ngan trang
New member
- Xu
- 159
Tác giả: Albert Vulliez
Người dịch: Người Sông Kiên - Lê Thị Duyên
Nhà xuất bản: Sông Kiên
Năm xuất bản: 1974
Số hoá: ptlinh
Nguồn : Quansuvn.net
Một quyển sách ly kỳ, hấp dẫn, lôi cuốn từ đầu đến cuối, như một tiểu thuyết phiêu lưu, cần thiết trong việc tìm hiểu cuộc chiến tranh Thái Bình Dương trong trận đại chiến vừa qua.
"Sấm sét trên Thái Bình Dương" là một bức hoạ rộng lớn về cuộc chiến tranh ở Viễn Đông. Quyển sách bắt đầu với trận đột kích Trân Châu Cảng của quân Nhật và cuộc xâm lược sấm sét trên các quần đảo ở Đông Nam Á; miêu tả tường tận các năm dài đánh nhau trong vùng rừng rậm và sình lầy trên các quần đảo trên Thái Bình Dương và xuyên qua vùng chằng chịt các hòn đảo nhỏ trong Biển San Hô.
Tác giả cho chúng ta tham dự, từng giờ, vào diễn tiến của các trận hải-không chiến dữ dội ở Midway và Guadalcanal, tiếp theo đó là các cuộc đổ bộ kinh hồn, những trận đánh trên bộ khủng khiếp: các cuộc đổ bộ đẫm máu tại Iwo Jima và Okinawa. Bấy giờ chúng ta sẽ chứng kiến sự kháng cự tuyệt vọng của một dân tộc từ chối chấp nhận sự đầu hàng, sự xuất hiện của các phi cơ tự sát Kamikaze, sự hi sinh của các phần tử ưu tú của tuổi thanh niên Nhật. Cuối cùng là cuộc oanh tạc Đông Kinh bằng bom xăng đặc và hồi chung cuộc tàn khốc, quả bom nguyên tử trên Hiroshima.
Cũng với diễn tiến của các trận đánh kinh thiên động địa, tác giả cũng đã phác hoạ lại hình ảnh của các lãnh tụ chính trị và quân sự của hai phe đối nghịch: Đồng Minh và Nhật Bản, thời bấy giờ.
Tự ngôn
Khi viết lịch sử một cuộc chiến tranh, cần phải dành một phần lớn cho khía cạnh nhân bản, cho những tình cảm đam mê khích động người chiến binh, và cho cảnh trí chung quanh cuộc chiến ấy. Sự miêu tả này có thể được giảm thiếu tối đa nếu tấn thảm kịch xảy ra tại một nơi gần chỗ chúng ta và trong một quá khứ gần gũi với chúng ta. Rõ ràng là ta có thể kể lại cuộc chiến trên đất Pháp bằng cách chỉ chú trọng đến sự kiện mà thôi bởi vì các nhân vật và khung cảnh, trong đó cuộc chiến xảy ra quá quen thuộc với chúng ta. Nhưng trái lại nếu cuộc chiến tranh ấy xảy ra tại một nơi xa lắc, trên một đại dương bao phủ gần hai phần ba quả địa cầu và giữa các phe đối nghịch mà cách sống, nhân dáng và phong thái đều hoặc là khác biệt hoặc là không dính líu gì đến cách sống, phong thái hay nhân sáng của chúng ta, thì một bản tường trình các sự kiện cho dù được trình bày khéo léo đến đâu chăng nữa, cũng không có ý nghĩa gì cả. Làm như thế là bắt buộc độc giả phải không ngừng cố gắng vị trí hoá trong không gian, các địa điểm mang những địa danh man dại, mà sự phân tán trên bản đồ lên đến mức có thể làm sửng sốt cả trí tưởng tượng. Làm sao độc giả có thể thích thú theo dõi được các trận đánh rải rác cách nhau hàng ngàn cây số mà không liên hệ gì với nhau và không có mục đích rõ rệt? Làm sao co thể bắt độc giả khu vị vào không gian và thời gian những cuộc điều động các lực lượng không, hải và lục quân mà thời gian kéo dài hàng tháng không nhất thiết luôn luôn phù hợp với nhau và không có vẻ gì là hữu ích cho độc giả?
Cũng như nhân vật Avare của Molière, độc giả sẽ dễ dàng tự hỏi những cái nhà ông ấy nhúng tay vào việc này để làm gì nhỉ?
Để tránh cho độc giả khỏi thường phải vun đắp mãi vào cái dấu hỏi này, cần phải cung cấp cho độc giả vài điểm soi sáng và vị trí hoá các biến cố trong khung cảnh lịch sử và chính trị của chúng.
Vấn đề đầu tiên mà độc giả sẽ đặt ra là vấn đề sau: tại sao, trong mùa đông năm 1941 ấy, lúc chiến tranh đang tàn phá Âu châu, Nhật Bản lại từ bỏ một chủ trương trung lập vốn rất có thể đảm bảo cho xứ ấy một sự hội nhập vĩnh viễn trong mối tương quan hoà nhịp với các đại cường mà không phải đánh chác gì cả? Ta nên nhắc lại cho độc giả rõ là Quốc gia này vốn đã hoàn tất một công cuộc canh tân chưa từng có trong lịch sử trong vòng 50 năm, đã cho rằng mình là nạn nhân của một bao vây kinh tế, chính trị và quân sự, một cảm nghĩ bị mặc cảm chủng tộc làm trầm trọng thêm. Nhật Bản đã thử phá vỡ vòng vây ấy bằng một kế hoạch bành trướng tại Mãn Châu và Trung hoa, nhưng sau chiến thắng sáng chói, quân Nhật bị sa lầy năm 1939 tại ngã tư các đường giao thông. Quân đội ấy đã thiệt mấy 500.000 người và một số vật liệu khổng lồ để chiếm tài nguyên của bốn tỉnh mà cuộc chiến tranh du kích liên tục đã ngăn cảm mọi sự khai thác. Chỉ có các quần đảo Đông Nam Á châu là có thể cung cấp cho Nhật các nguyên liệu cần thiết cho 72 triệu dân đang bị ngộp thở trên một mảnh đất nghèo nàn và nhỏ thua một phần tư lãnh thổ nước Pháp.
Vậy thì vũ trụ đồng thịnh vương của Đại Á Châu đặt dưới quyền giám hộ của Nhật, đối với các nhân vật chính trị và quân sự của vương quốc Mikado, có vẻ là con đường chiến thắng duy nhất của các dân tộc Viễn Đông. Vũ trụ đồng thịnh vượng này đã bắt đầu được hình thành trong thời gian giữa hai cuộc thế chiến bằng các cuộc thương thuyết theo đường lối ngoại giao tại khu vực trung ương Thái Bình Dương. Nhưng nếu việc đặt chân lên các quần đảo hoang vu kết thành chuỗi trên đại dương mênh mông là chuyện dễ dàng, thì sự bành trướng đến các quần đảo lớn về phía Nam đang bị các cường quốc Tây phương kiểm soát chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh.
Chính vì nhắm vào viễn ảnh không thể tránh được đó mà Bộ tham mưu Hải quân Nhật đã bí mật phát triển hạm đội chiến thằng bằng cách cấp cho nó-mà không cần đếm xỉa gì đến các hiệp ước-những thiết giáp hạm hùng mạnh nhất thế giới và một hạm đội liên hợp độc nhất vô nhị, chủ yếu là gồm các hàng không mẫu hạm.
Năm 1939, khi sự thất bại ở Trung Hoa bắt buộc Nhật Bản tính đến chuyện dùng vũ lực đánh chiếm thuộc địa của Đồng minh trong vùng Đông Nam Á. Nhật bèn gia nhập khối Trục, nghĩ rằng trong trường hợp có xung đột tại Âu châu, lực lượng hải quân Pháp-Anh đủ mệt tại Bắc Hải và Địa Trung Hải để dành cho Nhật rảnh tay tại Viễn Đông. Theo dự tính, Nhật chỉ còn phải đối phó với hạm đội Mỹ, chắc chắn là đáng sợ rồi, nhưng lúc đó đang bỏ neo ở xa và có vẻ kém huấn luyện đến nỗi Nhật có thể tính chuyện vô hiệu hoá được.
Hải quân Nhật được chuẩn bị tỉ mỉ cho viễn ảnh này trong thời gian 2 năm đầu tiên của chiến tranh Âu châu, và trong mùa hè năm 1941, khi cuộc tiến quân sấm sét của Đức tại Nga Sô cho phép hy vọng khối Trục chiến thắng trong một thời gian ngắn, thì cơ hội tỏ ra quá hẹp để Nhật Bản thực hiện mộng ước bành trướng của mình.
Người dịch: Người Sông Kiên - Lê Thị Duyên
Nhà xuất bản: Sông Kiên
Năm xuất bản: 1974
Số hoá: ptlinh
Nguồn : Quansuvn.net
Một quyển sách ly kỳ, hấp dẫn, lôi cuốn từ đầu đến cuối, như một tiểu thuyết phiêu lưu, cần thiết trong việc tìm hiểu cuộc chiến tranh Thái Bình Dương trong trận đại chiến vừa qua.
"Sấm sét trên Thái Bình Dương" là một bức hoạ rộng lớn về cuộc chiến tranh ở Viễn Đông. Quyển sách bắt đầu với trận đột kích Trân Châu Cảng của quân Nhật và cuộc xâm lược sấm sét trên các quần đảo ở Đông Nam Á; miêu tả tường tận các năm dài đánh nhau trong vùng rừng rậm và sình lầy trên các quần đảo trên Thái Bình Dương và xuyên qua vùng chằng chịt các hòn đảo nhỏ trong Biển San Hô.
Tác giả cho chúng ta tham dự, từng giờ, vào diễn tiến của các trận hải-không chiến dữ dội ở Midway và Guadalcanal, tiếp theo đó là các cuộc đổ bộ kinh hồn, những trận đánh trên bộ khủng khiếp: các cuộc đổ bộ đẫm máu tại Iwo Jima và Okinawa. Bấy giờ chúng ta sẽ chứng kiến sự kháng cự tuyệt vọng của một dân tộc từ chối chấp nhận sự đầu hàng, sự xuất hiện của các phi cơ tự sát Kamikaze, sự hi sinh của các phần tử ưu tú của tuổi thanh niên Nhật. Cuối cùng là cuộc oanh tạc Đông Kinh bằng bom xăng đặc và hồi chung cuộc tàn khốc, quả bom nguyên tử trên Hiroshima.
Cũng với diễn tiến của các trận đánh kinh thiên động địa, tác giả cũng đã phác hoạ lại hình ảnh của các lãnh tụ chính trị và quân sự của hai phe đối nghịch: Đồng Minh và Nhật Bản, thời bấy giờ.
Tự ngôn
Khi viết lịch sử một cuộc chiến tranh, cần phải dành một phần lớn cho khía cạnh nhân bản, cho những tình cảm đam mê khích động người chiến binh, và cho cảnh trí chung quanh cuộc chiến ấy. Sự miêu tả này có thể được giảm thiếu tối đa nếu tấn thảm kịch xảy ra tại một nơi gần chỗ chúng ta và trong một quá khứ gần gũi với chúng ta. Rõ ràng là ta có thể kể lại cuộc chiến trên đất Pháp bằng cách chỉ chú trọng đến sự kiện mà thôi bởi vì các nhân vật và khung cảnh, trong đó cuộc chiến xảy ra quá quen thuộc với chúng ta. Nhưng trái lại nếu cuộc chiến tranh ấy xảy ra tại một nơi xa lắc, trên một đại dương bao phủ gần hai phần ba quả địa cầu và giữa các phe đối nghịch mà cách sống, nhân dáng và phong thái đều hoặc là khác biệt hoặc là không dính líu gì đến cách sống, phong thái hay nhân sáng của chúng ta, thì một bản tường trình các sự kiện cho dù được trình bày khéo léo đến đâu chăng nữa, cũng không có ý nghĩa gì cả. Làm như thế là bắt buộc độc giả phải không ngừng cố gắng vị trí hoá trong không gian, các địa điểm mang những địa danh man dại, mà sự phân tán trên bản đồ lên đến mức có thể làm sửng sốt cả trí tưởng tượng. Làm sao độc giả có thể thích thú theo dõi được các trận đánh rải rác cách nhau hàng ngàn cây số mà không liên hệ gì với nhau và không có mục đích rõ rệt? Làm sao co thể bắt độc giả khu vị vào không gian và thời gian những cuộc điều động các lực lượng không, hải và lục quân mà thời gian kéo dài hàng tháng không nhất thiết luôn luôn phù hợp với nhau và không có vẻ gì là hữu ích cho độc giả?
Cũng như nhân vật Avare của Molière, độc giả sẽ dễ dàng tự hỏi những cái nhà ông ấy nhúng tay vào việc này để làm gì nhỉ?
Để tránh cho độc giả khỏi thường phải vun đắp mãi vào cái dấu hỏi này, cần phải cung cấp cho độc giả vài điểm soi sáng và vị trí hoá các biến cố trong khung cảnh lịch sử và chính trị của chúng.
Vấn đề đầu tiên mà độc giả sẽ đặt ra là vấn đề sau: tại sao, trong mùa đông năm 1941 ấy, lúc chiến tranh đang tàn phá Âu châu, Nhật Bản lại từ bỏ một chủ trương trung lập vốn rất có thể đảm bảo cho xứ ấy một sự hội nhập vĩnh viễn trong mối tương quan hoà nhịp với các đại cường mà không phải đánh chác gì cả? Ta nên nhắc lại cho độc giả rõ là Quốc gia này vốn đã hoàn tất một công cuộc canh tân chưa từng có trong lịch sử trong vòng 50 năm, đã cho rằng mình là nạn nhân của một bao vây kinh tế, chính trị và quân sự, một cảm nghĩ bị mặc cảm chủng tộc làm trầm trọng thêm. Nhật Bản đã thử phá vỡ vòng vây ấy bằng một kế hoạch bành trướng tại Mãn Châu và Trung hoa, nhưng sau chiến thắng sáng chói, quân Nhật bị sa lầy năm 1939 tại ngã tư các đường giao thông. Quân đội ấy đã thiệt mấy 500.000 người và một số vật liệu khổng lồ để chiếm tài nguyên của bốn tỉnh mà cuộc chiến tranh du kích liên tục đã ngăn cảm mọi sự khai thác. Chỉ có các quần đảo Đông Nam Á châu là có thể cung cấp cho Nhật các nguyên liệu cần thiết cho 72 triệu dân đang bị ngộp thở trên một mảnh đất nghèo nàn và nhỏ thua một phần tư lãnh thổ nước Pháp.
Vậy thì vũ trụ đồng thịnh vương của Đại Á Châu đặt dưới quyền giám hộ của Nhật, đối với các nhân vật chính trị và quân sự của vương quốc Mikado, có vẻ là con đường chiến thắng duy nhất của các dân tộc Viễn Đông. Vũ trụ đồng thịnh vượng này đã bắt đầu được hình thành trong thời gian giữa hai cuộc thế chiến bằng các cuộc thương thuyết theo đường lối ngoại giao tại khu vực trung ương Thái Bình Dương. Nhưng nếu việc đặt chân lên các quần đảo hoang vu kết thành chuỗi trên đại dương mênh mông là chuyện dễ dàng, thì sự bành trướng đến các quần đảo lớn về phía Nam đang bị các cường quốc Tây phương kiểm soát chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh.
Chính vì nhắm vào viễn ảnh không thể tránh được đó mà Bộ tham mưu Hải quân Nhật đã bí mật phát triển hạm đội chiến thằng bằng cách cấp cho nó-mà không cần đếm xỉa gì đến các hiệp ước-những thiết giáp hạm hùng mạnh nhất thế giới và một hạm đội liên hợp độc nhất vô nhị, chủ yếu là gồm các hàng không mẫu hạm.
Năm 1939, khi sự thất bại ở Trung Hoa bắt buộc Nhật Bản tính đến chuyện dùng vũ lực đánh chiếm thuộc địa của Đồng minh trong vùng Đông Nam Á. Nhật bèn gia nhập khối Trục, nghĩ rằng trong trường hợp có xung đột tại Âu châu, lực lượng hải quân Pháp-Anh đủ mệt tại Bắc Hải và Địa Trung Hải để dành cho Nhật rảnh tay tại Viễn Đông. Theo dự tính, Nhật chỉ còn phải đối phó với hạm đội Mỹ, chắc chắn là đáng sợ rồi, nhưng lúc đó đang bỏ neo ở xa và có vẻ kém huấn luyện đến nỗi Nhật có thể tính chuyện vô hiệu hoá được.
Hải quân Nhật được chuẩn bị tỉ mỉ cho viễn ảnh này trong thời gian 2 năm đầu tiên của chiến tranh Âu châu, và trong mùa hè năm 1941, khi cuộc tiến quân sấm sét của Đức tại Nga Sô cho phép hy vọng khối Trục chiến thắng trong một thời gian ngắn, thì cơ hội tỏ ra quá hẹp để Nhật Bản thực hiện mộng ước bành trướng của mình.