• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Trang Dimple

New member
Xu
38
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 11 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ
Chương 11: Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang (*)

Năm Bính Dần (1386), vua Trần Phế đế đi săn, đỗ lại trên bờ bắc sông Đà, đêm mở bữa tiệc ở trong trướng. Có một con cáo từ dưới chân núi đi về phía nam, gặp một con vượn già, nhân bảo:
- Vua tôi Xương Phù (2) vào rừng săn bắn, để ý vào bọn ta lắm đó. Tính mệnh các loài chim muông, thật là treo ở sợi dây cung. Nếu tuyết chưa xuống, gió chậm về, mình sẽ nguy mất, nếu không vẫy đuôi xin thương thì ắt bị cày sân lấp ổ. Tôi định đến kiếm một lời nói để ngăn cản, bác có vui lòng đi với tôi không?
Vượn già nói:
- Nếu bác có thể đem lời nói mà giải vây được, đó thật là một việc hay. Nhưng chỉ e nói năng vô hiệu, họ lại sinh nghi, trốn sao khỏi cái nạn thành cháy vạ lây, há chẳng nghe câu chuyện hoa biểu hồ tinh ngày trước (3)?
Con cáo nói:
- Những người theo nhà vua đi săn, phần nhiều là võ nhân, bụng không bác vật như Trương Hoa, (4) mắt không cao kiến như Ôn Kiệu (5), vậy chắc không việc gì mà sợ.
Bèn cùng nhau hóa làm hai người đàn ông mà đi, một người xưng là tú tài họ Viên (6), một người xưng là xử sĩ họ Hồ (7) đương đêm đến gõ cửa hành cung, nhờ kẻ nội thị chuyển đệ lời tâu vào rằng:
- Tôi nghe thánh nhân trị vì, càn khôn trong sáng, minh vương sửa đức, chim muông hòa vui. Nay chúa thượng đương kỳ thái hạnh, làm chủ dân vật, tưởng nên mở lưới vơ hiền, giăng chài vét sĩ, đương gội thì quấn mái tóc, lên xe thì dành bên tả (8), đem xe bồ ngựa tứ săn những người hiền trong chỗ quê lậu, lấy lễ hậu lời khiêm đón những kẻ sĩ trong đám ẩn dật, khiến trong triều nhiều bậc lương tá để ban ân trạch cho sinh dân, đưa tất cả cuộc đời vào cõi nhân thọ. Cớ sao lại đi săn gấu bắt thỏ, tranh cả công việc của chức Sơn ngu (9), như vậy!
Bấy giờ vua say rượu đương muốn đi nằm, sai thủ tướng Quý Ly mời hai người vào tiếp đãi, ở phía dưới thềm khách, và hiểu bảo cho biết săn bắn là phép tắc đời xưa, sao lại nên bỏ.
Hồ nói:
- Đời xưa đuổi loài Tề tượng là để trừ hại, mà mở cuộc sưu miêu (10) là để giảng võ. Chuyện đi săn Vị Dương là vì một ông già không phải vì gấu cũng không vì hùm (11). Vì sự phô phang quân lính mới có cuộc săn ở đất Hồng (12). Vì sự phô phang cầm thú mới có cuộc bắn ở Trường Dương (13). Nay thì không thế, đương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân, là không phải thời, giày trên lúa để thỏa cái ham thích săn bắn là không phải chỗ; quanh đầm mà vây, bọc núi mà đốt, là không phải lẽ, ngài sao không tâu với thánh minh, tạm quay xa giá, để khiến người và vật đều được bình yên!
Quý Ly nói:
- Không nên.
Hồ nói:
- Đó là tôi thương những giống chim hèn muông yếu và xin nài cho chúng. Chứ còn những giống tinh khôn lanh lẹn thì tự nhiên chúng biết xa chạy cao bay đàng nam núi Nam, đàng bắc núi Bắc, há chịu trần trần một phận ấp cây đâu!
Quý Ly nói:
- Nhà vua đi chuyến này, không phải vì ham thích chim muông, chỉ vì nghe ở đây có giống hồ tinh nghìn tuổi, nên ngài muốn đại cử đến để tiễu trừ, khiến loài yêu gian không thể giở trò xằng bậy được, còn các loài khác không can dự gì.
Viên đưa mắt cho Hồ rồi mỉm cười. Quý Ly hỏi cớ, Hồ chợt đáp:
- Hiện giờ sài lang đầy đường lấp lối, sao lại lo đi hỏi đến giống hồ ly?
Quý Ly nói:
- Ngài nói vậy là ý thế nào?
Hồ nói:
- Hiện nay thánh hóa chưa khắp, bờ cõi chưa yên: Bồng Nga (14) là con chó dại, cắn càn ở Nam phương, Lý Anh (15) là con hổ đói gầm thét ở tây bắc. Ngô Bệ (16) ngông cuồng, tuy đã tắt, Đường Lang (17) lấm lét vẫn còn kia, sao không giương cái cung thánh nhân, tuốt lưỡi gươm thiên tử, lấy nhân làm yên khấu, lấy nghĩa làm chèo lái, lấy hào kiệt làm nanh vuốt, lấy trung tín làm giáp trụ, cẩn thận lồng cũi để giá ngự những tướng khó trị, sửa chuốt cung tên để dọa nạt những nước bất phục, tóm bắt giặc giã, đóng cũi về, khiến cho gần xa quang sạch. Cớ sao bỏ những việc ấy không làm, lại đi lẩn quẩn ở công việc săn bắn dù được chim muông như núi, chúng tôi cũng lấy làm không phục.
Quý Ly nghe lời, hai người mừng thầm nói:
- Thế là mưu kế có kết quả rồi.
Nhân nâng chén rượu đầy lên uống rồi nói bàn vanh vách, trôi như nước suối, không bị đuối một tý gì cả.
Quý Ly giận nói:
- Ta từng tranh luận với người Trung Hoa, người Chiêm, chưa hề chịu khuất lý bao giờ, thế mà nay phải lúng túng với các gã này. Các gã nếu chẳng phải yêu núi ma rừng thì sao nói năng được nhọn sắc như vậy!
Hai người giận mà nói:
- Ông là thủ tướng đáng lẽ nên tiến dẫn nhân vật để làm đồ dùng cho quốc gia, cớ sao lại ghen người hiền, ghét người tài, há phải là cái nghĩa ở trong Kinh Thư đã nói: "Kẻ khác có tài, coi như ta có!".
Quý Ly đổi nét mặt để xin lỗi và an ủi rằng:
- Tôi nghĩ đương đời bây giờ, hiếm có được hạng người như là các ông. Sao các ông không đốt bỏ tơi nón, từ giã cá tôm, rướn mình con rồng ở Nam Dương (18), đuổi vó ngựa ký của Bàng Thống (19), lập công với đương thế, để tiếng về đời sau. Cớ chi lại đi nằm chết khô ở chốn hang núi, còn ai người biết đến nữa.
Hai người cười mà rằng:
- Chúng tôi nương mình bên cành khói, náu vết chốn hang mây, ngủ thì lấy cỏ làm đệm êm, khát thì lấy nước suối làm rượu ngọt, vương chân có khói ráng, kết bạn có hươu nai, chỉ biết ăn bách nhai tùng, ngâm trăng vịnh gió, ngõ hầu mới khỏi vướng lưới trần. Ai hơi đâu mà đi lo giúp việc đời dù chỉ nhổ một sợi lông.
Nhân lại nói:
- Chúng tôi vốn là những người phóng lãng, không chịu ở trong vòng ràng buộc. Trước vẫn hay thơ, thường ngâm vang cả hang núi. Đêm nay bồi tiệc, há lại không có bài nào để kỷ thực ư?
Hồ bèn ngâm rằng:
Ẩm liễu thanh toàn hựu bích than,
Du du danh lợi bất tương can.
Vân biên thạch quật khiêu thân dị,
Thế thượng trần lung trước cước nan.
Nhật lạc miên tàn sơn trủng quýnh,
Canh lan thính quyện dạ băng hàn.
Yên hà thử khứ vô tung tích,
Tử ngã tương kỳ cửu viễn khan.
Dịch:
Khe trong suối biếc nước ngon lành,
Đường thế chi màng đến lợi danh.
Hang đá dễ nương mình phóng khoáng,
Vòng trần khôn đặt bước chông chênh.
Bóng tà giấc tỉnh trơ hình núi.
Băng lạnh đêm tàn cạn trống canh.
Mây khói rồi đây không dấu vết,
Đôi mình buộc chặt nghĩa non xanh.
Viên cũng ngâm rằng:
Vạn hác thiên khê hữu kính thông,
Du nhiên phất tụ nhiệm tây đông.
Hứng lai trực bạn xuân sơn vũ,
Sầu khứ phân huề biệt phố phong.
Tương lĩnh vô thanh đề lạc nhật,
Sở thiên hữu lệ khấp loan cung.
Ngã đầu lâm mộc quân nham huyệt,
Kham tiếu cầu an kế bất đồng.
Dịch:
Nghìn suối muôn khe có lối thông,
Mặc dầu tha thẩn bước tây đông.
Tung tăng lúc giỡn cơn mưa núi,
Đủng đỉnh khi chờ ngọn gió sông.
Tiếng bặt bờ Tương gào bóng xế (20),
Lệ tràn đất Sở khóc dây cung (21)
Tôi lên rừng, bác vào hang núi,
Tìm chốn yên thân cũng một lòng.
Ngâm xong, từ biệt ra đi. Quý Ly mật sai người rón bước theo sau, khi gần đến lưng chừng núi, thấy cả hai hóa làm con cáo và con vượn mà đi biến mất.


Lời bình:
Than ôi! Trời đất sinh ra mọi loài mà riêng hậu đối với loài người, cho nên người ta là giống khôn thiêng, hơn muôn vật. Tuy phượng hoàng là giống chim thiêng, kỳ lân là giống thú nhân, cũng chỉ là loài vật mà thôi. Cuộc nghị luận ở Đà Giang, cớ sao loài người mà lại phải chịu thua loài vật? Cái đó là vì có duyên cớ. Bởi Quý Ly tâm thuật không chính, cho nên giống yêu quái ở trong loài vật mới có thể đùa cợt như vậy. Chứ nếu chính trực như Ngụy Nguyên Trung (22), tận trung như Trương Mậu Tiên (23), thì chúng đã nghe giảng, giữ lửa không rồi, đâu còn dám tranh biện gì nữa. Chao ôi! nước sông Thương Lương, trong thì để giặt dải mũ, đục thì để rửa chân, đều do tự mình cả đó thôi.
Chú thích:
* Nguyên văn: Đà Giang dạ ẩm ký.
(1) Đà giang: đời Trần là châu, gồm khu vực hai bên tả, hữu sông Đà, tương đương với miền tây tỉnh Sơn Tây và miền đông tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình ngày nay.
(2) Xương Phù: niên hiệu của Trần Phế đế từ 1377-1388.
(3) Đời vua Huệ Đế nhà Tần, ở mả vua Yên Chiêu Vương có con hồ tinh già và một cây hoa biểu (cây cột gỗ). Hồ tinh một hôm muốn biến làm người học trò, đến nghe Trương Hoa giảng sách, nhân hỏi cây hoa biểu. Hoa biểu nói: "Ông Trương là người trí độ, khó che mắt được, đừng đi mà lại bị nhục, chẳng những hại anh mà lại lụy cả đến tôi nữa. Hồ không nghe, bèn hóa mình đến yết Trương Hoa bàn luận văn chương sử sách, thông hiểu suốt hết. Trương Hoa phải chịu và than rằng: "Thiên hạ đâu lại có người tuổi trẻ thông minh như thế, nếu không là ma quỷ tất là hồ ly". Sai người đề phòng rất nghiêm ngặt. Sau quan lệnh Phong Thành là Lôi Hoán xui Hoa thử huýt chó săn cho cắn xem sao, nhưng gã kia vẫn không sợ hãi gì cả. Hoa giận nói: "Nó đích thực là yêu rồi, bây giờ chỉ hễ được cây khô nghìn năm mà soi thì hình nó sẽ hiện ra". Hoán nói: "Cây nghìn năm lấy đâu ra được. Người ta vẫn nói cây hoa biểu trước mồ Chiêu Vương đã trải nghìn năm, nên thử dùng xem sao...".
Bèn sai người ngả cây ấy đốt ra để soi, gã kia liền hóa thành con hồ, nhân sai đem mổ giết.
(4) Trương Hoa người đất Phương Thành đời nhà Tấn học nhiều xem rộng, cái gì cũng biết, có làm ra sách Bác vật chí; người đời bấy giờ ví Hoa như Tử Sản nước Trịnh đời xưa. Xem thêm chú thích 3.
(5) Ôn Kiệu đời Tấn đi qua bến Ngưu Chử là chỗ nước sâu không thể lường được, và người ta vẫn đồn ở đấy có nhiều quái vật. Kiệu bèn đốt sừng tê để soi. Một lát thấy các thủy tộc hiện ra những kỳ hình dị trạng, hoặc đi xe, cưỡi ngựa, hoặc mặc áo đỏ. Đêm ấy mộng thấy người đến bảo: Chúng tôi với ông u minh khác nẻo, việc gì mà ông lại đi soi chúng tôi!
(6) Viên là họ Viên, đồng âm với viên là con vượn.
(7) Hồ là họ Hồ, đồng âm với hồ là cáo.
(8) Chu Công đương gội đầu quấn tóc lại để tiếp người hiền, Ngụy công tử đi xe, dành sẵn bên phía tả để đón bậc hiền sĩ Hầu Doanh.
(9) Sơn ngụ: chức quan coi rừng.
(10) Đời xưa bên Trung Quốc cuộc săn mùa xuân gọi là sưu, cuộc săn mùa thu gọi là miêu.
(11) Vua Văn Vương nhà Chu đi săn đón được ông già Lã Vọng đang ngồi câu ở sông Vị. Xem thêm chú thích 19, Câu chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na.
(12) Chỉ việc Lỗ Chiêu công đi săn.
(13) Chỉ cuộc đi săn của Hán Bình đế.
(14) Chế Bồng Nga, vua Chiêm Thành, hồi ấy thường vào quấy nhiễu nước Việt.
(15) Thuở ấy vua Minh sai chức Xá nhân là Lý Anh xuống Vân Nam đòi mượn đường đi sang Chiêm Thành, yêu sách những voi ngựa lương thảo, bắt ta phải cung đốn.
(16) Đời vua Trần Dụ Tông, người làng Trà Hương là Ngô Bệ họp đảng nổi dậy, giữ núi Yên Phụ, dựng cây cỡ lớn ở trên núi, xưng vương.
(17) Đời Trần Phế đế, người lộ Bắc Giang là Nguyễn Bồ, xưng là Đường Lang Tử y, dùng pháp thuật, nổi dậy xưng vương, sau bị giết.
(18) Câu này nói về Gia Cát Lượng bỏ nơi ở ẩn Nam Dương để đi giúp Lưu Bị.
(19) Bàng Thống: người có tài, được Gia Cát Lượng tiến cử với Lưu Bị.
(20) Thơ vịnh loài vượn có câu: Đề thời mạc cận Tiêu Tương ngạn, Minh nguyệt cô chu hữu lữ nhân. Nghĩa lúc kêu chớ gần bờ sông Tiêu Tương, vì trong chiếc thuyền chờ dưới bóng trăng trong có người lữ khách, ý nói nếu kêu để người lữ khách nghe tiếng, sẽ gợi cho người ấy nỗi buồn cố quốc tha hương.
(21) Sân triều nước Sở có con vượn trắng rất thiêng, người giỏi bắn đến đâu cũng không bắn trúng được. Vua Trang Vương sai nhà thiện xạ là Dưỡng Do Do Cơ bắn, vừa xách cung mang tên ra, chưa bắn mà vượn đã ôm cây khóc, lúc bắn vượn liền theo ngay mũi tên mà sa xuống.
(22) Ngụy Nguyên Trung là người thẳng thắn, thuở nhỏ nhà nghèo, chỉ nuôi một đứa ở gái. Một hôm đứa ở đương thổi cơm bỏ chạy đi múc nước, về thấy con vượn già đẩy bếp giữ lửa hộ. Con tinh vượn quý trọng Ngụy Nguyên Trung như vậy.
(23) Tức Trương Hoa, xem chú thích 3 cùng truyện.


Hết chương 11 mời các bạn đọc tiếp chương 12
Chương 12: Chuyện người con gái Nam Xương
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 12 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ

chuyện người con gái nam xương.jpg


Chương 12: Chuyện người con gái Nam Xương


Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương (1). Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt nhiều lính tráng. Trương tuy con nhà dòng, nhưng không có học, tên đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lúc chàng ra đi, bà mẹ có dặn rằng:
- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.
Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng thì rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng:
- Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng. Trông mảnh trăng Trường An (2), nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không một tin về.
Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ.
Rồi đó chén đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu, ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt. Bấy giờ nàng đã đương có thai. Sau khi tương biệt được mươi ngày thì sinh một đứa con trai, đặt tên là thằng Đản.
Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mỗi khi thấy bướm bay vườn thúy, mây ám non Tần, nỗi buồn hải giốc thiên nhai, lại không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng ma gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Song bệnh thế mỗi ngày một trầm trọng hơn, bà mẹ trối lại với nàng rằng:
- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.
Bà cụ nói xong rồi thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.
Qua sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ đi thăm, song đứa bé không chịu, gào khóc. Sinh dỗ dành:
- Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!
Đứa con nói:
- Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít.
Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nói:
- Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được.
Về đến nhà, mắng vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng:
- Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể lời con nói; chỉ thường thường mắng mỏ nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa (3).
Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang (4) ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương (5), xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ (6). Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một mình phòng không vắng vẻ, đến đêm khêu bấc đèn tàn, không sao ngủ được. Chợt đứa con nói rằng:
- Cha Đản lại đến rồi!
Chàng hỏi đâu. Nó trỏ bóng chàng ở trên vách:
- Đây này!
Thì ra khi chàng đi vắng, nàng thường đùa trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới hiểu ra nỗi oan của vợ, nhưng đã chẳng làm gì được nữa.
Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang khi trước làm đầu mục bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, nhân đem phóng sinh con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải. Chi Lăng (7). Phan và người làng sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang giạt vào một cái động rùa ở hải đảo, bà Linh Phi trông thấy nói rằng:
- Đây là vị ân nhân cứu sống cho ta xưa đây.
Linh phi bèn sai lấy khăn gấm mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang liền tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đài dao, nguy nga lộng lẫy không biết là mình đã lạc vào trong thủy tinh cung, Linh Phi bấy giờ mặc tấm áo cẩm vân dát ngọc, đi đôi giày mầu ráng nạm vàng cười bảo Phan rằng:
- Tôi là Linh Phi trong Quy động, phu nhân của Nam Hải Long Vương. Nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông, bị người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời có ý cho tôi một dịp đền ơn báo nghĩa.
Phi bèn đặt yến ở gác Triệu Dương để thết đãi Phan Lang, dự tiệc còn có vô số những mỹ nhân bận quần nhẹ và búi tóc xễ. Trong số có một người, mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trông rất giống Vũ nương. Phan thường nhìn trộm luôn, nhưng không dám nhận. Tiệc xong, người ấy bảo với Phan Lang rằng:
- Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã coi nhau như khách qua đường xa lạ rồi ư?
Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ nương. Gạn hỏi duyên do. Nàng nói:
- Tôi ngày trước không may bị người vu báng, phải gieo mình xuống sông tự tử. Chư tiên trong thủy cung thương tôi vô tội, rẽ một đường nước để cho tôi được khỏi chết, nếu không thì đã chôn trong bụng cá, còn đâu mà gặp ông.
Phan nói:
- Nương tử nghĩa khác Tào Nga (8), hờn không Tinh Vệ (9) mà có mối hận gieo mình nơi sông. Nay thấm thoát đã một năm chầy, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư!
Vũ thị nói:
- Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về gặp mặt chồng!
Phan Lang nói:
Thưa nương tử, tôi trộm nghĩ, nhà cửa của tiên nhân, cây cối thành rừng, phần mộ của tiên nhân, cỏ gai lấp mắt. Nương tử dầu không nghĩ đến, nhưng còn tiên nhân mong đợi ở nương tử thì sao?
Nghe đến đây, Vũ nương ứa nước mắt khóc rồi nói:
- Tôi có lẽ không thể gửi mình ẩn vết ở đây mãi được. Ngựa Hồ gầm gió bắc (10), chim Việt đậu cành nam (11). Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.
Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía đựng mười hạt minh châu, sai Xích Hỗn (12) sứ giả đưa Phan ra khỏi nước; Vũ nương cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:
- Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về.
Về đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với nhà Trương. Ban đầu Trương còn không tin. Nhưng sau nhận được chiếc hoa vàng, mới kinh sợ nói:
- Đây quả là vật dùng của vợ tôi xưa thật.
Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói với vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, những cảnh tượng ấy chìm đi mất.


Lời bình:
Than ôi! Những việc từa tựa như nhau, thật là khó tỏ mà dễ hoặc. Cho nên quăng thoi đứng dậy, tuy mẹ bậc đại hiền cũng phải phân vân (13), mất búa đổ ngờ tuy con người láng giềng cũng khó chối cãi (14), ý dĩ đầy xe, Quang Võ đổ ngờ lão tướng (15), "trói lại mà giết", Tào Tháo đến phụ ân nhân (16), việc Thị Thiết cũng giống như vậy. Nếu không được trời xét tâm thành, nước không làm hại, thì xương hoa vóc ngọc, đã chôn vào họng cá ở dưới lòng sông, còn đâu được lại thông tin tức để nết trinh thuần được nhất nhất bộc bạch ra hết. Làm người đàn ông, tưởng đừng nên để cho giai nhân oan uổng thế này.
Chú thích:
(1) Nam Xương: huyện thuộc trấn Sơn Nam, nay là huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam.
(2) Trường An: thường chỉ chung kinh đô.
(3) Núi Vọng Phu: núi trông chồng. Theo truyền thuyết người đàn bà có chồng đi xa, ngày ngày lên núi ngóng trông đến nỗi hóa đá. Câu này ý nói không còn được coi là tiết phụ nữa.
(4) Sông Hoàng Giang: con sông chảy qua huyện Nam Xương.
(5) Ngọc Mỵ Nương: Mỵ Nương con gái An Dương Vương, gả cho Trọng Thủy, bị Trọng Thủy lừa lấy mất lẫy nỏ thần. Nước mất nàng bị vua cha chém chết. Vì nàng lòng ngay bị chết oan, nên máu của nàng hóa thành ngọc trai.
(6) Cỏ Ngu Mỹ: xem chth. 37 truyện Câu chuyện ở đền Hạng Vương.
(7) Chi Lăng: nay thuộc huyện Đồng Mỏ, tỉnh Lạng Sơn. Khai Đại niên hiệu của Hồ Hán Thương (1403-1407).
(8) Nàng Tào Nga người đời Hán, cha chết đuối, tìm không được xác. Tào Nga mới 14 tuổi chạy theo bờ sông kêu khóc; 17 ngày không thấy xác cha, nàng cũng nhảy xuống sông tự tử.
(9) Con gái vua Viêm Đế ra chơi bể Đông, chết đuối, hóa làm chim Tinh Vệ, ngày ngày ngậm đá núi Tây về lấp bể.
(10) Ngựa Hồ sinh ở đất Bắc quen với gió Bắc nên dù đi xa hễ thấy gió Bắc nổi thì hý.
(11) Chim Việt sinh ở đất Việt cảm thụ được khí ấm áp, cho nên khi bay đi xứ khác, thường đến đậu ở cành cây phía nam cho ấm, giống với khí hậu quê hương.
(12) Xích Hỗn: hỗn là tên một loại cá quả; Xích hỗn: cá quả đỏ.
(13) Tăng Sâm là bậc đại hiền. Một lần có người trùng tên với ông phạm tội giết người. Người ta tưởng là ông, đến báo cho mẹ ông chuyện ấy. Bà không tin vẫn ngồi điềm nhiên dệt cửi. Nhưng báo đến lần thứ ba thì bà đâm ngờ quẳng cả thoi chạy đi xem sao.
(14) Theo sách Liệt Tử, có một người làm búa bị mất búa. Ngờ cho con nhà láng giềng lấy, vì thế thấy mọi cử chỉ của nó đều gian, đúng là của đứa ăn trộm búa. Hôm sau tìm thấy búa, lại thấy mọi cử chỉ hành động của nó không có gì tỏ ra là kẻ ăn trộm búa nữa.
(15) Đời Đông Hán, Mã Viện sang đánh nước ta, khi về chở đầy năm xe ý dĩ. Sau khi Viện mất, có người tâu vua Hán trong xe đó Viện dấu đầy ngọc minh châu và da văn tê. Hán Quang Võ tin là thực, bừng bừng, nổi giận.
(16) Tào Tháo lánh nạn đến nhà Bá Xa. Xa sang Tây thôn mua rượu dặn người nhà làm thịt lợn để thết khách. Tháo nghe có tiếng mài dao, lén nghe trộm, lại thấy tiếng người bảo nhau "trói vào mà giết". Tháo ngờ Bá Xa định giết mình xông vào giết hết già trẻ trong nhà. Khi vào đến vườn, thấy con lợn bị trói nằm đó, mới biết mình nhầm, vội vã ra đi. Được vài dặm gặp Bá Xa cưỡi ngựa mang rượu về; Tháo sợ Bá Xa thấy cả nhà bị giết sẽ oán Tháo nên gọi ông lại giết nốt.


Hết chương 12 mời các bạn đọc tiếp chương 13
Chương 13: Chuyện yêu quái ở Xương Giang
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 13 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ
Chương 13: Chuyện yêu quái ở Xương Giang


Ở Phong Châu(1) có người họ Hồ tên là Kỳ Vọng. Cuối đời họ Hồ, Kỳ Vọng đi buôn bán, ngụ ở thành Xương Giang (2), rồi ốm chết ở thành ấy. Người vợ nghèo kiết, không có tiền để đưa ma chồng về quê được, phải đem bán người con gái nhỏ là Thị Nghi cho một nhà phú thương họ Phạm. Người con gái lớn lên, khá có tư sắc, họ Phạm yêu mến rồi cùng nàng tư thông. Vợ Phạm biết việc ấy, bèn mượn cớ khác đánh Thị Nghi một trận đau quá đến chết rồi đem chôm ở bên cạnh làng. Sau đấy mấy tháng hồn Thị Nghi hưng yêu tác quái, biến huyễn đủ vẻ, hoặc nhập vào chị ả buôn tương, hoặc ốp vào cô nàng bán rượu, người có vai vế thì bị dâm sát, người có tiền của thì bị bóc lột, suốt một dải đường mười dặm, người ta đều phải đi trưa về sớm, bảo nhau thấy gái đẹp chớ trêu vào. Sau người làng đó biết là hồn Thị Nghi làm tai làm quái, bèn đào mả tán xương vứt xuống sông, từ đấy việc quấy nhiễu cũng hơi bơn bớt.
Triều Lê sau khi hỗn nhất, có một viên quan họ Hoàng người Lạng Giang(3) đi xuống Trường An (kinh đô) lĩng chức , đỗ thuyền ở bên cạnh sông. Bấy giờ trăng tỏ sao thưa, bốn bề im lặng, chợt nghe thấy ở mỏm bãi cát đàng phía đông nam, có tiếng khóc rất ai oán. Chèo thuyền đến xem, thấy một người con gái tuổi 17, 18, mặc một cái áo lụa đỏ, đương ngồi trên đệm cỏ. Hoàng hỏi:
- Đêm sâu như vậy, tại sao mà cô khóc lóc thế, khiến lòng sắt đá cũng phải ỉu mềm đi.
Người con gái khép nép, lau ráo nước mắt rồi nói:
- Thiếp vốn người ở Phong Châu, cha mẹ làm nghề buôn hàng tấm. Không may bị quân cường bạo giết người cướp của, cha mẹ thiếp đều hồn chôn bụng cá, xương gửi lòng sông. Còn lại tấm thân yếu ớt trơ trọi này thoát khỏi miệng hùm lần lên bờ sông tìm vào nhà dân ở đậu. Hôm qua nhân ra bờ sông hái dâu cho bà chủ, chợt đi qua chỗ gặp nạn cũ bất giác đau xót mà ngồi đây khóc lóc đến giờ.
Hoàng nói:
- Cô đã bơ vơ trơ trọi, không chỗ tựa nương, nay tôi nhân đi chơi Trường An, nếu cô muốn về kinh thì tôi cho xuống ngồi nhờ thuyền. Vả từ kinh về đến quê hương nhà cô, thuận gió no buồm bất quá cũng chẳng là mấy chốc.
Người con gái lại khóc nói:
- Chiếc thân trôi nổi, nào có đáng tiếc gì đâu, chỉ hận một điều là hài cốt cha mẹ, chưa vớt lên được để đem về mai táng.
Hoàng nói:
- Nếu nàng muốn thế tôi cũng chẳng quản gì bỏ một số tiền, vì nàng thu thập những xương rơi đưa về cố hương, đó cũng là một cái nhân duyên trên bước đường gặp gỡ.
Người con gái mừng rỡ:
- Nếu vậy thật là lòng trời. Ngài quả giúp cho được như thế, thật là cái ơn nhục cốt sinh tử(4). Thiếp dù có nát thân báo đền cũng không dám quản.
Hoàng bèn thuê người giỏi lặn lội, ngụp xuống đáy sông mò vớt hài cốt rồi chở đem xuống nam. Có lúc chàng lấy lời thử đùa cợt nàng để dò xem ý tứ thế nào, nhưng nàng chống cự lại rất xẵng. Hoàng càng yêu quý và nể sợ.
Khi về đến kinh, Hoàng không đi lĩnh chức vội, lại ngược lên cửa tuần Bạch Hạc, đem hài cốt táng ở bên sông. Việc xong, một hôm nàng bảo với Hoàng rằng :
- Thiếp cùng chàng vốn chẳng hẹn hò, bỗng nên gặp gỡ. Nhưng trước kia vì cha mẹ chưa được mồ êm mả đẹp, cho nên phải chống lại những sự đùa cợt của chàng. Nay việc đã viên thành, vậy xin được đem mình hầu hạ khăn lược. Vả lại chàng đi làm quan xa, giúp trong thiếu kẻ, vậy thiếp xin đương những công việc tảo tần.
Đã thàng vợ chồng, tình ái rất là thắm thiết. Nàng lại cử động rất hợp lễ, nói năng biết lựa lời, họ hàng bè bạn ai cũng đều khen ngợi.
Làm quan được một tháng. Hoàng bỗng bị bệnh điên cuồng hoảng hốt, mê lịm đi không còn biết gì. Nàng sớm tối khóc lóc thiết tha không rời ra một bước. Song Hoàng thuốc không chịu uống, mạch không cho xem; ai đem bùa dấu đến thì Hoàng mắng nhiếc. Các thầy thuốc, thầy cúng đều ngờ là có ma quỷ, nhưng cũng không biết làm thế nào, chỉ đành nhìn nhau mà thôi. Sau đó có một người khăn cũ giầy rách, ăn mặc lôi thôi đi vào. Mọi người trông thấy cả cười thì người ấy nói:
- Các ông đều là tay hèn cả, ta đây mới chính là bậc thần y, chẳng những chữa được khỏi bệnh lại còn có thể khiến người mọc cánh thành tiên được nữa.
Hỏi đến phương thuật thì biết chữa phong trị khí, thăm đến tay nải thì có trần bì phụ tử. Hoàng bèn cười rồi đưa tay cho xem mạch. Người ấy nói:
- Không hề gì, chỉ có phủ tạng không điều hòa, sinh ra mê hoặc. Nên uống thang thuốc tiến thực để ăn được nhiều và làm nhiều cỗ bàn lễ thần cúng quỷ sẽ được vô sự.
Bèn lấy thuốc hòa vào trong một cái chai trắng rồi dốc cho Hoàng uống tất cả. Uống thuốc xong, Hoàng nôn mửa ra vài đấu bọt dãi rồi nằm thiếp đi. Người con gái cả giận, lấy gậy đập vỡ cái chai rồi mắng rằng:
- Anh chàng huyễn thuật này ở đâu đến đây ly gián vợ chồng ta, chia rẽ nhà cửa ta!
Người ấy lấy một đạo bùa ném ra, người con gái liền theo bùa mà ngã bổ nhào xuống đất, thành ra một đống xương trắng. Người ấy lấy nước nóng thất hương rót vào ngực Hoàng. Một lúc Hoàng tỉnh lại, hỏi những việc trước thì chẳng biết gì cả. Mọi người tranh nhau hỏi duyên cớ, người ấy nói:
- Tôi chợt trông mặt ông này, thấy đầy những yêu khí, mà người con gái ấy, chính là gốc rễ tà yêu. Ban đầu tôi phải nói lăng nhăng để nàng coi thường lời tôi, rồi tôi mới có thể trổ tài ra được. Nếu không thì vị tất đã cho được ông ấy uống thuốc.
Mọi người đều kính phục.
Bèn sai người đến bến sông Bạch Hạc đào ngôi mộ táng ngày trước lên, thấy chỉ có mấy hòn máu tươi chứ chẳng có xương cốt đâu cả. Vừa toan nhặt lấy những hòn máu thì thoắt đã chẳng thấy đâu nữa. Người ấy than rằng:
- Cành lá tuy trừ nhưng gốc rễ còn chưa cắt được. Nếu không có thiên binh thần tướng, trừ khử một cách ráo riết, chỉ e lại mắc phải độc thủ thì rất nguy cho ông.
Sau đó hơn một tuần, Hoàng đương ban ngày nằm chơi, thấy hai người lính vào bắt đem đi, đến một chỗ chung quanh có tường bao bọc, trong có cung điện trang nghiêm, duy mái hành lang bên tả bị xiêu đổ. Trên điện có một người đầu đội mũ miện quát to lên rằng:
- Diêm vương có chỉ, sai ta tra xét cái án nhà ngươi đó.
Sai tả hữu lấy đưa cho chàng giấy bút, bắt phải cung khai. Hoàng nói:
- Tôi vốn nhà nghèo, may được đăng tên vào sổ sĩ hoạn, xử mình không quắt quéo, làm quan không tham tàn, tội trạng không rõ, chẳng dám tuân mệnh.
Nói chưa dứt lời, đã thấy người con gái ở với mình ngày trước từ mái hành lang phía tả đi ra. Hoàng hiểu ra ngay, liền cầm bút cung rằng:
"Kính nghe:
Kính Xuân thu góp sự lạ, tuy đá nói, thần giáng đều biên (5).
Sách Dã sử nhặt điều rơi, phàm vía mai, tinh đèn cũng chép (6).
Há bởi trước đặt bày huyền hoặc,
Cốt muôn người phòng bị tà gian.
Cho nên Thái Chân đốt sừng tê soi xuống vực sâu, Thủy thần trách móc (7).
Mã Lượng viết bàn tay thò vào cửa sổ, quỷ vật kêu van (8).
Hoặc xua giống quái khiêng giường (9).
Hoặc giết con tinh thổi lửa (10).
ấy kẻ sĩ cương phương bao thuở chẳng sợ tà yêu,
Huống tòa đền hương lửa trăm năm, lại dong xú loại!
Như tôi,
Tính vốn thô sơ,
Vận may hiển đạt.
Tiêu điều một chức, lạm ăn món bổng thay cày.
Tịch mịch nửa chăn, riêng nặng nỗi buồn lẻ bạn.
Ai biết dưới trăng gặp gỡ,
Vốn vì kiếp trước nợ nần.
Đem môi son má phấn làm tôi say mê,
Rút nguyên khí chân tinh khiến tôi hao tổn.
Nếu không gặp thần y cứu chữa,
Sớm đã về chín suối vật vờ.
Xuống sông mà rằng không bắt cá, hồ dễ ai tin,
Lấy đức mà làm sự phạt tội, dám xin thương đoái".
Tờ cung tiến trình lên, Diêm Vương cả giận nói:
- Không ngờ cái nhãi, mà dám đảo điên, đã làm sự dâm tà lại còn toan kiện bậy. Vậy nên đem tống giam vào ngục.
Bèn viết lớn lời phê phán rằng:
"Mảng nghe:
Biến hóa ra vượn hạc sâu cát, đời Chu từng nghe (11).
Tinh linh của hoa biểu hồ ly, triều Tấn lại thấy (12),
Thế vận dần xuống,
Ma quái càng nhiều.
Cho nên, Đạo gia có phép trừ yêu,
Địa ngục có bùa triệu quỷ.
Hăm bốn tòa nghiêm mật, công việc chia riêng,
Nghìn vạn giống quỷ yêu, tăm hơi trốn biệt.
Cớ sao loài nhơ nhớp,
Dám dở thói điên cuồng,
Một đời chỉ sống với tà dâm, tham lam đã lắm,
Đến chết vẫn còn toan dối trá, giả mạo sao nhiều,
Cho là tội danh có thể trốn qua,
Cho là Minh phủ không thể trừng phạt.
Cáo họ Nhâm, hổ họ Thôi, lắm trò biến huyễn (13)
Gươm làm cây, dao làm núi, phải giở nhục hình (14)
Đến như gã Hoàng,
Cũng là đáng trách.
Chí thiếu bền cứng,
Lòng nhiều ham mê.
Không biết bắt chước Nhan Thúc Tử chối từ cô ả láng giềng (15)
Lại đi nối bước Vũ Thừa Tự mê mải con yêu hoa nguyệt (16)
Chẳng tội gì đó,
Có nhẹ mà thôi.
Lời ta phán truyền,
Thi hành lập tức".
Lại ngoảnh bảo Hoàng rằng:
- Nhà ngươi theo đòi nho học, đọc sách thánh hiền, trải xem những sự tích xưa nay, há không biết lời răn sắc đẹp, cớ sao lại đi vào con đường ấy!
Liền cầm bút phê rằng:
"Bỏ nết cương cường, theo đường tà dục, giảm thọ một kỷ".
Lại sai hai tên lính đưa Hoàng về nhà. Hoàng vươn vai bừng tỉnh mồ hôi toát ra đầy mình. Sau mấy năm, nhân đi việc quan đến Tam Giang, vào nghỉ ở đền Phong Châu, thấy đền đài tường vách, tượng thần và cái hành lang trụt đổ, đúng như trong chiêm bao trông thấy, mới biết dạo trước chính mình bị đòi đến đây. Hoàng vội lên ngựa ruổi mau, không dám ngoảnh lại. Bấy giờ là ngày Đinh tỵ tháng tám năm Thiệu Bình thứ 2. (17)


Lời bình:
Than ôi! Dòm vào buồng, kêu trên xã, chẳng đã là quái gở ư? Thưa rằng chưa vậy. Con gấu Vũ Uyên (18), con lợn Bối Khâu (19) chẳng đã là quái gở ư? Thưa rằng chưa vậy. Bởi Xương Lê làm bài văn Nguyên Quỷ Khâu Minh giải nghĩa kinh Xuân Thu, ấy là quái gở nên coi làm thường. Thế thì câu chuyện Xương Giang, chẳng phải là quái. Phương chi xem thấy yêu nữ mê người sẽ biết răn sợ trước sắc đẹp, xem thấy linh từ xử án, sẽ biết kính tránh trước thần thiêng. Nghi để truyền nghi, chẳng có gì là quá đáng. Tiến lên một bước thì sẽ được như Lưu Thoa, Can Bảo vậy. (20)
Chú thích:
(1) Phong Châu: nguyên chú: "nay là huyện Bạch Hạc", nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
(2) Xương Giang: nguyên chú: "nay thuộc huyện Yên Dũng, xứ Kinh Bắc"; nay là thị xã Bắc Giang.
(3) Lạng Giang: nay là vùng đất thuộc tỉnh Bắc Giang.
(4) Nhục cốt sinh tử: làm cho xương khô sinh thịt, người chết sống lại; ý nói cứu sống người.
(5) Kinh Xuân thu chép mùa Xuân năm Đinh mão thứ 8 đời vua Chiêu công nước Lỗ, có hòn đá biết nói ở ấp Ngụy Du nước Tấn. Lại chép năm thứ 31 đời vua Trang công có vị thần giáng xuống đất Sằn.
(6) Vía mài, tinh đèn: Triệu Sư Hùng đời Tùy, trong năm Khai Hoàng, đi qua núi La Phù ở huyện Nam Hải đất Quảng Châu, một hôm trời tối lạnh lùng, thấy một mái nhà tranh bên cạnh quán rượu ở giữa rừng thông, có cô gái mặc áo trắng ra mời đón. Dưới bóng trăng mờ, Sư Hùng cùng cô gái chuyện trò thân mật, rồi cùng gõ cửa nhà hàng rượu vào uống với nhau, một lát lại có đứa trẻ áo xanh ra cười đùa hát múa. Sư Hùng say rượu nằm kềnh ra ngủ đến khuya thấy rét lạnh lắm, gần sáng nhìn xem, té ra nằm ở dưới gốc một cây mai lớn. (Thượng hữu lục). Tống Tiềm làm chức Tuần kiểm ở Cam Lăng đón một người bạn là Triệu Đương đến nhà ngồi dạy trẻ học. Một đêm Triệu thấy một người đàn bà đẹp đứng dưới đèn ngâm thơ khêu gợi, rồi tắt phụt đèn đi, từ đấy hai người đêm nào cũng quấn quít với nhau. Lâu rồi Tống Tiềm biết, sai người nhà vây bắt được người đàn bà ấy, nắm cổ tay thấy bé tý, nhìn ra thì là cái quặng đèn, bèn đốt bỏ cái đèn ấy đi (Viên cơ).
(7) Ôn Kiệu đời Tấn tên tự là Thái Chân, đi qua bến Ngưu Chử. Chỗ đó nước sâu thăm thẳm. Người ta vẫn đồn là có nhiều quái vật; Kiệu bèn đốt một cái sừng tê soi xuống, một chốc vô số những thủy tộc kỳ hình quái trạng hoặc đi xe, hoặc đi ngựa, hoặc mặc áo đỏ lố nhố hiện ra. Đêm hôm ấy Kiệu nằm chiêm bao thấy có người bảo: "Ta cùng người tối sáng khác đường, sao lại soi nhau để làm gì thế". Xem ý có vẻ tức giận lắm (Viên cơ).
(8) Mã Công Lượng đời Tống, thuở nhỏ một đêm ngồi đọc sách dưới đèn ở trong cửa sổ, chợt thấy có một bàn tay lớn như cái quạt thò vào, đêm hôm sau cũng lại như thế. Lượng bèn lấy bút nhấp nước hùng hoàng viết lớn một chữ "hoa" vào tay. Ngoài cửa sổ chợt có tiếng kêu to xin rửa hộ ngay. Lượng cứ mặc kệ. Gần sáng tiếng kêu van càng tha thiết và tay vẫn không rút ra được. Lại nói: "Ông sắp làm nên đại quý nên tôi đùa ông, sao nỡ làm tôi khốn quẫn quá thế! Há không biết việc ông Ôn Kiệu đốt sừng tê ư?" Lượng nghĩ ra, bèn lấy nước rửa sạch chữ hoa, "cái quỷ ấy cảm tạ mà đi" (Viên cơ).
(9) Ngụy Nguyên Trung đời Đường, một hôm thấy có mấy người đàn bà con gái từ đâu hiện đến đứng ở trước giường. Ông bảo: "Có thể khiêng cái giường ta xuống dưới sân được không?" Họ liền khiêng ngay giường ông xuống dưới sân. Lại bảo: "Có thể khiêng trả giường ta đặt vào chỗ cũ được không?". Họ lại đặt vào chỗ cũ. Lại bảo: "Có thể khiêng giường ta ra phố được không?" Họ đều cúi lạy rồi đi và bảo với nhau rằng: "Đó là bậc trưởng giả khoan hậu, ta không nên đùa cợt như với những người khác" (Viên cơ).
(10). Đời Tam quốc, Quản Lộ một đêm đương ngồi dưới đèn, chợt có một con vật nhỏ, tay cầm mớ lửa kề lên miệng thổi, suýt nữa cháy nhà. Lộ sai học trò giơ dao chém đứt đôi lưng, té ra là một con cáo. Từ đấy trong làng không có hỏa tai nữa (Viên cơ).
(11) Vua Mục vương nhà Chu đi đánh phương Nam, có một đội quân đều biến hóa, quân tử thì hóa làm vượn làm hạc, tiểu nhân thì hóa làm sâu làm cát (Loại tụ).
(12) Đời Tấn Huệ đế mả vua Chiêu vương nước Yên có con hồ ly già và cây cột trụ đều thành yêu tinh. Con hồ ly hóa thành người học trò đến thăm nhà Bác vật Trương Hoa (Sách Tiễn đăng).
(13) Nữ yêu họ Nhâm rất đẹp, lấy chàng Trịnh sinh. Sau mấy tháng vợ chồng đưa nhau ra ngoài thành chơi, gặp người đi săn dắt chó, nàng Nhâm chợt ngã ngựa hóa thành con cáo rồi bị chó săn cắn chết (Hương đài). Thôi Thao đi đến quán Hiếu nghĩa, thấy một người đàn bà gối đầu vào cái da hổ mà ngủ. Thao kéo lấy da hổ vất xuống giếng, người đàn bà sực tỉnh dậy, mất da không biến được nữa. Thao lấy làm vợ. Sau ba năm, nàng hỏi da hổ để đâu. Thao bảo ở dưới giếng. Nàng vớt lên khoác vào mình, hóa làm hổ, gầm thét mà đi mất (Hương đài).
(14) Gươm làm cây, dao làm núi là trỏ vào những ngục Kiếm thụ, Đạo sơn, người ta tin là có ở dưới âm phủ.
(15) Nhan Thúc Tử đời Chu, người nước Lỗ; một mình ở một nhà. Đêm mưa bão, nhà láng giềng phía bắc bị đổ, một cô gái chạy sang trú nhờ. Thúc Tử bắt cô gái cầm một cây nến ở tay, nến hết lại đưa cây khác để đốt tiếp, đến sáng mới thôi. Giữ mình ngay sạch đến như thế. (Thượng hữu lục).
(16) Vũ Thừa Tự tức là Vũ Tam Tư người đời Đường, có người nàng hầu là Tố Nga, vốn là cái tinh hoa nguyệt hiện thành người. Xem thêm chú thích 17 Chuyện Kỳ ngộ ở Trại Tây.
(17) Thiệu Bình: niên hiệu của vua Lê Thái Tông từ 1434 đến 1439. Nếu Đinh Tị thì là năm Thiệu Bình thứ 4 (1437), ở đây có lẽ người viết sách nhầm.
(18) Vị a Tấn ốm, chiêm bao thấy con gấu chạy vào cửa sổ. Hàn Tuyên Tử hỏi Tử Sản. Tử Sản nói: "Đời xưa vua Nghiêu giết ông Cổn ở Vũ Sơn, hồn thiêng ông Cổn hóa ra con gấu vàng, vào ở Vũ Uyên, đời Tam đại vẫn cúng tế. Nước Tần từ khi làm minh chủ, chừng chưa cúng tế phải không?". (Loại tụ).
(19) Đời Xuân thu, Tề Hầu ra săn ở đất Bối Khâu, thấy một con lợn lớn. Kẻ theo hầu nói: "Đó là công tử Bành Sinh hiện lên đấy". Tề Hầu nói: "Bành Sinh sao được như thế!". Bèn bắn một phát. Con lợn đứng lên như người mà khóc. Hầu sợ, ngã xe, bị thương ở chân và rơi mất giầy.
(20) Lưu Thoa: thi nhân đời Đường, tính tình cương trực, có phong cách hiệp khách; từng là môn khách của Hàn Dũ, thơ của ông phóng khoáng, phá cách, thường nói về nỗi khổ của dân nghèo. Cuối đời ông mai danh ẩn tích, không biết đi đâu; tác phẩm có Lưu Thoa thi tập.
Can Bảo (? - 336): sử học gia và văn học gia thời Đông Tấn. Ông có tên tự là Lệnh Thăng, đọc nhiều biết rộng, rất thích âm dương thuật số; thời Nguyên đế làm ở Quốc sử quán, có viết Tấn sử và Sưu thần ký nhưng cả hai đều đã thất lạc. Riêng Sưu thần ký được người đời sau sưu tập lại.


Hết chương 13 mời các bạn đọc tiếp chương 14
Chương 14: Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 14 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ

Chương 14: Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na

Đất Thanh Hóa phần nhiều là núi, bát ngát bao la đến mấy nghìn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi là núi Na. Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu, bụi trần không bén tới, chân người không bước tới. Hàng ngày, trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ con dưới đồng bằng lại nói những chuyện trồng dâu, trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nhà cửa, tiều phu chỉ cười không trả lời. Mặt trời ngậm núi, lại thủng thỉnh về động. Đương thời cho là người thuộc hạng Thần Môn, Tiếp Dư chứ Thái Hòa(1) trở xuống đều không đủ kể.
Sau đến năm Khai Đại(2) nhà Hồ, Hán Thương đi săn, chợt gặp người ấy trên đường, vừa đi vừa hát rằng:
Na chi sơn hữu thạch toàn ngoan,
Thụ thương thương,
Yên mịch mịch,
Thủy sàn sàn.
Triêu hề ngô xuất,
Mộ hề ngô hoàn.
Hữu y hề chế kỹ,
Hữu bội hề nhận lan.
Thát bài thanh hề bình hiểu chướng,
Điền hộ lục hề chẩm tình than.
Nhậm tha triều thị
Nhậm tha xa mã,
Tri trần bất đáo thử giang san.
U thảo Tống triều cung kiếm,
Cổ khâu Tấn đại y quan.
Vương, Tạ phong lưu,
Triệu, Tào sự nghiệp,
Toán vãng cổ lai kim khanh tướng,
Thạch triện đài man.
Tranh như ngã trạo đầu nhất giác,
Hồng nhật tam can.
Dịch:
Trên Na sơn đá mọc ngổn ngang
Cây xanh xanh,
Khói mờ mịt,
Nước tuôn tràn.
Sáng chừ ta ra đi,
Chiều chừ ta về ngàn.
áo ta mặc chừ sẵn đây cây lá,
Cổ ta đeo chừ nào chuỗi cỏ lan.
Núi phơi xanh chừ bình phong sương sớm,
Ruộng trải biếc chừ gối thác chon von.
Mặc ai xe ngựa,
Mặc ai phố phường,
Nước non riêng chiếm, bụi đời không vương.
Cung kiếm Tống triều, vùi cỏ rậm,
Mũ đai Tấn đại, lấp gò hoang.
Sự nghiệp Triệu, Tào(3)
Phong lưu Vương, Tạ(4)
Ngẫm lại cổ kim bao đời khanh tướng,
Rêu phủ bia tàn.
Sao bằng ta: mặt trời đã cao ba thước,
Giấc điệp hãy mơ màng.
Trần thị băng thanh dịch thơ
Hát xong rồi phất áo đi thẳng. Hán Thương đoán chắc đó là một vị ẩn sĩ, bèn sai quan hầu là Trương công đi theo mời lại. Nhưng Trương theo gần đến nơi thì người ấy đã rảo bước vào động, vội gọi cũng không trả lời, chỉ thấy cưỡi mây lách khói, đi trong khoảng cành tùng khóm trúc. Biết đó không phải là người thường, bèn rón bước theo sau, rẽ cỏ lấy đường, đi ước chừng vài dặm. Song đường núi gập ghềnh, càng vào sâu càng khó đi lắm, rồi trong thoắt chốc đã chẳng thấy người đâu cả. Ngẩng lên trông, bóng chiều gác đầu núi, cây cỏ đã bắt đầu lờ mờ, bàng hoàng muốn về, nhưng không kịp. Bỗng nghe tiếng gà gáy trên một khóm trúc, Trương mừng rỡ nghĩ rằng:
- Từ đây đến chỗ có nhà người ở cũng không xa gì. Chống gậy trèo lên thì thấy một cái am cỏ, hai bên tả hữu trồng mấy cây kim tiền, chen lẫn những cây bích đào hồng hạnh, tất cả đều xanh tốt đáng yêu. Trong am đặt một chiếc giường mây, trên giường để đàn sáo và chiếc gối dựa. Hai bên vách đông tây đều chát keo trắng và đề hai bài ca, một bài là Thích ngủ, một bài là Thích cờ.
Bài ca thích ngủ
Ngô hà ái? ái duy miên,
ái vị an thư thích tính nhiên.
Thiển mặc trướng thiêm tân phú quý,
ủy đằng sàng kết cựu nhân duyên.
Mai chi hiên, trúc chi viên,
U cư thú vị hữu lâm tuyền.
Thanh nô ủng hậu,
Hồng hữu la tiền.
Mỗi dẫn hắc điềm thắng,
lương tứ khinh biền.
Song yểm nhĩ hồng trần thế thượng,
Tiểu khúc quăng bạch ốc vân biên.
Ký ngạo thảo lư, Nam Dương nhàn nhật nguyệt,
Khiếm thân vân quán, Triệu Tống trách sơn xuyên.
Bắc song ngâm hồn dị xúc,
Tây đường xuân mộng thường viên.
Thư lâu sơ quyển tịch,
Tửu điếm dục tình thiên.
Huyền hạc Hoàng Châu dạ dạ.
Mỹ nhân Tương thủy niên niên.
Hữu thời hướng túy hương đả ngọa,
Thảo phô nhân, hoa phô ác, địa phô chiên.
Bành Trạch dạ thâm, bán liêm tàn nguyệt,
Liêm Khê viện tĩnh, nhất chẩm đề quyên.
Nhậm nhân đạo vi lãn phu sĩ, vi khát
thụy hán, vi ẩn thần tiên.
Dịch:
Thích gì? Ta thích ngủ thôi,
Vì chưng ngủ được, trong người sởn sang.
Nhân duyên xe chặt giường màn,
Trúc mai, rừng, suối, muôn vàn cảnh thanh.
Quanh mình bạn đỏ hầu xanh,(5)
Giấc ngon bừng tỉnh, tâm linh nhẹ vèo.
Bưng tai chuyện thế eo xèo,
Khoanh tay ngất ngưởng, nằm khoèo bên mây.
Lều tranh một túp xinh thay,
Nam Dương nọ kẻ tháng ngày thảnh thơi.(6)
Quán Vân(7) uể oải nằm dài,
Non sông coi nhỏ kìa ai Tống triều.
Lầu tây, Song bắc tiêu diêu,(8)
Khi mai quán rượu lúc chiều hiên thơ.
Sông Tương người đẹp(9) trong mơ,
Châu Hoàng bóng hạc vật vờ cao bay.(10)
Có khi ngủ tít làng say,
Đất giường cỏ nệm hoa vây làm màn.
Uyên Minh ngủ dưới trăng tàn,(11)
Liêm Khê gối chợp tiếng ran quyên gào(12).
Chê khen ai bảo thế nào:
Đồ lười biếng, bậc thanh cao, mặc lòng.
Bài ca thích cờ
Ngô hà ái? ái duy kỳ,
ái vị phong vân biến thái kỳ.
Liệt xứ loại long xà thất thế,
Thắng biên như hùng hổ dương uy.
Xa song trì, mã song phi,
Độ hà nhất tốt kháo trùng vi,
Bắc nam tương giới, hình thế tương y,
Mặc vận phương viên động tĩnh, diệu toán vô di.
Xuân tịch tịch xạ khao tàn mộng,
Thủ dao dao bãi toán hương nê.
Độc lạc viên trung, tân bằng sơ định hậu,
Hoàng châu lâu hiểu, mính đính bán tinh thì.
Trú vĩnh thiên lưu khách cửu,
Am cao tử lạc thanh trì.
Viện giao dung thiếp tảo,
Liêm hứa tiểu đồng khuy.
Doanh thâu đổ giang sơn bán cục,
Công danh tiêu đắc thất nhàn ky.
Hồn bất giác nhất thiên hướng tịch,
Nguyệt tà song, yên tà triện, trúc tà chi.
Lãng uyển thần tiên, nhàn trung độ nhật,
Trường An công tử túy lúy vong quy.
Tương đối xứ kiêm tá cầm, kiêm tá họa, kiêm tá bích đề thi.
Dịch:
Thích gì? Ta thích cờ thôi,
Gió mây biến hóa ai ôi lạ lùng.
Cơn thua, rồng rắn khi cùng,
Mà xem lúc thắng hổ hùng dương oai.
Ngựa xe rong ruổi đường dài,
Sang sông một tốt hãm ngoài trùng vi.
Bắc nam hình thế riêng chia,
Tới lui động tĩnh tính suy đủ đường.
Xuân êm khua tỉnh giấc vàng,
Con cờ đập mạnh hương đàn thoảng bay.
Vườn riêng xum họp bạn bày(13),
Châu Hoàng, lầu Trúc rượu say nửa vời.(14)
Ngày dài lưu khách ngồi chơi,
Am cao điểm tiếng quân rơi trước bàn.
Tiểu đồng ngấp ngó bên lan,
Cô hầu quanh viện quét tàn lá rơi.
Giang san vật lộn tay đôi,
Công danh quên bẵng, chuyện đời hơn thua.
Ngày vui thời khắc êm đưa,
Trăng tà hương lạnh trúc ngơ ngẩn cành.
Thần tiên nhàn nhã vườn quỳnh,
Trường An công tử thích tình vui say.
Trong khi vui nước cờ hay,
Thêm đàn, thêm rượu, thêm đầy vách thơ.
Bấy giờ người tiều phu đương ngồi ngoài hiên đá, dạy con chim yểng học nói, bên cạnh có mấy đứa nhỏ ngồi đánh cờ. Thấy Trương đến, tiều phu kinh ngạc nói rằng:
- Chỗ này quạnh vắng, đất thẳm rừng sâu, chim núi kêu ran, muông rừng chạy quẩn, sao ông lại lần mò tới đây như vậy, chẳng cũng khó nhọc lắm ư?
Trương nói:
- Tôi là chức quan cung phụng của đương triều. Vì ngài là bậc cao sĩ, nên tôi được vâng mệnh đến đây tuyên triệu. Hiện có loan giá ở ngoài kia, xin ngài ngoảnh lại một chút.
Tiều phu cười mà rằng:
- Ta là kẻ dật dân(15) trốn đời, ông lão già lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng; ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục; bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên ta là tuyết gió trăng hoa; chỉ biết đông kép mà hè đơn, nằm mây mà ngủ khói; múc khe mà uống, bới núi mà ăn; chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều đại nào, vua quan nào?
Bèn mời Trương ở lại làm tiệc thết, cơm thổi bằng hạt điêu hồ(16), canh nấu bằng rau cẩm đái(7), lại còn có mấy món rau suối khác nữa. Canh khuya chuyện trò, đều là những nghĩa lý đáng nghe cả, nhưng không một câu nào đả động đến việc đương thời. Hôm sau, Trương lại mời:
- Những bậc quân tử đời xưa, không phải là không muốn giúp đời hành đạo; khi ẩn kín ở một chỗ, chỉ là còn đợi giá mà thôi. Cho nên tất có bức tiếu tượng đi tìm, rồi sau đồng Thương mới thấm nước(18), tất có cỗ hậu xa đi chở, rồi sau nội Mục mới thành công(19). Nay phu tử lấy tấm thân vàng ngọc, ôm một bọc kinh luân, ngoài vòng vinh lợi, vùi lấp tiếng tăm trong đám người đánh cá hái củi, giấu tài giúp vua cứu dân, náu mình chốn rừng suối, vang tiếng đến cửu trùng; đốt nón lá, xé áo tơi, nay chính là đến lúc rồi đó. Dám xin bỏ bờ đập Phó Nham, ném cần câu sông Vị, đừng để uổng hoài khát vọng của bao kẻ thương sinh.
Tiều phu nói:
- Kẻ sĩ ai có chí nấy, hà tất phải vậy! Cho nên Nghiêm Tử Lăng không đem chức Gián nghị ở Đông đô đánh đổi khỏi sóng sông Đồng (20), Khương Bá Hoài không đem bức tranh vẽ của thiên tử làm nhơ non nước Bành Thành (21). Tài ta tuy kém, so với người xưa chẳng bằng được, nhưng may lại giàu hơn Kiềm Lâu, thọ hơn Vệ Giới, no hơn Viên Tinh, đạt hơn Phụng Thiến (22), kể thì cũng đã được trời đất ban cho khá nhiều. Nếu lại còn tham cầu những cái ở ngoài phận mình, len lỏi vào đường làm quan, chẳng những xấu hổ với các bậc tiên hiền, lại còn phụ bạc với vượn hạc ở trong núi. Vậy xin ông đi đi, đừng nói lôi thôi gì nữa.
Trương nói:
- Ngài cho là thời nay không đủ để cho ngài làm việc hay chăng? Nay có đấng thánh nhân trị vì, bốn bể đều ngóng trông, người Chiêm dâng đất mà xưng thần, quân Minh nộp lễ để xin lui (23), Lão qua (24), Đại lý (25) các nước cũng tranh nhau quy phục. Hiện chỉ còn thiếu các bậc ẩn dật ở rừng núi ra giúp rập, khiến cho huân đức của chúa thượng được sánh cùng các vua Nghiêu, Thuấn ngày xưa. Ngài nếu định trọn đời ẩn lánh, bắt chước như Vụ Quang, Quyên Tử (26) thì cứ như vậy không sao. Nhưng nếu còn để ý chút nào đến đám dân chúng, mà bỏ lỡ dịp này không ra thì tôi sợ rằng sẽ mục nát cùng cỏ cây, không bao giờ lại có dịp gặp gỡ hay này nữa.
Tiều phu biến sắc nói:
- Như lời ông nói, há chẳng phải là khoe khoang quá khiến cho người nghe phải thẹn thùng sao! Vả vị vua ngự trị bây giờ có phải họ Hồ không?
- Chính phải.
- Có phải là đã bỏ khu Long Đỗ về ở đất An Tôn (27) không?
- Phải.
- Ta tuy chân không bước đến thị thành, mình không vào đến cung đình, nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bây giờ là người thế nào. Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu(28), dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai (29); phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thưởng; lòng dân động lay, nên đã xảy ra việc quân sông Đáy (30) bờ cõi chếch mếch nên đã mất dải đất Cổ Lâu (31). Vậy mà các kẻ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết. Duy có Nguyễn Bằng Cử có lượng nhưng chậm chạp (32); Hoàng Hối Khanh có học nhưng lờ mờ (33); Lê Cảnh Kỳ giỏi mưu tính nhưng không quyết đoán (34); Lưu Thúc Kiệm quân tử nhưng chưa được là bậc nhân (35); còn ngoài ra phi là đồ tham tiền thì là đồ nát rượu; phi là đồ chỉ lấy yên vui làm thích thì là tuồng lấy thế vị mà khuynh loát nhau; chứ chưa thấy ai biết những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả. Nay ta đương náu vết ở chốn núi rừng, lo lảng tránh đi chẳng được, há lại còn xắn áo mà lội nữa ư? (36) Xin ông vui lòng trở về, làm ơn từ chối hộ kẻ cư sĩ này. Ta không thể đem hòn ngọc Côn Sơn cho nó cùng cháy trong ngọn lửa Côn Sơn được. (37)
Trương nói:
- Sự xuất xử của bậc người hiền lại cố chấp đến như thế ư?
Tiều phu nói:
- Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong triều đình, vẩn đục, rối loạn lại còn toan kéo người khác để cùng đắm với mình.
Trương lặng im không trả lời, trở về đem hết những lời của tiều phu tâu lại với chúa. Hán Thương không bằng lòng nhưng còn muốn đem cỗ xe êm để cố đón ra kỳ được, sai Trương lại đi vào lần nữa. Nhưng vào đến nơi thì rêu trùm cửa hang, gai góc đầy núi, dây leo, cành rậm đã lấp mất cả lối đi rồi. Chỉ thấy ở trên vách đá có hai câu thơ đề bằng nhựa cây như sau:
Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn,
Cao Vọng sơn đầu khách tứ sầu.
Dịch:
Kỳ La cửa bể hồn thơ đứt,
Cao Vọng đầu non dạ khách buồn. (38)
Ý lời như giọng trào phúng của họ Nguyên họ Bạch, (39) thể chữ như lối triện lệ của ông Lưu ông Tư, (40) nhưng rút lại chẳng hiểu định nói gì. Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi; núi cháy hết vẫn không thấy gì, chỉ thấy con hạc đen lượn trên không bay múa. Sau cha con họ Hồ gặp phải tai họa đều đúng như lời thơ.
Người tiều phu ấy có lẽ là kẻ sĩ đắc đạo đó chăng?


Lời bình:
Than ôi! Có cái thần để biết việc sau, có cái trí để giấu việc trước, (41) đó là việc của thánh nhân; tiều phu tuy là bậc hiền nhưng đâu đã được dự đến hạng ấy. Tuy nói việc táng bại của nhà Hồ, đúng như là bói cỏ, bói rùa (42), nhưng chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người, nói nhiều may ra thì tin, đó là cái lẽ đời như vậy. Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính lòng mình để làm cái gốc chính triều đình, chính trăm quan, chính muôn dân, đừng để cho kẻ xử sĩ (43) phải bàn ra nói vào là tốt hơn cả.
Chú thích:
1) Thần Môn: người giữ việc mở cửa thành buổi sớm. Sau Khổng Tử dùng để chỉ một hiền sĩ thời Xuân thu thấy đời rối loạn không làm gì nữa nên lánh đời, ẩn thân làm việc đó.
Tiếp Dư: tên tự Lục Thông người đời Sở Chiêu vương, giả cách rồ dại không chịu ra làm quan, người đương thời gọi là Sở cuồng (người cuồng nước Sở).
Thái Hòa: một dật sĩ cuối đời Đường, họ Lâm, cũng giả làm bộ ngông cuồng để che giấu tung tích. Tương truyền sau cưỡi hạc lên tiên.
2) Khai Đại: niên hiệu của Hồ Hán Thương, từ 1403 đến 1407.
3) Triệu, Tào: Triệu Phổ và Tào Bân đều có công giúp Tống Thái Tổ thống nhất thiên hạ, dựng cơ nghiệp nhà Tống, sau đều làm Tể tướng.
4) Vương, Tạ: Vương Đạo và Tạ An đều làm quan to đời Tấn, hai nhân vật nổi tiếng phú quý phong lưu thời đó.
5) Bạn đỏ hầu xanh, nguyên văn là "thanh nô hồng hữu". Thanh nô là một chiếc gối làm bằng trúc xanh, mùa hè để dựa lưng hay gác tay chân cho mát. Hồng hữu là một thứ rượu.
6) Nam Dương: tên quận, đời Tam quốc. Gia Cát Khổng Minh ở ẩn trong lầu cỏ tại Nam Dương. Lưu Bị ba lần đến mời, ông giúp Lưu Bị lập nên cơ nghiệp nhà Thục Hán.
7) Quán Vân: quán Vân Đài ở núi Họa Sơn. Trần Đoàn, một cao sĩ đời Tống đã ẩn dật tại đấy. Mấy lần Tống Thái Tông mời ra làm quan nhưng ông không ra.
8) Lầu tây (Tây đường): nhà phía tây. Tạ Linh Vận và Tạ Huệ Liên người đời Nam Bắc triều đều giỏi thi văn. Huệ Liên chết trước. Khi Linh Vận ở nhà phía tây quận Vĩnh Gia làm thơ, bí, suốt ngày nghĩ không ra, bỗng nằm mơ thấy Huệ Liên, liền nghĩ được câu thơ hay.
Song bắc (Bắc song): cửa sổ phía bắc. Đào Tiềm người đời Tấn, sau khi từ quan về ở ẩn vào tiết tháng sáu thường nằm đón gió ở cửa sổ phía bắc, tự cho mình là hạng người thời Phục Hi.
9) Sông Tương người đẹp (Mỹ nhân Tương thủy): ngày xưa có một người bắt được một cái gối, đêm gối đầu nằm ngủ, nằm mơ thấy cùng người con gái đẹp đi chơi thuyền trên sông Tương.
10) Hoàng Châu: đời Tống, Tô Đông Pha bị trích ra Hoàng Châu, đêm đi chơi thuyền trên sông Xích Bích thấy một con hạc bay qua trên thuyền, vừa bay vừa kêu. Đêm về nằm ngủ mơ thấy một đạo sĩ mặc áo lông đến chơi, Đông Pha nói: "Ta biết rồi, có phải con hạc bay qua thuyền lúc nửa đêm là người đó chăng?".
11) Uyên Minh (nguyên văn Bành Trạch): tên tự của Đào Tiềm, làm huyện lệnh đất Bành Trạch, ông đã bỏ quan về ở ẩn.
12) Liêm Khê: Chu Liêm Khê đời Tống có một cái gối, hễ gối vào ngủ thì nghe tiếng chim quyên kêu.
13) Vườn riêng dịch chữ Độc lạc viên: Tư Mã Quang đời Tống, làm ngự sử đài ở Lạc Dương, dâng sớ xin về nghỉ có làm một khu vườn chơi ở gần núi, gọi là Độc lạc viên (vườn vui riêng một mình).
14) Vương Vũ Xứng đời Tống, làm bài ký Lầu Trúc ở Hoàng Châu có nói về cái thú đánh cờ: Nghi vi kỳ, tử thanh tranh tranh nhiên, nghĩa là nên đánh cờ, tiếng quân cờ kêu lát chát.
15) Dật dân: người dân còn sót lại, ý nói người ngoài vòng cương tỏa, trốn đời.
16) Hạt điêu hồ: tên một thứ gạo.
17) Rau cẩm đái: tên một thứ rau.
18) Vua Cao Tông nhà Thương nằm mơ thấy Thượng đế ban cho một người phù tá giỏi. Tỉnh dậy bèn vẽ một bức tranh giống người trong mộng rồi sai người mang tranh đi tìm. Sau tìm được Phó Duyệt đang đắp tường ở Phó Nham, liền đón về làm tướng. Cao Tông nói: "Ví như năm đại hạn, ta dùng người làm mưa rào".
19) Vua Văn Vương nhà Chu đã đi săn gặp Khương Tử Nha (tức Lã Vọng) câu cá ở sông Vị, mời lên chiếc xe sau chở về, tôn làm bậc thầy. Sau Lã Vọng giúp nhà Chu thắng nhà Ân ở Mục Dã.
20) Nghiêm Tử Lăng tức Nghiêm Quang, một cao sĩ đời Hán, hồi nhỏ là bạn học của Hán Quang Vũ; khi Quang Vũ lên ngôi, ông bèn đi ở ẩn, thường đi cày ở trong núi Phú Xuân và câu cá ở bến sông Đồng.
21) Khương Bá Hoài tức Khương Quảng người đời Hán Hoàn đế, quê ở Bành Thành. Vua nghe tiếng là người hiếu thuận mời ra làm quan, Quảng không chịu ra. Vua lại sai thợ vẽ đến vẽ chân dung, Quảng che mặt không cho vẽ. Ông từng nói: Quốc chính hiện nay ở trong tay bọn hoạn quan, đó là thời nào mà mình lại ra làm quan?
22) Kiềm Lâu: một hiền sĩ nước Tề, đời Xuân thu, ở ẩn, không chịu làm quan. Nhà rất nghèo, khi chết chỉ có một cái chăn để liệm, hễ che kín đầu thì hở chân, kín chân thì hở đầu.
Vệ Giới: danh sĩ đời Tấn, người đẹp, tính ôn hòa nhưng chết trẻ, khi mới 27 tuổi.
Viên Tinh: Theo sách Lã thị xuân thu, Viên Tinh Mục, một kẻ sĩ ở phương nam, đi giữa đường bị đói, nằm lả đi. Một tên ăn trộm trông thấy, đưa cơm cho ăn. Tinh Mục tỉnh lại, biết người cho ăn là kẻ trộm, liền nói: Ta không thèm ăn miếng cơm bất nghĩa của người. Rồi gượng dậy cố nôn ọe ra nhưng không được, sau đó gục đầu xuống chết.
Phụng Thiến: tên tự của Tuân Xán đời Ngụy. Vợ Xán rất đẹp, Xán rất yêu quý. Mùa đông vợ Xán bị bệnh phát nhiệt, Xán ra sân đầm hơi lạnh để vào ấp cho vợ được mát. Sau vợ chết Xán cùng chết theo.
23) Nói việc nhà Minh giả danh giúp nhà Trần khôi phục ngôi vua, đưa Trần Thiêm Bình về định cướp nước ta, nhưng bị Hồ Hán Thương đánh thua, phải giao nộp Trần Thiêm Bình rồi xin lui quân.
24) Lão Qua: nước Lào.
25) Đại lý: một quốc gia của người Thái, thành lập và tồn tại khoảng thế kỷ 12, 13, 14 ở Vân Nam.
26) Vụ Quang: người đời Hạ. Vua Thành Thang đánh được vua Kiệt nhà Hạ, đem thiên hạ nhường cho Quang, Quang không nhận đeo đá gieo mình xuống sông giả cách tự tử rồi ẩn náu biệt tích.
Quyên Tử: người nước Tề, ở ẩn tại Nham Sơn, học được đạo tiên, tương truyền có tài làm mưa làm gió.
Trên đây ý nói đó là những người ẩn dật vĩnh viễn.
27) Long Đỗ: tức Thăng Long (Hà Nội ngày nay).
An Tôn: tên làng nay thuộc huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa. Nhà Hồ xây Tây Đô ở đây.
28) Kim Âu: cung Kim Âu tức cung Bảo Thanh ở làng Kim Âu. Hồ Quý Ly xây dựng cung điện này tốn kém nên bị đời sau phê phán.
29) Hoa Nhai: Hồ Quý Ly xây thành Tây Đô, bốn cửa đều bằng đá vân nên gọi là Hoa Nhai.
30) Sông Đáy: tức sông Tiểu Đáy chảy từ huyện Sơn Dương, Tuyên Quang về qua địa phận các huyện Lập Thạch và Tam Dương (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Tháng 8 năm Kiến Tân thứ 2 (1399) đời Trần Thiếu đế, Nguyễn Nhữ Cái nổi dậy ở vùng sông Đáy chống triều đình, quân đông đến hàng vạn. Sau bị Nguyễn Bằng Cử đánh tan. Nguyễn Bằng Cử người Bắc Ninh, làm đến chức Đông lộ yên phủ sứ đời Trần.
31. Cổ lâu: Hồ Quý Ly cắt đất 59 thôn ở khu Cổ Lâu cho nhà Minh. Cổ Lâu chưa rõ vùng nào.
32. Nguyễn Bằng Cử: xem chú thích 30, cùng bài.
33. Hoàng Hối Khanh: đậu Thái học sinh đời Trần, sau làm quan với nhà Hồ.
34. Lê Cảnh Kỳ: trước làm quan với nhà Trần, sau làm quan cho nhà Hồ đến chức Hành khiển.
35. Lưu Thúc Kiệm: đậu đầu khoa Thái học sinh cuối đời Trần.
36. Lấy ý trong câu nói của Vi Trung, ẩn sĩ đời Tấn. Trương Hoa mời Trung ra làm quan, ông nói: Ta còn đương lo con sóng rớt ở cái vực sâu kia tràn đến, há lại còn xắn áo mà lội nữa ư?
37. Thiên Dân chinh trong Kinh Thư có câu: Hỏa viêm Côn sơn, ngọc thạch câu phần, nghĩa là: Lửa đốt núi Côn, ngọc đá đều cháy, (Núi Côn Sơn có tiếng sản sinh ra ngọc quý. ý nói theo nhà Hồ rồi cũng bị khốn đốn cùng nhà Hồ.
38. Cửa bể Kỳ La ở làng Kỳ La, huyện Kỳ Anh nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh, Năm 1407 Hồ Quý Ly bị bắt ở đấy. Núi cao Vọng ở làng Bình Lễ, cùng huyện, là nơi Hồ Hán Thương bị bắt, cũng vào năm 1407.
39. Nguyên, Bạch: tức Nguyên Chẩn, tự Vi Chi và Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên là hai nhà thơ nổi tiếng đời Đường.
40. Lưu là quan Thái sử nhà Chu, họ Lưu, người chế ra lối chữ đại triện. Tư là Lý Tư nhà Tần, chế ra lối chữ tiểu triện.
41. Lấy ý một câu trong Hệ từ thượng truyện của Kinh Dịch: Thần dĩ tri lại, trí dĩ tàng vãng, ý nói thánh nhân là người sáng suốt có thể hiểu biết và dành giữ mọi việc trước sau ở đời.
42. Bói cỏ bói rùa: bói cỏ thi và mai rùa để đoán việc lành dữ. Đây là cách bói của Trung Quốc thời xưa.
43. Xử sĩ: kẻ sĩ không ra làm quan, ẩn dật, trái với xuất sĩ là đi thi làm quan.


Hết chương 14 mời các bạn đọc tiếp chương 15
Chương 15: Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 15 - Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ
Chương 15: Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều


Đời nhà Trần, tục tin thần quỷ, thần từ, phật tử chẳng đâu là không có. Các chùa như chùa Hoàng Giang, chùa Đồng Cổ, chùa An Sinh, chùa An Tử, chùa Phổ Minh, quán Ngọc Thanh dựng lên nhan nhản khắp nơi; những người cắt tóc làm tăng làm ni, nhiều gần bằng nửa số dân thường. Nhất là vùng huyện Đông Triều(1), sự sùng thượng lại càng quá lắm. Chùa chiền dựng lên, làng lớn có đến hơn mười nơi, làng nhỏ cũng chừng năm, sáu. Bao ngoài bằng rào lũy, tô trong bằng vàng son, phàm người đau ốm, chỉ tin theo ở sự hư vô; gặp các tuần tiết thì đàn tràng cúng vái rất là rộn rịp. Thần, phật xem chừng cũng ứng giáng, nên cầu gì được nấy, linh ứng lạ thường.
Bởi vậy người dân càng kính tin, không dám ngạo mạn. Song đến đời vua Giản Định nhà Trần(2), binh lửa liên miên, nhiều nơi bị đốt; số chùa chiền còn lại mười không được một mà cái số còn lại ấy, cũng mưa bay gió chuyển, đổ ngã xiêu nghiêng, tiêu điều đứng rũ ở giữa áng cỏ hoang bụi rậm. Sau khi quân Ngô(3) lui, dân trở về phục nghiệp, có viên quan là Văn Tư Lập đến trị huyện ấy, thấy những cảnh hoang tàn đổ nát bèn róng rả dân đinh các xã, đánh tranh ken nứa mà sửa chữa lại ít nhiều. Ngồi ở huyện ấy được một năm, thấy dân quanh huyện khổ về cái nạn trộm cắp, từ gà, lợn, ngỗng, ngan đến cá trong ao, quả trong vườn, phàm cái gì có thể ăn được đều bị mất hết. Tư Lập than rằng:
- Ta ở vào địa vị một viên ấp tể, không có cái minh để xét ra kẻ gian, cái cứng để chế phục kẻ ác, vì nhân nhu mà hỏng việc, chính là cái lỗi tự ta.
Song Tư Lập cho là những đám trộm cắp vặt ấy, cũng không đến nỗi đáng lo ngại lắm, nên chỉ sức các thôn dân, đêm đêm phải canh phòng cẩn mật. Trong khoảng một tuần, tuy canh phòng chẳng thấy gì cả, nhưng những việc trộm cắp vặt cũng vẫn như trước. Lâu dần càng không thấy chúng kiêng sợ gì, đến nỗi lại vào bếp để khoắng hũ rượu của người ta, vào buồng ghẹo vợ con người ta, khi mọi người đổ đến vây bắt, thì kẻ gian đã biến đi đằng nào mất, chẳng thấy gì cả. Tư Lập cười mà nói:
- Té ra lâu nay vẫn ngờ oan cho lũ kẻ trộm, kỳ thực đó là loài ma quỷ, hưng yêu tác quái đó mà thôi. Những sự quấy rối bấy nay, đều tự vật này cả.
Sau đấy đi mời khắp các thầy phù thủy cao tay, xin bùa yểm trấn, làm thuyền bè mã mà tống tiễn. Song càng bùa bèn trừ yểm, sự quấy nhiễu càng tệ hơn trước. Tư Lập cả sợ, họp người dân thôn lại bàn rằng:
- Các người khi trước vẫn thờ Phật rất kính cẩn, lâu nay vì việc binh hỏa mà đèn hương lễ bái không chăm, cho nên yêu nghiệt hoành hành mà Phật không cứu giúp. Nay sao chẳng đến chùa kêu cầu với Phật, tưởng cũng là một cách quyền nghi may có thể giúp ích cho mình.
Mọi người bèn đi đốt hương lễ bái ở chùa chiền khấn rằng:
"Lũ chúng sinh này kính thờ Trời Phật, quy y đã lâu, hết lòng trông cậy ở Phật pháp. Nay ma quỷ nổi lên, quấy nhiễu dân chúng, họa hại cả đến loài lục súc, vậy mà Phật ngồi nhìn im lặng, chẳng cũng từ bi quá lắm ư? Cúi xin mở lượng thương xót, ra uy trừng phạt, khiến thần, người chẳng lẫn, dân vật đều yên, hết thảy chúng sinh, đều được đội ơn nhiều lắm. Song loạn lạc vừa yên, sinh kế chưa khôi phục được, tấc gỗ mảnh ngói khó lòng xoay xở vào đâu. Đợi khi làm ăn giàu có sẽ lại xin sửa lại chùa chiền đền công đức ấy".
Đêm hôm ấy, trộm cắp hoành hành lại dữ hơn trước. Tư Lập chẳng biết làm sao được; nghe Vương tiên sinh ở huyện Kim Thành(4) là người giỏi bói dịch, bèn đến bói một quẻ xem sao. Vương tiên sinh bói rồi nói rằng:
Cưỡi trên ngựa tốt,
Mặc áo vải săn.
Túi da tên thiếc,
Đích thị người thần.
Lại dặn rằng:
- Ông muốn trừ được nạn ấy, sáng mai nên theo phía tả cửa huyện đi về phương Nam, hễ thấy người nào vận mặc như thế, mang xách như vậy, quyết là người ấy có thể trừ hại được, nên cố thỉnh mời, dù từ chối cũng đừng nghe.
Hôm sau, Tư Lập cùng các phụ lão đúng theo lời của Vương tiên sinh để trông ngóng xem, những kẻ đi, người lại đầy đường, chẳng thấy ai giống như thế cả. Trời đã xế chiều ai nấy chán nản sắp muốn về, chợt có một người từ trong núi bước ra, mình mặc áo vải, đeo cung cưỡi ngựa. Mọi người cùng chạy ra phục lạy ở phía trước mặt. Người ấy ngạc nhiên hỏi, mọi người cũng kể rõ bản ý của mình. Người ấy cười mà nói rằng:
- Các ông sao mà quá tin bói toán thế. Tôi từ nhỏ làm nghề săn bắn, mình không rời yên ngựa, tay không rời cung tên. Hôm qua nghe nói ở núi An Phụ(5) có nhiều giống nai, báo, thỏ tốt nên nay định đến để săn, nào có biết lập đàn thầy pháp, bắt ma vô hình là công việc thế nào.
Tư Lập nghĩ bụng người này tất là một vị pháp đàn cao tay vì không muốn nổi tiếng về thuật bùa bèn, vì sợ mang lụy vào thân, nên mới nhởn nhơ trong chốn khe núi, giấu mình ở thú chơi cung mã, bèn nhất định cố mời kỳ được. Người kia xem chừng không thể từ chối, phải gượng nghe lời. Tư Lập mời người ấy về huyện để ở trong nhà quán xá, giường chiếu màn đệm rất sang trọng, săn sóc kính cẩn như một vị thần minh. Người ấy nghĩ riêng rằng:
- Họ tiếp đãi kính cẩn với ta như thế này, chỉ vì cho ta là có tài trừ quỷ. Nhưng thực thì ta chẳng có tài gì về việc đó, thế mà đi hưởng sự cung cấp của người, sao cho đành tâm. Nếu không sớm liệu trốn đi thì có ngày xấu hổ.
Hôm ấy ước chừng nửa đêm, thừa lúc mọi người đã ngủ say, người ấy bèn rón rén ra khỏi huyện lỵ. Khi đến phía Tây cái cầu ván bấy giờ trời tối lờ mờ, trăng khuya chưa mọc, thấy có người hình thể to lớn, hớn hở từ dưới đồng đi lên, người ấy bèn lẻn vào chỗ khuất, ngồi rình để xem họ làm trò gì. Một lát, thấy họ thò tay khoắng xuống một cái ao rồi bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ, đều bỏ vào mồm nhai nuốt hết, lại nhìn nhau mà cười mà nói:
- Những con cá con ăn ngon lắm nên ăn dè dặt mới thấy thú, há chẳng hơn những thức hương hoa nhạt nhẽo họ thường dâng cúng chúng mình ư? Đáng tiếc là đến bây giờ, chúng mình mới được biết những vị ngon ấy.
Một người cười mà nói:
- Chúng mình thật to đầu mà dại, bấy nay bị người đời chúng nó lừa dối; ai lại đem cái oản, một vài lẻ gạo để lấp cái bụng nặng nghìn cây mà đi giữ của cho chúng nó bao giờ. Nếu không có những buổi như buổi hôm nay mà cứ trường chay mãi như trước thì thật là một đời sống uổng.
Một người nói:
- Tôi xưa nay vẫn ăn đồ mặn không phải ăn chay tịnh như các ông. Nhưng hiện giờ dân tình nghèo kiết, chúng nó chẳng có gì để cúng vái mình. Bụng đói miệng thèm, không biết mùi thịt là cái gì đã trải qua một thời gian lâu lắm, chẳng khác chi đức Khổng Tử ở nước Tề ba tháng không được đụng đến miếng thịt. Song đêm nay, trời rét, nước lạnh, khó lòng ở lâu chỗ này được, chi bằng lên quách vườn mía mà bắt chước Hổ đầu tướng quân(6) ngày xưa.
Đoạn rồi họ dắt nhau đi lên, vào vườn mía, nhổ trộm mà tước mà hít. Người kia đang ngồi núp một chỗ, liền dương cung lắp tên, thình lình bắn ra, tin luôn ngay được hai người. Bọn gian kêu ấm ớ mấy tiếng rồi ồ chạy cả, chừng độ mấy chục bước đều mờ khuất hết. Song lúc đó còn thấy có tiếng mắng nhau:
- Đã bảo ngày giờ không tốt thì đừng nên đi, không nghe lời ta, bây giờ mới biết.
Người kia kêu réo ầm ĩ lên, dân làng quanh đấy giật mình tỉnh dậy, cùng đốt đèn thắp đuốc chia nhau mỗi người đi đuổi một ngả. Họ soi thấy dấu máu vấy trên mặt đất, bèn theo dấu máu ấy đi về phía Tây. Chừng hơn nửa dặm đến một cái chùa hoang, vào thấy hai pho tượng Hộ pháp xiêu vẹo trong chùa, trên lưng mỗi tượng đều có một phát tên cắm vào sâu lắm (7). Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, cho là một sự lạ xưa nay chưa có bao giờ. Họ liền hẩy đổ hai pho tượng. Trong lúc ấy còn nghe có tiếng nói rằng:
- Vẫn tưởng kiếm cho no bụng, ai ngờ phải đến nát thân. Nhưng bầy ra mưu mẹo là tự lão thủy thần kia. Hắn là chủ mưu mà được thoát nạn còn chúng ta theo hắn mà phải chịu vạ, thật cũng đáng phàn nàn lắm.
Đó rồi họ sai người đến miếu Thủy thần, thấy pho tượng thần đắp bằng đất, bỗng biến sắc, mặt tái đi như chàm đổ, mấy cái vẩy cá còn dính lèm nhèm trên mép, lại phá hủy luôn cả pho tượng ấy.
Quan huyện Văn Tư Lập dốc hết hòm rương để trả ơn, người kia chở nặng mà về. Từ đấy yêu tà tuyệt tịch không còn thấy bóng tăm đâu nữa.


Lời bình:
Than ôi! Cái thuyết nhà Phật thật vô ích mà có hại quá lắm. Nghe lời nói năng thì từ bi, quảng đại, tìm sự ứng báo thì bắt gió mơ hồ. Nhân dân kính tín đến nỗi có người phá sản để cúng cho nhà chùa. Nay xem cái dư nghiệt ở trong một ngôi chùa nát mà còn gớm ghê như thế, huống ngày thường cúng vái sầm uất phỏng còn tai hại đến đâu. Song những anh quân, hiền tướng, thường muốn trừ bỏ mà vẫn không được. Bởi các đấng quân tử cao minh, thường có nhiều người rúp rập, chẳng hạn như Tô học sỹ(8) đời Tống, Lương Trạng nguyên(9) đời Lê, ước sao có hàng trăm ông Hàn Xương Lê(10) ra đời, xúm lại mà đánh, đốt hết sách và chiếm hết nhà mới có thể được.
Chú thích
(1) Đông Triều: nay là huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
(2) Trần Giản Định: tên là Ngỗi, dấy quân chống quân xâm lược Minh từ 1407, niên hiệu Hưng Khánh.
(3) Quân Ngô: chỉ quân xâm lược Minh.
(4) Huyện Kim Thành: thời Trần thuộc châu Đông Triều, nay thuộc địa phận tỉnh Hải Dương.
(5) Núi An Phụ: nguyên chú: "Núi ở huyện Giáp Sơn", có lẽ nay là vùng Kinh Môn thuộc tỉnh Hải Dương.
(6) Hổ đầu tướng quân: đời vua Tấn An Đế, Cố Hải Chi làm chức Hổ đầu tướng quân, người đương thời gọi là Cố Hổ đầu. Mỗi lần ăn mía, Cố đều ăn từ ngọn xuống gốc, lại nói: "Ăn như thế thì mỗi lúc mới đi đến chỗ thú vị".
(7) Nguyên văn: "... tên cắm ngập đến lông vũ", tức là sâu vào đến lông vũ đuôi mũi tên.
(8) Tô Học Sĩ: Tô Đông Pha, nhà thơ lớn đời Tống, thường đến chùa Kim Sơn, chơi thân với sư Phật ấn.
(9) Lương Trạng nguyên: tức Lương Thế Vinh, người xã Cao Hương, huyện Thiên Bản (nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định), đỗ Trạng nguyên năm Quang Thuận thứ 4 (1463) đời Lê Thánh Tông, rất sùng đạo Phật.
(10) Hàn Xương Lê: Hàn Dũ đời Đường. Ông có bài biểu can ngăn việc rước xương Phật, thể hiện tư tưởng bài Phật. Ông khuyên vua đốt sách kinh Phật, bắt sư phải hòan tục.


Hết chương 15 mời các bạn đọc tiếp chương 16
Chương 16: Chuyện nàng Thúy Tiêu
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 16- Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ

Chương 16: Chuyện nàng Thúy Tiêu

Dư Nhuận Chi người đất Kiến Hưng (1), tên là Tạo Tân, có tiếng hay thơ; nhất là về những bài hát, lại càng nức danh ở kinh kỳ, mỗi bài làm ra, phường hát bội đem tiền tặng biếu rất hậu để xin lấy. Nhân thế Dư càng nổi thanh giá ở chốn tao đàn. Cuối đời Thiệu Phong (2) nhà Trần, Dư nhân có việc, vào yết kiến quan Trần soái Lạng Giang là Nguyễn Trung Ngạn (3). Ông Nguyễn thấy Dư đến, lật đật ra tiếp, đặt tiệc ở Phiếm Bích đường thết đãi, gọi mười mấy người con hát ra hát múa ở trước tiệc. Trong bọn con hát có ả Thúy Tiêu là người rất xinh đẹp. Ông Nguyễn đùa bảo Dư sinh rằng:
- Ấy tùy ngài kén chọn trong bọn ấy, hễ bằng lòng ai thì tôi xin tặng cho.
Rồi âm nhạc nổi lên. Sinh ngâm một bài thơ sau này:
Liên hoa đóa đóa ỷ hồng hàm,
Tằng đối tiên gia ngọc chủ đàm.
Túy vãn tiêu y hô đắc khởi,
Sổ thanh hảo xướng vọng Giang Nam.
Dịch:
Hoa sen đóa rỡ ràng tươi,
Góp mặt nhà tiên lúc nói cười.
Say kéo áo là nghe gọi dậy,
Giang Nam (4) một khúc quyến hồn người.
Ông Nguyễn cười bảo Thúy Tiêu rằng:
- Thầy đồ để ý vào nàng (5) đấy.
Sinh hôm ấy uống rượu rất say, mãi đến đêm khuya mới tỉnh, đã thấy nàng Thúy Tiêu ở cạnh, cảm ơn ông Nguyễn không biết chừng nào. Sáng hôm sau Sinh vào tạ ơn ông Nguyễn để về. Ông Nguyễn bảo:
- Ả ấy kể cũng là người phong lưu, thầy nên khéo yêu thương lấy.
Sinh bèn đem nàng về Kiến Hưng. Thúy Tiêu vốn có khiếu thông tuệ, mỗi khi Sinh đọc sách, nàng cũng học thầm mà rồi thuộc được. Sinh nhân đem những quyển sách nói về thơ từ mà dạy nàng. Chưa đầy một năm, nàng đã làm được thơ từ ngang với của Sinh. Năm Mậu tuất (1358), nhân gặp khoa thi, Sinh sắm sửa hành trang lên kinh; không nỡ rời nhau, nên đem theo cả nàng cùng đi, cùng trọ tại phố Hàng Vóc ở cửa sông. Gặp ngày mồng một đầu năm, Thúy Tiêu rủ mấy người bạn gái đến chùa tháp Báo Thiên (6) dâng hương lễ Phật. Bấy giờ có quan Trụ quốc họ Thân ngầm đi chơi phố, trông thấy Thúy Tiêu đẹp, bắt, cướp đem về làm của mình. Sinh làm đơn kiện tận triều đình, nhưng vì họ Thân uy thế rất lớn, các tòa các sở đều tránh kẻ quyền hào, gác bút không dám xét xử. Sinh đau buồn lắm bèn chẳng thiết gì thi cử nữa. Một hôm Sinh thủng thỉnh đi chơi ngoài phố, gặp đám người cưỡi ngựa đi xem hoa về, tiền hô hậu ủng rất oai vệ, trên đường thì trâm thoa rơi rắc, hồng tía tơi bời, sau cùng thấy Thúy Tiêu ngồi trên một chiếc kiệu căng riềm lụa hoa, đi qua dưới rặng liễu. Sinh muốn chạy đến than thở, nhưng thấy những người cùng đi với nàng đều là bậc quyền quý, không dám đường đột chỉ đắm đuối nhìn và ứa hai dòng lệ, không nói được một lời nào.
Nhân Thúy Tiêu trước có nuôi đôi chim yểng, một hôm Sinh trỏ đôi chim mà bảo rằng:
- Chúng mày là loài vật nhỏ, còn được suốt ngày quấn quít với nhau, không phải như ta lạnh lùng gối chiếc. Ước sao chúng mày nhẹ tung đôi cánh, vì ta đưa đến cho nàng được một phong thư.
Con chim yểng nghe nói, kêu lên và nhảy nhót như dáng muốn đi. Sinh bèn viết một phong thư, buộc vào chân nó. Thư rằng:
Tạc giả liễu âm nhất quá,
Đạo đạt vô do.
Ký song nhãn ư phiến thời,
Tằng chỉ xích nhi thiên lý.
Thủy tín hầu môn chi tự hải,
Đệ hiềm khách tứ chi như thu.
Bị thuật cựu do,
Bội tăng thâm cảm.
ức tích ngã bồi thi tịch,
Tử hựu ca diên.
Bất lao lục ỷ chi đàn,
Nhục hạ Tử Vân chi huệ.
Tiếu vị thù ư khiển quyển,
Hận dĩ tảo ư phân phi.
Hồng biệt yến nhi thu thanh,
Vân sầu Tần nhi mính sắc.
Nhất tắc noãn lưu tô chi trướng,
Nhất tắc hàn hồ chỉ chi khâm.
Đãn tham tú mạc chi hoan,
Khởi niệm thư lâu chi khổ.
Mỗi thính đoản tường trệ vũ,
Phế bích hàn tương.
Trường thiên sương nhạn chi chinh ly,
Tịch tiêu phong địch chi xướng vãn.
Mỗi hữu hàm tình bất ngữ,
Yểm quyển trường hu.
Đối cảnh quan hoài,
Bất năng dĩ dĩ.
Y, Hứa Ngu hầu chi bất tác,
Côn Lôn Nô chi dĩ phi.
Ưng vô phản bích chi kỳ,
Không phụ tầm phương chi ước.
Viên bằng thốn chử,
Dụng tả ai thiên.
Dịch:
Kiệu qua dưới liễu hôm nào,
Vội vàng chẳng kịp đưa trao một lời.
Trông ai nước mắt thầm rơi,
Tấc gang bỗng cách đôi nơi mịt mùng.
Cửa hầu sâu thẳm nghìn trùng,
Sớm hôm khách những riêng lòng ngẩn ngơ,
Tình xưa kể đến bao giờ,
Cảm sầu mọi mối như tơ rối bời.
Thơ ngâm nhớ bữa tiệc mời,
Giọng ca lanh lảnh để người như say.
Cung đàn nào đã so dây.
Giai nhân bỗng được trao tay rước về.
Tình sâu chưa kịp giãi giề,
Bắc nam vội đã chia lìa khá thương.
Chim hồng buồn bã kêu sương,
Mây Tần thăm thẳm xa buông tối mù.
Người nương trướng gấm êm ru,
Người ôm một mảnh chăn cù giá đông.
Ham vui nệm tía màu hồng,
Biết chăng kẻ chốn thư phòng thương đau.
Mưa tường dế vách họa nhau,
Nhạn tan khóc sớm, địch sầu thổi khuya,
Lặng ngồi gấp sách ủ ê,
Lòng này cảnh ấy khuây đi được nào,
Côn Nô, Hứa Tuấn (7) nơi nao?
Tìm hương trả bích còn ao ước gì (8)?
Mảnh tiên viết gửi trao đi,
Đau thương kể nỗi vân vi với người.
Con chim yểng bay đi, đến đậu ở màn Thúy Tiêu.
Nàng được thư, bèn giở giấy Tiết Đào (9) dấp bút Lâm Xuyên (10) viết một bức thư để trả lời. Thư rằng:
Thiếp Thúy Tiêu thiếu ỷ thị môn,
Trưởng đầu nhạc tịch.
Điều ca tiếp khúc, đồ khoa Hà hữu chi phong lưu,
Cử án tề my, vị thức Mạnh Quang chi thái độ.
Thùy tri hảo tịch,
Tiện Thị lương môi,
Lục ỷ cầm tâm, bất giả Trường Khanh chi điệu,
Hoa đường thi cú, khốc lân Đỗ Mục chi tài.
Tự hỷ châm giới chi hữu duyên,
Thâm khách đằng la chi đắc thác.
Thiên Thai khách phùng khách vị tận thâm hoan;
Chương Đài, nhân tống nhân, tải tương ly hận.
Giai ngẫu phiên thành ư oán ngẫu,
Hảo duyên chuyển tác ư ác duyên.
Sỉ nhẫn thê nha,
Cụ tần đả áp.
Xuất nhập khởi cư chi tế, vị miễn tòng quyền;
Biệt ly khê khoát chi hoài, bất thăng cảm cựu.
Duy dư thúy nga quyện tảo,
Lục mấn dung sơ.
Phấn bích đăng tàn, thương xuân trường đoạn;
Hương liêm tú quyện, biệt lệ ngân đa.
Tạc thừa ký nhạn chi thư,
Bội thiết ly loan chi tưởng.
Tuy Hàn Hoành chi liễu, tạm chiết trường điều,
Nhiên hợp Phố chi châu, đương hoàn cố quận.
Du du tâm tự,
Thư bất tận ngôn.
Dịch:
Thiếp xưa con gái nhà nghèo,
Lớn lên ca xướng học theo bạn bầy.
Phong lưu quen thú Hà Tây (11)
Chưa tường án Mạnh ngang mày (12) như ai.
Tiệc hoa một bữa khuyên mời,
Mối manh duyên khéo an bài tự đâu.
Tràng Khanh chưa gảy Phượng cầu (13),
Mến tài Đỗ Mục bởi câu Hoa đường (14).
Duyên kim phận cải xe vương,
Những mừng giây sắn được nương bóng tùng.
Thiên Thai một cuộc kỳ phùng (15),
Thú vui lửa đượm hương nồng chưa bao.
Chương Đài cành liễu nghiêng chao,
Biệt ly mang nặng biết bao oán sầu.
Duyên may hóa rủi ngờ đâu,
Ngậm hờn nuốt tủi chịu rầu cho xong.(16)
Bẽ bàng đổi khác tư dong,
Tóc xanh biếng chải, môi hồng biếng tô.
Thương xuân vách phấn đèn lu,
Trông gương ngấn lệ mơ hồ, ngại soi.
Tiện hồng thư mới tới nơi,
Chia loan càng xót xa đời biệt ly.
Liễu Hàn tạm bẻ vin đi,
Nhưng châu Hợp Phố phải về quận xưa (17).
Nỗi lòng trăm mối vò tơ,
Thư dài đến mấy vẫn chưa hết lời.
Thúy Tiêu từ đó buồn rầu sinh ốm. Quan Trụ quốc bảo:
- Chừng nàng hãy còn nhớ anh chàng bán thơ phải không?
Nàng nói:
- Quả có như vậy, tình sâu gắn bó, hờn nặng chia lìa, lời thề chung sống chưa phai, điều hẹn cùng già đã phụ. Nay thì Sở mưa Yên tạnh, liễu héo đào tươi, bằn bặt xa nhau, hờn ôm thiên cổ. Cho nên người xưa đã coi rẻ giàu sang mà nhớ anh hàng bánh (18), xem khinh sung sướng mà gieo xuống tầng lầu (19), thật là phải lắm.
Nói rồi nàng toan lấy chiếc khăn là thắt cổ tự tử. Trụ quốc nói dối rằng:
- Ta cũng đang nghĩ về việc đó lắm. Vậy nàng hãy cứ nên bình tĩnh mà bảo dưỡng thân thể, sớm muộn ta sẽ vời chàng họ Dư đến đây, để nàng được nối mối duyên xưa. Tội gì mà coi rẻ tính mệnh, chết một cách chẳng vào đâu cả.
Nàng nói:
- Quả được như vậy thì thiếp xin vâng lời tướng công. Nếu không thì tính mệnh này chỉ ngày hôm nay là hết.
Trụ quốc bất đắc dĩ, phải vời Dư đến, dỗ dành sẽ trả Thúy Tiêu và bảo:
- Ta làm quan ngôi đến Thượng công, quyền cao lộc hậu, việc khoản đãi khách khứa, mỗi ngày tốn phí đến hàng chung thóc. Nay vời thầy đến là do ý tốt chứ không có ý xấu gì cả. Huống đất Trường An này gạo châu củi quế, thầy lấy gì mà tiêu dùng đủ. Vậy nếu thầy không ngại thanh tích thì nên cứ ở luôn đây cho đỡ tốn.
Bèn sai dọn một cái buồng nhỏ làm nơi đọc sách cho Sinh, hằng ngày sai một ả tiểu hoàn hầu hạ. Mỗi khi có tiệc mời Sinh vào dự, Trụ quốc thường lấy lời dịu dàng khoản tiếp. Nhưng về việc Thúy Tiêu, tuyệt nhiên không nhắc nhỏm đến. Sinh mon men hỏi tới, Trụ quốc gạt đi mà rằng:
- Mối tình thương yêu ai mà chẳng thế. Tưởng nàng nhớ thầy, cũng chẳng khác gì thầy nhớ nàng. Nhưng vì ít lâu nay nàng khó ở, nên chưa thể ra cùng thầy tương kiến được. Thầy hãy cứ thong thả, đi đâu mà vội.
Thúy Tiêu nghe Sinh đã đến, cũng muốn được gặp, nhưng trong nhà, nàng hầu vợ lẽ nhiều lắm, vả coi giữ nghiêm ngặt, nên không có dịp nào tìm đến Sinh được. Một hôm nhân buổi chầu sớm chưa tan, thừa lúc những nàng hầu vợ lẽ đang ngủ, nàng lén đến thư phòng của Sinh. Phải lúc Sinh chạy đi đâu vắng, nàng thấy trên vách có đề hai bài thơ sau này:
Tiểu giai phá lý lạc đài y,
Khách xá thê lương độc yểm phi.
Thanh điểu bất lai xuân tín vãn,
Sa đình mạc mạc hựu tà huy.
Dịch:
Trước thềm giày rách giẫm trên rêu,
Cửa khép phòng văn lạnh hắt hiu.
Bằn bặt chim xanh tin chẳng lại,
Sân không vắng vẻ, bóng trời chiều.
Nguyệt điện trường hàn tỏa thúy my,
Tiên nga hà nhật thị quy kỳ?
Tương tư khởi trực vô giai cú,
Bất bả văn chương oán biệt ly.
Dịch:
Cung trăng lạnh lẽo khóa mày ngài.
Tiên tử bao giờ lại tái lai?
Thương nhớ thiếu đâu câu thấm thía,
Ngại đem chữ nghĩa khóc thương hoài.
Nàng toan họa hai bài thơ ấy, nhưng đã nghe thấy tiếng ngọc kha (20) về đến cổng rồi, thành ra không thể họa và đề được nữa.
Lại một hôm, nàng sai con hầu thân tín của mình là Kiều Oanh đến phòng Sinh xin ngủ. Sinh đuổi ra thì Kiều Oanh nói:
- Thúy Tiêu nương tử sai tôi như vậy. Nương tử nghĩ lang quân một mình buồn tẻ, nên sai tôi đến hầu hạ chăn gối, cũng như nương tử ở bên mình lang quân.
Sinh bằng lòng. Từ đấy tin tức mới thông mà tình khuê môn mới đạt đến nhau được.
Bấy giờ sắp đến ngày trừ tịch, Sinh nhân lúc tiện, bảo với Trụ quốc rằng:
- Tôi vì một mối ân tình mà vào đây làm người khách trọ, song non Vu gang tấc, tin tức chẳng thông, ngày tháng lữa lần, năm lại gần hết. Cái việc trả châu (21) chẳng dám lại nói đến nữa. Chỉ xin được ở trước rèm một lần gặp mặt, trò chuyện với nhau một lát để rồi chia tay.
Trụ quốc bằng lòng mà nói:
- Chỉ vài hôm sau nữa, là đêm tốt lành ta sẽ làm cái việc Xương Lê thả nàng Liễu Chi (22), Nghi Thành buông nàng Cầm Khách (23), quyết không ngăn cấm sự ham muốn của người khác để thỏa cái vui tai mắt của mình. Nhà thầy hãy nán đợi, đừng lo chậm muộn.
Sinh vâng dạ lui ra.
Đến đêm đã hẹn, Sinh đốt đèn không ngủ ngồi chờ. Chừng một trống canh, bỗng nghe thấy tiếng giày lẹp kẹp ở bên khóm trúc; mở cửa ra đón, té ra là một con hầu áo xanh. Sinh hỏi nó đến làm gì thì ra nó bưng nước chè đến. Một lúc lại thấy ở trước hoa có tiếng sột soạt, rồi có tiếng gõ cửa, xốc áo ra xem, lại thấy một người đầy tớ trai. Hỏi đến làm gì, thì ra đem rượu tới. Chờ mãi đến quá nửa đêm, vẫn bặt tin hơi, rất là thất vọng. Ngày hôm sau, Sinh bảo với Kiều Oanh rằng:
- Nhờ em nói hộ với Thúy Tiêu: Ta nặng mối tình riêng, tin lời nói dối. Ai lại đến đòi gặp mặt một lần để nói chuyện cũng không được, vậy mà lại mong người ta mở cửa để thả cho nàng ra thì có đời nào! Nếu ta cứ ở mãi đây, vạn nhất lòng ghen nổi dậy, kế độc buông ra thì ta là thất cơ mà họ là đắc kế. Về đi thôi! Về đi thôi! Sao nên vì cớ muốn tìm ngọc châu mà lại đến nằm ở trước hàm con ly long bao giờ (24).
Thúy Tiêu lại sai Kiều Oanh đến bảo chàng:
- Thiếp sở dĩ nấn ná ở đây, chưa làm được một cái chết của nàng Lục Châu, là chỉ vì còn có chàng. Nay chàng định về phỏng có ước hẹn với nhau điều gì không? Thiếp nghe lệ cũ bản triều, đêm hôm mồng một tết, có đốt cây bông ở ngoài bờ sông, người trong kinh thành đều kéo ra xem đông nghịt. Nếu chàng chưa nỡ rẻ bỏ thì đêm ấy xin chờ đợi nhau. Loan chia phượng hợp, chỉ ở trong một chuyến này. Thiếp hãy xin hoãn để chờ.
Ý Sinh bèn quyết, Trụ quốc thấy Sinh xin đi, lấy làm dễ chịu, tặng cho rất nhiều tiền bạc tơ lụa không tiếc tí gì. Sinh chở nặng một chuyến mà về. Dọc đường gặp người đầy tớ già, hắn bảo Sinh rằng:
- Cậu có sự lo buồn gì chăng? Sao người gầy võ đi khác hẳn ngày trước?
Sinh nói duyên cớ và kể lời hẹn của Thúy Tiêu. Người đầy tớ già nói:
- Việc ấy dễ lắm, tôi xin hết sức giúp cậu.
Đến ngày mồng một, thầy trò cùng ra bến Đông, quả thấy Thúy Tiêu đứng xem ở trên bến. Người đầy tớ bèn đi lẻn vào rút dùi sắt trong tay áo ra, nện bừa vào đám người theo hầu, khiến bọn phu kiệu, phu dù đều chạy tan hết, rồi cướp lấy Thúy Tiêu đem đi. Hai người trông thấy nhau, nửa phần thương xót, nửa phần mừng vui, nhưng còn sợ Trụ quốc biết đuổi theo bắt lại. Thúy Tiêu nói:
- Hắn chỉ là đồ yếu hèn mà làm đến bậc Vệ, Hoắc (25 )kêu xin chạy chọt, lúc nào ở cửa cũng rộn rập những người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà, chồng chất đầy dẫy. Trừ ra gặp phải hỏa tai, của cải trong nhà ấy không biết có cách nào tiêu mòn đi được. Nhưng tội đầy ác chứa, thế tất cũng chẳng được lâu. Có điều bây giờ họ còn đương thịnh, uy thế ấy cũng rất đáng sợ. Chi bằng ta ẩn hình náu vết, về trốn lánh ở chỗ nhà quê, khỏi bày ra tai mắt mọi người để tránh cái vạ nguy hiểm.
Sinh cho là phải, bèn bí mật đưa nhau xuống hạt Thiên Trường, ở nhà một người bạn họ Hà. Năm Đại Trị thứ 7 (26) Trụ quốc vì cớ xa xỉ mà phải tội, Sinh về Kinh sư thi đỗ tiến sĩ, vợ chồng ăn ở với nhau đến già.


Lời bình:
Than ôi! Người con trai bất trung, ông vua trung thường xấu hổ lấy làm bề tôi; người con gái bất chính, kẻ sĩ trung thành xấu hổ lấy làm vợ. Thúy Tiêu là một ả ca xướng, chẳng là người chính chuyên, không hiểu Nhuận Chi ham luyến về cái gì? Vì nàng hiền chăng? Nhưng hết là vợ họ Trương lại là hầu họ Lý (27)? Vì nàng đẹp chăng? Thì hết làm mê Hạ Sái lại làm hoặc Dương Thành(28). Vậy mà lại khinh thường sự đi sự đến, nhẫn nhục tới ở với người, sờ đầu cọp, vuốt râu cọp, suýt nữa thì không thoát miệng cọp. Như chàng Nhuận Chi, thật là một người ngu vậy.


Chú thích:
(1) Kiến Hưng: thời Trần Hồ là phủ, gồm đất các huyện ý Yên, Thiên Bản, Độc Lập, Đại Loan, Vọng Doanh, tương đương với các huyện ý Yên, Vụ Bản, Nghĩa Hưng Nam Định ngày nay.
(2) Thiệu Phong: niên hiệu Trần Dụ Tông từ 1341 đến 1357.
(3) Nguyễn Trung Ngạn: (1289-1368 hoặc 1370); người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Đỗ Hoàng giáp khoa thi Thái học sinh đời Trần Anh Tông (1293-1314), từng đi sứ nhà Nguyên năm 1314, giữ những chức vụ quan trọng dưới thời Trần Minh Tông (1314-1329).
(4) Giang Nam: nguyên văn là Vọng Giang Nam, vốn là tên nhạc khúc, đến đời Đường mới thành tên một từ điệu, có nhiều lời hát khác nhau.
(5) Vì Trong câu thứ ba có chữ tiêu nên Nguyễn Trung Ngạn nói như vậy.
(6) Chùa tháp Báo Thiên: hiện đã không còn, nền cũ ở khu vực Nhà thờ lớn, Hà Nội.
(7) Côn Lôn Nô và Hứa Tuấn: Côn Lôn là tên đất; người nô bộc ở Côn Lôn tên là Ma Lặc có sức mạnh và tấm lòng một hiệp khách, đã giúp cho chàng Thôi Giác và kỹ nữ Hồng Tiêu thành đôi.
Hứa Tuấn: hiệp khách đã đột nhập phủ tướng Phiên là Sa Tra Lợi cướp nàng Liễu thị trả về cho Hàn Hoành. Xem thêm chú thích 4 Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu.
(8) Tìm hương chữ là tầm phương, xuất ở câu thơ "Tự thị tầm phương khứ hiệu trì" của Đỗ Mục, nói về việc duyên lứa lỡ làng. Trả bích xuất ở điển Trùng Nhĩ nước Tấn. Trùng Nhĩ chạy nạn sang Tào, Hy Phụ Cơ đưa biếu mâm cơm và ngọc bích. Trùng Nhĩ chỉ nhận mâm cơm còn trả lại ngọc bích. Từ đấy người ta dùng chữ phản bích (trả lại bích ngọc) để nói cái gì trả về chỗ cũ.
(9) Tiết Đào đời Đường là một danh kỹ ở đất Thục, hay làm những bài thơ ngắn, vì tiếc giấy nên cắt hẹp lại. Từ đấy, những tài tử trong Thục lấy thế làm tiện, cũng cắt những tờ giấy nhỏ để viết thơ, gọi là tờ giấy Tiết Đào.
(10) Lâm Xuyên: Vương Hy Chi đời Tấn là người viết chữ rất đẹp, từng làm chức Nội sử ở Lâm Xuyên, vì thế trong văn học thường dùng mỹ từ Lâm Xuyên để gọi bút viết.
(11) Lấy ý từ điển trong sách Mạnh Tử: Thuần Vu Khôn nói: "Ngày xưa Vương Báo ở đất Kỳ mà Hà Tây hát hay"; đây ý nói mình chỉ biết hát xướng và hát giỏi.
(12) Nàng Mạnh Quang đời Hán, rất kính trọng chồng là Lương Hồng, mỗi khi dọn cơm cho chồng ăn, thường nâng án lên tận ngang mày.
(13) Tràng Khanh là tên tự của Tư mã Tương Như. Tương Như gảy khúc đàn "Phượng cầu hoàng" mà lấy được nàng Trác Văn Quân.
(14) Đời Đường, Đỗ Mục làm chức Ngự sử phân ty ở Lạc Dương, đến dự tiệc ở nhà vị đại thần là Lý Nguyên. Nhà Lý có nhiều danh kỹ hầu tiệc. Rượu say, Đỗ hỏi Lý: "Nghe nói nhà ngài có ả danh kỹ là Tử Vân, chẳng hay là người nào vậy?" Lý trỏ cho biết. Đỗ nhìn lúc lâu rồi nói: "Lời đồn không ngoa, ngài cho tôi quách". Bọn ca kỹ đều ngoảnh lại nhìn rồi phá lên cười. Đỗ nhân làm một bài thơ câu đầu là "Hoa đường kim nhật ỷ duyên khai".
(15) Thiên Thai: xem chú thích 29, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên.
(16) Đoạn này bản dịch rút gọn 4 câu thành 1 câu:
Sỉ nhẫn thê nha,
Cụ tần đả áp.
Xuất nhập khởi cư chi tế, vị miễn tòng quyền;
Biệt ly khế khoát chi hoài, bất thăng cảm cựu.
(Xấu hổ phải đậu cùng con quạ,
Sợ hãi nhiều khi con vịt bị đánh.
Ra vào, đi đứng đều phải tòng quyền,
Ly biệt cách xa, lòng khôn xiết cảm.)
Dịch thành:
Ngậm hờn nuốt tủi chịu rầu cho xong
(17) Vùng biến quận Hợp Phố vốn sản ngọc châu. Gặp khi có quan Thái thú không tốt đến cai trị, ngọc châu biến mất. Sau quan Thái thú ấy đổi đi nơi khác, ngọc châu lại về.
(18) Ninh Vương nhà Đường chiếm cướp vợ của người hàng bánh, đã trải hàng năm mà người vợ vẫn nhớ thương chồng cũ. Ninh Vương gọi người hàng bánh đến, vợ chồng trông thấy nhau cùng ứa nước mắt, Vương lại trả cho về đoàn tụ với nhau.
(19) Lục Châu là vợ lẽ của Thạch Sùng. Triệu Vương Luân giết Thạch Sùng để cướp Lục Châu, Lục Châu không chịu, từ trên lầu gieo mình xuống đất tự tử.
(20) Tiếng ngọc kha: tiếng nhạc ngựa, chỉ việc Trụ quốc đi chầu về.
(21) Lâm Tích thuở nhỏ lên kinh, dọc đường trọ ở một cái quán tại Sái Châu, bắt được một túi ngọc châu đến mấy trăm hạt. Tích hỏi chủ quán xem ai trọ trước. Chủ quán bảo người trọ trước là Chu Trọng Tân. Tích kể họ tên và chỗ ở của mình, dặn hễ Trọng Tân có đến thì bảo cứ đó mà tìm, mình muốn được gặp. Sau Chu Trọng Tân quả đến tìm châu. Chủ quán bảo tìm đến Tích. Tích thấy nói đúng bèn đưa trả tất cả. Trọng Tân muốn đưa biếu một ít nhưng Tích nhất định không nhận. Trọng Tân bèn bỏ ra hơn trăm quan tiền làm chay ở chùa để cầu phúc cho Tích. Tích sau thi đỗ, làm quan đến Thái trung đại phu; con là Đức Tân làm đến Lại bộ thị lang. Nhà ấy nối đời làm nên khoa hoạn mãi.
(22) Xương Lê thả Liễu Chi: xem chú thích 8 chuyện Chuyện cây gạo.
(23) Liễu Nghi Thành có nàng thiếp yêu tên là Cầm Khách, giỏi đánh đàn. Khi Thành nghỉ quan đã cho Cầm Khách về đi lấy chồng. Sau Cố Huống làm bài ca có khen Nghi Thành là bậc đại quan.
(24) Hà Thượng Ông nhà nghèo, người con trai lặn xuống sông mò được một hạt châu giá đáng nghìn vàng. Ông bảo: "Ngọc châu này tất là ở hàm con long ly. May mày gặp lúc nó ngủ, chứ nếu nó thức thì đã chết với nó rồi, còn lấy đâu mà được ngọc nữa".
(25) Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh là hai danh tướng đời Hán.
(26) Đại Trị: niên hiệu của Trần Dụ Tông từ 1358 đến 1369. Đại Trị thứ 7: 1364.
(27) Trương và Lý ở đây chỉ là những tên phiếm chỉ, do câu "Trương lang phụ nhi Lý lang thê" (Đàn bà của chàng họ Trương nhưng lại là vợ chàng họ Lý), ý nói người đàn bà không chuyên nhất.
(28) Dương Thành, Hạ Sái: tên hai huyện thuộc nước Sở, đất phong của các bậc quý công tử. Bài phú của Tống Ngọc có câu: Hoặc Dương Thành mê Hạ Sái (làm mê hoặc các trang quý công tử Dương Thành, Hạ Sái). Vì thế sau trong văn chương Dương Thành, Hạ Sái dùng để phiếm chỉ các vương tôn công tử.


Hết chương 16 mời các bạn đọc tiếp chương 17
Chương 17: Chuyện Lý tướng quân
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38

Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 17- Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ
Chương 17: Chuyện Lý tướng quân

Vua Giản Định nhà Hậu Trần lên ngôi ở Mô Độ (1), hào kiệt bốn phương, gần xa hưởng ứng, đều chiêu tập đồ đảng làm quân Cần Vương. Người huyện Đông Thành (2) là Lý Hữu Chi cũng do chân một người làm ruộng nổi lên, tính vốn dữ tợn nhưng có sức khỏe, giỏi đánh trận, Quốc công Đặng Tất (3) tiến cử cho Lý được làm chức tướng quân, sai cầm một cánh hương binh đi đánh giặc. Quyền vị đã cao, Lý bèn làm những việc trái phép, dựa lũ trộm cướp như lòng ruột, coi người nho sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng cho rộng đất, đi kiếm những hoa kỳ đá lạ từ bên huyện khác đem về. Người trong vùng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách, rất là khổ sở, nhưng hắn vẫn điềm nhiên không chút động tâm.
Bấy giờ có một ông thầy tướng số đến cửa xin ăn và có thể nói được những việc họa phúc. Lý bảo xem tướng mình, ông thầy nói:
- Lợi cho việc làm không gì bằng nói thẳng, khỏi được tật bệnh không gì bằng thuốc đắng. Nếu ngài dung nạp thì tôi sẽ nói hết lời. Đừng vì đắng miệng mà ghét quở khiến tôi phải e dè kiêng tránh mới được.
Lý nói:
- Được, không hề gì.
Ông thầy nói:
- Điều thiện ác tích lâu sẽ rõ, sự báo ứng không sai chút nào. Cho nên luận số trước phải luận lý, tướng diện không bằng tướng tâm. Nay Tướng quân có dữ mà không lành, khinh người mà trọng của, mượn oai quyền để làm bạo ngược, buông tham dục để thỏa ngông cuồng, đã trái lòng trời, tất bị trời phạt, còn cách nào mà trốn khỏi tai họa!
Lý cười:
- Ta đã có binh lính, có đồn lũy, tay không lúc nào rời qua mâu, sức có thể đuổi kịp gió chớp, trời dù có giỏi cũng sẽ phải tránh ta không kịp, còn giáng họa cho ta sao được.
Thầy tướng nói:
- Tướng quân cậy mình mạnh giỏi chưa thể lấy lời nói để cho hiểu được, vậy tôi có chùm hạt châu nhỏ, xin đưa tướng quân xem sẽ biết rõ dữ lành, tướng quân có bằng lòng xem không?
Nhân lấy chùm hạt châu ở trong tay áo ra. Lý trông xem, thấy trong đó có lò lửa, vạc sôi, bên cạnh có những người đầu quỷ ghê gớm, hoặc cầm thừng chão, hoặc cầm dao cưa, mình thì đương bị gông xiềng, bò khúm núm ở bên vạc dầu, lấm lét sợ toát mồ hôi. Hỏi có cách gì cứu gỡ không, thì thầy tướng nói:
- Gốc ác đã sâu, mầm vạ sắp nẩy. Cái kế cần kíp ngày nay chỉ còn có đuổi hết hầu thiếp, phá hết vườn ao, trút bỏ binh quyền, quy đầu phúc địa, tuy tội chưa thể khỏi được, nhưng cũng còn có thể giảm trong muôn một.
Lý ngẫm nghĩ lúc lâu rồi nói:
- Thôi thầy ạ, tôi không thể làm thế được. Có ai lại vì lo cái vạ sau này chưa chắc đã có, mà vứt bỏ những cái công cuộc sắp thành làm hì hục trong mấy năm bao giờ.
Sau đó hắn càng làm những sự dâm cuồng, chém giết, không kiêng dè gì cả. Người mẹ tức giận nói:
- Ưa sống ghét chết, ai ai cũng lòng, đạo trời sáng tỏ, cớ sao mày hay làm những sự giết chóc như vậy. Không ngờ ta đến lúc tuổi già, lại phải trông thấy đứa con mắc hình lục có ngày.
Người con trai Lý là Thúc Khoản cũng thường can ngăn cha luôn, nhưng Lý chứng nào vẫn giữ tật ấy. Năm 40 tuổi thì Lý chết ở nhà; ngoài đường sá người ta bàn bạc huyên hoa, bảo với nhau rằng:
- Kẻ làm thiện thường phải chết về đao binh, kẻ làm ác lại được chết trong nhà cửa, đạo trời để đâu không biết!
Trước đây có người bản châu là Nguyễn Quỳ, khảng khái chuộng điều khí tiết, vốn cùng chơi thân với Thúc Khoản, nhưng chết đã ba năm nay rồi. Một hôm Thúc Khoản đi chơi sớm, chợt gặp ở đường; Nguyễn Quỳ bảo Thúc Khoản rằng:
- Phụ thân sắp bị đem ra tra hỏi. Tôi vì quen thân với anh, nên đến bảo cho anh biết trước. Anh có muốn xem, tối mai tôi cho người đến đón, anh sẽ được xem. Nhưng xem rồi cần phải giữ kín. Nếu nói hở ra một lời thì tai vạ sẽ lây sang đến tôi ngay.
Nói xong liền biến mất không thấy đâu nữa. Đến hẹn, Thúc Khoản ngồi trong một buồng nhỏ ngóng đợi. Nửa đêm, quả thấy mấy người lính đầu ngựa đến đón tới một cung điện lớn. Trên điện có một vị vua, bên cạnh đều những người áo sắt mũ đồng tay cầm phủ việt đồng mác, dàn ra hàng lối đứng chầu chực rất là nghiêm túc. Chợt thấy bốn vị phán quan từ bên tả vu đi ra mà một viên tức là Nguyễn Quỳ. Bốn viên này tay đều cầm thẻ, quỳ đọc ở trước án son. Một viên đọc:
- Viên quan kia tên là Mỗ ở đời cứng vuông, không kiêng sợ kẻ quyền quý; tước vị càng cao, càng biết khiêm nhường, rồi lại biết quên mình để chết vì việc nước, làm rạng rỡ cho nước nhà. Thần xin tâu lên Đế đình, cho người ấy được làm tiên.
Một viên nói:
- Ở nhà kia có tên Mỗ, vốn người tham bẩn, hối lộ dập dìu; lại lấy lộc trật mà hợm hĩnh ngông nghênh, khinh miệt những người có đức, chưa từng cất nhắc kẻ hiền sĩ để giúp việc nước. Thần xin chuyển báo cho tòa Nam tào tước bỏ tên ra.
Một viên nói:
- Ở châu kia có người họ Hà gắng sức làm thiện, hàng ngày trong nhà thường phải thiếu ăn, gần đây nhân sau hồi binh lửa, tật dịch nổi lên, người ấy lại cho đơn cấp thuốc, số người nhờ thế mà khỏi chết đến hơn một nghìn. Thần muốn xin cho người ấy thác sinh vào nhà có phúc, hưởng lộc ba đời, để báo cái ơn đã cứu sống cho nhiều người.
Một viên nói:
- Ở thôn kia có gã họ Đinh, bất mục với anh em, chẳng hòa với tông tộc, thừa dịp các cháu bé dại chữa lại chúc thư để chiếm cướp lấy cả ruộng nương, khiến họ không còn có miếng đất cắm dùi. Thần muốn bắt người ấy phải thác sinh vào nhà kẻ hèn, đói khát, nằm vạ vật ở ngòi rãnh, để bõ với sự đã đi tranh cướp của người.
Đức vua đều y theo lời tâu.
Kế đó có một người áo đỏ từ bên hữu vu đi ra, cũng quỳ trước án mà tâu rằng:
- Công việc của sở thần coi giữ, có người họ Mỗ tên Mỗ, ngoan ngu bất pháp, giam cầm trong ngục một năm nay chưa đem xét xử. Nay xin được đem ra thỉnh mệnh ở trước Vương đình.
Nhân đọc một bản buộc tội như sau:
Phục văn huyền hoàng triệu phán, phân dương thanh âm trọc chi hình,
Dân vật bẩm sinh, hữu ác nghiệp thiện duyên chi dị.
Như tư chủng chủng,
Cố khả mai mai.
Cái thiêng năng dĩ lý phú nhân, bất năng sử nhân giai hiền thánh,
Nhi nhân năng dĩ thân suất tính, bất năng vô tính hoặc hôn minh.
Cố hữu ỷ nhi bất trung,
Hữu lưu nhi vi ác.
Cát hung chi động, phán nhiên tẫn mẫu ly hoàng,
Nhân quả chi lai, tất nhĩ hình thanh ảnh hưởng.
Cố thử lý bản lai hiển trứ,
Nại phù nhân nhất thị ngoan ngu.
Cạnh khởi nộ sân,
Vọng sinh vật ngã.
Nhân hà lạc tỉnh, cốt cốt hà thâm,
Tắc tạm điền khanh, thao thao giai thị.
U trầm chí thử,
Vẫn việt kham ân.
Thử cửu thiên thùy bạt độ chi khoa, tương cảnh mê nhi giác ám.
Thập địa cụ luân hồi chi ngục, dục giới vãng nhi trừng lai.
Quả nhi phất thoan,
Hình chi tất chí.
Kim Lý mỗ trùng sa chi chất,
Nghĩ sắt chi khu.
Đế giao thời phúc vũ phiên vân,
Manh tâm xứ yêu tinh lệ quỷ.
Thị văn học thực đồng nhuế tạc,
Trọng hóa tài đãi nhược khâu sơn.
Chiếm nhân điền loại Hán Hồng Dương,
Túng ngược sát mại Tùy Dương Tố.
Tường nhân phiến họa, hiệu sài lang mãnh thú hữu gia,
Túng dục cùng xa, tuy khê hạc khâu sơn bất túc.
Tất cánh tham tâm sở sử,
Chân thị gian nhân chi hùng.
Hạp chí nghiêm điều,
Dụng trừng lai giả.
Dịch:
Kính nghe:
Trời, đất gây dựng, chia ra hình âm đục dương trong,
Dân vật bẩm sinh, khác ở chỗ duyên lành nghiệp dữ.
Biết bao sự trạng,
Khôn xiết kể bày.
Bởi trời lấy lý phú cho người, sao được người đều hiển thánh,
Người đem mình noi theo tính, khỏi đâu tính hoặc sáng mờ. (4)
Cho nên thiên lệch có người,
Hư tồi lắm kẻ.
Dữ lành báo ứng, không lầm đực cái, đen vàng (5),
Nhân quả rõ ràng, giống hệt tiếng vang, hình bóng (6).
Ngẫm lẽ ấy vốn là rõ rệt,
Nhưng con người thật quá ngoan ngu.
Ghen tức nhiều điều,
Riêng tây lắm chuyện.
Chìm sông ngã giếng, đắm đuối càng sâu,
Lấp giếng vùi hầm, xô bồ đã lắm.
U trầm đến vậy,
Đọa lạc càng thương.
Vì thế mà, trời có đường bạt độ, tỉnh thức người mê,
Đất có ngục luân hồi, khuyên răn kẻ xấu.
Lỗi mà chẳng đổi,
Tội ắt không dong.
Nay Lý mỗ, sâu cát thân hèn,
Kiến giun phận mọn.
Kết bạn thì mây mưa tráo trở,
Cư tâm thì yêu quái gớm ghê.
Văn học xem khinh,
Bạc tiền coi trọng.
Chiếm cướp ruộng người như Hồng Dương đời Hán (7),
Giết hại mạng người như Dương Tố đời Tùy(8).
Vu oan giá họa, so hùm beo gấu sói còn độc hơn,
Cực dục cùng xa, dù khe suối núi gò chưa đủ thỏa.
Chỉ bởi lòng tham sai khiến,
Thực tuồng gian hoạt tót vời.
Phải dùng phép nghiêm,
Làm răn kẻ khác.
Bản ấy tuyên đọc xong, thấy kẻ lại dịch điệu Hữu Chi ra, đặt quỳ phủ phục ở dưới cửa, lấy roi đánh rất dữ dội, máu tươi bắn ra nhầy nhợt. Hữu Chi kêu rên giẫy giụa, tỏ ra đau đớn không chịu nổi. Chợt nghe trên điện nói:
- Chia buồng xét việc là bổn phận của lũ ngươi, cớ sao việc ấy lại để chậm đến một năm nay?
Người áo đỏ nói:
- Vì y tội ác chồng chất, nên chưa dám đoán định một cách xốc nổi. Bữa nay tâu lên thì việc án mới thành.
Nhân tâu trình các tội như sau:
- Kẻ kia ghẹo vợ người, dâm con người, tội nên xử thế nào?
Đức vua nói:
- Đó là vì hắn đắm chìm trong bể ái, nên lấy nước sôi rửa ruột để cho tình dục không sinh.
Tả hữu liền lôi ra bỏ vào cái vạc đương sôi, thân thể Hữu Chi đều nát rữa cả ra. Rồi lấy nước thần sẽ rẩy, một lát Hữu Chi lại trở lại lành lặn như là người thường. Lại nói:
- Kẻ kia chiếm ruộng của người, phá sản của người nên xử thế nào?
Đức vua nói:
- Đó là vì suối tham dìm nó, nên lấy lưỡi trùy thủ moi ruột để cho lòng tham không nổi lên nữa.
Tả hữu liền rạch bụng moi hết gan ruột phủ tạng ra ngoài. Rồi lại lấy cành dương sẽ phất, một chốc thì thân thể lại nguyên lành.
- Đến như phá mồ mả của người đời xưa, hủy đạo thường với người ruột thịt, nên xử thế nào?
Đức vua im lặng lúc lâu rồi nói:
- Đó là sự càn rỡ không có chừng mực nào nữa, dù xử bằng những hình cây kiếm núi dao, nước đồng gậy sắt cũng chưa đủ thỏa. Vậy chỉ nên áp giải vào ngục Cửu U lấy dây da chét lấy đầu, lấy dùi lửa đóng vào chân, chim cắt mổ vào ngực, rắn độc cắn vào bụng, trầm luân kiếp kiếp, không bao giờ được ra khỏi.
Quỷ sứ liền vào lôi Hữu Chi điệu đi. Bấy giờ Thúc Khoản ở khe tường dòm thấy, khóc thất thanh. Mấy người quỷ sứ liền lấy tay bưng miệng rồi đưa về nhà, ném chàng từ trên không xuống đất. Thúc Khoản giật mình tỉnh dậy, thấy người nhà đương ngồi chung quanh mà khóc, nói mình chết đã hai ngày rồi, chỉ vì thấy ngực hãy còn thoi thóp và hơi nong nóng, cho nên chưa dám đem chôn. Thúc Khoản bèn ruồng bỏ vợ con, đem của cải tán cấp cho mọi người và đốt hết những văn tự nợ, vào rừng hái thuốc tu luyện. Câu chuyện ấy Thúc Khoản giấu kín, chỉ có chàng và vài người bõ già được biết mà thôi, cho nên cũng ít truyền.

Lời bình:
Than ôi! đạo trời chí công mà vô tư, lưới trời tuy thưa mà chẳng lọt, cho nên hoặc có người lúc sống khỏi vạ mà lúc chết bị hình. Song, chịu họa ở lúc sống, người đã không hiểu, phải tội ở lúc chết, người lại không hay; vì thế mà đời thường có lắm loạn thần tặc tử. Ví thử họ hiểu, họ hay thì dù bảo làm ác cũng không dám làm. Song Lý Mỗ đã trông thấy và biết rõ rồi lại còn làm tệ hơn. Đó là người hư tồi bậc nhất không chuyển đổi được, không còn thể nói bàn gì nữa.

Chú thích:
(1) Mô Độ: nguyên chú "Nay là Mô Độ thuộc huyện Yên Mô". Yên Mô nay thuộc tỉnh Ninh Bình, Trần Giản Định lên ngôi ngày 12 tháng 10 năm Đinh hợi (1407).
(2) Đông Thành: huyện Đông Thành nay thuộc tỉnh Nghệ An.
(3) Đặng Tất (?-1409): một võ tướng giỏi và chủ chốt trong cuộc kháng chiến chống quân Minh do Trần Giản Định khởi xướng. Năm 1408 Đặng Tất chỉ huy đánh trận Bộ Cô, giết được hai tướng Minh, Mộc Thạnh cũng suýt bị nguy, may chạy thoát. Cũng vì chiến công đó, Giản Định nghe lời gièm pha, không theo kế hoạch của Đặng Tất lại giết oan ông. Đặng Dung, con trai Đặng Tất tức giận bỏ về Nghệ An theo Trần Trùng Quang (tức Trần Quý Khoáng).
(4) Nói tính người ta sáng suốt và mờ tối khác nhau.
(5) Tần Mục công sai Cửu Phượng Cao đi kén mua ngựa hay, Cao về bảo đã kén một con ngựa cái vàng, lúc dắt ngựa về thì lại là ngựa đực sắc đen, nhưng quả là ngựa tốt. Bá Nhạc bảo là Cao chỉ chú ý đến cái tài bên trong của nó, nên không để ý đến bề ngoài.
(6) Nhân quả theo nhau như tiếng với âm vọng, hình với bóng theo nhau.
(7) Đời Hán Thành đế, Hồng Dương hầu Vương Lập chiếm đất mở ruộng hàng mấy trăm khoảnh để đem bán lấy tiền rất đắt. Việc phát giác ra phải truất chức tước.
(8) Đời Tùy, Dương Tố dùng binh thường theo cách không chính trực. Trước lúc ra quân Tố thường kiếm cớ giết hàng mấy trăm người để thị uy. Khi lâm trận, sai vài ba trăm người tiến đánh, hễ thua quay về là sai chém hết, toán khác cũng vậy. Vì thế quân lính đều phải liều chết mà đánh, do đó bao giờ Tố cũng thắng trận.

Hết chương 17 mời các bạn đọc tiếp chương 18

Chương 18: Chuyện Lệ Nương
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 18- Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ
Chương 18: Chuyện Lệ Nương


Nguyễn Thị Diễm là người một họ lớn ở huyện Đông Sơn (1) em họ ngoại của Trần Khát Chân; cùng người đàn bà họ Lý quê ở huyện Cẩm Giàng, (2) cùng mở ngôi hàng bán phấn đối cửa nhau tại bên ngoài thành Tây Đô (3). Xóm giềng gần gặn, tình nghĩa ngày một thân nhưng cả hai đều chưa con cái. Một hôm, đến động Hồ Công (4) làm lễ cầu tự. Lý thị bảo với Nguyễn thị rằng:
- Chúng ta ở trong phố vẫn quen thân nhau, việc đi lễ cầu tự hôm nay lại không hẹn mà cùng giống nhau. Nếu mà hương lửa có duyên, sau này ta sẽ cho các con sánh nên đôi lứa. Bình dân ta lại làm bạn với bình dân, chẳng cần phải kén chọn con ông cháu cha gì cả; (5) nói có Sơn thần chứng giám, tôi quyết không sai lời.
Rồi đó, Nguyễn Thị quả sinh con gái đặt tên là Lệ Nương, Lý thị quả sinh con trai đặt tên là Phật Sinh. Hai trẻ đến khi trưởng thành đều ham nghề nghiên bút. Vì cớ hai bên cha mẹ thân mật, nên họ cùng đi lại với nhau suồng sã, thường cùng nhau xướng họa thơ từ. Tuy kỳ cưới xin chưa định, nhưng hai tình gắn bó, đã chẳng khác chi vợ chồng vậy.
Niên hiệu Kiến Tân(6) năm Kỷ Mão (1399) đời Trần, xảy ra cái vạ Trần Khát Chân(7), Lệ Nương bị bắt vào trong cung, Phật Sinh rất là thất vọng. Gặp đêm trừ tịch gần hết canh năm, Sinh còn đương nằm ngủ, chợt nghe có tiếng ấm ới. Sinh vùng dậy đẩy cửa ra xem, thấy có hơn trăm chiếc kiệu hoa rậm rịch đi qua, và có một bức thư bằng lụa cài vào ngưỡng cửa, trong thư chính là bút tích của Lệ Nương đã viết. Thư rằng:
Thiếp văn, thiên hữu âm dương, thiên đạo dĩ chi nhi bị,
Nhân hữu phu phụ, nhân đạo dĩ chi nhi thành.
Ta ngã hà tu?
Dữ quân bất ngẫu.
Tích thời tâm sự, cửu dĩ tương quan,
Kim nhật ty ly, phiên thành vĩnh cảm.
Cánh lạc lâu tiền chi ảnh,
Trường giam viện lý chi xuân.
Mỗi phạ kính vũ ly loan,
Cầm thao Biệt hạc.
Xuân thành nhật mộ, liễu tà hàn thực đông phong,
Lưu thủy ngự câu, tràng đoạn Thượng Dương cung nữ.
Đãn hữu u sầu chủng chủng,
Thanh lệ ba ba.
Trướng túc nguyện chi đa vi,
Tiếu thử sinh chi lãng độ.
Liễu thị trùng quy chi ước, hảo hội nan kỳ,
Ngọc Tiêu tái hợp chi duyên, tha sinh vị bốc,
Nguyện quân tự ái,
Biệt đế lương môi.
Vô dĩ nhất nhật chi ân,
Nhi ngộ bách niên chi kế.
Du du tâm tự,
Thư bất tận ngôn.
Vị đắc quân chỉ,
Tiên thử thân phúc.
Dịch:
Thiếp nghe:
Trời có âm dương, đạo trời mới đủ,
Người có chồng vợ, đạo người mới thành.
Đôi ta vì đâu?
Lỡ làng đến vậy!
Tâm tình buổi trước, đã kết mối dây!
Ly biệt ngày nay, bao khuây nguồn cảm.
Bóng trước lầu đã rụng,
Xuân trong viện đành giam.
Những e, gương ly loan bóng múa hững hờ(8),
Đàn Biệt hạc tiếng vang ai oán(9),
Thành xuân trời tối, liễu lả cành dưới ngọn đông phong(10),
Ngòi ngự nước trôi, ruột đứt khúc bao người cung nữ(11).
Luống những mạch sầu đợt đợt,
Sóng lệ trùng trùng.
Nguyền xưa tan nát nghĩ mà đau,
Kiếp ấy lỡ làng sinh cũng uổng.
Ước Liễu thị mong gì hảo hội(12).
Duyên Ngọc Tiêu đâu chắc tái sinh(13).
Xin chàng trân trọng lấy mình,
Liệu kết nhân duyên chốn khác.
Đừng vì tình một buổi,
Để lỡ kế trăm năm.
Man mác nỗi lòng,
Thư khôn xiết tả.
Chưa biết ý chàng,
Trước xin bày tỏ.
Sinh được thư rất là đau thương, bỏ cả ăn ngủ. Rồi vì cớ hôn sự đã hỏng, bèn thiên ra ở ngoài miền đông. Nhưng nặng tình với Lệ Nương, Sinh chưa nỡ lấy ai cả.
Cuối đời nhà Hồ, tướng Minh là Trương Phụ chia binh vào cướp, lấn chiếm Kinh kỳ. Sinh nghe Hán Thương phải chạy, đoán chắc là Lệ Nương cũng phải đi theo, bèn từ biệt mẹ đi vào Nam, mong được gặp mặt. Lặn lội hàng tuần mới đến cửa bể Thần Phù, nghe tướng giặc Lã Nghị bắt cướp mấy trăm phụ nữ hiện đóng giữ ở phủ Thiên Trường(14) trơ trọi không có quân ứng viện, Sinh đoán chắc Lệ Nương cũng ở trong ấy. Nhưng đất khách tay không, chẳng làm gì được. Chợt gặp khi vua Giản Định nổi quân lên ở châu Trường An(15), nhưng vì ít binh không địch nổi với số nhiều của quân giặc, muốn lui về Nghệ An. Sinh muốn nhờ thế quân của vua, đánh úp mà cướp lại Lệ Nương, bèn đến trước ngựa dâng một bài sách, đại lược rằng:
Thần văn: Chửng hoán thành công, cố nhân hưng vận
Ngự nhưng đắc sách, thực bản miếu mô.
Cố công nhân tất thẩm ư chí nhân,
Nhi phá địch đương minh ư liệu địch,
Tạc giả Hồ triều thất ngự,
Ngô tử sinh tâm.
Hàn Quán thừa hồ thác chi uy, oa tranh viễn kiểu,
Mộc Thạnh sính chi trương chi ác, phong thích giao kỳ.
Trí linh bách dư niên an lạc chi khu,
Chuyển tác sổ thập hợp phân noa chi địa.
Tích hài cung thoán,
Phấn cốt vi lương.
Duyên hà chi ức vạn sinh linh thùy vô thiết xỉ,
Cứ quận chi tứ phương hào kiệt, hàm hữu chiến tâm.
Tất tu bát loạn hoằng tài,
Phương kiến phù điên vĩ tích.
Kim đại vương phẫn Trần gia chi bất tạo,
Phấn Hạ lữ dĩ đồ hồi.
Trì nhị thiên bất mãn chi binh,
Đương ngũ đạo mạc cường chi khấu.
Lôi oanh điện xiết, tòng thiên chi thế phương trương,
Vụ lãng vân thanh, phục thổ chi công khả tất.
Phương vọng hoàn đô nhi trắc tích,
Như hà ngộ địch dĩ ban sư.
Cố nghi chiêu Đặng Tất ư Diễn Châu,
Lưu Triệu Cơ ư Mô Độ.
Hải đạo tê chu kính trạo, trực để Bình Than,
Bộ quân trường cốc cao phong, kính xu Hàm Tử.
Hoặc mệnh tướng dĩ ách Mộc Hoàn chi khẩu,
Hoặc phân binh dĩ chàng Cổ Lộng chi thành.
Ngạnh tặc nha ư Bạch Hạc loan đầu, vô linh chuyển thực,
Thực thung mộc ư Mạn Trù tân vĩ, dụng át bôn ba.
Lục vật dung phương quỹ chi xa,
Thủy mạc cộng trường gian chi hiểm.
Dạ tắc nhiên sô tương tiếp,
Trú tắc phù cổ tương văn.
Tây Đô chi hình thế ký trương.
Đông thổ chi phiên duy tự cố.
Tương kiến Hàn công tắc Triệu ứng,
Tung hợp tắc hoàng cô.
Ngã chuyển chiến nhi vô tiền, sư hành tịch thượng,
Bỉ phù thương nhi bất hạ, bại tại nhãn trung.
Túng do dự nhi hồ nghi,
Khủng thử tiều nhi cẩu thoán.
Thời nan tái đắc,
Vương thỉnh vật nghi.
Phục vọng!
Thụ Hán chi kỳ,
Phản Đường chi bái.
Ngô quân đình kích, thoảng đồng thời hợp lực dĩ tính công,
Bỉ lỗ thiên vong, tương sất mã chích luân chi bất phản.
Dịch:
Thần nghe:
Dẹp loạn thành công, vẫn nhờ vận tốt,
Chống giặc đắc sách, thực bởi mưu cao.
Nên đánh người, cần biết cách nhử người,
Mà phá giặc phải sáng bề liệu giặc.
Dạo trước triều Hồ đổ sập,
Giặc Ngô tràn lan.
Hàn Quán kia cáo mượn oai thiêng, oa tranh bờ cõi(16)
Mộc Thạnh(17) nọ diều giương mỏ độc, ong đốt kinh kỳ.
Khiến cho đất nước hơn trăm năm yên vui,
Biến thành khu vực mấy trăm dặm rối loạn.
Đập xương làm củi,
Tán xác làm lương.
Men dải sông ức vạn sinh linh, nghiến răng tức tối,
Giữ các quận bốn phương hào kiệt, tuốt kiếm hằm hè,.
Lược thao phải có tài hùng,
Chống đỡ mới lên công lớn.
Đại vương nay,
Buồn vận Trần gặp cơn truân bĩ,
Nổi quân Hạ(18) mưu cuộc trùng hưng.
Cầm đội quân chẳng đủ hai nghìn,
Chống đám giặc có thừa năm đạo.
Sấm ran chớp giật, tự lưng trời thế mạnh vừa buông,
Mù tạnh mây quanh, lấy lại đất công to sắp dựng.
Những tưởng về kinh xây nghiệp cũ,
Vì sao gặp giặc rút quân lui?
Rất nên, vời Đặng Tất ở Diễn Châu (19),
Lưu Triệu Cơ ở Mô Độ. (20)
Đường bể thuyền bền chèo cứng, đến thẳng Bình Than. (21)
Quân bộ xe rộng giáo dài, tới mau Hàm Tử (22)
Hoặc sai tướng chẹn cửa Mộc Hoàn (23) nọ.
Hoặc chia binh đánh thành Cổ Lộng (24) kia,
Đầu sông Bạch Hạc, ghè nanh cho giặc hết đường ăn,
Cuối bến Mạn Trù (25) đóng cọc cho giặc hết lối chạy.
Dưới nước không cho chỗ nào cứ hiểm,
Trên cạn không để xe nào sóng đôi.
Ngày đánh trống để truyền tin,
Đêm đốt lửa để báo hiệu.
Hình thế Tây Đô đã vững,
Phên rào Đông Thổ (26) phải bền.
Sẽ thấy Hàn bị đánh mà Triệu phải hàng,
Tung đã hợp thì hoành phải vỡ (27).
Ta ruổi rong thực gấp, tiến chẳng ngừng chân,
Giặc ứng tiếp không rồi, thua trong chớp mắt.
Nếu mình mà hồ nghi do dự,
Sợ giặc sẽ chó chạy chuột chui.
Dịp tốt không hai,
Xin vương quyết đoán.
Kính mong,
Dựng cờ nước Hán (28),
Về phướn nhà Đường (29).
Chớp nhoáng quân ta, các đội các cơ hợp đánh,
Ngói tan thế giặc, chiếc xe chiếc ngựa không còn.
Bài sách ấy dâng lên, vua Giản Định xem mà khen là người giỏi, cấp cho năm trăm quân, sai đi đánh phủ Thiên Trường. Sinh khảng khái thề cùng quân sĩ, dụ bảo họ về sự hưng phục nghiệp Trần, ai nấy đều hăng hái, hăm hở. Bèn nhân nước thủy triều đương lên tiến đánh. Lã Nghị quả nhiên phải nhổ trại chạy trốn, lùi lên phía bắc đóng ở Xương Giang. Phá luôn một trận nữa, giặc phải lùi lên trạm Bắc Nga thuộc về Lạng Sơn. (30) Sinh lại đóng án ngữ ở cửa Quỷ Môn, (31) lần lượt vận tải binh lương đến.
Chợt ở Yên Kinh (32) có chiếu thư rút quân ban xuống, Trương Phụ đốc xuất các quân sắp sửa kéo về. Sinh vốn vì sự tìm vợ mà đến đây, không phải có chí lập công, nay nghe quân Tầu sắp rút về, bèn cùng các tướng sĩ chia tay từ biệt, lần đến trạm Bắc Nga vào một buổi tối. Bấy giờ nhà trạm vắng tanh không có ai mà hỏi han cả. Chợt gặp một bà già, hỏi thăm thì bà cau mày bảo:
- Đây là chỗ quân đóng vừa rồi, đầy những sát khí, trời lại đã tối, chàng ở đâu đến đây mà giờ chưa tìm vào nhà trọ?
Sinh rầu rĩ kể rõ sự mình, bà già nói:
- Tội nghiệp! Quả có người họ tên và trạc tuổi như lời chàng nói, nhưng chẳng may đã chết oan rồi.
Sinh giật mình hỏi, bà già nói:
- Trước đây năm hôm, quân Tầu sắp rút, người đàn bà họ Nguyễn ấy bảo với hai bà phu nhân họ Chu họ Trịnh rằng: "Bọn chúng ta vóc mềm tựa liễu, mệnh bạc như vôi, nước vỡ nhà tan lưu ly đến đó. Nay nếu lại theo họ sang qua cửa ải tức là đến nước non quê người. Chẳng thà chết rấp ở ngòi lạch, gần gũi quê hương, còn hơn là sang làm những cái cô hồn ở bên đất Bắc". Thế rồi mấy người đều cùng nhau tự tận. Tướng Tầu thương là có tiết tháo, dùng lễ mà táng ở trên núi.
Nói xong, bà già đưa Sinh đến, trỏ từng ngôi mộ cho biết và bảo:
- Trinh thuần cương liệt, ấy chỉ có mấy người này, còn thì đều bị nhuốc nhơ cả.
Sinh đau thương vô hạn. Đêm hôm ấy chàng ngủ ở mộ, khóc mà nói rằng:
- Ta vì nàng mà từ xa đến đây, nàng có thể cùng ta gặp gỡ trong giấc chiêm bao để cho ta một lời yên ủi hay không?
Đêm đến canh ba, Sinh quả thấy Lệ Nương lững thững đi đến, khóc kể rằng:
Thiếp xuất tự phàm lưu,
Quá mông hậu ngộ.
Duyên vị hài ư cẩm trướng.
Phận dĩ bạc ư xuân băng.
Thời dữ chí nhi câu vi,
Thiếp từ quân nhi viễn thệ.
Chu lâu hữu hận, kỷ đối tà huy,
Thanh điểu vô môi, thùy tương lai tín?
Trướng dung quang chi giảm cựu,
Độ tuế nguyệt dĩ thâu sinh.
Thùy liệu xích trủy ca tàn,
Hồng nhan họa khởi.
Yên binh Hồ kỵ mạc át xâm lăng;
Cấm liễu cung hoa, kỷ sầu phan chiết.
Hận tàn khu chi đa ngộ,
Ta ách vận chi trùng tao.
Thủy bất năng toàn tiết dĩ tòng phu,
Chung hựu nhẫn cam tâm nhi hàng lỗ.
Ký chích thân ư vạn tử,
Độ nhất nhật như tam thu.
Thiệp thủy du sơn,
Bị gian thường hiểm.
Tương tùy duyên nhi cẩu hợp, tắc lang tử nan thuần,
Dục xuất tái dĩ dao chinh, tắc hồ khâu dị cảm.
Thị dĩ bất tham sinh hoạt,
Bất phạ câu từ.
Lãnh lạc đăng tiền hồn tùy chiến cổ,
Thương hoàng khách lý mệnh ký la cân.
Kim tắc linh tính tuy tồn,
Tàn hài phi cựu.
Quý lương nhân chi viễn phỏng,
Phủ vãng sự sĩ trường ta.
Cảm thuật u hoài
Hạnh thùy tri tất.
Dịch:
Thiếp vốn con nhà tầm thường,
Chàng qua rủ lòng yêu mến,
Trướng gấm nọ duyên chưa đầm ấm,
Giá xuân (33) kia phận đã mỏng manh.
Thời với chí ngửa nghiêng,
Thiếp cùng chàng ly cách.
Hờn ôm lầu đỏ, từng trải hôm mai,
Mối dứt chim xanh, khôn thông tin tức.
Ngày tháng lữa lần trộm sống,
Dong quang mòn mỏi riêng buồn.
Nào hay mỏ đỏ ca tàn (34),
Má hồng vạ nổ.
Ngựa Hồ binh Triệu, (35) giày xéo tan tành,
Liễu điện hoa cung, bẻ vin xơ xác.
Ngán nỗi thân tàn nhiều lỡ dở,
Than ôi, vận ách mỗi chồng thêm.
Trước đã không vẹn tiết để theo chồng,
Sau lại nỡ cam tâm mà hàng giặc.
Gửi chiếc thân ở trong muôn chết,
Trải một ngày như thể ba thu.
Lặn suối trèo đèo,
Qua nguy vượt hiểm.
ép duyên toan nhắm mắt, giống sói khôn gần,
Qua ải muốn đưa chân, núi hồ (36) dễ cảm.
Bởi vậy, không ham thú sống,
Chẳng sợ ngục tù.
Lãnh lẽo trước đèn, hồn theo trống trận,
Bàng hoàng quán khách, mình gửi khăn là.
Nay thì linh tính tuy còn,
Tàn hình đã khác.
Cảm lòng chàng từ xa tìm đến,
Buồn nỗi mình biết nói làm sao?
Dám tỏ niềm riêng,
Kính xin soi xét.
Vợ chồng bèn cùng nhau âu yếm chuyện trò, y như lúc sống. Sinh nói:
- Nàng đã không may, vậy anh đem linh thần về, khỏi uổng một chuyến đi không lại trở về rồi.
Nàng nói:
- Thiếp rất cảm tấm thâm tình ấy. Song thiếp cùng hai vị mỹ nhân gần gụi lâu ngày, giao tình thân mật, không nỡ một sớm bỏ đi. Phương chi chốn này nước non trong sáng, mây khói vật vờ, thần yên phách yên, bất tất phiền chàng dời đổi nữa.
Sau khi gà gáy ba hồi, hai người vội cùng nhau đứng dậy từ biệt. Ngày hôm sau, Sinh đem mấy lạng bạc, mua quan tài và nước thơm, cải táng cho nàng và cả hai mỹ nhân. Đêm sau mộng thấy ba người đến tạ ơn, chàng đương toan lại cùng trò chuyện thì thoắt chốc cả ba đều biến mất.
Chàng buồn rầu quay về, từ đấy không lấy ai nữa.
Đến sau vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Sinh vì mối hờn oán cũ, đem quân ứng mộ, phàm gặp tướng sĩ nhà Minh đều chém giết dữ dội cho hả. Cho nên vua Lê phá diệt quân Minh, Sinh có dự nhiều công.


Lời bình:
Than ôi! điều tín ước gần với lẽ phải thì lời nói tất nên giữ đúng, nếu đối với lẽ phải mà chưa được ổn thì sự giữ đúng không cần. Như chàng họ Lý kia, vì mối ân tình, giữ bền ước cũ, lưu ly hoạn nạn, vẫn chẳng quên lời, tình thật đáng thương, mà lẽ phải thì chưa được ổn. Bởi sao? Cảm tình mà đi tìm thì nên, liều chết mà đi tìm thì không nên, liều chết để đi tìm đã không nên, huống nữa lại thôi không lấy vợ, để đứt dòng giống của tiên nhân phỏng có nên không? Cho nên người quân tử phải biết tòng quyền chứ không nên chấp nhất. Giữ điều nhỏ để mất điều lớn, chẳng là gã Lý Sinh này ư?
Chú thích:
(1) Đông Sơn: huyện, thời thuộc Minh thuộc phủ Thanh Hóa, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
(2) Cẩm Giàng: huyện, đời Trần thuộc châu Thượng Hồng, nay thuộc tỉnh Hải Dương.
(3) Tây Đô: tên thành nhà Hồ, ở huyện Vĩnh Lộc, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
(4) Động Hồ Công: ở huyện Vĩnh Lộc, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
(5) Nguyên văn: "Dân thường chúng ta dựng vợ gả chồng cho con cái hà tất phải kén họ Thôi, họ Lư, họ Lý, họ Trịnh". Thôi, Lư, Lý, Trịnh là bốn họ giàu sang, có thế lực đời Đường Thái Tông, Trung Quốc.
(6) Kiến Tân: niên hiệu của Trần Thiếu Đế, vua cuối cùng nhà Trần từ 1398 đến 1400.
(7) Trần Khát Chân mưu giết Hồ Quý không thành, bị giết và bắt bớ đến cả thân tộc.
(8) Theo Dị uyển vua nước Kê Tân bắt được một con chim loan nuôi ba năm vẫn không hót. Nghe lời phu nhân vua cho đặt lồng chim trước một cái gương. Chim loan nhìn bóng, tưởng bạn cất tiếng kêu bi thương mãi cho đến chết. Sau trong văn học dùng điểm này để diễn tả chuyện đôi lứa lỡ làng, xa cách.
(9) Biệt hạc: chàng Mục Tử ở Thương Lăng lấy vợ 5 năm không có con, cha mẹ định lấy vợ khác cho. Người vợ nghe tin đang đêm khóc lóc, Mục Tử cảm động làm ra khúc nhạc Biệt hạc thảo.
(10) Lấy ý từ câu thơ của Hàn Hoành đời Đường: Hàn thực đông phong ngự liễu tà (Tiết Hàn thực gió đông thổi, cây liễu trong vườn ngự lả cành). Xem thêm chú thích (4) Chuyện người Nghĩa phụ ở Khoái Châu...
(11) Cố Huống đời Đường nhặt được một chiếc lá đỏ đề thơ thả trên ngòi ngự của một cung nữ. Huống cũng đề thơ lên một chiếc lá thả xuống ngòi, trong bài thơ có câu: Hoa lạc thâm cung oanh diệc bi, Thượng Dương cung nữ đoạn trường thì (Hoa rụng trong cung sâu thẳm chim oanh cũng buồn, đấy là lúc người cung nữ trong Thượng Dương cung đứt ruột).
(12) Chuyện Liễu Thị với Hàn Hoành: xem chú thích 4, Chuyện người Nghĩa phụ ở Khoái Châu.
(13) Vi Cao đời Đường thuở nhỏ chơi đất Giang Hạ có tình với nàng Khương Ngọc Tiêu. Lúc chia tay có hẹn chóng thì 5 năm, chậm thì 7 năm sẽ đến, lưu tặng một cái nhẫn ngọc và một bài thơ. Sau 7 năm Cao không đến, Ngọc Tiêu nhịn ăn mà chết. Cao nghe tin thương xót, lập đàn tụng kinh siêu độ. Đêm chiêm bao thấy nàng hẹn sẽ thác sinh để làm nàng hầu. Sau Cao làm quan to, gặp ngày mở tiệc sinh nhật, có người đem dâng một người con hát cũng tên là Ngọc Tiêu, ngón tay giữa có một vòng thịt y như hình chiếc nhẫn ngọc mình tặng ngày trước.
(14) Phủ Thiên Trường: xem chú thích 1, Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây.
(15) Trường An: cũng đọc là Trường Yên, đời Trần là lộ, thời thuộc Minh đổi làm châu, gồm phần đất các huyện Gia Viễn, Nho Quan, Yên Mô, Yên Khánh, Hoa Lư của tỉnh Ninh Bình ngày nay.
(16) Tháng Tư năm Bính tuất (1406) Hàn Quán, Chinh Nam tướng quân Hữu đô đốc đồng tri cùng Hoàng Trung, Tham tướng đô đốc đồng tri, chỉ huy 10 vạn quân Quảng Tây đánh sang Đại Việt..
Cáo mượn Oai thiêng: lấy ý ở câu thành ngữ: "Cáo mượn oai hùm", Oa tranh bờ cõi: từ truyện ngụ ngôn trong Nam hoa kinh của Trang Tử. Có hai nước Man và nước Xúc đều ở trên sừng một con ốc sên nhưng cứ đánh nhau mãi để tranh bờ cõi!
(17) Mộc Thạnh: tướng nhà Minh, đã bị Giản Định đế đánh thua một trận lớn.
(18) Ví việc Giản Định đế dấy binh đánh quân Minh như vua Thiếu Khang nổi binh trung hưng nhà Hạ.
(19) Diễn Châu: gồm phần đất các huyện Quỳnh Lưu, Yên Thành, Diễn Châu của Nghệ An ngày nay.
(20) Triệu Cơ ở Mô Độ: nguyên chú: Triệu Cơ tức Trần Triệu Cơ, người phủ Thiên Trướng, trấn Sơn Nam. Mô Độ: xem chú thích 1, Chuyện Lý Tướng quân.
(21) Bình than: nguyên chú: "Bình Than còn có tên là Bàn Than, Bài Than, hợp lưu của hai nhánh sông Xương Giang, Thị Kiều, thuộc huyện Chí Linh", nay thuộc tỉnh Hải Dương.
(22) Hàm Tử: nguyên chú: "Hàm Tử nay thuộc huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, xã Hàm Tải", nay thuộc tỉnh Hưng Yên.
(23) Mộc Hoàn: tên xã, thuộc huyện Tiên Phong, phủ Tam Đới, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
(24) Cổ Lộng: nguyên chú "Cổ Lộng ở xã Cổ Động, huyện Thanh Liêm, phủ lỵ Nhân, xứ Sơn Nam, thường gọi là Thành Cách". Nay có lẽ thuộc tỉnh Hà Nam.
(25) Mạn Trù: bến sông Nhị thuộc phủ Khoái Châu, nay thuộc tỉnh Hưng Yên, nguyên chú thuộc huyện Đông Yên.
(26) Đông thổ: chỉ vùng kinh thành Thăng Long, bấy giờ nhà Hồ đổi tên là Đông Đô.
(27) Tung và hoành là kế hoạch của các nước đời Chiến quốc. Tung là kế của Tô Tần, liên kết các nước chư hầu để chống Tần; hoành là kế của Trương Nghi vận động các nước chư hầu thần phục Tần.
(28) Theo Hán sử, Hàn Tín đánh Triệu dùng kỳ binh, nhổ cờ Triệu dựng cờ Hán.
(29) Theo Đường sử, vua Túc Tông nhà Đường thu quân ở Linh Vũ, quay cờ tiến về phía đông để đánh An Lộc Sơn.
(30) Lạng Sơn: đời trần là lộ Lạng Giang, có lẽ ngoài tỉnh Lạng Sơn ngày nay còn có một phần đất Kinh Bắc (tức Bắc Giang hiện nay).
(31) Quỷ Môn: tức ải Chi Lăng, nay thuộc xã Chi Lăng, huyện Đồng Mỏ, tỉnh Lạng Sơn.
(32) Yên Kinh: chỉ triều đình nhà Minh.
(33) Giá xuân: nước đóng thành băng, mùa xuân tiết trời ấm dễ tan, ví số phận mỏng manh.
(34) Mỏ đỏ: chỉ Hồ Quý Ly, xuất phát từ chuyện vua Trần Nghệ Tông nằm mộng thấy Duệ Tông về đọc một bài thơ trong có câu thơ: Trung gian duy hữu xích chủy hầu (trong đó duy có con hầu mõm đỏ). Nghệ Tông chiết tự, chữ xích chủy là Quý Ly.
(35) Ngựa Hồ binh Triệu: nguyên văn Yên binh, Hồ kỵ, nghĩa là lính nước Yên, quân kỵ rợ Hồ, đều là tên tượng trưng chỉ quân Minh.
(36) Hồ là cáo, ở đây lấy ý từ câu ngạn ngữ "Cáo chết ba năm quay đầu về núi".


Hết chương 18 mời các bạn đọc tiếp chương 19
Chương 19: Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 19- Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ
Chương 19: Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa


Huyện Kim Hoa (1) có người con gái họ Ngô tên Chi Lan, là bậc nội trợ hiền của vị tiên sinh họ Phù. Nàng chữ tốt văn hay, nhất là thơ ca càng giỏi lắm. Đức Thuần hoàng đế (Thánh Tông) triều nhà Lê yêu tài văn mặc, vời nàng vào cung, giao cho việc dạy các cung nữ. Mỗi khi yến tiệc, nàng thường ôm quyển đứng chầu hầu vua, hễ vua phán làm thơ, chỉ thoắt chốc đã làm xong ngay, không cần phải chữa sửa gì cả. Năm ngoài 40 tuổi nàng mất, táng ở cánh bãi Tây Nguyên.
Cuối đời Đoan Khánh (2) có người học trò là Mao Tử biên đến du học ở Kinh thành, lâu ngày nhớ nhà, bèn về thăm quê ở huyện Đồng Hỷ thuộc Thái Nguyên. Đường về qua hạt huyện Kim Hoa, chợt gặp cơn mưa gió. Thôn xa đồng vắng, trời lại tối sập xuống. Tử Biên đưa mắt nhìn quanh, thấy ở đàng nam có bóng đèn thấp thoáng, bèn rảo bước đến. Đến nơi thì thấy có mấy gian nhà tranh ở giữa khoảng cây cối rậm rạp. Tử Biên nhân lúc túng bí, nói xin vào ngủ nhờ; song người coi cổng không cho vào. Chàng trông vào trong nhà, thấy một ông già đương ngồi ở giữa giường, bên cạnh có một vị mỹ nhân, trâm ngọc hài cườm, coi như một vị phi tần vậy. Mỹ nhân nói với ra, bảo người coi cổng:
- Canh khuya đêm vắng, trời lại mưa gió, người ta xin ngủ nhờ không cho thì người ta ngủ đâu bây giờ.
Thấy chủ nhà nói vậy, Tử Biên vén áo bước vào, nghỉ nhờ ở mái hiên phía nam nhà khách.
Gần đến trống hai, chàng thấy có một người mày râu đã nửa phần trắng bạc, hai vai cao trội cưỡi một con lừa tía đi đến. Ông già xuống thềm đón tiếp nói:
- Đường xa lận đận đến chơi, tiên sinh vất vả quá!
Khách nói:
- Trót đã ước hẹn, không nỡ sai lời. Chỉ buồn mưa gió đầy thành, Phần Lão thơ ngâm đến đành bỏ dở (3) mất.
Chủ khách bèn chia ngôi cùng ngồi đối diện bàn luận văn chương, cả phu nhân cũng dự nhưng ngồi thấp xuống một bậc. Ông khách thấy phu nhân có làm bốn bài từ bốn mùa đề vào bốn bức bình bằng vân mẫu, bèn thử đọc xem:
Bức thứ nhất: Xuân từ
Sơ tình huân nhân thiên tự túy,
Diệm dương lâu đài phù noãn khí.
Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoa,
Nhiễu hạm hoa tu xuyên điệp xí.
Giai tiền hồng tuyến nhật thiêm trường,
Phấn hãn vi vi tẩm lục thường.
Tiểu tử bất tri xuân tứ khổ,
Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng.
Dịch:
Hun người nắng mới, như say,
Lâu đài ấm áp nhuốm đầy dương quang.
Cách rèm liễu biếc oanh vàng,
Quanh hiên cái bướm mơ màng bên hoa.
Trước thềm ánh nhật dài ra,
Mầu hôi dâm dấp xiêm là đượm xanh.
Sầu xuân nặng trĩu bên mình,
Ngây thơ gã nhỏ lanh chanh cợt cười.
Bức thứ hai: hạ từ
Phong xuy lựu hoa hồng phiến phiến,
Giai nhân nhàn đủ thu thiên viện.
Thương xuân bối lập nhất hoàng oanh,
Tích cảnh ai đề song tử yến.
Đình châm vô ngữ thúy my đê,
Quyện ỷ sa song mộng dục mê.
Khước quái quyển liêm nhân hoàn khởi,
Hương hồn chung bất đáo Liêu Tê (Tây).
Dịch:
Gió rung hoa lựu tơi bời,
Trên đầu tha thướt dáng người mỹ nhân.
Oanh vàng ủ rũ thương xuân,
Một đôi én tía họa vần trong cây.
Dừng kim rủ thấp đôi mày,
Nương song hồn mộng xa bay cuối trời.
Cuộn rèm nheo nhéo kia ai,
Cho hồn chẳng tới cõi ngoài Liêu Tây.
Bài thứ ba: thu từ
Thanh thương phù không trừng tễ cảnh,
Sương tín dao tương cô nhạn ảnh.
Thập trượng liên tàn ngọc tỉnh hương,
Tam canh phong lạc Ngô giang lãnh.
Phi huỳnh dạ độ bích lan can,
Y bạc nan câm tiễn tiễn hàn.
Thanh đoạn động tiêu ngưng lập cửu,
Dao đài hà xứ mịch tham loan.
Dịch:
Hơi may hiu hắt bầu không,
Tinh sương thấp thoáng cánh hồng xa bay.
Sen tàn giếng hãy thơm lây,
Ba canh gió thổi lạnh đầy sông Ngô.
Bên lan đóm lượn ra vô,
Phong phanh áo mỏng hơi lùa căm căm.
Tiếng tiêu đã đứt âm thầm,
Đài Dao đâu tá khôn nhằm dấu loan.
Bức thứ tư: đông từ
Bảo lô bát hỏa ngân bình tiểu,
Nhất bôi La Phù phá thanh hiểu.
Tuyết tương lãnh ý thấu sơ liêm,
Phong đệ khinh băng lạc hàn chiểu.
Mỹ nhân kim trướng yểm lưu tô,
Chỉ hộ vân song phiến phiến hồ.
ám lý vãn hồi xuân thế giới,
Nhất tru phương tín tiểu sơn cô.
Dịch:
Lò hương nhóm ngọn lửa hồng,
La Phù (4) một chén ấm lòng ban mai.
Lọt rèm tuyết lạnh lồng hơi,
Gió đưa băng rụng tơi bời mặt ao.
Mỹ nhân trướng gấm rủ thao,
Cửa hồ phất giấy song cao vắng người.
Thần đem xuân lại cho đời,
Đầu non chớm nở một trời mai hoa.
Ông khách đọc xong than rằng:
- Nam Châu nếu không có tôi, biết đâu phu nhân chẳng là tay tuyệt xướng, mà tôi nếu không có phu nhân, biết đâu chẳng là tay kiệt xuất trong một thời. Thế mới biết lời đồn quả không ngoa thật.
Phu nhân nói:
- Tài tôi nhỏ mọn, đâu dám so sánh với ngài trong muôn một. May mà gặp được tiên triều, hằng chầu hầu nghiên bút, cho nên mới thông lề luật, chắp nối thành bài. Một hôm tôi nhân đi chơi núi Vệ Linh (5), tức là nơi đức Đổng Thiên vương bay lên trời, tôi có đề rằng:
Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn,
Vạn tử thiên hồng diệm thế gian.
Thiết mã tại thiên danh tại sử,
Anh uy lẫm lẫm mãn giang san.
Dịch:
Vệ Linh mây trắng tỏa cây xuân,
Hồng tía muôn hoa đẹp cảnh trần.
Ngựa sắt về trời, danh ở sử,
Oai thanh còn dậy khắp xa gần.
Sau vài tháng, bài ấy truyền khắp trong cung, đức Hoàng thượng rất là khen ngợi, ban cho một bộ áo.
Lại một hôm, Hoàng thượng ngự ở cửa Thanh Dương, sai quan Thị thư họ Nguyễn làm bài từ khúc uyên ương. Bài làm xong nhưng Hoàng thượng không vừa ý, ngoảnh bảo tôi rằng:
- Văn nàng cũng hay lắm, hãy thử đem tài hoa gấm cho trẫm xem nào.
Tôi vâng mệnh, cầm bút làm xong ngay, có hai câu cuối thế này:
Ngưng bích phi thành kim điện ngõa,
Trứu hồng chức tựu Cẩm Giang la.
Dịch:
Biếc đọng kết nên ngói đền vàng,
Hồng châu dệt thành lụa Cẩm Giang.
Hoàng thượng khen ngợi hồi lâu, ban cho 5 đĩnh vàng, lại gọi là "Phù gia nữ học sĩ". Từ đó tôi nức tiếng đương thời, được làng văn mặc coi trọng, đại khái đều do sức giúp của đấng Tiên hoàng cả. Đến khi đức Thuần hoàng đế thăng hà tôi có làm bài thơ viếng rằng:
Tam thập dư niên củng tử thần,
Cửu chân tứ hải hựu đồng nhân.
Đông tây địa thác dư đồ đại,
Hoàng đế thiên khôi sự nghiệp tân.
Tuyết ủng chân du vô xứ mịch,
Hoa thôi Thượng uyển vị thùy xuân.
Dạ lai do tác quân thiều mộng,
Trướng vọng Kiều Sơn chức lệ cân.
Dịch:
Ba chục năm hơn ngự điện vàng,
Chín châu bốn bể gội ân quang.
Quy mô Hoàng đế trời cao cả,
Bờ cõi đông tây đất mở mang.
Tuyết hộ xe loan mờ mịt bóng,
Hoa phô vườn cấm bẽ bàng hương.
Quân thiều (6) đêm vắng mơ thường thấy,
Xa ngóng Kiều Sơn (7) lệ mấy hàng.
Ông khách nói:
- Bài thơ tuy không có gì mới lạ nhưng thương nhớ có thừa, rất hợp với ý thái của người đời xưa. Thơ của người đời xưa, lấy hùng hồn làm gốc, bình đạm làm khéo, câu tuy ngắn nhưng ý thì dài, lời tuy gần nhưng nghĩa thì xa. Người thời này thì lại khác hẳn, hễ không có giọng đong đưa tất có giọng mỉa giễu, làm phú Cao đường thì bôi xấu Thần nữ (8), làm ca Thất tịch, thì nói mỉa Thiên Tôn (9), bày chuyện đặt điều, không còn cách nào tệ hơn nữa. Vì thế mà tôi những thương đời chán cảnh.
Phu nhân lặng nghe, bất giác ứa hai hàng nước mắt. Ông khách hỏi thì phu nhân nói:
- Tôi thờ đức Thánh Tông lâu năm rồi lại thờ đức Hiến Tông (10), nghĩa kết vua tôi, nhưng tình thật như cha con vậy, lúc chầu hầu, khi lui tới, không cần giữ ý tỵ hiềm. Không ngờ vì thế mà những kẻ thiển bạc, bày chuyện nói xằng, thường làm những câu thơ mỉa giễu. Như là câu:
Quân vương yếu dục tiêu nhàn hận,
Ưng hoán Kim Hoa học sĩ lai.
Dịch:
Quân vương nếu muốn khuây buồn nản,
Hãy gọi Kim Hoa học sĩ vào.
Và như:
Yến bãi long lâu thi lực quyện,
Lục canh lưu đãi hiểu miên trì.
Dịch:
Tiệc cạn lầu rồng sức thơ mỏi,
Canh dài giữ đợi giấc nằm trưa.
Sĩ quân tử ở trong danh giáo, thiếu gì thú vui hà tất lại lấy không làm có, trỏ phải ra quấy, đem chữ nghĩa ra mà đùa cợt như vậy.
Ông khách nói:
- Nào có một mình phu nhân như thế đâu! Xưa nay những người trinh liệt bị ngòi bút trào phúng làm cho bực mình biết bao nhiêu mà kể. Xem như Hằng Nga là tiên trên nguyệt điện, có kẻ vịnh thơ như thế này:
Hằng nga ưng hối thâu linh dược,
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.
Dịch:
Hằng Nga hối trót ăn linh dược (11),
Tẻ lạnh trời cao đêm lại đêm.
Lộng Ngọc là gái phi thăng, có kẻ vịnh thơ như thế này:
Như hà hậu nhật Tần Đài mộng,
Bất kiến Tiêu lang kiến Thẩm lang.
Dịch:
Tần Đài sau giấc mơ đêm đó,
Không thấy Tiêu lang, thấy Thẩm lang (12).
Vào cửa hầu thì nói mượn Lục Châu (13), mỉa họ Vũ thì đặt chuyện Vũ Hậu thổ (14). Toàn những giọng nói xằng buộc nhảm. Ước sao đem được dòng nước sông Lô để vì người xưa gột rửa những bài thơ xú ác ấy đi.
Phu nhân thu nước mắt rồi nói:
- Không có tiên sinh biết cho, có lẽ tôi thành một hòn ngọc khuê có dấu vết, lấy gì mài cho sáng, rũa cho sạch được. Song đêm đẹp dễ qua, tiệc vui khó kiếm. Bữa nay vợ chồng tôi cùng tiên sinh hội ngộ, chúng ta chẳng nói những chuyện ấy nữa, chỉ thêm buồn vô ích mà thôi.
Nhân bàn đến thơ văn bản triều, ông khách nói:
- Thơ ông Chuyết Am (15) kỳ lạ mà tiêu tao, thơ ông Vu Liêu (16) cao vọi mà khích thích, thơ ông Tùng Xuyên (17) như chàng trai xông trận, có vẻ sấn sổ, thơ ông Cúc Pha (18) như cô gái chơi xuân, có vẻ mềm yếu. Đến như ông Đỗ ở Kim Hoa, (19) ông Trần ở Ngọc Tái (20), ông Đàm ở Ông Mặc (21), ông Vũ ở Đường An (22), không phải là không ngang dọc tung hoành, nhưng cầu lấy lời chín lẽ tới, có thể khiến cho làng phong nhã phải phục thì chỉ duy những bài đầy lời trung ái của ông Nguyễn ức Trai (23), lòng lúc nào cũng chẳng quên vua, có thể chen vào môn hộ của Đỗ Thiếu Lăng được. Còn đến giọng thơ biến hóa được khói mây, lời thơ quan hệ đến phong giáo, thì lão phu đây cũng chẳng kém thua ai mấy.
Câu chuyện như vậy có thể chép ra đến bốn năm nghìn chữ, nhưng Tử Biên không thể nhớ hết. Chàng đứng nghe lóng ở kẽ vách đến một hồi lâu. Bỗng chàng để có tiếng sột soạt, bị ông khách nhận thấy, ông nói:
- Cuộc hội họp hôm nay thật là hiếm được, vậy mà tựa như có người nghe trộm. Những câu chuyện phong lưu của chúng mình, sợ bị họ đem phao truyền ra. Tiên sinh không thấy biết gì ư?
Phu nhân nói:
- Thì đến những kẻ nho sinh cầm bút sau này họ cho chúng mình là bàn xằng nói nhảm là cùng chứ gì, có hề chi sự ấy.
Tử Biên chẳng biết là ý nói thế nào, chàng rảo bước đi vào, phục lạy ở trước chỗ ba người ngồi chơi và hỏi về thi tứ. Ông khách liền rút ở trong lòng ra một quyển sách, ước trăm trang giấy, trao cho chàng mà bảo:
- Cứ về mà giở quyển này ra, sẽ tha hồ đọc, bất tất phải tìm ở tập nào khác nữa.
Một lúc sau bầu nghiêng chén cạn, chủ khách vái chào từ giã nhau. Ông khách ra rồi, Tử Biên cũng đi nằm ngủ. Đến lúc mặt trời đã mọc, chàng ngồi vùng dậy, té ra thấy mình nằm trên cỏ, áo đầm những sương, chỉ có đông tây hai ngôi mộ nhà ai nằm đó. Mở quyển sách ra xem thấy toàn là những giấy trắng chỉ có bốn chữ "Lã Đường thi tập" nét mực còn óng ánh chưa khô. Bấy giờ chàng mới hiểu ông khách ấy, tức là Lã Đường Sái tiên sinh (24) và hỏi thăm người ở đây, mới biết hai mộ này là mộ vợ chồng quan Giáo thụ họ Phù (25).
Tử Biên bèn tìm đến làng Sái tiên sinh, dò hỏi di cảo tập thơ Lã Đường, thấy gián nhấm mọt gặm, tản mác mất cả. Chàng nhân đi xa gần để hỏi han, hết sức cóp nhặt, dù nửa câu, một chữ cũng không bỏ sót. Cho nên từ khi Triều Lê dựng nghiệp thi sĩ có đến hơn trăm nhà, mà duy tập thơ của ông Sái thịnh hành, đại khái đều do công sức của Mao Tử Biên cả.


Chú thích:
(1) Kim Hoa: nguyên chú: "Tên huyện, thuộc xứ Kinh Bắc. Chi Lan người xã Phủ Lỗ", nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Ngô Chi Lan là vợ quan Giáo thu Phù Thúc Hoành, dạy Kinh Dịch ở trường Quốc Tử Giám, sau được thụ chức Hàn lâm học sĩ. Ông người làng Phù Xá cùng huyện. Tên phu nhân họ Phù có sách ghi là Liễu Hạ Huệ.
(2) Đoan Khánh: niên hiệu của Lê Uy Mục từ 1505 đến 1509.
(3) Phần Lão: tức Phan Đại Lâm đời Tống, Phần Lão là tên tự; đang đêm ông làm thơ, chợt có người đến thúc thuế, cụt hứng phải bỏ dở.
(4) Rượu La Phù: La Phù là tên một ngọn núi ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tương truyền Cát Hồng đời Đông Tấn học được phép thuật của tiên ở đây. Rượu La Phù: rượu tiên.
(5) Vệ Linh: nguyên chú: "Núi Vệ Linh ở huyện Kim Hoa, xã Vệ Linh, nay tên là núi Ninh Sóc"; nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
(6) Quân thiều: khúc nhạc trên trời. Thiều: khúc nhạc; Quân: Quân thiên; vùng trời trung ương, nơi ở của Thượng đế, ý nói đêm thường chiêm bao lên chốn cung trời, được vua cho nghe khúc nhạc trên trời.
(7) Kiều Sơn: Hoàng đế, vị vua thời Thái cổ của Trung Quốc mất, táng ở Kiều Sơn, nhưng quan tài chỉ có mũ áo, kiếm, tương truyền Hoàng Đế đã thăng thiên. ở đây nói về lăng mộ vua Thánh Tông.
(8) Phú Cao đường của Tống Ngọc, một nhà từ phú nước Sở thời Chiến quốc. Trong tác phẩm nói đến cuộc hội ngộ mây mưa giữa thần núi Vu Sơn và Sở Hoài Vương.
(9) Ca Thất tịch: của Trương Lỗi (1054 - 1114), một thi nhân đời Bắc Tống, chịu ảnh hưởng nhiều của Bạch Cư Dị, Trương Tịch, thơ văn bình dị, giàu tính nhân văn. Ông đỗ Tiến sĩ khoảng niên hiệu Hy Ninh (1068 - 1077), từng làm đến chức Thái thường Thiếu khanh. Ông có tên hiệu là Kha Sơn, tự là Văn Tiềm, người đương thời còn gọi là Uyển Khâu tiên sinh. Thiên tôn: chỉ Chức Nữ.
(10) Hiến Tông: vua thứ sáu nhà Lê, ở ngôi: 1498 - 1504.
(11) Hằng Nga là vợ Hậu Nghệ, lấy trộm thuốc trường sinh của Vương mẫu mà nuốt rồi bay lên cung trăng, Hậu Nghệ nắm áo kéo lại nhưng không được. Câu thơ "Bình hải thanh thiên dạ dạ tâm" là của Lý Nghĩa Sơn đời Đường.
(12) Lộng Ngọc là con gái Tần Mục công, vợ Tiêu Sử. Thẩm á Chi trong năm Thái Hòa đời Đường, một hôm ngủ trưa ở nhà trọ, chiêm bao thấy Tần Mục Công triệu tới, nói Tiêu Sử đã chết, đem Lộng Ngọc gả cho, ở với nhau được một năm, Lộng Ngọc cũng mất; tỉnh dậy hóa ra một giấc mơ.
(13) Lục Châu: vợ lẽ của Thạch Sùng. Khi bị Triệu Vương Luân cưỡng bức lấy về, nàng gieo mình từ trên lầu cao xuống tự tử. Thôi Giao khi thương tiếc người mình yêu bị bán vào nhà quan Liêu suy Vu Định có câu: Lục Châu thùy lệ thấp la cân (Nàng Lục Châu nhỏ lệ ướt khăn là).
(14) Vũ Hậu Thổ: đời Đường Vũ Hậu chiếm ngôi vua của con. Bà có tính hoang dâm; người bấy giờ đặt chuyện thần Hậu Thổ nằm với trai là Vi An Đạo để nói cạnh Vũ Hậu.
(15) Chuyết Am: tên hiệu vua Lý Tử Tấn (1378-1454), người làng Triều Đông, huyện Thượng Phúc (Thường Tín, Hà Tây ngày nay), đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) năm 1400 đời nhà Hồ, sau làm quan nhà Lê đến chức Hàn lâm.
(16) Vu Liêu: Nguyễn Trực (1417-1473), tự là Công Dĩnh, Vu Liêu có lẽ là hiệu; người làng Bối Khê, huyện Thanh Oai (nay thuộc Hà Tây), đỗ Trạng nguyên năm Đại Bảo thứ 3 (1442), làm quan dưới thời Lê Thánh Tông đến chức Hàn lâm viện Thừa chỉ, Trung thư lệnh kiêm Quốc tử giám Tế tửu, từng đi sứ Trung Quốc, có thi tập.
(17) Tùng xuyên: chưa rõ là ai.
(18) Cúc Pha: tên hiệu của Nguyễn Mộng Tuân (?-?), người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn (nay thuộc Thanh Hóa), đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) năm 1400 đời Hồ, làm quan đời Lê đến chức Khinh xa đô úy, Tả nạp ngôn, có tập thơ Cúc Pha.
(19) Đỗ Nhuận (1446-?): người xã Kim Hoa, huyện Kim Hoa, nay thuộc xã Kim Hoa, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Quang Thuận thứ 7 (1466). Thời Lê Thánh Tông làm quan đến chức Thượng thư, Đông các đại học sĩ, Tao đàn phó nguyên súy.
(20) Ông Trần ở Ngọc Tái: chưa rõ tiểu sử.
(21) Đàm Thận Huy (1463-1526): hiệu Mặc Trai người làng Ông Mặc, huyện Đông Ngàn, nay là thôn Ông Mặc, xã Hương Mạc, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức thứ 21 (1490), làm quan đến chức Lễ bộ Thượng thư, khi nhà Mạc đoạt ngôi nhà Lê ông lui về Bắc Giang mộ binh chống lại. Việc không thành, ông uống thuốc độc tự tử; có thi tập.
(22) Vũ Quỳnh (1453-1497): người xã Mộ Trạch huyện Đường An, nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Đỗ Hoàng giáp niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478), làm quan đến chức Binh bộ Thượng thư, Quốc tử giám Tư nghiệp, Quốc sử quán Tổng tài.
(23) Nguyễn ức Trai: tức Nguyễn Trãi. Xem chú thích 3, Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây.
(24) Sái Thuận (Sái còn đọc là Thái) (1441-?): người xã Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức thứ 6 (1475), nhiều năm làm quan ở viện Hàn lâm, sau giữ chức Tham chính sứ Hải Dương, hội viên Hội Tao đàn. Sái Thuận tự là Nghĩa Hòa, hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lã Đường, hiện còn tập Lã Đường di cảo.
(25) Xem chú thích 1, cùng truyện.
Hết chương 19 mời các bạn đọc tiếp chương 20


Chương 20: Chuyện tướng Dạ Xoa
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38

Bút nghiên xin chia sẻ giới thiệu với các bạn đọc Chương 20- Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ
Chương 20: Chuyện tướng Dạ Xoa (*)
Kẻ kỳ sĩ ở hạt Quốc Oai, họ Văn tên là Dĩ Thành (1) tính tình hào hiệp, không chịu để ma quỷ mê hoặc. Phàm những hoa yêu nguyệt quái, và dâm thần lệ quỷ không được liệt vào tự điển, chàng đều coi thường không sợ hãi gì. Cuối đời Trùng Quang nhà Trần, (2) người chết chóc nhiều, những oan hồn không chỗ tựa nương, thường họp lại thành từng đàn lũ, hoặc gõ cửa hàng cơm để kiếm miếng ăn, hoặc đón cô gái chơi để kết duyên tạm, ai va chạm thì bệnh nguy khốn, ai cầu cúng thì thấy hết phép hay, hoành hành ở đồng nội không biết kiêng sợ gì cả. Dĩ Thành nhân lúc say rượu, cưỡi ngựa đi đến, bọn ma quỷ sợ hãi, đều tan chạy cả. Chàng kịp gọi bảo rằng:
- Các ngươi đều là những kẻ tráng sĩ, không may mắc nạn. Ta nay đến thăm, muốn đem điều lợi hại nói chuyện, xin đừng lảng tránh như vậy.
Ma quỷ lại dần dần họp lại, mời chàng lên ngồi phía trên. Dĩ Thành hiểu bảo rằng:
- Lũ người cứ thích làm cho người ta phải tai nạn, làm cho người ta phải chết chóc, chẳng hay cốt để làm gì?
Chúng nói:
- Chúng tôi muốn để thêm quân.
Dĩ Thành nói:
- Các người muốn cho thêm quân nhưng tổn hại người sống thì sao! Quân thêm thì ăn uống phải thiếu, người bớt thì cung cấp phải thưa, lợi gì cho các người mà cứ thích làm như vậy? Lòng dục thả ra thì khe ngòi không đủ lấp, thói ác giở ra thì hùm sói chưa là dữ. Hễ lợi mình được, dù tấm áo mảnh giấy cũng không từ, hễ no lòng được, dù ống giập chậu vỡ cũng không thẹn. Hì hục đi tìm chai lọ, hăm hở đi kiếm cháo cơm. Gieo tai rắc vạ, trộm quyền của Hóa công, kêu nóc dòm buồng, rối lòng của dân chúng. Lũ người lấy thế làm thích nhưng mà ta lấy thế làm thẹn. Huống chi trời dùng đức chứ không dùng uy, người ưa sinh chứ không ưa giết. Vậy mà lũ người tự làm họa phúc, quá thả kiêu dâm. Thượng đế không dong, hình phạt tất đến, lũ người định trốn đi đàng nào để khỏi tru lục.
Chúng quỷ bùi ngùi nói:
- Đó là chúng tôi bất đắc dĩ chứ không phải là muốn như thế. Sống chẳng gặp thời, chết không phải số. Đói không có thứ gì cấp dưỡng, lui không có chốn nào tựa nương. Trong gò xương trắng, rầu rĩ cỏ rêu, trên đống cát vàng, lạnh lùng sương gió. Bởi vậy không khỏi rủ rê bè bạn, xoay xở miếng ăn. Phương chi vận sắp đến lúc đổi thay, nhà người sẽ đến cơ tan tác. Bởi vậy minh ty không cấm đoán, lũ tôi đã có lời xin. E rằng sang năm lại còn tệ hơn năm nay nữa.
Rồi đó nhà bếp dọn cỗ lên, mâm bàn la liệt. Hỏi đến nguồn gốc thì thịt là con trâu bắt ở thôn nọ, rượu là thúng bỗng lấy ở làng kia. Sinh ăn uống rất lanh, như mưa như gió. Chúng quỷ mừng rỡ bảo nhau rằng:
- Thật đúng là chủ soái của ta.
Rồi chúng nói với Sinh:
- Chúng tôi là một đám ô hợp mỗi người đều tự hùng trưởng, đã không có người đứng thống xuất, thế tất không thể lâu bền. Nay Sứ quân rủ lòng yêu mà đến đây, đó là trời đem Sứ quân cho lũ chúng tôi đấy.
Dĩ Thành nói:
- Ta văn võ kiêm toàn, dù hèn cũng làm tướng được. Những u minh cách trở, còn bà mẹ già thì sao?
Chúng quỷ nói:
- Không, chỉ xin Sứ quân giữ sự uy nghiêm, ban cho hiệu lệnh. Chúng tôi ban ngày thì chia khu ở tản, đến đêm thì sai viên bẩm trình. Không dám phiền ngài phải trở về chín suối.
Dĩ Thành nói:
- Nếu bất đắc dĩ dùng đến ta, ta có sáu điều làm việc, các người phải thề mà tuân theo mới được.
Chúng đều vâng dạ, nhân xin đến đêm thứ ba tới chỗ đó lập đàn. Đến kỳ, chúng quỷ đều lại họp. Có một tên quỷ già đến sau, Sinh sai đem chém, ai nấy đều run sợ. Sinh bèn ra lệnh rằng:
- Các ngươi không được coi khinh mệnh lệnh, không được quen thói dâm ô, không quấy quắc để làm hại mạng của dân, không cướp bóc và phải cứu nạn cho dân, ban ngày không được giả hình, ban đêm không được kết đảng. Nghe mệnh ta thì ta làm tướng các ngươi, trái lệnh ta thì ta trị tội các ngươi. Nghe rõ lời ta, đừng để hậu hối.
Đó rồi bèn chia bọn chúng ra từng bộ, từng tốt bảo phàm có điều gì hay dở, phải đến bẩm trình.
Như vậy được hơn một tháng, một hôm đương lúc ngồi nhàn, Dĩ Thành thấy một người tự xưng là sứ giả của Minh ty, đến xin mời chàng đi. Dĩ Thành toan lảng tránh, thì người ấy nói:
- Đó là mệnh lệnh của đức Diêm vương. Vì ngài thấy ông là người cương nghị, định đem phẩm trật tặng cho, chứ không làm gì phiền ông đâu, đừng nên từ chối. Có điều là xin để cho ông được rộng kỳ hạn, ông sẽ tự đến, tôi đợi ông ở dọc đường.
Nói xong không thấy đâu nữa. Sinh đòi chúng quỷ lại để hỏi, chúng đều nói:
- Bẩm, quả có việc ấy thật, chúng tôi chưa kịp thưa với Sứ quân. Nhân hôm nọ Diêm vương thấy buổi đời gặp lúc không yên, có đặt ra bốn bộ Dạ Xoa, mỗi bộ cử một viên tướng, giao cho cái quyền hành sát phạt, ủy cho những tính mệnh sinh linh, trách nhiệm lớn lao, không như mọi quan chức khác. Sứ quân oai vọng lẫy lừng, ngài đã biết tiếng, lại nhân chúng tôi hết sức tiến cử, nên ngài định cử Sứ quân vào chức lớn ấy.
Dĩ Thành nói:
- Như lời các ngươi nói thì đó là cái phúc hay là cái họa cho ta?
- Dưới Diêm La tuyển người không khác gì tuyển Phật, không thể đút lót mà được hay cầu may mà nên. Giữ mình cương chính, tuy hèn mọn cũng được cất lên, ở nết gian tà, tuy hiển vinh cũng không kể đến. Cái nhiệm vụ huấn luyện quản đốc, chẳng thuộc về Sứ quân thì còn về ai. Nếu Sứ quân còn ham luyến vợ con, dùng dằng ngày tháng, thì chức ăn sẽ lọt về tay người khác, chúng tôi cũng sẽ phải buồn rầu.
Dĩ Thành tắc lưỡi nói:
- Chết tuy đáng ghét, danh cũng khôn mua. Phương chi ngọn bút vì nhọn mà chóng cùn, cây thông vì cành mà bị đẵn, chim trĩ không vì lông đẹp, can chi rước vạ, con voi không vì ngà trắng, đâu phải đốt mình, chim hồng, chim nhạn bị giết há bởi không kêu, cây hu cây lịch sống lâu chỉ vì vô dụng, Tu văn dưới đất Nhan Hồi tuổi mới ba mươi hai (3). Viết ký lầu trời, Trương Cát trạc chừng hai mươi bảy (4), trượng phu sinh ở đời, không làm nên được lưng đeo vàng, chân bước ngọc, thì cũng phải sao cho lưu danh muôn thuở, tội gì cứ cúi đầu ở trong cõi đời vẩn đục, so kè cái tuổi sống lâu với chết non làm gì!
Bèn trang xếp việc nhà rồi chết.
Bấy giờ có người làng là Lê Ngộ, cùng Dĩ Thành vốn chỗ chơi thân, phiêu bạt ở vùng Quế Dương (5), ngụ trong một nhà trọ. Một hôm chừng quá canh một, Lê Ngộ thấy một người cưỡi ngựa thanh song, kẻ hầu đầy tớ rộn rịp, đến xin vào yết kiến. Chủ trọ vén mành ra đón. Lê Ngộ rất lấy làm lạ là tiếng nói của khách giống tiếng Dĩ Thành, nhưng trông mặt thì hơi giống Lê Ngộ toan ra cửa để tránh thì khách nói:
- Cố nhân biết ông, ông lại không biết cố nhân là làm sao?
Nhân kể quê quán họ tên và nói mình đã lĩnh chức quan to ở dưới âm phủ, vì có tình cũ với Lê Ngộ nên tìm đến thăm.
Bèn cởi chiếc áo cừu, cố cho nhà hàng lấy rượu để uống làm vui. Rượu uống mấy tuần, Lê nhân đó nói:
- Tôi xưa nay ở đời, vẫn để ý tu lấy âm công, không mưu sự ích lợi riêng mình, không gieo sự nguy bách cho mọi người, dạy học thì tùy tài dụ dịch, tự học thì cực lực dùi mài, không ước sự vẩn vơ, không làm điều quá đáng. Vậy mà sao lại phải bốn phương kiếm miếng, chiếc bóng nhờ người, con khóc lóc đói lòng, vợ than rét cật, về thì thiếu túp lều chắn gió, đi thì không chiếc nón che mưa, hết đông rồi tây, long đong chạy mãi. Thế mà bè bạn thì nhiều người đi làm quan cả, so bề tài nghệ cũng chỉ như nhau mà thân danh khác xa nhau lắm; kẻ sướng người khổ như thế là cớ làm sao?
Dĩ Thành nói:
- Phú quý không thể cầu, nghèo cùng do tự số cho nên núi đồng mà chết đói họ Đặng (6), thằng Xe mà làm khố chàng Chu (7); có duyên gió thổi núi Mã Đương (8), không phận sét đánh bia Tiến Phúc (9). Nếu không như vậy thì đức hạnh như Nhan như Mẫn (10), hẳn là lên đến mây xanh, từ chương như Lạc như Lư (11) sao lại chỉ là chân trắng. Bởi cái gì không làm mà nên là do trời, không vời mà đến là do mệnh. Cái đáng quý ở kẻ sĩ chỉ là nghèo mà không xiểm nịnh, cùng mà vẫn vững bền, làm việc theo địa vị của mình và thuận với cảnh ngộ mà thôi, còn sự cùng thông sắc nhụt thì ta có thể làm gì cưỡng với chúng nó được.
- Rượu đã uống cạn, lại khêu đèn cùng nhau trò chuyện, kéo dài mãi vẫn không biết chán. Ngày hôm sau trong lúc tương biệt, Dĩ Thành đuổi hết mọi người ra rồi nói:
- Tôi mới vâng lệnh của Thượng đế, kiêm coi cả bọn quân ôn dịch, chia đi làm việc ở các quận huyện, lại thêm những nạn đói khát, binh cách, số dân sinh sẽ phải điêu hao, mười phần chỉ còn được bốn năm. Người nào nếu không phải nguồn phúc sâu xa, e sẽ đến ngọc đá đều nát chung cả. Nhà bác phúc mỏng, tựa như không thể tránh khỏi được, nên sớm về quê quán, đừng lần nữa mãi ở đất khách quê người.
Lê nói:
- Tôi tưởng rất có thể trông nhờ ở bác che chở cho chứ?
Dĩ Thành nói:
- Không phải trong địa hạt của tôi, tôi không có thể vượt qua được. Trường Giang (12) trở về phía bắc do tôi chủ trương, còn Trường Giang (12) trở về phía tây, do viên tướng họ Đinh trông coi. Nhưng tôi quản lĩnh quân áo đen, chúng nó còn có từ tâm, chứ họ Đinh quản lĩnh quân áo trắng, phần nhiều là những tên ác quỷ, bác không nên không lo liệu trước.
Lê hỏi:
- Vậy thì làm thế nào?
Dĩ Thành nói:
- Mỗi một soái bộ đêm sai hàng hơn một nghìn tên quân, chia đi làm ôn dịch các nơi. Bác nên sắm nhiều cỗ bàn bày sẵn ở sân. Bọn chúng từ xa đến tất là đói khát, thấy cỗ liền ăn mà không suy nghĩ gì. Bác núp ở một chỗ tối, đợi khi thấy ăn uống gần xong, bấy giờ mới ra sụp lạy, nhưng cũng đừng kêu nài gì cả. Như thế họa may có cứu vãn được phần nào chăng.
Đoạn rồi ứa nước mắt cùng nhau từ biệt.
Lê Ngộ về quê nhà, thì bệnh dịch đương nổi rất dữ, vợ con đều mắc rất nặng, hầu không thể nhận được nhau nữa. Bèn theo lời Dĩ Thành, đêm hôm ấy làm cỗ rất hậu bầy ra sân. Quả thấy có đám đông quỷ sứ từ trên không bay đến nhìn nhau mà nói:
- Chúng ta đều đói cả, sẵn cỗ đây không ăn thì còn đi đâu. Chả lẽ vì uống mấy chén rượu mà đã đến phải tội được.
Chúng bèn cùng quây lại đánh chén. Một người mặc áo tía chễm chệ ngồi chính giữa, còn những người khác đều đứng chầu chung quanh, kẻ cầm dao búa, người cầm sổ sách. Thấy họ ăn uống gần xong, Lê Ngộ ra lạy mãi, lạy mãi. Người áo tía nói:
- Ta đương đánh chén, gã kia đến đây làm gì?
Chúng quỷ nói:
- Chắc là người chủ bày những mâm cỗ này, nhà hắn có người ốm nặng, kêu xin châm chước.
Người áo tía tức giận, cầm quyển sổ ném xuống đất mà nói:
- Lẽ đâu vì cho mâm cỗ sơ sài mà đánh đổi được năm mạng người hay sao!
Chúng quỷ nói:
- Nhưng đã ăn của nhà nó, chả lẽ nỡ làm ngơ không cứu. Thôi thì dù có vì cứu nó mà phải tội, dẫu chết ta cũng bằng lòng.
Người áo tía ngẫm nghĩ một lúc lâu, bèn lấy bút son xóa bỏ hơn mười chữ rồi đi. Sau vài ngày, nhà họ Lê ai nấy đều khỏi cả. Lê cảm ân đức của Dĩ Thành, bèn lập miếu ở nhà để thờ. Người làng đến khấn vái kêu cầu cũng thường ứng nghiệm.

Lời bình:
Than ôi! Bè bạn là một ở trong năm đạo thường, có thể coi khinh ư? Câu chuyện quỷ Dạ Xoa này, thật có hay không, không cần phải biện luận cho lắm. Chỉ có một điều đáng nói là sự giao du của Dĩ Thành, khi đã coi ai làm người bạn chân chính thì sống chết không đổi thay, hoạn nạn cùng cứu gỡ. Đời những kẻ kết bạn ở chung quanh mâm rượu, gan dạ đảo điên, hễ lâm đến sự lợi hại thì lờ đi như không biết nhau, nghe chuyện này há chẳng chạnh lòng hổ thẹn sao!


Chú thích:
(1) Quốc Oai: nay thuộc tỉnh Hà Tây, Hiện ở làng gối huyện Đan Phượng còn có đền thờ Văn Dĩ Thành.
(2) Trần Trùng Quang tên là Quý Khoáng, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh từ 1409-1413, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, Trùng Quang bị bắt và bị giết. Cũng như Trần Giản Định ông được quốc sử coi là nhà Hậu Trần.
(3) Nhan Hồi là học trò Khổng Tử, được coi là bậc đại hiền, khi mất mới 32 tuổi. Đời Tấn, Tô Thiều đã chết lại hồi, người em là Tiết hỏi chuyện; Thiều nói thấy hai ông Nhan Hồi và Bốc Thương làm chức Tu văn lang ở dưới đất.
(4) Theo nguyên chú, Lý Hạ tự là Trương Cát làm văn rất lanh, đặt bút là thành. Một hôm thấy một người cầm một cái thẻ chữ viết như lối chữ triện cổ, đến bảo Thượng đế mới làm xong cái lầu Bạch Ngọc, vời thầy lên làm cho bài ký. Không bao lâu thì Hạ chết. Từ đấy khi nói về văn nhân mất sớm, người ta thường nói là "ngọc lâu phó triệu".
(5) Quế Dương: nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
(6) Theo nguyên chú vua Hán Văn Đế yêu quý người bầy tôi là Đăng Thông, thấy thầy tướng bảo Thông sẽ phải chết đói, bèn cho cả núi đồng ở đất Thục, cho được phép đúc tiền mà tiêu, sẽ không còn lo chết đói nữa. Nhưng sau Văn đế mất, Cảnh Đế lên làm vua, ghét Thông, tịch thu cả gia sản. Thông phải đi ở nhờ và quả nhiên chết đói.
(7) Theo nguyên chú, Chu Thù nhà nghèo, chiêm bao thấy Thượng đế thương mình. Ngài hỏi vị thần tư mệnh: Nó có giàu được không? Tư mệnh nói: Số nó nghèo lắm. Nhưng hiện có số tiền của thằng Xe, có thể cho nó mượn được, rồi đến kỳ thằng Xe nó sinh, thì lại phải trả. Sau Chu khá giàu: đúng đến kỳ hạn, Chu xe tiền của chạy đi trốn. Buổi tối Chu dừng xe nghỉ ở dọc đường, gặp một người đàn bà chửa xin tạm nằm nhờ ở dưới xe. Đêm ấy người đàn bà đẻ đứa con trai; vì nghĩ nó đẻ ở dưới xe, bèn đặt tên là thằng Xe. Từ đấy Chu làm gì cũng thất bại, lại thành nghèo kiết.
(8) Vương Bột đời Đường theo cha đi làm quan, đậu thuyền ở dưới núi Mã Đương, mộng thấy vua Thủy phủ giúp cho một trận gió. Hôm sau quả nhiên có gió thuận, thuyền đến Nam Xương, làm bài Tựa Đằng vương các.
(9) Phạm Trọng Yêm đời Tống khi làm trấn thủ Nhiêu Chân, có người học trò vào yết kiến, nói tình cảnh đói rét nghèo khổ. Bấy giờ người ta đương mộ lối chữ đẹp của Âu Dương Suất Canh viết khắc ở tấm bia chùa Tiến Phúc. Ông Phạm bèn mua giấy mực định cấp cho người học trò ấy đến chùa rập lấy nghìn bản rồi đến kinh mà bán lấy tiền. Người học trò chưa kịp đến rập, bỗng một hôm mưa gió, tấm bia bị sét đánh vỡ mất. Vì vậy có câu thơ: Thời lai phong tống Đằng vương các, Vận khứ lôi oanh Tiến Phúc bi (Gặp thời gió đẩy tới Gác Đằng vương; Vận rủi sét đánh tan bia Tiến Phúc).
(10) Nhan Uyên, Mẫu Tử Khiên đều là học trò đức hạnh của Khổng Tử.
(11) Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương là hai danh sĩ đời Đường Cao Tông. Bùi Hành Kiệm thường chê là những người nóng nảy xốc nổi, không phải là kiểu người được hưởng tước lộc. Sau Lư vì ác tật mà gieo mình xuống nước chết, Lạc thì vì dự vào đảng loạn phải chết, đúng như lời Kiệm nói.
(12) Trường Giang: ở đây có lẽ chỉ sông Hồng.
\

Hết
 

Nguyễn Đảm Vp

Cộng tác viên
Xu
0
Tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương:

Chuyện người con gái Nam Xương rút trong tập Truyền kì mạn lục. Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì dung hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Chẳng bao lâu sau Trương Sinh phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương rót chén rượu đầy, tiễn chồng mà rằng: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu... chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên..”

Nàng đang có mang, xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản. Nửa năm sau, mẹ chồng vì già yếu và nhớ thương con đi lính, rồi lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men. Mẹ chồng qua đời, nàng thương xót lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ mình.

Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói, Trương Sinh được trở về. Con trai vừa học nói. Chàng bế con thơ đi thăm mồ mẹ. Đứa con quấy khóc, Trương Sinh hết sức dỗ dành. Con ngây thơ nói: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tồi ư. Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít Chàng gạn hỏi, đứa con mới cho hay "có một người đàn ông, đêm nào cùng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả". Trương Sinh vốn tính hay ghen, đinh ninh là vợ hư, la um cho hả giận, nhiếc mắng đuổi đi. Nàng khóc lóc phân trần, họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, Trương Sinh cũng chẳng nghe. Trước cảnh bình rơi trâm gãy, Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang với lời nguyền: “nếu đoan trang vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bàng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ...". Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng: “Cha Đản lại đến kia kìa!". Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình đã bị chết oan!

Lại nói về chuyện Phan Lang trước làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến xin kêu tha mạng. Sáng dậy, có người phường chài đem biếu một con rùa mai xanh. Chợt nghĩ đến chuyện chiêm bao, Phan Lang bèn thả con rùa. Sau đó, Phan Lang chạy loạn, đắm thuyền, thây dạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi nhìn thấy nói rằng: "Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa” rồi lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, Phan Lang đưực cứu sống. Linh Phi là vợ vua biển Nam Hải mở tiệc thiết đãi ân nhân mình. Có vô số mỹ nhân quần áo thướt tha, mái tóc dài búi xễ đến dự tiệc.

Trong số đó có một thiếu phụ xinh đẹp chỉ điểm một chút son phấn rất giống Vũ Nương. Tiệc xong, người con gái ấy nói với Phan Lang: "Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư” - Nghe kể đến chuyện làng quê Vũ Nướng khóc. Nàng gửi về một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước thì nàng sẽ trở về.

Linh Phi sai sứ giả Xích Hỗn đưa Phan Lang ra khỏi cung nước, về đến nhà, Phan Lang kể lại chuyện gặp Vũ Nương và trao lại chiếc hoa vàng. Trương Sinh bèn lập đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện. Trương Sinh thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, nói vọng vào: “..Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa..." - Bóng nàng mờ nhạt dần mà biến mất.
 

Nguyễn Đảm Vp

Cộng tác viên
Xu
0
Truyền kì mạn lục (quyển sách ghi chép tản mạn những điều kì lạ đang được lưu truyền) gồm 20 truyện ngắn viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi tự sự (có xen văn biền ngẫu và thơ ca). Tác phẩm này được Nguyễn Dữ viết trong thời gian ở ẩn và hoàn thành trước năm 1547. Sự đan xen pha trộn giữa yếu tố hiện thực và yếu tố hoang đường, kì ảo là nét đặc trưng và sức hấp dẫn đặc biệt của những câu chuyện trong tác phẩm. Sau mỗi truyện ngắn đều có một lời bình ngắn (hiện chưa biết là của ai) đề cập đến phẩm chất đạo đức của các nhân vật trong tác phẩm.

a. Hoàn cảnh ra đời:

Chế độ phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI nhìn chung vẫn đang trên đà phát triển. Tuy nhiên sự cường thịnh của những giai đoạn trước đó thì đã giảm sút rõ rệt, bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu của sự suy thoái. Trong tập đoàn giai cấp thông trị không còn những vua sáng tôi hiền. Triều đình nhà Lê với những ông vua nổi tiếng xa hoa đồi bại như Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đã gây nên bao nỗi thống khổ cho nhân dân. Ngoài xã hội, tình trạng đạo đức suy đồi, nhân tình thế thái đảo điên đang trở thành một hiện thực phổ biến và nhức nhối.

Sống giữa bối cảnh lịch sử xã hội như vậy, là một trí thức có tâm huyết, Nguvễn Dữ đã không thể không lên tiếng.

b. Nội dung tư tưởng:

Tác phẩm Truyền kì mạn lục là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của Nguyễn Dữ đối với hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Do điều kiện lịch sử, Nguyễn Dữ không thể nói trực tiếp mà phải dùng cách gián tiếp: Mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, mượn chuyện thần linh ma quái để nói chuyện người, mượn chuyện cõi âm để nói chuyện cõi dương, cõi trần. Phương pháp này giúp nhà văn có thể tự do tung hoành ngòi bút của mình trên trang giấy và thể hiện được tất cả những suy nghĩ, thái độ, quan điểm của mình về con người, về xã hội.

Nhìn tổng quát, Truyền kì mạn lục nổi bật ba vấn đề nội dung tư tưởng:

Thứ nhất là tinh thần phê phán, tố cáo giai cấp thống trị. Bằng ngòi bút thông minh, sắc sảo, bằng thái độ công phẫn mãnh liệt, Nguyễn Dữ vạch trần tất cả những bản chất tham tàn bạo ngược của bè lũ giai cấp thống trị từ hôn quân bạo chúa trong triều đến bọn cường hào ác bá ở địa phương. Tiếng nói của nhà văn trở thành tiếng nói đại diện của nhân dân. Nguyễn Dữ đã đứng về phía nhân dân để thay mặt họ lột trần bộ mặt thật của bọn tham quan ô lại và nói lên tiếng nói phản kháng quyết liệt của họ. Kèm theo đó là cảm hứng ngợi ca, khẳng định những người trí thức, những của họ. Kèm theo đó là cảm hứng ngợi ca, khẳng định những người trí thức, những bậc nho sĩ, những quan lại chính trực, khí tiết, bản lĩnh giữa một bối cảnh đầy ô tạp. Tuy nhiên, sự xuất hiện của những nhân vật này thường không nhiều.

Thứ hai, tác phẩm còn thể hiện ý thức xây dựng, bảo vệ tinh cảm gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Ở khía cạnh này, Nguyễn Dữ tập trung ca ngợi sự gắn bó chung thủy trong tình cảm vợ chồng, đặc biệt ông dành nhiều cảm hứng để đồng cảm với những bất hạnh và đề cao phẩm chất tốt đẹp ở những người phụ nữ. Nội dung này đem đến cho Truyền kì mạn lục chiều sâu của tư tưởng nhân đạo.


Thứ ba, ngoài hai vấn đề nội dung trên, thông qua Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ còn bộc bạch những nỗi niềm ưu tư sâu kín trước thời thế. Là một nho sĩ tài năng, tâm huyết với dời, thấu đáo bao đạo lí của trời đất nhưng ngày ngày phải nhìn thế thái nhân tình đổi thay, nhiều giá trị tốt đẹp trong cuộc sống con người có nguy cơ sụp đổ, tan rã, nhà văn không khỏi rơi vào nỗi bi uất. Mong mỏi giữ gìn và khơi dậy tất cả những giá trị cao đẹp bền vững của cuộc sống, Nguyễn Dữ cũng thể hiện rõ thái độ dứt khoát đấu tranh với tất cả những gì đang làm cho nó bị băng hoại.

Ngoài ba vấn đề cơ bản trên trong Truyền kì mạn lục còn có nhiều vấn đề khác khiến cho tác phẩm có một giá trị nội dung tư tưởng hết sức sâu sắc. Bao trùm lèn tất cả những vấn dề là mơ ước về một xã hội công bằng, lí tưởng, là khát vọng về hạnh phúc cho con người của nhà văn nói riêng và nhân dân lao dộng nói chung.

c. Nghệ thuật:

Thành công của tác giả trong tác phẩm trước hết là ở sự sáng tạo trên cơ sở những cốt truyện có sẵn. Đa phần những câu chuyện trong tác phẩm đều có nguồn gốc từ dân gian hoặc trong sách vở của người xưa. Nguyễn Dữ đã sưu tầm, đồng thời bố sung, nhào nặn, chau chuốt, gọt giũa, biên những câu chuyện còn thô sơ, đơn giản trở thành những tác phẩm văn học tinh tế giàu ý nghĩa và có hiệu quả nghệ thuật cao. Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật kết cấu, dẫn dắt tình huống kết hợp với cách xây dựng nhân vật là những thành công rõ nét nhất trong quá trình sáng tạo của nhà văn, đem lại cho những cốt truyện quen thuộc một sức sống và sự hấp dẫn mới.


sưu tầm
 

Nguyễn Đảm Vp

Cộng tác viên
Xu
0
Mới #2
Truyền kì mạn lục (quyển sách ghi chép tản mạn những điều kì lạ đang được lưu truyền) gồm 20 truyện ngắn viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi tự sự (có xen văn biền ngẫu và thơ ca). Tác phẩm này được Nguyễn Dữ viết trong thời gian ở ẩn và hoàn thành trước năm 1547. Sự đan xen pha trộn giữa yếu tố hiện thực và yếu tố hoang đường, kì ảo là nét đặc trưng và sức hấp dẫn đặc biệt của những câu chuyện trong tác phẩm. Sau mỗi truyện ngắn đều có một lời bình ngắn (hiện chưa biết là của ai) đề cập đến phẩm chất đạo đức của các nhân vật trong tác phẩm.

a. Hoàn cảnh ra đời:

Chế độ phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI nhìn chung vẫn đang trên đà phát triển. Tuy nhiên sự cường thịnh của những giai đoạn trước đó thì đã giảm sút rõ rệt, bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu của sự suy thoái. Trong tập đoàn giai cấp thông trị không còn những vua sáng tôi hiền. Triều đình nhà Lê với những ông vua nổi tiếng xa hoa đồi bại như Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đã gây nên bao nỗi thống khổ cho nhân dân. Ngoài xã hội, tình trạng đạo đức suy đồi, nhân tình thế thái đảo điên đang trở thành một hiện thực phổ biến và nhức nhối.

Sống giữa bối cảnh lịch sử xã hội như vậy, là một trí thức có tâm huyết, Nguvễn Dữ đã không thể không lên tiếng.

b. Nội dung tư tưởng:

Tác phẩm Truyền kì mạn lục là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của Nguyễn Dữ đối với hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Do điều kiện lịch sử, Nguyễn Dữ không thể nói trực tiếp mà phải dùng cách gián tiếp: Mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, mượn chuyện thần linh ma quái để nói chuyện người, mượn chuyện cõi âm để nói chuyện cõi dương, cõi trần. Phương pháp này giúp nhà văn có thể tự do tung hoành ngòi bút của mình trên trang giấy và thể hiện được tất cả những suy nghĩ, thái độ, quan điểm của mình về con người, về xã hội.

Nhìn tổng quát, Truyền kì mạn lục nổi bật ba vấn đề nội dung tư tưởng:

Thứ nhất là tinh thần phê phán, tố cáo giai cấp thống trị. Bằng ngòi bút thông minh, sắc sảo, bằng thái độ công phẫn mãnh liệt, Nguyễn Dữ vạch trần tất cả những bản chất tham tàn bạo ngược của bè lũ giai cấp thống trị từ hôn quân bạo chúa trong triều đến bọn cường hào ác bá ở địa phương. Tiếng nói của nhà văn trở thành tiếng nói đại diện của nhân dân. Nguyễn Dữ đã đứng về phía nhân dân để thay mặt họ lột trần bộ mặt thật của bọn tham quan ô lại và nói lên tiếng nói phản kháng quyết liệt của họ. Kèm theo đó là cảm hứng ngợi ca, khẳng định những người trí thức, những của họ. Kèm theo đó là cảm hứng ngợi ca, khẳng định những người trí thức, những bậc nho sĩ, những quan lại chính trực, khí tiết, bản lĩnh giữa một bối cảnh đầy ô tạp. Tuy nhiên, sự xuất hiện của những nhân vật này thường không nhiều.

Thứ hai, tác phẩm còn thể hiện ý thức xây dựng, bảo vệ tinh cảm gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Ở khía cạnh này, Nguyễn Dữ tập trung ca ngợi sự gắn bó chung thủy trong tình cảm vợ chồng, đặc biệt ông dành nhiều cảm hứng để đồng cảm với những bất hạnh và đề cao phẩm chất tốt đẹp ở những người phụ nữ. Nội dung này đem đến cho Truyền kì mạn lục chiều sâu của tư tưởng nhân đạo.


Thứ ba, ngoài hai vấn đề nội dung trên, thông qua Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ còn bộc bạch những nỗi niềm ưu tư sâu kín trước thời thế. Là một nho sĩ tài năng, tâm huyết với dời, thấu đáo bao đạo lí của trời đất nhưng ngày ngày phải nhìn thế thái nhân tình đổi thay, nhiều giá trị tốt đẹp trong cuộc sống con người có nguy cơ sụp đổ, tan rã, nhà văn không khỏi rơi vào nỗi bi uất. Mong mỏi giữ gìn và khơi dậy tất cả những giá trị cao đẹp bền vững của cuộc sống, Nguyễn Dữ cũng thể hiện rõ thái độ dứt khoát đấu tranh với tất cả những gì đang làm cho nó bị băng hoại.

Ngoài ba vấn đề cơ bản trên trong Truyền kì mạn lục còn có nhiều vấn đề khác khiến cho tác phẩm có một giá trị nội dung tư tưởng hết sức sâu sắc. Bao trùm lèn tất cả những vấn dề là mơ ước về một xã hội công bằng, lí tưởng, là khát vọng về hạnh phúc cho con người của nhà văn nói riêng và nhân dân lao dộng nói chung.

c. Nghệ thuật:

Thành công của tác giả trong tác phẩm trước hết là ở sự sáng tạo trên cơ sở những cốt truyện có sẵn. Đa phần những câu chuyện trong tác phẩm đều có nguồn gốc từ dân gian hoặc trong sách vở của người xưa. Nguyễn Dữ đã sưu tầm, đồng thời bố sung, nhào nặn, chau chuốt, gọt giũa, biên những câu chuyện còn thô sơ, đơn giản trở thành những tác phẩm văn học tinh tế giàu ý nghĩa và có hiệu quả nghệ thuật cao. Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật kết cấu, dẫn dắt tình huống kết hợp với cách xây dựng nhân vật là những thành công rõ nét nhất trong quá trình sáng tạo của nhà văn, đem lại cho những cốt truyện quen thuộc một sức sống và sự hấp dẫn mới.


sưu tầm
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top