• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Hide Nguyễn

Du mục số
Ngành văn hóa đã chưa có động thái rõ ràng trong việc bảo vệ ba vùng văn hóa của Hà Nội mở rộng.
TS. Nguyễn Xuân Diện​


Hôm nay, 1/8, tròn một năm ngày Hà Tây sáp nhập với Hà Nội. Sáp nhập một tỉnh vào với thủ đô chắc chắn là một công việc đầy khó khăn, thách thức. Với nhiều nỗ lực, chính quyền Hà Nội và Hà Tây cũ đã đạt được không ít thành công trong quá trình chuyển đổi đó. Tuy nhiên, công cuộc sáp nhập phức tạp cũng không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế trên một số khía cạnh khác nhau.

tet butnghien.jpg


Văn hóa xứ Đoài xô lệch

Hôm nay là ngày chẵn một năm tỉnh Hà Tây chính thức sáp nhập và trở thành một bộ phận của Hà Nội. Trước đó nhiều cơ sở văn hóa của tỉnh Hà Tây đã kịp biến mất. Bảo tàng tỉnh, nhà triển lãm, trụ sở các nhà hát chèo, cải lương, kịch nói đã bị bán cho doanh nghiệp, dồn các cơ quan này ăn nhờ ở đậu khắp nơi. Đã có cả văn bản ký quyết định giải tán Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Tây, phá hội trường, dồn 40 cán bộ tâm huyết của cơ quan này xuống thành cán bộ quận Hà Đông. May mà nhờ báo chí lên tiếng cứu lại được.

Sáp nhập, người chưa quen người, việc chưa quen việc, chân chưa quen đường. Ngơ ngác và xáo trộn. Rồi cũng qua đi. Người Hà Tây và người Hà Nội trong các cơ quan nhìn nhau trong sự dè chừng, rồi cũng qua đi…

Như vậy, sau khi sát nhập, Hà Nội có ba vùng văn hoá: vùng văn hoá Thăng Long (trung tâm Hà Nội); vùng văn hóa Sơn Nam Thượng (các huyện phía Nam tỉnh Hà Tây cũ); vùng văn hoá xứ Đoài (vùng phía Bắc tỉnh Hà Tây cũ). Trong đó xứ Đoài là vùng có những nét văn hoá đặc sắc.
Hà Tây cũ là tỉnh mà về mặt văn hóa rất đáng tự hào. Với 1.110 di tích đã xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh (trong đó có nhiều di tích được liệt hạng đặc biệt quan trọng của quốc gia: Chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Bối Khê, chùa Thầy, đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, làng Việt cổ Đường Lâm...). Hà Tây có nhiều di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc và khảo cổ học đặc sắc. Mỗi một ngôi đình, đền, chùa này lại không đơn giản chỉ là một hiện vật bảo tàng, mà xung quanh đó, hàng ngày, hàng giờ vẫn diễn ra các sinh hoạt tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân. Vì vậy, nó chính là một bảo tàng sống động về văn hóa.

Hà Tây còn là đất trăm nghề, là tỉnh có nhiều nghề thủ công mỹ nghệ đứng đầu cả nước (Lụa Vạn Phúc, Khảm Chuyên Mỹ, Quạt Vác, Thêu Quất Động, Mộc Chàng Sơn, Bún Bặt, Bún Cổ Đô...). Cùng với đó, Hà Tây là tỉnh có nhiều dân ca nhất nước (ca trù, hát Dô Liệp Tuyết, hát Chèo Tàu, hát Chèo, hát Tuồng Dương Cốc, hò Phú Nhiêu...). Rồi còn ca dao hò vè, truyện kể dân gian, còn phong tục nữa. Xưa kia, chiếng chèo Đoài là một chiếng lớn, đặc sắc. Năm 1957, thành lập đoàn chèo Cổ Phong.

Ông là chuyên gia về ca trù; văn hóa truyền thống và hiện đang là Phó Giám đốc Thư viện của Viện nghiên cứu Hán Nôm.

TS Diện đã công bố một số công trình về xứ Đoài: Nhân vật (Kiều Oánh Mậu, Nguyễn Bá Lân, Lê Anh Tuấn); Làng Việt cổ (Đường Lâm, Cổ Đô, Yên Nội); Lễ hội (đình So, đền Và); Ẩm thực (Sơn Tây tứ quý)…

Xứ Đoài là vùng đất phía Bắc của tỉnh Hà Tây cũ, là nơi có địa thế kẹp giữa hai dãy núi – Tam Đảo và Tản Viên, bị bao vây bởi sông Hồng và hai dãy núi nên đây là vùng đất tương đối biệt lập và khép kín, ít có giao lưu. Nơi đây, hình thành nên làng mạc khép kín, do đó lưu giữ được tương đối toàn vẹn những nét văn hóa Việt cổ (Việt - Mường) và bảo tồn cảnh quan văn hóa xứ Đoài như đền chùa đình miếu và các nhà ở dân gian.

Dưới thời phong kiến và dưới thời Tây, Hà Tây thuộc hai trấn (xứ) hoặc hai tỉnh khác nhau (Hà Đông và Sơn Tây), bao gồm hai vùng văn hóa: văn hóa trấn Sơn Nam thượng và văn hóa xứ Đoài, trong đó văn hóa xứ Đoài là rất đặc sắc. Người xưa phân địa giới như vậy là căn cứ vào điều kiện địa lý, thổ nhưỡng và văn hóa của mỗi vùng. Từ năm 1945 đến nay, xứ Đoài (gồm các huyện phía Bắc của tỉnh Hà Tây cũ) đã từng nhiều lần tách nhập với Hà Nội. Mỗi lần tách ra, xứ Đoài gần như không có gì mới so với khi nó được nhập vào, trên tất cả các phương diện.

Và sau 1 năm, những những lo lắng của các nhà nghiên cứu, các nhà văn hoá về vấn đề văn hoá, về sự xô lệch của cảnh quan diễn ra đúng như họ lo ngại. Ở nhiều nơi, cảnh quan làng đang mất dần vì những dự án xây dựng sân golf, khu công nghiệp. Nhiều người đau xót khi không còn thấy luỹ tre làng xanh, không còn không gian thoáng đãng, đẹp đẽ của cầu ao, bến nước, ao làng mà thay vào đó là kiến trúc của một cảnh quan xô bồ.

Ngược lại, những dòng người từ các làng quê khắp nơi, nhất là từ Hà Tây cũ đang kéo về trung tâm Hà Nội. Họ là những công chức trước kia công tác ở Hà Tây; là những người dân ở các làng quê mà diện tích canh tác bị thu hẹp nhường chỗ cho các khu công nghiệp không còn tư liệu sản xuất đành phải ra thành phố làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Cuộc sống tạm bợ của họ ít nhiều đã gây nên những xáo trộn nơi địa bàn mà họ mưu sinh, khiến cho khuôn mặt văn hóa của một Hà Nội êm đềm xưa kia lại thêm ít nhiều xô lệch.

Trong việc sát nhập này, một vấn đề cũng làm cho người dân và cả những nhà khoa học lo lắng, đó là việc trùng tu, tu bổ các đình, chùa nơi đây ra sao.

Ví dụ như khu Đền Và – Cung điện lớn nhất thờ Tản viên Sơn thánh đã bị dỡ ra, tu sửa và tiến hành trùng tu một cách vô nguyên tắc, tùy tiện (không hỏng cũng muốn phá dỡ làm lại, phá bức tường thành đá ong). Đình Tây Đằng được xem như là bảo tàng về điêu khắc gỗ của thế kỷ 16, 17 khi mà dỡ ra tu bổ cũng không còn được hồn phách, dáng hình ngày xưa nữa. Đình đã bị quây lại bằng tường bao, đóng kín và cô lập với bên ngoài, triệt tiêu tính chất mở của đình làng – kiến trúc công cộng lớn nhất của một làng quê.

Đình Mông Phụ nằm giữa trung tâm làng cổ Đường Lâm cũng bị tu sửa vô nguyên tắc khiến nhân dân địa phương bất bình. Mái đình bị lợp một nửa mái ngói mới, một nửa ngói cũ, như tấm áo vá; sân đình còn tốt còn đẹp thì bị bóc dỡ để lát lại toàn bộ, mà lại lát mạch gạch đâm vào đình (một điều cấm kỵ của dân gian, cả ở kiến trúc công cộng lẫn nhà ở dân dụng). Chỉ đến ngày nghiệm thu, dân làng mới được mời ra để nhận lấy công trình. Các cụ bức xúc, đơn vị thi công mới buộc phải dỡ mái ngói lợp lại và lát lại sân đình…

Không gian văn hóa làng đang bị phá vỡ

Để Hà Nội trở thành đô thị rộng lớn thì phải đô thị hoá. Chính đô thị hoá như vậy, dù muốn dù không, thì bao giờ cũng triệt phá đi cảnh quan làng. Đây cũng chính là điều mà GS. Suenari Michio người Nhật Bản, người đã dành cả đời nghiên cứu về nông thôn Việt Nam, lên tiếng cảnh báo từ nhiều năm trước.

Chúng ta đều biết rằng làng Việt đã là nơi cất giữ gần như toàn bộ gia sản văn hóa của tổ tiên chúng ta. Kiến trúc đình, chùa, miếu và các nhà ở dân gian là kết tinh sự hiểu biết của người xưa về môi trường, kiến trúc và quan niệm về sự ở của tổ tiên chúng ta. Lũy tre xanh và cách bố trí dân cư theo hình xương cá hoặc bố trí dọc theo nguồn nước là cách tự vệ và sự tuân thuận theo tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, lợi dụng thiên nhiên. Đó là một triết lý của người Việt.

Bên cạnh đó, các di sản văn hoá phi vật thể cũng có thể bị mất đi theo trào lưu chung. Người dân, nhất là giới trẻ quay lưng lại với di sản văn hóa phi vật thể cha ông để chạy theo lối sống mới, văn hoá mới. Họ không trở thành những chiến sĩ gìn giữ văn hoá cổ truyền, họ không trở thành những người lính bảo vệ văn hoá cổ mà chối bỏ tất cả, nhập vào cuộc sống mới đang được đô thị hóa rất nhanh chóng.

Làng Việt chính là nơi cất giữ văn hóa Việt. Chính làng Việt đã bảo vệ văn hóa Việt Nam khỏi cuộc đồng hóa của Tàu, của Tây từ hàng ngàn năm nay, làm nên sức mạnh đề kháng của văn hóa Việt Nam, tạo nên bản sắc và bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Vì thế, trước cơn cuồng phong của đô thị hóa như một quy luật tất yếu của thời đại mới, trong cơn mưa Âu gió Á này, làng Việt cổ truyền thống đang dần biến mất, thì chính là lúc văn hóa Việt bị đe dọa nhất.

Nếu chúng ta không giữ được làng Việt thì cũng sẽ không giữ được văn hóa Việt. Và đương nhiên nếu không giữ được văn hóa Việt thì chuyện mất sức đề kháng, bị đồng hoá, bị văn hóa ngoại lai đánh gục là một nguy cơ trông thấy.

Có một thực tế đáng buồn, sau khi Hà Tây sát nhập về Hà Nội thì các cơ quan ngôn luận (gồm kênh H1, H2 Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội; Báo Hà Nội mới…) dành “đất” quá ít ỏi cho những thông tin về Hà Tây cũ, chưa tương xứng với vùng đất này.

Dường như các cơ quan truyền thông của Hà Nội đã thực sự không chú ý không tuyên truyền cho văn hóa Hà Tây cũ. Gần như trong 1 năm vừa qua vùng đất lớn bao bọc Hà Nội trở thành như là bộ phận lạc lõng, bị lãng quên không ai để ý đến.

Thiếu thông tin, đô thị hóa ồ ạt không tính toán tới bản chất mưu sinh của người nông dân là gắn với ruộng đồng nên đẩy người dân vào tình thế cười ra nước mắt. Người nông dân ở quê mong có con đường chạy qua, bán vài sào ruộng để kiếm tiền. Lúc đó, người nông dân không có phương tiện sản xuất, phải gồng gánh vào nội đô để bán sức lao động giản đơn. Khi có tiền, họ cũng du nhập về làng quê họ nhiều thứ như nghiện hút, nạn mại dâm cùng các tệ nạn xã hội khác…

Khi không còn đất để canh tác, người dân cũng dần quên đi các lễ hội tôn vinh nghề nghiệp; còn các câu hát dùng trong sinh hoạt nông nghiệp, phong tục liên quan đến cấy trồng không được truyền và tiếp nhận nữa.

Người thành phố ồ ạt về nông thôn mua đất cát làm biệt thự, điền trang. Chính họ đã đem văn hóa của thành phố về với nông thôn, gây nên những xáo trộn trong những làng quê tưởng chừng đời đời bình yên sau lũy tre làng xanh tươi.
Cần bảo tồn văn hóa 3 vùng miền

Như đã nói ở trên, Hà Nội mở rộng hôm nay đang có ba vùng văn hóa: Vùng văn hóa Thăng Long - Hà Nội, Vùng văn hóa xứ Đoài (các huyện phía Bắc tỉnh Hà Tây cũ) và Vùng văn hóa Sơn Nam Thượng (các huyện phía Nam tỉnh Hà Tây cũ). Đặc sắc văn hóa là ở đó, và việc tôn trọng văn hóa vùng phải là kim chỉ nam cho công tác chỉ đạo làm văn hóa.

Sau một năm, giới nghiên cứu chúng tôi không thấy có một động thái nào rõ ràng của ngành văn hóa trong việc chỉ đạo để tôn trọng văn hóa vùng như thế nào.

Đoàn chèo Cổ Phong Hà Tây mặc dù đã được 9 nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật tại Hà Nội có Thư ngỏ tới Lãnh đạo Thành phố đề nghị giữ độc lập để giữ bản sắc chèo Đoài, nhưng đáp lại vẫn là chữ “sáp nhập”. Đoàn chèo Hà Tây vẫn sát nhập vào đoàn chèo Hà Nội. Từ sau đó, chèo Cổ Phong không có hoạt động nào một cách độc lập để giữ gìn những nét đẹp xưa của chiếng chèo cổ xứ Đoài nữa.

Tất nhiên chúng ta không thể cưỡng lại được với xu thế đô thị hóa. Tôi nghĩ, ngành văn hóa Hà Nội cần có chủ trương quán triệt tới từng cấp cơ sở về vấn đề bảo vệ văn hóa vùng. Chúng ta phải có quy hoạch rõ ràng khu nào đô thị hóa, khu nào giữ nguyên cảnh quan.

Thêm nữa, chúng ta phải tôn trọng tính nguyên bản của các sinh hoạt văn hóa lễ hội, tín ngưỡng và văn hóa dân gian: hát, hò, vè; kiến trúc, phong tục, nền nếp gia phong dòng tộc… Phải làm thế nào để giáo dục cho nhân dân biết trân trọng giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mà họ đang nắm giữ, do tổ tiên họ truyền lại; biết tự hào về điều đó và coi đó là một thứ tài sản thiêng liêng mà mình đang sở hữu.

Những người làm nghiên cứu văn hóa như chúng tôi mong sao ngành văn hóa Hà Nội hôm nay: “Gìn vàng giữ ngọc cho hay. Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”, giữ ba vùng văn hóa không bị mất mát, pha trộn và giữ cho được những đặc sắc riêng của từng vùng.

Theo : Tuanvietnam.net
 

Butco

New member
Xu
0
Thăng Long – Hà Nội Một Nghìn Sự Kiện Lịch Sử

Gần một nghìn năm đã trôi qua, kể từ ngày Lý Công uẩn dừng bên dòng Tô giang dưới chân thành Đại La mùa thu năm Canh Tuất (1010) mở đầu trang lịch sử mới của vùng đất núi Nùng sông Nhị này. Sử chép rằng, vào thời khắc lịch sử quan trọng ấy, có rồng vàng hiện lên trên thuyền ngự, nhà vua nhân đấy đổi tên Đại La thành Thăng Long. Thăng Long có nghĩa là rồng bay lên, thể hiện khát vọng vươn lên của cả dân tộc.


Trong suốt dặm dài lịch sử, Thăng Long – Hà Nội là nơi diễn ra và là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử lớn lao, nhiều biến cố thăng trầm, của riêng mảnh đất này và của chung đất nước, có nhiều vinh quang chói lọi, nhưng cũng không ít tủi cực lầm than. Lịch sử Thăng Long – Hà Nội, vì thế đã trở thành lịch sử chung của đất nước Việt Nam, của mọi người Việt Nam. Và cũng vì thế, hiểu biết về lịch sử Thăng Long – Hà Nội không chỉ là nh cầu của riêng người Hà Nội, mà là của mọi người Việt Nam.

“Thăng Long – Hà Nội một nghìn sự kiện lịch sử” là một phác họa tiến trình lịch sử Thủ đô dưới hình thức biên niên. Một nghìn sự kiện trọng đại trong gần một nghìn năm kể từ ngày Lý Công Uẩn ra định đô, rõ ràng chưa phải là toàn bộ lịch sử. Tuy nhiên, với gần 600 trang sách do Vũ Văn Quân chủ biên đã tái hiện sinh động những sự kiện lịch sử trọng đại diễn ra trên vùng đất “lắng hồn núi sông ngàn năm “ này, gắn liền với lịch sử dân tộc qua từng thời kỳ.

Lịch sử thế giới đến nay, khắp nam bắc đông tây, bao nhiêu quốc gia có thủ đô chuẩn bị bước vào tuổi một nghìn? Chắc chắn không nhiều. Riêng Hà Nội, trải qua bề dày thời gian cùng quá nhiều biến chuyển đã thực sự trở thành nơi hội tụ, kết tinh, lan tỏa của văn hóa Việt Nam, thành hình ảnh của đất nước, của dân tộc.

Trên ý nghĩa đó, đọc “Thăng Long – Hà Nội một nghìn sự kiện lịch sử” là cơ hội cho chúng ta tường tận nguồn gốc con người, cội rễ của văn hóa dân tộc. Và trải qua bao thăng trầm, hình thành và phát triển, địa danh Thăng Long – Hà Nội đi vào lòng người Việt Nam như một hình tượng thiêng liêng mang hồn đất nước. Con số 1000 sự kiện không phải là nhiều so với tất cả những gì Hà Nội từng nếm trải. Nhưng nó đủ khả năng mang đến cho người đọc một cái nhìn tổng thể về những gì một người Việt Nam cần biết về thủ đô của đất nước mình.

Thế giới biết đến Việt Nam qua địa danh Hà Nội. Cái tên còn gợi lên bao tình cảm dạt dào về những con đường, những dãy phố, hàng cây mang hơi thở và sắc diện rất riêng, nhất là đối với những người sinh ra, lớn lên trên mảnh đất này, hay những ai đã từng một lần ghé thăm Hà Nội. Nhà xuất bản Hà Nội cho ấn hành quyển sách “Thăng Long – Hà Nội một nghìn sự kiện lịch sử” trao đến tay bạn đọc một tình cảm thiết tha, trọn vẹn về niềm tin yêu vào mảnh đất quê hương đậm nét văn hóa truyền thống của mình.
 

Hide Nguyễn

Du mục số
Trăm năm quy hoạch Hồ Tây qua ảnh

Hồ Tây là một địa danh văn hóa mà chẳng một người Việt nào là không biết. Nhưng nói về Hồ Tây là nói về những cảm xúc , hay nói về vẻ đẹp, hay là...

Hôm nay, Hide đọc được một bài viết về Hồ Tây, đọc và đã thấm thía được nhiều điều minh tin tưởng, mình cần có thời gian để hiểu. Và hơn hết, mình đã yêu nơi này, và tình yêu ấy cần được giữ gìn và nâng niu hơn nữa. Nâng niu bắt đầu từ vật chất...
__________


Nhân đọc bài "Hà Nội điều chỉnh qui hoạch chi tiết xung quanh hồ Tây" trên VNN ngày 23/9/09, lục lại lịch sử, chúng ta cùng tìm hiểu xem đã có bao nhiêu bản quy hoạch liên quan đến Hồ Tây đã được xây dựng.


Ngay từ đầu thế kỷ XX , người Pháp đã xây nhiều công trình ở phía Nam Hồ Tây như: trường học, nơi ươm cây, vườn hoa, nhà xưởng, biệt thự… Năm 1923, kiến trúc sư Esnes Hebrad đến Hà Nội nhậm chức Giám đốc sở Quy hoạch Kiến trúc.


[FONT=arial,helvetica,sans-serif].[/FONT]
Ho-Tay-1.jpg

Ảnh trái: Phương án Hebrrad.
Ảnh phải: Đường Cổ Ngư mờ sương, chụp vào năm 1920-193.


Ít lâu sau, Hebrad đã vẽ quy hoạch vùng Hồ Tây: nhấn mạnh như một công viên khổng lồ, chia Hồ Tây thành hai hồ nhỏ hơn có vị trí quan trọng trong Hà Nội với ý đồ biến đây thành Thành phố vườn lớn nhất châu Á cùng thời.

Quy hoạch Hà nội công bố năm 1943 do kiến trúc sư Luis Georges Pineau thực hiện. Trích đoạn Hồ Tây: khác với phương án chia thành 2 hồ nhỏ, phương án giữ nguyên trạng mặt nước, thảm cỏ và các làng xóm truyền thống – Ý tưởng "Thành phố vườn" vấn được nhấn mạnh với tính khả thi trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội đương thời.


[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Ho-Tay-2.jpg
[/FONT]


Ảnh trái: Ảnh chụp Hồ Tây từ trên máy bay “ Bà Già “ với hai cánh bằng vải. Có hàng chục bức ảnh ghép lại thành vùng Hồ Tây để vẽ bản đồ hiện trạng phục vụ lập sơ đồ quy hoạch năm 1943.
Ảnh phải: Phương án Pineau


Năm 1959, phía Nam Hồ Tây được quy hoạch với các khối cơ quan trung ương, hình thành trung tâm chính trị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dự án này được khởi công đào móng tại khu Quần Ngựa vào đầu những năm 1960. Tuy nhiên, do chiến tranh nên việc thi công bị ngừng lại và không thực hiện tiếp.

ResizedImage139185-Ho-Tay-3.jpg


Quy hoạch Nam Hồ Tây 1959


Năm 1991, bản nghiên cứu quy hoạch Hồ Tây của Viện Quy hoạch khẩn trương hoàn thành để bố trí không gian cho những khách sạn liên doanh (mọc lên nhanh chóng vào các năm sau đó).

Nhìn ảnh chụp từ máy bay năm 1977, đường Thanh Niên về cơ bản giữ nguyên như vậy từ những năm 1960.

Sau khi hàng vạn thanh niên Thủ đô lao động lao động xã hội chủ nghĩa đắp mở rộng con đường Cổ Ngư xưa, đường được lấy tên mới là đường Thanh Niên.

Nhà thuyền chơi thể thao nhỏ nhắn tao nhã bị thế chỗ bởi khách sạn cao tầng "ngạo nghễ". Quán bánh tôm chỉ là quán bằng gỗ ngỏ lợp tôn nép dưới tán cây, không bừng bừng khí thế ăn uống như bây giờ.

[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Ho-Tay-4.jpg
[/FONT]


Ảnh trái: quy hoạch Hồ Tây năm 1961 ,
Ảnh phải: Hồ Tây nhìn từ trên máy bay (năm 1977)


Theo bản vẽ "Chùa Trấn Quốc" của KTS Louis Bezacier -Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) thực hiện đầu thế kỷ 20, chùa Trấn Quốc giữ nguyên hiện trạng trong thời gian dài.

Còn trong quy hoạch Hồ Tây công bố năm 2004, nhiều màu xanh công viên, thảm cỏ nay đã biến mất để thành nhà ở ….. Hiện giờ, chỉ có các khu vực biệt thự là có nhiều thảm cỏ, cây xanh.

Ho-Tay-5.jpg


Ảnh trái: bản vẽ ghi đầu thế kỷ 20.
Ảnh phải: bản vẽ công bố đầu thế kỷ 21

Ảnh chụp bức pa-nô công bố quy hoạch đường kè Hồ Tây năm 2009. Bản vẽ quá sơ lược khiến những người chuyên môn cũng không có được nhiều thông tin.


[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Ho-Tay-6.jpg
[/FONT]


Ảnh trái: quy hoạch của Hồ năm 2004. Ảnh phải: biệt thự ven hồ


Tháng 3/2008, một "nhà thuyền" đang thi công nhờ “Giấy phép hoạt động bến thủy nội địa “của Sở Giao thông công chính .Cơ quan Đăng kiểm Việt Nam cấp “Giấy chứng nhận duyệt thiết kế hoán cải”. Nhờ dư luận lên tiếng và quyết tâm của các cấp chính quyền, các nhà thuyền từ chỗ neo đậu hai bên đường Thanh Niên nay đã dạt vào hai góc hồ: nơi xa nhất vài chục mét, nơi gần nhất là mấy bước chân .

Ho-Tay-7.jpg
Ảnh trái: Nhà nổi đang thi công và đã đình chỉ tháng 3/2008. Ảnh phải: Nhà thuyền để dạt vào góc hồ cách đó mấy bước chân.


Tháng 9/2009, Hồ Tây chưa hết bị quây bởi hàng loạt nhà nổi, cầu nổi, sàn nổi thì lại đứng trước nguy cơ bị vây kín bởi màn hình khồng lồ. Điều đó cho thấy, có rất nhiều cách để làm xấu Hồ Tây trong khi các biện pháp xử lý tình thế có kết quả hạn chế. Năm 2006, nhà máy xử lý nước thải trị giá gần 4 triệu USD, công suất 2.300m3/ngày đêm được đưa vào hoạt động. Ảnh chụp mặt hồ đầy rác bên ngoài nhà máy làm ta hoài nghi về sự cần thiết của nó tại đây.

[FONT=arial,helvetica,sans-serif]
Ho-Tay-9.jpg
[/FONT]


Ảnh trái: Rác thải bên ngoài nhà máy xử lý nước thải 4 triệu USD .
Ảnh phải: Tấm biển “chung tay góp sức xây dựng thủ đô Hà nội –trái tim của cả nước.


Tấm biển “chung tay góp sức xây dựng Hà Nội …” thật ít tác dụng. Hồ Tây đang cần một cách tiếp cận mới, khác hẳn những phương cách không đem lại hiệu quả như vậy.

Ngày 16/6/2009, Thành ủy Hà Nội đã chỉ đạo công tác quản lý đô thị trong đó lưu ý "kịp thời ngăn chặn, xử lý tình trạng lấn chiếm, san lấp ao hồ trên địa bàn…. Trong quá trình xây dựng các đồ án quy hoạch mới, cần đặc biệt quan tâm, giữ gìn, có phương án cải tạo các hồ, ao để tạo cảnh quan đẹp cho thành phố".

Nên chăng, việc quy hoạch Hồ Tây và Trúc Bạch sẽ tiến hành theo cách: tổ chức thi tuyển các phương án với sự tham gia rộng rãi của các thành phần khác nhau? Phương án đoạt giải sẽ công bố công khai để tất cả những ai "thương quý" Hồ Tây, Trúc Bạch và yêu mến Hà Nội sẽ cùng với các cơ quan bảo vệ hai hồ mãi mãi xanh-sạch … Thiết nghĩ, ấy cũng là những việc làm thiết thực để “chung tay góp sức xây dựng thủ đô Hà Nội –trái tim của cả nước".

Bản quy hoạch Hồ Tây sắp được nghiên cứu là rất cần thiết - cũng như các bản quy hoạch đã từng có trong lịch sử. Nhưng, bản QH lần này rất được kỳ vọng sẽ thực hiện một cách hiệu quả, chất lượng vì đây thực sự là cơ sở hình thành bộ "quy tắc ứng xử nghiêm túc" có đủ-năng-lực để bảo vệ Hồ Tây.




Theo :Tác giả Trần Huy Ánh
Nguồn : Tuần Việt Nam
 

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
93
Hà Nội và dấu ấn văn hóa Pháp

Hà Nội là nơi gặp gỡ của nhiều luồng văn hóa thế giới. Không kể chuyện xa xưa, khi ở đây từng diễn ra sự tiếp xúc và cải biến văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, mà chỉ kể chuyện một trăm năm trở lại đây, việc hội nhập rồi phát triển cùng văn hóa Pháp và thế giới cũng đủ nói lên Hà Nội là nơi mở đầu những đổi mới trong đời sống văn hóa ít ra cũng là ở toàn miền Bắc.

14.5_ha_noi1.jpg

Bắc Bộ phủ do người Pháp xây dựng.

Từ nửa cuối thế kỷ XIX, một cuộc giao lưu tiếp biến khá đặc biệt diễn ra giữa văn hóa Việt và văn hóa phương Tây, chủ yếu là văn hóa Pháp, nhân dân ta một mặt phải tiến hành đấu tranh chống thực dân để giành độc lập, một mặt phải tiếp nhận nền văn hóa ngoại lai này để hiện đại hóa đất nước. Ban đầu là sự giao lưu cưỡng bức, dần dà việc giao lưu chuyển sang chủ động khiến cho diện mạo văn hóa Hà Nội thay đổi rõ nét. Đã xuất hiện nhiều tầng lớp mới với những ý thức và nhu cầu hưởng thụ mới, còn mang dấu ấn đến tận nay. Có thể nêu vài dẫn chứng:


Về sinh hoạt: Người Hà Nội đi đầu trong thay đổi trang phục, phục sức. Cùng với việc bỏ cây bút lông và mực tàu giấy bản, cùng cây bút sắt và giấy Tây là trang phục, phục sức Tây phương được chấp nhận. Răng không nhuộm đen nữa, đàn ông bỏ khăn xếp, bỏ áo dài, bỏ giày hạ mà đội mũ phớt, mặc com-plê, mặc smoking, pardessus, đi sandale, đi giày bee canard, giày đơ-cu-lơ, nữ giới thì bỏ khăn, vấn tóc trần, bỏ áo mớ ba mớ bảy, mặc áo tân thời, quần trắng, áo măng-tô, đi giày mang cá, giày muyn, tóc phi-dê...


Về âm nhạc, bên cạnh nhạc năm cung, thanh niên Hà Nội học ký âm bảy "nốt", hát bài hát Pháp rồi soạn ra bài hát tiếng Việt theo âm giai Tây phương. Người soạn nhạc Việt đầu tiên theo nhạc lý phương Tây là người Huế, nhưng trình bày lần đầu là ở Hà Nội năm 1938 là Nguyễn Văn Tuyên. Sau đó là Lê Thương, Đặng Thế Phong, Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao... Họ thành danh ở các tửu quán trà đình Hà Nội.
Về mỹ thuật, Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ra đời năm 1925, mà hai người sáng lập là họa sĩ Paris - Victor Tardieu và họa sĩ Hà Nội: Nam Sơn. Trường này đã tạo ra một đội ngũ nghệ sĩ ban đầu sáng tác theo kỹ thuật mang phong cách phương Tây, sau đã dân tộc hóa, phát triển thành những dòng tranh lụa, tranh sơn mài... hòa nhập được vào mỹ cảm của chung thế giới. Đó là Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh, Trần Văn Cẩn... Chính họa sĩ Nam Sơn từ năm 1930 đã từng có tranh được đưa vào Bảo tàng quốc gia Pháp như bức Chợ gạo bên sông Hồng.


14.7_ha_noi2.jpg


Về quy hoạch - kiến trúc, đô thị hóa: Đô thị Hà Nội cổ mà trung tâm là khu phố cổ có những con phố hẹp, cong queo (vì nương theo các con đường đi trong ngõ xóm xa xưa), những ngôi nhà ống thấp thỏi bé bỏng (tuy đây cũng là đặc trưng đáng kể của đô thị Hà Nội cổ), những ao hồ xen khu dân cư... Chính người Pháp đã quy hoạch lại Hà Nội. Đường phố được nắn lại, làm vỉa hè, đặt cống ngầm. Nhờ tận mắt thấy các công trình xây dựng kiểu châu Âu mà trong khu phố cổ, nhà cửa được tân trang lại với những ngôi nhà hai ba tầng theo kiểu kiến trúc Pháp. Cạnh đó đã ra đời những khu phố “tây" với nhiều công trình đẹp như trường đại học (nay ở phố Lê Thánh Tông), Viện Pasteur (nay là Vệ sinh dịch tễ), nhà Tài chính (nay là Bộ Ngoại giao), Phủ Toàn quyền (nay là Phủ Chủ tịch)... cùng với nhiều biệt thự xinh đẹp. Các khu phố này với những dãy phố dài rộng thông thoáng có trồng cây ven hè đem lại màu xanh mát mẻ. Xen vào đó là những vườn hoa cắt tỉa đẹp mắt, trở thành nơi hưởng không khí trong lành của dân phường phố.


Đặc biệt khi Khoa kiến trúc được thành lập trong Trường Mỹ thuật Đông Dương đã đào tạo ra nhiều kiến trúc sư tài danh: Võ Đức Diên, Nguyễn Cao Luyện, Nguyễn Gia Đức... đã để lại cho thành phố nhiều công trình đẹp có tính thẩm mỹ cao, kết hợp tinh hoa kiến trúc Á - Âu.
Về văn học: Lĩnh vực thơ thì như mọi người đã biết, chỉ cần 10 năm (1932-1942), thơ Việt đã tiếp thu, hấp thụ và đi trọn chặng đường hai thế kỷ của thơ Pháp với đủ mọi trường phái: cổ điển, lãng mạn, tượng trưng, trừu tượng, siêu thực... làm thành phong trào "Thơ mới", một cuộc cách mạng thi ca lớn từ trước tới bây giờ của nước ta. Và cái nôi hình thành phong trào này là những trang báo, trang sách ra đời ở Hà Nội với những vần thơ của Thế Lữ, Phạm Huy Thông, Vũ Đình Liên, Nguyễn Nhược Pháp...


Văn xuôi cũng vậy, nhà văn Hà Nội cũng như cả nước, học tập cú pháp, thi pháp, bố cục tiểu thuyết, xây dựng nhân vật... của tiểu thuyết Pháp tạo ra nền văn xuôi hiện đại với Đặng Trần Phất, Hoàng Ngọc Phách, Khái Hưng... Cũng từ đó ra đời các nhóm văn nghệ sĩ mà tên tuổi để đời trong kho tàng văn học dân tộc như nhóm Tư Lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Tú Mỡ... nhóm Tiểu thuyết Thứ bảy như Lê Văn Trương, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng...
Một dấu ấn rõ nhất nữa ở lĩnh vực văn học - và cả nghệ thuật là từ 1921 ra đời thể loại kịch nói ở Việt Nam mà nơi khởi đầu là Hà Nội, do đã học tập ở các vở kịch của Molière. Đó là nhà soạn kịch nói đầu tiên: Vũ Đình Long, để tiếp đó là Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Võ Trọng Can...


Như vậy, nói về mặt văn hóa, Hà Nội từ xa xưa cho tới tận nay đã là một đô thành mở, sẵn sàng đón gió bốn phương, sàng lọc, khơi trong gạn đục, đón nhận những tinh hoa thế giới, trong đó có tinh hoa văn hóa Pháp rồi phát triển, kết hợp hài hòa truyền thống và thời đại, luôn tìm cách canh tân đổi mới. Chính trong quá trình đó, thích nghi và đổi mới, đã tạo nên bản sắc dân tộc với nội hàm phong phú. Đó là sức sống mãnh liệt và ý chí tự cường, là tinh thần sáng tạo vì cuộc sống tự do và hạnh phúc. Đó là sự khát khao của một cuộc sống không chỉ phồn vinh về vật chất mà còn ưu việt về văn hóa cũng như phẩm chất con người.


Theo Sức khoẻ và Đời sống
 

Hide Nguyễn

Du mục số
Thăng Long tứ quán

Nói đến Hà Nội xưa, người ta vẫn nhắc Thăng Long tứ trấn và Thăng Long tứ quán. Có lẽ, khái niệm Thăng Long tứ quán còn khiến nhiều người mơ hồ, mặc dù các công trình này đến nay vẫn còn giữ những giá trị văn hoá đặc sắc giữa lòng Hà Nội.

Ở Thăng Long xưa có bốn quán Đạo giáo lớn là: Trấn Vũ quán nay gọi là đền Quan Thánh ở phố Quan Thánh, Huyển Thiên quán nay còn ở phố Hàng Khoai, Đổng Thiên quán nay còn ở phố đường Thành, Đế Thích quán nay ở phố Thịnh Yên. Việt Nam từ xa xưa có hai tôn giáo song song phát triển là Phật giáo và Đạo giáo. Người theo Phật thì tu hành ở các chùa gọi là nhà sư. Những người theo đạo thì tu hành ở các quán gọi là đạo sĩ. Quán là Đạo quán và là nơi thờ tự của đạo giáo cũng như chùa là của phật Giáo Quán Trấn Vũ: vừa thuộc Thăng Long Tứ trấn lại thuộc Thăng Long tứ quán.

Quán Trấn Vũ còn gọi là đền Quán Thánh là nơi thờ thánh Trấn Vũ ở Hà Nội. Thực ra cái tên này mới chỉ được sử dụng cách đây vài chục năm. Ba chữ tạc trên nóc của cổng ra vào thì di tích này có tên là Trấn Vũ Quán. Đền Quán Thánh có bố cục không gian thoáng, hài hoà lại có Hồ Tây ngay trước mặt nên quanh năm không khí thoáng mát.

Tương truyền đền có từ đời Lý Thái Tổ, những diện mạo của đền đã được tu sửa nhiều lần. Kiến trúc của đền gồm tam quan, sân, nhà tiền tế, trung tế, hậu cung. Ở đây còn lưu giữ những mảng chạm khắc trên gỗ có giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt trong đền có bức tượng Trấn Vũ, tượng có dáng hình một đạo sĩ ngồi, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm thần. Trấn Vũ quán không chỉ là nơi thu hút nhiều khách thập phương đến thắp hương cầu lộc cầu tài, nhiều người đến đây chỉ để vãn cảnh thanh bình cùng với hồ Tây bát ngát.

180px-Tran_Vo.jpg

Tựong Trấn Vũ trong đền Quán Thánh

Quán Đồng Thiên nay còn được gọi là đền Kim Cổ nguyên thuộc tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương, kinh thành Thăng Long. Sau đó, tổng Tiền Túc đổi thành tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương. Chùa gắn bó mật thiết với đình Tạm Thương ở sát bên phải thờ Nguyên Phi Ỷ Lan, chếch về phía tây khoảng 300 m là đền Hỏa thần - một di tích độc đáo của Thăng Long. Hiện nay, chùa có quy mô kiến trúc nhỏ, cổng chùa xây bằng gạch do các trụ biểu kết hợp với những mảnh tường nhỏ hợp thành.

Cổ diêm giữa hai mái đắp nổi 4 chữ Hán “ Kim Cổ cổ tự”. Kiến trúc chính kết cấu kiểu chữ “Đinh”. Tiền đường ba gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Hiện chùa Kim Cổ còn bảo lưu được bộ di vật, minh chứng cho sự hiện diện của di tích trong lịch sử cụ thể gồm tám pho thượng Phật thuộc nghệ thuật thế kỷ XIX, một pho tượng Nguyên Phi Ỷ Lan ngồi trong khám, một pho tượng Mẫu, tượng Chầu; ba tấm bia niên hiệu triều Nguyễn: một quả chuông đồng niên hiệu triều Nguyễn, hai hạc thờ đứng trên lưng rùa; một bức cửa võng, một bức cuốn thư chạm rồng, ba bức hoành phi sơn son, hai đôi câu đối. Di tích chùa còn là một phần tư liệu quý giá trong việc tìm hiểu quy hoạch của thành Thăng Long thời Lý.

Quán Huyền Thiên, tên chữ là “Huyền Thiên cổ quán”, dân gian vẫn quen gọi là chùa Huyền Thiên thuộc địa phận khu phố cổ Hà Nội. Quán Huyền Thiên nằm giữa phố Hàng Khoai, phường Đồng Xuân, là nơi thờ Huyền Thiên Thượng Đế, một trong những vị Thánh tiêu biểu của thần điện Lão giáo. Theo quan niệm Đạo giáo, thần Huyền Thiên là vị thần có nhiệm vụ trấn giữ phương Bắc, người xưa cho rằng phía đông có thần Thanh Long biểu hiện cho mùa xuân, phía Nam có thần Chu Tước biểu hiện cho mùa hạ, phía tây có thần Bạch Hổ biểu hiện cho mùa thu, mùa đông là thần Huyền Thiên ở phía bắc.

Huyền Thiên cổ quán có bố cục kiểu “Nội công ngoại quốc”, các dấu tích kiến trúc, mỹ thuật hiện còn, đều mang dấu ấn của những lần tu sửa . Mặt trước quán trông ra phố Hàng Khoai, tường sau áp sát phố Gầm Cầu, hai hồi quán là hai ngõ nhỏ. Gác chuông 2 tầng là một kiến trúc gạch nổi bật nhất trong toàn bộ các công trình của quán, mang dấu ấn đậm nét của lối kết cấu cổ truyền. Sau nghi môn là sân quán với hai nhà bia lớn và hai giếng. Tiếp theo là phần nội công vẫn còn nguyên vẹn với nhà bái đường 7 gian, có kiến trúc theo kiểu vọng lâu hai tầng, tám mái, đây cũng là nơi đặt pho tượng Thần Huyền Thiên.

Thiêu hương là một toà nhà chạy dọc mang tính chất như thượng điện nối với 2 gian nhà ngang phía sau, áp hai tường hồi quán là hai dãy hành lang, nay dùng làm nhà khách. Các đề tài trang trí trên kiến trúc quán được thể hiện phong phú, mang tính nghệ thuật cao. Bên cạnh ý nghĩa của một di sản kiến trúc tôn giáo, giá trị tiềm ẩn trong quán Huyền Thiên còn là các văn bia cổ, hàng loạt các pho tượng Phật, tượng Thánh, tượng mẫu và các pho tượng Lão giáo, cùng nhiều hiện vật phong phú khác.


chua%20vua.jpg

Chùa vua

Đế Thích quán (Tức chùa Vua) là một quần thể kiến trúc trang nghiêm, đẹp đẽ và cầu kỳ. Cái độc đáo của quần thể kiến trúc này là có chùa và đình đều thờ vua Đế Thích. Hiện thời, chùa Vua là cụm di tích gồm chùa Hưng Khánh và điện Thiên Đế. Chùa Vua còn giữ được 14 pho tượng đẹp bằng gỗ hoàng đàn. Nổi bật nhất là pho tượng vua Đế Thích cao khoảng 1,6m. Một bức cửu long chạm trổ tinh vi, hai đỉnh đồng thời Nguyễn, một quả chuông nhỏ thời Cảnh Thịnh, hai quả chuông to thời Lê, hai chóe lớn cao chừng 1,6m được đúc từ thời Lê.

Điều thú vị là hằng năm, vào dịp Tết Nguyên đán, chùa Vua tưng bừng mở hội thi đấu cờ tướng từ mùng 6 đến mùng 9 tháng giêng âm lịch, để mừng ngày Đế Thích đản sinh. Hội cờ tướng chùa Vua thường thu hút đông đảo khách thập phương, không chỉ những kẻ mê tướng-sĩ-tượng-xe-phao-mã, mà còn hấp dẫn giai nhân tài tử ngoạn du dịp tân xuân.

Chùa Vua đã được Bộ Văn hoá xếp hạng di tích lịch sử. Như vậy, có thể thấy bốn đạo quán của Thăng Long xưa đến nay vẫn lưu giữ những giá trị về vật chất và tinh thần rất lớn, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống sinh hoạt tâm linh của nhân dân. Tuy được gọi bắng các tên mới, những mỗi quán vẫn mang những ý nghĩa, những sự tích độc đáo từ lâu đời của riêng mình. Hướng tới 1000 năm Thăng Long Hà Nội, những giá trị văn hoá truyền thống này đã và đang tiếp tục được bảo tồn và phát huy. Thăng Long tứ quán sẽ còn được con cháu đời sau biết đến như chứng tích của một thời kì văn hóa lịch sử của dân tộc.



Theo Nguoihanoi.com.vn​

 

liti

New member
Hát ả đào xuất xứ từ đất Thăng Long

Hát ả đào hay còn được gọi là ca trù hiện nay được mọi người biết đến như một thể loại nhạc dân gian nhưng dành cho các tầng lớp quý tộc xưa. Trải qua một thời gian tạm lắng, thông qua “Liên hoan âm nhạc dân gian truyền thống Châu Á – Thái Bình Dương”, thế giới đã biết đến nghệ thuật hát ả đào của nước ta.

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” về nguồn gốc loại nhạc này có viết: “Mùa thu, tháng 7 năm Ất Sửu (1025) đời Lý Thái Tổ... Định lại các khoản quản giáp. Chỉ con hát mới được gọi là quản giáp. Khi ấy có con hát là Đào thị, giỏi nghề hát, thường được thưởng, người bấy giờ hâm mộ tiếng của Đào Thị, cho nên phàm con hát đều gọi là đào nương”.

Như vậy, có thể thấy người con gái hát giỏi kia là họ Đào. Sau này ai làm nghề đó đều được gọi là “Đào hát”. “Đào nương” hay “ả Đào” đều có nghĩa ám chỉ người con gái làm nghề hát xướng. Có thể có nhiều tên gọi cho nghệ thuật hát này ở từng địa phương, từng thời điểm như hát ca trù còn gọi là hát ả đào, hát cô đầu, hay hát nhà tơ… Tuy nhiên, dù có tồn tại ở dạng tên gọi nào thì sự tồn tại của ca trù luôn gắn liền với các đào nương “ không có đào nương bất thành ca trù, khi nói đến ca trù không thể không nói tới đào nương”. Để trở thành một đào nương cũng không phải là chuyện dễ, phải hội được nhiều tiêu chuẩn khắt khe như giọng hát, năng khiếu âm nhạc (thẩm âm, gõ phách), tri thức âm nhạc và văn thơ, lòng đam mê và kiên trì... sự tồn tại của ca trù được quyết định bởi chính các đào nương. Các đào nương chính là những người truyền tải và thể hiện những cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của ca trù, giúp ca trù tồn tại cho đến ngày nay.

Hat a dao xuat xu tu dat Thang Long

Hát ả đào xưa

Theo sử sách ghi chép lại, được dân gian thừa nhân thì hẳn bộ môn nghệ thuật này phải được nuôi dưỡng từ bao đời. Nếu theo sách sử thì nghề hát ả Đào xuất xứ từ đất Thăng Long – nơi hội tụ những bậc vương tôn, công tử, khách phong lưu với những nhu cầu hưởng thụ đời sống tinh thần phong phú. Kinh thành có thể là nơi xuất xứ hoặc ít nhất nơi đây cũng là mảnh đất màu mỡ làm cho nghệ thuật hát này được thăng hoa.

a-dao.gif



Trong những tên gọi cho môn nghệ thuật hát này thì tên hát ả đào và hát ca trù được mọi người biết đến nhiều hơn cả. Cái tên ả đào được ra đời từ ban đầu với ý nghĩa là gọi tên những người theo nghiệp ca xướng còn tên ca trù thì có thể giải thích theo lối triết tự: “ca” nghĩa là hát còn “trù” nghĩa là tre. Ngày xưa giấy bút ghi điểm còn hiếm. Những người thưởng thức ả đào hát mà thường là vương tôn, công tử, quý tộc, phú hào có trong tay mỗi người một bó thẻ tre do chủ đoàn hát mang tới. Khi đào hát tới chỗ hay mà người nghe tâm đắc thì tùy theo ý và sự hào phóng của từng người mà ném thẻ thưởng. Sau khi tàn canh hát, ả đào cứ đem thẻ của mình vào nơi tổ chức cuộc vui mà lĩnh thưởng. Nếu quy định mỗi thẻ một tiền, thì 60 thẻ được lĩnh một quan tiền.

Đó chính là xuất xứ của ca trù và sau ngày người ta dùng luôn nó để nói về nghệ thuật hát ả đào nhưng nó chỉ mang ý nghĩa phiếm chỉ chứ không đúng với nguồn gốc hình thành nghệ thuật hát này.

Ngay từ xa xưa, hát ả đào còn được dùng vào loại hát thờ thần mà thường gọi là hát “cửa đình”. Trong những ngày lễ hội, bên trong đình, đền, các viên quan tiến hành cuộc tế lễ còn ngoài cửa đình thì các phường cứ múa hát. Ngày xưa các đào hát phải biết múa và cuộc hát này không chỉ phục vụ cho thần linh mà còn phục vụ cho cả người xem. Cuộc hát cũng phải có bài bản để ăn nhập với nội dung của cuộc tế, thể hiện được sự thành kính của con người đối với các vị thần linh thiêng. Chính vậy mới thể hiện được thần – người hòa hợp, thần gắn bó mật thiết với con người. Nghệ thuật này không chỉ sử dụng trong hát “cửa đình” mà đã được vời vào hát trong cung đình, nhiều nhà giàu có hiếu hỉ cũng đón phường hát về nhà.

Đặc biệt đối với các giới tri thức, quý tộc có nhu cầu thưởng thức thơ đã đón phường hát về nhà hoặc lập ra hẳn một ban hát, viết lời cho đào hát để biểu diễn thường xuyên ngay trong dinh thự như Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật hoặc Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc thời nhà Trần.

adao.gif


Hát ả đào nay

Nghệ thuật hát ả đào thực sự đã trở thành một môn nghệ thuật đáng tự hào của dân tộc. Trong dân gian vẫn còn nhắc tới giai thoại một đào hát dùng tiếng hát của mình để giết chết kẻ thù xâm lược. Đó là vào đầu thế kỷ 15, ở vùng Hưng Yên ngày nay có một đào hát nổi tiếng. Bà mở ca quán cùng tửu quán. Khi giặc Minh vào quán, bà hát cho chúng nghe, chuốc rượu cho chúng uống say. Giọng hát tiếng đàn quyến rũ cùng với những hũ rượu ngon tẩm độc đã khiến cho quân giặc gục ngã hàng loạt. Bà sai người tống vào bao tải và vứt xuống sông.

Giặc tan, bà được nhà vua khen thưởng và khi mất bà được dân lập đền thờ, triều đình còn ban cấp ruộng đất để quanh năm hương khói, phong bà làm phúc thần. Nơi đó vẫn còn tên gọi là “Đào xá” tức là làng của bà họ Đào thuộc huyện Ân Thi, Hưng Yên bây giờ.

Hát ả đào được tổ chức chặt chẽ thành phường, giáo phường, do trùm phường và quản giáp cai quản. Hát ả đào có qui chế về sự truyền nghề, cách học đàn học hát, có những phong tục trong sự nhìn nhận đào nương rành nghề, như lễ mở xiêm áo (thầy cho phép mặc áo đào nương để biểu diễn chính thức lần đầu tiên trong đình làng gọi là hát cửa đình), có những qui chế về việc chọn đào nương đi hát thi (ngoài tài năng và sắc diện cần phải có đức hạnh tốt).

Nâng hát ả đào lên thành một môn nghệ thuật, một thú chơi tao nhã, một loại nhạc thính phòng của giới quý tộc, thượng lưu, nho sĩ mới thực sự chỉ bắt đầu từ thời Lê – Nguyễn. Và chỉ có mảnh đất kinh thành Thăng Long, nơi hội tụ những con người hào hoa mới có những nữ ca, những nhạc công tài năng tạo nên một nghệ thuật hát ả đào làm đắm say lòng người. Những nghệ sĩ tài hoa khi ấy đã được đại thi hào Nguyễn Du tỏ lòng tôn kính và tiếc nuối trong bài “Long thành cầm giả ca” trong khi xã hội coi các đào hát là “xướng ca vô loài”, điều đó thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc trong con người Nguyễn Du.

Nghệ thuật hát ả đào sang thế kỷ 18, 19 và đầu thế kỷ 20 đã nâng tới mức độ hoàn chỉnh với những nhà nho lừng danh đặt lời cho bài hát như Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến... khiến cho loại nhạc – thơ này trở nên hấp dẫn người nghe vô cùng.

Nghệ thuật hát ả đào thực sự để được nâng tới tầm nghệ thuật, thể hiện được sự tài hoa, tinh tế đáp ứng được nhu cầu thưởng thức âm nhạc của người Thăng Long thì đòi hỏi phải có một thời gian dài hình thành và phát triển trên mảnh đất phồn hoa đô thị như kinh thành Thăng Long. Trải qua nhiều quá trình biến đổi, nghệ thuật hát ả đào vẫn còn mang những giá trị độc đáo riêng của nó và xứng đáng được đế xuất lên UNESCO công nhận đây là “Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp”.


(Theo: Người Hà Nội)
 

Hide Nguyễn

Du mục số
Phù Đổng Thiên Vương - Di tích & huyền thoại


173_1257217456_TV.jpg


Theo truyền thuyết, Phù Đổng là nơi sinh ra Thánh Gióng. Mẹ Gióng ướm bước chân thần ở vườn cà mà sinh ra. Thời Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân xâm lược nước ta, Gióng lên ba, thoắt nói, thoắt cười, thưa mẹ đòi sứ giả vào, xin nhà Vua sắm cho ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt. Vua Hùng cho người mang đến.

Bạn có thể thăm viếng tượng đài "Thánh Gióng" ở đâu đó, nhưng xin chớ quên nơi chôn nhau cắt rốn của Người. Gióng - Phù Đổng tên của người anh hùng cũng chính là tên của một địa danh có thật.

Phù Đổng, đó là một vùng đất nằm kề bên bờ tả ngạn sông Đuống, trước đây thuộc phủ Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, cách trung tâm Hồ Gươm hơn 10 km theo đường chim bay.

Theo truyền thuyết, Phù Đổng là nơi sinh ra Thánh Gióng. Mẹ Gióng ướm bước chân thần ở vườn cà mà sinh ra. Thời Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân xâm lược nước ta, Gióng lên ba, thoắt nói, thoắt cười, thưa mẹ đòi sứ giả vào, xin nhà Vua sắm cho ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt. Vua Hùng cho người mang đến.

Sau "Bảy nong cơm, ba nong cà. Uống một hơi nước cạn đà khúc sông". Gióng vươn vai cao lớn khác thường, mặcgiáp sắt, cầm roi sắt, lên ngựa sắt. Ngựa sắt phun lửa xông vào quân giặc. Trận chiến đấu ác liệt, roi sắt gẫy, Gióng nhổ cả bụi tre đằng ngà đánh giặc. Giặc tan, Gióng cưỡi ngựa lên núi Sóc Sơn bái vọng Mẹ rồi bay về trời.

Theo tục truyền, cứ đến ngày 9/4 âm lịch hàng năm, dân làng lại tổ chức lễ hội Gióng, một sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc. Qua các diễn xuất trong hội lễ, người ta có thể liên tưởng những bài học về chiến tranh nhân dân, suy ngẫm cách nhìn kẻ thù, hiểu thêm về thẩm mỹ truyền thống, cũng như đạo lý ứng xử con người trong tiến trình lịch sử...

Có rất nhiều người viết về Phù Đổng Thiên Vương, về cả thần tích, di tích và lễ hội. Song, rõ ràng rằng từ xưa đến nay chưa có một ai để tâm giải mã những hiện tượng văn hóa liên quan đến Đức Thánh Phù Đổng. Chúng ta hiểu rằng Đức Thánh Phù Đổng Thiên Vương là một trong "Tứ bất tử". Trong "Tứ bất tử" này của người Việt thì rõ ràng chỉ chấp nhận Đức Thánh Phù Đổng và Tản Viên Sơn thánh là tư cách của anh hùng văn hóa đích thực còn Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh chỉ là những vị thần về sau mang yếu tố của các thần linh không phải dạng anh hùng văn hóa vì Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh là những vị thần đã được quan tâm tới và đề cao ở thời kỳ sử đã thành văn. Đức thánh Phù Đổng Thiên Vương và Tản viên sơn thánh là những người được nảy sinh từ thời cổ đại, tiền sử.

Ở đây chúng ta hiểu rằng trong quá trình phát triển của cư dân Việt, các vị anh hùng văn hóa thường được gắn với các sự kiện rất lớn của người Việt. Nếu như chúng ta biết rằng Đức thánh Tản Viên ở tận vùng núi cao xa, Ngài là bạn thân của Thủy Tinh nhưng ở đấy "Sơn thủy hữu tình". Đến khi người Việt lùi xuống phía dưới, biết đắp đê ngăn lụt thì lúc đó Tản Viên mới trở thành có tính chất là kẻ thù đối với Thủy Tinh mà biểu hiện bằng sự kiện lấy con gái vua Hùng. Đó là một hiện tượng sử hóa các anh hùng văn hóa. Nhưng khi đã xuống đến châu thổ cao giáp với châu thổ thấp thì người Việt lúc đó chủ yếu sử dụng công cụ bằng đồ đồng, đồ đá. Nhưng vì công cụ này không có cách nào mà khai phá được những châu thổ thấp và đến lúc này người ta phát hiện ra đồ sắt và chỉ có đồ sắt mới có khả năng chặt được những cây lớn và khai phá những rừng rậm ở châu thổ thấp, đầm lầy mà thôi. Chính do phát hiện ra đồ sắt và thấy sức mạnh của sắt vô cùng to lớn như thế nên sức mạnh này được hội tụ và nhân cách hóa để trở thành một vị thần vĩ đại. Vị thần vĩ đại ấy đã góp phần tạo nên sức mạnh, đại diện cho sức mạnh của dân tộc khai phá châu thổ thấp. Và, người Việt chỉ có thể trở thành một quốc gia, một dân tộc đầy đủ khi đã khai phá châu thổ Bắc Bộ. Cũng chính từ vùng thấp này, người Việt mới tạo đà để phát triển, để ra đi tiến tới một đất nước to lớn, thống nhất của cộng đồng như ngày nay. Như vậy chúng ta hiểu rằng Đức thánh Phù Đổng Thiên Vương đã đánh dấu một bước phát triển đặc biệt của dân tộc chúng ta ở thời kỳ sơ cử, tiền sử. Và, chỉ có từ Ngài mà chúng ta mới phát triển lên được, đặc biệt là phát triển nông nghiệp. Ở đây với công cụ đồ sắt được quy tụ vào cái gậy của Ngài, khi Ngài cầm gậy đi đánh giặc. Đó là một cuộc trường chinh về sản xuất, một cuộc trường chinh với sức mạnh của đồ sắt buổi đầu khai phá châu thổ Bắc Bộ. Đây là một vị trí tiếp giáp giữa châu thổ cao với châu thổ thấp để nói lên bước phát triển của dân tộc...

Ở đây chúng ta còn thấy một đặc điểm khác nữa là trong lễ hội có rất nhiều tục lệ đi theo nhưng đáng quan tâm là ở chỗ con ngựa trắng và ông hiệu cờ là quan trọng nhất. Khi chúng ta thấy có 28 thiếu nữ tượng trưng cho tướng giặc, thực chất tượng trưng cho tinh tú. Mà sử dụng những cô bé còn ngây thơ là biểu hiện hồn nhiên như bầu trời. Người Việt lấy thờ Mẫu làm trọng thì sự ngây thơ ấy cũng xuất phát từ nữ giới. Đó là một ý kiến. Song, ý kiến này đáng được tin theo, ý kiến khác là người ta đi rước vào giữa trưa và rước ngựa trắng đi và chỉ ngựa trắng thôi. Ngựa trắng là "Bạch Mã" tượng trưng cho sức mạnh linh khí của trời và tượng trưng cho phương Đông, cho mặt trời, cho nên khi rước, người ta cầu cho có được sinh khí tràn về cho trần gian, cho muôn loài sinh sôi. Và, trong tục lệ của người dân ở đây, nhiều người tin rằng khi rước ngựa trắng ra thì trời bao giờ cũng nổi gió. Có nghĩa là trời ứng vận vào người "Thiên nhân hợp khí" mà tạo cho khí thiêng của trời tràn về trần gian. Và, khi rước về thì sinh khí đó nó hội tụ vào lá cờ đỏ. Lá cờ đỏ là của ông hiệu cờ. Màu đỏ là màu của sinh khí, màu của sức sống. Màu đỏ gắn với thần linh. Cái màu ấy có tràn về thì muôn loài mới phát sinh phát triển được. Cho nên vai trò của ông hiệu cờ là rất quan trọng. Múa cờ đỏ là nói lên cái vận động sinh khí của bầu trời. Trong vận động sinh khí ấy, ông hiệu cờ đạp lên ba cái bát - tượng trưng cho "Tam sơn". Thông qua "Tam sơn" mà sinh khí tràn xuống đất và nước. Chỉ có thể thì sức sống mới được phát triển và cái ước vọng qua ngày hội mới trở thành ước vọng được mùa, ước vọng của phồn thực, ước vọng của sự no đủ. Và, chính qua nhận thức của người xưa đối với Phù Đổng Thiên Vương - một uy lực siêu phàm như vậy thì người xưa đã quan tâm đến nơi thờ của Ngài.

Nơi thờ là đền Phù Đổng Thiên Vương. Ngôi đền này còn để lại rất nhiều dấu ấn mà chúng ta cần phải trân trọng. Khi nghệ thuật của người Việt trở lại với dân gian tức là vào thế kỷ XVI, những viên gạch rồng và hoa thể hiện rất rõ rệt ở đền Phù Đổng.

Chúng ta hãy điểm qua những di tích ở Phù Đổng có liên quan đến truyền thuyết Thánh Gióng.

Đền Thượng: Đền thờ Thánh Gióng. Theo truyền thuyết, đền đã có từ thời Hùng Vương và được dựng trên nền nhà cũ của mẹ Gióng. Đến cuối thế kỷ XI, Lý Thái Tổ cho tu bổ thêm và ra lệnh tổ chức hội Gióng. Đền sát đê, được bố cục theo hình chữ "Công", quy mô rộng rãi.

Trước sân, ngay sát chân đê có ao rộng, có tên ao Rối, nơi hàng năm có tổ chức múa rối nước vào ngày hội. Trong ao, dưới bóng cây đa cổ thụ cành lá sum suê là ngôi thủy đình xinh xắn. Thủy đình được dựng theo kiểu "mái chồng" từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII) với nhiều bức chạm tinh vi trên gỗ, mà đề tài là những cảnh sinh hoạt dân gian: người chăn dê, người thổi ống xì đồng... Thủy đình mang nhiều yếu tố dịch học mà trên đó những mảng chạm nói lên những ước vọng của dân chúng.


Đó là hai hình ảnh nói lên người quân tử lấy cái trí thức làm đầu, nếu không có trí thì con người đi vào ngu tối mà sự vô minh, ngu tối thì đồng nghĩa đồng thời là mầm mống của tội ác. Thông qua đó thấy rằng, người xưa dạy phải lấy cái trí tuệ làm đầu, nhờ có trí tuệ mà đi vào thiện tâm.


Qua sân gạch đến Nghi môn khá cao mới được xây vào cuối thế kỷ XIX. Phía trước có đôi rồng đá nét chạm hơi thô nhưng rất khỏe, bên dưới có dòng chữ khắc cho biết niên đại tạo tác của rồng vào năm Ất Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh, tức năm 1705 dưới triều Vua Lê Dụ Tông. Phía sau có đôi sư tử đá cũng làm vào năm đó.


Tiếp đến là nhà Thiêu hương (đốt hương), cấu tạo giống Thủy đình nhưng nhỏ hơn, lợp bằng ngói kích tấc khá lớn (20cm x 30cm).
Liền nhà Thiêu hương là hai nhà Tiền tế khá rộng. Nhà ngoài do Điền Quận công Nguyễn Huy (1610-1675), người làng Phù Dực, cạnh xã Phù Đổng đứng ra xây dựng. Nhà bên trong do Đặng Công Chất, người chính làng Phù Đổng, đỗ Trạng nguyên năm 1661, đứng ra hưng công, đáng chú ý ở đây là 39 viên gạch với kích tấc 30 x 20 x 10 (cm), mỗi viên đều chạm khắc hình rồng. Những viên gạch này được lát ở bậc thềm vào cung. Hai ngôi nhà ba gian phía đông do Đặng Thị Huệ, chúa Trịnh Sâm (thế kỷ XVIII) cung tiến.

Trong hậu cung 12 gian có tượng Thánh Gióng cao 3m, hai bên có sáu tượng quan văn, quan võ, hai phỗng quỳ và bốn viên hầu cận "Tứ trấn".
Kiến trúc đền không có gì đặc biệt, nhưng đáng chú ý là những đầu bẩy còn lưu lại được những mảng chạm vào thời Hậu Lê.

Đền còn lưu được cả thảy 21 đạo sắc phong, đời Lê 12 đạo, đời Tây Sơn 3 đạo, đời Nguyễn 6 đạo. Cũ nhất là sắc phong Đức Long năm thứ 5 (1634).

Trong Đền, còn nhiều hiện vật có giá trị: chiếc ngai thờ từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII) chạm trổ tinh vi; đôi chim mang nghệ thuật Trung Hoa do Đặng Thị Huệ, cung tiến, bình hương, nghê đồng, hai thanh kiếm, câu đối do anh em thi hào Nguyễn Du cung tiến năm 1818. Bên Đền có một bia đá rất đẹp, cũng là một hiện vật hiếm thấy tại các ngôi đền khác ở nước ta.

Đền Hạ: đền nằm ngoài đê, ở phía đông đền Thượng, đền là nơi thờ mẹ Thánh Gióng, cũng gọi là Thánh Mẫu. Trước kia, Thánh Mẫu được thờ chung với Thánh Gióng ở đền Thượng. Đến năm Chính Hòa thứ 4 (1683), Thánh Mẫu mới thờ ở đền riêng tại thôn Ngô Xá. Mười năm sau đền lại được thiên về gần chùa Giếng (chùa Tập Phúc), tại chỗ hiện nay. Đền hiện còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị: đôi phỗng đá, một bộ dài bạc, hai bình hương đá...

Miếu Ban: ở phía tây đền Thượng, trong xóm Ban, tên chữ là Dục Linh Từ. Miếu thờ Thánh Mẫu. Tương truyền đây là nơi Gióng ra đời, do đó còn có tên là "Trài Nòn". Miếu lợp ngói cổ hình mũi hài. Sau Miếu là giếng Bát Nhũ trì (ao tám vú) giữa giếng nổi lên một gò đất con xinh xắn. Truyền rằng, Thánh Gióng ra đời trên sập hiện đặt ở đảo này, sau đó được tắm trong chậu đá cũng đặt ở đây. Ngoài ra, còn có một liềm đá mà người đá mà người ta đã xem là dao cắt rốn cho Thánh Gióng, nhưng liềm hiện nay không còn nữa.

Cố viên: Theo truyền thuyết, cố viên (vườn xưa), cũng gọi là "vườn rau", là nơi mẹ Gióng đến hái rau rồi ướm chân mình vào chân người Khổng Lồ, do đó mà mang thai sinh ra Gióng. Ở đây có một nhà nhỏ gọi là "cây hương", bên cạnh là hòn đá lớn hình thù đặc biệt với nhiều nét lồi lõm được xem là dấu chân của Người Khổng Lồ. Còn một tấm bia mang dòng chữ "Đổng Viên Thánh Mẫu cố trạch" (Nhà xưa của Thánh Mẫu trong vườn Đổng).

Giá Ngự: Ở đây có hai cột trụ và một bệ xây vào đầu thế kỷ XX. Vào ngày hội đền, dân làng kéo ngựa thờ, gọi là ông giá, từ đến Thượng đến đây trông ra khu soi bia cạnh Đền Hạ nơi điệu múa cờ được biểu diễn.
Mộ Trần Đô Thống: Mộ ở xóm Vận Hang, trước đền Thượng. Tục truyền Đô Thống là một tướng của Thánh Gióng, người Phù Dực cầm đạo tiên phong trong đoàn quân chống giặc Ân. Mộ được xây bằng gạch giữa một khu rộng ngoài bãi sông.

Hàng năm, từ mồng 6 đến mồng 9 tháng 4 âm lịch, dân địa phương lại tổ chức hội Gióng, ngày lễ chính là ngày mồng 9. Trước ngày này, dân làng đã tổ chức nhiều trò chơi: Vật, chọi gà, đánh cờ, hát, đặc biệt là hát ải lao - một tục rất cổ. Trong ngày lễ lớn vui nhất là trò diễn trận, rước kiệu, múa cờ, chia phe diễn lại sự tích Thánh Gióng đánh giặc Ân.

Nhân vật anh hùng Gióng đã trở thành biểu tượng của sức mạnh và lòng yêu nước Việt Nam. Hội Gióng là một đỉnh cao của sinh hoạt văn hóa cổ truyền Việt Nam. Vì thế, người Việt Nam xưa và nay vẫn nhắc nhau lời răn:

"Ai ơi mồng chín tháng tư,
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời"

Không chỉ là Làng Phù Đổng. Trong khu vực Đền Hùng ở Vĩnh Phúc, có Đền Thượng, tức "Cửu trùng tiền điện" được dành để thờ Thánh Gióng. Làng Vệ Linh ở huyện Sóc Sơn, phía bắc thủ đô Hà Nội, nơi tương truyền Gióng đã trút giáp để cùng ngựa về trời, cũng có đền thờ Gióng, được nhà nước quân chủ tặng danh hiệu lớn: "Xung thiên Thần vương".


Trần Thị Vân Anh
Trưởng phòng VHTT TDTT huyện Gia Lâm
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 13/2003)
 

Hide Nguyễn

Du mục số
Chiến thắng Đông Bộ Đầu


173_1247883290_ChiLang.JPG


Đến giữa thế kỷ XIII, quân Mông Cổ đã chinh phục được nhiều nước ở châu Âu, châu Á. Sau khi chinh phục được Nam Tống (Trung Quốc), nhà nước Đại Nguyên được thành lập. Từ đó, giặc Nguyên-Mông đi đến đâu chinh phạt, dân nước đó đều phải quy hàng, khuất phục. Trước sức mạnh khủng khiếp của đội quân xâm lược tàn bạo, nước Đại Việt và kinh đô Thăng Long dưới triều Trần đã chuẩn bị mọi mặt để kiên quyết đánh bại sự xâm lăng của chúng.

Giữa năm 1257, tướng Ngột Hương Lợp Đái của Mông Cổ chỉ huy 4 vạn quân từ Đại Lý kéo sang xâm lược nước ta. Bọn chúng theo đường bộ dọc sông Hồng tiến vào thành Thăng Long. Quân ta triển khai đánh địch ở Bình Lệ Nguyên rồi ở Phù Lỗ, nhưng trước thế tiến công ào ạt của chúng, triều đình nhà Trần tạm thời quyết định rút lui khỏi kinh đô Thăng Long để bảo toàn lực lượng. Vào kinh thành Thăng Long hoàn toàn bị bỏ trống, 9 ngày liên tiếp thiếu lương thực và bị đói ăn, địch đã trở nên hoang mang, rệu rã. Chớp thời cơ đó, ngày 29-1-1258, vua Trần Thái Tông dẫn quân theo thuyền ngược sông Hồng tiến về Thăng Long. Quân ta bí mật và bất ngờ mở cuộc tiến công mạnh như vũ bão vào Đông Bộ Đầu là nơi đại bản doanh của địch. Bị đánh đột ngột, quân địch không chống cự nổi đành phải tháo chạy theo đường cũ về Vân Nam. Đến trại Quy Hóa (Phú Thọ), chúng bị dân binh của trang chủ Hà Bổng đổ ra đánh cho một trận tơi bời. Bị tổn thất nặng nề, địch tiếp tục chạy về biên giới mà không dám cướp bóc như khi mới vào xâm lược nước ta.

Thời gian đã lùi xa hơn 750 năm. Nơi diễn ra trận đánh Đông Bộ Đầu được các nhà nghiên cứu xác định nay thuộc địa phận khu vực phố Hàng Than và Hòe Nhai (Hà Nội). Đây là cửa ngõ của kinh thành Thăng Long xưa. Hiện vật có giá trị để các nhà sử học khẳng định thông tin trên là tấm bia cổ được tìm thấy tại chùa Hòe Nhai. Trên bia ghi rõ sự kiện ngày, tháng, địa danh lịch sử có liên hệ với nhau như Đông Bộ Đầu, chùa Hồng Phúc nằm ở phố Hòe Nhai, thành Thăng Long năm 1258.

Chiến thắng Đông Bộ Đầu lịch sử đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất (1257 - 1258) của quân và dân ta. Đó cũng là chiến thắng oanh liệt của quân dân nhà Trần trong việc bảo vệ kinh thành Thăng Long. Chiến thắng Đông Bộ Đầu là biểu hiện rực rỡ của ý chí, sức mạnh, tinh thần mưu trí, sáng tạo của quân dân nhà Trần trước một đội quân xâm lược hung hãn, tàn bạo. Nghệ thuật rút lui và nghệ thuật phản công trong chiến trận Đông Bộ Đầu thể hiện đầy đủ tính tích cực, chủ động tiến công địch, thực hiện rút lui chiến lược, tiến công nhỏ lẻ rộng khắp buộc địch co cụm lại. Địch sa vào thế bị động chống đỡ, từ mạnh chúng chuyển thành yếu. Đó là thời điểm để quân ta tập kích đạt hiệu quả cao nhất. Ta từ thế yếu thành mạnh, mạnh chuyển thành thắng thông qua đòn tập kích quyết định. Những kinh nghiệm đó là nền móng hình thành nên tư tưởng chiến lược “Lấy nhàn chờ nhọc”, “Lấy đoản binh phá trường trận” mà Trần Quốc Tuấn và triều đình nhà Trần đã áp dụng thành công trong cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần hai (1284 - 1285) và lần thứ ba (1287 - 1288).


Theo Báo QĐND
 

Hide Nguyễn

Du mục số
Dòng chảy văn hóa Thăng Long - Hà Nội


5a.jpg
Vừa lên ngôi, Lý Công Uẩn đã nhận thức rằng, muốn đưa đất nước phát triển thì nơi đóng Kinh đô, phải là nơi hội tụ bốn phương thiên hạ. Và, ông cũng đã nhìn thấy có một dải đất như vậy. Thành Đại La, "đất ấy rộng mà bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa muôn vật cực kỳ giàu thịnh, đông vui, thật là trọng yếu để bốn phương sum họp".



Thế là sau khi lên ngôi vua được 4 tháng ông xuống chiếu hỏi ý kiến triều thần về việc dời đô ra Đại La. 5 tháng sau, vào tháng 7 năm Canh Tuất (1010) công việc dời đô được thực hiện.

Thế kỷ XVIII, sử gia Ngô Thì Sĩ hết lời ca ngợi sự kiện này: "Đất Long Đỗ... gọi là nơi hình thành của đất Việt thì không đâu bằng nơi đây... Vua Lý Thái Tổ thấy rõ ràng chỗ đó. Khi được nước, chưa nghĩ các việc khác, trước hết định đô ở đây làm căn bản dựng nước. Vì vậy trong hơn 200 năm thế nước ngày một mạnh. Các triều sau theo đó đều giữ được nước vững vàng".

Cho tới nay Hà Nội vẫn giữ nguyên giá trị đó. Vì rằng con mắt tinh đời của Lý Công Uẩn đã nhìn ra, theo cách nói ngày nay, là những điều kiện thuận lợi của Thăng Long - Hà Nội về tự nhiên, cư dân, kinh tế, chính trị trong việc dựng đô. Đất đai màu mỡ, các sông lớn tụ về đây rồi tỏa ra khắp đồng bằng, thuận cả lên rừng và xuống biển. Dân bốn phương họp lại, tạo ra bách nghệ phồn vinh.

Cho nên, từ năm 1010 - bước ngoặt - đó, những tài năng khéo léo của khắp nơi tiếp tục tập hợp về đây lập ra phố phường, tạo nên những kỳ tích văn hóa. Nghề đúc đồng đã làm ra "tứ đại khí", bốn báu vật của nước Nam trong đó có hai cái ở Thăng Long (chuông Quy Điền và tháp Báo Thiên). Nghề gốm sứ đã tạo ra những ngói vàng ngói bạc điểm tô cho cung điện chùa chiền. Trong hội đèn Quảng Chiếu có đèn làm hình nhà sư, vặn máy biết giơ dùi đánh chuông, nghe tiếng sáo biết quay mặt lại. Trong hội đua thuyền trên sông Cái, có máy Kim ngao hình con rùa lớn bơi được trên mặt nước. Mắt rùa lúng liếng, miệng rùa phun nước, đầu rùa cử động biết cả cúi chào. Và trường đại học đầu tiên của đất nước - Quốc Tử Giám - được thành lập chỉ sáu năm sau khi lập Văn Miếu.

Vào các triều đại sau, văn hóa Thăng Long ngày một phát triển. ở Khâm Thiên giám, đời Trần, Đặng Lộ tự làm máy "Lung linh nghi"quan sát bầu trời, vạch ra đường đi của các vì sao mà soạn ra lịch riêng cho nước Việt. Đời Lê sơ, Lương Thế Vinh soạn ra sách toán học mà ở thế kỷ XV không phải là ai cũng soạn được. Quy hoạch Thăng Long thời ấy gồm 36 phường, phường trồng hoa, phường trồng dâu nuôi tằm dệt lụa, phường nhuộm điều, phường làm quạt, phường là bến cảng, thuyền mạn ngược mạn xuôi, rồi thuyền Trung Hoa, Nhật Bản, ấn Độ, Hà Lan... tới lui nhộn nhịp tạo ra cạnh "phồn hoa thứ nhất Long Thành".

Văn hóa vật chất phát triển thúc đẩy sự tiến bộ của văn minh. Tại Thăng Long, Nguyễn Trãi viết cáo Bình Ngô và làm thơ Quốc âm. Nguyễn Giản Thanh soạn phú "Phụng thành xuân sắc" ca ngợi kinh kỳ là một nơi "văn vật thanh danh". Rồi Đặng Trần Côn viết "Chinh phụ ngâm" ở làng quê Kẻ Mọc, Nguyễn Gia Thiều viết "Cung oán ngâm khúc" bên bờ Hồ Tây, Hồ Xuân Hương ở chân núi Khán làm thơ lỡm đời, Nguyễn Du viết thơ về Hồ Tây, Hồ Giám. Trong làng hoa Nghi Tàm, bà huyện Thanh Quan cũng làm những bài thơ lời đẹp, tình sâu. Rồi Thần Siêu, Thánh Quát mà tư cách và học vấn đã làm sáng danh cho kẻ sĩ Bắc Hà.

Cũng từ những thời gian xa xưa ấy, lối sống tinh tế, khoan hòa đầy chất văn hóa đã đi vào đời sống Hà Nội. Tranh dân gian Hàng Trống, Hàng Nón in đậm nét tươi vào thời gian. Nhạc và hát múa dân gian còn rung vang âm hưởng trong các phố phường Hòe Nhai, Hòa Mã, Giáo Phường.

Tới thời Pháp thuộc, Đông Kinh nghĩa thục là phong trào văn hóa giáo dục tiêu biểu cho tinh thần yêu nước của trí thức Hà Nội. Tuy ra đời chậm hơn Sài Gòn, nhưng báo chí Hà Nội cũng nhanh chóng chiếm vị trí đáng nể với các tờ báo và tạp chí vang danh khắp nước: Đông Dương tạp chí, Nam Phong, Phong Hóa, Ngày Nay, Tiểu thuyết thứ bảy... Phong trào Thơ mới cũng là nhóm lên từ những trang báo Hà Nội. Với nhóm Tự lực văn đoàn, văn xuôi Việt Nam bước vào phạm trù hiện đại. Tân nhạc được Nguyễn Văn Tuyên soạn và trình diễn đầu tiên ở Hà Nội. Trường Mỹ thuật Đông Dương mà một trong hai người sáng lập là Nam Sơn của Hà Nội đã đào tạo những họa sĩ hiện đại tài danh Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ... mở đầu cho nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Phim truyện đầu tiên ở Việt Nam là phim Kim Vân Kiều làm năm 1921 do các diễn viên rạp Quảng Lạc thủ vai, quay ngoại cảnh ở làng Bưởi. Từ 1869 Hà Nội đã có hiệu ảnh ở gần cửa ô Quan Chưởng.

Đến khi tư tưởng cách mạng vô sản được truyền bá vào Việt Nam thì ở Hà Nội một mạch dòng văn hóa mới hình thành, lấy chủ đề là nhân dân, là người lao động. Mạch dòng đó đã mang một diện mạo mới với một quan niệm "sống vì mọi người" và những hành động đầy giá trị nhân bản (như bỏ cuộc sống sung túc, bỏ quan chức, đi vô sản hóa...) với những vần thơ bi tráng viết trong ngục Hỏa Lò, với cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa duy vật, cho nghệ thuật "vị nhân sinh", với những báo chí bí mật rồi công khai và đặc biệt với Đề cương - Văn hóa Việt Nam (1943), một cương lĩnh văn hóa tới tận bây giờ vẫn là sáng giá được Tổng bí thư Trường Chinh soạn tại một làng quê bên bờ sông Hồng. Mạch dòng văn hóa đó chảy theo dòng lịch sử, với tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh vĩ đại, với hai cuộc kháng chiến thần kỳ và với sự nghiệp đổi mới hiện nay, đã tự khẳng định những giá trị nhân bản, đã đi vào ổn định và chịu được sự thử thách của thời gian, tạo nên nền văn hóa mới có giao lưu, có tiếp biến, có sự cấu trúc lại để phát huy truyền thống kết hợp với hiện đại, cách tân nhưng không xa rời bản sắc dân tộc, và xứng đáng là văn hóa của một vùng kinh kỳ nghìn năm văn hiến.


Nguyễn Vinh Phúc
 

Hide Nguyễn

Du mục số
Dân dã hương cốm Hà Nội


173_1256478394_com.jpg


Theo như lời kể thì xưa cánh đồng làng Vòng rộng lắm, đến gần tận đường Láng Hòa Lạc bây giờ. Nhưng nay nhìn chỉ thấy toàn nhà toàn phố chắc chả còn ai làm cốm.

Hà Nội đang trong những ngày thu thật đẹp và mỗi người hẳn đều có những cảm nhận sắc thu khác nhau. Riêng tôi sống giữa những trời thu của Thủ đô không hiểu sao tôi lại nhớ đến cốm, một thức ăn dân dã.
Nói đến cốm có lẽ ngay lập tức mọi người sẽ nhớ đến cốm làng Vòng. Làng Vòng xưa gồm có bốn thôn Vòng Tiền, Vòng Hậu, Vòng Sở, Vòng Trung nhưng chỉ có hai thôn Vòng Hậu và Vòng Sở là làm cốm ngon. Theo như lời kể thì xưa cánh đồng làng Vòng rộng lắm, đến gần tận đường Láng Hòa Lạc bây giờ. Nhưng nay nhìn chỉ thấy toàn nhà toàn phố chắc chả còn ai làm cốm.

Ấy vậy đôi lúc tôi vẫn bắt gặp hình ảnh những bà già vẫn rong ruổi trên phố bán cốm. Những lúc ấy tôi lại dâng lên một cảm giác thèm muốn.

Cách làm cốm cũng lắm công phu tỉ mỉ. Nguyên liệu chính để làm cốm là nếp cái hoa vàng. Nếp được thu hoach từ khi bông lúa còn xanh sữa vẫn còn đượm mùi hương rồi ngay trong ngày những bông lúa phải được tuốt bằng tay. Qua công đoạn đãi bỏ hạt sạn hạt nép rồi được cho vào nồi rang. Rang chính là công đoạn khó nhất đòi hỏi sự khéo léo, liên tục đảo và phải dùng củi để dễ điều chỉnh lửa sao cho nóng đều trong khoảng 30 phút.


comvong1%281%29.jpg

Nói thì đơn giản vậy song có làm mới biết thực không dễ chút nào. Công đoạn tiếp theo cũng không kém phần quan trọng là giã. Cốm rang xong phải được mang giã ngay không được để nguội và phải nhớ không được giã quá mạnh tay nếu không cốm sẽ bị nát. Khi giã lưu ý phải luôn tay đảo đều từ trên xuống dưới sao cho đều. Giã khoảng 10 lần và qua mỗi lần giã ngoài việc bỏ đi lớp trấu còn phải chú ý xem cốm khô hay ướt mà xử lí.


Không những thế còn phải lọc chia ra 3 loại cốm: cốm rón, cốm non, cốm gốc. Đây có lẽ là điều khó khăn hơn cả trong quá trình làm. Thế mới biết để làm được cốm ngon đòi hỏi sự khéo léo bền bỉ và kinh nghiệm của người làm rất nhiều. Sự khéo léo còn cần thiết hơn nữa khi người ta phải sàng để lọc cốm (sàng là công đoạn chắc có lẽ bây giờ ít bạn trẻ có thể hình dung được). Khi cốm đã được làm xong xuôi thì được gói với lá dáy bên ngoài là lá sen tạo nên một sự hòa quyện hương thơm độc đáo.

Có rất nhiều cách thưởng thức cốm thường thì người ta ăn cốm với chuối tiêu, với quả hồng trứng đỏ mọng, với chè Thái Nguyên. Mỗi cách thưởng thức đều đem lại một hương vị riêng biệt. Từ cốm cũng có thể làm thành nhiều món khác như bánh cốm, xôi cốm, chè cốm, chả cốm. Thế mới biết sự sáng tạo sành điệu đến kì tình của người Việt. Bởi lẽ mỗi thức ấy đều là một kết hợp các hương vị thiên nhiên một cách khéo léo.


comvong2%281%29.jpg

Hương cốm làm tôi nhớ về chốn đồng quê với hương vị của lúa non, nó gợi về một vùng yên bình thật nhẹ nhàng chứ chẳng ồn ào xe cộ, khét lẹt mùi khói của phố phường quá ư là đông đúc. Ảnh: VnE


Cốm làng Vòng đã được biết đến rộng rãi từ lâu ở khắp ba miền, đã từng được tiến vào cung vua, rồi đi vào thơ ca như một nét thanh tao của người Hà thành:

"..Hà Nội mùa thu; Mùa thu Hà Nội
Mùa hoa sữa về; Thơm từng cơn gió
Mùa cốm xanh về; Thơm bàn tay nhỏ
Cốm sữa vỉa hè; Thơm bước chân qua,..."

(Nhớ mùa thu Hà Nội: Trịnh Công Sơn)



Ngày nay ít người làm cốm mà cũng ít người biết thưởng thức cốm vì lẽ có nhiều bánh kẹo đóng hộp đóng gói vừa đẹp vừa tiện nên người ta chẳng mấy chú ý đến cái thức bán hàng rong này.

comvong3.jpg

Hình ảnh những bà già vẫn rong ruổi trên phố bán cốm khiến lòng tôi lại dâng lên một cảm giác thèm muốn. Ảnh: VnE


Nhưng chắc không ít người nhớ đến hương vị cốm mỗi độ thu về. Riêng tôi hương cốm làm tôi nhớ về chốn đồng quê với hương vị của lúa non, của những cánh đồng sắp vào vụ. Nó gợi về một vùng yên bình thật nhẹ nhàng chứ chẳng ồn ào xe cộ, khét lẹt mùi khói của phố phường quá ư là đông đúc.


Theo Minh Đức - VNN
 

Hide Nguyễn

Du mục số
Phiên chợ Bưởi, nét văn hóa Thăng Long–Hà Nội


Cho%20Buoi.jpg


Chợ Bưởi xưa....


Ca dao có câu: “Chợ Bưởi một tháng sáu phiên. Ngày tư, ngày chín cho duyên đèo bòng“. Ấy là nói đến chợ Bưởi ở vùng Kẻ Bưởi (nay thuộc quận Tây Hồ), một trong những chợ cổ nhất Hà Nội duy trì hình thức họp chợ phiên.

Kẻ Bưởi xưa là vùng ven Hà Nội, gồm các làng Yên Thái, Hồ Khẩu, Đông Xã, Trích Sài, Võng Thị, Bái Ân, Trung Nha… Giống như nhiều chợ cổ Hà Nội (cận sông, tiện đường đi), chợ Bưởi nằm bên vị trí hợp lưu của sông Thiên Phù và sông Tô Lịch, thuận lợi về mặt giao thương trên bến dưới thuyền.

Các bậc tiền bối kể lại rằng, xưa kia, bưởi vùng mạn ngược theo dòng chảy trôi về rất nhiều, người ta thấy vậy liền vớt lên bán, dần dần theo thói quen gọi vùng này là vùng Bưởi và chợ nằm trong khu vực này cũng gọi là chợ Bưởi.

chobai.jpg


Chợ Bưởi nay.

Chợ Bưởi hình thành chính xác năm nào thì không ai rõ, ngay đến các vị cao niên vùng này cũng chỉ biết rằng, khi sinh ra thì chợ đã có từ lâu. Một số tài liệu thì cho rằng, chợ Bưởi có thể hình thành từ đời Lý, nhưng cũng có những nhà nghiên cứu lại bảo chợ hình thành từ giữa thế kỷ 19. Và điều mọi người đều không thể phủ nhận, đây là một trong những chợ có tính lịch sử, văn hóa vào bậc nhất ở mảnh đất Thăng Long – Hà Nội này.

Đặc biệt, chợ Bưởi cùng với chợ Mơ là một trong số ít các chợ còn duy trì hình thức họp chợ phiên ở nội thành Hà Nội và cứ tới các ngày 4, 9, 14, 19, 24, 29 âm lịch, dân các khu vực lân cận lại kéo về chợ Bưởi bán cây, con giống, vật dụng nông nghiệp, sản vật làng nghề...

Chợ Bưởi cổ chỉ là những dãy lán bằng phên nứa tuyềnh toàng và chỉ có 1 – 2 dãy nhà gỗ mà người mua kẻ bán ở đây quen gọi là cầu chợ. Trước những năm 30 của thế kỷ trước, người Pháp cho xây dựng hai cầu chợ bằng bê tông kiên cố che mưa nắng. Mang tính chất chợ vùng ven, chợ Bưởi là nơi trao đổi, mua bán sản phẩm các làng nghề vùng Kẻ Bưởi làm ra như dệt lĩnh Yên Thái, Bái Ân, giấy của làng Yên Thái, Hồ Khẩu, Đông Xã và dụng cụ sản xuất nông nghiệp của vùng Xuân La, Xuân Đỉnh.

Xung quanh khu vực chợ Bưởi, hoạt động sản xuất thủ công tương đối phát triển, chợ Bưởi theo đó cũng sôi động vào các phiên chợ, người mua bán tấp nập. Nơi này cũng là chỗ để người dân lân cận mang cây con giống đến bán từ mớ rau thơm, bó cải giống đến chó mèo, lợn gà, thỏ, chim…

Dân vùng Tây Tựu, Cổ Nhuế, Xuân La, Xuân Đỉnh với mặt hàng rau giống, hạt giống, công cụ nông nghiệp; dân vùng Nhật Tân, Quảng An, Quảng Bá với các loại cây cảnh, hoa cảnh. Người Hà Nội cũ muốn mua bất cứ thứ gì mang tính dân dã, đến chợ Bưởi là sẽ tìm thấy.

Vậy nên, chợ Bưởi cũng trở thành nơi thăm thú của nhiều người rảnh rỗi, yêu chim thú, hoa cây cảnh ở khắp các nơi trong Hà Nội. Đặc biệt, những năm xa xưa, cứ đến ngày 29 Tết, chợ Bưởi còn có thêm một nếp là mổ trâu bò và dân các làng vùng Bưởi cùng nhau mua trâu bò rồi giết mổ tại chợ, chia nhau ăn Tết...

Ngày nay, chợ Bưởi đã xây dựng khang trang, hiện đại, thuộc sự quản lý của Tổng công ty Thương mại Hà Nội, nhưng riêng phiên chợ vẫn được duy trì bằng cách quy hoạch một khu vực riêng để người dân có cơ hội mua bán cây, con giống.

Ông Nguyễn Văn Thế, Phó giám đốc Công ty cổ phần chợ Bưởi, một người xuất thân từ làng Yên Thái, có nhiều gắn bó với chợ từ nhỏ cho biết: “Chúng tôi đang cố gắng xây dựng chợ Bưởi thành một chợ văn minh, hiện đại trong những nét văn hóa truyền thống”.

Ai muốn mua hạt giống, cây giống, chó, mèo, thỏ, chim… đều có thể tìm thấy ở các phiên chợ ngày nay, nhưng dẫu vậy, phiên chợ Bưởi nay không thể phong phú như trước, nhiều mặt hàng không còn do sự chọn lọc của nhu cầu cuộc sống.

Ở chợ Bưởi còn duy nhất một hàng bán công cụ nông nghiệp, nhưng ông Nguyễn Văn Thế cho rằng, có lẽ bà chủ hàng này không duy trì được bao lâu. Và ông cũng nhẩm tính rằng, người bán con giống lâu năm ở chợ phiên còn độ 6 – 7 người, bán cây giống cũng còn gần 10 người; ngoài ra cứ tới phiên chợ một số người khác cũng có thể đem đến bán, ví như nhà nào đó nuôi được ổ chó đẻ hoặc mèo đẻ.

Là người có thâm niên gắn bó trên 50 năm với các phiên chợ Bưởi, từ thủa 13,14 tuổi tấp tểnh theo bà, theo mẹ đi phụ bán hàng, bà Nguyễn Thị An ở phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy tâm sự: “Lãi lờ từ bán cây giống chẳng đáng bao nhiêu nhưng đã quen bán hàng này ở phiên chợ Bưởi rồi nên tôi cũng không chuyển sang kinh doanh hàng khác”. Và cũng không hiểu cơ duyên nào mà cả hai con dâu bà cũng cắp thúng theo mẹ chồng bán hạt giống, cây giống ở khu vực chợ phiên này. Trước kia, gia đình bà cũng chuyên làm cây giống nhưng rồi đất đai thu hẹp dần nên giờ đây cả ba mẹ con đều mua lại hàng của nông dân ngoại thành đem vào.

Cũng có thâm niên gắn bó với các phiên chợ Bưởi từ hơn 20 năm nay, anh Nguyễn Mạnh Hà ở làng Đông, phường Bưởi (nay thuộc tổ 21 phường Bưởi) lại chuyên kinh doanh chó, mèo. Không chỉ bán ở các phiên chợ Bưởi, anh Hà còn bán ở phiên chợ Mơ (các ngày 2, 7), phiên chợ Hà Đông (các ngày 5, 10), chợ Trôi (các ngày 1, 6), chợ Canh Diễn (các ngày 3, 8). Mỗi phiên chợ anh cũng chỉ bán được mỗi loại vài con nhưng dù sao theo anh không làm nghề này cũng chưa biết kiếm nghề gì hơn.

Anh Hà cho rằng, chợ phiên Bưởi ngày nay thu hẹp hơn trước nhưng chắc chắn vẫn còn tồn tại vì nhiều người còn thích nuôi chó mèo, trồng cây hoa cảnh, cho dù diện tích nhà họ nhỏ hẹp.

Có lẽ, chính bởi lý do này nên cho dù cuộc sống phát triển theo hướng hiện đại, Hà Nội đô thị hóa quá nhanh nhưng các phiên chợ Bưởi vẫn tồn tại như một nét văn hóa riêng của Thăng Long – Hà Nội./.


(TTXVN/Vietnam+)
 

Hide Nguyễn

Du mục số
Ý NGHĨA TÊN GỌI HÀ NỘI

S au khi diệt triều Tây S ơn, vua Gia Long đã đổi phủ Phụng Thiên ( vốn là đất đai của kinh thành Thăng Long cũ ) thành phủ Hoài Đức và vẫn coi là một đơn vị trực thuộc ngang với trấn tức trực thuộc trung ương mà đại diện là Tổng trấn Bắc Thành. Đến năm Minh Mạng thứ 12 ( 1831 ) vị vua này tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn, xoá bỏ Bắc Thành ( gồm 11 trấn và 1 phủ trực thuộc ) ở miền Bắc, chia cả nước ra làm 29 tỉnh trong đó có 15 tỉnhtrực thuộc trung ươ ng. Tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Tây Sơn, và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam.

- phủ Hoài Đức gồm 3 huyện : Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm

- phủ Thường Tín gồm 3 huyện : Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên

- phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện : Sơn Minh ( nay là Ứng Hòa ), Hoài An ( nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức ), Chương Đức ( Nay là Chươ ng Mỹ - Thanh Oai )

- phủ Lý Nhân gồm 5 huyện : Nam Xang ( nay là Lý Nhân ), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục


Danh từ Hà Nội bắt đ ầu có từ bấy giờ ( 1831 ).

Hà Nội có nghĩa là phía trong các con sông, vì tỉnh mới Hà Nội được bao bọc bởi 2 con sông : sông Hồng và sông Đáy. Nh ư vậy tỉnh Hà Nội lúc đó gồm thành phố Hà Nội, nửa chính đông tỉnh Hà Tây ( chính là tỉnh Hà Tây thời Pháp thuộc ) và toàn bộ tỉnh Hà Nam. Như vậy rõ ràng tỉnh Hà Nội có đại bộ phận nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Đ áy.

Có ng ười cho rằng chữ Hà Nội là lấy từ câu trong sách Mạnh Tử ( Thiên Lương Huệ Vương ) : "Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ tức ư Hà Nội" ( nghĩa là : Hà Nội bị tai hoạ thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc từ Hà Đông về Hà Nội ). Nguyên ở Trung Quốc thời Mạnh Tử ( thế kỷ III tr.CN ) phía bắc sông Hoàng gọi là đất Hà Nội, phía Nam là Hà Ngoại. Vùng đất Hà Nội ấy nay ứng với tỉnh Hà Bắc. Lại do sông Hoàng khi tới địa đầu tỉnh Sơn Tây ngày nay thì chạy theo hướng Bắc - Nam, trở thành ranh giới giữa hai tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Sơn Tây ở phía đông sông Hoàng nên thời cổ có tên là đất Hà Đông, còn Thiểm Tây là Hà Tây. Thực sự cũng có việc dùng câu sách Mạnh Tử nói trên, nhưng đó là trường hợp năm 1904 khi muốn đổi tên tỉnh Cầu Đơ cho khỏi nôm na, người ta mới dùng tên Hà Đông ( dựa vào tên Hà Nội đã có từ trư ớc )



( Theo "Hỏi Đáp - 1000 năm Thă ng Long - Hà Nội" - Tô Hoài, Nguyễn Vinh Phúc )
 

Hide Nguyễn

Du mục số
NHỮNG TÊN GỌI CỦA HÀ NỘI QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ

T
HĂNG LONG - HÀ NỘI là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành kinh đô của nước Ðại Việt dưới triều Lý (1010) đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tuỳ (581 - 618), Ðường (618 - 907) của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi, được chia thành hai loại: chính quy và không chính quy, theo thứ tự thời gian như sau:

Tên chính quy
:
Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:

Long Ðỗ: Truyền thuyết kể rằng, lúc Cao Biền nhà Ðường, vào năm 866 mới đắp thành Ðại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Ðỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Ðỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời kinh đô về đất An Tôn, phủ Thanh Hoá. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Nguỵ dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Ðỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". Ðiều đó cho thấy, Long Ðỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.

Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tuỳ (581-618), Ðường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tuỳ chúng mới chuyển đến Tống Bình.

Ðại La: Ðại La hay Ðại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh Ðô. Theo kiến trúc xưa, Kinh Ðô thường có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Ðại La thành. Năm 866 Cao Biền bồi đắp thêm Ðại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Ðại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thành Ðại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biền) ở giữa khu vực trời đất..." (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr 241).


Thăng Long (Rồng bay lên). Ðây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Ðại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau: "Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Ðại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long" (Toàn thư, Tập I, H, tr 241).

Ðông Ðô: Sách Ðại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm Ðinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là Ðông Ðô" (Toàn thư Sđd - tr 192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Ðông Ðô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Ðô, Thăng Long là Ðông Ðô" (Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).

Ðông Quan: Ðây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là "cửa quan phía Ðông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Ðông Ðô, đổi tên thành Ðông Quan. Sách Ðại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý (1408), Giản Ðịnh đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành Ðông Quan thì chắc phá được chúng" (Toàn thư Sđd - Tập 2, tr224).

Ðông Kinh: Sách Ðại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 năm Ðinh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Ðề, vào đóng ở thành Ðông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Ðại Việt đóng đô ở Ðông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở Ðông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Ðô, cho nên gọi thành Thăng Long là Ðông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr 293).

Bắc Thành: Ðời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802 - TM). Vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế - TM) nên gọi Thăng Long là Bắc thành"(Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Ðường phố Hà Nội - H. 1979, tr 12).

Thăng Long: (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế - TM), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyến làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thành chữ "Long" là Thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).


Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.

Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hoà, phủ Lý Nhân VÀ phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà NỘI. H. 1960, TR 82).

Tên không chính quy: Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành Thăng Long - Hà Nội:

Trường An (Tràng An): Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và Ðường (618 - 907). Do đó, được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.

Thí dụ:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

Rõ ràng chữ Tràng An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.

Phượng Thành (Phụng Thành):

Vào đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú nôm rất nổi tiếng :

Phượng Thành xuân sắc phú
(Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).

Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thành Thăng Long.

Long Biên:
Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều (thế kỷ III, IV, V và VI) đóng trị sở của Giao Châu (tên nước Việt Nam thời đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877); ghi lại bài thơ của vua Tự Ðức viếng ông, có hai câu đầu như sau:


Long Biên tài hướng Phượng thành hồi
Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!

Dịch nghĩa:


Nhớ người vừa từ thành Long Biên về tới Phượng Thành.
Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi và triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.


Thành Long Biên ở đây, vua Tự Ðức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Ðức triệu ông về kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.

Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Ðống Ða - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).

Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai?...

Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.

Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ), Thượng Kinh, tên này để nói đất kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh). Kinh Kỳ, tên này nói đất có kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến).

Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "¡n Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.

Loại tên "không chính quy" của Thăng Long - Hà Nội còn nhiều được sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao... kể ra đây không hết được.




Tường Minh (Tạp chí Xưa và Nay)
 

ThangLongVN

New member
Xu
0
Cảm ơn loạt tài liệu mà bạn đã sưu tầm !

Tuy nhiên,nó còn quá ít so với hiện thực lịch sử văn hóa và cuộc sống của một Thăng Long khi xưa, và Hà Nội ngày nay. Hi vọng bạn sẽ tiếp tục bổ sung tư liệu về Thăng Long- Hà Nội. Và tôi cũng rất vui lòng được góp sức cùng bạn.

Cảm ơn bạn và Diễn đàn rất nhiều !
 

sarangheyo

Cộng tác viên
Xu
0
Bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám: “Tiếng nói” của lịch sử và thời đại

Vừa qua, Đoàn công tác của UBND thành phố Hà Nội do Phó Chủ tịch Ngô Thị Thanh Hằng dẫn đầu đã tới Ma Cao (Trung Quốc) tham dự phiên họp của Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa thuộc Liên hợp quốc (UNESCO) về việc bình xét các di sản tư liệu vào Chương trình "Ký ức thế giới".

Hồ sơ "Bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê - Mạc (1442-1779)" ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) sẽ được bỏ phiếu bình chọn vào 15h hôm nay (9-3).


"Kho" tư liệu quý giá

chung%209%20%20%20%20%20%20%20%20%203%2010.jpg



Bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội.

Nằm trong quần thể di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, hình ảnh những hàng bia đá trên lưng rùa đã trở thành một "biểu tượng đẹp của tinh thần hiếu học, đề cao sự nghiệp học hành, khoa cử của dân tộc Việt Nam" - nhà nghiên cứu về Hà Nội Nguyễn Vinh Phúc khẳng định. Ông cho biết thêm: Tuy Việt Nam tiếp thu truyền thống dựng bia từ Nho học Trung Quốc, nhưng điểm đặc biệt của 82 tấm bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội là trên bia có khắc kèm các bài ký. Thông qua các bài văn bia này, nhà sử học có thể xác định quê quán, danh tính những bậc nhân tài; nhà địa lý, lịch sử có thể tra cứu những địa danh cũ để tìm ra những vùng đất cổ liên quan đến thời hiện tại; nhà nghiên cứu triết học có thêm những chứng cứ để khảo sát vai trò cũng như diễn tiến của Nho học ở Việt Nam... "Đây cũng chính là lý do để Ủy ban UNESCO Việt Nam lựa chọn 82 bia đá tiến sĩ ở Văn Miếu đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới trong đợt này mà không phải là di sản khác" - ông Phạm Sanh Châu, Vụ trưởng Vụ Văn hóa đối ngoại và UNESCO, Tổng Thư ký Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam cho hay.


Trong lần trả lời phỏng vấn chúng tôi gần đây, GS Ngô Đức Thọ, người chủ biên, khảo cứu, dịch, chú giải, hiệu đính công trình "Văn Miếu - Quốc Tử Giám và 82 văn bia tiến sĩ" nhấn mạnh: "Vườn bia ấy không chỉ tiêu biểu cho các trí thức triều Lê mà cũng đại diện cho cả các nhà khoa bảng từ Trạng nguyên khoa Minh kinh Lê Văn Thịnh đời Lý đến các trí thức Nho học đời Trần như Trần Chu Phổ, Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn... Họ đã đóng góp phần mình vào lịch sử phát triển của quốc gia Đại Việt nghìn năm văn hiến". 82 tấm bia đá được dựng trong khoảng thời gian từ năm 1484 đến 1780 đã ghi lại lịch sử các khoa thi tiến sĩ được tổ chức từ năm 1442 đến 1779. Dựa trên tư liệu tổng hợp từ nội dung các tấm bia, hậu thế đã biết được trong hơn 300 năm, nước ta có 1.307 lượt người đỗ tiến sĩ. Không những thế, như TS Đặng Kim Ngọc, Giám đốc Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám phân tích, nghệ thuật tạo tác bia đá tiến sĩ được ghi nhận là đạt đến trình độ cao, thể hiện tài hoa của các nghệ nhân hàng đầu với nhiều phong cách trải qua nhiều thời kỳ. Quá trình dựng bia một cách cẩn thận, kỹ lưỡng, công phu như sử sách ghi lại càng cho thấy ý nghĩa đặc biệt của các tấm bia tiến sĩ trong nền Nho học nước ta.

Vẹn nguyên tính thời sự

Nhiều nội dung trong các bài ký khắc trên 82 tấm bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã trở nên bất hủ, lưu truyền hậu thế đến hôm nay vẫn vẹn nguyên tính thời sự. Chẳng hạn như "Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi trọng việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết" hay "dựng xây nghiệp lớn, diệt trừ tàn bạo, cứu dân lầm than" và "mở mang văn đức, thu nạp anh tài, đổi mới chính trị..." - bia tiến sĩ năm 1442, khắc 1484 của Thân Nhân Trung. Bia khoa thi tiến sĩ năm 1448 cũng đề cập: "Sự lớn lao của nền chính trị của bậc đế vương không gì quan trọng bằng việc trọng dụng nhân tài. Việc cai trị mà không lấy nhân tài làm gốc thì đều bị coi là thiếu đường hướng phát triển". Vấn đề coi trọng hiền tài tiếp tục được nhấn mạnh trong bia khoa thi 1463 do Đào Cử soạn: "Mở cửa cầu hiền, sửa sang nền đức, cổ vũ lòng dân" hoặc "Đem lòng nhân hậu vun bồi cho mệnh mạch Nhà nước".

Nói về ý nghĩa các bài ký trên bia đá tiến sĩ ở Văn Miếu, GS Ngô Đức Thọ thêm một lần nữa nhận định: "Văn bia Văn Miếu chính là câu chuyện xây dựng đội ngũ trí thức Nho học Việt Nam. Tôi nghĩ rằng ngày nay chúng ta lẽ nào lại quên mất phép biện chứng lịch sử để không hình dung ra nếu Lý Thái Tổ và các con cháu nối ngôi không tiến đến ngôi đền tư tưởng của Khổng giáo thì ắt hẳn chỉ dẫm chân tại chỗ, duy trì thôn xóm không một tiếng đọc Thi Thư". GS cũng nói thêm: "Văn tức là người, nhưng con chữ chỉ là phương tiện, nếu các thế hệ ngày nay và mai sau rẻ rúng với tri thức, thành tựu của người xưa thì khó biết đặt chân lên mảnh đất nào để tiến lên". Thông điệp từ các bài ký nói trên dẫu được ghi từ 300 năm trước nhưng vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự cho hôm nay và mãi mai sau. Không chỉ có giá trị cao đối với Việt Nam, khi trở thành di sản tư liệu thế giới, với tính độc đáo và quý hiếm, 82 bia đá tiến sĩ Văn Miếu sẽ làm phong phú thêm thể loại của Ký ức thế giới. Di sản này giúp thế giới hiểu thêm về nền giáo dục Nho học tại Việt Nam, phương thức tuyển chọn, sử dụng và đề cao nhân tài cũng như những đóng góp của các nho sĩ Việt Nam đối với thế giới.

Di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám được xây dựng từ thế kỷ XI, là nơi thờ Khổng Tử - người sáng lập ra học thuyết Nho giáo và nền giáo dục Nho học. Đây cũng là nơi đào tạo nhân tài, cung cấp đội ngũ trí thức và quan lại cho bộ máy quản lý nhà nước của các triều đại quân chủ phong kiến Việt Nam và được coi là Trường Đại học đầu tiên của quốc gia Đại Việt. Việc dựng bia ghi danh các tiến sĩ có từ thời vua Lê Thái Tông nhưng vì triều đình bận nhiều việc nên không làm được, sau đó đến đời vua Lê Thánh Tông, việc dựng bia mới được thực hiện.
Chương trình "Ký ức thế giới" (Memory of the World) của UNESCO ra đời từ năm 1993 và đã có 193 di sản được vinh danh. Mục đích của chương trình là để ghi nhận các di sản thuộc dạng tư liệu (Documentary Heritage) trên thế giới, đó có thể là cuốn sách, bộ phim, bức ảnh, giọng nói (băng ghi âm) hay bút tích. Tuy nhiên, để được UNESCO công nhận thì di sản phải là tư liệu duy nhất, xác thực, độc đáo, có sự tác động, lan tỏa rộng và đang đứng trước nguy cơ mai một. Trước 82 bia tiến sĩ, Việt Nam đã có Mộc bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới vào ngày 30-7-2009.

Nguồn : sưu tầm.
 

ThangLongVN

New member
Xu
0
Dải đất nay là Hà Nội có dân cư từ vài ngàn năm trước nhưng cái tên gọi Hà Nội thì chỉ có từ năm 1831. Nguyên là từ năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô ra thành Ðại La, đổi gọi thành này là kinh đô Thăng Long. Kinh đô ngày ấy ứng với quận Hoàn Kiếm và một phần của hai quận Ðống Ða, Hai Bà Trưng ngày nay. Sau đó địa giới Thăng Long dần mở rộng và tới cuối thế kỷ 18 thì tương ứng với năm quận nội thành bây giờ. Năm 1802, nhà Nguyễn lên ngôi dời đô về Huế, Thăng Long không còn là Kinh đô nữa và ít lâu sau bị đổi gọi là phủ Hoài Ðức.

Năm 1831, có một cuộc cải cách hành chính lớn: xoá bỏ các trấn, thành lập các tỉnh. Từ đó ra đời tỉnh Hà Nội. Sở dĩ có tên gọi này vì tỉnh mới nằm trong (nội) hai con sông (hà) là sông Hồng và sông Ðáy, gồm có 4 phủ, 15 huyện. Tỉnh lị đặt tại thành Thăng Long cũ, do vậy Thăng Long được gọi là tỉnh thành Hà Nội rồi nói gọn lại là Hà Nội.

Năm 1883, Pháp chiếm đóng Hà Nội. Năm 1886 họ thành lập "thành phố Hà Nội", ban đầu chỉ có 3 km2, đến năm 1939 là 12 km2 với số dân là 30 vạn.

Trở lại cái ngày Lý Thái Tổ định đô mới, truyền thuyết có kể rằng khi vua Lý tới bến sông Cái (một tên gọi khác của sônh Hồng), thì có con rồng vàng hiện trên sông rồi bay lên cao. Vua cho là điềm lành, đặt tên kinh đô mới là Thăng Long (Rồng lên). Câu chuyện "Rồng lên" đó nói lên khí thế vươn mình của thủ đô mới đang bước lên vũ đài lịch sử, gánh vác sứ mệnh làm trái tim của một quốc gia đã có mấy nghìn năm dựng nước.

Cũng từ đây Thăng Long ghi nhiều chiến công hiển hách!

Thế kỷ 13, Thăng Long ba lần "thành không nhà trống" dồn quân xâm lược nhà Nguyên vào thế bị đói, bị động, để rồi bị quét sạch ra khỏi bờ cõi.

Tới đầu thế kỷ 15, đất nước lại một phên chao đảo. Thăng Long lại trở thành điểm quyết chiến tối hậu chống quân xâm lược. Sau mười năm khởi nghĩa, năm 1427 Lê Lợi đưa đại quân về Thăng Long vây chặt quân Minh xâm lược. Bị áp đảo trước khí thế và sức mạnh của nghĩa quân, binh tướng nhà Minh phải thề ở cổng thành phía Nam, xin đầu hàng và được phép rút toàn bộ quân sĩ về nước.

Tới cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, lại chính Thăng Long là nơi người anh hùng "áo vải cờ đào" Nguyễn Huệ ghi nhiều chiến công, mà hiển hách nhất là chiến thắng Ðống Ða năm 1789. Với cuộc hành quân thần tốc, mùng 5 Tết năm ấy, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh tan 30 vạn quân lính Mãn Thanh xâm lược. Và trong chiến thắng đó có phần đóng góp của người dân Thăng Long.

Sang đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn (từ năm 1802 - 1945) đóng đô ở Huế. Thăng Long trở thành lỵ sở của tỉnh Hà Nội. Nhưng Hà Nội vẫn là nơi văn vật nhất nước, là thành phố đứng đầu cả nước về nghệ thuật, về công nghiệp, về thương nghiệp, về văn hóa. . . Tóm lại, đây chính là trái tim của cả dân tộc.

Khi thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam, chính ở Thành Hà Nội, giặc Pháp đã vấp phải sức phản kháng mạnh mẽ nhất. Ngưòi Hà Nội liên tiếp đứng lên chống lại ách đô hộ. Ðỉnh cao của phong trào chính là ngày 19/8/1945, Hà Nội khởi nghĩa lập chính quyền cách mạng, mở đầu cho tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc. Nửa tháng sau, ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Ðình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập, chính thức khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Nhưng thực dân Pháp lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Thế là ngày 19/12/1946 quân và dân Hà Nội nhất tề đứng lên đánh Pháp mở đầu cho giai đoạn toàn quốc kháng chiến dài tới 9 năm. Ngày 7/5/1954 chiến thắng Ðiện Biên Phủ, quân Pháp hoàn toàn thất bại. Năm tháng sau, 10/10/1954 Hà Nội được giải phóng và Hà Nội vẫn là trái tim của đất nước Việt Nam và Hà Nội đã chi viện hết sức mình cho miền Nam đánh Mỹ, trong khi đó vẫn không ngừng đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và cũng trực tiếp chống Mỹ khi Mỹ thực hiện kế hoạch leo thang ra miền Bắc.

Năm 1965, Hà Nội quyết liệt đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ bằng không quân. Ðặc biệt 12 ngày đêm cuối năm 1972, Hà Nội đã đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân lớn nhất của đế quốc Mỹ, làm nên trận "Ðiện Biên Phủ trên không" lừng lẫy, và cùng với cả nước buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Ðến năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất toàn vẹn. Tháng 7/1976 tại kỳ họp đầu tiên Quốc hội khoá VI, Quốc hội thống nhất quyết định lấy Hà Nội là thủ đô nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nguồn :Internet
 

ThangLongVN

New member
Xu
0
Đất Hà Nội xưa thuộc bộ Giao Chỉ, một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang. Vì hoàn cảnh địa dư của nước ta ngày xưa, các triều đình thường chọn Hà Nội làm đế đô. Vào thế kỷ thứ 3, Hà Nội là Long Biên , lỵ sở của Giao Châu. Thời Đường, đất này thuộc một trong tám huyện thuộc Giao Châu. Năm 791, thứ sử Triệu Xương đắp thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch. Năm 862, quân Nam Chiếu đánh Giao Châu, nhà Đường sai Thái Tập đem ba vạn quân sang chống giữ và quân Nam Chiếu rút lui. Qua năm sau, tháng giêng năm Quý Mùi 863, Nam Chiếu lại mang năm vạn binh sang đánh Long Biên, giết chết tướng nhà Đường là Nguyễn Duy Đức và chiếm được thành và tàn sát 15 vạn dân ta. Đến năm 866, nhà Đường sai Cao Biền dẹp giặc Nam Chiếu, giết được tướng giặc là Đoàn Tư Thiên và giải vây thành Đại La vào tháng mười âm lịch. Năm 867, Cao Biền sửa sang lại thành, mở rộng thêm ra; ngoài thành cho đắp con đường dài gần bảy cây số, cao hơn năm thước. Năm 960 đến năm 1009, Hà Nội là quận Giao Chỉ. Triều đình và triều Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư.

Tháng bảy năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về thành Đại La. Sử viết rằng khi vua Lý Thái Tông vào thành Đại La thấy rồng hiện thành những đám mây lơ lững trên trời nên đổi thành là Thăng Long. Nhà Trần nối nghiệp nhà Hậu Lý từ năm 1225 đến 1400 cũng đóng đô tại Thăng Long. Quân Mông Cổ xâm lược nước ta đã chiếm thành Thăng Long hai lần vào những năm 1285 và 1287. Đời Lý, Trần trong thành Thăng Long có 13 trại, ngoài thành có 61 phường. Để chuẩn bị chiếm ngôi nhà Trần, năm Bính Tý 1396, Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông phải bỏ thành Thăng Long, dời kinh về Tây Đô thuộc tỉnh Thanh Hóa, còn Thăng Long được gọi là Đông Đô. Sau đó nhà Hồ cũng đóng đô tại đây. Thời Minh thuộc Hà Nội là phủ lỵ của Giao Châu. Đến năm 1429 vua Lê Thái Tổ đánh đuổi xong giặc Minh, đóng đô ở Hà Nội và đặt tên là Đông Kinh. Dưới thời vua Lê Thái Tông, Đông Kinh là một phủ lỵ của hạt Phụng Thiên. Nhà Mạc sau khi giết chết vua Lê Chiêu Tông để cướp ngôi cũng đóng đô ở Hà Nội và gọi là Đông Kinh. Về sau vua Lê Trung Hưng đánh đuổi được nhà Mạc lại đóng đô ở Thăng Long. Đời vua Gia Long đất này là lỵ sở của bắc thàng tổng trấn và gọi là Long Thành.

Năm 1803, Long Thành được đắp lại theo kiểu tây phương và gọi lại là Thăng Long. Năm 1805 Thăng Long là phủ lỵ của phủ Hoài Đức. Phủ này gồm có hai huyện là Thọ Xương (8 tổng, 193 phường, thôn) và huyện Vĩnh Thuận (5 tổng, 54 phường, thôn, trại). Đến năm 1831, được đổi thành tỉnh lỵ Hà Nội. Năm 1888, Hà Nội được nhà Nguyễn nhường làm nhượng địa. Kể từ năm 1902, Hà Nội là nơi đặt các cơ quan trung ương của quân Pháp. Sau đó, huyện Hoàn Long được sát nhập vào thành phố Hà Nội.

Lịch sử đấu tranh của Hà Nội đã chói lọi từ hơn 10 thế kỷ trước. Thời Đường thuộc, năm 791, anh hùng Phùng Hưng dựng cờ khởi nghĩa, đem quân đi đánh chiếm Đô Hộ Phủ (làng Bích Câu), làm tên quan đô hộ là Cao Chính Bình khiếp sợ sinh bịnh mà chết. Làng Cơ Sá, huyện Thọ Xương, là nơi sinh trưởng của anh hùng Lý Thường Kiệt, năm 1076 phá Tống, bình Chiêm.Vào thế kỷ thứ 13, đời Trần, giặc Mông Cổ ba lần đem quân tiến đánh nước ta nhưng đều bị bại. Trong ba lần đó, thế giặc hung hãn lắm, vua tôi đều phải rời thành Thăng Long tìm kế chống giặc. Bên cạnh vua lúc gian khổ luôn có Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng các danh tướng Trần Quang Khải, Trần Quốc Toản. Đuổi xong giặc, Thăng Long mở ba ngày hội "Thiên Bình Diên Yến" vui sướng biết chừng nào. Đất Thăng Long là nơi sinh trưởng của anh hùng Trần Quý Khoách; khi giặc Minh sai Trương Phụ và Vương Hựu đánh nước ta, từ 1409 đến 1413, anh hùng Trần Quý Khoách và anh hùng Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị khởi nghĩa đánh thắng quân giặc nhiều trận. Thời Minh thuộc, giặc cai trị tàn ác, muốn đồng hóa dân ta, bao nhiêu sách vở giá trị chúng mang về Tàu. Năm Bính Ngọ 1426, Bình Định Vương Lê Lợi tiến quân ra Đông Đô, dân chúng Hà Nội và các nơi khác nô nức tham gia quân kháng chiến, đánh thắng khắp nơi, đuổi bọn Vương Thông về nước. Huyện Thọ Xương, làng Văn Chương là nơi sinh trưởng của vị vua anh hùng Lê Thánh Tông ( 1460-1497), con thứ tư của vua Lê Thái Tông; Ông là người thông minh, tài kiêm văn võ, một vị minh quân trong lịch sử Việt Nam, dưới sự trị vì của ông nước nhà phát triển đến mức cực thịnh. Vua là người đầu tiên cho vẽ bản đồ nước ta, sai Ngô Sĩ Liêm làm bộ "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" (chép việc từ đời Hồng Bàng đến đời vua Lê Thái Tổ), đặt bộ luật Hồng Đức để giữ yên trăm họ, mở rộng trường Thái Học, lập hội Tao Đàn phát triển văn chương.

Thời Tây Sơn, tháng 6 năm 1786, sau khi giải phóng Phú Xuân, anh hùng Nguyễn Huệ đã tiến quân vào Thăng Long trừ Vũ Văn Nhậm và tái lập Hà Bắc. Ngày 28-11-1788 gần 30 vạn quân Thanh tràn sang nước ta. Ngày 18-12-1788, Tôn Sĩ Nghị vào tới Thăng Long. Ngày 15-1-1789 (30 tháng chạp năm Mậu Thân) Quang Trung Hoàng Đế xuất quân từ Nghệ An ra miền bắc, cưỡi voi điều khiển quân chủ lực đi đầu đánh thẳng vào mặt nam thành Thăng Long, nơi Tôn Sĩ Nghị phòng vệ kiên cố nhất. Mùng ba Tết Kỷ Dậu, quân ta dẹp Hạ Hồi, mùng năm quân ta chiếm Ngọc Hồi, rồi phá bung thàng Đống Đa. Cánh quân Điền Châu chết chật đường đi, tướng giặc Sầm Nghi Đống treo cổ chết. Bình Nam Đại Tướng Quân nhanh chân rời khỏi Thăng Long mà quên cả ấn tín, mật chỉ. Trong tiếng quân reo hò phá vỡ thành Thăng Long, người dân Hà Nội luôn luôn nhìn thấy các danh tướng anh hùng như Võ Văn Dũng, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Đặng Văn Chân, Trần Quang Diệu, anh thư Bùi Thị Xuân... đi tiên phong. Chiến sự xảy ra trong năm ngày, quân Thanh hoàn toàn tan rã. Mùng năm Tết Quang Trung vào tới Thăng Long cho ba quân làm lễ khai hạ. Sau đó cho đắp thành Hà Nội gọi là Bắc Thành.

Năm 1872, quân Pháp cử Francis Gamier đem quân từ Gia Định ra, muốn đóng quân trong thành Hà Nội. Nguyễn Tri Phương không cho, nên chúng mang quân đóng ở Trương Thi. Ngày 20-1-1873, quân Pháp tấn công thành Hà Nội. Nguyễn Tri Phương cùng con là phò mã Nguyễn Lâm lên mặt thành đốc quân chống giữ. Nhưng khoảng sau một giờ, thành vỡ, anh hùng Nguyễn Lâm tử trận. Còn anh hùng Nguyễn Tri Phương bị thương nặng, quân Pháp đưa ông xuống tàu, nhưng ông nhất định không cho giặc buộc thuốc rồi nhịn ăn chết theo thành. Tháng 2 năm 1882, quân Pháp cử Henri Rivieres đánh Hà Nội lần thứ hai. Lúc tám giờ sáng ngày 25-4-1882 quân Pháp tấn công Hà Nội gặp phải sự chống trả dữ dội của quân ta dưới sự điều động của Tổng Đốc Hoàng Diệu. Nhưng vì vũ khí thô sơ nên không giữ nổi thành, anh hùng thảo tờ biểu tạ tội với vua rồi lấy khăn bịt đầu thắt cổ tự tử.

Tháng 5-1907, một số nhà yêu nước như Lương Văn Cang, Nguyễn Quyền, Lương Trúc Đàm, Đỗ Trung Thiết, Nguyễn Hùng Hương... thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội để dạy học mở mang dân trí, diễn thuyết truyền bá tư tưởng đấ? tranh. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục phát động rộng rãi trong cả nước. Ngày 27-6-1908, các nghĩa quân Yên Thế và Việt Nam Quang Phục Hội phối hợp với binh lính Việt đầu độc quân Pháp trong thành Hà Nội. Nhưng công việc không thành vì nội gián, quân Pháp bị đầu độc nhưng không nặng. Giặc khủng bố ngay, đem chém cả Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Chi Bình, Nguyễn Cốc, Đặng Nhân, Nguyễn Đức A, Cai Rôn, Đỗ Đảm, Hai Hiền, bà hàng cơm Nguyễn Thị Ba... tại Bãi Gáo, rồi đem bêu đầu ở chợ Mơ, Ô Cầu Rền, Ô Cầu Giấy. Giặc còn chụp hình đầu những người yêu nước in trên bưu thiếp phổ biến khắp nơi nhằm khủng bố tinh thần dân chúng hòng ngăn chặn phong trào kháng Pháp. Cùng năm 1908, Quang Phục Hội hoạt động mạnh, tổ chức chuyển vũ khí, đạn dược về nước, ngày 16 - 4, nghĩa quân ném bom tại khách sạn Hà Nội giết nhiều sĩ quan Pháp. Quân Pháp lại thẳng tay đàn áp với các án tử hình, giam cầm, đày ải, trời Hà Nội như có đại tang. Các anh hùng Đỗ Chân Thiết, Phạm Văn Tráng, Nguyễn Văn Túy, Nguyễn Khắc Cần, Phạm đế Quý, Vũ Ngọc Thụy, Phạm Hoàng Quế, Phạm Hoàng Triết bị giết tại Hà Nội. Anh hùng Lương Văn Cang bị đày đi Nam Vang. Năm 1915 anh hùng Lương Ngọc Quyến bị tên phản quốc Nguyễn Bá Trác đã chỉ điểm cho quân Pháp bắt tại Hà Nội.

Năm 1925 anh hùng Phan Bội Châu bị bắt tại Thượng Hải đem về Hà Nội kết án. Cuối năm 1925 đó, Nam Đồng Thư Xá được thành lập do Phạm Tuấn làm chủ nhiệm, chuyên xuất bản sách yêu nước, gây ảnh hưởng sâu rộng trong giới trí thứ, sinh viên học sinh... Ngày 13-6-1927, anh hùng Lương Văn Can từ trần, sau khi quân Pháp thả ông về năm 1924. Ngày 15-12-1927, Việt Nam Quốc Đảng ra đời tại làng Thể Giao, Hà Nội, do anh hùng Nguyễn Thái Học lãnh đạo, hoạt động sâu rộng trong quần chúng. Ngày 9-2-1929, tên mộ phu gian ác Ba in bị giết chết tại chợ Hôm. Tháng 2-1930, khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái bùng nổ thì ban ám sát của Đặng Trần Nghiệp tổ chức ném bom các cơ quan tổ chức trong thành phố. Việc khởi nghĩa bị thất bại, vào tháng 12-1930 và tháng 6-1931, quân Pháp xử tử các anh hùng Đặng Trần Nghiệp, Lương Ngọc Tốn, Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Quang Triều, Nguyễn Minh Luân, Nguyễn Trọng Bằng, Trần Văn Khuê, Lê Hữu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân tại ngục thất Cửa Lò. Những tấm gương trung liệt vì nước vì dân nói trên đã làm sáng ngời tranh đấu sử Việt.


Nguồn :Internet
 

ThangLongVN

New member
Xu
0
Kể từ khi Thái tổ Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra thành Ðại La để thánh địa ấy mang cái tên mới Thăng Long đã sắp trọn một thiên kỷ. Hà Nội là kinh đô của ba vương triều hiển hách Lý - Trần - Lê và nay là thủ đô nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm, binh lửa và xây dựng, Thăng Long - Hà Nội ngày càng lớn cao với vị trí thiêng liêng của nó - trái tim của nước Việt Nam hôm qua và mãi mãi.

THĂNG LONG THỜI LÝ

Khi nhà Đinh, nhà Tiền Lê làm tròn nhiệm vụ lịch sử của mình (củng cố độc lập dân tộc, khôi phục thống nhất quốc gia) thì Hoa Lư cũng vừa xong sứ mệnh lịch sử của một Thủ đô thời kỳ đầu khi đất nước giành lại độc lập. Độc lập tổ quốc đã được thử thách và vững vàng hơn. Những tiền đề cần thiết cho bước nhảy vọt về kinh tế, phát triển huy hoàng về văn hoá đã được chuẩn bị qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc. Với nhãn quan chính trị xuất sắc của mình, nhà vua đã nhận ra vị thế đắc địa của thành Đại La.

Mùa thu tháng bảy năm Canh Tuất (1010), vua đầu triều Lý quyết định dời đô. Mùa nước rẫy, thuyền ngự với chiến thuyền và văn võ bá quan hộ tống từ Hoa Lư ngược dòng cập bến Đại La. Tại vùng đất mới, nhà vua đổi tên là thành Thăng Long.

Kinh thành mới đại thể được giới hạn bằng 3 con sông:phía Đông là sông Hồng, phía Bắc và phía Tây là sông Tô, phía Nam là sông Kim Ngu và chia làm hai phần: Hoàng thành và kinh thành. Hoàng thành nằm trong lòng Kinh thành, vị trí gần Hồ Tây, nơi có các cung điện hoàng gia, đồng thời là nơi thiết triều. Trong Hoàng thành còn ngăn ra một khu vực nữa gọi là Cấm thành. Đây là nơi ở của hoàng gia, gọi là Long thành. Những cung điện chính còn ghi chép trong sử sách như: Điện Kiền Nguyên là điện chính, nơi vua làm việc, hai bên tả hữu là điện Tập Hiền và Giảng Vũ. Bên trái mở cửa Phi Long thông với cung Nghinh Xuân; bên phái mở cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn; chính Bắc dựng điện Cao Minh, đằng sau dựng điện Long An và Long Thuỵ để vua nghỉ ngơi, tiếp sau là cung Thuý Hoa và các cung khác để các phi tần ở,v.v...

Năm 1029 vua Lý Thái Tôn cho xây dựng lại Cấm thành. Trên nền cũ của điện Kiền Nguyên dựng điện Thiên An làm chính, hai bên tả hữu là điện Tuyên Đức và Diên Phúc. Đằng trớc Thiên An là sân rồng, hai bên tả hữu sân rồng dựng gác chuông, xung quanh bốn bề đều dựng hành lang và dải vũ. Chếch về phía Đông là điện Văn Minh và điện Quảng vũ. Phía trớc sân rồng là điện Phụng Tiên, trên điện có lầu Chính Dơng nơi đặt đồng hồ và báo canh. Đằng sau điện Thiên An là điện Thiên Khánh hình bát giác, nối liền Thiên Khánh với điện Trờng Xuân phía sau là các cầu Phượng Hoàng, trên điện Trường Xuân có gác Long Đồ.

Năm 1203 lại thêm đợt xây dựng mới. Vua Lý Cao Tôn cho dựng thêm cung điện ở phía Tây tẩm điện: Chính giữa đặt điện Thiên Thuỵ, bên trái dựng điện Dương Minh, bên phải dựng điện Thiềm Quang, đằng trước xây điện Chính Nghi, phía trên dựng điện Kính Thiên. Chính giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm, bên phải mở cửa Việt Thành, thềm gọi là Ngân Hồng. Đằng sau mở điện Thắng Thọ, trên có dựng gác. Bên trái xây gác Nhật Kim, bên phải xây gác Nguyệt Bảo, xung quanh đều dựng nhà hành lang. Phía trái gác Nguyệt Bảo dựng toà Lơng Thạch, phía Tây gác xây Dục Đờng (nhà tắm). Ngoài ra còn rất nhiều công trình khác như gác Phú Quốc, thềm Phượng Tiêu, cửa Thấu Viên, ao Dưỡng Ngư, đình Ngoạn Y. Tất cả các công trình này đều có trồng hoa thơm cỏ lạ, “cách chạm trổ trang sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ xưa chưa từng có vậy”(việt sử lược T .14). Bao bọc các cung điện là một bức tường thành bảo vệ gọi là Long Thành với 10 vệ cấm quân ngày đêm canh gác.

Ngoài các cung điện, nhà Lý còn xây dựng khá nhiều các đền miếu, chùa tháp, hồ, vườn cảnh để phục vụ cho nhu cầu du ngoạn và tâm linh của hoàng tộc như chùa Vạn Tuế, chùa Hưng Thiên Ngự, chùa Chân Giáo, đền Quán Thánh và hàng loạt lầu các, đài tạ rất đẹp như: đài Chúng Tiên dựng năm 1161 tầng trên lợp ngói vàng, tầng dưới lợp ngói bạc; hồ Kim Minh vạn tuế có cầu Vũ Phợng đi vào núi đá giữa hồ; hồ Thuỵ Thanh, ứng Minh(đào 1051); hồ Phượng Liên (đào 1098), cạnh hồ dựng điện Sùng Uyên, điện Huy Dương, đình Lai Phượng, điện ánh Thiềm, đình át Vân cùng lầu Trường Minh, phía sau bắc cầu Ngoạn Hoa. Nhiều vườn ngự cũng được mở trong khu hoàng thành: vườn Quỳnh Lâm, Thắng cảnh, Xuân Quang, Thợng Lâm. Trong các vườn này còn đào hồ nuôi thả hải sản như đồi mồi cá biển...Tất cả các công trình kiến trúc trong hoàng thành đều xây dựng quy mô tráng lệ, từ lầu son gác tía đến các công trình văn hoá, tôn giáo hoà quyện với thiên nhiên tạo nên dáng vẻ riêng của chốn Cửu trùng.

Khu thứ hai là khu dân sự, quan lại và binh lính ở bao bọc lấy hoàng thành, còn gọi là kinh thành. Khu này chia thành các phường nông nghiệp và thủ công nghiệp. Cả hai khu (Hoàng thành và kinh thành) được bao bọc bằng đê của ba con sông nói trên.

Đời sống kinh tế tại Thăng Long thời gian này đã có nhiều thay đổi. Từ vị trí là một miền dân khang vật thịnh, nên khi trở thành Kinh S dân số Thăng Long ngày càng đông, hoạt động kinh tế của kinh thành ngày càng sầm uất, phồn thịnh hơn trước.

Chỉ trong khoảng hơn một trăm năm sau khi trở thành kinh đô, tại Thăng Long, nhà Lý trong giai đoạn thịnh đạt đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trên quy mô lớn, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt trong lịch sử Việt Nam. Tứ đại khí: chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh chính là đợc thiết kế từ thời kỳ này. Nhà Lý đã trải qua 9 đời ở kinh thành Thăng Long, đổi quốc hiệu là Đại Việt, tồn tại 215 năm.


THĂNG LONG THỜI TRẦN

Nhà Lý chính thức chấm dứt sự thống trị của mình vào ngày mồng 1 tháng Chạp năm ất Dậu (1226), khi Lý Chiêu Hoàng dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ đã xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Nhà Trần thay nhà Lý trên chính trờng chính trị, đồng thời cũng thay nhà Lý mở ra một thời kỳ mới phát triển cao hơn của xã hội Đại Việt: vững vàng, năng động, thống nhất và ổn định cho đến giữa thế kỷ XV.

Thăng Long thời Trần vẫn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá lớn nhất của Đại Việt bấy giờ. Cuộc chuyển giao triều chính diễn ra một cách hoà bình đã không làm cho Thăng Long thay đổi nhiều. Về kiến trúc vẫn như thời Lý, nhiều cung điện trong Hoàng thành và Cấm thành vẫn giữ nguyên. Nhà Trần ngoài việc trùng tu các công trình cũ còn xây dựng một số công trình kiến trúc mới ở Thăng Long: lập Viện quốc học, Giảng võ đờng... Kinh thành chia làm 61 phờng, bao gồm cả phờng buôn, phờng thợ và phường làm nông nghiệp. Một số tên phường trong thời kỳ này còn thấy lác đác ghi trong sử sách cũ như: Thái Hoà, Báo Thiên, Phủng Nhật, Cơ Xá, Bố Cái, Hạc Kiều, Thịnh Quang, Toán Viên...

Việc buôn bán giữa Thăng Long và các địa phương đã bắt đầu phát triển. Sông Tô Lịch thành nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền. Khách buôn từ khắp nơi đều theo sông Hồng, qua cửa Hà Khẩu vào sông Tô để đa hàng vào kinh thành. Sự kiện năm 1400 khi Hồ Quý Ly đánh thuế thuyền buôn đã chứng tỏ hình thức buôn bán bằng đường thuỷ ở Thăng Long thời gian này khá hưng thịnh.

Sự kiện năm 1282 vua Trần Thánh Tôn đi xe từ kinh thành đến Bình Than (Chí Linh-Hải Hng) để hội chư quân cho phép chúng ta khẳng định tuyến đường bộ thời ấy đã tương đối rộng rãi và thông thương thuận tiện. Đây chính là những tiền đề cần thiết cho các hoạt động kinh tế và thơng mại của Thăng Long thời Trần được đẩy lên một diện mạo mới.

Cuối thời Trần, Thăng Long đã được sử sách chép với cái tên “Kẻ chợ”. Điều đó cho thấy diện mạo của Thăng Long đương thời đã phần nào mang dáng dấp của một thành phố quốc tế: một thành phố nhân ái, là nơi giao lưu và hội tụ của nhiều yếu tố kinh tế, văn hoá và con người; một thành phố thủ công và buôn bán nhỏ của ngời Việt nhưng cũng có các cửa hàng buôn bán lớn của người Hoa, Hồi Hột, Chà Và...; một thành phố đón tiếp các sứ giả Tống, Nguyên, Lào, Chiêm Thành, Gia va, các tăng ni bậc thầy cả ở Trung á, ấn độ và có cả những quần tụ người Chiêm Thành ở miền ven nội; một Thăng Long vừa diễn chèo Việt, tuồng Tầu, và múa điệu ngời Hồ...

Kinh tế công thương nghiệp thành thị sinh ra tầng lớp thị dân và lối sống thị dân. Sử chép: vua Trần Anh Tông (1293 - 1314) thờng “lén đi chơi, cứ đến đêm đi kiệu cùng hơn mời ngời thị vệ, đi khắp kinh thành, đến gà sáng mới về” chứng tỏ Thăng Long ngày ấy đã tơng đối sầm uất và ắt hẳn có nhiều hình thức buôn bán cũng như vui chơi về ban đêm.

Thăng Long đời Trần không chỉ xây dựng và sáng tạo nghệ thuật mà còn đánh giặc và đánh giỏi. Trong vòng 30 năm, ba lần Thăng Long trở thành toà thành vườn không nhà trống, để rồi là mồ chôn quân xâm lược mà dấu vết oai hùng vẫn in dấu vàng son mỗi tên ngời tên đất: Đông Bộ Đầu - dốc Hàng Than; Giang Khẩu - Hàng Buồm... và cuối cùng, “Đằng giang tự cổ huyết do hồng” lại nối tiếp chiến công xa nhấn chìm quân xâm lợc cùng tham vọng bành trướng của chúng. Thăng Long qua ba lần thử lửa vẫn vững vàng xứng đáng là một đô thành anh hùng.

Nhà Trần tồn tại trên mảnh đất kinh kỳ nh vậy 175 năm với 12 đời vua nối nhau trị vì trên đất Thăng Long Kẻ chợ.

THĂNG LONG THỜI LÊ SƠ


Như một quy luật, nhà Trần sau một thời gian hưng thịnh, đã đi vào suy thoái, quý tộc ngoại thích Hồ Quý Ly chiếm ngôi lập ra nhà Hồ (1400 - 1407). Ông xây dựng một đô thành mới ở Thanh Hoá gọi là Tây Đô. Thành Thăng Long, lúc này đổi là Đông Đô rồi Đông Quan lại một lần nữa chứng kiến quân xâm lược ngoại bang giày xéo. Năm 1406, nhà Minh phái 20 vạn quân sang xâm lợc Đại Việt. Cuộc kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo thất bại, thành Đông Quan trở thành nơi chiếm đóng của địch. Đất nước đứng trước thử thách mới của lịch sử để rồi chứng kiến cuộc chiến tranh giữ nước của anh hùng tương ngộ Lê Lợi - Nguyễn Trãi (1418). 10 năm sau ngày phất cờ khởi nghĩa tại núi rừng Lam Sơn, quê hương của người anh hùng Lê Lợi, toàn quân dân Đại Việt đã đại thắng giặc Minh, lập nên một triều đại mới: triều đại nhà Lê.

Ngày 29 tháng 4 năm 1428 (ngày 16 tháng 4 năm Mậu Thân), Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế tại điện Kính Thiên, khôi phục quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô (Thăng Long), mở đầu kỷ Lê Sơ. Năm 1430 đổi Đông Đô làm Đông Kinh, năm 1446 đổi gọi là phủ Trung Đô. Kinh thành nói chung vẫn như thời Lý- Trần- Hồ và mở thêm về phía Đông. Cho đến năm 1459, sau sự biến trong Cấm Thành, Lê Thánh Tôn đã cho dựng lại Hoàng thành rộng dài thêm 8 dặm nữa. Theo bản đồ vẽ năm 1490 thì trong cùng là toà thành hình chữ nhật xây gạch gọi là Cấm Thành. Bên trong có các cung điện, thâm nghiêm nhất là điện Kính Thiên. Bên phải là điện Chí Kính, phía sau là điện Vạn Thọ, đằng trước là điện Thị Triều. Phía ngoài điện Thị Triều là cửa Đoan Môn, hai bên cửa Đoan Môn là hai cửa Đông và Tây Tràng An ăn thông ra phía Tây và Đông Hoàng thành nơi có nhà Thái miếu- nơi thờ tổ tiên nhà vua và Đông cung- nơi Thái tử ở.

Năm 1512 Lê Tương Dực lệnh cho Vũ Như Tô đứng ra trông non xây dựng hơn 100 nóc cung điện có gác và khởi công xây dựng Cửu Trùng Đài. Năm 1514 lại cho mở rộng Hoàng thành mấy nghìn trượng (mỗi trượng 3,6m) bao bọc cả quán Trấn vũ và chùa Kim cổ, tường thành chạy từ phía Đông nam đến Tây bắc, chắn ngang sông Tô. Theo lối vẽ ước lệ của bản đồ thì phỏng đoán rằng mặt phía Đông gần trùng với phố Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da ngày nay. Phía mặt Bắc chạy theo sông Tô, trùng với đường Hoàng Hoa Thám, mặt phía Tây là đường Bưởi. Mặt Nam có thể là một đoạn phố Cầu Giấy chạy sang Kim Mã rồi Sơn Tây, Trần Phú tới Hàng Da. Có thể hiểu đây là khu Hoàng thành với diện tích rộng gấp đôi Hoàng thành thời Lý -Trần.


Khu dân cư chia làm hai huyện: Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường.
Vào thời Lê Sơ, Thăng Long vẫn là nơi tập trung buôn bán lớn nhất của cả nước. Đồng thời cũng là nơi dồn tụ nhiều nghành nghề thủ công cũng như các thợ thủ công giỏi nổi tiếng. Kinh thành được xây dựng lại đàng hoàng hơn, Văn Miếu được mở rộng, Quốc Tử Giám được dựng lại, các hoạt động kinh tế văn hoá, giáo dục, thi cử đều được khôi phục và phát triển, đặc biệt cực thịnh dưới thời vua Lê Thánh Tông. Có thể nói đây là thời kỳ phát triển đỉnh cao của chế độ phong kiến trung ương tập quyền. Đây cũng là thời kỳ ra đời của “Tao Đàn Nguyên Suý” với 28 thành viên được ví như 28 vì tinh tú, trong đó Lê Thánh Tông vượt lên khỏi tầm vóc một nhà chính trị, một nhà vua, ông trở thành một nhà văn hoá lớn có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học dân tộc. Ông đã trở thành gương mặt tiêu biểu của văn học Thăng Long thế kỷ XV.

Nhà Lê Sơ tồn tại 99 năm, tổng cộng 10 đời vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng.


THĂNG LONG THỜI MẠC - LÊ MẠC


Cuối triều Lê bắt đầu từ Lê Uy Mục, chính trường Thăng Long đã diễn ra khá phức tạp. Vua kém tài thiếu đức, bề tôi mưu đoạt vương quyền, lòng người ly tán, chính trị, xã hội khủng hoảng sâu sắc. Tham gia vào sự biến loạn chủ yếu là các gương mặt thuộc tầng lớp vương công, văn võ bá quan, trong đó nổi lên nhân vật Mạc Đăng Dung. Đến thời Cung Hoàng thì uy thế của Mạc Đăng Dung đã bao trùm hết thảy và thu phục được lòng ngời. Sử chép về ông như sau: “Từng bình được nhiều giặc lớn, uy quyền ngày càng thịnh, mà đạo quân nhà vua thì yếu ớt lòng người ai cũng hướng về Đăng Dung” (Lê Quý Đôn - Đại Việt thông sử). Qua hoạt động thực tiễn Mạc Đăng Dung đã tỏ ra vượt trội hơn ngời khác về uy tín và tài năng. Việc phải đến đã đến, Thăng Long một lần nữa chứng kiến chính biến vương triều nhà Lê chuyển qua nhà Mạc (1527).
Tuy nhiên họ Mạc lập ra một triều đại mới trong bối cảnh đã hình thành nhiều thế lực quan liêu có quyền lực quân sự lớn nhỏ cho nên lâm ngay vào tình trạng chiến tranh phân liệt chứ không phải thống nhất xã hội. Với việc phế bỏ nhà Lê, họ Mạc đã mở đầu cục diện phân tranh. Cuộc Phân này trước tiên diễn ra giữa Tây Đô và Thăng Long, hình thành nên cái gọi là Bắc triều (thế lực nhà Mạc) và Nam triều (thế lực nhà Trịnh) để rồi sau đó chuyển sang cục diện Đàng Trong, Đàng Ngoài, tiền đề cho một Hợp lớn hơn 200 năm sau.

Bức tranh Thăng Long thời Mạc khá phức tạp, cung điện kho tàng và các phường phố ở Kinh thành đã nhiều lần bị thiêu đốt, tàn phá. Hoàng thành nhiều năm bị bỏ trống càng trở nên hoang phế điêu tàn. Cuối năm 1585 Mạc Mậu Hợp trở lại Thăng Long cho tu sửa lại Hoàng thành để chống lại cuộc tấn công của họ Trịnh. Lần tu sửa này Hoàng thành đã thu hẹp lại về hai phía Đông và phía Tây, một số cung điện bị bỏ ra ngoài hoàng thành trở nên hoang phế. Tuy vậy Hoàng Thành thời gian này vẫn rộng hơn Hoàng thành thời Lý - Trần và rộng hơn tỉnh thành Hà Nội thời Nguyễn.

Năm 1592, Trịnh Tùng con trai của Trịnh Kiểm đã kéo quân vây đánh Đông Đô, Mạc Mậu Hợp bị giết. Vua Lê Thế Tông được họ Trịnh phò tá trở lại Thăng Long mở đầu thời kỳ mới và duy nhất trong lịch sử Việt Nam vừa có Vua vừa có Chúa mà lịch sử gọi là thời Lê Trung Hưng. Sau khi đuổi được họ Mạc ra khỏi Thăng Long, năm 1593 chúa Trịnh cho sửa sang qua loa lại Hoàng thành để vua Lê ở còn lại tập trung dựng phủ chúa bên ngoài Hoàng thành. Đây mới cơ quan đầu não đích thực của trung ương thời bấy giờ với nhiều công trình kiến trúc xa hoa lộng lẫy: lầu Ngũ Long (phía bờ Đông hồ Gươm), đình Tả Vọng (nay là gò Rùa), cung Thuỵ Khánh (chỗ đảo Ngọc Sơn), Năm 1728 Trịnh Giang còn cho đào hầm ở phía Nam hồ Gươm để dựng cung điện ngầm dới đất gọi là Thưởng Trì cung. Khu văn miếu đợc mở rộng thêm thành một khu học xá lớn nhất trong thời phong kiến bao gồm các điện Đại Thành thờ tiên thánh, nhà giải vũ thờ tiên nho, nhà Thái học trong đó có trường Quốc Tử Giám. Hai phía Đông và Tây nhà Thái Học dựng nhà bia ghi danh tiến sĩ và dựng cả khu nhà 150 gian cho học sinh ở tạo thành một nhà học quy mô chưa từng có trong các thời đại trước. Ngoài ra là hàng loạt các đền chùa có quy mô lớn cũng được dựng lên trong thời gian này như: chùa Trấn quốc, chùa Tiên Tích, đền bà Kiệu....

Mặc dù có nhiều biến động về chính trị, xã hội song đây cũng chính là thời kỳ kinh tế và văn hoá đặc biệt phát triển, hình thành nên những vùng buôn bán khá hưng thịnh. Chợ phát triễn nhiều, buôn bán sầm uất ở kinh kỳ, Kiến An... Tầng lớp thị dân ngày một gia tăng, có một số trở thành chủ xưởng, chủ hiệu giàu có, nhưng đông đảo vẫn là người sản xuất và buôn bán nhỏ. Vì thế Thăng Long không vượt qua đợc mô hình cấu trúc của thành thị trung đại phương Đông để trở thành “thành thị tự do” như ở phơng Tây. Tuy thế trong lĩnh vức văn hoá, giáo dục, đây cũng là thời gian thành Thăng Long chứng kiến sự nở rộ của mặt bằng trí thức. Hàng loạt các tiến sĩ đã thi đỗ, trong đó có một tiến sĩ nữ (Trần Thị Duệ), có người đã trở thành đại trí thức như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan... Cùng với những tên tuổi ngời Thăng Long gốc: Đặng Trần Côn, Bùi Huy Bích, các vị lập nghiệp ở đây như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm đã làm cho văn hoá Thăng Long thêm sáng giá. Đây chính là bước đệm cho sự phục hưng văn hoá ở các thế kỷ sau.

Đặc biệt đến đầu thế kỷ XVII ở Thăng Long ngày xuất hiện nhiều thương điếm của ngời châu Âu như Hà Lan, Anh, đặc biệt là các thuyền nhân ngời Hoa sang cư trú và buôn bán. Tất cả những hoạt động đó đều diễn ra trong một bầu không khí chính trị vần vũ của những cuộc chiến tranh kéo dài giữa hai thế lực: Chúa Trịnh (Đàng Ngoài) và Chúa Nguyễn (Đàng Trong). Cuộc chiến chỉ chấm dứt khi ngời anh hùng áo vải Nguyễn Huệ nổi lên tiêu diệt cả hai thế lực, lập lại trật tự vào năm 1786.


THĂNG LONG THỜI TÂY SƠN

Mùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra Đàng Ngoài lật đổ chế độ chúa Trịnh. Ngày 21 -7 - 1786 quân Tây Sơn đã làm chủ Thăng Long. Nền thống trị của họ Trịnh tồn tại 241 năm (1545 - 1786), trong đó có 194 năm ở Thăng Long bị lật nhào. Bằng chiến công này, quân Tây Sơn đã kiểm soát cả nước, xoá bỏ tình trạng chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài hơn 2 thế kỷ. Chính quyền đợc trao lại cho vua Lê, Nguyễn Huệ về Nam mang theo người con gái Hà thành. Thăng Long tưng bừng chứng kiến một đám cưới chưa từng có trong lịch sử của công chúa Ngọc Hân và ngời anh hùng áo vải.

Lê Chiêu Thống không điều hành được chính sự, các cánh quân phiệt nổi lên tranh giành quyền bính, nguyễn Huệ đã phải 2 lần đưa quân ra dẹp loạn. Cuối năm 1788, Chiêu Thống trốn khỏi Thăng Long, cho người sang cầu cứu nhà Thanh. Ngày 16/12/1788, 29 vạn quân Thanh hùng hổ tiến vào Đại Việt. Nguyễn Huệ lúc đó đang ở Phú Xuân nghe tin cấp báo lập tức thần tốc xuất quân tiến ra Bắc hà. Trên đường tiến quân, để sáng tỏ danh nghĩa với cả nước và quy tụ nhân tâm, Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng đế, đặt hiệu Quang Trung.

Với tài dùng binh xuất sắc, kết hợp phương thức chiến lược thần tốc, táo bạo ngày mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), đội quân bách chiến bách thắng của Hoàng đế Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh. Tiêu biểu là trận Ngọc Hồi - Đống Đa do đích thân Quang Trung trực tiếp chỉ huy tiến vào giải phóng Thăng Long. Tuy nhiên, sau khi quét sạch quân xâm lược nhà Thanh trên đất Bắc hà, vua Quang Trung chỉ để lại một bộ phận quân đội cũng như quan lại để tiếp quản thành Thăng Long còn rút toàn bộ về kinh thành Phú Xuân. Thăng Long lúc đó chỉ còn tồn tại với tư cách là một thủ phủ của xứ Bắc và đợc gọi là Bắc thành mà thôi.

Kể từ triều Tây Sơn, thủ đô của nước ta đặt tại Phú Xuân, nhà Tây Sơn tồn tại đợc 24 năm từ vua Thái Đức đến Cảnh Thịnh.

THĂNG LONG THỜI NGUYỄN


Năm 1802, Nguyễn ánh với sự trợ giúp của Pháp đã tiêu diệt nhà Tây Sơn lên ngôi Hoàng đế, hiệu Gia Long, đóng đô tại Phú Xuân (tức Huế ngày nay). Từ đấy kinh thành Thăng Long cũng như toàn miền Bắc phải chịu một sự chuyển đổi lớn: Từ kinh thành hơn 800 năm trở thành trấn thành rồi tỉnh thành. Sự chuyển đổi này có nhiều lý do: thứ nhất nhà Nguyễn không được lòng nhân sĩ Bắc Hà; thứ hai Phú Xuân (Huế) từng là vùng chịu ảnh hưởng của thế lực nhà Nguyễn trong mấy trăm năm nên đã đi vào nề nếp. Kinh thành đã chuyền làm trấn thành nên tên Thăng Long cũng bị đổi từ nghĩa rồng bay sang thành thịnh vượng.

Để thống trị Bắc kỳ, năm 1805 nhà Nguyễn cho xây lại thành Thăng Long nhỏ hẹp hơn rất nhiều so với Hoàng thành các thời trước. Thành mới xây phỏng theo kiểu thành Vauban của Pháp cuối thế kỷ XVII. Thành hình vuông mỗi bề chừng một cây số, chu vi khoảng 1285 trượng. Tường thành xây bằng gạch hộp, chân thành xây bằng đá xanh, tường cao 1 trượng 1 thước, dày 4 trượng mở ra 5 cửa: Đông- Tây- Bắc- Đông nam và Tây nam, ngoài mỗi cửa có một mảnh thành nhỏ gọi là Dương Mã thành để giữ cửa. Trong thành có nhà Kính Thiên, cột cờ. Trước cột cờ là Hồ Voi, nơi đặt dinh tổng trấn và các Tào thay mặt các Bộ. Có kho, võ miếu, đàn Xã tắc để tế trời đất, nền Tịch điền để làm lễ động thổ hàng năm. Có nhà ngục và nơi pháp trường gọi là Trường hình. Mỗi cửa thành đều có lính đóng, ngoài cửa Nam có Đình Ngang Cấm Chỉ.

Ngoài thành là các doanh trại quân đội sau đó mới đến các phố phờng và khu đồn thuỷ; lập phố Tràng tiền để đúc tiền kẽm, tiền đồng. Tuy gọi là 36 phố phờng nhưng thực chất thì nhiều hơn. Có những phố chuyên phục vụ cho quan lại như phố Hàng Đào bán tơ lụa; phố Mã Vĩ bán mũ áo cho các quan chức và phường chèo; phố Hàng Bài làm hài cho các bà lớn và những người đồng cốt; phố Hàng Bạc bán đồ trang sức; phố Hàng Đàn làm võng kiệu, long đình... Lại có những phố chuyên bán đồ ăn như phố Hàng Mắm, Hàng Gạo, Hàng Hành, Hàng Gà, Hàng Khoai, Hàng Rơi, Hàng Bồ... (đều là những phố nằm trong quận Hoàn Kiếm ngày nay và đợc gọi là khu Phố cổ).

Vòng ngoài của thành Hà Nội có ngoại thành dài 28 dặm 77 trượng 4 thước, chừng 16 cây số; có 16 cửa ô: Kim Liên, An Tự, Thanh Lãng (Thanh nhàn), Nhân Hoà, Tây Long (chỗ Nhà Hát Lớn), Đông An, Mỹ Lộc, Trưừng Thanh, Đông Hà, Phúc Lâm (Hàng Đậu), Thạch Khối, An Tĩnh (Yên Thành), An Hoà (Yên Phụ), Tây Hồ (đờng Bởi), Vạn Bảo (Kim Mã), Thịnh Quang (ô Chợ Dừa). Những cửa ô này chính là nơi thu hút khách thập phương đổ về làm ăn, vì vậy Thăng Long lúc này mặc dù mất đi chức năng là một kinh đô, song lại cực kỳ phát triển về kinh tế hàng hoá. Dân tứ trấn Đông, Nam, Đoài, Bắc đều kéo nhau về Hà Nội làm ăn và tụ tập thành xóm riêng: Phất Lộc, Gia Ngư, Nam Ngư. Những người cùng làng không ở gần nhau thì vẫn có đình chung để hội họp. Dân nghề thì tập họp nhau bằng cách hàng năm tế Tiên sư. Điều đó lý giải tại sao giữa lòng Thủ đô Hà Nội ngày nay vẫn có những ngôi đình: Phù ủng, Lương Ngọc... Các nghề thủ công ở Thăng Long giai đoạn này đã phát đạt đến mức tinh vi như nghề thêu, nghề khảm. Năm 1831, nhà Nguyễn lại loại bỏ chức tổng trấn, chỉ để làm một tỉnh lỵ - tỉnh Hà Nội. Thành bị bạt bớt đi, các công trình văn hoá cũng có những biến đổi: Quốc Tử Giám bị dời vào Huế, nhiều công trình cung điện bị dỡ mang vật liệu vào xây dựng ở Huế, trường thi Hương thành chốn đàn ca giải trí. Một số cửa ô được xây dựng lại trong đó có ô Quan Chưởng (1817). Thăng Long với tư cách một kinh đô thực sự bị loại bỏ trong suốt thời gian 143 năm dưới triều Nguyễn và thời Pháp thuộc, để rồi lại tưng bừng trong tư thế một Thủ đô cách mạng sau này.

THĂNG LONG THỜI PHÁP THUỘC

Sau sự kiện Pháp chiếm 3 tỉnh Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hoà, Định Tường), đầu tháng 11 năm 1873, F.Garnier đem quân tới Hà Nội. 15 ngày sau, sáng ngày 20/11/1873, Y nổ súng. Do triều đình đã chủ hoà nên thành trì không được phòng thủ chắc chắn, thành Hà Nội thất thủ. Nhưng nhân dân Hà Nội đã không chịu khuất phục, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phơng đã anh dũng đứng lên kháng Pháp bảo vệ Hà Nội. Ngày 21/12/1873, quân dân Hà Nội kết hợp với quân Cờ Đen khép chặt vòng vây tiêu diệt Garnier ở trận Cầu Giấy.

Mặc dù tinh thần kháng Pháp anh dũng của nhân dân Hà Nội rất cao, triều đình vẫn không thay đổi ý định cầu hoà. Kết quả là khu Đồn Thuỷ (khu vực Bảo tàng Lịch sử và bệnh viện Hữu Nghị hiện nay) đã bị nhường cho Pháp làm Khu nhượng địa. Henri Riviere được phái đến Hà Nội thay cho Garnier. Tới Hà Nội hắn gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu (tổng đốc Hà Nội bấy giờ) đòi quân dân ta đầu hàng. Mặc dù không được lệnh của triều đình Huế, Hoàng Diệu vẫn lãnh đạo quân dân Hà Nội chiến đấu hết sức anh dũng và tuẫn tiết theo thành. Ngày 19/5/1883 lại một lần nữa quân Pháp bị đại bại tại trận Cầu Giấy. Trong trận này, trung tá hải quân Henri Riviere tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp xâm lược Bắc kỳ cùng một số sĩ quan binh lính khác bị giết tại trận. Trong tình hình ấy, nếu triều đình Huế cho quân viện trợ thì có thể thừa thắng tiêu diệt hết quân Pháp và giải phóng Hà Nội. Nhưng Tự Đức chỉ hy vọng lấy lại Hà Nội bằng con đường hoà hảo đã ký hiệp ước bán nước nhục nhã năm 1884, công nhận sự đô hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam.

Ngay sau khi chiếm Hà Nội, mặc dầu chưa bình định đợc Bắc kỳ thực dân Pháp cũng đã bắt tay vào kiến thiết sơ bộ cơ sở của chúng ở Hà Nội. Năm 1901 chúng xây phủ Thống sứ, nhà bưu điện, kho bạc, nhà đốc lý, nhà kèn ở vườn hoa Pônbe, mở thêm phố Đồng khánh, Gia Long cùng trường đua ngựa...một số nhà máy bia, diêm, dệt, điện và nhà thờ lớn cũng đợc dựng trong thời gian này. Từ năm 1897 bọn thực dân đã ổn định được Bắc kỳ nên số tư bản Pháp sang kinh doanh ngày một nhiều, nhà cửa cùng các công trình phục vụ bọn tư bản cũng vì thế mà tăng lên. Đường phố cũng dần đợc mở mang để phục vụ cho mục đích khai thác và bóc lột của chúng. Đặc biệt sau chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp càng đẩy mạnh việc khai thác ở Đông Dương, bộ mặt Hà Nội cũng có nhiều thay đổi, giai cấp công nhân hình thành, song đây cũng là thời gian mà các hoạt động kháng Pháp ngày càng nở rộ: Đông Kinh Nghĩa Thục (2/1907), liền sau đó là vụ Hà Thành đầu độc (1908). Năm 1919 có cuộc bãi công của một số nhà máy in ở Hà Nội. Từ đó cho đến năm 1929, những cuộc bãi công của công nhân đã nổ ra liên tiếp. Năm 1925, ở Hà Nội lại xảy ra một sự kiện chính trị làm náo động dư luận toàn quốc, gây nên một phong trào đấu tranh chính trị sôi nổi suốt từ Bắc chí Nam, đó là vụ án Phan Bội Châu; Lễ truy điệu Phan Chu Trinh...
Vào thời gian này các cơ sở của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội ra đời tại Hà Nội. Phong trào đấu tranh của công nhân mỗi ngày một dâng cao, dẫn đến việc thành lập chi bộ **** đầu tiên ở Hà Nội (tháng 3/1929) tại số nhà 5D phố Hàm Long. Sau ngày 3/2/1930, ba tổ chức cách mạng của nước ta hợp nhất, lấy tên là Đảng **** Việt Nam. Kể từ đó đến giữa năm 1930, cao trào cách mạng dâng lên ở Hà Nội, phối hợp với phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh tạo thành một khí thế cách mạng vô cùng mạnh mẽ. Trong thời kỳ này, Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học cũng hoạt động khá sôi nổi ở Hà Nội và đã gây nhiều cơ sở trong số các công chức giáo dục. Nhng sau vụ bạo động Yên Bái thất bại (1930), hoạt động của họ lắng hẳn.
Đến năm 1936, chớp thời cơ khi chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp lên cầm quyền, một phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ chống bọn phản động thuộc địa được Đảng phát động trong những năm 1936 - 1939. Đây cũng là thời cơ để Đảng đứng ra tập hợp quần chúng, tạo diễn đàn đấu tranh công khai và gây dựng cơ sở. Ngày 1/5/1938, một cuộc mít tinh khổng lồ kỷ niệm ngày quốc tế lao động đã diễn ra tại Hà Nội trước cửa nhà Đấu Xảo. Đó là cuộc mít tinh lớn nhất kể từ khi Pháp cai trị nước ta, kết hợp với nhiều cuộc mít tinh lớn nhỏ khác thúc đẩy phong trào cách mạng ở Hà Nội thu đợc nhiều kết quả to lớn.

Đây chính là thời kỳ tập dợt và chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa 8-1945.

HÀ NỘI THỜI KHÁNG PHÁP


Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Tuyên ngôn độc lập Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập .

Tháng 9/1940, phát xít Nhật kéo vào Hà Nội. Nhân dân Hà Nội bắt đầu một giai đoạn lịch sử mới: sống và đấu tranh dưới ách thống trị của cả thực dân Pháp lẫn phát xít Nhật. Chúng mở thêm một vài trường cao đẳng để mua chuộc sinh viên. Nhưng tất cả các biện pháp ấy không che lấp được thực tế đời sống ngày càng bị đẩy vào bần cùng của nhân dân ta. Giá sinh hoạt tăng vọt. ở nông thôn, chúng bắt nhổ lúa trồng đay. Thành thị xuất hiện nhiều loại thuế mới. Nhiều đảng phái chính trị thân Nhật xuất hiện ở Hà Nội gây tác động không nhỏ đến tình hình xã hội lúc bấy giờ. Nhưng những luận điệu của chúng cùng bọn thực dân không thể lung lạc được các tầng lớp nhân dân Hà Nội vẫn một lòng hướng về Đảng.

Các tổ chức cách mạng tuy có nhiều thiệt hại nhưng cũng dần phục hồi, đặc biệt là các đoàn thể trong mặt trận Việt minh được tổ chức khắp trong thành phố. Các hoạt động bất hợp tác với Pháp, Nhật liên tục diễn ra dưới nhiều hình thức: bãi công của công nhân, biểu tình phá kho thóc của nông dân..., tự vệ chiến đấu được thành lập, nhiều vụ trừng trị Việt gian của đội danh dự đã gây chấn động trong thành phố. Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp ở Hà Nội, phong trào cách mạng càng sôi sục. Ngày 15/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng đồng minh. Trước tình hình và thời cơ có một không hai ấy, căn cứ vào đường lối của Trung ương Đảng, Thành uỷ Hà Nội đã quyết định thành lập Uỷ ban khởi nghĩa. Trong khoảng hai ngày 17 và 18 tháng 8 hầu hết các cơ sở chính quyền bù nhìn thân Nhật xung quanh Hà Nội bị tê liệt. Ngày 19/8 Uỷ ban khởi nghĩa đã tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại quảng trường Nhà Hát Lớn thành phố, sau đó biến thành cuộc tuần hành thị uy kéo đến chiếm Bắc Bộ phủ, Trại bảo an binh, Sở mật thám...

Sau Hà Nội, Huế và Sài Gòn đã lần lượt nổi dậy. Chỉ trong 10 ngày, chế độ cũ đã bị lật đổ, trật tự mới được thành lập trong toàn quốc. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với nhân dân cả nước và trước thế giới việc thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

Một trang sử mới được mở ra với nước ta, nhưng cách mạng vừa thành công, thì những khó khăn lớn lại ập đến tưởng chừng không vượt nổi đối với Hà Nội. Từ tháng 9/1945 đến tháng 5/1946, 20 vạn quân Tưởng với danh nghĩa tước khí giới quân Nhật đã kéo sang nước ta, kéo bè với bọn Quốc dân Đảng phản động, điên cuồng gây sức ép và phá hoại cách mạng nước ta đang thời kỳ non trẻ.

Nhân dân Hà Nội cùng cả nước đã tỏ rõ tinh thần yêu nước và kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng bằng những hành động cụ thể: đoàn kết thành một khối xung quanh Chủ tịch Hồ Chí Minh, hạn chế sự phá phách của thực dân Pháp, khắc phục nạn đói, nạn dốt và tài chính cạn kiệt... Cách mạng đã vượt qua tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Nhng thực dân Pháp lại gây hấn ở Nam Bộ và nổ súng tiến công Hà Nội. Hồ Chủ Tịch đã ra lời hiệu triệu quốc dân đồng bào đứng lên kháng chiến. Đêm ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sau hai tháng anh dũng chiến đấu quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, Trung đoàn Thủ đô đã hoàn thành nhiệm vụ giam chân địch, tạo điều kiện cho Chính phủ rút lên chiến khu Việt Bắc an toàn. Đêm ngày 17/2/1947, Trung đoàn Thủ đô phá vòng vây của địch, rút quân an toàn ra vùng tự do, cùng quân dân cả nớc tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp.

Sau khi Trung đoàn Thủ đô rút, trong nội thành cơ sở của ta vẫn phát triển mạnh trong các xí nghiệp, khu phố, trờng học và cả các chợ. Đáng chú ý nhất là cuộc đấu tranh bãi khoá của toàn thể học sinh Hà Nội trong một tuần lễ (13/1 đến 20/1/1950) để phản đối thực dân Pháp và bù nhìn tay sai đã giết hại sinh viên Trần Văn Ơn ở Sài Gòn. Phong trào chống bắt lính trong công nhân, thanh niên, học sinh và mọi tầng lớp nhân dân diễn ra sôi nổi dới mọi hình thức: lẩn trốn không trình diện; làm kiến nghị phản đối; bỏ trại tập trung ra vùng tự do; đánh lại chỉ huy. Nhiều chiến công của quân dân Hà Nội trong vùng tạm chiếm đáng ghi nhớ như: trận đánh sân bay Bạch Mai (thiêu huỷ 25 máy bay, đốt 60 vạn lít ét-xăng); đánh sân bay Gia Lâm, tiêu huỷ 18 máy bay và 1 kho xăng (1954).

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, theo hiệp định Giơnevơ, Hà Nội nằm trong khu vực tập kết 80 ngày của địch. Lại một lần nữa đồng bào Thủ đô đã thắng lợi trớc âm mu biến Hà Nội thành một thành phố chết của địch. Máy móc, điện, nớc, tàu xe vẫn đảm bảo lu thông và bắt đầu hoạt động ngay khi bộ đội ta vào tiếp quản.

Ngày 10/10/1954, đoàn quân chiến thắng của Hồ Chủ Tịch bao gồm cả những ngời con của Hà thành lại tng bừng trở về tiếp quản Thủ đô, mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử Hà Nội nói riêng và cả nớc nói chung.

HÀ NỘI THỜI CHỐNG MỸ

Sau khi tiếp quản, Hà Nội bắt tay vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, đồng thời thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của nhân dân Hà Nội là xây dựng Thủ đô thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nớc, là hậu phơng lớn cho công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc. Với tinh thần tự lực cánh sinh, phát huy hết khả năng lao động sáng tạo của quần chúng, chỉ trong 10 năm, thành phố đã trở thành một trung tâm, chính trị và văn hoá quan trọng của cả miền Bắc, bớc đầu đặt nền móng cho một nền công nghiệp với trên 200 xí nghiệp lớn nhỏ.

Để phá hoại công cuộc cách mạng của ta ở miền Bắc và cứu vãn cho những thất bại của ở miền Nam, từ năm 1965, đế quốc Mỹ đã dùng không quân và hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Sau khi đã tiến công nhiều địa điểm thuộc Hòn Gai, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, từ giữa năm 1966, Mỹ thực sự đánh vào Hà Nội, mở đầu một giai đoạn “leo thang” nghiêm trọng, bắn phá miền Bắc Việt Nam. Với âm mưu đưa miền Bắc "trở lại thời kỳ đồ đá", đế quốc Mỹ đã đã đem hàng ngàn tấn bom vào rải thảm Hà Nội, nhiều khu phố, trường học, bệnh viện, khu công nghiệp đã bị bom Mỹ san phẳng, thành phố bị thiệt hại nặng nề. Nhưng toàn quân và dân Hà Nội vẫn kiên cường bất khuất đánh địch quyết liệt để bảo vệ Thủ đô, bảo vệ những thành quả cách mạng và những công trình văn hoá từ nghìn xa để lại, đập tan mọi bước leo thang chiến tranh, bắn rơi 358 máy bay, trong đó có 23 máy bay B52, 2 máy F111. Công tác sơ tán cơ quan, xí nghiệp, ngời già, trẻ em được đẩy mạnh để bảo vệ tài sản và tính mạng của nhà nước và nhân dân. Vừa sản xuất vừa chiến đấu, Hà Nội tiếp tục giữ vững và nêu cao tinh thần quyết thắng lập nhiều chiến công mới. Đó chính là sức mạnh cổ vũ cho tinh thần đấu tranh của đồng bào miền Nam và là sự khẳng định chắc chắn vai trò hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn của miền Bắc, góp phần thúc đẩy cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi vào mùa xuân 1975 lịch sử.

HÀ NỘI NGÀY NAY

Năm 1975 là một mốc lịch sử trọng đại trên tiến trình lịch sử Việt Nam nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng.

Cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá VI (25/4/1976) đã hoàn thành thống nhất hai miền về mặt nhà nước. Hà Nội vẫn là Thủ đô của đất nớc, từ nay mang tên là nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Vượt qua những khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại, Hà Nội phát huy cao nhất những thuận lợi cơ bản: sự thống nhất về chính trị và địa lý giữa hai miền, sự ủng hộ của đồng bào cả nước, huy động tới mức tối đa tiềm lực lao động chân tay, trí óc và sự hợp tác kinh tế của các nớc trên thế giới để khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá.

Sau đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) với đường lối chiến lược đổi mới toàn diện đất nước, đại hội Đảng bộ Hà Nội lần thứ X đã xác định nhiệm vụ đổi mới của Thủ đô và nêu lên những chủ trơng và quyết sách góp phần đa thành phố ngày một tiến lên. Hà Nội đã từng bớc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách khoán hộ nông nghiệp và chế độ hợp tác mới đã khiến bộ mặt nông thôn các vùng ven đô thay đổi theo hướng ngày một ấm no hơn. Quá trình dân chủ hoá xã hội, xây dựng xã hội công dân, nhà nớc pháp quyền đã tạo điều kiện cho việc làm ăn kinh doanh sản xuất ngày một ổn định.

Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống các tệ nạn xã hội đợc tiến hành thường xuyên liên tục và mang lại kết quả khả quan. Việc mở mang đầu t và hợp tác quốc tế cũng nh huy động nội lực trong nhân dân bớc đầu thu đợc những thành tựu. Với vai trò là trung tâm chính trị, văn hoá, khoa học, kinh tế của cả nớc, Hà Nội đã phát huy tiềm năng chất xám, bớc đầu tạo ra những chuyển biến trong các hoạt động kinh tế, văn hoá, văn nghệ, giáo dục và khoa học công nghệ. Ngày nay, Hà Nội đang vững bước tiến lên trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước.

Nguồn :Internet
 

ThangLongVN

New member
Xu
0
Khu phố cổ Hà Nội

Khu phố cổ Hà Nội là khu phố nằm xung quanh Thành cổ Hà Nội và mang đậm nét văn hóa cổ xưa của Hà Nội, Việt Nam. Hà Nội xưa thường được cho là có "36 phố phường", mỗi tên phố thường mang đặc trưng của một ngành nghề thủ công truyền thống.

Theo quyết định số 70 BXD/KT-QH ngày 30 tháng 3 năm 1995 của Bộ Xây dựng, khu Phố cổ Hà nội có phạm vi được xác định: phía Bắc-Phố Hàng Đậu; phía Tây-Phố Phùng Hưng; phía Nam-Các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng; phía Đông-các phố Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật.

Như vậy, khu phố cổ Hà Nội thuộc địa bàn quận Hoàn Kiếm, có 76 tuyến phố thuộc 10 phường, tổng diện tích quy hoạch khu phố cổ khoảng 100 ha: Phường Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa Đông, Lý Thái Tổ.

Phạm vị nghiên cứu quy hoạch được phân chia hai khu vực bảo vệ, tôn tạo đặc trưng như sau:

1. Khu vực bảo vệ, tôn tạo cấp 1: Được giới hạn bởi các phố Hàng Chiếu, Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Bạc, Hàng Mắm và Trần Nhật Duật (diện tích khoảng 19 ha).
2. Khu vực bảo vệ, tôn tạo cấp 2: Bao gồm phần còn lại trong ranh giới khu Phố Cổ.

Kiến trúc cổ của khu phố này là các ngôi nhà nhỏ bé với mái tranh hay mái ngói, thường có sân chung, lô nhô nối tiếp nhau từ dãy phố này đến dãy phố khác. Khu phố này cũng đã từng là đề tài của nhiều văn nghệ sĩ làm nên những giá trị văn hóa ngày nay của Hà Nội. Ngày nay nhiều khu phố đã xuống cấp, phải trùng tu để nâng cấp lại.

Khu phố cổ cũng là nơi buôn bán sầm uất nhất Hà Nội và là nơi có nhiều khách du lịch đến thăm.

Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm có ghi lại ca dao về 36 sáu phố ở Hà Nội như sau:

Rủ nhau chơi khắp Long thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai:
Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,
Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay,
Mã Vĩ, hàng Điếu, hàng Giầy
Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn,
Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Ngang,
Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Than, hàng Đồng,
Hàng Muối, hàng Nón, cầu Đông,
Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè,
Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,
Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà,
Quanh đi đến phố hàng Da,
Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh.
Phồn hoa thứ nhất Long thành,
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ.
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ,
Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền.
 

ThangLongVN

New member
Xu
0
Làng trong phố Hà Nội


Có người viết đâu đó rằng, Hà Nội là một cái làng to nhất thế giới để ngụ ý cái chất “nhà quê”, những bất cập trong quản lý đô thị và nếp sống một thành phố đang hiện đại hoá từng ngày như Hà Nội. Thật ra câu nhận xét ấy có đúng ở mặt nào đó. Hà Nội và có lẽ nhiều thành phố, thị xã của nước ta đều hình thành từ những ngôi làng.

Hà Nội ngày nay đang ào ạt đô thị hóa, cũng lặp lại quá trình “làng hóa phố” ngàn xưa.

Từng ngày một, thủ đô giang rộng vòng tay và ôm trọn những ngôi làng ven đô. Những cái tên quen thuộc như làng Vòng, làng Mọc, làng Lủ hay Xuân Đỉnh, Xuân La, Tứ Liên, Triều Khúc v.v. mới đây còn là những ngôi làng Việt thuần tuý nay đã thành quận huyện chỉ trong một vài năm, chóng vánh đến chóng mặt.

Hãy quan sát làng Triều Khúc, trước thuộc Hà Đông, nay được đưa vào địa giới Hà Nội. Làng có lũy tre, dưới chân lũy tre là hàng dãy ao chuôm (có tác dụng tiêu nước và bảo vệ chống giặc giã, trộm cướp).

Có đình làng bề thế, có chùa và đền thờ mẫu. Người trong làng ngoại ô này làm đủ thứ nghề. Trước hết là nghề nông: cấy lúa, trồng rau, thả cá. Và cùng với nghề nông, hầu như nhà nào cũng làm nghề chè chai đồng nát (ve chai)...

Rồi cơn sốt đất lên cao, nông dân Triều Khúc giàu lên nhanh chóng. Dân số tăng gấp rưỡi, gấp đôi trong thời gian ngắn kỷ lục. Người Triều Khúc bán đất cho khách Hà Nội dãn ra, cho người ngoại tỉnh tràn về thủ đô mua đất mua nhà cho con cái ăn học.

Các gia đình nông dân bị người thành phố mua đất xây nhà chen vào giữa, chẳng những làm thay đổi không gian mà còn làm đảo lộn cả nếp sống. Từ đó hình thành một thứ văn hóa “nửa phố nửa làng”.

Đã ba bốn năm đô thị hóa trôi qua nhưng dân Triều Khúc vẫn như xưa, trong tiềm thức văn hóa không có gì đổi khác tuy họ giàu có lên rất nhanh. Nhìn bề ngoài thì không thể nhận ra đây là ngôi làng cổ của ngoại ô thị xã Hà Đông nữa.

Nhưng bên trong, dân làng vẫn giữ nguyên hội làng, giữ nguyên những tập tục, đóng góp như trước đây. Thanh niên nam nữ mặc áo phông quần bò, quần trễ rốn áo hở ngực đi lễ chùa cho vừa lòng bố mẹ rồi lên A còng, Dylan hay Future vào Hà Nội bát phố.

Một số khác thì sà vào quán internet ADSL hẳn hoi chat hoặc chơi game đến tận sáng. Những quán internet này nhan nhản khắp đường cùng ngõ hẻm trong làng.

Làng Vòng gần trung tâm hơn nên bị đô thị nuốt chửng hoàn toàn trong vòng một hai năm, nay thành phường Khương Đình thuộc quận Thanh Xuân.

Làng có ngôi đình nổi tiếng có từ đời Lý, thờ vị thành hoàng là một danh tướng. Vào dịp 12 tháng Giêng hội làng, những thanh niên mô-đần cắt tóc đầu đinh hay đuôi vịt vẫn mặc vào tấm áo thụng, quần lụa vàng, đội mâm lễ vật lên đình trẩy hội.

Rằm mồng một đình vẫn đông nghịt người là người. Làng Lủ nổi tiếng vì có nhà thờ danh nhân Nguyễn Văn Siêu có chùa Đại Kim với sư sãi đông đúc như trước đây.

Khách lễ chùa nay đông lên gấp bội vì làng đã dung nạp thêm rất nhiều người từ trung tâm thủ đô về hay ngoại tỉnh đến. Cổng làng vẫn còn nguyên, hàng năm được quét vôi, tô lại đại tự...

Tất cả những quan sát và chiêm nghiệm điền dã ấy cho ta thấy làng ở đồng bằng Bắc Bộ là một thực thể văn hoá bền vững lạ lùng. Đô thị hoá được nông dân chấp nhận một cách thuận lợi vì nhờ vậy họ giàu có lên khi đất lên giá hàng chục, thậm chí hàng trăm lần.

Nhưng người nông dân nay đã thành dân Hà Nội vẫn coi mình là nông dân dù họ đã thành công chức, công nhân hay người buôn bán nhỏ.

Mừng vì bản sắc văn hóa không bị mai một hay lai căng nhanh chóng như người ta sợ. Nhưng trong cái phúc ấy cũng có cái họa gần kề. Chính từ cái gốc nông dân bền chặt ấy đi lên, trở thành người thủ đô sau một đêm thức dậy, họ cũng mang theo mình góp vào thủ đô hiện đại cái bản sắc nông dân của mình.

Và như thế chắc sẽ không tránh khỏi chuyện làm chậm lại, thậm chí kìm hãm một nếp sống, một thứ văn hóa hiện đại mà bất kỳ thành phố lớn nào, bất kỳ thủ đô nào cũng cần có, cũng phải xây dựng công phu mới có được.

Nhưng chúng ta không bi quan. Một kiến trúc sư Pháp kiêm nhiếp ảnh gia đã làm ấm lòng ta vì khi đọc ông, ta biết được Hà Nội dưới con mắt nhìn của người nước ngoài như người Pháp chẳng hạn có những giá trị thật độc đáo:

“Hà Nội nhắc nhở chúng ta rằng sự vĩnh cửu dựa trên những cái nhất thời, rằng tâm hồn được thể hiện rõ nét nhất thông qua những phương tiện thường nhật, giản dị. Chúng ta có bao giờ để ý rằng giá trị của thành phố này một phần là nhờ vào hằng hà sa số xe đạp và xe máy?

Chỉ cần nhảy lên lưng một trong những con ngựa sắt trung thành đó và đắm mình dưới những vòm lá, những mùi hương, chúng ta có thể dễ dàng đi đến mọi ngóc ngách của thành phố, làm một vòng quanh Hồ Tây, khám phá những điều mới lạ, ở dưới những tán cây phượng vĩ và những hàng me chạy dọc theo vỉa hè, mùi khói cay cay của thịt bò khô và mực khô nướng phả vào mặt cùng với hương vị dễ chịu của quế, hồi, nghệ, gừng, đậu khấu.

Đây là những hương vị thường trực trong khu phố cổ, hương vị tỏa ra từ những ấm thuốc bắc từ bao đời nay. Những hàng xe cộ dày đặc đan xen nhau trong bụi bặm, giống như những đàn cá khổng lồ đoàn kết chặt chẽ với nhau, cũng không làm chúng ta quên được trong dòng người đi bộ bóng một phụ nữ bán hàng rong, hàng ngàn năm qua vẫn đội chiếc nón trắng, từ sáng sớm tới tối mịt, vẫn với gánh hàng trên vai, nhịp nhàng theo bước chân đi. (Dominique Delaunay – Hà Nội – NXB KHKT )

Phải chăng những nét đáng yêu Hà Nội ấy là từ những “làng trong phố”? Phải chăng Hà Nội quyến rũ khách phương xa, đặc biệt là người Pháp, vì Hà Nội có hương vị riêng phảng phất từ những ngôi làng xa xưa, một đặc điểm rất Việt Nam?


Nguồn :Internet
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top