minhanh_1995
New member
- Xu
- 0
Chẳng biết tự bao giờ, đất trời có mùa thu và cũng chẳng biết tự bao giờ, hương sắc mùa thu khiến cho các tao nhân mặc khách ngây ngất để phả vào mấy vần thơ. Tâm hồn con người luôn là một cây đàn muôn điệu với các "tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng đồng thướt tha” mà hoá công có thể diện tả được để gửi vào thời tiết. Đông mang đến sự héo hắt, bi luỵ, u sầu; xuân mang đến mầm sống cùng sự chuyển mình thần kỳ, hạ mang sức trẻ, sự sôi nổi, nhiệt thành; còn thu, thu e ấp gam màu trầm lặng với sự thơ mộng, lãng mạn. Nhưng cũng có lúc tâm hồn ta buồn vui lẫn lộn như một sự giao mùa, chuyển tiết Hè - Thu. Ít ai nhận ra cái chuyển tiếp đó. Và Hữu Thỉnh từng thấy được điều ấy một cách tình cờ để phả vào khúc " Sang thu”.
Xinh tươi bao giờ cũng thuộc về những buổi bình minh cây xanh nắng gội còn hoàng hôn mang đến cho ta nét trầm lặng, lãng mạn của một mùa thu vàng.
Đến rồi lại đi, tự nhiên là thế, mùa hạ đang trôi qua mau chóng nhưng dấu gót của nó vẫn còn phảng phất đâu đây trong hương sắc trời thu để ta phải lưu luyến bâng khuâng như một hoài niệm.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ.
Hình như thu đã về.
Mở ra bài thơ thường bằng một vài lời trần thuật, tự sự để dẫn ta vào mạch cảm xúc. Song ở đây, Hữu Thỉnh đã gợi ra cái ngỡ ngàng trong tâm trạng mình một cách đột ngột.
Bỗng nhận ra hương ổi.
" Bỗng" là một trợ từ nay lại được dùng làm từ mở ra một bài thơ thật bất thường. Nó gợi ra một sự ngạc nhiên đến tột độ. Dường như, thu đến với nhà thơ quá đột ngột, tình cờ trong vô thức. Song chính nhờ cái tình cờ của chữ "bỗng" ấy, Hữu Thỉnh mới nhìn vạn vật mang một vẻ đẹp đầy nên thơ, mơ mộng với những quan sát tinh tế đến từng chi tiết, góc độ.
Trời đã bước sang cuối hạ, hương ổi vẫn còn. Cái hương thơm nồng nàn của loại trái cây đương chín rộ đủ khiến ta ngây ngất. Chắc hương thơm ấy phải đậm lắm mới khiến cho thi nhân đang triền miên suy nghĩ phải lặng người mà tận hưởng mùi thơm ngào ngạt ấy. Rồi một làn gió heo may se sắt của mùa thu khe khẽ thoáng qua đời ta. Lả lướt, nhẹ dịu, mơn chớn khắp da thịt đó là cái sung sướng của những làn thu gửi đến cho ta:
Phả vào trong gió se
Một chữ “phả" kia thôi cũng đủ cho mùi thơm của ổi trở nên sánh lại, đậm sắc hơn. Hương sắc của hoa lá cỏ cây quện vào với gió rồi lan toả khắp không gian rợn ngợp thì còn gì thơm bằng. Mùi ổi như được gió thu tinh lọc để trở nên thanh khiết, cô quánh lại. Riêng hai câu thơ mở đầu đã mang lại cho người đọc cảm giác bâng khuâng xao xuyến trước sự giao thoa vô cùng tự nhiên mà quyến rũ của hè và thu.
Sương chùng chình qua ngõ
Hoà vào âm hưởng của sự chuyển tiết đó là những làn sương thu. Làn sương ấy mỏng tang giăng mắc khắp mọi nơi. Có lẽ, ta chẳng thể tìm thấy một manh mối nào của mặt đất không được sương bao phủ. Sương giăng trên vạn vật hay chính là giăng trong lòng người bao mối tơ vò. Một nỗi buồn vu vơ vì hạ đã qua để lại cho con người ta bao nỗi luyến tiếc. Hay đó cũng là tiếng reo vui chào khí thu đã về. Nhưng dù sao, hình ảnh làn sương được thi nhân miêu tả thật đẹp. Sương khói mùa thu buồn là vậy: bảng lảng, lờ đờ và nhè nhẹ đi qua tất cả. Với biện pháp nhân hoá, Hữu Thỉnh đã giúp cho sương có đôi chân cùng những bước đi nhẹ nhàng, chậm rãi khoan thai. Dường như, ngay cả tạo hóa cũng muốn sương đi chậm lại như một sự níu kéo những bước chân đều đều của khói thu tràn qua cổng ngõ thời tiết. "Chùng chình" một sự nhấn nhá đầy chủ ý, nó gợi ra thấp thoáng đâu đây bóng dáng một thiếu nữ thư ớt tha, yểu điệu qua biên giới mong manh của thời tiết. Danh từ "sương" đã được nhắc nhiều trong thơ ca từ trước đến nay và có ở khắp các mùa trong năm. Với "thi tiên " Lý Bạch, sương mang nặng sự héo hắt giá buốt của mùa đông ẩn vào trong khúc " vọng nguyệt hoài hương":
Nghi thị địa thượng sương
(Tĩnh Dạ Tứ)
Còn với Nguyễn Trãi, sương mờ ảo bất định với vẻ đẹp bí ẩn, " Cỏ xuân như khói”. Nhưng sương thu của Hữu Thỉnh thì thật giản dị, tiêu sơ nhưng lại gói gọn được cái bao điều thi vị.
Tất cả, tất cả mọi sự vật được gợi ra, bắt thi sĩ phải căng hết các giác quan và linh động tâm hồn nhạy cảm để phả vẻ đẹp đó vào vần thơ. Để rồi, chúng khiến cho ngay cả chúng ta có cái gì như ngạc nhiên lạ lẫm ngỡ ngàng từa tựa một điều phán đoán.
Hình như thu đã về
Thu đã về thật rồi sao, lại còn phải ngẩn ngơ? Phải chăng bấy lâu nay ta đã thờ ơ với nó để đến giờ ta cảm thấy lạc lõng khó có thể khẳng định được thu đã sang hay chưa. Mở đầu bằng một sự tình cờ “bỗng" và khép lại khổ thơ bằng cái "hình như”, Hữu Thỉnh gửi vào lòng người đọc sự thoáng chốc, bất giác về tiết lập thu cũng như cảm nhận, mơ hồ mong manh trong tâm thế về sự trở về của mùa thu.
Nếu như, thu trong khổ thơ đầu là không gian hẹp, thấp và gần cùng những cảm giác trong vô thức thì ở khổ thơ kế tiếp lại là một vẻ đẹp khác. Nó được mở rộng hơn, xa hơn và cao hơn. Có thể nói khổ thơ này mang tính logic, hợp với quy luật của dòng lâm trạng của Hữu Thỉnh trong bài thơ. Từ một phản xạ tự nhiên, nhà thơ đã định thần trở lại để ngắm nhìn thu sang:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Một sự cụ thể hóa đang diễn ra. Từ cái ngỡ ngàng, si mê, ngây ngất , tác giả dừng chân đứng lại, phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn một cách lặng lẽ phong cảnh.
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Từ những tín hiệu của thu về, tất cả bỗng biến chuyển thành đất trời mùa thu/ Cái " hình như " ở câu thơ kết khổ một đã đánh dấu cột mốc cho thu về bằng nhiều hình ảnh quen thuộc. Dòng sông trải dài mênh mang và uốn lượn trên mặt đất. Con nước trôi êm ả không chút băn khoăn. Điều này thật khác với sông trong mùa hạ. Nước lũ dâng cao như muốn dồn tất cả vào bể nước. Vậy mà giờ đãy, con sông trở nên thong thả, yên ả với trạng thái nghỉ ngơi. Nó thật giống với quy luật của cuộc sống, khi hạ - sự cống hiến, sôi nổi nhiệt tình đi qua thì thu - trạng thái nghỉ ngơi sẽ đến. Hai chữ "được lúc" đã khiến cho sông trở nên có hồn: bắt nhịp được với cái lạch nguồn chuyển tiếp của đất trời, lặng lẽ, dềnh dàng....tất cả mang đến cho ta cái yên bình trong sự sống.
Nhưng chính điều đó đã dẫn đến một hình ảnh khác :"chim bắt đầu vội vã". Gió heo may se sắt đã tràn về sông hồn nhiên hơn cũng là lúc mùa rét đã tới. Những đàn chim di cư sẽ phải bay về phương Nam ấm áp để tránh rét. Cả chiều thu đã sang tới bến sông, vậy thì còn đợi gì nữa mà đàn chim chẳng vội vã đi nơi khác. Với biện pháp tương phản đối lập, nhà thơ khắc họa thật đậm nét sự biến chuyển của thời tiết. Song ở đây, ta cũng có thể thấy được cảm nhận tinh thế của nhà thơ qua mấy vần thơ. Đàn chim mới chỉ là “bắt đầu” chứ không phải là đang."Đang" thì thường quá. Hữu Thỉnh thật tài tình khi tìm thấy sự bắt đầu hiếm hoi khó có thể gặp được ấy. Và cũng bởi tất cả mới chỉ ở khởi điểm nên nó chưa thấm mệt mà hãy còn duyên dáng, nhẹ nhàng.
Có đám mây mùa hạ
Mở rộng đến tuyệt đối, con mắt thì sĩ như ngước lên nhìn đám mây trời. Đám mây bảng lảng giữa từng không của mùa hạ. Hai câu thơ là một ẩn dụ đẹp, ẩn dụ nhân hoá. Trước hết, tác giả nhân hoá mây trời cũng giống như người chỉ qua nhột từ “vắt". Trong thơ ca, có rất nhiều nhà thơ chỉ bằng một động từ đã làm nên một phép ẩn dụ giàu tính ước lệ, tượng trưng. ở đây cũng vậy, có lẽ, sắc trắng của mây mùa hạ đã quyện với gam màu vàng dìu dịu của hương thu. Phải chăng, cái ranh giới giữa mùa hạ và mùa thu mong manh lắm chỉ trong gang tấc, cái trôi lững thững của mây hạ đã dạt nửa mình sang thu. Nhưng thực chất, điều này nhằm nói tới sự giao thoa giữa hai mùa cũng chỉ ngắn ngủi trong khoảnh khắc.
Từ những đam mê say sưa trước sự chuyển mình của đất trời sang thu, thi nhân khép lại lòng mình để ngắm nhìn những sự vật xung quanh với những đổi thay sâu kín.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Thật tài tình, từ những sắc mùa của vạn vật, Hữu Thỉnh đã thu mình lại và ru hồn trong những trầm ngâm, suy nghĩ.
Vẫn còn bao nhiêu nắng . .
Nắng vẫn còn chứ không phải hoàn toàn. Nó đã vơi đi chứ không quá gay gắt chói chang như nắng hạ. Có lẽ nắng thu đã gởi lại cho hạ cái oi nồng mà e ấp trong mình sự nên thơ, lãng mạn cùng ánh vàng ngọt ngào như rót mật vào lòng người. Đó không phải là thứ ánh sáng leo lắt của "Mỗi lần nắng mới hắt bên sông/xao xác gà trưa gáy não nùng" (Nắng mới – Lưu Trọng Lư) và đó cũng không phải là: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang" (Hàn Mặc Tử). Nắng ở đây là nắng thơ mang nét đẹp của tâm hồn làm cho thu thêm phần ý nhị.
Cùng với nắng là gió mưa, bão bùng. Mưa vơi cạn dần đi. Giọt mưa không quá nặng hạt để gieo mình xuống mặt đất gây lụt lội. Còn mư a trong thu ít hơn, hiếm thấy và chất chứa trong ta bao bâng khuâng, xao xuyến của một mùa lá rụng. Sấm cũng không thét gào dữ dội trên bầu trời, ánh chớp cơn mưa rạch ngang nền trời trong hạ luôn là một điều đáng sợ. Tưởng rằng, nó sẽ kéo dài dai dẳng nhưng không ngờ khi bước vào thu, tất cả như tắt lịm đi lúc nào không hay. Và ta khó có thể gặp được những:
Tháng bảy mưa gãy cành chám
Tháng tám nắng rám trái bưởi.
Một điều đặc biệt mà ta có thể nhận ra ở đâu đó là tác giả bài thơ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật liệt kê tăng tiến. Trước hết, mọi vật này được liệt kê một cách đầy đủ: nắng, mưa, sấm, chớp. Cùng với việc đó, nhà thơ đã sử dụng biện pháp nói tránh kín đáo vẫn còn" rồi lộ dần ra "vơi dần" để kế đến là cung bậc cao nhất của sự thiếu hụt "bớt bất ngờ".
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ.
Nhịp thơ nhịp nhàng khiến cho ta tưởng các câu mang ý nghĩa tương đương nhau nhưng không phải. Rõ ràng sự tăng cấp được sử dụng thật khéo léo trong cả ba câu thơ. Cuối cùng, chúng trở thành đòn bẩy để tôn lên vẻ trầm mặc im lìm trên những hàng cây đứng tuổi.
Trên hàng cây đứng tuổi
Lấy động tả tĩnh chính là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công trong bài thơ. Việc này khiến cho người đọc hình dung được rằng sự thét gào dữ dội hay chính mùa hạ đang mát dần và thu đậm nét hơn trước mắt bao người.
Thơ là gợi là nhân một vẻ đẹp mà gợi nên bao mối tơ vương trong lòng người. Từ Thu của thiên nhiên, thu của đất trời mà ở đây ta cũng có thể hiểu là thu của đất nước Việt Nam. Có nơi nào mang sắc thu vàng mộng mơ, lãng mạn như Việt Nam. Hữu Thỉnh không nói thu cụ thể ở nơi nào nhưng ông đã ngầm đem đến cho ta cái ngọt ngào của thu Việt Nam, thu Bắc Hà, thu Hà Nội. Có thể nói, toàn bài thơ nhìn tổng thể là một bức tranh giao mùa tuyệt tác, quyến rũ hồn người...Song, "sang thu ' còn được gợi vào tình yêu mùa thu, yêu cảnh vật, quê hương đất nước.
Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến chút tột cùng là dòng máu chảy.
Đất nước đã hòa bình vậy thì không cần phải hy sinh chiến đấu. Mà tình yêu Tổ quốc chính là lòng yêu những bình dị, thân thương nhất: Một hương ổi, một làn sương, một dòng sông...Tất cả, tất cả làm nên một mùa thu ngọt dịu, đậm đà tình đất nước. Dường như, vần thơ đều thấm đẹp vẻ đẹp hiền hoà, hồn hậu của thu đất nước. Đôi vần thơ thu như luyến giao với lòng người một cách tế nhị, tinh vi mà sâu kín lúc nào không hay. Đó không phải là mùa thu Bắc Việt đẹp quá, lòng người yêu quê hương lắm hay sao? Sự trùng phùng bất giác làm ta ngẩn ngơ pha một chút mừng rỡ vì được hưởng thụ khoảng khắc sang thu tuyệt diệu.
Ngẫm lại cho kỹ, hình như bài thơ còn có một ẩn ý khác. Thu thiên nhiên, thu đất nước và cũng là thu của lòng người. Đơn cử hai câu kết bài thơ :
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Không đơn thuần tả cảnh, đôi câu thơ kết lại bao suy ngẫm sâu sắc. Sấm chớp hay chính là tác động của ngoại cảnh, những vạng động, biến cố bất thường trong cuộc đời. Hình ảnh ẩn dụ độc đáo làm cho ta cũng khó hiểu. Nhưng có lời thơ của câu thơ sau nên người đọc mới rút ra được nhiều điều thú vị. Hàng cây đứng tuổi giúp người đọc liên tưởng đến một con người. Hàng cây ấy đã được nhân cách hoá để mang dáng dấp một con người thực thụ. khi đã đi gần hết cuộc đời, ta sẽ lui vào một góc khuất của cuộc sống để suy nghĩ về những trải nghiệm đã qua. Đồng thời, người cũng trở nên điềm tĩnh trước những biến cố lớn lao ấy. Suy rộng ra, dáng vẻ những trải nghiệm đã qua không hề nao núng, sâu sắc hơn cùng t ư thế ung dung, điềm nhiên chỉ có ở những ngư ời đã từng đi khắp nẻo đường đời. Còn hàng cây đứng tuổi đang lặng người, "Chết đứng" trong suy nghĩ về tình người, tình đời cùng tư thế lịch lãm.
Có người nói, suy nghĩ của nhà thơ chỉ dừng lại ở hai câu thơ cuối. Vậy thì, Hữu Thỉnh cũng chỉ là con người tầm thường hời hợt với cuộc sống. Cái mà ta đánh giá cao chính là nội dung toàn bài thơ "Sang thu” - Sự chuyển giao của đất trời hay là sang thu của lòng người. Một khoảnh khắc sang ngắn ngủi ấy khiến cho bao người những khách thể trở nên chín chắn già dặn hơn.
Thu là thơ của đất trời
Thơ là thu của lòng người.
Xin hãy chú ý vào cách mở bài thơ - "Bỗng". Đó là một từ chỉ sự ngạc nhiên cao độ. Nó muốn nói tới sự hiếm hoi của hương thu nơi đô thị. Đã lâu lắm rồi trong Hà Nội không thấy hương cốm sữa, hương ổi Quảng Bá cũng sắc đỏ cây gạo nơi góc phố thân quen. Bởi cuộc sống tất bật, nhộn nhịp của con người Hà Thành đã hoà loãng, phai nhạt đi những vẻ đẹp đích thực của thiên nhiên. Điều cuối cùng muốn nói, chúng ta hãy để tâm đến những vẻ thánh thiện trong cuộc sống và đừng bao giờ để nó phải mất đi. Xin cảm ơn, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra khoảng khắc sang thu kỳ diệu đó và phả vào thơ. Và người đọc chúng ta cũng phải cảm phục Hữu Thỉnh đã đưa đến cho ta những nét chấm phá tinh tế về cuộc sống. Chắc thi nhân cũng phải có bản lĩnh kiên cường lắm mới khơi dậy được trong lòng bao con người một mùa thu đẹp, mộng mơ mà ta đã quên.
Gấp lại những vần thơ thu của Hữu Thỉnh, người đọc như thấy vương vấn đâu đây trong tâm hồn, từa tựa một sự lắng đọng cùng chút vảng vất, giao hoà vào đôi câu thơ trác tuyệt của Xuân Diệu.
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
(Đây mùa thu tới)
Nguyễn Lê Minh Anh
Xinh tươi bao giờ cũng thuộc về những buổi bình minh cây xanh nắng gội còn hoàng hôn mang đến cho ta nét trầm lặng, lãng mạn của một mùa thu vàng.
Đến rồi lại đi, tự nhiên là thế, mùa hạ đang trôi qua mau chóng nhưng dấu gót của nó vẫn còn phảng phất đâu đây trong hương sắc trời thu để ta phải lưu luyến bâng khuâng như một hoài niệm.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ.
Hình như thu đã về.
Mở ra bài thơ thường bằng một vài lời trần thuật, tự sự để dẫn ta vào mạch cảm xúc. Song ở đây, Hữu Thỉnh đã gợi ra cái ngỡ ngàng trong tâm trạng mình một cách đột ngột.
Bỗng nhận ra hương ổi.
" Bỗng" là một trợ từ nay lại được dùng làm từ mở ra một bài thơ thật bất thường. Nó gợi ra một sự ngạc nhiên đến tột độ. Dường như, thu đến với nhà thơ quá đột ngột, tình cờ trong vô thức. Song chính nhờ cái tình cờ của chữ "bỗng" ấy, Hữu Thỉnh mới nhìn vạn vật mang một vẻ đẹp đầy nên thơ, mơ mộng với những quan sát tinh tế đến từng chi tiết, góc độ.
Trời đã bước sang cuối hạ, hương ổi vẫn còn. Cái hương thơm nồng nàn của loại trái cây đương chín rộ đủ khiến ta ngây ngất. Chắc hương thơm ấy phải đậm lắm mới khiến cho thi nhân đang triền miên suy nghĩ phải lặng người mà tận hưởng mùi thơm ngào ngạt ấy. Rồi một làn gió heo may se sắt của mùa thu khe khẽ thoáng qua đời ta. Lả lướt, nhẹ dịu, mơn chớn khắp da thịt đó là cái sung sướng của những làn thu gửi đến cho ta:
Phả vào trong gió se
Một chữ “phả" kia thôi cũng đủ cho mùi thơm của ổi trở nên sánh lại, đậm sắc hơn. Hương sắc của hoa lá cỏ cây quện vào với gió rồi lan toả khắp không gian rợn ngợp thì còn gì thơm bằng. Mùi ổi như được gió thu tinh lọc để trở nên thanh khiết, cô quánh lại. Riêng hai câu thơ mở đầu đã mang lại cho người đọc cảm giác bâng khuâng xao xuyến trước sự giao thoa vô cùng tự nhiên mà quyến rũ của hè và thu.
Sương chùng chình qua ngõ
Hoà vào âm hưởng của sự chuyển tiết đó là những làn sương thu. Làn sương ấy mỏng tang giăng mắc khắp mọi nơi. Có lẽ, ta chẳng thể tìm thấy một manh mối nào của mặt đất không được sương bao phủ. Sương giăng trên vạn vật hay chính là giăng trong lòng người bao mối tơ vò. Một nỗi buồn vu vơ vì hạ đã qua để lại cho con người ta bao nỗi luyến tiếc. Hay đó cũng là tiếng reo vui chào khí thu đã về. Nhưng dù sao, hình ảnh làn sương được thi nhân miêu tả thật đẹp. Sương khói mùa thu buồn là vậy: bảng lảng, lờ đờ và nhè nhẹ đi qua tất cả. Với biện pháp nhân hoá, Hữu Thỉnh đã giúp cho sương có đôi chân cùng những bước đi nhẹ nhàng, chậm rãi khoan thai. Dường như, ngay cả tạo hóa cũng muốn sương đi chậm lại như một sự níu kéo những bước chân đều đều của khói thu tràn qua cổng ngõ thời tiết. "Chùng chình" một sự nhấn nhá đầy chủ ý, nó gợi ra thấp thoáng đâu đây bóng dáng một thiếu nữ thư ớt tha, yểu điệu qua biên giới mong manh của thời tiết. Danh từ "sương" đã được nhắc nhiều trong thơ ca từ trước đến nay và có ở khắp các mùa trong năm. Với "thi tiên " Lý Bạch, sương mang nặng sự héo hắt giá buốt của mùa đông ẩn vào trong khúc " vọng nguyệt hoài hương":
Nghi thị địa thượng sương
(Tĩnh Dạ Tứ)
Còn với Nguyễn Trãi, sương mờ ảo bất định với vẻ đẹp bí ẩn, " Cỏ xuân như khói”. Nhưng sương thu của Hữu Thỉnh thì thật giản dị, tiêu sơ nhưng lại gói gọn được cái bao điều thi vị.
Tất cả, tất cả mọi sự vật được gợi ra, bắt thi sĩ phải căng hết các giác quan và linh động tâm hồn nhạy cảm để phả vẻ đẹp đó vào vần thơ. Để rồi, chúng khiến cho ngay cả chúng ta có cái gì như ngạc nhiên lạ lẫm ngỡ ngàng từa tựa một điều phán đoán.
Hình như thu đã về
Thu đã về thật rồi sao, lại còn phải ngẩn ngơ? Phải chăng bấy lâu nay ta đã thờ ơ với nó để đến giờ ta cảm thấy lạc lõng khó có thể khẳng định được thu đã sang hay chưa. Mở đầu bằng một sự tình cờ “bỗng" và khép lại khổ thơ bằng cái "hình như”, Hữu Thỉnh gửi vào lòng người đọc sự thoáng chốc, bất giác về tiết lập thu cũng như cảm nhận, mơ hồ mong manh trong tâm thế về sự trở về của mùa thu.
Nếu như, thu trong khổ thơ đầu là không gian hẹp, thấp và gần cùng những cảm giác trong vô thức thì ở khổ thơ kế tiếp lại là một vẻ đẹp khác. Nó được mở rộng hơn, xa hơn và cao hơn. Có thể nói khổ thơ này mang tính logic, hợp với quy luật của dòng lâm trạng của Hữu Thỉnh trong bài thơ. Từ một phản xạ tự nhiên, nhà thơ đã định thần trở lại để ngắm nhìn thu sang:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Một sự cụ thể hóa đang diễn ra. Từ cái ngỡ ngàng, si mê, ngây ngất , tác giả dừng chân đứng lại, phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn một cách lặng lẽ phong cảnh.
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Từ những tín hiệu của thu về, tất cả bỗng biến chuyển thành đất trời mùa thu/ Cái " hình như " ở câu thơ kết khổ một đã đánh dấu cột mốc cho thu về bằng nhiều hình ảnh quen thuộc. Dòng sông trải dài mênh mang và uốn lượn trên mặt đất. Con nước trôi êm ả không chút băn khoăn. Điều này thật khác với sông trong mùa hạ. Nước lũ dâng cao như muốn dồn tất cả vào bể nước. Vậy mà giờ đãy, con sông trở nên thong thả, yên ả với trạng thái nghỉ ngơi. Nó thật giống với quy luật của cuộc sống, khi hạ - sự cống hiến, sôi nổi nhiệt tình đi qua thì thu - trạng thái nghỉ ngơi sẽ đến. Hai chữ "được lúc" đã khiến cho sông trở nên có hồn: bắt nhịp được với cái lạch nguồn chuyển tiếp của đất trời, lặng lẽ, dềnh dàng....tất cả mang đến cho ta cái yên bình trong sự sống.
Nhưng chính điều đó đã dẫn đến một hình ảnh khác :"chim bắt đầu vội vã". Gió heo may se sắt đã tràn về sông hồn nhiên hơn cũng là lúc mùa rét đã tới. Những đàn chim di cư sẽ phải bay về phương Nam ấm áp để tránh rét. Cả chiều thu đã sang tới bến sông, vậy thì còn đợi gì nữa mà đàn chim chẳng vội vã đi nơi khác. Với biện pháp tương phản đối lập, nhà thơ khắc họa thật đậm nét sự biến chuyển của thời tiết. Song ở đây, ta cũng có thể thấy được cảm nhận tinh thế của nhà thơ qua mấy vần thơ. Đàn chim mới chỉ là “bắt đầu” chứ không phải là đang."Đang" thì thường quá. Hữu Thỉnh thật tài tình khi tìm thấy sự bắt đầu hiếm hoi khó có thể gặp được ấy. Và cũng bởi tất cả mới chỉ ở khởi điểm nên nó chưa thấm mệt mà hãy còn duyên dáng, nhẹ nhàng.
Có đám mây mùa hạ
Mở rộng đến tuyệt đối, con mắt thì sĩ như ngước lên nhìn đám mây trời. Đám mây bảng lảng giữa từng không của mùa hạ. Hai câu thơ là một ẩn dụ đẹp, ẩn dụ nhân hoá. Trước hết, tác giả nhân hoá mây trời cũng giống như người chỉ qua nhột từ “vắt". Trong thơ ca, có rất nhiều nhà thơ chỉ bằng một động từ đã làm nên một phép ẩn dụ giàu tính ước lệ, tượng trưng. ở đây cũng vậy, có lẽ, sắc trắng của mây mùa hạ đã quyện với gam màu vàng dìu dịu của hương thu. Phải chăng, cái ranh giới giữa mùa hạ và mùa thu mong manh lắm chỉ trong gang tấc, cái trôi lững thững của mây hạ đã dạt nửa mình sang thu. Nhưng thực chất, điều này nhằm nói tới sự giao thoa giữa hai mùa cũng chỉ ngắn ngủi trong khoảnh khắc.
Từ những đam mê say sưa trước sự chuyển mình của đất trời sang thu, thi nhân khép lại lòng mình để ngắm nhìn những sự vật xung quanh với những đổi thay sâu kín.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Thật tài tình, từ những sắc mùa của vạn vật, Hữu Thỉnh đã thu mình lại và ru hồn trong những trầm ngâm, suy nghĩ.
Vẫn còn bao nhiêu nắng . .
Nắng vẫn còn chứ không phải hoàn toàn. Nó đã vơi đi chứ không quá gay gắt chói chang như nắng hạ. Có lẽ nắng thu đã gởi lại cho hạ cái oi nồng mà e ấp trong mình sự nên thơ, lãng mạn cùng ánh vàng ngọt ngào như rót mật vào lòng người. Đó không phải là thứ ánh sáng leo lắt của "Mỗi lần nắng mới hắt bên sông/xao xác gà trưa gáy não nùng" (Nắng mới – Lưu Trọng Lư) và đó cũng không phải là: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang" (Hàn Mặc Tử). Nắng ở đây là nắng thơ mang nét đẹp của tâm hồn làm cho thu thêm phần ý nhị.
Cùng với nắng là gió mưa, bão bùng. Mưa vơi cạn dần đi. Giọt mưa không quá nặng hạt để gieo mình xuống mặt đất gây lụt lội. Còn mư a trong thu ít hơn, hiếm thấy và chất chứa trong ta bao bâng khuâng, xao xuyến của một mùa lá rụng. Sấm cũng không thét gào dữ dội trên bầu trời, ánh chớp cơn mưa rạch ngang nền trời trong hạ luôn là một điều đáng sợ. Tưởng rằng, nó sẽ kéo dài dai dẳng nhưng không ngờ khi bước vào thu, tất cả như tắt lịm đi lúc nào không hay. Và ta khó có thể gặp được những:
Tháng bảy mưa gãy cành chám
Tháng tám nắng rám trái bưởi.
Một điều đặc biệt mà ta có thể nhận ra ở đâu đó là tác giả bài thơ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật liệt kê tăng tiến. Trước hết, mọi vật này được liệt kê một cách đầy đủ: nắng, mưa, sấm, chớp. Cùng với việc đó, nhà thơ đã sử dụng biện pháp nói tránh kín đáo vẫn còn" rồi lộ dần ra "vơi dần" để kế đến là cung bậc cao nhất của sự thiếu hụt "bớt bất ngờ".
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ.
Nhịp thơ nhịp nhàng khiến cho ta tưởng các câu mang ý nghĩa tương đương nhau nhưng không phải. Rõ ràng sự tăng cấp được sử dụng thật khéo léo trong cả ba câu thơ. Cuối cùng, chúng trở thành đòn bẩy để tôn lên vẻ trầm mặc im lìm trên những hàng cây đứng tuổi.
Trên hàng cây đứng tuổi
Lấy động tả tĩnh chính là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công trong bài thơ. Việc này khiến cho người đọc hình dung được rằng sự thét gào dữ dội hay chính mùa hạ đang mát dần và thu đậm nét hơn trước mắt bao người.
Thơ là gợi là nhân một vẻ đẹp mà gợi nên bao mối tơ vương trong lòng người. Từ Thu của thiên nhiên, thu của đất trời mà ở đây ta cũng có thể hiểu là thu của đất nước Việt Nam. Có nơi nào mang sắc thu vàng mộng mơ, lãng mạn như Việt Nam. Hữu Thỉnh không nói thu cụ thể ở nơi nào nhưng ông đã ngầm đem đến cho ta cái ngọt ngào của thu Việt Nam, thu Bắc Hà, thu Hà Nội. Có thể nói, toàn bài thơ nhìn tổng thể là một bức tranh giao mùa tuyệt tác, quyến rũ hồn người...Song, "sang thu ' còn được gợi vào tình yêu mùa thu, yêu cảnh vật, quê hương đất nước.
Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến chút tột cùng là dòng máu chảy.
Đất nước đã hòa bình vậy thì không cần phải hy sinh chiến đấu. Mà tình yêu Tổ quốc chính là lòng yêu những bình dị, thân thương nhất: Một hương ổi, một làn sương, một dòng sông...Tất cả, tất cả làm nên một mùa thu ngọt dịu, đậm đà tình đất nước. Dường như, vần thơ đều thấm đẹp vẻ đẹp hiền hoà, hồn hậu của thu đất nước. Đôi vần thơ thu như luyến giao với lòng người một cách tế nhị, tinh vi mà sâu kín lúc nào không hay. Đó không phải là mùa thu Bắc Việt đẹp quá, lòng người yêu quê hương lắm hay sao? Sự trùng phùng bất giác làm ta ngẩn ngơ pha một chút mừng rỡ vì được hưởng thụ khoảng khắc sang thu tuyệt diệu.
Ngẫm lại cho kỹ, hình như bài thơ còn có một ẩn ý khác. Thu thiên nhiên, thu đất nước và cũng là thu của lòng người. Đơn cử hai câu kết bài thơ :
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Không đơn thuần tả cảnh, đôi câu thơ kết lại bao suy ngẫm sâu sắc. Sấm chớp hay chính là tác động của ngoại cảnh, những vạng động, biến cố bất thường trong cuộc đời. Hình ảnh ẩn dụ độc đáo làm cho ta cũng khó hiểu. Nhưng có lời thơ của câu thơ sau nên người đọc mới rút ra được nhiều điều thú vị. Hàng cây đứng tuổi giúp người đọc liên tưởng đến một con người. Hàng cây ấy đã được nhân cách hoá để mang dáng dấp một con người thực thụ. khi đã đi gần hết cuộc đời, ta sẽ lui vào một góc khuất của cuộc sống để suy nghĩ về những trải nghiệm đã qua. Đồng thời, người cũng trở nên điềm tĩnh trước những biến cố lớn lao ấy. Suy rộng ra, dáng vẻ những trải nghiệm đã qua không hề nao núng, sâu sắc hơn cùng t ư thế ung dung, điềm nhiên chỉ có ở những ngư ời đã từng đi khắp nẻo đường đời. Còn hàng cây đứng tuổi đang lặng người, "Chết đứng" trong suy nghĩ về tình người, tình đời cùng tư thế lịch lãm.
Có người nói, suy nghĩ của nhà thơ chỉ dừng lại ở hai câu thơ cuối. Vậy thì, Hữu Thỉnh cũng chỉ là con người tầm thường hời hợt với cuộc sống. Cái mà ta đánh giá cao chính là nội dung toàn bài thơ "Sang thu” - Sự chuyển giao của đất trời hay là sang thu của lòng người. Một khoảnh khắc sang ngắn ngủi ấy khiến cho bao người những khách thể trở nên chín chắn già dặn hơn.
Thu là thơ của đất trời
Thơ là thu của lòng người.
Xin hãy chú ý vào cách mở bài thơ - "Bỗng". Đó là một từ chỉ sự ngạc nhiên cao độ. Nó muốn nói tới sự hiếm hoi của hương thu nơi đô thị. Đã lâu lắm rồi trong Hà Nội không thấy hương cốm sữa, hương ổi Quảng Bá cũng sắc đỏ cây gạo nơi góc phố thân quen. Bởi cuộc sống tất bật, nhộn nhịp của con người Hà Thành đã hoà loãng, phai nhạt đi những vẻ đẹp đích thực của thiên nhiên. Điều cuối cùng muốn nói, chúng ta hãy để tâm đến những vẻ thánh thiện trong cuộc sống và đừng bao giờ để nó phải mất đi. Xin cảm ơn, Hữu Thỉnh đã phát hiện ra khoảng khắc sang thu kỳ diệu đó và phả vào thơ. Và người đọc chúng ta cũng phải cảm phục Hữu Thỉnh đã đưa đến cho ta những nét chấm phá tinh tế về cuộc sống. Chắc thi nhân cũng phải có bản lĩnh kiên cường lắm mới khơi dậy được trong lòng bao con người một mùa thu đẹp, mộng mơ mà ta đã quên.
Gấp lại những vần thơ thu của Hữu Thỉnh, người đọc như thấy vương vấn đâu đây trong tâm hồn, từa tựa một sự lắng đọng cùng chút vảng vất, giao hoà vào đôi câu thơ trác tuyệt của Xuân Diệu.
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
(Đây mùa thu tới)
Nguyễn Lê Minh Anh