Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
VỢ CHỒNG A PHỦ CỦA TÔ HOÀI
NGUYỄN VĂN LONG
Năm 1952 Tô Hoài đi với bộ đội trong chiến dịch giải phóng Tây Bắc. Trong đợt công tác 8 tháng ấy, nhà văn đã sống với nhân dân nhân nhiều dân tộc ở những khu căn cứ du kích và những vùng bị địch chiếm đóng trước đây. Tô Hoài thuật lại: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù!” (trở lại! Trở lại!).Không bao giờ tôi quên được vợ chồng Lý Nủ Chu tiễn chúng tôi dưới chân núi Cao Phạ cũng vẫy tay kêu: “Chéo lù! Chéo lù!”. Hai tiếng “Trở lại! Trở lại!” chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại, phải đem trả lại cho những người thương ấy của tôi một kỉ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiện lại cả cuộc đời người Hmông trung thực, chí tình, dù gian nan đến thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại.(…). Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi (…) ý thức thiết tha với đề tài là một lẽ quyết định, vì thế tôi viết Truyện Tây Bắc.
Đoạn tự thuật trên đây đã nói khá rõ về hoàn cảnh và nhiệt tình thúc đẩy tác giả sáng tác Truyện Tây Bắc. Truyện Tây Bắc viết năm 1953, gồm ba truyện mà Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất (hai truyện kia là Cứu Đất Cứu Mường và Mường Giơn). Tác phẩm được tặng giải nhất giải thưởng văn học của Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955.
I – CỐT TRUYỆN VÀ CHỦ ĐỀ VỢ CHỒNG A PHỦ
1. Cốt truyện
Dựa vào một câu chuyện có thật, Tô Hoài viết truyện Vợ chồng A Phủ.
Truyện ngắn này kể lại cuộc đời của đôi vợ chồng người Hmông – Mị và A Phủ – từ chỗ là kẻ nô lệ đau khổ trong nhà tên thống lý Pá Tra, rồi giúp nhau thoát được, đến khi gặp cán bộ cách mạng trở thành những quần chúng trung kiên, những đội viên du kích tích cực.
Cốt truyện của tác phẩm khá đơn giản, bám sát theo diễn biến của cuộc đời hai nhân vật chính và được trình bày theo trình tự thời gian. Có thể thấy hai chặng của câu chuyện diễn ra ở hai địa điểm Hồng Ngài và Phiềng Sa. Đọan một là thời gian Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Đọan này có thể xem là một tình tiết khá trọn vẹn, có giới thiệu, mở mối, phát triển, thắt nút và giải quyết. Hai nhân vật chính được giới thiệu lai lịch, dung mạo, rồi cùng sống trong một hòan cảnh và dẫn tới sự thông cảm, gặp gỡ giữa họ. Mâu thuẫn giữa A Phủ và Mị với bố con Pá Tra – đại diện cho thế lực phong kiến ở miền núi – đã phát triễn đến gay gắt, đưa tới hành động đấu tranh tự phát để giải thoát của Mị và A Phủ: cắt dây trói, trốn đi. Đoạn đầu là quãng đường đấu tranh tự phát của họ.
Đọan thứ hai là quãng thời gian Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã thành vợ chồng. Họ mong muốn và bắt tay vào xây dựng một cuộc sống hạnh phúc đơn sơ nhưng lại bị bọn Tây ở đồn Bản Pe cướp phá. Từ đây bắt đầu một quá trình giác ngộ của vợ chồng A Phủ, qua hai buớc: gặp Tây đồn và gặp cán bộ A Châu. Những ngộ nhận được gải quyết và hình thành ở họ nhận thức đúng đắn về bạn và thù. Họ còn được thử thách và trưởng thành trong cuộc chiến đấu chống giặc lên càn quét khu du kích Phiềng Sa. Đoạn thứ hai là quá trình giác ngộ và trưởng thành của Mị và A Phủ dưới ánh sáng của Đảng, trong hoàn cảnh khu du kích Phiềng Sa.
Tác giả đã dùng một lối kể chuyện mạch lạc, khá đơn giản, nhân vật cũng phân ra hai tuyến đối lập rõ rệt, do đó mà truyện ít nhiều gần gũi với truyện dân gian. Chính cách kể chuyện này đã phù hợp với nội dung và nhân vật trong truyện, góp phần tạo nên sự thống nhất thẫm mỹ của hình thức với nội dung tác phẩm.
Cốt truyện có hai phần như vậy được diễn biến khá tự nhiên: nhưng nó cũng bộc lộ được nhược điểm: chưa làm rõ sự câu kết giữa hai thế lực phong kiến và đế quốc, nên hai vấn đề chống đế quốc và phong kiến chưa thật gắn bó nhuần nhuyễn, hai chặng đường của các nhân vật chính cũng còn tách rời. Chưa kể một nhược điểm nữa ở đoạn hai, là đời sống tâm hồn của nhân vật, nhất là Mị – ít được soi sáng, diễn tả, nên nhân vật cũng giảm sức thu hút với người đọc.
2. Chủ đề
Con đường đi và số phận của hai người thanh niên Hmông – Mị và A Phủ – khá tiêu biểu cho vận mệnh lịch sử của nhân dân các dân tộc thiểu số miền núi trong cách mạng. Đấy là con đường từ tự phát đến tự giác đấu tranh chống đế quốc và phong kiến, từ trong đau khổ tăm tối vươn ra ánh sáng, dưới sự dìu dắt của cán bộ Đảng. Trong quá trình ấy, những người nông dân lao động nghèo khổ ở miền núi đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp và trở thành người quần chúng cách mạng, những con người mới.
Có thể xem nhận định trên là chủ đề truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Cùng với hai truyện nữa trong tập Truyện Tây Bắc, Vợ chồng A Phủ là tác phẩm thành công xuất sắc đầu tiên về đề tài miền núi trong nền văn xuôi cách mạng hiện đại. Có thể nói Tô Hoài đã góp phần đổi mới đề tài miền núi trong nền văn học ta từ trước cho đến lúc đó. Với Truyện Tây Bắc, hình ảnh chân thực của các dân tộc miền núi trong quá trình phát triển cách mạng đã được phản ánh vào văn học, với hai vấn đề cơ bản là đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
Ở truyện Vợ chồng A Phủ, trong khi tập trung diễn tả quá trình đến với cách mạng của nhận vật, tác giả cũng đồng thời đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa trong cuộc sống của nhân dân miền núi: vấn đề giải phóng phụ nữ – vấn đề tình yêu và hạnh phúc của thanh niên… Những vấn đề ấy làm sâu sắc và phong phú hơn ý trung tâm của tác phẩm.
II – PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH [1]
Đoạn trích giảng là phần đầu của truyện, kể về lai lịch cô Mị, cuộc sống đau khổ của Mị trong nhà Pá Tra và sức trỗi dậy mãnh liệt của lòng yêu đời, ham sống ở cô, trong một ngày xuân.
1. Cô Mị và cuộc đời làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra
Mị xuất hiện ngay trong câu đầu của truyện. Giữa khung cảnh tấp nập, giàu có của nhà Pá Tra “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” [2], người đọc không thể không chú ý đến vị trí xuất hiện của Mị: “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Một vị trí có rất nhiều ngụ ý, chẳng phải thế sao, khi cô Mị được đặt ngang với những tảng đá và cái tàu ngựa? Cô Mị lại thường xuyên xuất hiện ở vị trí ấy, như gắn vào những vật kia, tạo nên một mảng sống riêng, cái mảng sống im lìm, tăm tối, cực nhọc nó phơi bày ra cạnh cái giàu sang, tấp nập của nhà quan thống lý, nhưng chính nó cũng là một phần của hình ảnh trọn vẹn về nhà thống lý Pá Tra. Thêm một nét phác về chân dung nhân vật gợi cho người đọc những băn khoăn chờ đợi sự lí giải của tác giả: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi“.
Như thế là, chỉ trong mấy câu mở đầu, tác giả đã làm được rất khéo việc giới thiệu nhân vật và hoàn cảnh.
Như để trả lời cho những băn khoăn ở trên, tác giả kể lại câu chuyện cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra.
Mị vốn là một cô gái nhà nghèo, trẻ, đẹp và nhất là Mị rất giàu lòng yêu đời, ham sống, lại thêm tài thổi sáo nữa. Đấy là một cô gái chăm làm (“Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm ngô trả nợ cho bố” – lời Mị nói với bố). Mị cũng thật là một đứa con hiếu thảo (khi bị ép về nhà Pá Tra, Mị muốn quyên sinh, nhưng nghĩ đến bố sẽ khổ hơn, nên không đành lòng chết nữa). Tóm lại, đấy là một cô gái rất xứng đáng để hưởng hạnh phúc và đang sống những ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, dù trong cảnh nghèo khó. Mùa xuân đến, Mị sống những giờ phút hồi hộp sung sướng chờ nghe những tiếng sáo quen thuộc của ngừơi yêu; và không ít những chàng trai Hmông đã say mê cô gái con nhà nghèo ấy: “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”.
Thế nhưng chính trong một đêm xuân như thế, Mị đã bị ép về làm con dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra. Do đâu? Chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị: Bố mẹ Mị ngày trước lấy nhau, không có tiền cưới, phải đến vay của bố thống lý Pá Tra. “…mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng già rồi mà vẫn chưa trả được nợ. Người vợ chết cũng chưa trả hết nợ”. Mị mang món nợ ấy như một thứ “tội tổ tông” của người nghèo, từ lúc sinh ra đời! Tô Hoài đã tố cáo một hình thức bóc lột của bọn phong kiến ở miền xuôi cũng như miền núi: hình thức cho vay nặng lãi, nó đã buộc chặt bao nhiêu người lao động nghèo khó vào số phận nô lệ, phụ thuộc bọn thống trị giàu có.
Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị – bằng lòng yêu tự do và ham sống mạnh mẽ – đã phản kháng quyết liệt. Hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị quyết tự tử. Nàng Kiều của Nguyễn Du khi bị dấn thân vào cuộc đời ô nhục, đã hơn một lần nghĩ đến quyên sinh mà cũng không thóat được kiếp đọa đày đến mười lăm năm! Cô Mị ở đây còn gặp tình cảnh chua xót hơn: cô có chết thì món nợ vẫn còn, bố già còn khổ hơn nữa! Thế là Mị không đành chết. Mị phải chịu đựng cuộc sống nô lệ.
Những năm tháng trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài những cực nhọc, vất vả nối tiếp nhau, là những sự bóc lột và hành hạ của bọn chủ nô với kẻ nô lệ mà Mị phải chịu đựng: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau tiếp nhau vẽ ra trước mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại… Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm cả ngày”. Thêm vào sự đày đọa về thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần. Mị bị ràng buộc trong một ý nghĩ: bố con Pá Tra đã “trình ma” mình là người nhà nó rồi, thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín, thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị, nó là một thứ “thuớc phiện của tinh thần” đối với người dân bị áp bức, như Mác đã nói.
Trong đoạn kể về cuộc đời làm dâu của Mị, Tô Hoài đã không chỉ đứng ở chỗ tố cáo những sự áp bức bóc lột của bọn phong kiến miền núi, mà còn nói lên một sự thật đau xót này: con ngừơi bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến một lúc nào đó thì dường như bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. Cô Mị chính là nạn nhân như thế: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu , mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi cái tàu ngựa nhà này đến cái tàu ngựa nhà khác, con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Và chân dung Mị cũng được khắc đậm một nét này: “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa”, “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị sống như một cái bóng, sống mà như chết. Suốt trong phần đầu của truyện, Tô Hoài gần như không để nhân vật Mị có một lời nói trực tiếp nào (trừ một câu nói với bố, trong đoạn hồi tưởng quá khứ). Chi tiết về căn buồng Mị nằm, âm u, chạng vạng với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay đã là một biểu tượng đậm nét cho cuộc đời nhân vật. Cái cửa sổ “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình đành ngồi trong cái lỗi vuông ấy mà trông ra cho đến chết thì thôi”. Thậm chí Mị cũng không buồn nghĩ đến cái chết nữa: “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Khi một nạn nhân đau khổ còn nghĩ đến cái chết để chấm dứt hoàn cảnh sống bi kịch của mình, thì phải chăng trong họ còn một chút sức phản kháng, còn tha thiết một cuộc sống có ý nghĩa hơn. Nhưng Mị lúc này dường như đã phó mặc cuộc sống của mình cho định mệnh, không nghĩ gì về thân phận của mình nữa, thậm chí cũng không có ý thức về thời gian sống nữa. Cô không nhớ rằng mình về làm dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Và ngồi trong căn buồng âm u nhìn qua cửa sổ, Mị không biết cái màu nhờ nhờ trăng trắng ngòai kia là sương hay là nắng. Với Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối hay là năm tháng qua đi cũng không có ý nghĩa gì, không gợi cho cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ còn là một màn sương mờ đục không dĩ vãng, không hiện tại và tương lai!
Tất cả tình trạng đó là hậu quả của sự đọa đày dai dẳng, nặng nề của ách thống trị phong kiến trung cổ đối với những người lao động bị đẩy vào thân phận nô lệ. Ngòi bút của Tô Hòai có sức tố cáo mạnh mẽ. Mặt khác chính sự đè nén càng phũ phàng tàn bạo, thì sự trỗi dậy ở phần sau của nhân vật càng có giá trị.
Trong phần đầu của tác phẩm, cuộc sống của Mị như bị giam hãm trong cái không gian chật hẹp và tù đọng của nhà Pá Tra với một nhịp điệu buồn tẻ, đơn điệu của những công việc lao dịch lặp đi lặp lại “… lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại”; cuộc sống ấy diễn ra trong một thời gian cũng như ngưng đọng với một ánh sáng mờ mờ đùng đục, cái sắc màu của những hoàng hôn dài đằng đẵng, buồn tẻ đến tê tái mà ta thường gặp trong văn học xưa.
2 . Sự “trỗi dậy” mãnh liệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc.
Phải chăng trong tâm hồn Mị đã hòan tòan nguội lạnh? Cô Mị một thời trẻ đẹp, yêu đời nay đã hoàn toàn an phận trong cuộc sống nô lệ, sống mà như chết ấy? Không, ngòi bút của nhà văn không chỉ hướng vào cái ảm đạm, mặt đen tối của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng, để khơi gợi nó lên. Tô Hoài đã tìm sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật, cho thấy vẫn còn le lói chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống, của khao khát hạnh phúc. Như dưới lớp tro dày nguội lạnh kia vẫn ủ chút than hồng, chỉ chờ một ngọn gió thổi đến là lại bùng lên. Trong truyện Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao còn khơi bùng lên những khát vọng hạnh phúc và lương thiện ở Chí Phèo, một kẻ đã tưởng như không còn đời sống tâm linh con người với một hình hài không phải là nhận dạng nữa! Tô Hoài cũng góp thêm vào truyền thống nhân đạo của văn học ta một tiếng nói có sức mạnh.
Trong đoạn văn này, tác giả đã dõi theo từng bước biến diễn, phát triển của đời sống tâm hồn nhân vật, được đặt trong một hoàn cảnh khá “điển hình” là mùa xuân về trên vùng núi cao. Dầu còn trong nghèo khó, mùa xuân về cũng khơi gợi ở người dân miền núi một niềm vui sống. Người Hmông ở Hồng Ngài ăn Tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu họach mùa màng. Cái Tết năm ấy đến giữa lúv gió và rét dữ dội, nhưng vẫn không ngăn được những sắc màu của mùa xuân. “những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòa như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi sang màu tím man mát”. Và còn những âm thanh rộn rã báo hiệu mùa xuân: “đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Sự sống của tạo vật và con người như được khởi động, bừng tỉnh (Ai đã đi qua Tây Bắc cũng khó mà quên được những miền núi cao với những đồi cỏ tranh vàng nhạt, những ngàn lau xam xám điểm vào cái trập trùng của núi đá xanh mờ, đi hàng buổi đường vẫn khao khát một bóng người, một xóm núi… Cái Tây Bắc vắng lặng ấy khi mùa xuân đến bỗng trào lên sức sống. Đấy là rừng ban trắng ngút ngàn như lẫn vào trong mây núi, là những đốm lửa đốt trên nương, và nhất là những sắc màu sặc sỡ vui mắt của váy áo, dù, ô của từng tốp nam nữ thanh niên Hmông đi chơi xuân, dập dìu trong tiếng sáo tiếng khèn…).
Hoàn cảnh ấy không thể không tác động vào tâm hồn Mị. Nhất là tiếng sáo, tiếng sáo rủ bạn đi chơi ngòai đầu núi. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Trong đoạn tả diễn biến tâm trạng của Mị, tiếng sáo đã có một vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì “ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”. Như thế, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng hạnh phúc.
Thời khắc để ngọn lửa sống trong lòng Mị bùng lên đã đến, đấy là một “đêm tình mùa xuân”. Và chúng ta cũng hồi hộp theo ngọn đèn của tác giả “từng bước rọi sâu vào miền thâm u của thế giới nội tâm nhân vật”. Tiếng sáo, tiếng khèn và tiếng reo hò của đám trai gái và trẻ con tụ tập ở sân chơi đầu làng vẳng lại. “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Cái nồng nàn của một đêm xuân lại được tăng thêm bởi bữa cơm rượu ngày tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ỹ và đámngười nhảy đồng, người hát… “Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say…”. Chính trongh một tình trạng đã được kích động bởi men rượu, bởi những âm thanh náo nhiệt của ngày tết, Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay của mình, mà dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những kỉ niệm đẹp ngày trước , những ngày hạnh phúc của tuổi trẻ, với những bữa rượu bên bếp lửa ấm cúng, với những tiếng sáo dặt dìu của bao nhiêu trai làng ngày đêm theo Mị …
Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phí thời gian”, sống mà như chết, lâu nay. Tiến thêm một bước nữa. Mị trở lại với những niềm vui sống, trong chốc lát. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước, Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Lòng ham sống đã trỗi dậy. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén bỗng bồng bột trào lên, không thể dập tắt được nữa! Phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí Mị là một ý nghĩ “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa…”. Ý nghĩ về cái chết lúc này là biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh, nó chứng tỏ rằng Mị đã ý thức trở lại tình cảnh đau xót dai dẳng của mình.
Trong khi ấy thì tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ. Nó là biểu tượng của sự sống, tình yêu, tự do, mà bấy lâu nay Mị dường như đã quên rồi, nay đang trở lại. Tiếng sáo theo sát từng bước diễn biến tâm trạng nhân vật, nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài nhân vật (“tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngòai đường”), đã xâm nhập thế giới tâm hồn Mị, trở thành một hiện hữu của đời sống bên trong (“trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”).
Sức sống trỗi dậy như những đợt sóng ào ạt trong tâm hồn Mị, đợt sau lại mạnh mẽ hơn đợt trước. Đến đây đã xảy ra bước phát triển quyết định: từ những sôi sục trong tâm trí nó bùng ra thành hành động. Mà đầu tiên là một hành động có nhiều ý nghĩa: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Có thể xem đấy là một hành động thức tỉnh. Nó có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn soi rọi vào cuộc sống của mình, để thóat ra khỏi những đêm dài tăm tối triền miên của quá khứ. Và hành động này thúc đẩy hành động khác tiếp theo, như một “phản ứng dây chuyền” không thể ngăn lại được nữa. Dường như không kể gì đến những ràng buộc khe khắt, những xiềng xích tàn bạo của nhà Pá Tra, Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút cái váy hoa…, sử soạn đi chơi Tết.
Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt nhất, thì cũng là lúc nó bị dập xuống phũ phàng nhất. A Sử bước vào, thản nhiên,lầm lỳ trói đứng Mị vào cột nhà. “Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn tóc lên cột… Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo, rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa lại”. Trong cái kỹ càng, rành rẽ của từng động tác của A Sử ta thấy toát lên sự tàn ác đến thản nhiên của một kẻ đã không còn chút gợn nào của lương tri nữa.
Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn sống trong tâm trạng say mê với tiếng sáo, với những đám chơi Tết ngoài kia. “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Mị như quên mình là đang bị trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút niềm khát khao cuộc sống mãnh liệt. Mị đã vùng bước đi!” Nhưng thực tế phũ phàng là những vòng dây trói đang thít chặt, dẫu ước mong mãnh liệt đến mấy, Mị không vượt qua nó được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược – tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan!
“Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thực tại phũ phàng đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không thể giải thóat khỏi tình cảnh bị giam hãm đày đọa, không thể giải phóng thực sự cho những ước vọng hạnh phúc.
Trong đoạn văn chúng ta vừa phân tích ở trên. Tô Hoài đã đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh thật căng thẳng, làm bộc lộ những động lực tiềm ẩn sâu xa trong đời sống tâm hồn nhân vật, với một diễn biến, phát triển được dẫn dắt hợp qui luật. Đấy là một đoạn văn miêu tả tâm lý khá sâu sắc và tinh tế, có thể nói rằng tác giả đã đạt đến “biện chứng pháp của tâm hồn nhân vật”. Ngòi bút của nhà văn cũng thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện trong niềm tin, sự trân trọng đối với khát vọng sống trong sạch ở những con người bị đọa đày đau khổ. Đấy cũng là sự tiếp nối tự nhiên tinh thần nhân đạo trong truyền thống văn học dân tộc, và phát triển lên một mức cao hơn. Nàng Kiều bị xô đẩy vào cuộc sống thanh lâu ô nhục, đã bao lần cố sức vùng vẫy thóat ra, và tấm lòng nhớ cha mẹ, nhớ người yêu vẫn thiết tha đau đớn suốt ngần ấy năm trời lưu lạc. Nhân vật Tám Bính của Nguyên Hồng, sống cuộc đời một “bỉ vỏ” dưới đáy xã hội, bị khinh khi, săn đuổi nhưng vẫn không nguôi khát khao một cuộc sống lương thiện, trong sạch. Chỉ có điều là những tác giả văn học quá khứ đã không thể tìm ra con đường thoát cho những nạn nhân đau khổ ấy trong tác phẩm của họ, còn cô Mị – cũng như nhiều nhân vật khác trong các tác phẩm văn học hiện đại – thì đã tìm thấy con đường giải phóng thật sự, tìm thấy sự thực hiện những ước vọng chân chính của mình trong quá trình đến với cách mạng, dưới ánh sáng của Đảng. Quá trình giác ngộ và trưởng thành ấy sẽ diễn ra ở phần sau của tác phẩm nhưng động lực thúc đẩy thì đã được phát động lên từ trong hành động đấu tranh tự phát ở đây rồi.
III – KẾT LUẬN
1. Một số nét thành công về nghệ thuật tác phẩm:
Thành công của truyện trước hết là ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hai nhân vật Mị và A Phủ đã phần nào là những tính cách điển hình. Nhân vật vừa mang tính tiêu biểu cho dân tộc, cho giai cấp của họ, đồng thời cũng có nét cá tính rõ rệt. A Phủ thì gan góc mà bộc trực, cả tin, chất phác. Ở Mị có một đời sống nội tâm sôi nổi dưới vẻ ngoài lặng lẽ.
Nét đặc sắc trong xây dựng nhân vật của Tô Hoài trong truyện ngắn này là miêu tả diễn biến bên trong tâm hồn nhân vật, nhất là Mị. Những đoạn tả sự thức tỉnh của niềm khát vọng cuộc sống ở Mị trong một đêm xuân (đã phân tích ở trên), cảnh Mị suy nghĩ tới hành động cắt dây trói cho A Phủ là những thành công nổi rõ của tác giả trong cách miêu tả “từ bên trong” nhân vật. Tác giả diễn tả được những biến chuyển tinh tế trong nội tâm nhân vật của mình, tránh được cái nhìn giản đơn cũng như cách tô vẽ giả tạo khi viết về những con người miền núi.
Tính cách của hai nhân vật chính cũng đã được miêu tả trong sự biến đổi, phát triển theo quá trình đi tới cách mạng của họ (chú ý sự thay đổi từ ngoại hình đến nội tâm và hành động của Mị và A Phủ khi ở Phiềng Sa, so với thời kì ở Hồng Ngài; cũng cần chú ý sự biến đổi của A Phủ trong cái nhìn đồn Tây ở Bản Pe lúc chưa giác ngộ đến khi đã thành tiểu đội trưởng du kích).
Nghệ thuật truyện của Tô Hoài còn thành công ở chỗ tác giả đã nắm bắt, lựa chọn được nhiều chi tiết chân thực, sinh động mà có sức khái quát cao. Những chi tiết ấy lại thường đặt trong một hệ thống tương quan đối lập nên càng nổi rõ (Cô Mị cúi mặt, lặng lẽ như một cái bóng giữa cảnh giàu có tấp nập của nhà Pá Tra; căn phòng âm u của Mị và khung cảnh mùa xuân tràn đầy sức sống và ánh sáng ở bên ngòai; tiếng sáo và tiếng chân ngựa đạp vào vách v.v…).
Cũng như trong tập Truyện Tây Bắc, truyện Vợ chồng A Phủ còn lôi cuốn người đọc bởi chất thơ đậm đà trong sáng. “Phong cảnh và con người đẹp đẽ của Tây Bắc được ngòi bút của Tô Hoài vẽ nên với một sức rung động thơ” [3]. Chất thơ ấy toát lên từ nội dung tác phẩm: vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc của nhân dân lao động miền núi và con đường giải phóng của họ. Nó cũng toát lên từ tâm hồn trong sáng, hồn hậu, trung thực của các nhân vật tích cực. Chất thơ ấy cũng thắm đượm trong những bức tranh thiên nhiên giàu màu sắc tươi sáng và đường nét uyển chuyển và hùng vĩ của Tây Bắc, làm nền cho những cảnh sinh hoạt giàu chất trữ tình của con người (Những đêm mùa xuân, cảnh đi chơi Tết, tiếng sáo gọi bạn ngoài đầu núi, những đám chơi pao, thổi khèn, uống rượu bên bếp lửa của trai gái Hmông…). Tô Hoài cũng nói về những ý thơ trong truyện của mình: “Ở mỗi nhân vật và trùm lên tất cả miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất nước và con người bay bổng lên hơn nữa, rồi bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp nhân vật và nhỏ bé vấn đề đi” [4].
2. Ý nghĩa giáo dục tư tưởng của tác phẩm
Đọan trích giảng trên đây thược phần đầu câu truyện Vợ chồng A Phủ. Cho đến lúc Mị cắt dây trói cho A Phủ và cùng trốn đi, các nhân vật vẫn còn ở trong phạm vi đấu tranh tự phát chống lại thế lực phong kiến thống trị. Nhưng chặng đường ấy có một ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển của các nhân vật. Qua đây, tác giả đã làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp, những sức mạnh tiềm tàng của những người lao động nghèo khổ ở miền núi. Đó chính là tiền đề cho bước đường giác ngộ cách mạng của họ ở phần sau. Với lòng căm thù sâu sắc bọn chúa đất thống trị, với sức sống vươn lên mạnh mẽ và khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính, các nhân vật Mị và A Phủ đã nhanh chóng đón nhận ánh sáng cách mạng do cán bộ A Châu đem lại. Không thấy những tiềm lực ấy, thì cũng không hiểu và lí giải được con đường đến với cách mạng của quần chúng.
Truyện Vợ chồng A Phủ đã miêu tả một cách cô đọng nhưng sinh động quá trình trưởng thành, con đường đi đến với cách mạng của nhân dân lao động miền núi, của các dân tộc thiểu số anh em. Nó đã góp phần tăng cường tình đòan kết giữa các dân tộc miền xuôi, miền ngược. Nhìn khái quát, thì con đường mà Vợ chồng A Phủ cùng với các dân tộc mình núi Tây Bắc đã đi cũng chính là một hình ảnh thu nhỏ của con đường tất yếu cách mạng mà dân tộc ta trải qua trong mấy mươi năm qua. Con đường của dân tộc ta càng làm sáng tỏ chân lý của thời đại ngày nay: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [5].
(Nguyễn Văn Long, Trích giảng Vợ chồng A Phủ, In trong Giảng văn, tập 2, Nxb ĐH và THCN, HN, 1982, tr 290 – 308).
________________________________________
[1] Vì điều kiện không cho phép phân tích toàn truyện chúng tôi chỉ giảng kỹ một đoạn trích.
[2] những đoạn trong ngoặc kép là trích nguyên văn tác phẩm, những chỗ nhấn mạnh là của người giảng.
[3] Hoàng Trung Thông, “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài, Văn nghệ số 55, tháng 9 năm 1954.
[4] Tô Hoài, Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nxb Văn học, HN, 1959, tr 78.
[5] Hồ Chí Minh, Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, HN, 1970, tr 229.