Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào ?

Tranh luận về sự bình đẳng của các tiểu bang tại Quốc hội (tiếp theo)​


Để tránh mọi sự nguy hiểm, không gì tốt đẹp bằng việc hình thành một quốc gia chung. Ban đầu, tiểu bang Massachusetts là sự kết hợp của ba thuộc địa: vùng đất Massachutsetts cổ ngày xưa, tỉnh Plymouth và tỉnh Mayne.

Vì nhận thức được những mối nguy hiểm đó, nên sự hợp tác tất yếu sẽ xảy ra. Mọi vùng đất đều an toàn và hài lòng và đến nay, mọi sự khác biệt đều bị quên lãng. Điều này cũng giống như Connecticut và New Haven. Sự kết hợp trong một quốc gia sẽ mang lại nhiều điều tốt lành và làm mọi bên tham gia hài lòng.

Cũng như vậy, tiểu bang New Jersey được thành lập từ hai xã hội khác biệt. Nếu liên minh các tiểu bang tan rã, số phận của New Jersey sẽ tồi tệ nhất vì bang này không hề có nền thương mại với nước ngoài. Pennsylvania và New York sẽ tiếp tục áp đặt mức thuế lên các hàng hóa nhập vào lãnh thổ của mình. Về tổng thể, ông tin rằng liên minh các tiểu bang là cần thiết để đảm bảo hạnh phúc của dân chúng và một chính quyền liên bang mạnh là cần thiết cho liên minh này.

Ngài ELSWORTH: Không thất vọng về sự bế tắc đang diễn ra. Ông vẫn tin rằng Hội nghị sẽ tìm được một mô hình chính quyền tốt đẹp và mô hình này sẽ được chấp thuận.

Ngài READ: Không phản đối nếu đó là một chính quyền quốc gia, nhưng mô hình này pha trộn quá nhiều đặc điểm liên bang. Các bang nhỏ không có gì phải lo sợ cả. Chính các bang lớn nhận thức được sự cần thiết của sức mạnh nên mới mong ước có một chính quyền trung ương, đáp ứng được những điều họ cần. Massachusetts đang thể hiện những điểm yếu của mình và ông tin rằng Delaware không gì đáng phải lo sợ cả. Delaware đang được hưởng sự thanh bình và điều này vẫn được tiếp tục bảo đảm.

Ông không ích kỷ đến mức không muốn một chính quyền chung, nhưng để đạt được chính quyền chung ấy, các tiểu bang cần phải hợp tác. Nếu họ không làm như vậy, đại diện các bang lớn sẽ hợp sức với nhau trong tất cả mọi việc để chọn ra nhánh hành pháp và sẽ phản bội lại mọi điều đã cam kết. Sự ghen tị và hiềm khích là không tránh khỏi nếu các tiểu bang vẫn tiếp tục tồn tại riêng rẽ. Chúng cần phải được dẹp bỏ. Các vùng đất chưa được ban cấp đang bị một số tiểu bang chiếm đoạt cần phải được trao nộp cho chính quyền trung ương. Ông tán thành kế hoạch của Ngài Hamilton và muốn mô hình đó sẽ được thảo luận thay thế mô hình hiện nay.

Ngài MADISON: Đồng ý với Bác sĩ Johnson rằng cần phải lưu ý đến bản chất pha trộn của chính quyền, nhưng có quá nhiều phản đối nếu coi tiểu bang như là những xã hội chính trị. Những hợp tác nhỏ nhất, với phạm vi hạn chế nhất, dần dần sẽ trở thành sự hợp tác của toàn thể đế chế với đầy đủ các quyền hạn. Ông chỉ ra những giới hạn về chủ quyền của các tiểu bang, như việc các đạo luật của họ hiện nay chỉ là phụ trợ cho những bộ luật tối thượng của quốc gia, tương tự như các luật thứ yếu của địa phương với Hiến pháp tiểu bang họ.

Theo mô hình chính quyền đề xuất, quyền lực của các tiểu bang sẽ phải bớt giảm nhiều. Theo quan điểm của các đại biểu, chính quyền trung ương cần có thẩm quyền lớn hơn cả quyền hạn của Nghị viện Anh, trong khi các tiểu bang vẫn chỉ là các thuộc địa của Đế chế Anh. Đặc biệt là không cần sự chấp thuận của các chính quyền tiểu bang nhưng chính quyền trung ương vẫn có thẩm quyền áp đặt thuế khóa trực tiếp lên dân chúng các tiểu bang.

Do vậy, mọi bất bình đẳng từng gây ra mọi sai trái và tội lỗi dưới chính thể đại diện bất công của nước Anh sẽ bị xóa bỏ và một xã hội bình đẳng sẽ được thiết lập.

Ông khẩn khoản nài xin đại biểu các bang nhỏ từ bỏ nguyên tắc rõ ràng là bất công này, vì mô hình chính quyền đó sẽ không bao giờ được chấp nhận. Thậm chí, dù được chấp nhận, cũng chắc chắn sẽ phá hỏng liên minh mà chúng ta đang mong ước là sẽ tồn tại mãi mãi. Ông cầu xin họ hãy cân nhắc kỹ lưỡng về hậu quả sẽ xảy ra nếu Hợp bang sẽ tan rã.

Hãy để mỗi tiểu bang bảo vệ bản thân bằng năng lực của mình. Khi đó, các bang nhỏ sẽ phải lo sợ ngoại bang ở châu Âu và các tiểu bang láng giềng. Tình cảnh suy tàn đó của mọi tiểu bang lớn cũng như bé đó sẽ nhanh chóng trở thành lời kêu gọi mạnh mẽ đòi thiết lập một chính quyền chung. Nỗi sợ hãi lớn nhất của ông là chính quyền, khi đó, với quá nhiều quyền lực, sẽ không chỉ gây nguy hiểm cho các bang nhỏ mà còn thực sự đe dọa tự do của mọi người dân.

Chính những nguyên nhân đó đã làm cho Cựu lục địa [châu Âu] trở thành bãi chiến trường của những cuộc chiến tranh liên miên, và cướp đi tự do trên mảnh đất này. Những hậu quả tương tự sẽ nhanh chóng xuất hiện ngay trên mảnh đất này. Sự yếu kém, nhu nhược và ghen tị của các bang nhỏ sẽ nhanh chóng buộc họ phải lập ra những đội quân thường trực để chống lại những mối nguy hiểm từ các tiểu bang láng giềng hùng mạnh. Các tiểu bang lân cận cũng buộc phải làm theo và rồi tất cả các bang đều như vậy.

Trong thời chiến, nhánh hành pháp tối cao thường được trao toàn quyền quyết định. Nỗi ám ảnh và lo sợ chiến tranh buộc cơ quan này phải mở rộng và trở nên rất đông đảo. Đội quân thường trực và nhánh hành pháp ngày càng nhiều quyền lực sẽ không còn là người bảo trợ cho tự do nữa.

Những phương tiện được sử dụng để chống lại các thế lực ngoại bang cũng là những công cụ cho những kẻ độc tài trong nước chèn ép dân chúng. Ở La Mã, đội quân thường trực để ngăn chặn những bạo động lại thường là nguyên nhân gây ra chiến tranh. Trên khắp châu Âu, các đội quân núp dưới danh nghĩa phòng vệ đã biến dân chúng thành nô lệ. Có thể nghi ngờ rằng liệu một chính quyền tốt nhất của một cường quốc ở châu Âu, trong hoàn cảnh không có mối nguy cơ nào từ ngoại bang buộc dân chúng phải qui thuận, có thể tự bảo vệ được mình không?

Sự biệt lập của hòn đảo Anh quốc là nguyên nhân chủ yếu làm cho quốc gia này tránh khỏi được số phận chung của cả châu Âu. Vì nhu cầu phòng thủ của nước Anh không lớn, nên dân chúng chỉ chấp nhận một đội quân có qui mô nào đó cho mục đích phòng vệ, nhưng không thể đủ sức mạnh để đàn áp dân chúng trong nước. Cần hiểu rõ hậu quả nếu các tiểu bang trở nên độc lập hay gia nhập vào các liên minh nhỏ lẻ nào đó. Cả hai con đường này đều đáng bị lên án. Những ai dù tán thành bất cứ cách nào cũng sẽ không được tổ quốc tha thứ và cũng không thể tự tha thứ cho chính bản thân mình.

Ngài HAMILTON: Các cá nhân cấu thành nên những xã hội chính trị sẽ thay đổi quyền của họ theo các cách khác nhau, tùy thuộc vào quyền bỏ phiếu. Những ví dụ như vậy có thể tìm thấy ở tất cả các tiểu bang. Trong mọi tiểu bang, một số cá nhân bị cướp đoạt các quyền này vì không đáp ứng đủ những đòi hỏi cần thiết về tài sản.

Tại một số tiểu bang, quyền bỏ phiếu chỉ áp dụng hạn chế đối với một số người, còn những người khác không có quyền này. Cần phải có một số tài sản nào đó mới được quyền bầu chọn thành viên của một Viện và để bầu chọn thành viên của Viện kia, thì cần mức độ tài sản lớn hơn. Nhưng các tiểu bang là tập hợp của các cá nhân. Vì thế, điều chúng ta cần tôn trọng nhất là quyền của các cá nhân. Thật là phi lý và ngớ ngẩn nếu hy sinh quyền của cá nhân vì quyền của tiểu bang.
 
Tranh luận về sự bình đẳng của các tiểu bang tại Quốc hội (tiếp theo)​


Người ta nói rằng nếu các bang nhỏ từ bỏ quyền bình đẳng của mình, thì cũng sẽ từ bỏ luôn sự tự do của chính họ. Nhưng đây là cuộc tranh luận về quyền lực chứ không phải tranh luận về tự do. Liệu dân chúng của các bang nhỏ ít tự do hơn dân chúng ở các bang lớn chăng?

Tiểu bang Delaware có 40,000 người sẽ mất quyền lực nếu tiểu bang này chỉ có số đại biểu bằng 1/10 của tiểu bang Pennsylvania có 400.000 dân. Nhưng như vậy, dân chúng của Delaware sẽ bớt tự do hơn nếu mỗi công dân ở đây có quyền bỏ phiếu bình đẳng với một công dân của Pennsylvania chăng?

Dân chúng trong cùng một tiểu bang thường có chung quan điểm và những gắn bó. Những nguyên tắc này đều ảnh hưởng đến hoạt động chung của xã hội. Tuy nhiên, việc qui định thêm một số biện pháp cẩn trọng có thể sẽ loại trừ khó khăn này và sẽ không gây ra sự bất lợi đáng kể nào, vì nỗi lo sợ việc các tiểu bang có ảnh hưởng nhất kết hợp với nhau là không có cơ sở.

Sự khác biệt đáng kể về lợi ích giữa các tiểu bang thương mại và phi thương mại sẽ làm các bang lớn chia rẽ chứ không làm họ thống nhất. Không có sự bất lợi nào đáng kể do việc phân chia tiểu bang New York thành những quận khác nhau với những lợi ích khác nhau. Mối nguy cơ nghiêm trọng nhất nếu liên minh tan rã là ngay lập tức, các liên minh với những quốc gia thù địch ở châu Âu sẽ được thành lập tại đây. Bản thân những liên minh này sẽ gây rối loạn trên vùng đất này và làm chúng ta chia rẽ thành các phe phái luôn luôn xung đột nhau. Sẽ có những vùng đất chịu ảnh hưởng của ngoại bang và chắc chắn sẽ xung đột với chúng ta.

Mối lo âu lớn nhất đối với số phận của chúng ta là sự phản bội của những người đại diện. Sự kính trọng trong con mắt của ngoại quốc không phải là mục đích chúng ta cần đạt đến mà mục đích của chính quyền cộng hòa là sự bình yên và thịnh vượng trong nước. Nhưng không một chính quyền nào có thể mang lại sự bình yên và thịnh vượng trong nước mà lại không đạt được sự ổn định và sức mạnh trong nước. Đó là những điều khiến các quốc gia khác phải kính trọng chúng ta.

Lúc này là một thời điểm quyết định cho việc hình thành một chính quyền như vậy. Sẽ rất mạo hiểm nếu chúng ta tin vào những sửa đổi sau này. Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn duy trì được mô hình liên minh nhưng rất yếu ớt. Từ nay về sau, những động cơ duy trì liên minh sẽ trở nên mỏng manh hơn và gặp nhiều khó khăn hơn.

Việc chúng ta đang có mặt ở đây, tự do phân tích và thảo luận kỹ càng về tương lai của liên minh, đã là một việc kỳ diệu. Nhưng thật điên rồ, nếu tin vào những điều kỳ diệu sẽ xảy ra trong tương lai, vì hàng ngàn chuyện có thể xảy ra và cản trở mục tiêu này.



Cuộc bỏ phiếu về điều khoản qui định "quyền bỏ phiếu của Hạ viện sẽ không căn cứ vào qui định của Các điều khoản Hợp bang":

MA: tán thành; CT: phản đối; NY: phản đối; NJ: phản đối; PA: tán thành; DE: phản đối; MD: không quyết định; VA: tán thành; NC: tán thành; SC: tán thành; GA: tán thành. (6 tiểu bang tán thành, 4 tiểu bang phản đối, và một tiểu bang không quyết định).

Ngài ELLSWORTH: Đề xuất quyền bỏ phiếu tại Thượng viện cũng được qui định giống như Các điều khoản Hợp bang [quyền bỏ phiếu bình đẳng] và hy vọng sẽ đạt được thỏa hiệp cho Thượng viện.

Chúng ta vừa mang tính quốc gia, vừa mang tính liên bang. Quyền đại diện tỷ lệ tại Hạ viện là phù hợp với nguyên tắc quốc gia sẽ đảm bảo các bang lớn chiếm ưu thế so với các bang nhỏ. Vì thế, quyền bình đẳng theo hướng liên bang là cần thiết để đảm bảo cho các bang nhỏ chống lại sự cai trị và chèn ép của các bang lớn. Ông tin rằng đây sẽ là nền tảng chung cho sự thỏa hiệp vì không thấy giải pháp nào khác ngoài hướng này.

Nếu không đạt được thỏa hiệp, Hội nghị này không chỉ vô ích mà còn tồi tệ hơn thế. Đối với các bang miền Đông, ông tin rằng Massachusetts là tiểu bang duy nhất chấp nhận việc coi các tiểu bang như những xã hội chính trị bình đẳng, chấp nhận sự bình đẳng tại cả hai Viện. Nhưng nhiều bang khác sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro hơn là từ bỏ quyền lực đó.

Nỗ lực xóa sự bình đẳng ngay lập tức sẽ chia lãnh thổ nước Mỹ chúng ta thành hai miền. Các bang lớn sẽ không chấp nhận sự bình đẳng về quyền bỏ phiếu, nên sẽ tìm cách duy trì ưu thế của mình. Nhận xét của Ngài Madison rằng Vương quốc Hà Lan không thể chấp nhận sự bình đẳng trong Liên minh Hà Lan, và vì tầm vóc của mình, nên vương quốc này thống trị tuyệt đối mọi hoạt động của liên minh.
 
Tranh luận về sự bình đẳng của các tiểu bang tại Quốc hội (tiếp theo)​


Quyền tự vệ là thiết yếu đối với các quốc gia nhỏ. Tạo hóa đã cho những loài nhỏ bé đặc tính này và ông không bao giờ chấp nhận rằng không có mối nguy hiểm nào từ sự kết hợp của các bang lớn.

Họ cũng giống như con người tìm cách phát huy mặt mạnh của mình để chiếm ưu thế. Mối nguy hiểm này sẽ lớn hơn, nếu các bang lớn tiếp giáp nhau và có chung một lợi ích nào đó. Sự tự vệ của càng nhiều bang nhỏ kết hợp lại thì càng gây nhiều khó khăn hơn.

Một xem xét quan trọng khác. Liên minh tồn tại hiện nay dựa trên nền tảng bình đẳng về quyền bỏ phiếu của các tiểu bang, nhưng không cần thiết phải tôn trọng qui định đó. Cần phải thiết lập nhánh hành pháp, tòa án và cơ quan lập pháp mạnh, nhưng đừng để những cơ quan này có thẩm quyền quá mức bởi mọi điều khác có thể sẽ mất đi. Ông tự nhận mình không phải là người nửa vời, nhưng ông muốn làm một nửa điều tốt, còn hơn là chẳng làm gì cả. Nửa kia có thể bổ sung khi cần thiết, hoặc khi được thực tiễn kiểm chứng.

Ngày 30 tháng Sáu​


Đề xuất của Ngài ELLSWORTH, cho phép mỗi tiểu bang có một phiếu bầu tại Thượng viện được đưa ra thảo luận.

Ngài BALDWIN: Phản đối quan điểm của Ngài Ellsworth và cho rằng Thượng viện phải đại diện theo tài sản. Đó là nguyên tắc thiết lập nên Thượng viện Massachusetts.

Ngài WILSON: Không tán thành đề xuất đó, sau khi chúng ta đã thiết lập được nguyên tắc đại diện theo tỷ lệ dân số tại Hạ viện. quý Ngài từ Connecticut (Ngài Ellsworth) tuyên bố rằng việc đại diện theo tỷ lệ sẽ không được chấp thuận, vì trong số các tiểu bang miền Bắc, chỉ có duy nhất tiểu bang Massachusetts có thể đồng ý với bất kỳ mô hình chính quyền trung ương nào. Ông tán thành quan điểm của Connecticut và của các bang miền Bắc khác.

Ông tin rằng dân chúng sẽ không chấp nhận một Thượng viện đại diện theo qui mô dân số, vì họ khó lòng từ bỏ một quốc gia, nơi có quá nhiều gắn bó và ràng buộc chặt chẽ. Nhưng dù điều đó xảy ra thì cũng không ngăn cản được tình cảm và bổn phận của ông. Nếu số ít dân chúng Mỹ từ chối liên kết với đa số trên những nguyên tắc đúng đắn đó và nếu sự chia rẽ xuất hiện, thì không thể có một chính quyền nào khác tốt đẹp hơn. Cuộc bỏ phiếu ngày hôm qua đã chống lại nguyên tắc đại diện bình đẳng, tức là 24 người chống lại 90 người của nước Mỹ .

Về vấn đề này, ông chắc chắn rằng nếu phải thay đổi, thì đó không phải là sự thay đổi của đa số. Vấn đề là chưa đầy 1/4 dân chúng sẽ rút khỏi liên minh, hay hơn 3/4 dân chúng phải từ bỏ những quyền vốn có, không thể nhân nhượng, không thể tranh cãi của con người, để ủng hộ một chính quyền giả tạo.

Nếu điều đó xảy ra và phải lựa chọn, ông sẽ chọn cách tham gia liên minh. Ngài Ellsworth nghĩ rằng Hạ viện do đa số kiểm soát sẽ loại bỏ mọi cản trở của Thượng viện, nơi có quyền bỏ phiếu bình đẳng, chỉ để đảm bảo quyền của thiểu số. Nhưng sự bình đẳng tại Thượng viện sẽ cho phép thiểu số kiểm soát được mọi tâm trạng và lợi ích của đa số.

7 tiểu bang sẽ kiểm soát 6 tiểu bang. 7 tiểu bang nhỏ theo ước tính bao gồm 24/90 tổng số dân chúng. Đó sẽ là việc chưa đầy 1/3 dân chúng sẽ kiểm soát và chế áp 2/3 còn lại, bất kể là vấn đề gì. Chúng ta đang xây dựng chính quyền là vì ai? Vì con người hay vì một thứ không có thực được gọi là các tiểu bang? Liệu những cử tri có hài lòng với những lợi thế chỉ trên lý thuyết suông đó không? Liệu họ sẽ hài lòng không khi được lời giải thích là vì 1/3 dân chúng đó cấu thành nên số tiểu bang nhiều hơn?

Vì thế, trên mọi nguyên tắc, quyền bỏ phiếu tại Thượng viện cũng phải giống như Hạ viện. Nếu chính quyền không xây dựng trên nền tảng này thì chẳng có gì vững chắc và tồn tại lâu dài. Bất kỳ một nguyên tắc nào khác đều chỉ là mang tính cục bộ, tạm thời và đầy nhược điểm. Sai trái này sẽ mở rộng cùng với sự mở rộng và phát triển cùng với sự phát triển của nước Mỹ.

Rất nhiều điều đã được nói về sự kết hợp "tưởng tượng" của ba tiểu bang lớn nhất. Nào là nguy cơ của một nền quân chủ, nào là sự cai trị của một nhóm quý tộc đầu sỏ từng là lời buộc tội cho sự kết hợp này, nhưng chẳng có lời giải thích nào cho những nguy cơ đó.

Thật dễ dàng để chứng minh bằng cả lý luận và thực tiễn lịch sử rằng sự thù địch chứ không phải liên minh sẽ xuất hiện và không thể có một lợi ích chung nào cho riêng ba tiểu bang lớn nhất này. Không một câu trả lời nào đưa ra cho những câu hỏi của Ngài Madison về vấn đề này.

Liệu một người điều hành tối cao được bầu từ một trong ba tiểu bang lớn sẽ yêu quý hai bang lớn kia hơn các bang nhỏ chăng? Vậy đâu là mối nguy cơ của nền quân chủ? Hay dân chúng của ba bang lớn quý phái hơn dân chúng các bang nhỏ chăng? Vậy đâu là nguy cơ của nền cai trị của giới quý tộc đầu sỏ nhờ ảnh hưởng của họ?
 
Tranh luận về sự bình đẳng của các tiểu bang tại Quốc hội (tiếp theo)​


Quyền tự vệ là thiết yếu đối với các quốc gia nhỏ. Tạo hóa đã cho những loài nhỏ bé đặc tính này và ông không bao giờ chấp nhận rằng không có mối nguy hiểm nào từ sự kết hợp của các bang lớn.

Họ cũng giống như con người tìm cách phát huy mặt mạnh của mình để chiếm ưu thế. Mối nguy hiểm này sẽ lớn hơn, nếu các bang lớn tiếp giáp nhau và có chung một lợi ích nào đó. Sự tự vệ của càng nhiều bang nhỏ kết hợp lại thì càng gây nhiều khó khăn hơn.

Mọi câu chuyện đó chỉ là những lời thêu dệt hoang đường. Chúng ta đề cập đến các tiểu bang, nhưng lại quên mất rằng các tiểu bang đó cấu thành bởi cái gì. Liệu một đa số thực sự và công bằng lại là hang ổ và là mầm mống cho chế độ cai trị của nhóm quý tộc đầu sỏ chăng? Đó là chính quyền nào vậy, khi thiểu số lại cai trị đa số? Đúng là đa số các tiểu bang tại Thượng viện không thể phê chuẩn một dự luật chống lại đa số dân chúng, nếu Hạ viện đã phê chuẩn. Nhưng điều này mới chỉ giảm bớt được một nửa những lời phản đối.

Những tội lỗi và sự xấu xa mà dân chúng khắp nơi hiện nay đang kêu la là vì sao? Vì sự thiếu hiệu quả và yếu kém của chính quyền. Chúng ta được cử tới Hội nghị này là để giải quyết những yếu kém đó. Nếu đề xuất này được mọi người đồng ý, chúng chẳng khác gì mô hình của Hợp chúng quốc trước đây với mọi sai trái. Mọi đề xuất đúng đắn của dân chúng, giống như của Hạ viện, đều bị Quốc hội Hợp bang [tức là Thượng viện] bác bỏ. 24 người vẫn sẽ kiểm soát 66 người…

Ngài ELLSWORTH: Lý lẽ phản đối chủ yếu của Ngài Wilson rằng thiểu số sẽ thống trị đa số là không đúng. Quyền lực được trao cho thiểu số là để họ không bị đa số đàn áp. Nếu các tiểu bang nhỏ được quyền bình đẳng trong cả hai Viện thì mới đáng bị lên án. Việc sử dụng thiểu số làm biện pháp kiểm soát đa số không phải là điều mới mẻ.

Bản Hiến pháp nước Anh không khôn ngoan và uyên thâm như nhiều quý ngài ca ngợi. Viện quý tộc Anh, đại diện cho thiểu số, có quyền phủ quyết mọi đạo luật. Đó là công cụ bảo vệ cần thiết của giới quý tộc thiểu số để chống lại sự lạm quyền và xâm phạm của Viện Bình dân, đại diện cho phe đa số. Không một hình mẫu Hợp bang nào tồn tại nếu quyền bình đẳng không được các thành viên thực thi. Chúng ta đang đi từ thái cực này sang thái cực kia.

Chúng ta đang phá hỏng nền tảng của toàn bộ tòa nhà trong khi chỉ cần sửa mỗi cái mái nhà. Không một đạo luật tốt đẹp nào bị ý muốn của đa số các tiểu bang bác bỏ bởi sự đại diện theo qui mô dân số ở Hạ viện sẽ đảm bảo an toàn cho các bang lớn. Nhưng không thể hình dung được hết các mối nguy hiểm từ sự kết hợp các bang lớn. Mặc dù ông không thấy sự lạm dụng quá mức nào của sự kết hợp các bang lớn, nhưng chỉ riêng khả năng kết hợp đó cũng đủ để cảnh báo ông và ông dễ dàng hiểu được bối cảnh và những hậu quả sẽ xảy ra từ sự kết hợp này.

Giả sử để theo đuổi một Hiệp ước thương mại, hay một thỏa thuận nào đó, cần phải thiết lập không quá ba, hay bốn cảng biển, thì chắc hẳn các bang lớn sẽ hợp tác để ưu tiên lựa chọn Boston, Philadelphia và một số cảng ở Chesapeak . Sự hợp tác tương tự có thể hình thành trong việc bổ nhiệm những quan chức cao cấp.

Nghĩa vụ và qui định của Các điều khoản Hợp bang vẫn còn hiệu lực và bản Hiến pháp đó được làm ra rất trang nghiêm. Khi đó, hoàn cảnh khó khăn buộc các bang, dù lớn hay nhỏ, cũng có quyền bỏ phiếu bình đẳng tại Quốc hội. Nhận xét của ông không phải xuất phát từ quan điểm ích kỷ địa phương. Tiểu bang Connecticut, nơi ông đại diện, là một tiểu bang trung bình.

Ngài MADISON: Những lý giải rất minh bạch và chặt chẽ của Ngài Ellsworth là rất công bằng, nhưng phải thấy rằng những điều này không phải bao giờ cũng thống nhất. Có lúc, ông mô tả các bang lớn như những tiểu bang "quí tộc" sẵn sàng chèn ép các bang nhỏ "bình dân". Hiện nay, các bang nhỏ chính là Viện quý tộc, đòi có quyền phủ quyết để tự vệ và chống lại những người bình dân đông đảo hơn nhiều.

Ngài Ellsworth cũng sai lầm khi nói rằng không có liên bang nào từng tồn tại mà không đảm bảo quyền bỏ phiếu bình đẳng cho các quốc gia thành viên. Ngoài hệ thống Đức, trong đó Hoàng đế nước Phổ có 9 phiếu bầu, ông nhắc Ngài Ellsworth về liên minh Lycia của Hy Lạp cổ đại. Trong đó, thành viên có số phiếu bầu căn cứ vào tầm quan trọng của họ.

Montesquieu đã khuyến cáo đó là mô hình phù hợp nhất cho những thể chế chính quyền như vậy. Những tuyên bố của Ngài Ellsworth chẳng mấy tác dụng đối với ông mà chỉ củng cố thêm những lập luận chống lại ông ta. Lịch sử và số phận nhiều Hợp bang cổ xưa cũng như hiện đại đã thể hiện nhiều sai trái quá mức trong các mô hình này.

Nhiều quý ngài khăng khăng đòi quyền bỏ phiếu bình đẳng tại Thượng viện với lý do điều này không chỉ là cần thiết để đảm bảo an toàn cho các bang nhỏ mà còn an toàn cho cả các bang lớn, dù đa số của họ tại Hạ viện đã là một bức tường thành ngăn chặn có hiệu quả. Song bất chấp sự bảo vệ này, đa số các tiểu bang có thể sẽ gây tổn hại cho đa số dân chúng.

1. Họ có thể cản trở mong ước và lợi ích của đa số dân chúng.

2. Họ có thể thi hành các biện pháp đáng ghê tởm chống lại mong muốn và lợi ích của đa số.

3. Họ có thể áp đặt các biện pháp thù nghịch, nếu Thượng viện được trao những quyền lực mạnh nhất, còn Hạ viện không được tham gia những quyền này.

Ông chấp nhận rằng mọi lợi ích riêng rẽ, dù của tầng lớp dân chúng nào hay của bất kỳ tiểu bang nào, cũng cần được đảm bảo tới mức có thể. Nếu có nguy cơ bị tấn công thì cần phải trao quyền phòng vệ hợp hiến. Nhưng các tiểu bang sẽ hình thành các lợi ích khác nhau, không phải theo qui mô lãnh thổ mà bởi các yếu tố khác như: sự khác biệt về khí hậu và thời tiết và chủ yếu là việc có nô lệ, hay không có nô lệ.
 
Tranh luận về Tranh luận về sự bình đẳng của các tiểu bang tại Quốc hội (tiếp theo)​


Những yếu tố làm cho Hợp chúng quốc phân chia thành những lợi ích khác nhau, không phải là giữa các bang lớn hay nhỏ mà là giữa miền Bắc và miền Nam. Nếu quyền phòng vệ là cần thiết, thì quyền này phải có lợi cho cả hai phe.

Vì điều này rất quan trọng, nên ông đã cố gắng tìm ra được những giải pháp. Thứ nhất là thay cho việc bỏ phiếu theo tỷ lệ ở cả hai Viện, thì tại một Viện sẽ theo tỷ lệ dân số da trắng, cộng với 3/5 dân nô lệ. Còn Viện kia căn cứ vào toàn bộ số dân, gồm cả người da trắng và các nô lệ. Bằng giải pháp này, các bang miền Nam sẽ có lợi thế tại một Viện, còn các bang miền Bắc sẽ có lợi thế tại Viện kia...

Ngài DAVY: Bản báo cáo của Ủy ban cho phép các cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn Thượng viện theo qui mô dân số là không thực tế. Căn cứ vào qui định này, ban đầu Viện này sẽ có tới 90 đại biểu và con số này sẽ tăng lên khi có các tiểu bang mới gia nhập liên minh. Một cơ quan quá đông như vậy sẽ không thể đảm bảo thi hành các quyền trao cho cơ quan này. Sự bổ nhiệm của Thượng viện bởi những đại cử tri, do dân chúng bầu chọn, sẽ gặp nhiều chống đối.

Các quận lớn, hay các huyện lớn, được ném vào một quận bầu cử chung, chắc chắn sẽ lấn át và vượt trội so với các quận, huyện nhỏ và các quận, huyện nhỏ này sẽ chẳng còn vai trò gì. Do đó, chỉ có qui định trao quyền bầu chọn cho các cơ quan lập pháp tiểu bang là đúng đắn. Với ông, các cơ quan lập pháp tiểu bang có người đại diện tại chính quyền liên bang là điều chẳng có gì cần bàn cãi. Các thiên kiến và lợi ích địa phương chắc chắc sẽ tồn tại và chắc chắn sẽ hình thành trong các hội đồng quốc gia, dù những người đại diện này được các cơ quan lập pháp tiểu bang hay dân chúng chọn lựa.

Một mặt, nếu quyền đại diện theo tỷ lệ vấp phải những trở ngại không vượt qua được, thì việc thiết lập Thượng viện là người đại diện cho các tiểu bang sẽ đưa chúng ta trở lại mô hình Quốc hội Hợp bang hiện nay và sẽ chấm dứt mọi lợi thế và ưu việt của cơ quan này mà chúng ta đang mong đợi. Vì thế, ông sẽ không bỏ phiếu cho bất kỳ kế hoạch nào đề xuất về Thượng viện. Cả hai mô hình này đều rơi vào những thái cực. Liên minh 13 tiểu bang vừa là liên bang, vừa là quốc gia. Vậy tại sao chính quyền lại không thể điều hành một số vấn đề theo tiểu bang, còn các vấn đề khác theo qui mô dân số?

Ngài WILSON: Số lượng Thượng nghị sĩ cũng gặp những trở ngại phức tạp. Nếu những tiểu bang nhỏ nhất được phép có một đại biểu và các bang khác bầu theo tỷ lệ thì Thượng viện chắc chắn là rất đông. Ông đề nghị cứ 100.000 người sẽ chọn một Thượng nghị sĩ. Còn các tiểu bang, nếu chưa có đủ số dân như vậy, cũng được phép có một đại biểu. Ông sẵn lòng tìm cách thỏa hiệp với các bang nhỏ để tìm ra giải pháp cho vấn đề này.

Bác sĩ FRANKLIN: Các ý kiến rất đa dạng, nhưng có thể chia thành hai hướng. Nếu đại diện theo tỷ lệ dân số, các bang nhỏ nói rằng tự do của họ sẽ bị nguy hiểm. Nhưng nếu phiếu bầu bình đẳng, các bang lớn lại nói rằng tiền bạc của họ gặp nguy hiểm. Khi cần đóng một cái bàn rộng, nhưng các tấm gỗ lại không vừa với nhau, người thợ mộc phải bào bớt đi một chút ở cả hai để ghép chúng lại. Theo cách này, cả hai bên đều cần phải từ bỏ một số đòi hỏi của mình, sao cho họ có thể phù hợp với nhau theo một tỷ lệ thích hợp. Các đề xuất của ông như sau:

Cơ quan lập pháp của các tiểu bang sẽ chọn và cử số đại biểu bình đẳng để hình thành Thượng viện của Hợp chúng quốc.

Trong mọi vụ kiện liên quan đến chủ quyền tiểu bang, hay thẩm quyền của họ đối với các công dân của họ bị hủy bỏ, hay thẩm quyền của chính quyền liên bang tại các tiểu bang mới gia nhập, thì các tiểu bang sẽ bỏ phiếu bình đẳng.

Việc bổ nhiệm mọi viên chức chính quyền trung ương như theo qui định của Hiến pháp trao cho Thượng viện và mỗi bang cũng có lá phiếu bình đẳng.

Trong việc qui định lương bổng cho các viên chức này, các khoản chi phí cho các hoạt động công cộng và nói chung mọi khoản chi tiêu lấy từ ngân khố liên bang và mọi đạo luật liên quan đến tiền bạc và lợi tức, các tiểu bang sẽ bỏ phiếu theo tỷ lệ số tiền họ đóng góp.

Khi một con tàu có quá nhiều ông chủ, thì ông chủ góp nhiều tiền nhất sẽ quyết định hành trình của con tàu.

Ngài KING: Nhận thấy vấn đề đơn giản là liệu mỗi tiểu bang có quyền bỏ phiếu bình đẳng tại Thượng viện không. Đối với một số người, quyền bỏ phiếu bình đẳng là không thể thay đổi và nhất định phải có, thì phe kia cũng không kém phần ngang bướng. Chúng ta đã tách biệt nhau quá xa và sẽ rất tai hại nếu nhắm mắt chống lại nhau.

Tuy nhiên, chúng ta tin rằng mọi người dân trên nước Mỹ đều được đảm bảo mọi quyền của mình, thì chúng ta đang sẵn lòng hy sinh những điều tốt đẹp chỉ vì cái bóng ma hão huyền của chủ quyền tiểu bang. Ông đau đớn và lo sợ cho đất nước ông hơn những điều ông đã thể hiện và coi đây là cơ hội cuối cùng mang lại tự do và hạnh phúc cho đất nước.

Do vậy, ông rất thất vọng khi thấy một chính quyền đúng đắn, thành lập trên nền tảng đại diện tốt đẹp của dân chúng nước Mỹ đang trong tầm tay đạt được, lại bị vứt bỏ vì sự ràng buộc bởi ý tưởng về tự do và tầm quan trọng của các tiểu bang. Nếu nhiều Ngài vẫn theo đuổi những ảo tưởng kỳ quặc đó, tâm trí của ông đã sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì chứ không thể tham gia một chính quyền thành lập trên các nguyên tắc đại diện xấu xa đó và hẳn rồi chính quyền đó cũng không thể tồn tại lâu dài vì sự bất công của nó. Ông có thể chấp nhận một giải pháp nào đó, như Ngài Wilson gợi ý, nhưng sẽ không bao giờ nghe và chấp nhận quyền bỏ phiếu bình đẳng về vấn đề này.

Ngài DAYTON: Khi sự cảm tính thay cho bằng chứng và nỗi hoảng sợ thay cho tranh luận, thì dù nói hùng hồn đến thế nào đi nữa cũng là vô ích. Kinh nghiệm của chúng ta đã chứng tỏ rằng mọi tội lỗi và trục trặc của chính quyền đều xuất phát từ quyền bình đẳng đó và những mầm mống đòi giải tán lại xuất phát từ các chính quyền tiểu bang, chứ không phải từ chính quyền liên bang. Ông coi mô hình đang thảo luận hiện nay là quá xa lạ. Đó là một con quái vật khổng lồ, vừa có thể sống trên cạn, vừa có thể sống dưới nước. Dân chúng sẽ không bao giờ chấp nhận mô hình đó.

Ngài MARTIN: Sẽ không bao giờ đạt được thỏa thuận nếu không dựa trên các nguyên tắc bình đẳng và công bằng.

Ngài MADISON: Đồng ý với những nhượng bộ mà Ngài Wilson ám chỉ, với điều kiện là sự độc lập cần phải trao cho Thượng viện. Mô hình hiện nay làm cho Thượng viện hoàn toàn phụ thuộc vào các tiểu bang và như thế, Thượng viện cũng chỉ là một phiên bản của Quốc hội Hợp bang hiện nay mà thôi. Ông biết rõ những sai lầm của Quốc hội và từng phản đối mạnh mẽ. Nhưng việc duy trì quyền của các tiểu bang cũng làm ông đắn đo như việc xét xử bởi một ban bồi thẩm.

Ngài BEDFORD: Không có một mô hình trung gian nào giữa một liên bang kết hợp chặt chẽ và một hợp bang thuần tuý hình thức giữa các tiểu bang. Với mô hình đầu tiên thì không còn gì bàn cãi nữa. Còn trong mô hình sau, các tiểu bang vẫn tiếp tục được giữ các chủ quyền bình đẳng, dù không đầy đủ. Nếu các xã hội chính trị có những tham vọng xấu xa và những lợi ích làm cho họ hận thù nhau, chúng ta có nên duy trì các xã hội chính trị đó không? Liệu những động cơ phe phái và lợi ích ở nước Mỹ có khác với các nơi khác không?

Nếu bất cứ quý ngài nào nghi ngờ điều đó, hãy để ông ta chứng kiến các cuộc bầu cử. Hay lợi ích và tham vọng không phải là động cơ thúc đẩy họ? Các bang lớn đang tìm cách nâng cao vị thế của mình bằng việc coi thường và bỏ mặc các bang nhỏ. Họ khăng khăng cho rằng mình đúng, nhưng lợi ích đã làm họ trở nên mù quáng. Hãy nhìn tiểu bang Georgia, dù hiện nay là một bang nhỏ, nhưng sau này, nó sẽ trở thành một bang lớn.
 
Tranh luận về Tranh luận về sự bình đẳng của các tiểu bang tại Quốc hội (tiếp theo)​


Hiện nay, không tiểu bang nào duy trì tỷ lệ đại diện chính xác tại Nghị viện. Liệu có thể nói rằng sự bất bình đẳng trong bầu cử sẽ dẫn tới sự bất bình đẳng về quyền lực không? Nếu có cơ hội, tham vọng sẽ chẳng bao giờ bỏ qua việc lạm dụng nó.

Toàn bộ lịch sử loài người đã chứng minh điều này. Ba bang lớn có lợi ích chung trong vấn đề thương mại. Nhưng liệu họ sẽ hợp tác với nhau như chúng ta giả thiết, hay tranh giành nhau như những người khác dự đoán? Nhưng trong bất cứ trường hợp nào các bang nhỏ cũng bị thiệt thòi.

Chúng ta cần phải noi theo Solon, thiết lập một chính quyền để được mọi người chấp thuận. Đã bao giờ các tiểu bang nhỏ muốn tự hạ thấp vai trò của mình chưa? Sẽ là sai lầm nếu cho rằng dân chúng không đồng ý gia tăng quyền của Quốc hội hiện nay. Dân chúng thường đòi hỏi Quốc hội cần có thêm quyền lực để thu thuế và để buộc các tiểu bang phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi cần thiết. Họ hoàn toàn công khai quan điểm này trong các tuyên bố của mình. Họ sẽ bác bỏ mọi mô hình, nếu chúng đi ngược lại những cam kết trước đây.

Các bang nhỏ sẵn lòng tuân thủ mọi cam kết của mình, nhưng không thống nhất quan điểm với các bang lớn về bất cứ điều gì, ngoại trừ mô hình Hợp bang hiện nay. Chúng ta từng nghe nói rằng “cái bóng của nhà độc tài chính là khoảnh khắc cuối cùng để thiết lập một chính quyền tốt” . Khoảnh khắc cuối cùng đó chính là thời điểm chúng ta gửi mô hình chính quyền cho công chúng phê chuẩn.

Ông không e sợ điều gì cả. Các bang lớn sẽ không dám giải tán liên minh. Nếu họ làm như vậy, các bang nhỏ sẽ tìm cách liên minh với ngoại bang để nhận những cam kết vinh dự và tốt đẹp hơn. Những quốc gia đó sẵn lòng đón nhận và đối xử công bằng với họ. Ông nói như vậy không phải để hăm dọa. Đó là một hậu quả tất yếu.

Cần tránh nguy cơ này bằng cách mở rộng các quyền lực của trung ương, nhưng không phá hỏng thể chế liên bang [tức là không phá vỡ quyền đại diện bình đẳng tại Thượng viện]. Đó chính là điều dân chúng mong đợi. Mọi người đều đồng ý về sự cần thiết của một chính quyền hiệu quả. Vậy tại sao chúng ta không xây dựng một mô hình đúng như dân chúng mong ước?

Ngài ELSEWORTH: Chính quyền quốc gia sẽ đảm bảo an toàn tốt hơn cho toàn liên bang, đúng như nhận xét của Ngài King, nhưng chỉ có vậy thôi. Điều ông cần là sự thịnh vượng và hạnh phúc trên mảnh đất này. Chính quyền quốc gia không thể coi thường và xem nhẹ những lợi ích địa phương để biến chính quyền tiểu bang trở thành một thứ hoàn toàn lệ thuộc được. Chính quyền tiểu bang phải gắn bó với lợi ích chung của toàn quốc.

Do đó, ông đòi bảo vệ và duy trì chủ quyền của các chính quyền tiểu bang. Những hạnh phúc tốt đẹp nhất trong cuộc đời ông chỉ nhờ vào chính quyền tiểu bang. Hạnh phúc của ông phụ thuộc vào sự tồn tại của chính quyền tiểu bang, giống như một đứa trẻ mới sinh sống dựa vào nguồn sữa mẹ. Nếu điều này không được đáp ứng, ông không muốn thảo luận thêm điều gì nữa.

Ngài KING: Ủng hộ việc duy trì các chính quyền tiểu bang, nhưng ở một mức độ nhỏ để đáp ứng các mục tiêu như Ngài Elseworth tuyên bố. Nhưng đó không phải là giải pháp triệt để giải quyết mọi nguy hiểm mà các chính quyền tiểu bang có thể gây ra từ việc lạm quyền của chính quyền trung ương.

Trong việc thiết lập xã hội, điều mà bản Hiến pháp qui định cho các cơ quan lập pháp tiểu bang cũng là những điều các bộ luật tiểu bang qui định cho các công dân. Những quyền cơ bản của cá nhân được những điều khoản trong các bản Hiến pháp tiểu bang đảm bảo. Vậy tại sao sự đảm bảo tương tự như vậy đối với quyền của tiểu bang lại không thể có trong bản Hiến pháp Liên bang?

Các điều khoản liên hiệp giữa nước Anh và Scotland minh chứng cho điều đó khi các quyền của Scotland được đảm bảo. Khi liên minh của chúng ta bị đe dọa, mọi tiểu bang đều cùng chung mối lo âu. Cũng những lời nói lo âu đó xuất hiện trên miệng của những người yêu nước Scotland, khi liên minh Anh-Scotland gặp nguy hiểm. Tuy nhiên, các điều khoản liên minh được tôn trọng. Nhờ đó, Scotland trở nên thịnh vượng và hạnh phúc hơn. Nhưng đó chỉ là sự đảm bảo trên giấy mà thôi.

Ngoài những điều khoản cơ bản của Hiến pháp, thì chẳng có biện pháp nào đủ sức chống lại các mối đe dọa cả. Ông không thể ngồi xuống nếu không nhận xét về những lời lẽ của quý ngài Bedford. Không phải chính ông ta đã thốt ra những lời lẽ độc ác và xấu xa đó hay sao? Thái độ của quý ngài đó là không đúng đắn.

Chính ông ta, với những lời lẽ gay gắt chưa từng có tại Hội nghị này, đã tuyên bố sẵn sàng đặt hy vọng cho sự yên bình và hạnh phúc của quê hương vào tay những thế lực ngoại bang. Ông cảm thấy vô cùng đau đớn khi nghe được những lời lẽ như thế và càng đau buồn hơn khi thấy những lời lẽ đó lại xuất phát từ chính miệng lưỡi ông ta, nhưng quý ngài đó chỉ thể hiện tâm trạng của riêng ông ta mà thôi. Bản thân ông, thì dù bất cứ chuyện gì xảy ra, ông cũng không bao giờ đặt niềm tin vào các thế lực ngoại bang.

Về đề xuất của Ngài Elseworth cho phép mỗi tiểu bang một phiếu bầu tại Thượng viện:

MA: phản đối; CT: tán thành; NY: tán thành; NJ: tán thành; PA: phản đối; DE: tán thành; MD: tán thành; (Ngài Jenifer không có mặt; chỉ có Ngài Martin bỏ phiếu); VA: phản đối; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: bất đồng ý kiến. Ngài Houston phản đối, Ngài Baldwin đồng ý. (6 bang phản đối; 5 bang tán thành; một bang không quyết định).
 
Ða số là nguyên tắc cơ bản của nền cộng hoà​


Ngày 2 và 5 tháng Bảy​


Bất đồng rất lớn của các đại biểu về quyền bỏ phiếu bình đẳng tại Thượng viện đã dẫn Hội nghị tới bế tắc và mọi thảo luận đều trở nên cực kỳ căng thẳng mà chẳng bên nào chịu nhường bên nào. Để giải quyết vấn đề này, một ủy ban được lập ra để tìm giải pháp hòa giải.

Sự thỏa hiệp đạt được là Hạ viện sẽ đại diện theo số dân, còn Thượng viện sẽ đại diện bình đẳng. Nhờ thỏa hiệp này và nhờ tư tưởng thỏa hiệp của hai phe mà Hội nghị cuối cùng đã thu được kết quả như mong muốn. Bedford là một trong những đại biểu các bang nhỏ đấu tranh mạnh mẽ nhất cho quyền bình đẳng tại Thượng viện.

Ngài PINKNEY: Sự bình đẳng phiếu bầu tại Thượng viện là điều không thể chấp nhận được. Nhưng đồng thời, ông thừa nhận rằng các bang lớn sẽ thiên vị các công dân của mình và ưu đãi họ trong cuộc bỏ phiếu. Các bang lớn có thể tìm được những điểm tương đồng về lợi ích thương mại và thúc đẩy những Hiệp ước ưu đãi họ. Có sự khác biệt chủ yếu giữa các lợi ích miền Bắc và miền Nam.

Tiểu bang Bắc và Nam Carolina và Georgia có nền văn hóa lúa gạo và chàm (Rice và Indigo) có lợi ích khác biệt và có thể bị hy sinh. Vậy khi đó phải ngăn chặn các bang lớn áp đặt chính quyền trung ương ban hành những biện pháp có lợi cho họ thế nào, nếu họ không đếm xỉa đến ý muốn của các bang nhỏ? Chỉ nên cho phép họ có ưu thế về phiếu bầu chứ không phải một tỷ lệ đầy đủ với qui mô dân số.

Ông đặc biệt lo ngại về kết quả của Hội nghị này, coi đó như cơ hội cuối cùng cho cuộc thử nghiệm. Trước đây, mọi nỗ lực nhằm sửa đổi hệ thống Liên bang của Quốc hội Hợp bang hầu như đều thất bại. Không có giải pháp nào ngăn chặn được sự giải tán Hợp bang ngoài việc triệu tập Hội nghị này. Ông rất lo ngại về những hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra nếu liên minh tan rã. Ông đề xuất chia các tiểu bang thành các hạng để bổ nhiệm số lượng Thượng nghị sĩ tương ứng.

Tướng PINKNEY: Không hoàn toàn chấp nhận đề xuất này. Ông ủng hộ đề xuất của Ngài Franklin hơn [ý định của Franklin trình bày ngày 30 tháng Sáu về việc qui định tỷ lệ phiếu bầu tùy thuộc vào nội dung của dự luật-ND]. Thỏa hiệp là cần thiết bởi hai phe hầu như cân bằng nhau trong cuộc bỏ phiếu về quyền bình đẳng tại Thượng viện. Ông đề xuất thành lập một ủy ban với mỗi bang có một đại biểu để tìm ra các thỏa hiệp.

Ngài L. MARTIN: Không phản đối việc thành lập ủy ban này, nhưng không thể hòa giải nếu không chấp nhận ý muốn bình đẳng của các bang nhỏ.

Ngài SHARMAN: Lúc này, chúng ta hầu như bế tắc và không ai muốn Hội nghị sẽ chấm dứt mà không làm một điều gì đó. Ông nghĩ một ủy ban dường như đáp ứng nhất yêu cầu hiện nay.

Ngài G.MORRIS: Việc lập ủy ban hòa giải là khôn ngoan vì Hội nghị hoàn toàn bất đồng. Ông tin chắc rằng mô hình bổ nhiệm Thượng viện với quyền bỏ phiếu là bình đẳng, sẽ đi ngược lại mục đích của cơ quan này.

Thượng viện được lập ra để làm gì? Để kiểm soát sự vội vã, tính dễ thay đổi và thái quá của Hạ viện. Mọi người đều chứng kiến sự hấp tấp trong các Viện dân chủ của các cơ quan lập pháp tiểu bang và tính thiếu kiên định của Quốc hội Hợp bang. Trong mọi cơ quan, sự thái quá đều ảnh hưởng xấu đến sự an toàn và tự do cá nhân. Vậy cần những phẩm chất nào để thiết lập sự kiểm soát trong trường hợp này? Năng lực và đức hạnh đều cần thiết ở cả hai Viện. Nhưng bây giờ chúng ta còn muốn hơn thế.

1. Viện kiểm tra cần phải có lợi ích cá nhân trong việc kiểm soát viện kia, lợi ích này sẽ kiềm chế lợi ích kia. Những sai trái và thói xấu, khi cùng tồn tại, sẽ chống đối và kiềm chế nhau.

2. Thượng viện phải có tài sản cá nhân thật lớn và phải có tư tưởng quý tộc. Thượng viện sẽ khao khát vinh quang và sự cao cả nhờ lòng kiêu hãnh và tự trọng của mình. Thực ra, lòng kiêu hãnh và tự trọng là nguyên tắc vĩ đại thúc đẩy cả người nghèo và người giàu. Người nghèo thường chống lại còn người giàu thường lạm dụng nó.

3. Viện này cần phải độc lập. Trong tôn giáo, loài người thường quên đi Đấng Tạo hóa. Mặt khác, trong các hoạt động chính trị, những cuộc tranh luận căng thẳng vừa qua là những bằng chứng không vui vẻ gì. Viện quý tộc cần phải độc lập và vững chắc để đối trọng với Viện Bình dân. Nếu các thành viên của Viện này phụ thuộc vào sự bầu chọn của Viện Dân chủ thì Viện Dân chủ sẽ chiếm ưu thế.

Nước Mỹ cần phải trù tính để bảo đảm các Thượng nghị sĩ không khúm núm và quị lụy Viện Dân chủ. Nếu Thượng viện phụ thuộc vào Hạ viện, thì tốt hơn chúng ta không nên lập ra nó. Để Thượng viện trở thành một cơ quan độc lập, Thượng nghị sĩ cần phải được bầu chọn suốt đời. Người giàu sẽ cố gắng thiết lập ưu thế và sự vượt trội của mình để nô lệ hóa những người còn lại.

Trước đây, họ luôn luôn làm như vậy và sau này vẫn sẽ làm như vậy. Sự đảm bảo an toàn đúng đắn chống lại nguy cơ này là phân chia họ thành những lợi ích riêng biệt. Hai lợi ích riêng biệt sẽ kiểm soát lẫn nhau. Nếu không có lợi ích thương mại, Viện Dân chủ sẽ chiến thắng.

Điều đó đã xảy ra trên khắp thế giới và cũng sẽ xảy ra trên đất nước chúng ta. Lý trí dạy chúng ta rằng chúng ta chẳng là ai khác ngoài con người, chúng ta không thể trông đợi bất cứ sự thần kỳ nào của Thượng đế cứu vớt và bênh vực chúng ta. Bằng sự kết hợp và tách biệt đó, lợi ích quý tộc và lợi ích bình dân sẽ kiềm chế lẫn nhau để tất cả cùng có lợi.

4. Sự độc lập suốt đời sẽ tạo ra sự bền vững cần thiết. Nếu chúng ta liên tục thay đổi các đạo luật, thì không còn ai tin chúng ta nữa. Nên để tránh thay đổi các đạo luật quá thường xuyên, phải làm thế nào tránh sự thay đổi con người. Hãy hỏi bất cứ người dân nào xem liệu ông ta có tin tưởng vào Quốc hội không, có tin tưởng vào tiểu bang Pennsylvania không, nếu ông ta cho vay tiền hay ký kết hợp đồng? Ông ta sẽ nói là không. Ông ta không thấy sự ổn định nên ông ta không thể đặt niềm tin. Nếu nước Anh từ chối đối xử tử tế với chúng ta, chúng ta cũng phải làm như vậy.

Ông phản đối việc ngăn cản Thượng nghị sĩ được giữ nhiệm kỳ suốt đời, bởi đó là điều nguy hiểm. Nếu có mối nguy hiểm xuất hiện từ nhánh hành pháp, thì phải ngăn chặn nó bằng cách nào? Nếu người con trai, người anh, hay người bạn được Tổng thống bổ nhiệm, mối nguy hiểm này sẽ tăng lên, khi người cha có tư cách kém lại thổi phồng những ưu việt của những người thân, những phẩm chất mà họ không có.
 
Đa số là nguyên tắc cơ bản của nền cộng hòa (tiếp theo)​


Qui định đó sẽ ngăn cản những công dân tốt nhất, có tư cách cao quý nhất, có khả năng nhất không được giữ chức vụ này. Khi đó ai sẽ giữ chức Thượng nghị sĩ? Ông cũng phản đối việc trả lương cho các Thượng nghị sĩ. Họ phải tự trả tiền cho mình.

Họ phải là những người giàu có và có thể làm việc mà không cần trả lương. Thượng viện phải gồm những người đủ khả năng nuôi sống mình. Nhánh hành pháp phải có quyền bổ nhiệm Thượng nghị sĩ và sẽ bổ nhiệm những người mới cho những chỗ trống. Điều này sẽ loại bỏ những khó khăn hiện nay.

Các Thượng nghị sĩ cần được độc lập nên phải được làm việc suốt đời. Cũng cần phải xem xét phương pháp bầu chọn tiến hành ở các tiểu bang. Ông hy vọng những quý ngài trong Hội nghị này đủ sáng suốt để nhận ra sự thật đó. Do đó, ông không do dự để nói rằng bổng lộc sẽ làm hư hỏng những kẻ mị dân. Một Thượng nghị sĩ suốt đời sẽ là cái mồi quý phái. Nếu không có những triển vọng hấp dẫn đó, các nhà lãnh đạo của dân chúng sẽ phản đối và bác bỏ kế hoạch này.

Hạ viện được dân chúng các tiểu bang chọn, còn Thượng viện được toàn thể dân chúng Hợp chúng quốc chọn, nên đó sẽ không phải là chính quyền của các tiểu bang mà là một chính quyền bởi sự kết hợp giữa những người Virginia tại Thượng viện và Hạ viện với những người của Massachusetts tại Thượng viện và Hạ viện…

Hệ thống đó rồi sẽ trở thành một thứ Hiệp ước thuần tuý và chẳng còn là chính quyền nữa, sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào các tiểu bang và chống lại những điều chúng ta đang làm hiện nay. Một chính quyền vững chắc mới có thể bảo vệ được tự do của chúng ta.

Ông e sợ ảnh hưởng của người giàu. Họ sẽ có cùng ảnh hưởng và tác hại như bất kỳ nơi nào khác, nếu chúng ta không thiết lập được một chính quyền kiềm giữ họ trong những giới hạn nhất định. Chúng ta cần phải nhớ rằng dân chúng không bao giờ hành động chỉ vì lý trí. Người giàu sẽ lợi dụng tâm trạng của người nghèo làm công cụ để đàn áp họ. Kết quả của cuộc xung đột đó là tạo ra một giới quý tộc bạo lực, hay thậm chí là một nền chuyên quyền bạo lực.

Mưu mô của người giàu sẽ gặp thuận lợi nhờ sự mở rộng lãnh thổ quốc gia. Dân chúng ở những vùng xa xôi không thể trao đổi với nhau và không thể thống nhất hành động chung. Họ sẽ bị những người khôn ngoan, có nhiều thông tin hơn, thường xuyên trao đổi với nhau, lừa dối. Sự đảm bảo an toàn duy nhất chống lại những lạm quyền và xâm lấn đó là chọn ra được một cơ quan gồm những người khôn ngoan để kiềm chế và kiểm soát mọi phe phái.

Ngài RANDOLPH: Tán thành việc thiết lập một ủy ban, dù không nghĩ rằng ủy ban này mang lại nhiều điều tốt lành. Ông chỉ trích những ngôn từ thái quá, quá hấp tấp và quá gay gắt của Ngài Bedford hôm thứ bảy. Nếu các bang lớn kết hợp lại với nhau có thể gây nguy hiểm, nhưng ông tin là cần trao cho Tổng thống quyền phủ quyết để kiểm soát mối nguy hiểm này hiệu quả hơn. Ông cũng tán thành cho mỗi bang có một lá phiếu bình đẳng trong việc chọn Tổng thống.

Ông tin rằng hai cơ quan đối kháng như Ngài Morris đề ra sẽ không bao giờ cùng nhau tồn tại lâu dài. Sự bất đồng có thể nảy sinh như từng có giữa Thượng viện và Hạ viện Maryland. Khi đó, các phe phái đều kêu gọi dân chúng ủng hộ mình và chỉ trong một thời gian ngắn, những rối loạn sẽ nảy sinh. Trái lại, ông nghĩ rằng các bang lớn sẽ đảm bảo sự tồn tại của mình dễ hơn là các bang nhỏ. Nhưng việc các bang nhỏ từ chối gia nhập liên minh sẽ làm cho toàn thể đất nước này điêu tàn. Ông quyết tâm theo đuổi một mô hình chính quyền chống lại tai họa đó.

Ngài STRONG: Tán thành việc lập ủy ban và hy vọng sẽ tìm ra giải pháp thiết lập cả hai Viện của cơ quan lập pháp. Nếu hai Viện này thiết lập trên những nguyên tắc khác nhau, sự xung đột và bất hòa sẽ luôn luôn xuất hiện, nên họ sẽ không bao giờ đồng tâm nhất trí trong các biện pháp cần thiết.

Bác sĩ WILLIAMSON: Nếu cả hai phe không nhường nhịn, thì toàn bộ công việc của chúng ta sẽ chấm dứt. Ông chấp nhận lập ủy ban này. Ủy ban càng nhỏ, càng dễ đạt thỏa hiệp.

Ngài WILSON: Phản đối việc thành lập ủy ban, bởi vì ủy ban này chỉ quyết định căn cứ vào chính điều luật bỏ phiếu bình đẳng từng bị một bên phản đối. Kinh nghiệm của ông tại Quốc hội cũng chứng tỏ sự vô ích của các ủy ban như vậy.

Ngài LANSING: Không phản đối việc lập ủy ban, nhưng cho rằng sẽ chẳng thu được nhiều kết quả.

Ngài MADISON: Phản đối việc thành lập ủy ban này. Ông không thấy ủy ban này sẽ mang lại bất cứ ích lợi nào ngoài sự trì hoãn, như trong Quốc hội Hợp bang. Bất kỳ thỏa hiệp nào, nếu được đề xuất trong ủy ban đó, đều có thể đề xuất ngay trong Hội nghị này. Bản báo cáo của ủy ban này chỉ thuần tuý là ý kiến của riêng nó mà thôi, nên việc lập ủy ban cũng sẽ chẳng rút ngắn quá trình thảo luận và cũng chẳng ảnh hưởng đến quyết định của Hội nghị.

Ngài GERRY: Ủng hộ việc lập ủy ban. Có thể họ sẽ làm được một việc gì đó, hoặc chúng ta không chỉ làm cả nước Mỹ mà còn cả thế giới thất vọng. Những Hiệp ước của chúng ta là gì? Những món nợ nước ngoài của chúng ta là gì? Những hoạt động trong nước là gì? Chúng ta phải thừa nhận sự cần thiết của cả hai phía. Nếu không có những điều đó, chẳng có bản Hiến pháp tiểu bang nào được lập ra cả.

Cuộc bỏ phiếu về việc "thành lập ủy ban hòa giải", kết quả bỏ phiếu như sau:

MA: đồng ý; CT: đồng ý; NY: đồng ý; NJ: phản đối; PA: đồng ý; DE: phản đối; MD: đồng ý; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý. (9 bang đồng ý, 2 bang phản đối).

Về việc ủy ban này sẽ bao gồm "mỗi tiểu bang được cử một đại biểu":

MA: đồng ý; CT: đồng ý; NY: đồng ý; NJ: đồng ý; PA: phản đối; DE: đồng ý; MD: đồng ý; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý.

Ủy ban này được bầu chọn gồm Ngài Gerry, Ngài Elseworth, Ngài Yates, Ngài Paterson, Bác sĩ Franklin, Ngài Bedford, Ngài Martin, Ngài Mason, Ngài Davy, Ngài Rutlidge và Ngài Baldwin.

Ngày 5 tháng Bảy

Ngài GERRY đọc bản báo cáo của Ủy ban:

"Ủy ban xin đệ trình bản báo cáo như sau:

Rằng những đề xuất sau được gửi lên Hội nghị, sau khi về cơ bản, được cả hai bên đồng ý.

I. Hạ viện sẽ bao gồm đại biểu của các tiểu bang. Cứ 40.000 dân sẽ có một người đại diện. Tiểu bang nào không đủ số người đó cũng có một đại biểu. Mọi đạo luật liên quan đến lợi tức và thuế khoá, hay qui định lương bổng của các nhân viên chính quyền liên bang đều do Hạ viện khởi xướng. Thượng viện không có quyền thay đổi hay bổ sung. Không một khoản tiền nào được lấy khỏi ngân khố của liên bang nếu không có sự phê chuẩn của Hạ viện.

II. Tại Thượng viện, mỗi tiểu bang sẽ có một phiếu bầu".

Ngài GHORUM: Bản báo cáo này đã bao gồm những điều khoản có lợi cho cả hai phía, nhưng muốn nghe những lời giải thích nền tảng thiết lập nên những điều khoản này.

Ngài GERRY: Ủy ban bất đồng về ý kiến đúng như sự bất đồng cả các tiểu bang mà các đại biểu là người đại diện và đồng ý rằng bản báo cáo này chỉ làm nền tảng cho sự hòa giải của Hội nghị mà thôi.

Ngài WILSON: Nghĩ rằng Ủy ban này đã đi quá phạm vi quyền hạn được phép.

Ngài MADISON: Không coi việc ban đặc ân cho Hạ viện trong việc khởi thảo những đạo luật về lợi tức và thuế khóa là sự thỏa hiệp và nhường nhịn của các bang nhỏ. Thực tế đã chứng minh rằng điều này chẳng có hiệu quả gì. Nếu 7 bang trong Thượng viện muốn khởi thảo một đạo luật, chắc chắn họ sẽ tìm đủ số thành viên của cùng tiểu bang tại Hạ viện để khởi thảo bộ luật này.

Điều khoản hạn chế việc sửa đổi các đạo luật này cũng có ít tác dụng. Những điều sửa đổi được Thượng viện trao cho các cá nhân tại Hạ viện. Vì các dự luật có thể bị phủ quyết nên chúng sẽ được đệ trình lên Thượng viện theo hình thức Thượng viện mong muốn.
 
Đa số là nguyên tắc cơ bản của nền cộng hòa (tiếp theo)​


Nếu Thượng viện bị khuất phục trước sự ngoan cố của Hạ viện, thì việc dùng Thượng viện như một biện pháp kiềm chế trở nên vô tác dụng. Nếu Hạ viện bị khuất phục trước ý muốn của Thượng viện, thì đặc ân khởi thảo các đạo luật đó cũng vô giá trị.

Trước đây, nước Anh và các tiểu bang của chúng ta có cùng luật pháp và qui định, nhưng thường xuyên bị thay đổi. Do đó, bất cứ nhượng bộ nào hiện nay cũng không có giá trị và mọi phản đối việc cho phép mỗi tiểu bang có một lá phiếu bình đẳng vẫn có hiệu lực.

Bây giờ, chúng ta chỉ còn hai cách chọn lựa, hoặc là từ bỏ sự công bằng để hòa giải các bang nhỏ và thiểu số dân chúng Mỹ, hoặc là làm họ phật ý bằng việc ưu đãi các bang lớn với đa số dân chúng Mỹ. Ông không hề đắn đo và do dự khi nói rằng sự công bằng sẽ được đa số dân chúng ủng hộ, nên Hội nghị chẳng có gì phải lo sợ cả. Trong khi với sự thiếu bình đẳng và chỉ có thiểu số dân chúng tán thành, các bang nhỏ phải sợ tất cả mọi điều.

Thật là vô ích nếu Hội nghị theo đuổi những điều khoản gây sự bất hòa vĩnh viễn giữa các bang và cả dân chúng. Hội nghị cần phải theo đuổi một mô hình bền vững, chịu đựng được mọi thử thách và chắc chắn sẽ được phần lớn dân chúng Mỹ tán thành và ủng hộ. Chính dân chúng sẽ thúc đẩy và tự làm sáng tỏ mô hình này.

Cần phải thấy rằng ban đầu nhiều người có thể phán xét mô hình chính quyền được đề xuất bởi những thành kiến về Hội nghị này, nhưng cuối cùng, mọi người sẽ phán xử Hội nghị bằng chính mô hình chính quyền đó. Giá trị của hệ thống này chỉ đạt được hiệu quả nhờ sự chấp thuận của toàn thể dân chúng.

Ông không tin các bang nhỏ sẽ ngoan cố chống đối mô hình chính quyền thiết lập trên nguyên tắc công bằng và cam kết sẽ bảo vệ mô hình này. Ông không nghĩ Delaware đủ dũng cảm kiếm tìm tương lai, bằng cách từ bỏ liên minh với các tiểu bang khác, để tự thiết lập một chính quyền mà ông nghi ngờ là sẽ theo đuổi những chính sách xấu xa, trông chờ sự ủng hộ của ngoại bang, điều mà một đại biểu của tiểu bang này [Ngài Bedford] lớn tiếng đề xuất.

Nếu tiểu bang này làm như vậy, thì cũng chỉ đạt được một Hiệp ước quá hấp tấp. Ông tin dân chúng New Jersey, bất chấp quan điểm của Ngài Paterson, sẽ đứng bằng đôi chân của mình và qui thuận một chính quyền được thiết lập trên nền tảng các nguyên tắc công bằng. Mô hình đó là tuyệt đối cần thiết để họ tránh những khoản thuế trong việc kinh doanh buôn bán với các bang láng giềng.

Xem xét kỹ các tiểu bang khác cũng sẽ thấy sự chống đối ngoan cố của các bang này cũng không có lập trường vững chắc. Các bang chủ chốt gồm đa số dân chúng Mỹ sẽ tán thành mô hình công bằng và khôn ngoan. Ông tin chắc rằng cuối cùng, mọi bang khác cũng sẽ tán thành.

Ngài BUTLER: Không tin rằng chỉ với lòng kính trọng Hội nghị này, dân chúng nước Mỹ sẽ chấp nhận một bản Hiến pháp rõ ràng là không công bằng. Đặc ân khởi thảo những dự luật liên quan đến tiền bạc của Hạ viện chẳng có ý nghĩa gì. Thượng viện phải đại diện cho các tiểu bang căn cứ vào tài sản của mình.

Ngài G. MORRIS: Cả hình thức và nội dung của bản báo cáo đó đều khó chấp nhận. Điều khoản đầu tiên đã làm cho các tu chính án là không thể thực hiện được. Trong điều khoản tiếp theo, dường như có cam kết rằng Thượng viện sẽ đồng ý nếu Hạ viện đồng ý. Mọi khía cạnh của bản báo cáo đó đều sai lầm.

Ông tới đây như một người đại diện cho nước Mỹ và tự cho rằng ở một mức độ nào đó là đại diện cho toàn thể loài người vì toàn thể loài người sẽ chịu ảnh hưởng bởi kết quả của Hội nghị này. Ông mong mọi đại biểu suy xét kỹ lưỡng vấn đề này trong cả tương lai chứ không phải chỉ trong thời gian ngắn hạn trước mắt. Cần phải xóa bỏ mọi thành kiến địa phương.

Chúng ta nhóm họp ở đây không phải để buôn bán và mặc cả vì lợi ích riêng biệt tiểu bang quê nhà mà cần phải xem xét hậu quả của những điều chúng ta sẽ làm. Chỉ riêng điều đó mới chỉ ra con đường cho chúng ta. Rất nhiều người nói về tâm trạng của dân chúng. Nhưng nếu kế hoạch chúng ta đề xuất là đúng đắn và hợp lý, mọi người có lý trí và có óc xét đoán đều tán thành, bất chấp những gì mà nhiều quý ngài lo ngại. Cứ coi rằng tất cả các bang lớn đều sẽ tán thành, còn những bang nhỏ sẽ phản đối và hãy để chúng ta tự phân tích những hậu quả sẽ xảy ra.

Những người phản đối mô hình chính quyền này tại các tiểu bang nhỏ, không nghi ngờ gì nữa, sẽ hình thành một phe phái và phản đối ầm ĩ trong một thời gian. Nhưng các mối quan hệ về lợi ích, tâm trạng chung và những phong tục tập quán hàng ngày với các tiểu bang khác chặt chẽ đến mức không thể dễ dàng cắt đứt được.

Đặc biệt là tại New Jersey, ông tin là rất nhiều người sẽ nói theo quan điểm của Pennsylvania và New York. Đất nước này cần phải thống nhất. Nếu lời nói không thống nhất được, thì gươm đao sẽ thống nhất. Mọi người cần nhận thức mối nguy hiểm này.
 
Đa số là nguyên tắc cơ bản của nền cộng hòa (tiếp theo)​


Những điều ghê rợn sinh ra do những xung đột và những cuộc nội chiến là không thể tả nổi và thời điểm kết thúc những rối loạn này còn tồi tệ hơn khi nó đang xảy ra.

Phe phái mạnh hơn sẽ kết tội những phe phái yếu là phản bội. Giá treo cổ và dây thòng lọng sẽ là hình phạt cuối cùng. Không thể kể hết được tác hại của việc ngoại bang can thiệp.

Ông kể lại bức tranh ảm đạm do sự can thiệp của ngoại bang trong lịch sử nước Đức và kêu gọi mọi người đừng quên bài học đó. Ông tin rằng quý ngài thể hiện ý định đó chỉ là suy nghĩ nhất thời và vô tình nhắc đến.

Nhưng ông không tin bản báo cáo của ủy ban được suy xét kỹ càng vì mục tiêu tốt đẹp cho toàn xã hội. Thượng viện được thiết lập như vậy sẽ liên tục bất hòa sẽ khiến các tiểu bang phải tự quyết định về chính sách liên bang để kiểm soát và hạn chế Hạ viện.

Giả sử các đại biểu của Massachusetts và Rhode Island tại Thượng viện bất đồng ý kiến và quan điểm của Massachusetts bị bác bỏ. Vậy kết quả sẽ là gì? Ngay lập tức bang Massachusetts sẽ tuyên bố không chấp thuận quyết định đó. Một điều tương tự có thể xảy ra với Virginia và các bang khác.

Chúng ta có thể không diệt hết được mọi xấu xa, nhưng chúng ta phải rút hết mọi nọc độc của con rắn. Những quyết định của chúng ta là để mang lại lợi ích thật sự cho con người, chứ không phải nhằm đáp ứng những lợi ích hạn hẹp của một địa phương nào đó. Những tâm địa hẹp hòi và ích ỷ sẽ chẳng mang lại điều gì lớn lao. Không một ai, kể cả bản thân ông, dám khẳng định rằng liệu con cái ông rồi đây sẽ là công dân của tiểu bang nào.

Ngài BEDFORD: Điều ông từng nói về các bang nhỏ có thể đã bị hiểu sai nên ông đứng lên để giải thích. Ông không có ý rằng các bang nhỏ sẽ tìm cách tranh thủ và lợi dụng sự viện trợ, hay can thiệp của ngoại bang. Ý ông chỉ là các bang nhỏ không muốn giải tán liên bang nếu các bang lớn không làm như vậy.

Trong trường hợp tan rã, trách nhiệm là thuộc về phía các bang lớn, còn các bang nhỏ sẵn lòng thực thi những cam kết của mình. Ngoại bang sẽ lợi dụng cơ hội này để trục lợi, bằng cách liên minh với các bang nhỏ với những điều khoản công bằng. Đó là điều ông muốn nói. Không ai dự đoán được cảnh túng quẫn và bước đường cùng mà các bang nhỏ có thể rơi vào nếu bị chèn ép như thế.

Ông cũng muốn biện bạch rằng thói quen và bệnh nghề nghiệp của ông [Bedford là luật sư - ND] đã thể hiện những điều cần thiết này bằng lời lẽ mạnh mẽ đó. Nhưng những điều Ngài Govr. Morris đã nói rằng gươm đao là cần thiết để thống nhất đất nước và Ngài Ghorum nói rằng Delaware sẽ phải sáp nhập với Pennsylvania và New Jersey sẽ bị chia cho Pennsylvania và New York không phải là đáng xấu hổ sao? Phải nghe những lời lẽ đó mà không có cảm xúc gì, cũng giống như việc phải từ bỏ mọi cảm xúc của con người và bổn phận của công dân.

Những điều khoản do Ủy ban này đề xuất là vì các bang nhỏ muốn có những đảm bảo nào đó. Cũng giống như phải trao cho Tổng thống quyền phủ quyết các đạo luật để tự vệ, thì các tiểu bang cũng cần có những điều khoản để tự vệ. Để đạt được điều này, các tiểu bang nhỏ đã thừa nhận quyền đại diện theo tỷ lệ dân số tại Hạ viện và các đạo luật về tiền bạc và lợi tức sẽ do Hạ viện khởi thảo.

Nếu các bang nhỏ không được những nhượng bộ tương ứng tại Thượng viện đáp ứng thì họ sẽ chẳng bao giờ chấp nhận mô hình này và hậu quả sẽ là gì, nếu không có mô hình nào được phê chuẩn? Bối cảnh nước Mỹ đòi ngay lập tức đạt được một điều gì đó. Một mô hình khiếm khuyết được phê chuẩn còn tốt hơn là chẳng thu được điều gì. Những khiếm khuyết này, nếu cần thiết, sẽ được chỉnh sửa tại một cuộc họp nào đó sau 10, 15 hay 20 năm nữa.

Ngài ELSEWORTH: Dù không tham gia Ủy ban nhưng sẵn sàng chấp nhận thỏa hiệp mà họ đạt được. Các thỏa hiệp là cần thiết và ông thấy những điều khoản đó là hợp lý.

Ngài WILLIAMSON: Hy vọng những đại biểu khác không quá để tâm và phiền muộn về tâm trạng và lời lẽ vừa trình bày của Ngài Bedford. Ông hy vọng các lời lẽ đó không bị hiểu nhầm và không bị thổi phồng. Ông không đồng ý với Ngài G.Morris rằng gươm đao là thứ cần rút ra để chống lại các bang nhỏ. Ngài Morris chỉ nói về những hậu quả của sự vô chính phủ ở Mỹ. Điều mà Ngài Ghorum nói cũng tương tự như vậy. Ông sẵn lòng nghe những thảo luận về bản báo cáo của Ủy ban.

Ngài PATERSON: Bản báo cáo được Ủy ban thỏa hiệp đề xuất, đối với ông, chính là kết quả của những cuộc tranh luận tự do. Ông coi những lời lẽ nóng nảy là không thích đáng và nghĩ rằng “Giá treo cổ và Dây thòng lọng” sẽ không đạt được kết quả cần thiết. Ông phàn nàn cách Ngài Madison và Ngài G.Morris đối xử và xét đoán các bang nhỏ.

Ngài GERRY: Mặc dù cơ bản tán thành bản báo cáo của Ủy ban, thì ông vẫn có lý do để phản đối. Tuy nhiên, chúng ta đang ở một tình huống rất đặc biệt. Chúng ta không phải là những người cùng một tổ quốc, nhưng cũng không phải là những người khác tổ quốc, nên không thể theo đuổi chính xác mô hình này, hay mô hình kia. Nếu không có thỏa hiệp, liên minh chắc chắn tan rã. Hai mô hình được đề xuất quá khác biệt và không ai dự đoán được hậu quả sẽ thế nào. Nếu chúng ta không đạt được một thỏa thuận nào cho chúng ta, lưỡi gươm của ngoại bang sẽ thay cho chúng ta làm điều đó.

Ngài MASON: Bản báo cáo đó không phải là những điều khoản phải chấp nhận mà chỉ thuần tuý là những điều khoản mang tính hòa giải. Cần phải có một số hòa giải, bởi nếu không, chúng ta sẽ chẳng làm được gì. Hội nghị này lập ra Ủy ban đó với mục đích đạt được sự thỏa hiệp và đó là điều mà Ủy ban này đã làm được. Ông thà chôn xác mình tại thành phố này còn hơn để tổ quốc phải gánh chịu những hậu quả thảm khốc, nếu Hội nghị này giải tán mà không đạt được kết quả nào.

Đến lúc này, Khoản I trong bản báo cáo của Ủy ban, ấn định tỷ lệ đại diện của Hạ viện, một đại biểu đại diện cho 40.000 dân, được đưa ra xem xét.

Ngài G. MORRIS: Phản đối qui định tỷ lệ đó. Tài sản cũng cần được xem xét như qui mô dân số. Cuộc sống và sự tự do nói chung là giá trị hơn tài sản. Nhưng nếu phân tích chính xác sẽ thấy tài sản mới là mục đích chủ yếu của xã hội. Các tiểu bang hoang vu ủng hộ tự do hơn những tiểu bang giàu có. Tự do cũng là điều mà những người không biết thế nào là tài sản đòi hỏi, nên tài sản chỉ có thể được chính quyền bảo đảm bằng qui định và luật pháp. Ý tưởng này có thể là mới mẻ đối với một số quý ngài, nhưng đó mới chính là sự công bằng.

Nếu tài sản là mục tiêu chủ yếu của chính quyền thì đó cũng phải là một hình thức đánh giá mức độ ảnh hưởng của con người. Ông cũng mong đợi các tiểu bang mới sẽ nhanh chóng được thiết lập ở miền Tây. Ông nghĩ qui định về đại diện cần phải được ấn định để đảm bảo các tiểu bang bên bờ Đại Tây Dương chiếm ưu thế trong chính quyền liên bang. Các bang mới nhận thức về lợi ích của dân chúng kém hơn những bang ở đây, nên sẽ có những lợi ích khác biệt nhất định. Họ đặc biệt khác xa với toàn thể cộng đồng về các khoản nợ chiến tranh và với các bang có hoạt động thương mại hàng hải.

Do vậy cần có các điều khoản ngăn chặn việc các bang mới ở miền Tây áp đảo các tiểu bang ven biển trong các cuộc bỏ phiếu sau này. Điều này có thể đạt được bằng việc ấn định số lượng đại biểu cho từng tiểu bang.

Ngài RUTLIDGE: Ngài Morris nói rất chính xác. Tài sản chắc chắn là mục đích chủ yếu của xã hội. Nếu dân số được sử dụng để quyết định số người đại diện, các bang ven biển Đại Tây Dương sẽ bị các bang miền Tây áp đảo. Ông đề xuất rằng điều khoản đầu tiên của bản báo cáo cần phải hoãn lại để xem xét những qui định như "quyền bỏ phiếu của các bang sẽ được qui định và chia tỷ lệ căn cứ vào tổng số tiền được cư dân của tiểu bang đó đóng góp vào ngân khố liên bang. Quyền bỏ phiếu phân chia theo tỷ lệ đó được qui định vào cuối năm thứ _____ kể từ cuộc họp đầu tiên của cơ quan lập pháp liên bang. Cho tới khi có qui định khác, quyền bỏ phiếu cho New Hampshire sẽ là _____; cho Massachts sẽ là _____.

Đại tá MASON: Việc các bang mới gia nhập liên minh không được ghi trong báo cáo. Dù không tham gia Ủy ban, nhưng bản thân ông cho rằng nếu họ trở thành một bộ phận của liên minh, họ không thể chịu những thiên vị lệch lạc và sự xem thường đó.

Ngài RANDOLPH cũng đồng ý với đại tá Mason.

Về đề xuất của Ngài Rutlidges qui định tỷ lệ bỏ phiếu căn cứ vào số tiền đóng góp:

MA : phản đối; CT: phản đối; NY: phản đối; NJ: phản đối; PA: phản đối; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: phản đối; NC: phản đối; SC: tán thành; GA: không thống nhất.

Hội nghị dừng họp tại đây.

Ngày hôm sau, Hội nghị đã thống nhất với ý kiến của Ngài Morris trước mắt ấn định số lượng đại biểu của mỗi bang căn cứ vào số dân và cứ sau 10 năm sẽ tổng kiểm tra dân số một lần.
 
Bầu chọn và nhiệm kỳ của Tổng thống​


Ngày 17 và 19 tháng Bảy​


Tổng thống là người đứng đầu nhánh hành pháp và có quyền lực vô cùng lớn. Vì thế, những qui định về việc chọn lựa Tổng thống là rất quan trọng. Các đại biểu đều chia thành hai phe. Một bên muốn cho dân chúng quyền bầu chọn, còn bên kia muốn các cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn.

Nhưng đây là vấn đề rất phức tạp, trong đó, điều mấu chốt là làm thế nào thiết lập được một Tổng thống mạnh nhưng tránh được các nguy cơ suy thoái thành nền độc tài hay chế độ quân chủ, nên Hội nghị dành rất nhiều thời gian thảo luận về mô hình Tổng thống và mãi đến khi gần kết thúc Hội nghị, chi tiết điều khoản này mới được quyết định xong.

Đề xuất thứ 9: "nhánh hành pháp quốc gia sẽ gồm một người duy nhất do cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn" được đưa ra thảo luận.

Ngài GOUVERNEUR MORRIS: Kịch liệt phản đối. Tổng thống sẽ chỉ là tay sai của cơ quan lập pháp, nếu do cơ quan này bổ nhiệm và buộc tội. Tổng thống cần phải được dân chúng, những người chủ thực sự của đất nước này bầu ra. Cách bầu chọn này cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng như việc bầu chọn Thống đốc ở New York và Connecticut, những khó khăn đó có thể vượt qua được.

Nếu dân chúng có quyền bầu chọn, họ sẽ không bao giờ nhầm lẫn trong việc ủng hộ những cá nhân xuất sắc, những người có uy tín trên khắp lục địa. Nếu cơ quan lập pháp bầu chọn, đó sẽ là công việc của những mưu đồ, bè đảng và phe phái, sẽ giống như cuộc bầu cử Giáo hoàng bởi cuộc họp của các Hồng y Giáo chủ, khi tư cách và giá trị thật sự của cá nhân ít khi là nguyên nhân chủ yếu để bổ nhiệm. Ông đề nghị bỏ chữ "Cơ quan lập pháp quốc gia" và thay bằng "những công dân của Hợp chúng quốc".

Ngài SHERMAN: Tâm trạng của đất nước sẽ được cơ quan lập pháp thể hiện tốt hơn là bởi dân chúng. Dân chúng không thể có những thông tin đầy đủ về các cá nhân. Ngoài ra, không bao giờ có đủ đa số phiếu cho bất kỳ ứng cử viên nào. Dân chúng thường chọn những người cùng tiểu bang, nên tiểu bang lớn nhất có nhiều cơ hội nhất để chọn công dân của tiểu bang mình làm Tổng thống. Nếu việc bầu chọn tiến hành bởi cơ quan lập pháp, sẽ có đủ đa số phiếu cần thiết để chọn Tổng thống.

Ngài WILSON: Có hai lý do chống lại mô hình bầu cử Tổng thống do đa số dân chúng thực hiện:

1. Ví dụ về nhà nước Ba Lan. Đó là nơi các cuộc bầu cử nguyên thủ quốc gia thường gây ra những bạo động nguy hiểm nhất nhưng vì những lý do hoàn toàn khác. quý tộc Ba Lan đều có tài sản lớn và đông người hầu giúp họ có điều kiện đe dọa nền Cộng hòa cũng như đe dọa lẫn nhau. Tiếp theo, tất cả các đại cử tri đều tụ tập tại một nơi, nhưng cuộc bầu cử Tổng thống của chúng ta thì không như vậy.

2. Ða số dân chúng không bao giờ hoàn toàn nhất trí về một vấn đề. Nhưng sự đồng lòng của đa số dân chúng không phải là nguyên tắc cần thiết cho việc bầu cử. Không tiểu bang nào qui định như vậy cả. Có thể giải quyết khó khăn này bằng cách được sử dụng ở Massachusetts, trong trường hợp không có ứng cử viên nào chiếm được đa số phiếu của dân chúng, cơ quan lập pháp được sẽ trao quyền quyết định.

Ít nhất, qui định này cũng đảm bảo người được chọn sẽ nằm trong số những người có tư cách tốt được đề cử, và ở một mức độ nào đó, ngăn chặn những mưu đồ xấu xa. Ông kịch liệt chống lại cuộc bầu cử hoàn toàn do cơ quan lập pháp tiến hành, bởi như vậy, Tổng thống sẽ không thể đại diện cho tự do và lợi ích chung của dân chúng mà thường bị thiên lệch bởi những mưu mô nham hiểm của những nghị sĩ.

Ngài PINCKNEY: Kịch liệt chống việc trao quyền bầu cử Tổng thống cho dân chúng. Dân chúng thường bị một vài kẻ mị dân dùng mưu mô xảo quyệt dẫn dắt và lừa dối. Những tiểu bang đông dân nhất hợp sức với sự câu kết của một vài kẻ mưu đồ sẽ thực hiện được âm mưu chọn Tổng thống là người của chúng. Cơ quan lập pháp quốc gia đặc biệt quan tâm đến các đạo luật do họ ban hành nên sẽ chú tâm nhất đến việc chọn người phù hợp để thực thi những bộ luật này.

Ngài G. MORRIS: Ngài Pinckney nói rằng nếu để dân chúng bầu chọn, thì những tiểu bang đông dân sẽ bắt tay nhau để lựa chọn người mà họ hài lòng, nhưng thực tế, thì ngược lại. Dân chúng các tiểu bang này không thể kết hợp lại được. Nếu có bất kỳ sự kết hợp nào, thì chỉ có thể là sự kết hợp để chọn các đại biểu tại cơ quan lập pháp. Việc dân chúng bị một số kẻ xảo quyệt dẫn dắt chỉ có thể xảy ra ở các quận nhỏ, chứ không bao giờ xảy ra trên khắp cả nước. Trong cuộc bầu cử Thống đốc New York, đôi khi ở vài vùng nào đó, một số kẻ xảo trá, lắm mưu mô, có thể thành công, nhưng tiếng nói chung của toàn tiểu bang thì không bao giờ bị ảnh hưởng.

Có người nói rằng dân chúng sẽ không được thông tin đầy đủ. Ðúng là họ sẽ không được thông tin về những buổi họp kín của cơ quan lập pháp, nhưng họ không phải là không hiểu biết những nhân vật đáng kính trọng, lừng lẫy và vĩ đại. Nếu Tổng thống được cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn, ông ta sẽ không thể độc lập với cơ quan này và nếu không được độc lập, sự lạm quyền và chuyên chế của cơ quan lập pháp sẽ là hậu quả tất yếu. Ðây là trường hợp của nước Anh trong thế kỷ trước. Ðó là trường hợp của Hà Lan, nơi Thượng nghị viện chiếm đoạt hết mọi quyền lực. Ðiều này xảy ra ở khắp mọi nơi.

Ông ngạc nhiên là có đại biểu so sánh cuộc bầu cử bởi đông đảo dân chúng với cuộc bầu cử người đứng đầu nhà nước ở Ba Lan. Một cuộc bầu cử do cơ quan lập pháp tiến hành mới thật sự giống với cuộc bầu cử Tổng thống của Nghị viện Ba Lan. Những nghị sĩ xấu xa, tham nhũng sẽ tìm cách chọn một kẻ giống mình làm Tổng thống. Việc bầu chọn do một số cơ quan tiến hành còn tồi tệ hơn cả việc nếu để cho một cá nhân riêng biệt chịu trách nhiệm hoàn toàn, hay do đa số dân chúng chọn ra.

Đại tá MASON: Thật kỳ quặc, khi lúc thì nói thế này, lúc thì nói thế kia. Vừa lúc nãy, chúng ta nói rằng cơ quan lập pháp chính là nơi được đặt toàn bộ niềm tin và cần trao mọi quyền lực. Bây giờ thì lại nói là cơ quan này sẽ bị điều hành bởi những kẻ mưu mô, xảo quyệt, tham lợi và không thể tin tưởng được. Một chính quyền muốn tồn tại lâu dài, ít nhất, phải có tính khả thi. Mọi chuyện sẽ ra sao nếu trao cuộc bầu cử này cho dân chúng? Thật là gượng ép khi nói rằng dân chúng tất yếu sẽ chọn được người thích hợp cho chức Tổng thống cũng giống như việc cho rằng người mù biết phán xét màu sắc. Qui mô rộng lớn của đất nước làm dân chúng không đủ kiến thức phán xét hành vi và tính cách của các ứng cử viên.

Ngài WILSON: Không thấy mâu thuẫn trong tuyên bố của Mason. Cơ quan lập pháp đáng được tin cậy ở một số khía cạnh, nhưng không đáng tin cậy trong những khía cạnh khác. Trong những đạo luật tác động đến họ và đến cử tri, thì các cử tri sẽ có niềm tin vào các đại biểu. Nhưng trong những trường hợp khác, giữa họ sẽ có lòng ghen tị. Cơ quan lập pháp có nhiều động cơ hơn công chúng trong việc bổ nhiệm những chức vụ quan trọng nên không thể đặt niềm tin vào cơ quan này. Ai cũng biết rằng nhánh hành pháp dễ tham nhũng và dễ bị mua chuộc nhất, nên mọi hành động của cơ quan này cần phải được cơ quan lập pháp kiểm soát chặt chẽ.

Ngài WILLIAMSON: Sự khác nhau giữa cuộc bầu cử do dân chúng và do cơ quan lập pháp cũng giống như sự khác biệt giữa việc bổ nhiệm bằng cách rút thăm và bằng sự chọn lựa. Hiện nay, nước Mỹ có những cá nhân xuất sắc mà ai ai cũng biết đến, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Chắc chắn, dân chúng sẽ bỏ phiếu cho những người cùng tiểu bang, nên các bang lớn nhất định sẽ chọn được người của họ. Tuy nhiên, điều này không đúng với Virginia bởi nô lệ không có quyền bỏ phiếu. Vì lương bổng của Tổng thống đã được ấn định và Tổng thống không được tái cử, nên Tổng thống không thể bị phụ thuộc vào nhánh lập pháp như nhiều người hình dung.

Kết quả cuộc bỏ phiếu về việc trao quyền bầu chọn bởi dân chúng thay cho nhánh lập pháp:

MA: phản đối; CT: phản đối; NJ: phản đối; PA: tán thành; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: phản đối; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: phản đối. (9 bang phản đối, 1 bang tán thành).

Ngài L. MARTIN: Đề xuất Tổng thống sẽ do các đại cử tri bầu chọn mà các đại cử tri lại được các cơ quan lập pháp tiểu bang bổ nhiệm.

Ngài BROOME: Ủng hộ ý kiến này.

Nhưng đề xuất trên bị bác bỏ bằng cuộc bỏ phiếu:

MA : phản đối; CT: phản đối; NJ: phản đối; PA: phản đối; DE: tán thành; MD: tán thành; VA: phản đối; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: phản đối. (8 bang phản đối, 2 bang tán thành)
 
Bầu chọn và nhiệm kỳ của Tổng thống (tiếp theo)​


Tuy nhiên, sau này, tới ngày 24 và 25 tháng Bảy, sau khi Hội nghị đồng ý cho phép Tổng thống được quyền tái cử, thì phương pháp bầu chọn lại được đưa ra xem xét lại và Hội nghị chuyển sang chấp thuận việc cho phép dân chúng gián tiếp bầu Tổng thống thông qua các đại cử tri.

Qui định "sẽ do cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn" được Hội nghị hoàn toàn nhất trí.

Hội nghị cũng chấp thuận đề nghị của Ngài Houston và Ngài Govr. Morris hoãn lại việc thảo luận qui định "trong nhiệm kỳ bảy năm".

Hội nghị cũng hoàn toàn nhất trí với điều khoản "để thi hành mọi đạo luật quốc gia" và "để bổ nhiệm những viên chức không được hiến pháp qui định".

Ngài HOUSTON: Đề xuất gạch bỏ câu "không được tái cử lần hai".

Ngài SHERMAN: Ủng hộ ý kiến đó.

Ngài GOVR. MORRIS: Tán thành. Qui định không được tái cử sẽ cản trở nỗ lực của những người có tư cách đạo đức tốt muốn được tái cử.

Hội nghị hoàn toàn chấp thuận đề xuất cho phép Tổng thống có quyền tái cử như Ngài Houston mong muốn:

MA: tán thành; CT: tán thành; NJ: tán thành; PA: tán thành; DE: phản đối; MD: tán thành; VA: tán thành; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: tán thành. (3 bang phản đối, 7 bang tán thành)

Điều khoản "trong nhiệm kỳ bảy năm" lại được đưa ra xem xét.

Ngài BROOM: Đề nghị rút ngắn thời hạn của nhiệm kỳ vì bây giờ Tổng thống đã được quyền tái cử. Nếu không được tái cử, thì nhiệm kỳ dài 7 năm là hợp lý.

Bác sĩ Mc. CLURG: Đề xuất gạch bỏ chữ “bảy năm” và thay bằng "trong thời gian có tư cách đạo đức tốt". Khi cho phép tái cử, Tổng thống tất yếu sẽ phụ thuộc vào cơ quan lập pháp, nhưng sự độc lập của Tổng thống cũng hoàn toàn cần thiết như đối với nhánh tư pháp.

Ngài G. MORRIS: Ủng hộ ý kiến này. Đó là biện pháp để có được một chính quyền tốt đẹp. Ông không quan tâm lắm đến việc bầu chọn Tổng thống thế nào, nhưng Tổng thống phải có quyền giữ chức vụ đó trong nhiệm kỳ "tư cách đạo đức tốt" [Tức là giữ chức vụ suốt đời].

Ngài BROOME: Hoàn toàn tán thành đề xuất này. Nhiệm kỳ đó sẽ khắc phục được mọi khó khăn và trở ngại của chức vụ Tổng thống.

Ngài SHERMAN: Nhiệm kỳ suốt đời là không an toàn và không thể chấp nhận được. Vì Tổng thống bây giờ đã được quyền tái cử, nên ông ta luôn luôn thể hiện tư cách đạo đức tốt khi thấy cần thiết. Nếu có tư cách tốt, ông ta sẽ được tái cử, còn nếu không, ông ta sẽ bị thay thể trong kỳ bầu cử kế tiếp.

Ngài MADISON: Nếu nhất thiết phải duy trì tự do, thì quyền lực của nhánh hành pháp, lập pháp và tư pháp phải được tách biệt và nhất thiết phải duy trì sự tách biệt này để họ độc lập với nhau. Nhánh hành pháp không thể độc lập khỏi nhánh lập pháp nếu phải phụ thuộc vào sự hài lòng của cơ quan này để được tái cử. Tại sao lại qui định các thẩm phán không được giữ chức vụ với nhiệm kỳ có thời hạn?

Bởi vì bằng cách dễ dãi quá mức trong việc thi hành bổn phận của mình, họ sẽ phải tìm cách thân quen với nhánh lập pháp. Như vậy, sẽ làm cho các nghị sĩ ngầm trở thành người giải thích luật. Cũng như vậy, sự phụ thuộc của nhánh hành pháp vào nhánh lập pháp sẽ làm cho các nhà làm luật và người thi hành luật trở nên giống nhau. Theo quan điểm của Montesquieu, những bộ luật chuyên chế sẽ được thi hành bằng cách thức chuyên chế.

Có sự tương đồng giữa nhánh hành pháp và tư pháp trong nhiều khía cạnh. Nhánh tư pháp thi hành luật trong những trường hợp này, còn nhánh hành pháp thi hành luật trong những trường hợp khác. Mỗi nhánh sẽ thi hành và giải thích luật vì các mục đích khác nhau. Nhưng chắc chắn, sự hợp tác giữa Tổng thống và Quốc hội sẽ gây nhiều nguy hiểm hơn là sự hợp tác giữa Quốc hội và Tòa án. Vì thế, muốn thiết lập một Nhà nước Cộng hòa tốt đẹp, tuyệt đối phải tách biệt nhánh hành pháp với nhánh lập pháp.

Đại tá MASON: Ý kiến này đã được thảo luận trước đây và đã được đa số bác bỏ. Ông tin rằng lần này, ý kiến đó cũng lại bị bác bỏ. Không thể xác định thế nào là tư cách kém và càng khó khăn hơn khi muốn buộc một người giữ cương vị với nhiệm kỳ "có tư cách tốt" ra trước tòa án [để luận tội và cách chức ông ta].

Ông coi một Tổng thống, khi được giữ chức vụ khi có tư cách đạo đức tốt, chẳng khác gì một viên Tổng thống “trọn đời” nên sẽ dễ dàng biến thành một nhà nước quân chủ cha truyền, con nối. Nếu đề xuất này được thông qua, ông tin rằng chính ông sẽ chứng kiến một cuộc cách mạng nữa. Nếu ông không chứng kiến, thì con cháu ông sẽ chứng kiến. Ông tin rằng chỉ có rất ít quý ngài trong căn phòng này mong muốn điều đó và không một tiểu bang nào từ bỏ những nguyên lý cộng hòa để tán thành điều đó.

Ngài MADISON: Không thấy có lý do gì dẫn đến nền quân chủ. Mục đích thật sự của ông là ngăn chặn một việc như vậy. Kinh nghiệm trong chính quyền chúng ta chứng tỏ khuynh hướng ném hết mọi quyền lực vào tay nhánh lập pháp. Thống đốc các tiểu bang có ít quyền hơn nhiều so với quyền hạn vô biên của cơ quan lập pháp.

Nếu không có sự kiểm soát và đối trọng tương ứng để kiềm chế sự bất ổn và sự lạm quyền của nhánh lập pháp, một cuộc cách mạng này hay cách mạng khác là không thể tránh khỏi. Do vậy, việc duy trì chính quyền cộng hòa đòi hỏi một giải pháp cho vấn đề này, nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được các nguyên tắc cộng hòa cao đẹp.

Ngài G. MORRIS: Cũng căm ghét thể chế quân chủ như bất cứ quý ngài nào khác và cho rằng phải thiết lập chính quyền cộng hòa để mang lại hạnh phúc cho dân chúng.

Bác sĩ Mc. CLURG: Không quá e sợ bóng ma của nền quân chủ vì điều đó không dễ dàng xảy ra và cũng không quá quyến luyến với chính thể cộng hòa vì những thể chế độc tài cũng có thể xuất hiện từ mô hình này. Mục đích chủ yếu của ông là thiết lập sự độc lập của nhánh hành pháp đối với nhánh lập pháp. Muốn như vậy, Tổng thống phải được bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời.

Đề xuất "nhiệm kỳ có tư cách tốt" bị Hội nghị bỏ phiếu bác bỏ.

MA: phản đối; CT: phản đối; NJ: tán thành; PA: tán thành; DE: tán thành; MD: phản đối; VA: tán thành; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: phản đối. (6 bang phản đối, 4 bang tán thành)

Hội nghị dừng họp tại đây.
 
Bầu chọn và nhiệm kỳ của Tổng thống (tiếp theo)​


Ngày 19 tháng Bảy, hội nghị tiếp tục xem xét cách thức bầu chọn Tổng thống.

Ngài GOUVERNEUR MORRIS: Cần phải xem xét mọi vấn đề liên quan đến việc thiết lập mô hình nhánh hành pháp đúng đắn để mang lại lợi ích và hiệu quả cho các tiểu bang hiện nay cũng như trong tương lai. Trong khoa học chính trị có một nguyên lý rằng chính quyền cộng hòa không phù hợp với một quốc gia quá rộng lớn, bởi uy quyền của người điều hành tối cao không thể lan tới mọi vùng xa xôi của đất nước.

Hợp chúng quốc là một quốc gia vô cùng rộng lớn. Chúng ta hoặc phải từ bỏ những điều tốt lành của liên minh, hoặc phải trao cho Tổng thống uy quyền to lớn và mạnh mẽ, đủ sức kiểm soát được mọi vùng đất nước.

Một mục tiêu khác của nhánh hành pháp là việc kiểm soát cơ quan lập pháp. Cơ quan lập pháp liên tục tìm cách mở rộng và tăng cường quyền lực của mình, hoặc lợi dụng những thời điểm nguy kịch để gây ra những cuộc chiến tranh, xâm lược, hay rối loạn để đạt được mục tiêu đó.

Khi đó, Tổng thống cần phải trở thành người bảo vệ cho dân chúng, thậm chí, cho cả tầng lớp dưới chống lại sự chuyên quyền, độc tài của ngành lập pháp, tức là chống lại tầng lớp giàu có, thành phần chủ yếu của Quốc hội. Người giàu thường có khuynh hướng làm đồi bại trí não và nuôi dưỡng tham vọng giành quyền lực, xúi giục bạo loạn. Lịch sử đã chứng tỏ ý muốn đó của người giàu.

Sự kiểm soát tại Thượng viện không có nghĩa là kiểm soát sự lạm quyền của cơ quan lập pháp mà chỉ kiểm soát sự lạm dụng những quyền hợp pháp, kiểm soát xu hướng của Hạ viện dễ sa vào các dự án hấp tấp, như tiền giấy và những thứ tương tự. Nhưng đó không phải là cách kiểm soát thói chuyên quyền của cơ quan lập pháp.

Ngược lại, nó còn thúc đẩy âm mưu đó và nếu Hạ viện bị cảm dỗ thì người giàu sẽ đạt được mục đích của mình. Do đó, Tổng thống phải được thiết lập để trở thành người bảo vệ vững vàng nhất cho đông đảo dân chúng. Đó là bổn phận của Tổng thống trong việc bổ nhiệm các viên chức chính quyền và chỉ huy quân đội của nền Cộng hòa.

Ai sẽ là người phán xét tốt nhất đối với sự bổ nhiệm này? Chính là dân chúng, những người sẽ biết, sẽ theo dõi và sẽ hiểu được vai trò của những viên chức này. Ai có thể phán xét được những hành động quân sự trong việc bảo vệ dân chúng, nếu không phải là chính những người dân, những người cần sự bảo vệ đó? Việc Tổng thống không được tái cử sẽ có hậu quả thế nào?

1. Qui định này, bằng việc tước đi cơ hội được tái cử, sẽ làm mất đi lòng khao khát được dân chúng ca ngợi mà đó là phần thưởng của dân chúng đối với những người làm việc tốt. Danh tiếng và vinh quang là động lực mạnh mẽ nhất của mọi hành động cao cả. Khi con đường thông thường đạt tới vinh quang bị đóng lại, ông ta sẽ tìm cách đạt được điều đó bằng gươm đao.

2. Qui định này sẽ xúi giục Tổng thống, trong nhiệm kỳ ngắn ngủi của mình, tìm mọi mưu toan làm giàu và ban phát lợi lộc cho những người thân quen.

3. Qui định này sẽ vi phạm chính bản Hiến pháp mà nó cần phải là công cụ bảo vệ dân chúng. Trong những giai đoạn nguy ngập của chiến tranh hoặc xung đột, những cá nhân có năng lực và uy tín được công nhận thường sẽ được bầu làm Tổng thống dù với mô hình nào đi nữa. Việc Tổng thống có thể bị buộc tội là một điều khoản nguy hiểm của mô hình này vì điều đó sẽ buộc ông ta phải phụ thuộc, chứ không thể kiểm soát được cơ quan lập pháp, nên sẽ không thể là người bảo vệ vững chắc cho dân chúng và lợi ích của tất cả mọi người. Ông ta sẽ trở thành công cụ của một số kẻ mị dân trong cơ quan lập pháp.

Đó là những sai sót của mô hình hành pháp đề xuất hiện nay. Vậy chúng ta không thể lập ra mô hình nào tốt hơn chăng? Nếu Tổng thống phải là người bảo vệ dân chúng, thì hãy để dân chúng bầu chọn. Nếu Tổng thống phải là công cụ kiểm soát cơ quan lập pháp, hãy để cơ quan này không có quyền luận tội ông ta.

Hãy để ông ta giữ nhiệm kỳ ngắn, nhưng có quyền tái cử. Có quý ngài nói rằng dân chúng không đủ trình độ đánh giá các ứng cử viên Tổng thống, nhưng nếu cơ quan lập pháp đủ khả năng đánh giá thì những ứng cử viên Tổng thống đó phải có uy tín và tư cách nổi trội. Như vậy, dân chúng không thể không biết đến họ. Không thể có một ai có uy tín nổi bật và được tin tưởng mà danh tiếng lại không vang vọng khắp đất nước.

Ông không coi mối nguy hiểm của một người không thể bị luận tội là quá quan trọng. Nhưng điều đó là cần thiết đối với các viên chức cao cấp như Bộ trưởng Tài chính, Bộ trưởng Chiến tranh, Bộ trưởng Ngoại giao… Nếu không có những viên chức này thì Tổng thống cũng chẳng làm được gì.
 
Bầu chọn và nhiệm kỳ của Tổng thống (tiếp theo)​


Ông đề xuất một cuộc bầu cử Tổng thống hai năm một lần, cùng thời gian với cuộc bầu cử Hạ viện. Một cuộc bầu cử, do toàn thể dân chúng trên khắp quốc gia rộng lớn tiến hành sẽ không thể bị những mưu mô tầm thường phá hoại và làm hoen ố như trong các cuộc bầu cử phổ thông ở những vùng đất nhỏ hẹp.

Có thể sẽ có Ngài phản đối rằng một cuộc bầu cử như vậy sẽ chịu ảnh hưởng của các thành viên cơ quan lập pháp, nhất là các Hạ nghị sĩ, vì nó trùng với cuộc bầu cử Hạ viện. Không thể từ chối rằng không có ảnh hưởng đó, nhưng do cơ quan lập pháp, hay các ứng cử viên thường chia rẽ.

Sự thù địch của phe này sẽ chống lại phe phái kia. Nếu Tổng thống thi hành bổn phận của mình một cách đúng đắn, thì không thể ngăn cản Tổng thống được quyền tái cử. Nhưng nếu ông ta thi hành kém cỏi thì cần phải chống đối và ngăn chặn việc ông ta tái cử.

Sự phụ thuộc gián tiếp vào cơ quan lập pháp không thể dẫn đến những hậu quả nguy hiểm như việc phụ thuộc trực tiếp. Tổng thống không thể độc lập với Quốc hội nếu không trao cho Tổng thống một nhiệm kỳ suốt đời hoặc được quyền tái cử và do dân chúng bầu chọn. Có thể nhiệm kỳ hai năm là quá ngắn.

Nhưng ông tin rằng nếu Tổng thống có tư cách tốt, ông ta vẫn sẽ tiếp tục được giữ chức vụ này. Qui mô rộng lớn của nước Cộng hòa sẽ đảm bảo ông ta sẽ được tái cử, bất chấp những âm mưu phe phái và sự bất bình tại một số tiểu bang nào đó. Cũng cần nghiên cứu việc bổ sung thêm những điều khoản để dễ được dân chúng chấp thuận. Ông cho rằng toàn bộ các qui định về nhánh hành pháp của bản Hiến pháp này cần phải được xem xét lại…

Ngài RANDOLPH: Tán thành ý kiến của Ngài L. Martin nhằm khôi phục lại qui định không cho Tổng thống được tái cử lần hai. Nếu Tổng thống muốn được độc lập thì ông ta không được phép nghĩ đến việc tái cử. Nếu Tổng thống được tái cử bởi cuộc bỏ phiếu của cơ quan lập pháp, ông ta sẽ không còn là sự kiểm soát đối với nhánh này nữa. Quyền phê chuẩn của ông không còn chiếm ưu thế.

Nếu Tổng thống được cơ quan lập pháp bầu chọn, như Hội nghị quyết định, thì Tổng thống có thể được bầu chung bởi lá phiếu của cả hai viện, hoặc được Hạ viện đề cử, còn Thượng viện chọn lựa. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, các bang lớn vẫn sẽ chiếm ưu thế. Nếu Tổng thống tìm cách lợi dụng chức vụ của mình để được tái cử, thì liệu ông ta có dám dùng quyền phủ quyết của mình không? Khi đó, mọi bổn phận của nền hành pháp chỉ là sự qui phục quan điểm của các bang lớn.

Bên cạnh đó, việc ông ta có quyền được tái cử cũng gây nguy hiểm. Cơ quan lập pháp có thể vờ vĩnh hài lòng đồng ý chọn một nhân vật xoàng xĩnh tiếp tục giữ chức vụ này. Có quý ngài cho rằng việc được quyền tái cử sẽ làm cho ông ta thêm cố gắng. Có thể thấy rằng sự cố gắng của ông ta không có ảnh hưởng, trừ phi dân chúng xấu xa và đồi bại đến mức mọi sự cẩn trọng trở nên chẳng có ý nghĩa gì. Ông nghĩ mô hình cơ quan lập pháp chọn Tổng thống, nhưng không được quyền tái cử, là một cách thức tốt và sẽ được dân chúng dễ chấp nhận hơn đề xuất của Ngài G. Morris.

Ngài KING: Không tán thành qui định không được tái cử. Ông nghĩ những nhận xét của Ngài Sherman rằng những người vừa chứng tỏ mình là người phù hợp nhất và có năng lực nhất cho chức vụ này, nhưng rồi lại không được Hiến pháp cho phép tiếp tục giữ chức vụ này là rất chính xác. Do đó, ông tán thành bất cứ giải pháp nào thay thế cho giải pháp này. Ông tin chắc rằng trong những trường hợp như vậy, nói chung, dân chúng sẽ có sự lựa chọn khôn ngoan. Thực tế, toàn thể dân chúng khó lòng thống nhất quan điểm để ủng hộ bất kỳ ứng cử viên nào. Về tổng thể, ông cho rằng phương án các đại cử tri bầu cử Tổng thống, còn các đại cử tri lại do dân chúng chọn ra là giải pháp ít bị chống đối nhất.

Ngài PATERSON: Cùng quan điểm với Ngài King. Ông đề nghị Tổng thống phải do các đại cử tri bầu chọn. Những đại cử tri sẽ do các tiểu bang chọn ra theo tỷ lệ một đại cử tri cho bang nhỏ nhất và ba cho bang lớn nhất.

Ngài WILSON: Mọi đại biểu khó lòng thống nhất với việc trao cho cơ quan lập pháp quyền bầu chọn, trừ phi Tổng thống không được quyền tái cử. Ông nghĩ rằng cuộc bầu cử trực tiếp hay gián tiếp của dân chúng là hợp lý nhất.

Ngài MADISON: Nguyên tắc cơ bản của một chính quyền tự do là các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cần phải được tách biệt, để các cơ quan này cũng hoàn toàn độc lập với nhau. Do vậy, người đứng đầu cơ quan hành pháp cũng phải do nhân dân bầu ra để ông ta được độc lập với cơ quan lập pháp. Sự độc lập không thể đạt được nếu Tổng thống do cơ quan lập pháp bổ nhiệm.

Vì thế, Tổng thống cần được được bổ nhiệm theo một cách thức khác, tốt nhất là do dân chúng. Cách này sẽ chọn ra được Tổng thống có tư cách tốt nhất. Dân chúng sẽ biết và bỏ phiếu cho công dân có tư cách và phẩm chất nổi tiếng, được kính trọng trong cả nước. Tuy nhiên, việc ngay lập tức cho toàn thể dân chúng tiến hành bầu cử Tổng thống là vô cùng khó khăn. Quyền bỏ phiếu ở miền Nam phức tạp hơn nhiều so với miền Bắc. Hơn nữa, các bang miền Bắc sẽ không có ảnh hưởng lớn trong cuộc bầu cử nếu tính đến người da đen. Việc cho phép những đại cử tri bầu cử sẽ loại bỏ khó khăn này và dường như sẽ dễ được dân chúng chấp nhận nhất.

Ngài GERRY: Nếu Tổng thống được Quốc hội bầu chọn thì ông ta nhất định không được quyền tái cử. Quyền được tái cử sẽ làm Tổng thống hoàn toàn phụ thuộc vào Quốc hội. Ông phản đối việc trao cho dân chúng quyền bầu cử. Dân chúng không đủ thông tin và sẽ bị nhiều kẻ thủ đoạn lừa dối. Ông đòi việc bầu chọn Tổng thống sẽ do những đại cử tri, được các Thống đốc tiểu bang bổ nhiệm, tiến hành.

Như vậy, dân chúng các tiểu bang sẽ bầu chọn Hạ viện, các cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn Thượng viện, còn các Thống đốc sẽ bầu chọn Tổng thống. Ông nghĩ mô hình này sẽ hình thành một liên kết chặt chẽ giữa các tiểu bang với liên bang. Mô hình dân chúng bầu chọn Tổng thống là cách tồi tệ nhất. Với cách này, Tổng thống liên bang sẽ giống như Thống đốc Bowdoin của Massachusetts, hay Thống đốc Sullivan của New Hampshire .

Tất cả các tiểu bang đều đồng ý với đề nghị của Ngài G. Morris xem xét lại toàn thể qui định về Tổng thống trong bản Hiến pháp.

Ngài ELSEWORTH: Đề xuất xóa bỏ việc bổ nhiệm Tổng thống do cơ quan lập pháp tiến hành và thay bằng "được các đại cử tri bầu chọn. Các đại cử tri sẽ do cơ quan lập pháp của các tiểu bang chọn theo tỷ lệ một đại cử tri cho các bang không quá 200.000 người, hai cho các bang có dân số từ 200.000 đến 300.000 và ba đại cử tri cho các bang có trên 300.000 dân”.

Ngài RUTLIDGE: Phản đối mọi phương án bầu cử không phải do cơ quan lập pháp quốc gia tiến hành. Tổng thống phải được độc lập nên ông ta không được quyền tái cử.

Ngài GERRY: Tán thành ý kiến của Ngài Elseworth, khi cho cơ quan lập pháp quốc gia quyền bầu chọn Tổng thống, hoặc do dân chúng, chứ không thể do nhánh hành pháp của các tiểu bang. Ông đề nghị qui định 25 đại cử tri và phân bổ cho các tiểu bang theo tỷ lệ tương ứng.

Kết quả bỏ phiếu về đề xuất “Tổng thống sẽ do các đại cử tri do cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn” của Ngài Elseworth:

MA: không thống nhất; CT: đồng ý; NJ: đồng ý; PA: đồng ý; DE: đồng ý; MD: đồng ý; VA: đồng ý; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: phản đối. (6 bang tán thành; 3 bang phản đối, một bang không quyết định)

Về đề xuất các đại cử tri sẽ do cơ quan lập pháp tiểu bang chọn lựa:

MA: đồng ý; CT: đồng ý; NJ: đồng ý; PA: đồng ý; DE: đồng ý; MD: đồng ý; VA: phản đối; NC: đồng ý; SC: phản đối; GA: đồng ý; (8 bang đồng ý, 2 bang phản đối).

Hội nghị dừng họp tại đây.
 
Tranh luận về quyền phủ quyết của tòa án và cách bầu chọn thẩm phán​


Ngày 21 tháng Bảy​


Mặc dù điều khoản thiết lập nhánh tư pháp liên bang đã được Hội nghị thảo luận từ giữa tháng Sáu, nhưng sau này, do nhiều thay đổi và biến động, nên Hội nghị đã đưa ra thảo luận lại, đặc biệt là việc có trao quyền phủ quyết cho các thẩm phán không.

Thật bất ngờ là các đại biểu chủ chốt nhất của Hội nghị như Madison, Mason, G. Morris và James Wilson, những người được coi là khôn ngoan và thông thái nhất, lại hoàn toàn thất bại trong việc thuyết phục các đại biểu khác chấp nhận cho phép Tòa án Tối cao tham gia vào quyền phủ quyết của Tổng thống.

Trong những buổi họp này, cách thức bầu chọn thẩm phán cũng được thảo luận kỹ càng, bởi mục đích của cơ quan này là sự độc lập và sáng suốt, không chỉ để xét xử dân chúng mà còn để phán xét mọi sai trái của nhánh hành pháp cũng như nhánh lập pháp. Tuy nhiên, cũng như nhiều vấn đề phức tạp khác, sau khi đồng ý cho phép Quốc hội chọn lựa thẩm phán, khi bản dự thảo Hiến pháp được thảo luận lại vào cuối tháng Tám, Hội nghị lại trao quyền chọn thẩm phán cho Tổng thống.

Ngài WILSON: Đề xuất sửa đổi điều khoản số 10, nên viết là "nhánh tư pháp quốc gia sẽ cùng với bộ máy hành pháp giữ quyền phủ quyết các đạo luật do Quốc hội ban hành". Trước đây, đề xuất này đã được đưa ra nhưng bị bác bỏ. Nhưng ông tin vào tác dụng tích cực của qui định này, nên ông buộc phải nêu lại. Bộ máy tư pháp cần có cơ hội khuyên can và ngăn chặn sự tiếm quyền của dân chúng cũng như của Quốc hội. Các thẩm phán sẽ là những người giải thích Hiến pháp nên phải có trách nhiệm bảo vệ nó.

Cách thiết lập tòa án hiện nay cho phép cơ quan này có quyền lực lớn, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Luật pháp có thể không công bằng, có thể không khôn ngoan, có thể nguy hiểm, có thể mang tính phá hoại, nên sẽ không sáng suốt nếu không trao cho các thẩm phán quyền phủ quyết. Hãy để họ cùng chia sẻ quyền phủ quyết các đạo luật với Tổng thống. Họ sẽ phân tích những bộ luật và sẽ sử dụng quyền lực của mình chống lại những quan điểm sai trái của cơ quan lập pháp.

Ngài MADISON: Ủng hộ quan điểm này.

Ngài GORHAM: Không thấy lợi ích nào trong việc trao cho các thẩm phán quyền phủ quyết. Bới các thẩm phán không sở hữu những kiến thức đặc biệt nào về các chính sách của xã hội nên việc trao cho họ quyền giám sát hợp hiến là không cần thiết. Các quan tòa ở Anh không có quyền nào như vậy, nhưng sự phán xét của họ cũng không hề bị nhầm lẫn. Tốt nhất là chỉ cho phép Tổng thống mới có quyền phủ quyết và cho Tổng thống quyền triệu tập các thẩm phán để tư vấn.

Ngài ELLSWORTH: Rất tán thành đề xuất của Ngài Wilson. Trao thêm quyền phủ quyết cho các thẩm phán sẽ làm tăng sự khôn ngoan và vững chắc của nhánh hành pháp bởi họ có kiến thức hệ thống và chính xác về luật pháp, điều mà Tổng thống không thể có được. Luật pháp quốc gia thường xuyên bị nghi ngờ và chất vấn nên chỉ các thẩm phán mới có được các thông tin và kiến thức đầy đủ nhất về vấn đề này.

Ngài MADISON: Coi đây là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với bản Hiến pháp. Sẽ có ích nếu trao thêm cho nhánh tư pháp quyền tự vệ, chống lại sự lạm quyền của cơ quan lập pháp. Điều này cũng có ích cho nhánh hành pháp, vì cơ quan này sẽ có thêm niềm tin và sự vững chắc trong việc thi hành quyền phủ quyết. Nhờ sự trợ giúp có giá trị đó, cơ quan lập pháp cũng có lợi vì qui định này sẽ duy trì được sự kiên định, tính chính xác, sự minh bạch cho các đạo luật, chống lại những ý muốn và hành động bất thường của nền Cộng hòa.

Điều này cũng có ích cho toàn cộng đồng vì đó là biện pháp kiểm tra cần thiết chống lại những đạo luật bất công và xấu xa hiện gây rất nhiều tai họa cho chúng ta. Nếu đề xuất này bị chống đối thì sẽ phải trao thêm nhiều quyền lực hoặc cho Tổng thống, hoặc cho Tòa án. Ông không nghĩ rằng ý kiến này là hợp lý. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng dù có sự hợp tác giữa hai nhánh chính quyền này, thì cơ quan lập pháp vẫn sẽ áp đảo họ.
 
Tranh luận về quyền phủ quyết của tòa án và cách bầu chọn thẩm phán (tiếp theo)​


Thực tế ở mọi tiểu bang đều khẳng định cơ quan lập pháp đều có xu hướng muốn giành mọi quyền lực vào tay mình. Đó là mối nguy hiểm thật sự cho bản Hiến pháp Liên bang.

Vì thế, việc trao mọi thẩm quyền tự vệ cho các nhánh chính quyền khác là hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc cộng hòa.

Ngài MASON: Rất tán thành quan điểm này. Qui định này sẽ làm Tổng thống có thêm niềm tin. Nếu không, quyền phủ quyết của Tổng thống sẽ có ít ý nghĩa.

Ngài GERRY: Mục đích của quyền phủ quyết là giúp Tổng thống có cơ hội chống lại sự lạm quyền của Quốc hội. Do Tổng thống là người hiểu biết nhất và sẵn sàng nhất bảo vệ quyền lợi của mình, nên chỉ riêng Tổng thống có quyền này là đủ. Ông phản đối mạnh mẽ việc trao cho tòa án quyền này, bởi đó là sự kết hợp của nhánh lập pháp với một nhánh chính quyền khác.

Qui định này sẽ thiết lập sự hợp tác không chính đáng giữa nhánh hành pháp và tư pháp, và làm cho các thẩm phán trở thành chính khách và là người bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Những nghị sĩ đại diện cho dân chúng mới chính là những người bảo vệ quyền và lợi ích của người dân.

Việc biến những thẩm phán thành những nhà làm luật là không thể được. Phương pháp chỉnh sửa luật pháp tốt nhất là biện pháp đang được tiểu bang Pennsylvania tiến hành: bổ nhiệm một hay một vài người có trình độ và kiến thức để soạn thảo các đạo luật cho cơ quan lập pháp.

Ngài STRONG: Cũng nghĩ như Ngài Gerry rằng nguyên tắc đúng đắn nhất là quyền làm luật phải tách riêng với quyền giải thích luật. Các thẩm phán, khi làm người giải thích luật, vẫn có thể chịu ảnh hưởng bởi phe phái của mình và sẽ chịu ảnh hưởng này trong việc làm luật.

Ngài G. MORRIS: Cần phải có những kiểm soát cần thiết đối với cơ quan lập pháp, nhưng vấn đề là cần trao chúng vào tay ai. Một mặt, nhiều quý ngài cho rằng chỉ trao quyền này cho riêng Tổng thống. Nhưng một Tổng thống được bổ nhiệm trong một nhiệm kỳ nhiều năm và không bị luận tội không thể là sự kiểm soát hiệu quả. Mặt khác, ông cũng muốn tăng cường sức mạnh của nhánh tư pháp.

Lập luận ủng hộ quan điểm những người giải thích luật không thể là những người làm luật được rút ra từ hệ thống chính quyền Anh. Nhưng sự thực là các thẩm phán ở Anh tham gia rất nhiều vào quá trình lập pháp. Họ được tư vấn trong nhiều trường hợp phức tạp. Các thẩm phán có thể là thành viên của Nghị viện, hay thành viên của Hội đồng Cơ mật và có thể khuyên can Thủ tướng Anh. Ảnh hưởng của các thẩm phán Anh đối với Nghị viện Anh trong việc tăng cường sự kiểm soát của bộ máy hành pháp không lớn bởi Vua Anh có quyền quyết định cuối cùng đối với mọi bộ luật.

Sự khác biệt giữa hai trường hợp này làm cho không thể áp dụng mọi lý giải của mô hình Anh với bản Hiến pháp Mỹ. Bộ máy hành pháp Anh có những lợi ích và đặc quyền rất lớn và có những biện pháp rất mạnh để tự vệ, nên chúng ta đừng làm theo mô hình này. Lợi ích của bộ máy hành pháp chúng ta nhỏ bé và tạm thời với những biện pháp tự vệ rất yếu nên ông sợ Tổng thống sẽ không đủ uy quyền và sức mạnh chống lại sự lạm quyền đó mà sự vững chắc và sức mạnh của bộ máy tư pháp cũng không đủ để bù đắp những thiếu hụt đó. Tự do của dân chúng sẽ nguy hiểm bởi sự tiếm quyền của cơ quan lập pháp hơn là bởi những nhánh chính quyền khác.

Ngoài ra, cơ quan lập pháp cũng được coi như những người bảo vệ tự do. Câu trả lời rất đơn giản và rõ ràng. Nếu các đạo luật tốt được ban hành thì không cần kiểm soát, nhưng nếu các đạo luật xấu được ban hành, thì cần sự kiểm soát mạnh và đó là trường hợp này. Việc ban hành tiền giấy làm dân chúng hoan hỉ vì nó làm giảm nhẹ các khoản nợ nần nên được dân chúng tán thành, nhưng qui định đó cần phải được ngăn chặn.
 
Tranh luận về quyền phủ quyết của tòa án và cách bầu chọn thẩm phán (tiếp theo)​


Vào những thời điểm khác, lợi ích của các cơ quan lập pháp thường giống với lợi ích của dân chúng nên các đạo luật như vậy sẽ dễ dàng được ban hành.

Thực tế đã dạy chúng ta rằng báo chí thực sự là một công cụ chống lại mọi tội ác, nhưng không đủ khả năng ngăn chặn chúng.

Ngài L. MARTIN: Coi việc kết hợp tòa án và Tổng thống có chung quyền phủ quyết là một cải cách sai lầm và nguy hiểm vì không đưa lại ý nghĩa tích cực nào. Kiến thức về các hoạt động lập pháp không thể coi là thuộc về lĩnh vực chuyên tâm của tòa án hơn là của Quốc hội vì tòa án chỉ thích hợp trong việc xác định tính hợp hiến của các đạo luật.

Với chức năng này, họ có quyền phủ quyết đạo luật. Việc kết hợp với nhánh hành pháp sẽ làm cho họ có một quyền phủ quyết kép. Điều cần thiết là Tòa án Tối cao phải được dân chúng tin tưởng. Điều này sẽ nhanh chóng mất đi nếu trao cho họ quyền can gián và ngăn cản các đạo luật được lòng dân của cơ quan lập pháp. Ngoài ra, đâu là tỷ lệ và hình thức bỏ phiếu của họ trong Hội đồng phủ quyết?

Ngài MADISON: Việc trao quyền phủ quyết và kiểm soát cơ quan lập pháp cho các thẩm phán không vi phạm các nguyên tắc phân quyền. Ngược lại, đó là sự cẩn trọng bổ sung theo đúng nguyên tắc này. Nếu sự phán xét sáng suốt hợp hiến của mọi nhánh chính quyền trên lý thuyết là đủ an toàn chống lại sự lạm quyền của các nhánh khác thì không cần những sự đề phòng tiếp theo.

Nhưng thực tế dạy chúng ta không nên tin tưởng vào sự bảo vệ đó mà cần phải tạo ra sự cân bằng giữa các quyền lực và các lợi ích. Nhưng đó cũng chỉ là sự đảm bảo trên lý thuyết. Do đó, ngoài việc áp dụng đúng lý thuyết mỗi nhánh chính quyền cần tách biệt, cũng cần phải bổ sung thêm sự kiểm soát khác nữa để duy trì lý thuyết đó trên thực tế.

Việc kết hợp như vậy không làm pha trộn các nhánh chính quyền. Chúng ta dựng ra những rào cản có hiệu quả để giữ họ tách biệt nhau. Minh họa điển hình nhất theo lý thuyết này là thể chế của nước Anh. Sự thực là các thẩm phán Anh có ghế trong cơ quan lập pháp và trong cả Hội đồng Hành pháp. Họ nhận được mọi dự luật trước khi ban hành. Thể chế Anh qui định nhánh hành pháp có quyền phủ quyết mọi đạo luật. Nhưng thể chế Anh cũng được tính toán để duy trì sự cân bằng của toàn thể chính quyền.

Những phản đối chống lại việc trao cho nhánh hành pháp và tư pháp cùng nắm quyền phủ quyết các đạo luật không hề có nền tảng vững chắc và cũng không phân tích kỹ càng. Nếu sự kết hợp như vậy là sự pha trộn không đúng đắn các quyền lực, hay quyền kiểm tra tư pháp đối với các đạo luật là mẫu thuẫn với lý thuyết về một bản Hiến pháp tự do, thì cũng cần phải coi bất cứ sự can thiệp nào của nhánh hành pháp vào quá trình ban hành luật, như các quý ngài đã phê chuẩn, cũng vi phạm lý thuyết này.

Đại tá MASON: Việc bảo vệ nhánh hành pháp không phải là mục đích duy nhất của quyền phủ quyết mà quyền này còn mang lại nhiều lợi ích hơn nữa. Mặc dù bản Hiến pháp đã có những qui định cẩn trọng về cơ quan lập pháp, thì cũng giống như các cơ quan lập pháp tiểu bang, Quốc hội Liên bang có thể thông qua nhiều đạo luật bất công và sai trái, nên cần phải bị kiềm chế.

Quyền can thiệp của Tòa án không chỉ cản trở việc phê chuẩn cuối cùng đối với các đạo luật mà còn cảnh báo những kẻ mị dân đang âm mưu ban hành những đạo luật này. Ngài L. Martin cũng nói rằng nếu các thẩm phán tham gia vào việc kiểm soát các đạo luật, họ sẽ có quyền phủ quyết kép, bởi với tư cách là thẩm phán, họ cũng đã có một quyền phủ quyết rồi. Nhưng năng lực đó chỉ giúp họ ngăn cản trong một trường hợp mà thôi. Đó là trong quá trình thi hành các đạo luật.
 
Tranh luận về quyền phủ quyết của tòa án và cách bầu chọn thẩm phán (tiếp theo)​


Họ có thể tuyên bố một đạo luật nào đó là trái Hiến pháp và là vô hiệu. Nhưng đối với mọi đạo luật bị thi hành sai trái và bất công, thì không thuộc phạm vi quyền hạn của họ.

Ông muốn trao thêm quyền cho các thẩm phán, cho phép họ tham gia ngăn cản việc ban hành những đạo luật sai trái. Sự trợ giúp của họ càng có giá trị vì họ rất hiểu luật pháp và rất hiểu hậu quả của những đạo luật này.

Ngài WILSON: Việc phân chia các nhánh chính quyền không có nghĩa là các nhánh này phải có các mục đích khác nhau mà là họ hành động riêng rẽ với cùng một mục đích. Vì thế, việc hai Viện của Quốc hội hoạt động riêng rẽ là cần thiết, nhưng đều hoạt động vì một mục đích chung.

Ngài GERRY: Thà trao cho Tổng thống quyền phủ quyết tuyệt đối còn hơn là sự pha trộn như vậy giữa bộ máy tư pháp và hành pháp. Qui định này sẽ làm cho họ thiết lập liên minh chống lại cơ quan lập pháp và làm cho cơ quan lập pháp khó khăn trong cuộc tranh cãi với hai cơ quan này.

Ngài G. MORRIS: Rất ngạc nhiên khi thấy bất kỳ điều khoản nào bảo đảm sự tách biệt có hiệu quả các cơ quan chính quyền đều bị coi là sự pha trộn không đúng đắn. Giả sử trao cho ba người ba quyền lực khác nhau, với thỏa thuận giữa họ là một người có quyền làm luật, một người có quyền thi hành và người kia có quyền phán xét. Vậy bản chất của việc này không phải là hai người sau, ít nhất theo lý thuyết, cũng hình thành một liên minh giám sát và theo dõi người đầu tiên phải thi hành đúng đắn nghĩa vụ của mình.

Với quyền lực của mình, hai cơ quan kia có thể dễ dàng hình thành một sự đảm bảo chống lại các hành động sai trái của cơ quan lập pháp. Vì thế, hai cơ quan kia phải được trang bị quyền phủ quyết để tự bảo vệ mình, hay ít nhất cũng phải có cơ hội tuyên bố những lý lẽ của mình chống lại những hành động vi phạm của cơ quan thứ ba. Chẳng ai nói rằng việc ba người hàng xóm có ba mảnh ruộng riêng rẽ, mỗi người có quyền bảo vệ mảnh đất của mình, chống lại những người hàng xóm khác, sẽ có xu hướng kết hợp cả ba mảnh ruộng này.

Ngài GHORUM: Mọi người đều đồng ý cần có sự kiểm soát cơ quan lập pháp. Nhưng có hai lý lẽ phản đối việc cho phép các thẩm phán tham gia vào sự kiểm soát này và khó lòng trả lời được những phản đối này. Thứ nhất, các thẩm phán vừa giải thích lại vừa tham gia soạn thảo các đạo luật. Thứ hai, vì số lượng các thẩm phán sẽ đông đảo hơn, nên quyền phủ quyết của Tổng thống sẽ hoàn toàn tuột khỏi tay của Tổng thống, nên thay cho việc tự bảo vệ mình, quyền này sẽ làm các thẩm phán sẵn sàng bán rẻ Tổng thống.

Ngài WILSON: Những ý kiến của Ngài Ghorum đã đưa ra lập luận bác bỏ lại chính nó. Theo như Ngài Gerry, quyền này sẽ làm nhánh hành pháp và tư pháp thống nhất thành một liên minh chống lại cơ quan lập pháp. Theo Ngài Ghorum, quyền này sẽ dẫn tới sự vượt trội của nhánh tư pháp đối với nhánh hành pháp. Câu trả lời đối với Ngài Gerry là quyền lực hợp nhất của hai cơ quan này là cần thiết để đối trọng với cơ quan lập pháp.

Đối với lập luận phản đối đầu tiên của Ngài Ghorum, có thể thấy rằng quyền soạn thảo sẽ tự kết hợp với quyền giải thích và ưu điểm thu được lớn hơn nhiều những nhược điểm gặp phải. Đối với phản đối thứ hai, chỉ cần bổ sung một qui định tỷ lệ hay cách thức bỏ phiếu sẽ đảm bảo không xảy ra sự áp đảo nhờ số lượng của các thẩm phán đối với Tổng thống.

Ngài RUTLIDGE: Các thẩm phán là những người không phù hợp nhất với quyền phủ quyết. Các thẩm phán sẽ không bao giờ đưa ra ý kiến của mình về một đạo luật cho đến khi có vụ kiện xảy ra. Ông cho rằng quyền phủ quyết đó không cần thiết phải trao cho các thẩm phán. Tổng thống có thể nhận lời khuyên từ các quan chức nhà nước, như Bộ Chiến tranh, Bộ Tài chính… Những thông tin và ý kiến của họ rất có ích cho Tổng thống.

Đề xuất của Ngài Wilson cho tòa án tham gia quyền phủ quyết bị Hội nghị bỏ phiếu bác bỏ:

MA: phản đối; CT: đồng ý; NJ: không có mặt; PA: chia rẽ; DE: phản đối; MD: đồng ý; VA: đồng ý; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: chia rẽ.

Đề xuất trao cho Tổng thống giữ quyền phủ quyết tuyệt đối được toàn Hội nghị thông qua.

Đề xuất bị hoãn lại của Ngài Madison vào ngày 18 tháng Bảy rằng: "các thẩm phán sẽ do Tổng thống bổ nhiệm, trừ phi bị 2/3 số thành viên của Thượng viện bác bỏ" được đưa ra thảo luận.

Ngài MADISON: Các lý do cho quan điểm của ông là:

1. Điều này sẽ đảm bảo trách nhiệm của Tổng thống, người nói chung có khả năng và thích hợp chọn ra những cá nhân đúng đắn hơn cơ quan lập pháp, thậm chí, kể cả Thượng viện, bởi cơ quan này thường che giấu động cơ ích kỷ của họ trong việc bổ nhiệm.

2. Trong trường hợp sự lựa chọn của Tổng thống rõ ràng là sai lầm và người được đề cử có tư cách kém cỏi, thì 2/3 Thượng viện có quyền phủ quyết sự bổ nhiệm này.

3. Vì mọi tiểu bang đều có quyền bỏ phiếu bình đẳng tại Thượng viện, nên nguyên tắc thỏa hiệp, rất thích hợp trong nhiều trường hợp khác, thì lần này cũng đòi phải có sự nhất trí của cả hai thẩm quyền: một thẩm quyền đại diện cho dân chúng, một thẩm quyền đại diện cho các tiểu bang.

Nếu chỉ Thượng viện có quyền chọn lựa thì các thẩm phán có thể được bổ nhiệm bởi thiểu số dân chúng dù bởi đa số các tiểu bang, nên sẽ không công bằng vì công việc của thẩm phán liên quan đến dân chúng, chứ không liên quan đến các tiểu bang. Hơn nữa, qui định này sẽ ném quyền bổ nhiệm hoàn toàn vào tay các bang miền Bắc, gây sự đố kỵ và sự bất bình nặng nề cho các bang miền Nam.

Ngài PINCKNEY: Ủng hộ việc giao toàn quyền bổ nhiệm cho Thượng viện. Tổng thống không đủ khả năng đánh giá các cá nhân và cũng không được dân chúng tuyệt đối tin tưởng.

Ngài RANDOLPH: Ưa thích mô hình bổ nhiệm trước đây của Ngài Gorham, như đã được chấp thuận trong bản Hiến pháp của Massachusetts. Tổng thống có trách nhiệm bổ nhiệm những người thích hợp. Sự bổ nhiệm bởi cơ quan lập pháp thường gây ra nhiều mưu đồ. Quan điểm cá nhân hay những động cơ là điều được xét, chứ không phải là phẩm chất và tư cách của ứng cử viên. Những nhược điểm tương tự sẽ tăng tương ứng theo số lượng người tham gia việc bổ nhiệm, dù là Viện nào trong cơ quan lập pháp hay bất cứ nhóm người nào.

Ngài ELLSWORTH: Đề nghị Thượng viện sẽ bổ nhiệm và Tổng thống có quyền phủ quyết việc bổ nhiệm này, nhưng quyền phủ quyết của Tổng thống sẽ không có hiệu lực nếu 2/3 Thượng nghị sĩ vẫn phê chuẩn việc bổ nhiệm. Nhưng cách tốt nhất là trao quyền bổ nhiệm tuyệt đối cho Thượng viện.
 
Tranh luận về quyền phủ quyết của tòa án và cách bầu chọn thẩm phán (tiếp theo)​


Dân chúng sẽ nhìn Tổng thống với con mắt đố kỵ và nghi ngờ. Dân chúng sẽ phản đối mọi quyền lực không cần thiết được trao cho Tổng thống, bởi điều này chỉ làm tăng ảnh hưởng của ông ta.

Vì Tổng thống chỉ làm việc ở một nơi, nên ông ta không đủ thông tin để đánh giá các cá nhân. Tổng thống dễ bị lừa phỉnh và nhiều mưu đồ hơn cả Thượng viện. Quyền của Tổng thống được bác bỏ sự bổ nhiệm của Thượng viện chỉ là hình thức bởi sự đề xuất của ông ta trong bối cảnh như vậy cũng chẳng khác gì sự bổ nhiệm.

Ngài G. MORRIS: Tán thành quan điểm này vì:

1. Các tiểu bang, với khả năng hợp tác của mình, thường xuyên có mối lợi ích trong những phán quyết của Tòa án. Nếu trao cho Thượng viện quyền bổ nhiệm thẩm phán, các thẩm phán sẽ phụ thuộc vào Thượng viện, tức là phụ thuộc vào các tiểu bang.

2. Nói rằng Tổng thống không có thông tin đầy đủ về các ứng cử viên là không đúng mà ngược lại, Thượng viện mới không có đủ thông tin. Họ đánh giá những ứng cử viên thông qua lời lẽ ngọt ngào của những người bạn họ. Vì Tổng thống thường trao đổi và làm việc với tất cả mọi vùng đất của nước Mỹ nên sẽ có thông tin tốt nhất.

3. Các Ngài nói Tổng thống cũng có mối hiềm khích và ghen tị. Nếu Tổng thống được tin tưởng để trao quyền chỉ huy quân đội, thì chẳng có lý do nào cho sự hiềm khích trong trường hợp này.

Ông nói thêm, nếu việc trao cho cơ quan lập pháp quyền bổ nhiệm Tổng thống bị phản đối kịch liệt thì việc cho phép cơ quan lập pháp hay Thượng viện có quyền bổ nhiệm thẩm phán cũng phải bị phản đối không kém.

Ngài GERRY: Việc bổ nhiệm thẩm phán cũng giống như mọi điểm khác của bản hiến pháp phải làm hài lòng cả công chúng và các tiểu bang, nhưng mô hình được đề xuất này chẳng làm hài lòng dân chúng, mà cũng chẳng làm hài lòng các tiểu bang. Ông tin chắc rằng Tổng thống không thể có đầy đủ thông tin về mọi vùng đất của đất nước như Thượng viện. Ông cũng phản đối kịch liệt việc đòi hỏi phải có 2/3 Thượng viện để bác bỏ sự bổ nhiệm của Tổng thống. Thượng viện được thiết lập giống như Quốc hội Hợp bang và những bổ nhiệm này của Quốc hội nói chung là tốt.

Ngài MADISON: Ông không nhất định đòi phải có 2/3 Thượng viện để phủ quyết sự bổ nhiệm của Tổng thống mà chỉ muốn thay đổi một chút cách thức đã bị bác bỏ. Ông đồng ý giảm bớt đòi hỏi này bằng việc chỉ cần đa số (quá nửa) là đủ quyền phủ quyết.

Đại tá MASON: Ông khác quan điểm và cách lý giải về vấn đề này. Bất kể việc bổ nhiệm thẩm phán thế nào thì cũng chỉ có hai hình thức, hoặc là Tổng thống hoặc là Thượng viện. Hội nghị dường như nghiêng về phía trao cho Tổng thống quyền này. Nhưng ông coi việc bổ nhiệm bởi Tổng thống là một sai lầm nguy hiểm. Bởi thậm chí, điều này còn làm tăng ảnh hưởng của Tổng thống đối với tòa án. Sự khác biệt lợi ích giữa các bang miền Bắc và miền Nam không thể sử dụng trong tranh luận này. Sự khác biệt này đòi hỏi sự cẩn trọng trong các đạo luật hàng hải, thương mại và nhập khẩu, nhưng ông không thấy vấn đề này liên quan gì đến nhánh tư pháp.

Về đề xuất rằng: Tổng thống sẽ đề cử thẩm phán và sự đề cử này sẽ trở thành sự bổ nhiệm trừ phi bị Thượng viện bác bỏ với 2/3 số phiếu:

MA: đồng ý; CT: phản đối; PA: đồng ý; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: đồng ý; NC: phản đối; SC: phản đối; GA: phản đối. (3 bang đồng ý; 6 bang phản đối)

Về điều khoản thẩm phán sẽ do Thượng viện bổ nhiệm: 6 bang đồng ý; 3 bang phản đối.

MA: phản đối; CT: đồng ý; PA: phản đối; DE: đồng ý; MD: đồng ý; VA: phản đối; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý;

Hội nghị dừng họp tại đây.

Tuy nhiên, sau này, khi bản phác thảo Hiến pháp được hoàn thiện và đưa ra tranh luận, thì Hội nghị lại tán thành cho phép Tổng thống có quyền bổ nhiệm thẩm phán, nhưng cần sự phê chuẩn của Thượng viện.
 
Bầu chọn, nhiệm kỳ và sự tái cử của Tổng thống​


Ngày 24 và 25 tháng Bảy​


Cách thức bầu chọn và nhiệm kỳ của Tổng thống là một điểm quan trọng của bản Hiến pháp Mỹ. Mọi đại biểu đều lo lắng và mong muốn tìm ra được giải pháp tối ưu để chọn được một Tổng thống có tư cách đạo đức tốt, không phụ thuộc vào những mưu đồ của những phe phái khác, cũng như không phụ thuộc vào các thế lực nước ngoài, như sau này vẫn xảy ra ở nhiều quốc gia khác.

Cũng như hiện nay, việc bầu chọn nguyên thủ quốc gia của rất nhiều nước chịu sức ép của chính nước Mỹ, điều mà khi đó, các đại biểu đều lo ngại. Giải pháp bầu cử bởi những đại cử tri là sự thỏa hiệp và sáng kiến của Hội nghị nhằm vừa có những cử tri có chất lượng, vừa bầu chọn theo tỷ lệ của các tiểu bang, lại không làm cho Tổng thống phụ thuộc vào Quốc hội.

Đôi khi có cảm tưởng rằng các đại biểu đã quá cẩn thận khi tính đến mọi chuyện có thể xảy ra, nhưng thực tế lại cho thấy, sự lựa chọn của họ là rất sáng suốt và mọi thảo luận kỹ lưỡng này đều là nhằm giảm tối đa bất cứ nguy cơ nào có thể phát sinh.

Qui định "Tổng thống được các đại cử tri bầu chọn" được đưa ra xem xét.

Ngài HOUSTON: Đề xuất Tổng thống sẽ được "cơ quan lập pháp quốc gia" bổ nhiệm thay cho "việc các đại cử tri được các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn lựa, để bầu Tổng thống". Ông cho rằng không thể tập hợp được những đại cử tri ở những vùng quá xa xôi của đất nước.

Ngài SPAIGHT: Ủng hộ đề xuất này.

Ngài GERRY: Phản đối đề xuất đó vì không thấy những khó khăn nào như Ngài Houston nói. Việc bầu chọn Tổng thống cần phải được coi là quan trọng đặc biệt vì chức vụ này kích động lòng khao khát mãnh liệt của nhiều người muốn đạt chức vụ này. Nếu quan điểm này được đồng ý, cần phải để Tổng thống không thể được tái cử để ông ta độc lập với cơ quan lập pháp, vì sự phụ thuộc sẽ ảnh hưởng vô cùng xấu xa đến cách suy nghĩ và hành động của ông ta.

Ngài STRONG: Cho rằng qui định không cho Tổng thống được tái cử là điều không cần thiết. Nếu Tổng thống được cơ quan lập pháp bổ nhiệm, thì đến khi cuộc bầu cử Tổng thống lần thứ hai diễn ra, các đại biểu tại cơ quan lập pháp cũng đã được bầu lại rồi. Vì thế, những người bầu chọn Tổng thống lần thứ hai, không phải là những người đã bầu ông ta lần thứ nhất.

Có Ngài nói là lòng biết ơn của Tổng thống vì được bầu chọn lần thứ nhất cũng làm cho ông ta phụ thuộc vào cơ quan lập pháp trong cuộc bầu cử lần thứ hai. Ông lại nghĩ rất khác. Ngoài ra, lý do phản đối việc để những đại cử tri bầu chọn là vì những người này cũng sẽ được Tổng thống mang ơn huệ như là đối với cơ quan lập pháp. Điều rất quan trọng là đừng để chính quyền trở nên quá phức tạp với việc tham gia của những đại cử tri.

Ngài WILLIAMSON: Mô hình ban đầu là Tổng thống có nhiệm kỳ bảy năm và không được tái cử. Những đại cử tri của các tiểu bang chắc chắn không phải là những người khôn ngoan nhất. Nên tốt hơn là trao quyền bầu chọn đó cho Thượng viện hoặc Hạ viện. Ông cũng không tán thành sự đơn nhất trong bộ máy hành pháp. Ông muốn quyền hành pháp sẽ trao cho ba người từ ba vùng lãnh thổ.

Vì Tổng thống có quyền phủ quyết các đạo luật và có những khác biệt cơ bản về lợi ích giữa các tiểu bang miền Bắc với các bang miền Nam, đặc biệt là lĩnh vực thương mại. Do vậy, quyền này rất nguy hiểm đối với những vùng kia nếu Tổng thống chỉ là một người từ một vùng lãnh thổ của liên minh. Bộ máy hành pháp của chúng ta rất khác với chính quyền của Anh, bởi cả nước Anh có cùng một lợi ích. Một lý do khác là nếu bầu một người, Tổng thống sẽ trở thành một dạng Vua được bầu và sẽ có tư tưởng độc tôn.

Tổng thống sẽ không chịu sự kiềm chế nào và sẽ tìm cách dọn đường cho con cháu mình lên kế nhiệm. Ông nghĩ chắn chắc đến một lúc nào đó, nước Mỹ sẽ cần có một vị Vua. Nhưng ông muốn phòng ngừa để trì hoãn việc này càng lâu càng tốt. Không được tái cử là điều đề phòng tốt nhất. Với sự đề phòng này, nhiệm kỳ dài trên bảy năm cũng không có gì đáng sợ, thậm chí, nhiệm kỳ có thể lên tới 10, hay 12 năm...

Ngài GERRY: Đề nghị các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ bỏ phiếu bầu Tổng thống theo tỷ lệ giống như việc bầu cử của các đại cử tri. Trong trường hợp không ai đủ đa số phiếu, Hạ viện sẽ chọn hai trong số bốn ứng cử viên có nhiều phiếu nhất, còn Thượng viện chọn Tổng thống trong số hai người này.

Kết quả cuộc bỏ phiếu về đề xuất của Ngài Houston rằng cơ quan lập pháp quốc gia sẽ bầu chọn Tổng thống:

NH: đồng ý; MA: đồng ý; CT: phản đối; NJ: đồng ý; PA: phản đối; DE: đồng ý; MD: phản đối; VA: phản đối; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý; (7 bang đồng ý; 4 bang phản đối, tiểu bang New York khi này không còn đại biểu nào tham dự)

Ngài GERRY: Tổng thống nhất thiết phải độc lập với Quốc hội. Nhiệm kỳ càng dài, càng ít phụ thuộc. Tốt hơn là để Tổng thống có nhiệm kỳ dài, 10, 15 hay thậm chí 20 năm và không được tái cử.

Ngài L. MARTIN: Đề xuất viết là "sự bổ nhiệm Tổng thống sẽ có hiệu lực trong 11 năm".

Ngài GERRY: Gợi ý là 15 năm.

Ngài KING: Đề xuất là 20 năm. Đó là thời gian cầm quyền trung bình của một nhà vua.

Ngài DAVIE: Đề nghị tám năm.

Ngài WILSON: Những khó khăn và phức tạp mà Hội nghị gặp phải là vì qui định Tổng thống sẽ do cơ quan lập pháp bầu chọn. Sự bất lợi của mô hình này buộc ông phải đồng ý với bất kỳ nhiệm kỳ dài nào để loại bỏ sự phụ thuộc của Tổng thống vào Quốc hội do cách bầu chọn này gây ra. Ông tin rằng nhiệm kỳ dài nhất cũng không đáp ứng được yêu cầu, trừ phi Tổng thống có một nhiệm kỳ suốt đời với tư cách đạo đức tốt. Dường như mọi người cho rằng sau khi giữ chức vụ một thời gian nào đó, viên chức sẽ bớt lòng nhiệt tình và hăng hái phụng sự công chúng.

Nhưng kinh nghiệm đã cho thấy nhiều tấm gương vẫn đủ năng lực và lòng hăng hái, dù đã rất nhiều tuổi, như viên Tổng trấn Venice được bầu chọn khi đã ngoài 80 tuổi. Dù các Giáo hoàng thường được chọn khi đã khá già, nhưng không ở đâu có sự vững chắc và được điều hành tốt như Giáo Hội La Mã.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top