kinh kỳ nhưng tâm hồn họ vẫn luôn hướng về quê hương, gốc tổ. Nhiều dòng tộc, phường nghề đã lập đền miếu thờ vọng tổ nghề, thành hoàng làng trên đất Thăng Long – Hà Nội, các di sản quý báu đó được người Hà Nội trân trọng, tự hào gìn giữ và phát huy.

Đất Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến đã góp phần tạo nên nhân tài và các thế hệ nhân tài đã bồi đắp trở lại cho trái tim đất nước ngày càng xứng đáng tiêu biểu cho nền văn hiến Việt Nam. Không chỉ hội tụ, mà còn tỏa sáng. Theo tiếng gọi của non sông, người Thăng Long - Hà Nội sẵn sàng gác bút nghiên đi bảo vệ biên cương, sẵn sàng đi mở đất, xây dựng quê hương mới, đáp ứng yêu cầu của mọi miền Tổ quốc. Tuổi trẻ Thủ đô hôm nay luôn nêu gương “đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Ở bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì, họ cũng phấn đấu hết mình để không hổ thẹn là người Thăng Long – Hà Nội, không hổ thẹn với cha ông:

4. Phẩm chất thanh lịch – văn minh Thăng Long - Hà Nội

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An”

Tràng An là chỉ kinh đô Thăng Long – Hà Nội. “Thanh lịch” hàm nghĩa rộng của phong cách sống đẹp từ trong nhà ra xã hội, từ ăn nói, ăn mặc, ăn ở, ăn làm, ăn học, ăn chơi, đi đứng cho đến phép giao tiếp, ứng xử giữa người với người, giữa người với thiên nhiên, môi trường. “Thanh” có nghĩa là thanh cao trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn; thanh liêm với của cải xã hội; thanh bạch – thanh đạm trong cuộc sống đời thường; thanh nhã trong cử chỉ, hành động. “Lịch” phải chăng là con người cần có sự lịch lãm, lịch thiệp trong giao tiếp, ứng xử; lịch duyệt – hiểu biết rộng. Nếu như “thanh” muốn có phải học hỏi, tu dưỡng rèn luyện, thì ở “lịch” lại do sự từng trải và kinh nghiệm sống đem đến. Có đủ “thanh lịch” mới trọn vẹn.

Thăng Long – Hà Nội là nơi tụ hội người dân của mọi miền Tổ quốc, là điểm đến và sinh cơ lập nghiệp của một số kiều dân nước ngoài. Đến kinh đô, họ mang theo tinh hoa quê hương đến góp cho Thăng Long - Hà Nội, nhưng cũng đồng thời mang theo tập quán quê cũ. Kinh đô Thăng Long - Hà Nội như cái sàng, sàng lọc, gom nhặt từ những cái đẹp nhỏ nhất của bốn phương để làm giàu cho mình, đồng thời cũng loại bỏ những gì không thích hợp để rồi ổn định, định hình, định tính, định vị cái thanh lịch cũng như tán phát văn hóa Thăng Long đi muôn nơi. Nét đặc trưng văn hóa Thăng Long là sự hòa hợp nếp sống giữa người dân Hà Thành với “người tứ chiếng”, giữa “người đồng văn, đồng chủng” với người nước ngoài. Bên cạnh những nét riêng trong các yếu tố nhân chủng, thể chất, ngôn ngữ, người Hà Nội có một số tư chất, nội tâm, đường ăn nết ở tài hoa, thanh lịch, kiên cường. Cái tư chất người Hà Nội thời phong kiến là giữ được cái căn tính của nền văn minh lúa nước. Cái chất của người Hà Nội thời Pháp thuộc là tài hoa và khí phách cách mạng anh hùng. Trong công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, người Hà Nội phát huy tinh thần năng động, sáng tạo đã được hun đúc qua chiều dài hàng ngàn năm lịch sử. Người Thăng Long - Hà Nội tự hào về cái “thanh lịch” của mình. Cái thanh lịch của Thăng Long - Hà Nội thể hiện trong nhiều mặt. Trước hết là thể hiện ở lời nói. Tiếng nói của người Thủ đô chuẩn xác cao, thanh âm mẫu mực. Người Thăng Long - Hà Nội vận dụng từ ngữ khéo léo, nhã nhặn, tế nhị. Trong giao tiếp, biết nhún mình, tôn trọng người, mềm mỏng mà không thớ lợ, tài hoa mà không khoe khoang, biết rộng mà không làm cao. Người thợ thủ công trên đất Thăng Long – Hà Nội giữ cái tố chất tương trợ, phường hội giúp đỡ lẫn nhau, bênh vực lẽ phải, bênh vực “kẻ yếu”. Người nông dân giữ cái thuần phác, cần cù “biết nhịn”, “biết nể”. Nho sĩ, hàn sĩ giữ cái cốt cách của người học đạo thánh hiền lời nói văn vẻ, dễ nghe, còn một tấm áo lụa, ra đường còn nho nhã, còn một đồng trong túi là không để mâm cơm đãi khách phải ngọ ngằn.

Ngạn ngữ có câu “Ăn Bắc, mặc Kinh”. Thăng Long - Hà Nội là kinh đô đồng thời cũng tiêu biểu cho xứ Bắc. Ăn, mặc của người Thăng Long - Hà Nội cũng toát nên chất thanh lịch. Người Thăng Long - Hà Nội rất sành trong ăn uống, nâng cách ăn uống, chế biến món ăn thành nghệ thuật ẩm thực. Món ăn chế biến, mặn, ngọt, chua, cay vừa độ, gia vị đầy đủ; nước chấm, nước canh khéo chế. Bữa ăn ngon từ cách bày đĩa, xếp mâm, lên cỗ. Nét văn hoá bộc lộ trong ăn uống cũng tinh tế, phong phú. “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Vào mâm cơm người Thăng Long – Hà Nội trọng người già, quý trẻ em, nhường nhịn món ăn ngon, gắp tiếp trước cho khách. Ăn uống từ tốn, nhai nuốt thong thả. Ăn để thòm thèm, nhớ mãi. Người Thăng Long – Hà Nội lịch sự trong cách mặc. Trang phục, trang sức ưa sự gọn gàng, trang nhã, tề chỉnh, cách tân tinh tế, đủ độ lộng lẫy, kiêu sa. Người Thăng Long - Hà Nội thích “diện”, thích đổi “mốt” làm đẹp phố phường. Cái “diện” của con người vùng đất này cũng mang “tư chất” kín đáo, tế nhị, không cầu kỳ, biết nâng “cái đẹp” đồng hành với “cái nết”. Người Thăng Long - Hà Nội xưa ra đường là mặc áo dài, khăn nón, giày guốc đầy đủ. Khách đến chơi nhà, chủ nhà giữ lễ “tôn trọng mình, tôn trọng khách”, “ăn vận” quần áo gọn gàng, tươm tất rồi mới tiếp khách. Con gái Thăng Long - Hà Nội giữ “công, dung, ngôn, hạnh”, giữ đủ nét e lệ, dịu dàng, giữ gìn ý tứ từ dáng đi, nụ cười, ánh mắt, đồ trang sức vừa đủ, ít người đeo vàng, ngọc đầy cổ, đầy tay. Trong giao tiếp, ứng xử người Hà Nội không chỉ giữ gìn thuần phong mỹ tục truyền thống mà còn tiếp thu tinh hoa văn minh, hiện đại của bốn phương. Trước đây người Hà Nội đón tiếp khách quý là chắp tay vái chào, nay bắt tay cởi mở. Từ chỗ “nam nữ thụ thụ bất thân” đã đi tới bình đẳng giới, xây dựng được nét đẹp tôn trọng người già, nhường nhịn phụ nữ, quý mến trẻ thơ, giúp đỡ người già yếu, khuyết tật, lịch sự thân thiện với người mới đến, người nước ngoài. Gặp vướng mắc, va chạm thì ứng xử ôn hoà, không đối đầu, bạo lực, luôn mong muốn giải quyết êm đẹp, phục thiện.

Gia đình là cái nôi nuôi lớn tâm hồn con người. Gia đình là tế bào quyết định chất lượng xã hội. Xây dựng và bảo toàn mái ấm gia đình là điều kiện cơ bản cho hôm nay và ngày mai đi lên của đất nước. Muốn thế phải phải giữ được “nếp nhà”. Chữ “hiếu” không cổ hủ mà thích nghi với hoàn cảnh mới. Trong gia đình, người Thăng Long - Hà Nội coi trọng giữ gìn nề nếp, gia phong. Dạy bảo con cháu, người Thăng Long - Hà Nội lấy chữ “hiếu” với ông bà, cha mẹ làm đầu, chữ “hiền thảo” với dâu rể, chữ “thành đạt” với con cháu. Ông bà, cha mẹ lấy cái mẫu mực, làm gương cho con cháu noi theo. Cuộc sống phố phường sôi động, nhưng người Thăng Long - Hà Nội vẫn giữ được nét đẹp của sinh hoạt tâm linh và cộng đồng đầy tính thiện như: hái lộc đầu xuân, đi lễ đền chùa cầu lành, cầu mát, cầu quốc thái, dân an, thắp hương thờ cúng tổ tiên, cúng giao thừa, năm mới xông đất chúc tụng nhau, đến Văn Miếu xin chữ Thánh hiền đầu xuân. Các cụ ông, các tài tử, văn nhân có cái thú uống trà, “nuôi cá dưỡng tâm, nuôi chim dưỡng tính”, “nuôi lan tích đức”, dựng hòn non bộ, trồng cây cảnh để cân bằng phong thủy. Với môi trường thiên nhiên, môi trường đô thị, môi trường hội nhập kinh tế quốc tế, người Hà Nội đang xây dựng được nét ứng xử đẹp phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Nhân cách của người Thăng Long - Hà Nội hôm nay được xây dựng trên tổng hoà các giá trị văn hiến truyền thống và hiện đại. Nâng cao phẩm chất trí tuệ, tài năng, tâm hồn, tình cảm, lý tưởng và hành động mang bản sắc Thăng Long – Hà Nội, xây dựng Thủ đô Hà Nội văn minh, hiện đại xứng tầm với thành phố nghìn năm tuổi là vinh dự và trách nhiệm của mỗi người dân cả nước nói chung và người dân Hà Nội nói riêng.

Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương
 
Chút gì còn lại của thời gian.....


Giữa bồng bềnh sương khói Hồ Gươm, ông ngồi đó lặng lẽ, trầm ngâm. Rồi ông lấy cây vĩ cầm ra. Những thanh âm du dương từ cây vĩ cầm cùng với giai điệu những bài hát về Hà Nội từ thời đạn bom khói lửa... cứ thế tuôn trào, giữa những ngày Hà Nội mừng Đại lễ.

Tiếng vĩ cầm bên hồ

Người ta gọi ông là "Chủ tịch câu lạc bộ ngàn sao", bởi những đêm biểu diễn của ông thường lấy vỉa hè, lấy bầu trời ngàn sao làm làm sân khấu; khán giả là những người khách qua đường, bất chợt đi qua và bị tiếng vĩ cầm réo rắt mê hoặc.

Riêng tôi, tôi gọi ông là là nghệ nhân hát rong vĩ đại nhất mà mình đã từng gặp. Bởi, ông có thể hát bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào để thỏa mãn niềm đam mê, thỏa mãn cơn "khát" của mình. Với ông, cây đàn violon, đàn ghi ta cùng với acmonica như là hơi thở, như là cuộc sống vậy.

Và, ông gọi đó là những "người tình" của mình. Người nghệ sỹ hát rong vĩ đại nhất mà tôi gặp vào một đêm bồng bềnh sương khói bên Hồ Gươm có tên Tạ Trí Hải. Ông đến từ TP.HCM...


Hồ Gươm đêm 2/10 chẳng có pháo hoa cũng chảng có những vũ điệu ánh sáng lung linh huyền ảo. Đang đi giữa hàng vạn người chen chúc, bỗng có tiếng đàn violon du dương, da diết vọng lại. Một người nghệ sỹ già đang miệt mài kéo đàn cho những bạn trẻ ca hát.


images2047840_1.jpg


Ông Hải đang say sưa kéo vĩ cầm bên Hồ Gươm.



Râu tóc bạc phơ, mắt lim dim, ông thả hồn theo những giai điệu của bài hát. Ông cứ thế, hát say sưa. Tiếng hát từ gan ruột. Chòm râu bạc trắng xõa hết lên cả cung đàn. Không gian tĩnh lặng, chỉ có tiếng vĩ cầm là du dương lúc trầm lúc bổng, hòa quyện với sương khói ven hồ. Âm thanh đấy cứ thế, nhẹ nhàng, nhẹ nhàng lan tỏa. Hàng trăm đôi mắt đổ dồn vào ông, chăm chú ngắm nghía nguời nghệ sỹ già đang thả hồn mình vào cây vĩ cầm.


images2047841_2.jpg


Rất nhiều bạn trẻ không hẹn mà đến, quây quần bên ông suốt đêm.



Tôi với đồng nghiệp không phải là người rành về âm nhạc, càng không phải là người hiểu về những thanh âm của cây đàn từng được ví là bà chúa, là nữ hoàng trong các dụng cụ về âm nhạc... Ấy vậy mà những khi nghe người nghệ sỹ hát rong này đưa cây vĩ cầm này cất lên những giai điệu đầu tiên của bản nhạc, lòng bỗng lâng lâng một nỗi niềm khó tả. Thanh âm những bài hát về Hà Nội những năm khói lửa, về lớp lớp cha anh ngày xưa đã ngã xuống hay những ca khúc hoài niệm của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn cứ thể vắt vẻo giữa chốn thinh không, ru ngủ những tâm hồn kẻ lãng du.


Ký ức về Hà Nội

Ông Hải là người Hà Nội gốc, sinh ra và lớn lên ở khu phố cổ. Ký ức về Hà Nội trong ông là những buổi chiểu chạy bộ ra bờ đê thả diều, bắt dế chọi nhau; là những đêm trăng sáng vành vạch cùng nhau thả bộ ra Hồ Gươm để tắm mát rồi chơi trò trốn tìm, là tà áo dài của những nữ sinh Trưng Vương từng đi vào giấc ngủ...

Ông kể về Hà Nội say sưa giống như khi ông đưa tay kéo những bản nhạc. Những góc phố rêu xanh phủ đầy, những chiều thu Hồ Tây lãng đãng, bồng bềnh sương khói, heo may giăng ngập lối về...chính là miền ký ức không thể xóa nhòa trong tâm hồn người đàn ông 70 tuổi này.

Ông Hải kể rằng, ông say mê tiếng đàn réo rắt của cây vĩ cầm từ bé, dù ông biết rằng, người nào lỡ đam mê "cây đàn gọi quỷ" này đều có một cuộc sống buồn. Ông bảo, thời bé, một lần vừa chạy đi chơi về, ghé qua nhà chú ruột thì thấy cậu em họ đang ngồi kéo vĩ cầm. Và, ông đã bị chính tiếng đàn luyến láy đó mê hoặc. Những lúc bố ông ngồi tụng kinh, gõ mõ thì ông chạy ù sang nhà cậu em để học đàn.




Cây vĩ cầm này giống như người tình thủy chung với cuộc đời ông.

Những năm 1972, khi quân đội Mỹ điên cuồng ném bom nhằm phá nát Thủ đô, ông Hải vừa tay súng, tay đàn. Địch đến, ông lại cùng các đồng đội leo lên nóc hầm công sự, dùng súng trường bắn trả lại những trận bom kinh hoàng.

Khi những chiếc B52 bỏ chạy, nóc hầm công sự còn khét lẹt mùi khói súng, ông lại mang cây đàn violon ra để chơi những bản nhạc tiền chiến. Giai điệu hào hùng của những bài hát về cách mạng cứ thế cất lên.

Rời Hà Nội vào những năm cuối 80, ông bước chân vào Sài Gòn, làm kỹ thuật cho Tổng công ty cao su. Nhưng rồi do bất bình về thế thái nhân tình, ông bỏ nghề.

Niềm vui của ông lúc này chỉ là những cây đàn. Tối tối, sau bữa cơm đạm bạc, ông lại dắt chiếc xe đạp ra công viên 30/4 ngồi đàn. Hàng chục bạn trẻ đi qua, thấy một ông cụ râu tóc bạc phơ, ngồi thanh tịnh, lặng lẽ kéo đàn liền vây quanh ông. Trẻ hát, già kéo vĩ cầm. Những ồn ào, vồn vã của chốn thị thành bỗng chốc biến mất nhường chỗ cho tiếng hát và tiếng vĩ cầm trầm mặc.


Nhiều bạn trẻ, cứ đêm đêm không hẹn mà đến, rủ nhau ra góc công viên để chờ ông. Ông trở thành "Chủ tịch câu lạc bộ ngàn sao" từ đó, từ những đêm ngồi kéo đàn nơi thảm cỏ xanh công viên 30/4.







Hồ Gươm đêm 2/10 chẳng có pháo hoa cũng chăng có những vũ điệu ánh sáng lung linh huyền ảo;chỉ có tiếng đàn violon du dương, da diết vọng lại.

Sau những đêm khuya ngồi hát ở Sài thành, ông lại lủi thủi trở về căn nhà xập xệ gần đường Nguyễn Huệ. Ông bảo, nhiều đêm, không tài nào chợp mắt được, nhớ Hà Nội đến nao lòng. Mấy lần ông tính về thăm lại Hà Nội, đi dạo trên những con phố, những nơi từng nuôi dưỡng tâm hồn tuổi thơ. Nhưng rồi lại không thể...


Và, cũng đã 5 năm ông không trở lại Hà Nội

5 năm, nhiều đêm ông thèm một tiếng rao khuya, thèm một thoáng khe khẽ rùng mình khi heo may về, thèm được ngồi cùng những người bạn vong niên để ôn lại thời quá vãng.

Rồi ông mang cả nỗi nhớ, niềm khắc khoải này vào tiếng đàn của mình.

Và ông trở lại Hà Nội vào đúng ngày Đại lễ ngàn năm Thăng Long. Tối tối, ônh lại tìm một góc yên tĩnh nhất nơi Hồ Gươm rồi chơi đàn. Những thanh âm từ cây vĩ cầm cứ thế vang lên. Rất nhiều bạn trẻ đã vây lấy ông. Họ chăm chú ngồi lắng nghe người nghệ sỹ già chơi đàn.


images2047842_4.jpg



Rất nhiều bạn trẻ hâm mộ đã tìm đến căn nhà nhỏ tại 19 - Hàng Chiếu để được nghe ông kéo violon.



Khuya, ông trở về căn nhà của một người cháu tại 19 Hàng Điếu. Đám trẻ vẫn vây lấy ông, theo ông về căn nhà nhỏ nằm khuất sâu trong một ngõ nhỏ ngoằn nghèo. Ăn một chút gì lót bụng, ông lại quây quần bên lũ trẻ rồi ngồi hát.

Nhiều người sợ ông mệt, bảo ông nghỉ sớm, ông chỉ cười hiền: "Tôi sợ không còn đủ thời gian để hát cho các bạn nghe nữa. Năm nay đã ngoài 70 tuổi rồi còn gì". Ông hát, cứ như thể sợ thời gian vụt trôi đi mất.

Ông Hải đưa cho tôi xem cuốn nhật ký của những người qua đường từng nghe mình hát. Mỗi người một tâm trạng, một nỗi niềm, một cảm xúc khác nhau, nhưng tất cả đều trân trọng những gì mà người nghệ sỹ hát rong này mang lại cho cuộc đời này.

Và họ sợ, một nỗi sợ vô hình, rằng: một ngày nào đó sẽ không được nghe ông hát, góc phố công viên mà ông vẫn thường ngồi nay vắng bóng ông, sợ rằng ông sẽ mang theo cả cây vĩ cầm đến một thế giới khác.


Trong căn gác xép nơi ông lưu trú tại Hà Nội những ngày này, có rất nhiều bạn trẻ quây quần. Họ tìm đến với ông, ở bên ông, hát cùng ông từ sáng cho đến tối.

Nỗi niềm của Huệ- một cô sinh viên có đôi mắt u buồn, thăm thẳm như nước hồ mùa thu âu cũng là dễ hiểu: "Giữa chốn ồn ào, náo nhiệt, bon chen của cuộc sống hằng ngày, tiếng đàn của cụ Hải cất lên cứ như một luyến láy, làm cho con người cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn, xích lại gần nhau hơn".




  • Hoàng Sang - Duy Tuấn -VNN
 
Tôi đã tìm thấy một cảm giác về Hà Nội, nói đúng hơn là Hà Thành vào trung thu năm nay.


Sống và học tập ở Hà Nội đã 3 năm có lẻ, tôi vẫn chưa cảm thấy được nét riêng nào của nó cho đến Trung thu năm nay.

Tối hôm trước ngày rằm, vừa từ thư viện bước ra nhà để xe, tôi bắt gặp hình ảnh vầng trăng 14 sáng trắng trên đầu. Ngay lúc ấy trong đầu tôi chỉ có một suy nghĩ là nhất định phải được ngắm trăng rằm vào tối mai, đồng nghĩa với nghỉ học thêm tiếng Anh - vốn là dạo này tôi hay quyết tâm làm những thứ mình thực sự thích. Tôi tưởng tượng ra việc mình đang ở cái vỉa-hè-giữa-lòng-đường-Văn-Cao, ngồi ngả lưng với hai tay chống phía sau, lấp đầy tầm nhìn bằng bầu trời đêm thu trong mát với vầng trăng sáng vằng vặc. Nếu được nằm ra thì tốt nhưng tôi chắc là mình chẳng dám hành động kỳ quặc như vậy. Tôi cũng không định bụng rủ ai đi cùng, tôi muốn một mình, để được thành thực với cảm giác của mình.

Chập tối hôm sau, tức hôm rằm, cũng lại bước ra khỏi thư viện thì - ha! - chào đón tôi là bầu trời xám mù mịt. Nhưng tôi chỉ thất vọng trong chốc lát, vì xen lẫn với hi vọng là trời sẽ quang trở lại tôi còn tự nhủ rằng nếu không có trăng thanh thì sẽ hưởng gió mát cũng đủ sướng rồi (Trăng thanh gió mát vẫn được cho là của các đêm hè, nhưng mùa thu tôi cũng cảm thấy vậy, do tôi thiếu tinh tế hay là tại biến đổi khí hậu không biết chừng!) Cho nên tôi vẫn nghỉ học. Cơm nước xong, tôi tìm cách đi chơi trung thu một mình một cách thuận tiện nhất. Nếu tôi già như một bác trung niên thì tôi đã có thể thoải mái tản bộ ra đến Văn Cao mà không cảm thấy ngại ngùng gì, nhưng tôi lại còn rất trẻ, vì sao trẻ lại thấy ngại thì quả thực giải thích ra cũng dài dòng - tóm lại là tôi thấy ngại. Rồi tôi cũng nghĩ ra cách, tôi đi giày thể thao và giả vờ như là mình đi tập thể dục.

Mải để ý sang đường nên ngay khi bước chân lên cái vỉa-hè-giữa-lòng-đường ấy tôi thấy hơi bất ngờ vì ở đó không vắng vẻ như tôi tưởng, mà người ta đang nhộn nhịp ăn rằm! Ăn cỗ trông trăng ở đây tất nhiên là một ý tưởng hợp lý, ngay cả tôi dù chỉ có một mình còn nghĩ ra cơ mà, thế nhưng trước đó tôi lại tưởng tượng ra chỉ có mình với các ông bà già đi bộ khác.

Trời vẫn mờ mịt mây, tôi chỉ còn cách đi bộ xung quanh ngắm người ta đón rằm. Điều khiến tôi thấy thú vị là chỉ có các gia đình, mà tôi chắc là người Hà Nội, chứ không có nhóm thanh niên nào cả. Họ trải bạt ra thảm cỏ, bày biện đồ ăn và người lớn thì quây quần ngồi bên nhau còn trẻ con ríu rít chạy xung quanh. Ngay lập tức, tôi cảm thấy cái gì đó rất thành thị, rất Hà Nội trong không khí nơi đây, cảm giác mà trước đây tôi chưa bao giờ có. Đối với tôi, Hà Nội chỉ là một thành phố, và sự ồn ào, nhộn nhịp, đầy đủ tiện nghi của nó chỉ gợi cho tôi cảm thấy cái nét thành phố chứ chưa bao giờ là thành thị. Có lẽ hai từ này cùng nghĩa, nhưng từ thành thị cho tôi cảm giác khác, gắn với những con người trí thức, những nếp sống quý tộc, những thú chơi tao nhã. Cảm giác về từ thành thị hình thành trong tôi từ khi tôi đọc những câu văn về túi mía ướp hoa bưởi trong truyện ngắn Tiên sư anh Tào Tháo của Nam Cao, khi tiếng còi vang lên trong đêm lúc hai chị em Liên và An đứng nhìn đoàn tàu chở khách từ Hà Nội đi qua phố huyện nghèo trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Và lúc này, tôi cũng có cảm giác như thế, rằng những gia đình đang ngồi kia là những người Hà Nội đích thực, họ đang có một cái thú chơi rất nhã đó là ăn cỗ trông trăng ở một nơi tuyệt hảo như thế này, dù hôm ấy không có trăng. Vâng, không có trăng, lúc ấy tôi muốn trăng hiện ra hơn bao giờ hết, không hẳn là vì tôi tha thiết muốn ngắm trăng, mà tôi thấy hơi cô đơn, lạc lõng trong thế giới của người Hà Nội, chỉ có trăng là dành cho tất cả chúng ta.

Tôi không thể nói dối là tôi thấy yêu Hà Nội mà tôi đang sống được, nhưng nói thực là tôi yêu Hà Nội xưa, như yêu một nét văn hóa thanh cao, nhã nhặn. Hôm qua, khi xem triển lãm áo dài, một lần nữa tôi lại thấy phảng phất từ “Hà Nội” trong tà áo lụa mềm mượt bay trên cầu Thê Húc rực sáng đèn, cứ như là các thiếu nữ Hà Thành đang đi trong ánh trăng vậy.

Bài viết sưu tầm..
 
LỊCH SỬ CÁC TÊN GỌI CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Thanh_co_loa1.jpg
Bản đồ thành Cổ Loa.

Hà Nội đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử. Trong thời kỳ cai trị của người Trung Quốc nó từng có tên là huyện Tống Bình, xuất hiện trong sử sách từ những năm 454-456 thời Nam Bắc triều của Trung Quốc.

Năm 545, Lý Bí đánh thắng quân nhà Lương lập nên nước Vạn Xuân độc lập. Ông tự xưng Lý Nam Đế, định đô ở miền cửa sông Tô Lịch Hà Nội. Ông cho lập điện Vạn Thọ là nơi họp bàn việc nước. Lý Nam Đế cũng cho dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa (Yên Phụ) tên là Khai Quốc, tiền thân của chùa Chùa Trấn Quốc ngày nay.

Về sau Hà Nội được đổi tên gọi là Đại La (nguyên là tên của vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy vòng thành nhỏ hơn ở trong). Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục có viết:
"Thành này do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 (767) đời Đường; năm Trinh Nguyên thứ 7 (791), Triệu Xương đắp thêm; năm Nguyên Hòa thứ 3 (808), Trương Chu lại sửa đắp lại; năm Trường Khánh thứ 4 (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành; năm Hàm Thông thứ 7 (866), Cao Biền đắp ngoại thành bao quanh "kim thành", cũng gọi tên là La Thành."
Long Đỗ (rốn rồng) cũng là một tên gọi của Hà Nội, nhưng không phải tên gọi chính thức, tên gọi này xuất hiện từ thời Cao Biền. Truyền thuyết kể rằng, vào năm 866, khi Cao Biền mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.

Thời kỳ đô hộ Phương Bắc nhà Tuỳ (581-618), nhà Đường (618-907), trị sở ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay), tới đời Tuỳ chúng mới chuyển đến Tống Bình, tức Hà Nội.

Thành cũng còn có tên là Đại La. Đại La, hay Đại La thành, nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh Đô. Theo kiến trúc xưa, Kinh Đô thường có "Tam trùng thành quách": trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. Năm 866 Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..." (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr 241).

Khi Việt Nam giành được độc lập, Hà Nội lúc đó trở thành thủ đô của Đại Việt từ thế kỷ thứ 11, với tên gọi Thăng Long (có nghĩa là "rồng bay lên"), sau khi Lý Công Uẩn ra chiếu dời đô năm 1010. Thăng Long là thủ đô cho đến năm 1397, khi thủ đô được di chuyển về Thanh Hóa (tức Tây Đô). Thăng Long khi đó có tên gọi là Đông Đô. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Toàn thư Sđd – tr.192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô" (Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).

Năm 1408, nước Đại Ngu của cha con họ Hồ bị quân đội của nhà Minh xâm chiếm và Đông Đô bị người Minh đổi tên thành Đông Quan.

Năm 1428, sau khi quân đội của Lê Lợi giải phóng đất nước thì Đông Quan được đổi tên thành Đông Kinh - tên gọi này người châu Âu phiên âm thành Tonkin. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr 293).
Thời Tây Sơn, vì kinh đô đóng ở Phú Xuân thành còn có tên là Bắc Thành.

Năm 1802, khi nhà Nguyễn chuyển kinh đô về Huế, nó lại được đổi tên thành Thăng Long, nhưng lần này chữ "Long" biểu hiện cho sự thịnh vượng, chứ không phải là rồng, với lý do rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên), Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).

Sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại rộng quá.

Năm 1831 vua Minh Mạng lập ra tỉnh Hà Nội: tỉnh nằm trong (nội) hai con sông (hà) là sông Hồng và sông Đáy. Khi Việt Nam tiếp xúc với phương Tây, tên Hán-Việt của Hà Nội Đông Kinh, được viết thành Tonkin và được người châu Âu dùng phổ biến. Năm 1873, người Pháp bắt đầu tiến đánh Hà Nội và 10 năm sau thì chiếm toàn bộ. Từ năm 1887, Hà Nội trở thành thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp.

Năm 1940, thành phố bị phát xít Nhật xâm chiếm và đến năm 1945 Hà Nội được giải phóng và là nơi đặt các cơ quan của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ 1946 đến 1954, Hà Nội là chiến địa ác liệt giữa Việt Minh và quân đội Pháp. Sau khi được giải phóng vào ngày 10 tháng 10 năm 1954, Hà Nội trở thành thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong Chiến tranh Việt Nam, các công trình giao thông của Hà Nội như cầu và đường tàu bị bom đạn phá hủy, tuy nhiên ngay lập tức được sửa chữa. Trong thời gian này Hà Nội được xưng tụng là "Thủ đô của phẩm giá con người". Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Việt Nam sau ngày Bắc Nam thống nhất 2 tháng 7 năm 1976.

Hà Nội còn có nhiều các tên gọi không chính thức khác, chủ yếu xuất hiện trong văn thơ và dân gian: Trường An hay Tràng An (lấy theo tên gọi của kinh đô của Trung Quốc thời kỳ nhà Hán và nhà Đường); Phượng Thành hay Phụng Thành (trong bài phú của Nguyễn Giản Thanh); Long Thành, Long Biên, Kẻ Chợ (trong dân gian); Thượng Kinh, Kinh Kỳ, Hà Thành, Hoàng Diệu, ngay sau Cách mạng tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.


Nguồn: ST

 
Từ thành Cổ Loa đến kinh thành Thăng Long

Sau khi nhà Thục (Thục Phán An Dương Vương) thay triều đại vua Hùng-Âu Lạc tiếp nối Nhà nước Văn Lang, lịch sử ghi nhận vào nửa sau thế kỷ thứ III trước CN, Chạ Chủ-một làng quê thời Vua Hùng đã trở thành đế đô nhà Thục, gọi tên mới là Cổ Loa, vùng cao ráo nằm trên gờ miệng Trung Du-Trung tâm nước Âu Lạc, kề bên sông Hồng Giang (còn gọi là sông Thiếp) là một nhánh của sông Hồng ở phía Bắc chạy qua 5 huyện Yên Lãng, Kim Anh, Đông Ngàn, Tiên Du, Yên Phong từ xứ Đồi sang xứ Bắc nay thuộc huyện Đông Anh Hà Nội.

Thành Cổ Loa

Thủ đô nước Âu Lạc hiện là tòa thành cổ nhất Việt Nam. Cổ Loa vừa là kinh thành vừa được xem là quân Thành “Ai về qua huyện Đông Anh/Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương/Cổ Loa hình ốc khác thường/Trải bao năm tháng dấu thành còn đây”.
Vua Thục và triều đình Âu Lạc chọn vùng đất định đô cao ráo, giữa đất nước, giao thông thuận tiện. Từ Cổ Loa theo Hồng Giang thuyền bè có thể ngược lên miền núi phía Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc, hay xuống vùng đồng bằng và ra biển.

CL.jpg


Thành Cổ Loa được đắp bằng đất, có ba vòng, phía ngoài đắp dốc, phía trong đắp xoải để địch vào khó, còn ta vận động nhanh, dễ lên mặt thành đánh địch. Bên trong thành cổ có một mạng lưới giao thông thủy liên hoàn. Thuyền bè đi ra thuận tiện, làm căn cứ thủy quân, căn cứ bộ binh.

Ngoài ba vòng thành hào-lũy-hòa lũy, các cửa thành ngoài, thành giữa, thành trong bố trí khéo léo. Đường nối hai cửa thành cùng phía đều là đường chéo, quanh co, có 4 ụ phòng ngự hai bên. Thành trong chu vi 1.650m, có 18 ụ đất-một tòa thành tua tủa như lông nhím với 4 mang cá, 4 góc thành. Đó là một kỳ diệu của cổ Loa Thành giúp vua Thục thắng 50 vạn quân Tần, nhiều lần thắng Triệu Đà, chỉ có sau này An Dương Vương trúng phải kế phản gián của cha con Triệu Đà nên đã để “cơ đồ Âu Lạc đắm biển sâu” mất về tay kẻ thù.

Về sau thời hậu Lý Nam Đế cũng lấy Cổ Loa làm trung tâm. Sau thời kỳ này nước ta bị phong kiến Trung Quốc xâm chiếm đô hộ. Năm 938, với chiến thắng trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã rửa sạch tanh vết nhơ ngàn năm mất nước. Năm 939 Ngô Quyền (939-944) quay về định đô ở Cổ Loa. Nhà sử học Lê Văn Hưu ngợi ca: “Chính thống của nước Việt được nối lại”.

Kinh thành Vạn xuân-vùng Hà Nội cổ xưa.

Năm 544 nhà tiền Lý lật đổ ách đô hộ nhà Lương (Trung Quốc) và đánh tan quân Lâm Ấp, lập Nhà nước Vạn Xuân. Định đô ở phía nam Cổ Loa. Vùng mà ngày nay theo các nhà địa lý học đều thừa nhận rằng là “thủ đô tự nhiên” của đồng bằng Bắc Bộ, mở đầu cho truyền thống Thăng Long của các triều đại Lý, Trần, Lê sau này.

Nơi đây có làng Vĩnh Tuy, đầm Vạn Xuân, tương truyền bên bờ cỏ đầm này từng dựng lầu Vạn Thọ là nơi thiết lập triều đình Vạn Xuân. Lý Nam Đế là người đầu tiên đắp một tòa thành bằng tre, nứa, gỗ, đất, từ một làng quê cửa sông Tô Lịch thành trung tâm đầu tiên của Nhà nước Vạn Xuân. Nơi ngăn chặn quân xâm lược nhà Lương, dựng chùa Khai Quốc (sau này là Trấn Quốc) bên bờ hồ Tây, đúc tiền đồng Việt Nam mở đầu cho một nền tài chính độc lập, tự chủ của Việt Nam mà các vua Đinh, Lê, Lý, Trần…

Kinh thành Thăng Long

Sau thời Đinh-Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư, Lý Thái Tổ đã hạ chiếu dời đô đến thành Đại La “Ở trung tâm đất nước, có thế rồng cuộn, hổ ngồi”. Thuyền đến Đại La(1) xuất hiện thiên tượng Rồng bay, đã đổi Đại La thành Thăng Long. Một triều đại nhiều kỳ tích trong lịch sử thắng ngoại xâm khẳng định chủ quyền độc lập, phục hưng văn hóa Đại Việt.

Nhà Lý cho xây Văn Miếu (1070), năm 1075 mở khoa thi “Minh kinh bác học” tìm người tài giúp nước, năm 1076 mở Quốc Tử Giám-trường đại học đầu tiên của Việt Nam, chăm chú và phát triển giáo dục. Nhiều chợ búa được mở, phố phường nghề phát triển, nhiều thợ tài khéo “Khéo tay hay nghề, đất lề kẻ chợ” tạo nên những kỳ tích văn minh, văn hóa (Chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, Vạc Phổ Minh…)

Đến triều Trần (1226-1400): Triều đình đã tu sửa và mở rộng Thăng Long: “Làm cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo qua hồ Ngoại thiền đến cung Thái Thanh rất lộng lẫy”. Sau 3 lần quân Nguyên-Mông xâm lược. Kinh đô Thăng Long bị tàn phá nặng nề. Nhà Trần phải xây dựng lại: Đào hố, xếp đá làm núi, làm hồ nước mặn nuôi đồi mồi, cá, cá sấu. Triều Trần suy yếu nhiều lần chế Bồng Nga (Chiêm thành) đem quân đốt phá kinh thành.

* Đông Đô:
Năm 1400 nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần đổi tên Thăng Long là Đông Đô.

* Đông Quan:
Tiếp đến cuộc xâm lược của nhà Minh (1407-1428) Đông Đô được đổi tên là Đông Quan. Giặc Minh với chính sách đồng hóa đã hủy diệt Thăng Long; Đền đài, công trình kiến trúc tan tành, đổ nát, điêu tàn.

* Đông Kinh: Triều Lê (1427-1786)
Năm 1428, sau 10 năm kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, kinh thành đổi tên là Đông Kinh. Lê Thái Tổ tái thiết Đông Kinh: Chính giữa là điện Kính Thiên trang trí hai hàng lan can đá khối uy nghi, trạm rồng, rồng mây, mở rộng thêm sang phía đông (đền phố Lý Nam Đế ngày nay).

* Thăng Long:
Triều Lê-Trịnh Bình An Vương giải phóng kinh thành lấy lại tên Thăng Long; năm 1630 sửa chữa điện Tây Kinh, làm 3 tòa cung điện, xây lầu Ngũ Long, lập phủ Thái Vương. Hồng thành được xây dựng lại trong hai thế kỷ 17, 18 dựa trên cơ bản thời Lê Sơ, tái tạo vẻ bề thế, uy nghiêm vốn có từ thời Lý-Trần. Thời kỳ này, Thăng Long là trung tâm giao thương sầm suất, thuyền bè đi lại tấp nập, chế tác sản phẩm các ngành nghề thủ công phát triển.

* Bắc Thành:
Tiếp đến là cuộc xâm lược của Mãn Thanh, kinh thành bị tàn phá lần 2, sau 300 năm xây dựng lộng lẫy nguy nga, vua Quang Trung giải phóng Thăng Long. Cuối thế kỷ 19, triều Tây Sơn đổi Thăng Long là Bắc Thành (1789-1802).

* Hà Nội:
Năm 1831 vua Minh Mệnh lại đổi tên Bắc Thành là Hà Nội (thành phố trong sông, nằm giữa Sông Hồng và sông Đáy) dỡ một số cung điện trặm khắc gỗ, đá, giá trị chuyển vào kinh đô Huế. Hồng Thành bị hư hại dần.

Rồi Pháp xâm lược lần thứ 2 (1882), Pháp phá khu Hồng Thành, xây lô cốt, trại lính, chỉ để lại Cửa Bắc. Pháp lấp một phần nhánh sông Tô và một số hồ để xây dựng thành phố. Hà Nội được chia làm 2 khu: Khu Tây và khu người bản xứ. Bộ mặt thành phố thay đổi không ngừng, hình ảnh Kinh thành xưa biến mất hoàn toàn, Gia Long lên ngôi Hoàng Đế (1802) thành Hà Nội được xây nhỏ lại kiểu kiến trúc thành cổ Châu Âu. Năm 1812 xây cột cờ cao 60m ở phía Nam trước Điện Kính Thiên, chợ Đồng Xuân (1889). Thời thuộc Pháp Hà Nội hai lần bị đô thị hóa mạnh.

Cách mạng tháng 8 thành công, ngày 2/9/1945 Nhà nước VNDCCH ra đời, Quốc Hội chính thức thông qua lấy Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam. Đến năm 2008 Quốc hội của nước CHXHCNVN đã thông qua nghị quyết mở rộng Thủ đô: thành phố có diện tích lên tới 3.324,92km2 và dân số 6.232.940 người, nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới. Hà Nội có 2.104 di tích đã được xếp hạng (765 di tích quốc gia).

Hà Nội được Đảng, Nhà nước ta phong tặng là “Thủ đô anh hùng” được UNESCO bình chọn là Thành phố duy nhất ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương nhận danh hiệu “Thành phố vì hòa bình” do có một quá trình phát triển đầy ấn tượng.

Tất cả dấu ấn thăng trầm của lịch sử nói lên Thăng Long-Đông Đô-Đông Kinh-Hà Nội là một thành phố cổ kính, anh hùng và luôn phát triển mạnh mẽ. Hà Nội là trung tâm, chính trị, kinh tế, văn hóa, là trái tim của cả nước Việt Nam, là thành quả lịch sử của truyền thống nghìn năm văn hiến, truyền thống lập và giữ nước, truyền thống cách mạng kiên cường.

ST
 
LÝ CÔNG UẨN VÀ CHIẾU DỜI ĐÔ

Lý Công Uẩn

tuong-LyThaiTo-wiki.jpg


Theo truyền thuyết, ông thân sinh ra Lý Công Uẩn nhà nghèo, đi làm thuê nhà chùa Tiên Sơn đã phải lòng một tiểu nữ, làm nàng có thai. Nhà chùa đuổi đi chỗ khác. Hai vợ chồng dẫn nhau đến một khu rừng rậm, dừng lại nghỉ chân. Chồng bị chết đuối khi tìm nước để qua cơn khát, người vợ bất hạnh xin vào nghỉ nhờ chùa “Ứng Tâm” gần đấy. Đêm hôm trước sư trụ trì nằm mơ thấy Long thần báo mộng. “Dọn chùa cho sạch, ngày mai có Hoàng đế đến”, nhưng chỉ thấy một thiếu phụ có thai đến ngủ nhờ. Vài tháng sau khu Tam quan của chùa bỗng rực sáng, hương thơm lan toả. Người thiếu phụ kia sinh được con trai, 2 bàn tay có 4 chữ “sơn hà xã tắc”, trời nổi gió lớn mưa to, sản phụ chết ngay. Chú được nhà sư Vạn Hạnh đưa về nuôi dưỡng.

Cuối thu năm Kỷ Dậu (1009), khi đang làm quan Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, vua Ngoạ triều băng hà, Lý Công Uẩn được Đào Cam Mộc cùng triều thần nhà Lê tôn lên làm vua, kết thúc triều Lê, mở đầu triều Lý. Vua hạ chiếu đại xá tù nhân, xoá bỏ ngục tù, kiện tụng được phép đến trực tâu, nhà vua thân hành ngồi xử kiện.

Lên ngôi báu vừa tròn 9 tháng. Mùa hè năm Canh Tuất (1010) Lý thái Tổ đã hạ chiếu rời đô từ Hoa Lư ra Đại La kinh phủ.
Sử sách chép rằng: “Lý Thái Tổ lên ngôi tự quốc bình thiên hạ chưa vội làm việc gì khác, mà trước tiên mưu tính việc đình đô, xét về sự quyết đoán, sáng suốt, mưu kế anh hùng, thực những vua tầm thường không thể theo kịp”.

Theo suy tính của Lý Thái Tổ thì kinh đô Hoa Lư chỉ có thế núi non hiểm trở thích hợp với yêu cầu phòng ngự lợi hại. Muốn đất nước thịnh vượng phải tìm đến một nơi mới, để xây dựng kinh đô trở thành một trung tâm chính trị, văn hoá của một quốc gia độc lập, hùng cường, nơi đó chỉ có thể là thành Đại La.

Chiếu dời đô

Trong chiếu dời đô hơn 200 từ Hán Việt đã thể hiện những ý tứ sâu sắc, thể thiện tầm nghĩ, tầm nhìn vừa sâu, vừa xa, vượt thời đại của một vị vua Đại Việt thông minh gần một nghìn năm về trước khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh trường kỳ cho sơn hà xã tắc và muôn đời con cháu mai sau.

Một đoạn văn trong chiếu dời đô nói rằng: “Ở trung tâm bờ cõi đất nước được cái thế “Rồng cuộn hổ ngồi”, vị trí ở giữa bốn phương đông, tây nam bắc, ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ sở vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta - chỗ ấy là hơn cả, thật là chỗ hội hợp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời”.

Sử gia Ngô Sĩ Liên khen rằng: “Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Việt Nam không nơi nào hơn được nơi này”.
Chiếu dời đô là bản khai sinh của kinh đô Thăng Long rồi Hà Nội ngày nay. Nước nào trên thế giới cũng có kinh đô nhưng hiếm có kinh đô nào có bản khai sinh mang dấu ấn cả ngàn năm như kinh đô Thăng Long của Đại Việt gần ngàn năm về trước. Bây giờ đọc lại ta đều cảm phục tài năng, trí tuệ, tầm nhìn và ý chí sáng suốt, quyết đoán của Lý Thái Tổ sáng lập triều Lý tồn tại 215 năm trải qua 3 thế kỷ oai hùng.
Tục truyền rằng: Khi đoàn thuyền từ Hoa Lư ra đỗ dưới chân thành Đại La bỗng có rồng vàng hiện ra ở thuyền vua ngự, rồi bay vút lên cao. Nhà vua cho là điềm lành, tin vui liền cho đổi từ Đại La Thành thành “Thăng Long Thành”, xoá bỏ đi cái tên “Đại La” - đô hộ phủ đau thương của ngàn năm Bắc thuộc.

Rời đô ra Thăng Long, lợi ích về giao thương kinh tế đã rõ, còn về quân sự, tuy không có núi non hiểm trở như cựu đô Hoa Lư, nhưng vẫn rất lợi về đường giữ nước, giữ thành. Nếu kẻ thù phương Bắc tấn công xâm lược bằng đường bộ ắt phải vượt qua nhiều sông, mỗi sông là một phòng tuyến chặn giặc, tấn công bằng thuỷ quân, giặc phải qua hàng trăm dặm đường sông, dân làng tả hữu dòng sông sẵn sàng đánh giặc cả khi vào lẫn khi ra. Đại La - Thăng Long nơi trung tâm trời đất, đúng ngôi nam bắc đông tây, như vậy là ngang tầm với đất Trung Nguyên của nước Trung Hoa láng giềng, rất xứng đáng là Kinh đô Đại Việt.

Sau hơn 200 năm xây dựng và phát triển, kinh đô Thăng Long thời ấy đã trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của quốc gia Đại Việt, một đô thị phồn vinh, đã bảo vệ vững chắc kinh đô, sơn hà xã tắc, đánh bại nhà Tống trên sông Như Nguyệt, chiến thằng Chiêm Thành khi đã huy động được sức mạnh toàn dân vào trận, tạo được thế nước ở đỉnh cao ngàn trượng đè bẹp quân thù, đập tan mộng tưởng “thôn tính Giao chỉ” như xưa, từ tác động của bài thơ bất hủ của lão tướng Lý Thường Kiệt động viên:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định mệnh tại thiên thư....”
Hai năm trước đó, (1075) bằng chiến lược “Tiên phát chế nhân” (tiến công để tự vệ) của triều Lý, Quân dân Đại Việt đánh vào đất Tống tại châu Khâu, châu Liêm diệt mầm mống xâm lược nước ta của vua tôi triều Tống.
Từ đó đến nay, trừ 143 năm triều Nguyễn di đô vào Huế, 853 năm qua, non sông đất nước ta dù phải trải qua bao vận hội và thử thách có lúc thăng trầm, Thăng Long vẫn là kinh đô của triều Trần nhà Hậu Lê, Lê Trung Hưng, nhà Nguyễn Tây Sơn, đang là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tên gọi mới: Thủ đô Hà Nội - một thủ đô anh hùng, 1 thủ đô hoà bình đang phát triển nhiều ưu thế nội tại để trở thành thủ đô văn minh, hiện đại, xứng đáng với lòng mong đợi của vua Lý Thái Tổ gần ngàn năm về trước: “Nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.
31_ThangLong.jpg

Thiên đô chiếu

Chiếu dời đô hay Thiên đô chiếu (遷都詔) là chiếu do vua Lý Thái Tổ tự tay viết và ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Việt từ Hoa Lư (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay) ra thành Đại La (Hà Nội ngày nay). Chiếu dời đô này dài đúng 214 chữ

Bản phiên âm Hán-Việt:
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.

Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?
Bản dịch tiếng Việt:

Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô[1], nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô[2];, há phải các vua thời Tam Đại[3]; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương[4], ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.

Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993


Ghi chú:
1. ▲ Năm lần dời đô: Vua Thang (Thành Thang) đóng đô ở phía đông nam huyện Thương Khâu (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Trọng Đinh dời đô đến huyện Thành Cao (thuộc tỉnh Hà Nam). Hà Đản Giáp đời đô đến phủ Chương Đức (cũng thuộc tỉnh Hà Nam).Tổ Ất dời đô đến phủ Thuận Đức (tỉnh Hà Đông bây giờ). Bàn Canh dời đô đến huyện Yên Sư (hay Ân Sư thuộc tỉnh Hà Nam)
2. ▲ Ba lần dời đô: Chu Văn Vương đóng đô ở phía đông tỉnh Thiểm Tây. Chu Vũ Vương dời đô đến huyện Tương Yên (tỉnh Thiểm Tây). Chu Thành Vương dời đô đến huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam).
3. ▲ Thời Tam Đại: Ba nhà Hạ, Thương, Chu trong lịch sử Trung Quốc.

4. ▲ Cao Biền: Quan đô hộ Giao Châu của nhà Đường vào khoảng các năm 864-875. Cao Biền đắp thêm thành Đại La vào khoảng năm 866.


ST
 
THĂNG TRẦM THĂNG LONG – HÀ NỘI
viewanh_vn.php


Thành cổ Hà Nội.

Ngót nghìn nǎm đã qua, kể từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, đổi tên thành kinh đô Thǎng Long (tức Hà Nội ngày nay). Bao thế hệ người xưa đã đóng góp công sức dựng xây, tô điểm kinh đô xưa, mà tại sao trên đất Hà Nội bây giờ còn lại quá ít ỏi di tích lịch sử, vǎn hóa của Thǎng Long - Đông Đô?


Sự tích Lý Công Uẩn dời đô nǎm 1010 thì mọi người đã biết. Nay nhờ sách, nhờ người am hiểu, cung cấp tài liệu lại được biết thêm: Thành Thǎng Long đời Lý đã được xây dựng như một công trình kiến trúc hoành tráng nhất trong các triều đại.

Đặc biệt, việc kiến trúc khu Hoàng thành đã được tiến hành theo một quy hoạch lớn, vừa đa dạng vừa tráng lệ chưa từng có, thể hiện phong cách riêng của triều đại này. Nơi đây được xây dựng hàng loạt cung điện lộng lẫy: chỗ vua Lý Thái Tổ làm việc thì có điện Kiều Nguyên, điện Tập Hiền, điện Giảng Vũ. Chỗ vua nghỉ ngơi thì có điện Long An, điện Long Thụy. Nơi phi tần ở thì có cung Thúy Hoa, cung Long Thụy... Trước chính điện có sân rồng rộng lớn, bốn bề sân rồng có hành lang, nhà giải vũ và nhiều lầu gác.

Sang các đời vua sau đều có sửa chữa hoặc xây dựng lại cung điện và đặt tên mới. Đời Lý Thái Tông, ở cạnh sân rồng còn dựng lầu Chính Dương, trên để loại đồng hồ cổ, có người thường trực báo giờ giấc.

Chẳng những độc đáo về tạo dáng mà các cung điện trong Hoàng thành thuở ấy còn độc đáo về vật liệu xây dựng: gạch, ngói thường chạm trổ các hình hoa vǎn, rồng phượng và khi xây chỉ việc lắp khít vào nhau không cần mạch vôi nữa. Đặc biệt hay dùng loại ngói ống bằng sứ men trắng, men xanh, men vàng, đầu ống bịt hình rồng, phượng, hoa sen, tạo thành đường diềm mái tuyệt đẹp. Những vật liệu được chế tác tinh xảo, mỹ lệ này đã góp phần làm lộng lẫy thêm những lầu son, gác tía của Hoàng thành.

Trong sách Vǎn hiến thông khảo của Mã Đoan Luân, sử gia Trung Quốc cuối thế kỷ 12 có đoạn miêu tả cảnh Thǎng Long thời Lý nói rằng: Vua Lý ở trong một tòa cung điện nguy nga cao bốn tầng, sơn mầu đỏ, các cột chạm vẽ rồng phượng thần tiên cực kỳ tráng lệ. Cuốn Việt sử lược (đời Trần) cũng viết: "Các cung điện thời Lý nói chung đều được xây cất đẹp đẽ, chạm trổ trang sức khéo léo. Ngoài các cung điện, khu Hoàng thành còn xây dựng nhiều lầu các, đài tạ vàng son lộng lẫy. Đài Chúng Tiên dựng nǎm 1161 tầng trên lợp ngói bằng vàng, tầng dưới lợp ngói bằng bạc. Hồ ao, vườn ngự cũng được đào đắp khá nhiều: hồ Kim Minh, Vạn Tuế (nǎm 1049) có đắp núi đá cao ba ngọn trên mặt hồ và có cầu Vũ Phượng từ bờ đi vào. Hồ ứng Minh, hồ Thụy Thanh (nǎm 1051), hồ Phượng Liên (nǎm 1098)... đều là những hồ đẹp, trên bờ có dựng nhiều lầu các, đình tạ. Trong Hoàng thành còn lập nhiều ngự uyển trồng các loại hoa thơm cỏ lạ và nuôi các thứ muông thú quý hiếm, như vườn Quỳnh Lâm, vườn Thắng Cảnh, vườn Xuân Quang (nǎm 1048), vườn Thượng Lâm (nǎm 1085). Đặc biệt, vào giữa thế kỷ 14 có lập một vườn ngự uyển lớn, trong vườn đào một hồ rộng lớn gọi là hồ Lạc Thanh. Trong hồ chất đá làm núi, trên bờ hồ trồng thông, trúc và các thứ cây khác, thêm vào đấy nào cỏ lạ, nào hoa thơm, nào muông kỳ, nào chim quý, bốn mặt lại khơi ngòi cho nước sông thông vào..." (Việt sử thông giám cương mục). Hoàng thành còn được kiến tạo nhiều núi đất, trong đó có những ngọn đã trở thành danh thắng như núi Nùng, núi Tam Sơn, núi Ngũ Nhạc... Núi Nùng là nơi trên đó xây dựng điện Kính Thiên, cũng là quả núi đã trở thành biểu tượng cho non nước kinh thành (Núi Nùng, sông Nhĩ chốn này làm ghi - Chính khí ca).

Nhà Lý là một triều đại sùng Phật, xây dựng khá nhiều chùa, tháp, đền, miếu ở Thǎng Long. Ngay nǎm đầu định đô, Lý Thái Tổ đã cho dựng các chùa lớn như Hưng Thiên, Vạn Tuế. Nǎm 1114 xây chùa Thiên Phật rộng lớn đủ bày 1.000 pho tượng (khánh thành nǎm 1118). Trong số đền chùa nổi tiếng có: đền Quán Thánh, chùa Chân Giáo...

Ngoài Hoàng thành có một bức tường gạch bao quanh, có bốn cửa thông ra ngoài khu kinh thành: bắc là cửa Diệu Đức, nam là cửa Đại Hưng, đông là cửa Tường Phù, tây là cửa Quảng Phúc

Ra khỏi Hoàng thành là khu vực kinh thành có quy mô khá rộng. Bên ngoài đắp một dải tường thành bằng đất bao bọc chung quanh, gọi là Đại La Thành hoặc La Thành. ở mé đông tường thành cũng đồng thời là đê sông Hồng.

Nay có thể lần theo dấu vết La Thành: phía bắc là đê sông Hồng từ quanh Hồ Tây đến Kẻ Bưởi. Phía đông vẫn là đê này từ Yên Phụ xuống tận Đồng Nhân. Phía nam, đường thành chạy tiếp từ Đồng Nhân qua Thịnh Hào, Yên Lãng, Thủ Lệ song song với sông Tô Lịch. Phía tây, đường thành nối tiếp từ vùng Bưởi về Cầu Giấy... cũng có thể đã mở rộng tới gần sông Nhuệ bao gồm cả vùng Mai Dịch, Cổ Nhuế hiện nay.

Kinh thành Thǎng Long thuở ấy có bao nhiêu cửa thông ra ngoài hiện chưa biết đích xác, chỉ biết trong số đó có cửa Tây Dương (sau này là ô Cầu Giấy), cửa Triều Đông mé trên dốc Hòe Nhai, cửa Yên Hoa (ô Yên Phụ), cửa Vạn Xuân (sau này là ô Ông Mạc (Đống Mác), cửa Chợ Dừa sau này là ô Chợ Dừa...

Khu kinh thành rộng lớn hơn Hoàng thành gấp bội. Các ly cung của nhà vua cùng các phủ đệ, cung viện, dinh thự của các ông hoàng bà chúa, các đại thần được xây dựng nhiều và vô cùng lộng lẫy nhưng đáng tiếc là không được sử sách ghi chép đầy đủ.


Trong vô số cung, điện, đền, miếu, chùa, tháp... thời Lý phải kể đến tháp Báo Thiên nổi tiếng được xây dựng nǎm 1057 bên bờ hồ Lục Thủy (Hồ Gươm ngày nay). Tháp cao vài chục trượng gồm 12 tầng, xây bằng đá và gạch, mấy tầng trên cùng đúc bằng đồng. Trong tháp trang trí nhiều tượng người và vật bằng đá rất kỳ xảo. Tháp cao lại xây trên gò đất cao nên thuyền từ xứ Nam lên kinh đô tới bến Yên Duyên (của đất huyện Thanh Trì ngày nay, cách trung tâm Hà Nội hơn 10 km) đã nhìn thấy đỉnh tháp cao vút mây trời.

Còn có thể chép ra đây nhiều trang về các công trình xây dựng và công phu tô điểm kinh đô Thǎng Long dưới vương triều Lý xứng đáng là một đô thành mở nền của kỷ nguyên vǎn hiến Đại Việt.

Nhưng đến thời tàn nhà Lý trong khoảng vài thập niên đầu của thế kỷ 13, nội chiến xảy ra liên miên giữa các tập đoàn phong kiến rồi xung đột nổ ra ngay tại đế đô làm cho các cung điện trong khu Hoàng thành bị thiêu hủy gần hết.

Sử cũ còn chép: Nǎm 1214, cung thất nhiều nơi bị đốt, vua và hoàng hậu phải trú ở nhà tranh gần cầu Thái Hòa. Tới nǎm 1216, "thảo điện" (tức cung điện bằng tranh tre nứa lá) phải dựng ở vùng tây Phù Liệt (tức làng Sét, Thanh Trì).

Từ đầu nǎm 1225, nhà Trần lên ngôi vua, bắt tay sửa sang và xây dựng mới khu vực Hoàng thành. Nǎm 1230 xây dựng nơi thiết triều gồm một số cung điện, lầu, gác. Còn khu kinh thành đời Trần thì không có gì khác so với kinh thành thời Lý.


Thǎng Long cuối thời Trần chưa xây dựng được bao nhiêu thì lại tiếp tục bị giặc giã cướp phá, thiêu đốt, kinh thành đổ nát tan hoang.

Hồ Quý Ly lên nắm chính quyền không những không sửa chữa kinh thành mà lại còn phá nốt những cung điện còn sót lại ở Thǎng Long để lấy nguyên vật liệu đem vào Thanh Hóa xây dựng kinh đô mới.

Sau đó 10 nǎm, giặc Minh xâm lược nước ta, Thǎng Long bị chúng chiếm đóng trong hai mươi nǎm liền. Chúng bòn rút nốt những gì còn lại trong Hoàng thành, rồi phá phách tới những công trình xây dựng bên ngoài Hoàng thành. Chúng hủy hoại nhiều chùa, tháp, đền, miếu; lấy nhiều cổ vật bằng đồng quý như đỉnh tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền... đem đúc vũ khí.

Tới đây, hầu hết những công trình kiến trúc ở Thǎng Long từ thế kỷ 11, 12 đều bị phá trơ trụi.
Nǎm 1428, Lê Lợi lên ngôi, đổi tên Thǎng Long thành Đông Đô, cuối nǎm 1430 lại gọi là Đông Kinh.

Sau đó, Thǎng Long là đất đế đô của các triều vua kế tiếp trong suốt 400 nǎm thời Lê được xây dựng lại ngày càng rộng lớn, đẹp đẽ và sầm uất với hàng trǎm cung điện.


Nǎm 1512, vua Lê Tương Dực sai Vũ Như Tô, một nghệ nhân xây dựng nổi tiếng, đứng ra chỉ đạo xây dựng các cung điện và Cửu Trùng đài cực kỳ nguy nga tráng lệ.


Nhưng đang xây nửa chừng thì các công trình này phải dỡ bỏ vì nổi loạn.


Nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Sau mấy chục nǎm đến đời Mạc Mậu Hợp mới có cuộc xây dựng lại các cung điện kéo dài trong một nǎm. Cả hai lớp thành trong và ngoài đều được sửa lại, ấn định vị trí và diện mạo của Hoàng thành Thǎng Long từ cuối thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 17.

So với Hoàng thành của nhà Lê đầu thế kỷ 15, Hoàng thành do Mạc Mậu Hợp tu sửa có bị thu hẹp chút ít ở hai phía Đông và phía Tây nên một số cung điện bị bỏ ra ngoài khu vực Hoàng thành, lâu dần trở nên hoang phế. Tuy vậy, Hoàng thành thời Lê - Mạc vẫn rộng hơn Hoàng thành thời Lý - Trần rất nhiều, vẫn còn giữ được vẻ nguy nga tráng lệ đến vài thế kỷ sau.


Cuối thế kỷ 17, Xa-mu-en Ba-rôn, một nhà buôn người Anh mẹ Việt, miêu tả Hoàng thành thời Lê - Mạc: "Khi đứng trước ba lớp thành và cung điện cổ, người ta lấy làm ngạc nhiên. Những di tích còn lại tỏ ra rằng thành ấy xây vững chắc. Cung điện có những cửa lớn và đẹp lát bằng cẩm thạch. Cung điện cổ đó chu vi độ 6 hoặc 7 dặm, cứ xem các cửa ngõ, sân và các gian nhà còn lại, cũng đã biết lâu đài đó trước kia rất đẹp đẽ, huy hoàng".

Giáo sĩ người Italy là Ma-ri-ni miêu tả: "Tuy cung vua chỉ xây dựng bằng gỗ nhưng ở đây có rất nhiều đồ vàng, đồ thêu, chiếu thảm rất tốt và đủ các mầu sắc để tô điểm, thật không đâu sánh kịp. Cung điện, nơi vua ở là một lâu đài xây dựng trên một rừng cột rất chắc chắn. Kèo cột trong cung điện làm rất kỹ và rất đẹp, không nhà nào bằng".

Khoảng từ nǎm 1527 đến 1597, Mạc Mậu Hợp huy động quân dân bốn trấn (Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương) mỗi ngày mấy vạn người đắp thêm ba lần lũy đất ở ngoài thành Đại La, cao và rộng hơn thành cũ rất nhiều.


Nǎm 1749 thời Lê - Trịnh lại có cuộc sửa đắp lớn thành Đại La (lúc này còn được gọi là Đại Độ) có tám cửa thông ra ngoài, mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu, có người canh gác. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, các vua Lê chúa Trịnh đã xây dựng nhiều đền chùa và hành cung trong đó có đền Ngọc Sơn, lều Ngũ Long bên hồ Hoàn Kiếm, đền Trấn Vũ, chùa Kim Liên, chùa Trấn Quốc ở khu vực hồ Tây, viện Nghinh Xuân và Trường Thi ở Quảng Bá...

Nhiều người phương Tây từng ca ngợi Thǎng Long trước thế kỷ 19 là một trong những công trình đô thị được xây dựng đẹp nhất châu á như ông J.B. Se-nhô.

Cuối thế kỷ 18, cuộc tranh chấp quyền hành giữa vua Lê và chúa Trịnh đã dẫn tới cuộc tương tàn dữ dội trên đất Thǎng Long. Ngày mồng 8 tháng chạp nǎm Bính Ngọ (đầu nǎm 1787), Lê Chiêu Thống sai người phóng hỏa đốt hết phủ chúa, cháy hơn 10 ngày chưa tắt!

Thế là lâu đài cung điện xây dựng trong 200 nǎm bỗng chốc thành bãi đất cháy đen (Hoàng Lê nhất thống chí).

Dưới chính quyền Tây Sơn (1788 - 1802), Thǎng Long có được sửa sang ít nhiều, song về cǎn bản, kinh thành vẫn không có gì khác trước.

Nǎm 1802, triều đại Tây Sơn bị tiêu vong, cả nước thuộc quyền thống trị của triều Nguyễn dời vào đóng đô ở Phú Xuân (Huế). Từ đây, kinh thành Thǎng Long chỉ còn là trấn thành và sau đó là tỉnh thành.

Nǎm 1803, Gia Long cho triệt phá Hoàng thành cũ. Trên nền đất ấy, xây một thành mới theo kiểu Vô-bǎng (Vauban), một kiểu thành của Pháp thế kỷ 17, thu hẹp rất nhiều so với Hoàng thành thời trước, mỗi bề chỉ khoảng 1 km. Chân thành bằng đá xanh và đá ong, tường xây bằng gạch hộp, cao hơn 10 trượng, dày 4 trượng. Thành có nǎm cửa, đông, tây, nam, bắc và đông nam, trên mỗi cửa đều cho xây lầu canh gọi là "thú lâu". Ngoài thành có đào hào, trước bờ hào ở ngoài cửa thành lại dựng một bức tường chắn gọi là "dương mã thành". Trong thành, ở chính giữa vẫn là điện Kính Thiên dựng trên núi Nùng, cột to bằng người ôm không xuể, thềm điện có chính bậc, ở hai bên đặt hai con rồng đá. Gần điện xây hành cung để mỗi khi vua nhà Nguyễn từ Phú Xuân (Huế) ra Thǎng Long thì tới ở tại đấy.

Khu phía đông là dinh thự các quan lại. Khu phía tây là các kho thóc, kho tiền. Phía bắc là Tĩnh Bắc lâu, vừa là cơ quan đặc biệt chuyên theo dõi tình hình Bắc Hà, vừa là một nhà ngục khét tiếng tàn độc.

Nǎm 1812 dựng cột cờ hình sáu cạnh cao 60 mét xây bằng gạch gốm ở phía nam thành.

Nǎm 1831, vua Minh Mệnh sáp nhập huyện Từ Liêm, phủ ứng Hòa, phủ Lý Nhân, phủ Thường Tín vào Thǎng Long và lập ra tỉnh Hà Nội.

Nǎm 1848, vua Tự Đức sai phá dỡ cung điện trong thành, lấy các đồ chạm trổ mỹ thuật bằng gỗ, đá, đem về Huế làm cho nhân dân ở dọc đường phải phục dịch vô cùng khốn khổ.

Thế là một số công trình ít ỏi, mới xây dựng từ đời Gia Long đến đây đã lại bị phá hết. Thực dân Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội lần thứ nhất (1873) gặp sự chống trả của khâm sai Nguyễn Tri Phương và các dũng sĩ tại cửa ô Đông Hà (ô Quan Chưởng). Chúng nổ súng đánh thành Hà Nội lần thứ hai (1882) thì tổng đốc Hoàng Diệu cùng quân sĩ bắn trả quyết liệt và nhân dân đốt từng dãy phố, cầm vũ khí thô sơ và khua chiêng gõ trống ầm ầm tạo thành thế trận rộng lớn sẵn sàng diệt giặc.

Nhưng do triều đình nhà Nguyễn mang nặng tư tưởng đầu hàng, đã bán rẻ mảnh đất thiêng liêng này cho giặc nên Hà Thành đã thất thủ.

Từ tháng 10-1888, Hà Nội chính thức trở thành một thành phố thuộc địa của đế quốc Pháp do triều đình Huế ký hiệp ước hiến dâng. Từ đó, cố đô Thǎng Long được xây dựng từ thời Lý (thế kỷ 11) bị thực dân Pháp thẳng tay tàn phá. Ngay cái thành mà nhà Nguyễn làm theo kiểu Vô-bǎng của Pháp cũng bị phá trụi, chỉ còn để lại một cổng thành Cửa Bắc in hằn vết đại bác của chúng. Các cung điện dinh thự trong thành đều bị chúng phá hết, chỉ còn một tháp cột cờ. Trong vài thập niên đầu của thế kỷ 20, thực dân Pháp xây dựng thành phố Hà Nội, biến nơi đây thành một trung tâm cai trị của chúng ở Bắc Kỳ.

Nhiều làng xóm như: Giáo Phường, Đức Viên, Đồng Nhân, Vân Hồ đã bị chúng triệt phá để xây dựng các đường phố. Đoạn sông Tô Lịch chảy qua nội thành cùng với nhiều hồ ao đã bị lấp đi để xây nhà, mở đường, chủ yếu là cho các "khu phố Tây".

Trong quá trình xây dựng, thực dân Pháp phá hoại không thương tiếc nhiều di tích lịch sử, vǎn hóa của Hà Nội. Khi xây dựng Nhà thờ lớn, chúng đã phá bỏ tháp Báo Thiên nổi tiếng vốn có từ thời Lý. Khi xây dựng nhà Bưu điện, phủ Thống sứ, chúng đã phá bỏ chùa Báo Ân là một công trình kiến trúc rất công phu.

Ngót nghìn nǎm qua từ triều Lý Thái Tổ đến trước Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945, Thǎng Long - Đông Đô - Hà Nội đã trải bao cuộc thǎng trầm, bao lần xây, phá. Nghĩ càng tiếc cho công lao xây dựng của các thế hệ xưa, càng yêu quý trân trọng những di tích lịch sử, vǎn hóa còn lại hiếm hoi đến bây giờ trên mảnh đất thủ đô nghìn nǎm vǎn hiến.

ST

 
Hà Nội cổ


47f48537_b%C6%B0u%20%C4%90i%E1%BB%87n.jpg

Nhà Bưu điện thời thuộc Pháp nằm quanh trên bờ phía bắc và phía đông Hồ Gươm


47f485eb_ch%E1%BB%A3%20%C4%90%E1%BB%93ng%20xu%C3%A2n.jpg

Chợ Đồng Xuân - ngõ Chợ Đồng Xuân: một ngõ nhỏ ở cuối phố Hàng Chiếu đi vào phía bên cạnh Chợ Đồng Xuân. Nơi đây trước kia là chỗ giới thiệu người đi ở cho các gia đình

47f485eb_ch%C3%B9a%20m%E1%BB%99t%20c%E1%BB%99t%201409%20thoi%20ly%20thai%20tong.jpg

Chùa Một cột qua lăng kính của Võ An Ninh

47f48633_ga%20ha%20noi.jpg

Trong sân Ga Hoả xa (ga Hàng Cỏ, ga cũ) nằm trên Phố Hàng Lọng, sau 1954 là phố Nam Bộ. Bây giờ là Lê Duẩn ảnh chụp thời Pháp thuộc


47f48634_ho%20guom.jpg

Cầu Thê Húc, Đền Ngọc Sơn (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20)


47f486b4_phohuehn.jpg

Phố Huế, đất các thôn cũ Phục Cổ - Giáo Phường - Đông Hạ - Yên Nhất ( P. th. Route de Hue ). Phố này nguyên là đoạn đầu của con đường cái quan có đặt trạm dịch đi từ Hà Nội vào Huế.


47f486b5_thanh%20hanoi.jpg

Phố Cột cờ, thời Pháp thuộc gọi là Avenue Puginier; sau Cách mạng tháng 8/1945 gọi là Đường Cột Cờ. Năm 1970 đổi tên là Đường Điện Biên Phủ. Cột Cờ thành Hà Nội xây năm 1808

47f486b5_caulongbien.jpg

Cầu Long Biên thời thuộc Pháp cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20

47f486b6_gahanoi.jpg

Phía bên ngoài Gare (phố Hàng Cỏ)

47f4870a_vuonhoaconcoc.jpg

Vườn hoa Con Cóc

47f487c1_nhabiavanmieu14522.jpg

Nhà Bia Tiến sỹ (thời gian không xác định)

47f487c7_khu%20%C4%90%E1%BA%A5u%20x%E1%BA%A3o.%20b%C3%A2y%20gi%E1%BB%9D%20g%E1%BB%8Di%20l%C3%A0%20cung%20v%C4%83n%20ho%C3%A1%20h%E1%BB%AFu%20ngh%E1%BB%8B%20vi%E1%BB%87t%20x%C3%B4_resize.jpg

Khu Đấu Xảo thời thuộc Pháp


47f487cf_hoankiem_1-full.jpg

Hồ Gươm (không xác định)


47f487d5_%E1%BA%A2nh%20h%E1%BB%93%20g%C6%B0%C6%A1m%20qua%20g%C3%B3c%20nh%C3%ACn%20c%E1%BB%A7a%20c%E1%BB%A5%20v%C3%B5%20an%20ninh.jpg

Hồ Gươm (không xác định)

47f487f0_thapruaxua1884-1886-full.jpg

47f48872_pe028ea-full.jpg

Hồ Gươm (không xác định)

47f488f1_nhhatlon.jpg

Phố Tràng Tiền, đất cũ thôn Cựu Lâu và Hậu Lâu. Thời thuộc Pháp gọi là Rue des Inserupteurs (phố Thợ Khảm, sau được đặt tên là Rue Paul Bert). Thời tạm chiếm gọi là phố Pháp Quốc


47f48af2_cauthehuc-full.jpg

Cầu Thê Húc (không xác định)


47f48af2_hanoitram-full.jpg

Tàu điện

47f49b80_ch%C3%B9a%20m%E1%BB%99t%20c%E1%BB%99t%201409%20thoi%20ly%20thai%20tong.jpg

Chùa Một Cột (không rõ thời gian)


47f44535_b%E1%BA%A1n%20c%C3%B3%20bi%E1%BA%BFt%20%C4%91%C3%A2y%20l%C3%A0%20khu%20v%E1%BB%B1c%20n%C3%A0o%20c%E1%BB%A7a%20h%C3%A0%20n%E1%BB%99i%20bi%E1%BA%BFt%20r%E1%BA%B1ng%20to%C3%A0%20nh%C3%A0%20cao%20ph%C3%ADa%20xa%20c%E1%BB%A7a%20b%E1%BB%A9c%20%E1%BA%A3nh%20l%C3%A0%20ga%20h%C3%A0%20n%E1%BB%99i.jpg

Bạn có biết đây là khu vực nào của Hà Nội? Biết rằng toà nhà cao phía xa của bức ảnh là Ga Hà Nội

47f44536_b%E1%BA%BFn%20s%C3%B4ng%20h%E1%BB%93ng%20%C4%91%E1%BA%A7u%20th%E1%BA%BF%20k%E1%BB%B7%20xx.jpg

Bến sông Hồng đầu thế kỷ XX

47f44536_c%E1%BA%A7u%20long%20bi%C3%AAn%20n%C4%83m%201955.jpg

Cầu Long Biên 1955

47f44537_c%E1%BA%A7u%20long%20bi%C3%AAn-h%C3%A0%20n%E1%BB%99i%20n%C4%83m%201897.jpg

Cầu Long biên-Hà Nội năm 1897

47f44537_c%E1%BB%ADa%20b%E1%BA%AFc%20th%C3%A0nh%20c%E1%BB%95%20h%C3%A0%20n%E1%BB%99i%20cu%E1%BB%91i%20th%E1%BA%BF%20k%E1%BB%B7%20xix.jpg

Cửa Bắc thành cổ Hà Nội cuối thế kỷ XIX

47f44588_%C4%90%C3%A2y%20l%C3%A0%20g%C3%B3c%20ph%E1%BB%91%20n%C3%A0o%20c%E1%BB%A7a%20h%C3%A0%20n%E1%BB%99i.%20b%E1%BB%A9c%20h%C3%ACnh%20n%C3%A0y%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20ph%C3%A1p%20ch%E1%BB%A5p%20v%C3%A0o%20nh%E1%BB%AFngn%C4%83m%20cu%E1%BB%91i%20th%E1%BA%BF%20k%E1%BB%B7%20xix%20%C4%91%E1%BA%A7u%20th%E1%BA%BF%20k%E1%BB%B7%20xx.jpg

Một góc phố của Hà Nội cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (chưa xác định)

47f44589_%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20%C4%90inh%20ti%C3%AAn%20ho%C3%A0ng.jpg

Phố Đinh Tiên Hoàng là con đường vòng quanh trên bờ phía bắc và phía đông Hồ Gươm; tên cũ thời Pháp thuộc là A venue F. Garnier. Rue Đinh Tiên Hoàng, tên cũ thời Pháp thuộc của phố Trần Quý Cáp

47f44589_h%E1%BB%93%20t%C3%A2y%20g%E1%BB%93m%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20chu%20v%C4%83n%20an%20v%C3%A0%20l%C3%A0ng%20hoa%20vi%E1%BB%87t%20nh%E1%BA%ADt%20b%C3%A2y%20gi%E1%BB%9D.jpg

Hồ Tây gồm Trường Chu Văn An và làng hoa Việt Nhật bây giờ

47f4458d_m%E1%BB%99t%20ng%C3%B4i%20ch%C3%B9a%20b%C3%AAn%20b%E1%BB%9D%20h%E1%BB%93%20t%C3%A2y%20nh%E1%BB%AFng%20n%C4%83m%20%C4%91%E1%BA%A7u%20th%E1%BA%BF%20k%E1%BB%B7%20xx.jpg

Một ngôi chùa bên bờ hồ Tây những năm đầu thế kỷ XX (không xác định)

47f4458d_m%E1%BB%99t%20ng%C3%B4i%20ch%C3%B9a%20r%E1%BA%A5t%20to%20%C4%91%E1%BA%B9p%20c%E1%BB%A7a%20h%C3%A0%20n%E1%BB%99i%20x%C6%B0a-ch%C3%B9a%20b%C3%A1o%20%C3%82n.jpg

Chùa Báo Ân

47f445c9_ph%E1%BB%91%20h%C3%A0ng%20%C4%90%C3%A0o%20%C4%91%E1%BA%A7u%20th%E1%BA%BF%20k%E1%BB%B7%20xx.jpg

Hàng Đào - Phố Hàng Đào, đất phường Đại Lợi - Đồng Lạc - Tên cũ thời Pháp là Rue de la Soie (phố bán tơ lụa). Phường Đại Lợi trước kia có nghề nhuộm lụa các màu đỏ của người gốc làng Đan Loan (có đình Hoa Lộc thị).

47f445c9_ph%E1%BB%91%20tr%C3%A0ng%20ti%E1%BB%81n%20nh%E1%BB%AFng%20n%C4%83m%20%C4%91%E1%BA%A7u%20th%E1%BA%BF%20k%E1%BB%B7%20xx.jpg

Phố Tràng Tiền, đất cũ thôn Cựu Lâu và Hậu Lâu. Thời thuộc Pháp gọi là Rue des Inserupteurs (phố Thợ Khảm, sau được đặt tên là Rue Paul Bert). Thời tạm chíêm gọi là phố Pháp Quốc

47f445c9_th%C3%A1p%20b%C3%A1o%20%C3%82n%20b%C3%AAn%20b%E1%BB%9D%20h%E1%BB%93%20ho%C3%A0n%20ki%E1%BA%BFm.%20gi%E1%BB%9D%20%C4%91%C3%A2y%20th%C3%A1p%20v%E1%BA%ABn%20c%C3%B2n%20nh%C6%B0ng%20h%C3%ACnh%20nh%C6%B0%20c%E1%BB%A5t%20m%E1%BA%A5t%20t%E1%BA%A7ng%20th%C3%A1p%20tr%C3%AAn%20c%C3%B9ng.jpg

Tháp Báo Ân bên bờ hồ Hoàn Kiếm. Giờ đây, tháp vẫn còn nhưng đã mất tầng chóp trên cùng

47f445ca_to%C3%A0n%20c%E1%BA%A3nh%20%C4%91i%E1%BB%87n%20k%C3%ADnh%20thi%C3%AAn%20trong%20th%C3%A0nh%20h%C3%A0%20n%E1%BB%99i.jpg

Toàn cảnh Điện Kính Thiên trong thành Hà Nội

4a1d019b_12452f66_0120hanoi_chua_mot_cot.jpg

Chùa Một Cột (không xác định)


4a1d01b2_2e24153c_00320hanoi_thapbut.jpg

Tháp Bút thời Pháp thuộc


4a1d01c2_22b61e36_1880hangbac.jpg

Phố Hàng Bạc khoảng sau Hoà bình

4a1d01ee_4e303085_1880hangdao.jpg

Phố Hàng Đào (khoảng sau hoà bình lập lại)

4a1d0205_259f85fc_caugiay_xua.jpg

Cầu Giấy

4a1d0218_443c7f72_khue%20v%C4%83n%20cac.jpg
Khuê Văn Các (Quốc Tử Giám) thời thuộc Pháp

4a1d0226_24d50837_nhagoda.jpg

Nhà Goda

4a1d0246_781cdb26_ph.jpg


4a1d0260_16c6797b_th%E1%BA%A3o%20c%E1%BA%A7m%20vi%C3%AAn.jpg


4a1d026b_529456c1_t%C6%B0%E1%BB%A3ng%20%C4%91%C3%A0i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ph%C3%A1p%20tr%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ph%E1%BB%A7%20to%C3%A0n%20quy%E1%BB%81n%20.jpg

Tượng đài nước Pháp trước Phủ toàn quyền (nay là Chủ tịch phủ)

ST
 
Văn hiến Thăng Long

HNHG.jpg


Từ lâu, đã có một thành ngữ quen thuộc với mọi người khi nói về đặc tính của Thăng Long - Hà Nội: Ngàn năm văn hiến. Vậy văn hiến là gì? Nếu như hai khái niệm văn hoá và văn minh hiện được dùng phổ biến có nguồn gốc từ phương Tây thì khái niệm văn hiến là hoàn toàn gốc từ phương Ðông. Phương Tây không có khái niệm này. Chỉ ở Việt Nam và Trung Quốc, khái niệm văn hiến mới được dùng phổ biến.


Ở Việt Nam, từ văn hiến xuất hiện trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (1428) rồi sau đó được tiếp tục sử dụng trong ngôn ngữ Việt Nam.

Như nước Ðại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Nền văn hiến mà Nguyễn Trãi nói đó mang một nội dung khá rộng. Nó thể hiện bản sắc của dân tộc Việt Nam không chỉ ở "núi sông bờ cõi đã chia" mà còn ở "phong tục Bắc, Nam cũng khác". Bản sắc ấy không chỉ ở truyền thống văn hoá Việt Nam qua các thời kỳ mạnh yếu khác nhau mà còn ở sự tiếp nối không ngừng của các thế hệ anh hùng hào kiệt trong lịch sử Việt Nam.

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có

Ở Nguyễn Trãi, con người hào kiệt và văn hoá là những nhân tố cấu thành của nền văn hiến Việt Nam. Nói tới văn hiến Việt Nam, Nguyễn Trãi đã khái quát những truyền thống tốt đẹp đã tạo nên sức mạnh tinh thần bất diệt của dân tộc Việt Nam. Văn hiến Thăng Long chính là sự thu nhỏ lại của văn hiến dân tộc và là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hiến ấy.

Kỷ niệm 990 năm và chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long cũng là kỷ niệm những thành tựu của cả nước được hội nhập ở Thăng Long và lại từ Thăng Long toả sáng trên mọi miền của đất nước.

Văn hiến Thăng Long, không phải là của riêng vùng đất Thăng Long mà là tự hào chung của cả dân tộc Việt Nam.

Cũng ở thế kỷ 15, bia tiến sĩ Văn Miếu năm Quang Thuận thứ 4 (1463) do Tiến sĩ Ðào Cử soạn, có ghi: "Học trò may được khắc trên bia đá này, phải theo danh nghĩa sửa đức hạnh, bắt chước tính giữ gìn văn hiến".

Thế kỷ 19 trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: "Khi nhà Lê dựng nước, văn hoá lại thịnh dần, hơn 300 nắm tác đầy đủ kỹ càng, văn hiến đứng đầu trung châu điển chương rạng cả triều đại" (Văn tịch chí, bản dịch, quyển 4, trang 41).

Vậy nội dung văn hiến là gì?

Chu Hy (đời Tống, Trung Quốc) giải thích: "Văn, điển tịch dã; hiến, hiền dã". Có thể hiểu văn tức là văn hoá chỉ khuôn phép, trước tác, sách vở, hiến chỉ người hiền tài của đất nước.

Như vậy, có thể khẳng định rằng khái niệm văn hiến bao hàm không chỉ nội dung của khái niệm văn hoá, văn minh mà còn nhấn mạnh một yếu tố quan trọng nữa, đó là những hiền tài của đất nước. Nền văn hiến của một dân tộc bao gồm cả trình độ văn hoá và số lượng hiền tài của dân tộc ấy.

Cách viết như trên chính là cách hiểu ở Việt Nam, kể từ Nguyễn Trãi.

Tóm lại, văn hiến là trạng thái phát triển nhất định của mỗi dân tộc. Nó nói lên xu hướng luôn luôn khắc phục tình trạng nguyên sơ lạc hậu và thấp kém để vươn tới cuộc sống ngày một phát triển hơn, tiến bộ hơn, cao đẹp hơn, với sự phong phú của đời sống vật chất và tinh thần, với sự xuất hiện ngày một nhiều những hiền tài của đất nước. Nó đánh dấu trình độ của một dân tộc đã đạt được trong quá trình sử dụng thiên nhiên, hoàn thiện đời sống xã hội và không ngừng đào tạo ra những con người ưu tú cả về trí tuệ phẩm chất và tài năng.

Với quan niệm trên đây, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được văn hiến Thăng Long từ nguồn gốc ra đời đến những biểu hiện phong phú của nó trên các lĩnh vực của đời sống và qua các thời kỳ lịch sử.

- Sự ra đời của văn hiến Thăng Long có thể bắt đầu từ Chiếu dời đô, từ ngày kinh đô Thăng Long ra đời (1010). Tuy nhiên, văn hiến Thăng Long không phải đã được hình thành từ con số không. Hàng ngàn năm lịch sử trước đây đã chuẩn bị cho sự ra đời và phát triển của nó. Văn hiến Thăng là sự tiếp nối và nâng cao của những phẩm chất bất diệt của con người Việt Nam đã được rèn đúc suốt bao nhiêu thế kỷ chiến đấu để tồn tại và phát triển. Không thể hiểu được văn hiến Thăng Long nếu như bỏ qua những giá trị vật chất và tinh thần mà tổ tiên đã tạo dựng từ trước Thăng Long và để lại cho Thăng Long.

Sự dời đô từ Hoa Lư đến Thăng Long không phải là sự thay đổi địa điểm một cách bình thường như bao nhiêu cuộc thay đổi Thủ đô đã từng diễn ra trong lịch sử Việt Nam cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới. Sự dời đô của Việt Nam năm1010 mang một ý nghĩa đặc biệt. Nó đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong lịch sử Việt Nam từ thời dựng nước cho đến ngày năm đó.

Sự dời đô của Việt Nam và sự ra đời của Thăng Long thể hiện đỉnh cao của tâm hồn và bản lĩnh Việt Nam, thể hiện đầu óc tự cường của dân tộc, thể hiện khí phách anh hùng của cả lãnh tụ và toàn thể nhân dân Việt Nam.

Việc dời đô này là sự tuyên bố vang dội bốn phương về chủ quyền bất khả xâm phạm của đất nước Việt Nam, về sức mạnh bất khả chiến thắng của dân tộc Việt Nam trên con đường độc lập và phát triển.

Thăng Long lại là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Cho nên văn hiến Thăng Long không phải là sản phẩm riêng của những con người sinh sống trên mảnh đất gọi là Thăng Long này. Nó là sự hội tụ, sự chắt lọc và nâng cao những tinh hoa trí tuệ và tâm hồn của cả nước và từ đây lại lan toả mọi miền, trở thành di sản tinh thần và niềm tự hào chung của cả đất nước.

Văn hiến Thăng Long phản ánh tinh hoa đời sống tinh thần của dân tộc. Ðặc điểm của nền văn hiến ấy thể hiện từ cung cách tư duy đến sinh hoạt hàng ngày, từ sự bảo vệ một cách ngoan cường bản sắc dân tộc đến sự tiếp thu nhạy bén và sáng tạo những tinh hoa của nhân loại, từ sự phát minh khoa học đến sự sáng tạo văn học nghệ thuật. Chính vì thế mà văn hiến Thăng Long là đỉnh cao của văn hiến dân tộc.

Văn hiến Thăng Long cũng thể hiện ở trình độ thẩm mỹ sâu sắc và tế nhị trong hoạt động nghệ thuật cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Nó khiến cho Thủ đô luôn luôn đi đầu, luôn luôn là mẫu mực về một cuộc sống thanh lịch trong ăn, mặc, ở, trong mọi ứng xử hàng ngày.

Người Hà Nội ngày nay đã và đang phát huy truyền thống ngàn năm văn hiến đó để xây dựng thành phố của mình đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy truyền thống kết hợp với hội nhập thế giới văn minh, cùng cả nước vững vàng và hào hùng tiến vào thiên niên kỷ thứ ba.

(Theo: Người Hà Nội)
 
HÀ NỘI THÂM TRẦM VÀ CỔ KÍNH


489f9fa6_004-full.jpg

Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm


Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây.

* Làng Quang (nay là Thanh Liệt - Thanh Trì) từng nổi tiếng với "dưa vải khắp đồng", "ngô khoai khắp ruộng".

Làng Quang dưa vải khắp đồng
Ngô khoai khắp ruộng, nhãn lồng xóm Văn.

* Vào thế kỉ thứ 12, Nguyễn Trãi có viết trong Dư địa chí: Quang Liệt có vải ngon nhất nước, các triều đều có tiến để tế tự bốn mùa. Những cây vải tiến thường được đặt tên riêng đặc trưng về mùi vị, hương sắc như cây đường phèn, hoa dứa, thanh hương

* Rau ngổ thì chưa tìm ra được là đầm làng nào, ai biết thì chỉ giúp với nhé .

* Đầm Sét tương truyền là một khúc sông Kim Ngưu, trước kia có nối với Hồ Tây, khi nước chảy qua làng Sét (thuộc Thịnh Liệt, Thanh Trì) bị cạn lại thành một đầm lớn.

"Cá rô đầm Sét chỉ to cỡ chiều rộng ba đầu ngón tay khép khít, màu phớt vàng như màu củ nghệ. Cá rô đầm Sét rán hay nấu canh rau cải đều rất ngon. Khi rán cá rô đầm Sét, người ta cho dầu rán vào chảo đun sôi già mới thả chìm từng con cá vào chảo dầu. Rán như vậy giúp da cá không bị bong khỏi thịt cá. Ðể ngọn lửa cháy đều, không to quá, không nhỏ quá, cá sẽ chín từ từ và chín đều. Khi nào cá màu vàng, hơi cong lên, có mùi thơm thì là lúc cá chín và có thể gắp ra đĩa. Món cá rô đầm Sét rán có vị đậm, béo, giòn, thơm. Cá rô đầm Sét chấm với nước mắm Vạn Vân hay tương Bần thêm vài giọt chanh, ít lát ớt thái nhỏ là một món ăn đặc sản xưa kia từng đem tiến vua được.

Cá rô đầm Sét nấu canh rau cải cũng rất ngon. Người ta đem cá cho vào nước sạch luộc sôi sùng sục. Sau đó, vớt cá ra, xắn riêng phần đầu, gỡ thịt ra khỏi cá, giữ lại phần nước luộc cá. Giã đầu và xương cá rồi cho nước luộc cá còn nóng vào, chắt riêng nước và bã xương. em phần thịt cá gỡ nhỏ ra trọn với gia vị đủ độ đậm. Đun nước luộc cá cho sôi lại rồi mới thả rau cải đã rửa sạch, được thái nhỏ vào. Đun cho đến khi nước sôi lăn tăn thì đổ phần thịt cá đã trộn với gia vị vào, đun tiếp cho tới khi canh sủi tăm mới thả thì là, vài lát gừng vào khuấy đều rồi bắc ra ngay. Lúc đó, dù chưa ăn bạn cũng đã thấy canh rau cải thơm, ngon, ngọt. Ãn cơm gạo Tám với canh rau cải nấu với cá rô đầm Sét bạn sẽ cảm thấy "chao ôi! thật tuyệt vời"."

* Hồ Tây là hồ lớn nhất ở Hà Nội. Cứ mỗi khi mùa đông đến thì chim sâm cầm từ phương Bắc bay về làm tổ trên những cụm bèo và bãi lay sậy ven hồ để tránh rét. Vì thịt chim sâm cầm rất bổ (theo đánh giá của các học sĩ ngày xưa) nên vua Tự Đức gửi chỉ dụ cho Hà Nội: Cứ như lời tâu thì Sâm Cầm là món ăn ngon, lại là thứ thuốc rất bổ nên sắc cho Tỉnh thần Hà Nội sức bảo dân làng Nghi Tàm hàng năm đến mùa phải có mười đôi chim tiến cống càng sớm càng hay.

Sâm Cầm trung bình nặng 400-500gr nhưng cũng có nhiều con nặng đến 700gr. Đầu và cổ chim lông đen, lưng và bụng lông xám chì, mắt màu nâu đỏ. Mỏ chim có búp lông (có khi màu trắng), chân màu lục nhạt đốt thắt trông giống như những đoạn của củ sâm ... thế nhưng bây giờ Sâm Cầm không bao giờ còn ở Hồ Tây nữa. Do nạn săn bắt và đô thị hoá của Hà Nội thì loài chim này đã chuyển sang tránh rét ở các hồ lớn khác của miền Bắc. Nhưng chim sâm cầm vẫn không thoát nổi những người thợ săn và kết quả là từ chục năm trở lại đây chúng ta không còn được thấy chim sâm cầm nữa.

* Láng là địa danh nổi tiếng về trồng rau thơm cho Hà Nội, nhất là rau húng cho một hương vị mà không nơi nào khác có được. Theo sử sách để lại năm Đại Tự thứ năm (1362), vua Trần Dụ Tông đã đưa gia nô ra Láng khai khẩn đất đai bên bờ sông Tô Lịch, trồng rau thơm hành tỏi để dùng trong cung cấm và đặt tên nơi đây là Vườn tỏi. Kể từ đó tới nay các loại rau thơm của Láng đã trở thành thứ gia vị tinh tế của ẩm thực Hà Thành. Ngày xưa, cả một dải đất rộng ven sông Tô Lịch, kéo dài từ Cầu Giấy đến Ngã Tư Sở đều có chung một tên là Kẻ Láng. Kẻ Láng gồm ba thôn: Láng Thượng, Láng Trung và Láng Hạ.

Rau húng có ba loại là húng thơm, húng dũi và húng dồi. Nói đến húng Láng là ta nói đến loại húng thơm màu tía, ngọn nhỏ. Khi ăn thì người ta chỉ ngắt lấy cái ngọn trên đầu cùng vài cái lá non. Khi ăn rau húng thấy mềm mại, vị thơm mát hơi cay chỉ nhẹ nhàng trên lưỡi chứ không như bây giờ, người ta ngắt lấy cả phần cứng của cuống, ăn cả những chiếc lá già phía dưới cho khỏi phí. Do đất thổ ngư của Láng mà húng Láng có vị thơm thoang thoảng, dịu mát mà lại không quá cay. Giống húng thơm của Láng cứ mỗi khi đem đi trồng ở nơi khác thì lại có vị bạc hà cay nồng chứ không còn thơm dịu như khi được trồng trên đất Láng nữa. Mẹ Vam cũng đã từng đem giống húng này về trồng ở nhà nhưng kết quả là cũng như vậy.

Nhớ những gia đình trồng rau thơm ở Láng, cứ chiều chiều lại ra ruộng cắt rau rồi đem về bó. Những bàn tay thoăn thoắt cầm lấy một nhúm rau húng, xoè ra như hình dẻ quạt rồi dùng lạt buộc lại. Các mẹt đựng rau thơm sau đó được phủ lên một tấm vải tẩm nước, để qua đêm ngoài trời rồi sáng hôm sau sẽ được đưa ra chợ bán. Những hình ảnh đó bây giờ chỉ còn là trong kí ức của Vam, vì dưới sức ép của đô thị hoá, những diện tích trồng rau cuối cùng của Láng đã biến mất.

Cũng như những dự án lấp Hồ Tây xây khách sạn, chặt đào Nhật Tân để xây nhà... thì rau húng Láng cũng biết trước sẽ có ngày như vậy. Chỉ tiếc là nhìn sang các nước bạn lại thở dài mà nghĩ về nước mình .

Ai sẽ trả lại cho tôi một Hà Nội thâm trầm và cổ kính, một Hà Nội nhẹ nhàng mà hào hoa?

(Báo ảnh Việt Nam)
 
HÀ NỘI - MỘT THỦ ĐÔ TÍCH HỢP TÂM LINH

3_Hanoi_lake1040.jpg


Việc mở rộng Hà Nội sang toàn bộ địa giới tự nhiên của tỉnh Hà Tây cũng đồng thời là sự tích hợp các yếu tố văn hóa tâm linh của xứ Đoài vào văn hóa Thăng Long, vì Hà Nội và Hà Tây cùng nằm trên một vùng đất địa linh theo quan niệm phong thủy, cùng có lịch sử phát triển trên nền móng tâm linh là văn hóa Phật giáo, cùng tổ chức không gian xã hội theo hệ thống làng nghề. Như vậy, Hà Nội mở rộng sẽ có thêm một hệ thống chùa chiền nổi tiếng như chùa Thầy, chùa Hương, chùa Tây Phương... cùng hệ văn hóa với các chùa chiền Hà Nội sẽ được đưa vào hệ thống du lịch văn hóa và sinh hoạt tín ngưỡng của Thủ đô.

Bàn về dự án mở rộng Hà Nội, đã có nhiều ý kiến sắc sảo và quyết liệt tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng nổi trội lên vẫn là hướng tiếp cận mang tính bi quan - giải thiêng trên hai lĩnh vực dân chủ và thực dụng, từ chuyện lòng dân tới chuyện nghiên cứu và quản lý, chuyện buôn bán đất đai và mua bán chức quyền. Những người lạc quan, có nhãn quan văn hóa, tin ở những điều thiêng lại thấy đây là một dự án phát triển Thủ đô trên một nền tảng tâm linh thống nhất, mặt khác, là một dự án mang bản chất về nguồn, tích hợp tâm linh.

Thực tế, trong Chiếu dời đô Lý Công Uẩn đã quan tâm nhất tới điều gì?


Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác, viết thủ chiếu rằng: Ngày xưa nhà Thương đến Bàn Canh là năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương là ba lần dời đô, há phải là các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng mà tự dời đô bậy đâu, là vì mưu chọn chỗ ở chính giữa làm kế con cháu ức muôn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo lòng dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi. Bởi thế ngôi truyền dài lâu, phong tục giàu thịnh.

Thế mà nhà Đinh, nhà Lê lại theo lòng riêng, lơ là mệnh trời, không noi theo việc cũ nhà Thương, nhà Chu, yên ở nơi quê quán, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không nên. Trẫm rất xót thương không thể không dời đi nơi khác.

Huống chi đô cũ của Cao Vương ở thành Đại La, ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt, chỗ ấy là nơi hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà đóng đô, các khanh nghĩ thế nào?”.

Đọc Chiếu dời đô, ta thấy tinh thần chính, tư tưởng chính của Lý Công Uẩn không nằm ở câu cuối cùng “Các khanh nghĩ thế nào?” như ông Dương Trung Quốc dẫn ra và phiên dịch theo tinh thần văn hóa phương Tây. Tư tưởng chính của Chiếu dời đô là “mưu chọn chỗ ở chính giữa làm kế con cháu ức muôn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo lòng dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi. Bởi thế ngôi truyền dài lâu, phong tục giàu thịnh”.

Theo mạch nghĩ này, sự bền vững thịnh vượng và phát triển của con cháu muôn đời là mục đích tối cao của việc dời đô, mục đích ấy muốn đạt được trước hết phải chọn được thế đất chính giữa cho Thủ đô (tức Địa lợi), sau nữa phải kính mệnh Trời (Thiên thời), kế đến mới là theo lòng dân (Nhân hòa). Ở đây, yếu tố Địa lợi vốn đứng thứ hai trong quan niệm Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa của người xưa đã được Lý Công Uẩn đẩy lên hàng đầu, chứng tỏ tư tưởng địa linh là yếu tố quan trọng bậc nhất trong tư duy dời đô của Lý Công Uẩn. Tư tưởng địa linh có màu sắc phong thủy ấy đã thể hiện rất rõ trong Chiếu dời đô khi Lý Công Uẩn nêu rõ những ưu thế về phong thủy của đất Đại La: “Huống chi đô cũ của Cao Vương ở thành Đại La, ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện hình thế núi sông sau trước”.

Vào thế kỷ thứ XI, văn hoá tâm linh có màu sắc vật linh và tam giáo đã thấm đẫm trong xã hội Việt Nam, với tư cách một Hoàng đế - Thiền sư, Lý Công Uẩn phải tắm mình trong văn hóa của thời đại để tư duy về đại sự. Mặc dù ngày nay trong dân gian vẫn lưu giữ hình ảnh Cao Biền như một thầy phù thuỷ có những hành vi trấn yểm để triệt tiêu nhân tài và nguyên khí của Việt Nam, nhưng trong Chiếu dời đô ta thấy Lý Công Uẩn nhắc đến Cao Biền bằng một thái độ trân trọng, gọi là Cao Vương, và coi sự lựa chọn Đại La của Cao Biền như một tham chiếu về phong thuỷ tâm linh quan trọng.

TS Nguyễn Quốc Tuấn trong bài viết “Quy hoạch Tâm linh - tôn giáo của kinh thành Thăng Long” đăng trên tạp chí Nghiên cứu tôn giáo năm 2007 đã phê phán thái độ phi lịch sử của hậu thế hôm nay khi những người nghiên cứu bình luận về Chiếu dời đô hầu như lờ đi không đả động đến thái độ trân trọng của Lý Công Uẩn với Cao Biền.

Theo ông, thái độ trân trọng đó là biểu hiện của việc coi trọng phương diện tâm linh - tôn giáo hơn phương diện chính trị thuần túy: “Với bản thủ chiếu, Lý Thái Tổ đã cho ta một khuôn mẫu định đô với tư cách kế thừa sự lựa chọn của Cao Biền. Nhìn vào sự lựa chọn này, ta có thể gọi vùng đất quanh sông Tô, núi Nùng là "minh đường" tuyệt hảo của đất nước Đại Việt.

Những khảo sát lịch sử và địa lí cho thấy thế minh đường của núi Nùng, sông Tô (và những núi, sông khác có tại đây) là rõ ràng, và vì thế, địa điểm này đã được chọn, chỉ khác nhau ở mục đích lựa chọn giữa Cao Biền và Lý Thái Tổ. Lý Thái Tổ chọn để chấn hưng quốc gia, phát triển quốc gia".

TS Nguyễn Quốc Tuấn cũng cho rằng qua các cung điện, chùa, quán trong khu vực Long Thành nằm trong Kinh thành có thể thấy mặt siêu việt của Kinh thành Thăng Long tức là phương diện Tâm linh - Tôn giáo (Spiritualiste - Religieux) đã có vai trò quan trọng trong kiến tạo mặt bằng tổng thể của Thăng Long.

Như vậy có thể nói, một trong những động cơ thôi thúc Lý Công Uẩn dời đô là động cơ tâm linh, mong tìm kiếm một kinh đô đắc địa theo tiêu chuẩn phong thủy lúc bấy giờ. Nói cách khác, Thăng Long đã ra đời và phát triển như một thủ đô xây dựng trên nền móng tâm linh, hướng tới sự phát triển bền vững cho muôn đời sau.

Một dự án kế thừa và tích hợp tâm linh

Trong bạt ngàn các ý kiến bàn về dự án mở rộng Hà Nội, chỉ có một ý kiến cho rằng dự án cần quan tâm tới yếu tố phong thủy để đảm bảo hạnh phúc của toàn dân vì Thủ đô là của chung cả nước. Có thể nói, với đề xuất mở rộng Thủ đô ôm trùm cả địa giới tự nhiên tỉnh Hà Tây và một số xã, huyện thuộc các tỉnh Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Dự án mở rộng Thủ đô đã đáp ứng được cả hai yêu cầu: vừa phát triển, vừa tích hợp tâm linh vì Hà Nội mở rộng vẫn sẽ nằm trọn trong thế đất rồng cuộn hổ ngồi mà Lý Công Uẩn đã chọn.

Nhìn bằng nhãn quan phong thủy, Đại La có địa thế tốt vì đã đạt được một bối cảnh hài hòa và hoành tráng giữa các kiến trúc tọa lạc trên đó với sông núi vây quanh (núi Nùng, sông Tô) và núi chủ trong khu vực (chủ sơn). Theo cố Giáo sư Trần Quốc Vượng, chủ sơn của Thăng Long - Hà Nội là Tản Viên làm hậu chẩm và sông Cái bao la làm lưu thủy, Tam Đảo làm tiền án. Theo định nghĩa của môn phong thủy, Long mạch khởi nguồn từ những ngọn núi cao (gọi là Tổ sơn) và còn xuất phát từ những khu vực khác (gọi là Thiếu sơn).

Theo các nhà nghiên cứu về tư tưởng địa linh, có thể thấy được có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây Bắc của Thành Đại La kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa - Đông Anh và đi tiếp tới dãy Yên Tử rồi tới tận Quảng Ninh. Không phải ngẫu nhiên mà truyền thuyết kể rằng Cao Biền đã thực hiện trấn yểm ở núi Tản Viên và sông Tô Lịch nhằm ngăn Long mạch.

Núi Ba Vì được coi là núi thiêng của cả nước từ bao đời nay, gắn liền với truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ và truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh. Văn hóa tâm linh của Thăng Long xưa liên quan tới tư tưởng địa linh còn để lại dấu vết ở các đình đền thờ thần Tản Viên và hai anh em Cao Sơn trong các phố cổ Hà Nội như đình Đồng Lạc ở 38 Hàng Đào, đình Đại Lợi ở số 50 Gia Ngư, đình Trang Lâu số 77 Nguyễn Hữu Huân, đình Đông Hà số 46 Hàng Gai...
Việc Thánh Tản Viên - một trong Tứ bất tử của Việt Nam - và thần Cao Sơn, con Lạc Long Quân và Âu Cơ là nhân vật truyền thuyết lâu đời, một bộ tướng thân cận của Sơn Tinh được thờ cúng có hệ thống trong các phố cổ Hà Nội là minh chứng cho mối quan hệ tâm linh giữa núi Tản Viên và đất Thăng Long.

Thăng Long - Hà Nội không chỉ là mảnh đất thiêng theo tinh thần tư tưởng địa linh, mà còn là kinh đô ngàn năm văn hiến với một bề dày trầm tích văn hóa tâm linh không mấy Thủ đô trên thế giới sánh kịp.

Trải qua một ngàn năm lịch sử với sự thay thế luân phiên của bao nhiêu quan niệm triết học và xã hội khác nhau, đất Thăng Long - Hà Nội vẫn giữ được một mẫu số chung thiêng liêng của một vùng đất Thánh, đất Phật với sự nảy sinh và trường tồn của bao nhiêu huyền tích, sự tích và giai thoại đậm màu sắc tâm linh - tôn giáo như huyền tích, sự tích, giai thoại, Phật thoại về Hồ Tây, Hồ Gươm, đền Quan Thánh, đền Đồng Cổ, đền Voi Phục, chùa Một Cột, v.v...

Vì thế, bảo tồn Hà Nội rút gọn lại là bảo tồn cái nền móng tâm linh mà người xưa để lại, phát triển trên cái nền móng ấy, tích hợp các yếu tố tâm linh phù hợp để củng cố cái nền móng đã làm nên cái thiêng liêng ngàn đời của đất Thủ đô.

Việc mở rộng Hà Nội sang toàn bộ địa giới tự nhiên của tỉnh Hà Tây cũng đồng thời là sự tích hợp các yếu tố văn hóa tâm linh của xứ Đoài vào văn hóa Thăng Long, vì Hà Nội và Hà Tây cùng nằm trên một vùng đất địa linh theo quan niệm phong thủy, cùng có lịch sử phát triển trên nền móng tâm linh là văn hóa Phật giáo, cùng tổ chức không gian xã hội theo hệ thống làng nghề.

Như vậy, Hà Nội mở rộng không chỉ có thêm những lô đất đắt giá của Hà Tây sẽ được bán theo giá đất Hà Nội như những cách nhìn bất cập về văn hóa tâm linh đã nhấn mạnh, mà còn có thêm một hệ thống chùa chiền nổi tiếng như chùa Thầy, chùa Hương, chùa Tây Phương... cùng hệ văn hóa với các chùa chiền Hà Nội sẽ được đưa vào hệ thống du lịch văn hóa và sinh hoạt tín ngưỡng của Thủ đô.

Học giả Lê Mạnh Thát đã cho rằng, Phật giáo là một vũ khí tư tưởng chống lại một cách thành công mọi âm mưu đồng hóa của thời kỳ Bắc thuộc, hơn thế nữa, chính Phật giáo, với tư tưởng bình đẳng tuyệt đối của nó, đã đem lại cho dân tộc ta một sức mạnh tri thức và tinh thần lớn lao để đứng lên đòi lại nền độc lập từ tay ngoại bang.

Việc tích hợp hệ thống văn hóa Phật giáo của Hà Tây vào Hà Nội là một động thái củng cố nền móng tâm linh văn hóa cho dân tộc. Bên cạnh đó, hệ thống làng nghề nổi tiếng của Hà Tây cũng sẽ được tích hợp vào hệ thống các phố nghề của Hà Nội một cách hài hòa. Những sự tích hợp tâm linh - văn hóa kết hợp được cả bảo tồn và phát triển này sẽ phải được phản ánh trong quy hoạch Thủ đô mở rộng một cách cụ thể và khoa học ở tầm chiến lược.

ST
 
Thăng Long tứ trấn – sự hội tụ văn hóa nội lực và ngoại sinh

Thăng Long - Hà Nội bước vào tuổi 1000, những công trình kiến trúc của thuở đầu định đô nếu không để lại dấu tích trong lòng đất thì chỉ còn định vị được trên mặt đất với một diện mạo mới đa phần thuộc các thế kỷ XVIII-XIX. "Thăng Long tứ trấn" thuộc trường hợp sau, nhờ đó chúng ta biết quy mô và quy hoạch của kinh thành xưa, biết định hướng phát triển văn hoá Đại Việt và tình cảm của người dân kinh kỳ đối với những di tích này.

Các tư liệu lịch sử và khảo cổ đã xác định kinh thành Thăng Long từ thời Lý là một thành thị lớn của thời trung đại, giới hạn vòng ngoài là đường đê bao quanh: ở phía đông là đê sông Hồng chạy qua Yên Phụ vào đường Hoàng Hoa Thám ở phía bắc, đến chợ Bưởi rẽ theo đường Bưởi ở phía tây, tới Ô Cầu Giấy thì tách đôi, vòng trong bắt vào đường Giảng Võ nối với đường La Thành đến Ô Chợ Dừa thì lên đường đê Kim Liên ở phía nam chạy sang đường Đại Cồ Việt, rồi đường Trần Khát Chân ra đê sông Hồng ở Ô Đống Mác (còn phía ngoài thì từ Ô Cầu Giấy qua đường Láng đến Ngã Tư Sở nối đường Trường Chinh rồi đường Nguyễn Thị Minh Khai ra đê sông Hồng ở bến Phà Đen). Trên đường bao ấy được người xưa đắp cao làm phòng thành cản giặc và cũng là đường đê chống lũ lụt, ở mỗi phía được xây một ngôi đền thờ vị thần bảo vệ từng mặt cho kinh thành: phía đông có đền Bạch Mã, phía bắc có đền Quán Thánh, phía tây có đền Voi Phục và phía nam có đền Kim Liên. Các vị thần này trấn giữ xung quanh kinh thành Thăng Long, do đó đền thờ các vị được gọi là "Thăng Long tứ trấn". Những di tích này trải qua bể dâu biến đổi, không còn dấu tích gì của ngày khởi dựng.

Thư tịch và truyền thuyết luôn khẳng định không có sự chuyển dịch qua thời gian mà chỉ có sự bổ sung, làm mới ở các thế kỷ sau. Người xưa coi đấy là những mảnh đất thiêng, nơi hội tụ linh khí để đảm bảo cho kinh thành luôn ở thế rồng bay lên ( Thăng Long thời Lý- Trần- Lê), hay ít ra cũng là sự thịnh vượng (Thăng Long thời Nguyễn), để ngày nay Hà Nội được thế giới công nhận là Thành phố vì hoà bình. Niềm tin của nhân dân từ bao đời nay, gia đình cũng như cả cộng đồng đã có các thần linh bảo vệ thì mọi thế lực tà ma quỷ quái sẽ không quấy đảo được nữa, do đó, mọi người mới an cư lạc nghiệp. Từ niềm tin thuần phác ấy, trừ những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhân dân thủ đô luôn chăm sóc cho tứ trấn khang trang, hương khói đề huề. Và ngày nay trong chương trình tiến tới kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, thành phố đã có kế hoạch tu sửa và nâng cấp các di tích này.


Kinh thành trước hết là trung tâm chính trị, vua và triều đình bàn bạc các việc quốc gia đại sự trong chính điện, từ đây chỉ đạo các công việc của cả nước. Ngồi chủ trì các sinh hoạt chính trị, vua được coi là "thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ văn", luôn ngoảnh nhìn về phương nam nghe các quan tâu bày.

Vì thế chính điện cũng như toàn kinh thành luôn lấy phía nam làm mặt tiền, là diện mạo của kiến trúc cung đình. Như thế, với Thăng Long tứ trấn thì đền Kim Liên được coi trọng hàng đầu, nhưng do đền không gần cửa ô - cửa ngõ thủ đô, ngay cả khi Hà Nội được cuốn vào quy hoạch thành phố thuộc địa, nó vẫn thuộc một làng còn đậm chất quê, thậm chí ngày nay làng quê đã đô thị hoá thì lối đi qua cửa đền vẫn là một đường giao thông rất phụ, do đó dường như đền bị lãng quên.

Đền xưa bị phá từ lâu, chỉ còn là ngôi miếu nhỏ mang tính chất một nhà bia, lại ở kề sát sườn đình nên đình kinh gắn liền với đình làng và trong tâm thức người dân địa phương đã trở thành đình làng Kim Liên, từ cấp quốc gia xuống cấp thôn/phường! Một số sách báo về di tích này cũng giản đơn hoá nó theo xu hướng trên. Giờ đây Hà Nội nâng cấp di tích, cần nâng tầm cho nó về đúng vị thế ban đầu là đền thần trong hệ thống tứ trấn của kinh thành.


TRẤN NAM - ĐỀN KIM LIÊN

den-Kim-Lien-3.jpg


Cổng tam quan vào đền Kim Liên

Đền Kim Liên thuộc làng Kim Liên, phường Phương Liên, quận Đống Đa, ở phía nam thành phố. Đền xưa đã bị phá nhưng hiện vật quan trọng là tấm bia cao hơn 2m5 thuộc loại bia lớn nhất ở Hà Nội, khắc bài văn Cao Sơn Đại Vương Thần từ bi minh tính tự (bài minh và bài văn bia đền thần Cao Sơn đại vương) soạn năm Canh Ngọ niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 tức năm 1510, vẫn còn rất tốt, được bảo quản trong một ngôi miếu nhỏ dưới gốc đa cổ thụ, luôn gợi ra một cảnh quan thâm nghiêm trang trọng.

Đền được dựng ở bên trái của đình làng Kim Liên, ở trên một gò đất cao, từ sân lên nghi môn phải qua 9 bậc xây bằng gạch vồ cổ. Chín bậc như ở hệ thống cửa điện Kính Thiên trong thành Hà Nội, gợi nơi ngự của thần được xếp ngang cấp với vua ở chốn cửu trùng, phía trước là sân rộng qua cổng với hai cột đồng trụ cao vút vuông thành sắc cạnh nhìn ra chỗ nở của một lạch nước là nơi tụ thuỷ - tụ phúc. Đình đã được dân làng sửa sang, có đại bái dàn ngang và hậu cung chạy dọc, hai bên sân còn có giải vũ, cùng với cây cao bóng cả là bộ mặt văn hoá làng xưa. Trong đình còn giữ được tới 39 đạo sắc phong của các thời Lê và Nguyễn cho Cao Sơn đại vương, chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt của triều đình phong kiến xưa.

Văn bia cho biết Cao Sơn đại vương là một trong số trăm con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, đã từng giúp Sơn Tinh đánh thắng Thuỷ Tinh, đầu thế kỷ XVI lại giúp vua Lê dẹp loạn giữ yên ngai vàng. Thực chất huyền thoại trên là lớp văn hoá muộn phủ lên tín ngưỡng gốc của nhân dân về việc thờ thần Núi rất phổ biến ở miền trung du thuộc xứ Đoài, nơi có núi chủ Tản Viên Ba Vì, được khái quát là Cao Sơn đại vương hay Tản Viên sơn thánh. Thờ thần Núi vốn gốc vùng đất tổ, gắn với buổi bình minh của dân tộc, khi đất nước thực sự phát triển trong kỷ nguyên độc lập thì Thần được rước về kinh thành, lại trấn phía nam là vùng đất trũng hướng về đồng bằng đang được khai thác và mở rộng. Có thể xem thần Núi là thiếu dương nằm trong miền đất thái âm rộng lớn.


den-KL.jpg

Đền Kim Liên nhìn từ cổng chính

Tấm bia quý trên có trang trí các hình rồng, mây, hoa, lá, sóng nước phù hợp với thời điểm soạn văn năm 1510, có nghĩa nó đã được tạc và dựng ở đầu thế kỷ XVI, nhưng mặt sau bia vào năm Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng 33 tức 1772 được khắc thêm một thông tin: nguyên bia này lập tại Phụng Hoá, nó trôi nổi về bến sông Bồ Đề. Năm Hoằng Định (đầu thế kỷ XVII) bản phường vớt lên đem về đặt ở đất chùa, do có nhiều điều thiêng liêng huyền bí, nhân dân lại làm lễ rước sang bên trái đình để tỏ sự tôn kính. Tấm bia rất nặng, tất nhiên không thể trôi nổi trên sông nước, nhưng đó là con đường di chuyển của vị thần Núi biểu hiện sự hội nhập âm dương, tạo nên sự linh thiêng, gắn với cả cảnh Phật và đất Vua, được thời gian kiểm chứng và khẳng định.

TRẤN TÂY- ĐỀN VOI PHỤC

den-voi-phuc.jpg

Đền Voi Phục

Đền Voi Phục dựng trên đất làng Thủ Lệ, phường Cầu Giấy, ở phía tây thủ đô, thuộc quận Ba Đình, trên gò đất thấp nhìn xuống hồ rộng. Nơi đây nay là Vườn bách thú của thủ đô, song vốn trước đó đã là vườn hoa tự nhiên có cây cối um tùm cùng soi bóng mặt hồ. Chính cảnh vật hoang sơ ấy lại như hội tụ linh khí đất trời, tạo nên một vẻ huyền bí ở ngay nơi thắng cảnh. Vùng đất phía tây thủ đô vốn là vùng nhiều gò đồi mà nay còn để lại cái tên: Núi Trúc, Núi Bò, Núi Voi... đan xen có nhiều hồ, lạch nước, tạo sự hoà nhập cao, thấp để những vườn hoa và rau xanh như tạo cảnh thần tiên. Các vua nhà Lý thường tổ chức lễ hội Nam Sơn vạn thọ mừng sinh nhật mình ở vùng đất này.

Đền xưa vốn dựng từ thời Lý, các thời sau đều được tu sửa. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp hai lần đánh chiếm Hà Nội vào các năm 1873 và 1883, chúng hạ thành không khó, nhưng sau đó đều bị quân và dân Hà thành dụ về quanh khu đền Voi Phục căng ra đánh, giết chết chủ tướng giặc là Garnier (1873) và Rivière (1882). Sau đó chúng trả thù, đốt phá cả vùng, làm ảnh hưởng nhiều đến di tích. Rồi năm 1947, thực dân Pháp sau khi tái chiếm Hà Nội, đã mở rộng ra vùng ngoại vi, đánh lên Sơn Tây, nhân đó đốt trụi đền Voi Phục. Năm 1953 dân làng Thủ Lệ dựng lại đền, sau ngày thủ đô giải phóng đền còn được tu sửa nhiều lần, nhất là từ ngày đất nước đổi mới. Tuy nhiên cho tới nay, đền Voi Phục có quy mô khiêm tốn, các nếp nhà còn đơn sơ và nhỏ nhoi, nhưng cái đẹp của nó là sự gọn gàng, bình dị dưới những tán cây cổ thụ, toàn công trình do con người tạo dựng cứ gắn bó hữu cơ với ngoại cảnh để trải ra như vô tận. Trong xu hướng đô thị hoá, ở vòng ngoài công viên Thủ Lệ các nhà cao tầng mọc lên đủ kiểu, cuộc sống thật ồn ã, nhịp thời gian thật sôi động; nhưng trong công viên thì đền Voi Phục với vườn cây, chuồng thú, mặt hồ vẫn giữ nét đẹp dân gian - dân tộc, là nơi sinh hoạt tâm linh và thư giãn của mọi người dân đô thành.

Đầu lối vào đền có tượng hai con voi quỳ, và do đó nhân dân quen gọi là đền Voi Phục, nhưng còn gọi theo tên làng sở tại là đền Thủ Lệ hoặc gọi theo tên vị thần được thờ là đền Linh Lang.

Vị thần được thờ ở đền Voi Phục là Linh Lang đại vương, con của một cung tần nhà Lý đi tắm hồ Dâm Đàm (hồ Tây) gặp rồng mà hoài thai 14 tháng sinh ra, được vua Lý Thánh Tông đưa về trại Thủ Lệ nuôi dưỡng. Khi đất nước bị quân Tống xâm lược, Linh Lang xin vua cho thớt voi rồi cưỡi đi đánh giặc. Thắng giặc rồi, ngài về lại Thủ Lệ, không bao lâu mắc bệnh, rồi hoá thành con giao long bò xuống hồ biến mất. Vua phong tước cho Linh Lang là Đại vương, sai lập đền thờ nơi ở cũ với chức danh Thượng đẳng thần, hàng năm mở hội vào ngày lập xuân.

Thực chất của việc thờ Linh Lang là tín ngưỡng thờ thần sông nước rất phổ biến ở xứ Bắc - nhất là dọc hai bên bờ sông Cầu. Đây là vùng đất cổ sớm được khai phá thành đồng ruộng với xóm làng trù mật, người nông dân với kinh nghiệm làm ruộng "nhất nước - nhì phân - tam cần - tứ giống" đã đưa việc thờ thần sông nước lên hàng đầu, nguyên thuỷ là thờ ông Cộc và ông Dài theo hình tượng con thuồng luồng, con rắn mà nơi ở chính là khúc sông Cầu hợp lưu được gọi là Ngã Ba Xà, sau nâng thành Tam Giang đại vương, rồi lại lịch sử hoá thành Trương Hống - Trương Hát. Xứ Bắc lại là quê hương nhà Lý, vương triều Lý đã rước vị thần sông nước ra kinh thành, giao cho trấn phía tây là vùng đất nhiều gò bãi và hướng về trung du xứ Đoài, nó cũng như hạt nhân thiếu âm trũng thấp của vùng đồi thái dương rộng lớn.

Trong cuộc kháng chiến chống Tống, chính vị thần sông nước này, tại đền Như Nguyệt bên bờ nam sông Cầu đã đọc bài thơ tứ tuyệt "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" mang tinh thần bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Triều đình Đại Việt xây dựng kinh đô Thăng Long với hướng đi phục hưng văn hoá dân tộc, đã đưa hai thần Cao Sơn và Linh Lang của vùng đất tổ gồm cả địa bàn trung du xứ Đoài và đồng trũng xứ Bắc, về trấn hai phía nam và tây của kinh thành có địa hình ngược lại là sự chuyển hoá, đưa cái này vào làm nhân của cái kia theo quan niệm lưỡng nghi là gốc của sự phát triển. Gắn kết Cao Sơn với Linh Lang chính là gắn kết linh khí của núi và của sông, của đất và của nước để tạo nên hình ảnh cụ thể cho khái niệm Tổ quốc thiêng liêng nhất, đồng thời cũng là việc khai thác văn hoá truyền thống để khẳng định bản sắc dân tộc của mình. Đây là một hướng đi đúng đắn và có ý nghĩa sâu sắc nhất mà ngày nay đang cần khai thác, phát huy.

TRẤN BẮC - ĐỀN QUÁN THÁNH

den-quan-thanh.jpg

Đền Quán Thánh

Đền Quán Thánh hay còn gọi là quán Trấn Vũ ở góc đường Thanh Niên và đường Quán Thánh, bên hồ Trúc Bạch nhìn ra hồ Tây, trấn phía bắc kinh thành. Đền thờ vị thần có nguồn gốc phương bắc là Huyền Thiên Chân Vũ đã hiển linh ở nước Nam, ngay từ buổi dựng nước đầu tiên đã giúp vua Hùng đánh giặc, lại theo sát lịch sử buổi đầu độc lập giúp dân trừ tà ma và chống hạn. Đây là hiện tượng thờ thần tiên với nhiều phù phép để tăng cường sức mạnh của nhân dân ta ở buổi bình minh lịch sử, lại phù hợp với tư tưởng Đạo giáo tiếp nhận từ phương Bắc, nó quán xuyến trong lịch sử trung đại Việt Nam mà ở nhiều nơi đã hoà nhuyễn với Phật giáo đến mức quán Đạo thường gọi là chùa Phật, nó đi vào cuộc sống tâm linh sâu lắng của mọi người.

Đền Quán Thánh xây dựng từ thời Lý để giữ yên phương bắc - về tâm linh là chốn có nhiều thế lực hắc ám, về lịch sử cũng là cửa ngõ của nhiều cuộc xâm lược. Tiếp nhận thần của văn hoá Trung Hoa để chống lại mọi sự quấy đảo từ bên ngoài là cách giải quyết thông minh của dân tộc ta.

Đền được xây dựng từ thời Lý, các thời sau đều có gia cố, thậm chí làm mới, ngày nay về kiểu thức kiến trúc là thuộc thời Nguyễn, còn giữ được một số hiện vật của thời Lê Trung Hưng. Khuôn viên đền khá rộng, đầu thế kỷ XX còn soi bóng được xuống hồ Tây, nay mặt trước đền là một vườn hoa nhỏ mà về văn hoá lại như cái cầu chuyển tiếp từ đền xuống mặt hồ không bị hẫng hụt. Trong sân đền nhiều cây muỗm cổ thụ chẳng những che phủ các mái nhà mà còn tạo một không gian xanh sạch đẹp liền khoảnh trong khu văn hoá- chính trị của qui hoạch thủ đô. Hiếm có một công trình kiến trúc văn hoá có được vẻ đẹp ngoại thất như đền Quán Thánh. Từ mép đường Thanh Niên, những cột đồng trụ vút cao và sau đó là toà nghi môn kiêm gác chuông, tất cả tạo một vẻ cổ kính giữa phố phường hiện đại, nó níu kéo du khách. Vào sân đền, vườn cây cổ thụ lại được bổ sung bằng những chậu hoa cây cảnh và đặc biệt là hòn non bộ gia công khéo léo đã tạo ra một thế giới thần tiên. Kiến trúc chính của đền gồm hai toà bái đường và chính điện song hành, bên trong gắn với nhau thành một không gian nội thất thống nhất nhưng phân ra các khu vực để thờ cúng các đối tượng khác nhau.

Những toà nhà này được dựng nửa sau thế kỷ XIX, bộ khung thanh thoát, gờ soi chỉ chạy với mộng mẹo xít xao, dành phần hiên rộng làm sảnh với nhiều hình chạm điêu luyện phủ khắp các vách gỗ mặt tiền làm cho kiến trúc trở nên nhẹ nhàng và vui tươi. Di vật trong đền, ngoài bia đá, chuông và khánh đồng còn có nhiều đồ thờ tạo một không khí thâm nghiêm mà người người vào thăm cũng đều kính cẩn. Đặc biệt có pho tượng Huyền Thiên Chân Vũ bằng đồng hun đen, đúc liền khối, ở thế ngồi cao hơn 3m, chu vi tới 8m, nặng 4 tấn, thể hiện một đạo sĩ tóc xoã, mặt vuông, một tay bắt quyết, một tay chống thanh gươm có rắn quấn quanh tì lên lưng rùa, biểu hiện được cả sức mạnh và sự trường tồn, cũng khẳng định trình độ đúc đồng cao. Tượng được đúc ở nửa sau thế kỷ XVII, đến thế kỷ XIX lại được gia công trau chuốt thêm. Người nghệ sĩ Trùm Trọng phụ trách làm pho tượng đồng trên cũng được nhân dân xưng tụng và tạc thành pho tượng đá cao bằng người thực, đầy cá tính, để phối thờ ở hồi trái của cung thánh.


TRẤN ĐÔNG- ĐỀN BẠCH MÃ

den-bach-ma.jpg

Đền Bạch Mã

Cuối cùng là đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm, xưa thuộc phường Hà Khẩu trên bờ sông Hồng cạnh cửa sông Tô Lịch, ở phía đông kinh thành, là nơi thờ thần Long Đỗ với tước hiệu Quảng Lợi Bạch Mã đại vương. Thần Long Đỗ tức thần núi Long Đỗ còn gọi là núi Nùng, nơi rốn của con rồng Thăng Long, là điểm kết tụ khí thiêng sông núi kinh thành. Ngay từ trong thời Bắc thuộc, Cao Biền đắp thành Đại La và chôn đồng, sắt để trấn yểm long mạch nước ta, thần đã làm mưa, gió, sấm, chớp đánh bật và làm nát vụn bùa của Cao Biền, khiến y phải lập đền thờ để mong được bình yên, lại thấy vượng khí nước Nam không thể mất nên vội cuốn gói về Bắc. Thế rồi khi vua Lý Thái Tổ xây thành Thăng Long, xây xong lại đổ, bèn cho người đến đền Bạch Mã cầu thần thì có một con ngựa trắng từ trong đền đi ra, chạy một vòng tròn khép kín ngược chiều quay của kim đồng hồ, sau đó vào đền và biến mất. Nhà vua đã theo vết chân ngựa mà xây thành, sau khi xây xong bèn cho sửa sang lại đền và sắc phong Thần là "Quảng Lợi Bạch Mã tối linh thượng đẳng thần". Ngày ấy, quanh đền Bạch Mã dân mở phố chợ trên bến dưới thuyền buôn bán đông vui. Đây là cửa sông Tô Lịch nhận nước sông Hồng và là nơi giao lưu hàng hoá của kinh thành Thăng Long với các vùng miền và nước ngoài.

Một trong những nước ngoài sớm có nền văn hoá - văn minh cao và cũng sớm truyền đến nước ta là Ấn Độ. Nhân dân ta tự giác tiếp nhận một cách hoà bình văn hoá Phật giáo từ đầu công nguyên, từng phát huy nó làm công cụ đấu tranh giải phóng trong thời Bắc thuộc và xây dựng đất nước trong thời độc lập. Theo dòng lịch sử, các trung tâm Phật giáo đã chuyển dịch từ Liên Lâu qua Cổ Pháp (Bắc Ninh) về Thăng Long. Ấn Độ tuy ở phía tây, song văn hoá Ấn Độ đã theo thuyền buôn đến nước ta và vào Thăng Long ở phía đông, trong đó thần mặt trời được biểu hiện bằng ngựa trắng. Ngày nay nhiều người đã quên mất khoá mã của loại mật mã này, song nhiều đền chùa vẫn còn tượng ngựa trắng, và nhân dân vẫn gắn ngựa với thời gian - "bóng câu qua cửa sổ". Đường chạy của ngựa thần cũng là đường chuyển động từ đông sang tây của mặt trời là sự chuyển động của vũ trụ đã thành quy luật. Thần Mặt Trời tiếp thu từ văn hoá Ấn Độ được thờ ở phía đông vừa là nơi giao lưu và hội tụ văn hoá tự nhiên, vừa biểu hiện buổi bình minh rạng rỡ mở đầu ngày mới lịch sử huy hoàng. Lớp văn hoá ấy, sau được lồng vào tín ngưỡng gốc thờ Thổ công và nâng thành Thành Hoàng của cả kinh thành. Ở khía cạnh khác sự giao lưu văn hoá Việt - Ấn còn tạo ra nhiều giá trị mới rất cao.

Như vậy, đền Bạch Mã được xây dựng sớm nhất trong hệ thống Tứ Trấn, qua thời gian luôn được tu bổ sửa chữa. Ở thời Trần, quân Nguyên xâm lược và đốt phá Thăng Long nhưng lửa không cháy đến đền. Thời Lê Trung Hưng đền được trùng tu và dân địa phương được triều đình nhận làm dân tạo lệ được miễn các nghĩa vụ với nhà nước để tập trung chăm sóc di tích. Bộ mặt kiến trúc chính của đền còn đến nay là thuộc thời Nguyễn, quy mô có thu hẹp song từ nghi môn đến giải vũ và nhà phương đình, rồi đại bái, tiêu hương và cung cấm đã tạo một tổng thể khép kín thâm nghiêm. Từ phương đình vào, các đơn nguyên kiến trúc được nối với nhau bởi các vòm vỏ cua tạo ra một không gian nội thất chung rộng rãi, kiến trúc ở đây đã học được lối "trùng thiềm điệp ốc" của Huế và Hội An, cả một số trang trí như đèn lồng hình hoa sen cũng vậy.

Nếu việc thờ Cao Sơn và Linh Lang là sự phát huy các giá trị cổ truyền của văn hoá dân tộc thì các đền Quán Thánh và Bạch Mã lại là tiếp thu tinh hoa văn hoá lớn của nhân loại ở ngay láng giềng gần gũi giúp cho dân tộc luôn đi lên bằng cả hai nguồn sức mạnh là nội lựcngoại sinh. Tầm nhìn ấy của cha ông từ nghìn năm trước, ngày nay càng là bài học cho chúng ta, nhất là trong thời mở cửa, thông tin bùng nổ, chúng ta càng hoà đồng càng kết tinh. Trong cuộc cách mạng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, chúng ta đi sau nhưng biết đón đầu sẽ mau sánh bước cùng bầu bạn. Trong cả nước, đô thị hoá đang đà phi mã, nhiều thành phố mọc lên, song trong quy hoạch vẫn có thể học được ở Thăng Long tứ trấn tầm nhìn xuyên thời đại.

ST
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top