Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào ?

Bầu chọn, nhiệm kỳ và sự tái cử của Tổng thống (tiếp theo)​


Ngày 24 và 25 tháng Bảy​


Nếu Tổng thống nhậm chức khi chừng 35 tuổi và giả sử ông ta được bầu với nhiệm kỳ 15 năm, thì tại tuổi 50 mới chính là giai đoạn sung sức và có năng lực nhất của cuộc đời.

Nhưng lúc này, khi tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm, thì ông ta chắc chắn lại bị bỏ đi, giống như một kẻ vô dụng. Sự mất mát không thể bù đắp được khi pháp luật nước Anh qui định rằng 50 tuổi là giới hạn tối đa của năng lực và khả năng phục vụ công chúng. Một nhân vật sáng chói là Bá tước Mansfield giữ chức vụ của mình trong suốt 30 năm sau khi nhậm chức năm 50 tuổi.

Ngài G. MORRIS: Trong mọi mô hình, việc để Quốc hội bầu cử là tồi tệ nhất. Nếu Quốc hội có quyền luận tội, có quyền bổ nhiệm, hay tác động đến việc luận tội, thì Tổng thống chỉ là “kẻ đầy tớ” cho cơ quan này. Ông từng phản đối việc luận tội, nhưng bây giờ tin rằng nếu Tổng thống được bổ nhiệm có kỳ hạn thì việc luận tội là cần thiết. Nếu biết Tổng thống nhận tiền của kẻ thù, thì nhất định ông ta phải bị cách chức. Đại tá Mason từng nói ông là người hay thay đổi, lúc thì nói tin tưởng vào nhánh lập pháp, lúc thì lại không tin cơ quan này.

Sự phê phán đó không có cơ sở. Quốc hội đáng tin cậy ở một số khía cạnh, nhưng một số khía cạnh khác lại không đáng tin. Khi lợi ích của các nghị sĩ trùng với lợi ích của cử tri thì các đạo luật do họ ban hành đều là tốt đẹp và không đáng sợ. Nhưng khi lợi ích cá nhân quá lớn, đi ngược lại lợi ích chung của xã hội thì cơ quan lập pháp lại không còn đáng tin nữa. Mọi nhà nước đều chia thành hai phe phái.

Tổng thống nhất định sẽ thân thiết và gần gũi với phe này hơn phe kia. Do đó, lợi ích cá nhân sẽ khiến một phe ủng hộ Tổng thống, còn phe kia sẽ chống lại. Nhiều người nói về những âm mưu tranh giành chức Tổng thống, nhưng không ai nói đến những âm mưu hạ bệ ông ta. Lãnh tụ của các phe phái luôn thèm khát chiếc ghế đó, nên sẽ tìm cách gây rối sự điều hành của Tổng thống, sẽ bày đặt âm mưu với Quốc hội, cho tới khi hắn ta giành được chức Tổng thống.

Đó chính là cách Vua Anh bị hạ bệ và bị thay thế bởi một ông vua thật sự khác là Thủ tướng. Đó là cách William Pitt tự đặt mình vào vị trí đó. Fox còn đi xa hơn thế. Nếu ông ta thi hành đạo luật Ấn Độ, điều ông ta định làm, ông ta sẽ trở thành Thủ tướng, cũng có quyền lớn như Vua nước Anh. Tổng thống của chúng ta cũng giống như Thủ tướng ở Anh, nhưng lại do cơ quan lập pháp bổ nhiệm.

Nhiều người đã nói về nguy cơ của một nền quân chủ, nhưng bây giờ, nếu một chính quyền tốt không được thiết lập, nếu một nhánh hành pháp hiệu quả không được tạo ra, thì chúng ta sẽ gặp những điều còn tồi tệ hơn cả một nền quân chủ có giới hạn. Để loại bỏ sự phụ thuộc của nhánh hành pháp vào cơ quan lập pháp, chúng ta đã qui định rằng ông ta không được tái cử. Chúng ta cần phải cho Tổng thống có kinh nghiệm và tận dụng được những kinh nghiệm này. Nhưng việc cấm ông ta được tái cử lại khiến chúng ta không sử dụng được những kinh nghiệm đó, dù kéo dài nhiệm kỳ tới 15 năm đi nữa. Liệu ông ta có sẵn lòng từ bỏ chức vụ này không?

Con đường đạt đến mục đích nhờ Hiến pháp đã bị ngăn chặn, nên ông ta sẽ tìm cách dùng đến gươm giáo. Một cuộc nội chiến tất yếu sẽ xảy ra và người chiến thắng, dù thuộc bên nào, cũng sẽ trở thành kẻ chuyên quyền trên mảnh đất này. Suy nghĩ này buộc ông đặc biệt lo ngại chức vụ Tổng thống khó được thiết lập đúng đắn. Những sai trái trong hệ thống như vậy sẽ khó lòng chữa được và nhánh hành pháp là cơ quan khó cân bằng nhất. Nếu thiết lập một Tổng thống yếu, Quốc hội sẽ đè bẹp và lấn át ông ta, nhưng nếu thiết lập một Tổng thống mạnh, ông ta sẽ đè bẹp và lấn át Quốc hội.

Ông tán thành Tổng thống có một nhiệm kỳ ngắn, được quyền tái cử, nhưng theo cách bầu cử khác. Một nhiệm kỳ dài sẽ làm cho mô hình này khó được dân chúng chấp nhận, nhưng cần phải làm như vậy. Ông cho rằng cần phải xem xét rất kỹ lưỡng cách thức bầu cử.

Ngài WILSON: Đề xuất rằng Tổng thống sẽ được chọn cho nhiệm kỳ ______ năm bởi ______ đại cử tri, được chọn bởi cơ quan lập pháp quốc gia".

Ngài GERRY: Điều này rất nguy hiểm. Nếu phiếu bầu lại chọn ra những cử tri tầm thường, thì Tổng thống được bầu cũng tầm thường và sẽ phá hỏng đất nước này. Mọi mô hình bầu cử, nếu liên quan tới cơ quan lập pháp quốc gia, sẽ không thể là mô hình tốt đẹp.

Ngài KING: Đa số dân chúng của cùng một tiểu bang nhất định sẽ bầu chọn Tổng thống là người tiểu bang mình. Chúng ta cần phải được dẫn dắt bởi sự suy xét khôn ngoan chứ không thể trông chờ may rủi. Vì không ai hài lòng nên ông đề nghị hoãn lại vấn đề này.

Ngài WILSON: Nhất định đòi phải để dân chúng bầu chọn Tổng thống.



Ngài ELSEWORTH: Đề xuất "Tổng thống sẽ được cơ quan lập pháp bổ nhiệm", trừ những lần bầu chọn sau này thì sẽ do các đại cử tri chọn ra. Các đại cử tri này lại do các cơ quan lập pháp tiểu bang chọn lựa. Cách này sẽ cho phép Tổng thống được tái cử, nhưng không phụ thuộc vào cơ quan lập pháp.

Ngài GERRY: Mọi cuộc bầu cử do cơ quan lập pháp quốc gia tiến hành đều là hoàn toàn sai lầm và không thể sửa chữa được. Ông đề xuất Tổng thống sẽ do các Thống đốc tiểu bang bổ nhiệm, với sự tư vấn của các Hội đồng lập pháp, hoặc các đại cử tri do các cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn.

Ngài MADISON: Mọi mô hình bầu cử đều vấp phải những trở ngại. Nhưng cuộc bầu cử hoặc phải do một cơ quan nào đó của tiểu bang, hay liên bang tiến hành, hoặc do một thẩm quyền đặc biệt do dân chúng quyết định, hay do chính dân chúng. Hai thẩm quyền khác, hiện đang thiết lập theo bản Hiến pháp này, là Tòa án và Quốc hội, nhưng Tòa án không thể là cơ quan bầu chọn Tổng thống. Còn việc bầu cử do Quốc hội tiến hành cũng gặp những trở ngại không thể vượt qua được. Ngoài ảnh hưởng của Quốc hội đến sự độc lập của Tổng thống thì:

1. Việc bầu chọn người đứng đầu nhà nước chắc chắn sẽ gây chia rẽ và kích động Quốc hội, tới mức lợi ích chung của đất nước cũng sẽ bị tổn thương nghiêm trọng. Mọi viên chức chính quyền đều tham gia vào các cuộc tranh luận, hay cãi vã nên dễ sinh ra bạo lực hơn mọi trường hợp khác.

2. Các ứng cử viên chắc chắn sẽ ngấm ngầm vận động Quốc hội để được phe đa số chọn lựa. Vì thế, Tổng thống sẽ có khuynh hướng trao quyền hành pháp cho phe phái này, hoặc qui thuận theo ý muốn của phe này.

3. Các Ðại sứ của ngoại quốc cũng lợi dụng cơ hội này để gây ảnh hưởng và thi hành nhiều mưu đồ trong cuộc bầu cử này.
 
Bầu chọn, nhiệm kỳ và sự tái cử của Tổng thống (tiếp theo)​


Ngày 24 và 25 tháng Bảy​


Hạn chế quyền lực của nhánh hành pháp là một mục tiêu quan trọng mà các cường quốc của châu Âu từng cai trị nước Mỹ đeo đuổi. Họ muốn người đứng đầu chính quyền của chúng ta là một cá nhân gắn bó với lợi ích và nền chính trị của họ.

Không thể kể hết những mối nguy hiểm, nếu trao cho Quốc hội quyền bầu chọn Tổng thống. Đức và Ba Lan là những ví dụ về mối nguy hiểm này. Tại Đức, việc bầu chọn người đứng đầu Đế chế vẫn theo cách cha truyền con nối, hiện đang phổ biến ở châu Âu, nhưng lại chịu ảnh hưởng rất nhiều của các thế lực ngoại bang. Tại Ba Lan, mặc dù người đứng đầu chính quyền được bầu có rất ít quyền lực, nhưng luôn luôn chịu sức ép và sự can thiệp rất lớn của các thế lực quý tộc nước ngoài. Trên thực tế, việc này hoàn toàn rơi vào tay ngoại bang.

Những cơ quan quyền lực hiện nay của tiểu bang là nghị viện, thống đốc và tòa án tiểu bang. Nhiều người đã phản đối việc các cơ quan lập pháp tiểu bang bổ nhiệm Tổng thống, nhưng ông muốn nói đến một lý do khác. Những cơ quan lập pháp tiểu bang thường phản bội lại sự thịnh vượng chung bằng nhiều mưu đồ xấu xa và tầm thường. Vì thế, một trong những mục đích của Nghị viện Liên bang là kiểm soát xu hướng này.

Quyền phủ quyết mọi đạo luật của Tổng thống chính là nhằm kiểm soát Nghị viện Liên bang, bởi cơ quan này đôi khi cũng rơi vào tình trạng tương tự như các nghị viện tiểu bang. Nếu việc bầu chọn Tổng thống do các cơ quan lập pháp bang tiến hành thì mục đích kiểm soát này không thể thực hiện được. Những cơ quan lập pháp bang sẽ bầu chọn người nào không chống lại họ.

Đa số các cơ quan lập pháp, vào thời gian bầu cử, thường có cùng một mục đích, hay dù có những mục đích khác nhau, nhưng đều cùng một hướng, nên Tổng thống thường phải qui thuận ý muốn của họ. Để các Thống đốc tiểu bang bổ nhiệm Tổng thống cũng bị phản đối vì các Thống đốc tiểu bang cũng âm mưu và thông đồng với các ứng cử viên, với những người theo phe họ và với những thế lực nước ngoài.

Các tòa án tiểu bang cũng không thể là những người bầu chọn đúng đắn được. Sự lựa chọn của chúng ta bây giờ chỉ còn là giữa các đại cử tri, được dân chúng chọn ra, hay trực tiếp từ chính dân chúng. Ông nghĩ giải pháp thứ nhất tránh được những phản đối mà nhiều người đã nói và ưu việt hơn nhiều giải pháp do cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn.

Những đại cử tri được chọn lựa cho mục đích này, sẽ phải gặp nhau và ngay lập tức tiến hành việc bầu chọn, nên có rất ít cơ hội và thời gian cho những mưu mô xấu xa, hay những trò tham nhũng. Cẩn thận hơn nữa, có thể yêu cầu cuộc họp của những đại cử tri này phải tiến hành xa cơ quan chính quyền và thậm chí qui định rằng không một ai trong một phạm vi nhất định nào đó được bầu. Tuy nhiên, giải pháp này mới bị đa số bác bỏ nên có thể sẽ không được đưa ra xem xét.
 
Bầu chọn, nhiệm kỳ và sự tái cử của Tổng thống (tiếp theo)​


Ngày 24 và 25 tháng Bảy​


Giải pháp còn lại là sự bầu cử trực tiếp của dân chúng, hoặc là do một phần dân chúng có chất lượng, ông tán thành giải pháp này nhất, dù có nhiều điểm không hoàn hảo. Nhưng giải pháp này gặp khó khăn rất lớn.

Thứ nhất là dân chúng có khuynh hướng lựa chọn công dân của tiểu bang mình và các tiểu bang nhỏ sẽ phải gánh chịu phần bất lợi này. Cuộc bầu cử Tổng thống có ý nghĩa rất quan trọng, nên không thể bác bỏ mọi giải pháp được đề xuất.

Nếu được điều chỉnh, giải pháp này sẽ bớt bị chống đối hơn. Thứ hai là sự mất cân đối của các cử tri có chất lượng giữa miền Bắc và miền Nam nên miền Nam sẽ phải gánh chịu bất lợi này.

Giải pháp cho vấn đề này sẽ là: (i) Sự khác biệt đó sẽ tiếp tục giảm đi dưới ảnh hưởng của các đạo luật cộng hòa được thi hành ở các tiểu bang miền Nam và sự tăng dân số nhanh chóng của vùng này. (ii) Những lợi ích địa phương phải hy sinh cho những lợi ích quốc gia. Là một công dân của các tiểu bang miền Nam ông sẵn lòng hy sinh vì điều này.

Ngài PINKNEY: Đề xuất giải pháp cơ quan lập pháp sẽ bầu Tổng thống với điều kiện bổ sung là không người nào được bầu chọn nhiều hơn 6 năm trong bất kỳ giai đoạn 12 năm nào. Qui định này sẽ mang lại mọi thuận lợi và một mức độ nào đó, loại bỏ được sự bất lợi, nếu qui định Tổng thống tuyệt đối không được tái cử.

Đại tá MASON: Tán thành ý kiến này. Giải pháp này đã được tiến hành tại một số cuộc bầu cử Quốc hội và Thống đốc tiểu bang. Đồng thời cũng làm cho Tổng thống trở nên độc lập giống như qui định không được tái cử, nhưng lại mở ra triển vọng được phục vụ tiếp trong tương lai. Ông hoàn toàn tán thành việc để Quốc hội có quyền bầu cử, nhưng cũng thú nhận rằng như vậy rất dễ nguy hiểm do ảnh hưởng của nước ngoài và đó là mối nguy hiểm gây tai họa nhất.

Ngài BUTLER: Hai điều xấu xa cần phải tránh là những mưu đồ trong nước và ảnh hưởng của ngoại bang. Nhưng cả hai đều khó tránh nếu việc bầu cử do Quốc hội tiến hành. Giải pháp tốt nhất là việc bầu cử Tổng thống sẽ do các đại cử tri do các cơ quan lập pháp tiểu bang tiến hành. Ông phản đối mọi hình thức tái cử.

Ông cũng phản đối việc phân bổ tỷ lệ phiếu bầu đối với các tiểu bang. Mọi tiểu bang cần phải bình đẳng. Những lập luận về sự cần thiết phiếu bầu theo tỷ lệ dân chúng đối với cơ quan lập pháp không đúng với nhánh hành pháp nữa.

Ngài G. MORRIS: Phản đối mọi việc quay vòng. Vì điều này sẽ hình thành một nhóm chính khách. Những mối nguy hiểm cần ngăn chặn trong trường hợp này là: 1. Ảnh hưởng quá mức của cơ quan lập pháp; 2. Sự bất ổn của các Hội đồng Nhà nước; 3. Những hành vi và tư cách xấu xa.

1. Để ngăn chặn nguy cơ thứ nhất, chúng ta sẽ rơi ngay vào nguy cơ thứ hai. Nếu chúng ta chấp nhận sự quay vòng thì điều này sẽ gây ra sự bất ổn trong các hội đồng quốc gia. Như thể, chẳng khác gì việc "tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa". Con người thay đổi thì các biện pháp cũng bị thay đổi.

Chúng ta thấy điều này được chứng minh qua sự thăng trầm của chính chúng ta, nhất là tại tiểu bang Pennsylvania. Tính tự phụ, tự mãn của phe thắng thế sẽ làm họ khinh thường những điều mà những người tiền nhiệm của họ đã làm. Rehoboam sẽ không thể bắt chước Soloman.

2. Sự quay vòng trong nhánh hành pháp không ngăn chặn được những âm mưu xấu xa và sự phụ thuộc vào nhánh lập pháp. Tổng thống đương nhiệm sẽ trông đợi tới ngày ông ta được quyền tái cử. Mặc dù con người biết cuộc sống của mình có giới hạn, nhưng cứ hành động như thể mình sẽ sống mãi. Tính thiếu hiệu quả của giải pháp này cũng rất rõ ràng.

Nếu Tổng thống không trông đợi đến kỳ được tái cử, chắc chắn ông ta sẽ tìm mọi cách để tham gia Quốc hội. Ông ta sẽ dễ dàng trúng cử vào cơ quan này, sẽ tận dụng cơ hội đó để mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của mình và không dám làm bất cứ điều gì có thể gây tổn hại cho uy tín của ông đối với Quốc hội. Vì thế, ông ta sẽ lại phụ thuộc vào Quốc hội.

3. Để tránh nguy cơ thứ ba, sự luận tội là cần thiết. Nên đây lại là lý do nữa chống lại việc để Quốc hội bầu chọn Tổng thống. Ông coi việc bầu cử Tổng thống do dân chúng tiến hành là giải pháp tốt nhất, do cơ quan lập pháp là giải pháp tồi tệ nhất. Ngoài hai giải pháp này, ông không thể không tán thành một giải pháp pha trộn như Ngài Wilson đề xuất. Nếu cách thức này không loại bỏ được những mưu mô xấu xa và sự phụ thuộc của Tổng thống vào Quốc hội, chí ít cũng giảm bớt đáng kể những mối nguy hiểm này.

Ngài WILLIAMSON: Phản đối việc để cơ quan lập pháp tiến hành cuộc bầu chọn Tổng thống vì điều này mở ra cơ hội can thiệp của các thế lực ngoại bang. Nhưng lý lẽ chủ yếu chống lại việc bầu cử do dân chúng tiến hành là những bất lợi sẽ xảy ra với các bang nhỏ. Cách giải quyết khó khăn này là mỗi cử tri sẽ được chọn ra ba ứng cử viên. Một trong số đó có thể là công dân của tiểu bang quê nhà, còn hai người kia phải thuộc các tiểu bang khác, có thể các bang lớn, cũng có thể là các bang bé.

Ngài G. MORRIS: Rất tán thành ý kiến này, nhưng đề nghị sửa thành một người có thể bầu chọn hai ứng cử viên, trong đó ít nhất một người không thuộc tiểu bang của mình .

Ngài MADISON: Cho rằng điều gợi ý vừa rồi rất có giá trị. Người thứ hai được bầu có thể là người có tư cách tốt nhất. Những vẫn có thể gặp trở ngại do có thể mỗi cử tri bầu chọn người đồng bào của mình sẽ cố tình bầu chọn một người tầm thường nào đó của một tiểu bang khác nhằm đảm bảo chiến thắng cho sự lựa chọn số một của mình.

Nhưng khó lòng cho rằng công dân của nhiều tiểu bang lạc quan về sự bầu chọn của mình nên sẽ phớt lờ sự bầu chọn thứ hai. Hơn nữa, điều này có thể mang lại thuận lợi cho các bang nhỏ, nếu qui định Tổng thống không thể được bầu chọn một số lần nào đó từ cùng một tiểu bang.

Ngài GERRY: Cuộc bầu cử của toàn thể dân chúng là vô cùng nguy hiểm. Sự thiếu hiểu biết của dân chúng sẽ làm cho một nhóm người nào đó vận động trên khắp toàn quốc nhằm lôi kéo dân chúng bầu chọn một kẻ nào đó. Ông thấy rằng một xã hội như vậy chỉ tồn tại trong trật tự của Hội Cincinnati . Họ rất đáng kính, thống nhất và có ảnh hưởng lớn.

Thực tế, họ sẽ quyết định việc bầu chọn Tổng thống trong mọi lần bầu cử nếu quyền bầu cử được trao cho dân chúng. Sự kính trọng của ông đối với những thành viên của hội này không làm ông mù quáng đến mức không nhận ra những mối nguy hiểm và tính không đúng đắn nếu trao quyền lực này vào tay những con người đó.

Ngài DICKENSON: Những tranh luận này cho thấy, những lý lẽ phản đối chủ yếu nhất là đối với mô hình bầu cử do cơ quan lập pháp quốc gia, cũng như do các cơ quan lập pháp tiểu bang và Thống đốc tiểu bang tiến hành. Ông nghiêng dần về giải pháp để dân chúng bầu chọn, đó là cách thức tốt nhất và trong sạch nhất. Ông hiểu rằng những phản đối cách bầu này không lớn như với những cách bầu khác. Khó khăn lớn nhất xuất phát từ sự thiên vị của các tiểu bang đối với công dân của mình.

Nhưng có thể sự thiên vị này sẽ có hiệu quả tốt. Hãy để dân chúng của mỗi tiểu bang bầu chọn công dân tốt nhất của mình. Dân chúng sẽ biết những cá nhân xuất sắc nhất trong tiểu bang của họ và dân chúng của các tiểu bang khác cũng sẽ ganh đua trong việc bầu chọn những cá nhân tốt nhất đáng để họ tự hào. Trong số 13 cá nhân được chọn lựa như vậy, cơ quan lập pháp quốc gia hoặc những đại cử tri sẽ chọn ra Tổng thống.

Đề xuất của Ngài Pinkney rằng không ai được giữ chức Tổng thống nhiều hơn 6 năm trong giai đoạn 12 năm bất kỳ, cũng bị Hội nghị bỏ phiếu bác bỏ.

NH: đồng ý; MA: đồng ý; CT: phản đối; NJ: phản đối; PA: phản đối; DE: phản đối; MD: phản đối; VA: phản đối; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý; (6 bang phản đối, 5 bang đồng ý).
 
Bầu chọn, nhiệm kỳ và sự tái cử của Tổng thống (tiếp theo)​


Ngày 24 và 25 tháng Bảy​


Trong mọi giai đoạn thảo luận liên quan đến Tổng thống, khó khăn lớn nhất là các ý kiến quá đa dạng. Không có mô hình nào được tất cả mọi người hài lòng.

1. Từng có đề xuất rằng cuộc bầu cử phải do toàn thể dân chúng tham gia. Nhưng lại có lý do phản đối rằng một hành động, lẽ ra cần phải được tiến hành do những người hiểu biết nhất về tư cách và phẩm chất của các cá nhân, lại được thực hiện bởi những người ít hiểu biết nhất.

2. Cuộc bầu cử đó phải được cơ quan lập pháp của các tiểu bang tiến hành.

3. Do các Thống đốc tiểu bang, nhưng những mô hình này cũng bị nhiều phản đối.

4. Từng có đề xuất là Tổng thống sẽ do những đại cử tri, những người được dân chúng lựa chọn, bầu ra. Điều này lúc đầu được mọi người đồng ý, nhưng sau những tranh luận chi tiết lại bị bác bỏ.

5. Sau đó, Ngài Williamson đề xuất là mỗi người sẽ được chọn nhiều ứng cử viên. Điều này cũng giống như những đề xuất khác, dù bề ngoài có vẻ hợp lý, nhưng khi xem xét kỹ lại có những sai lầm nguy hiểm. Cuộc bầu cử phổ thông dưới bất kỳ hình thức nào, như Ngài Gerry nhận xét, đều mang lại sự lựa chọn vào tay những người theo hội Cincinnati, một hội có nhiều cá nhân đáng kính. Nhưng ông không bao giờ mong muốn có những ảnh hưởng như vậy trong chính quyền.

6. Ngài Dickenson đề xuất một giải pháp khác, nhưng rất bất tiện và chính bản thân ông cũng nghi ngờ và bác bỏ cách này. Cách này sẽ loại bỏ những người không nổi tiếng trong tiểu bang quê nhà dù nổi tiếng trên toàn quốc.

Sau khi xem xét mọi mô hình, ông kết luận rằng việc để cơ quan lập pháp quốc gia bầu chọn là tốt nhất. Nếu có bị phản đối thì cũng bị phản đối ít hơn những giải pháp khác. Ông cũng tin rằng cùng lúc đó, một cuộc bầu cử thứ hai là tuyệt đối bị ngăn cấm [tức là khi cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra thì sẽ không thể có bất cứ cuộc bầu cử nào khác, dù là của Thượng viện, hay Hạ viện].

Với mục đích cơ bản nhất để đảm bảo tư cách đạo đức của Tổng thống, để duy trì quyền tự do của con người, một điểm rất then chốt là các viên chức cao cấp của nhà nước, nhất là của nhánh hành pháp, sau một thời gian nhất định, phải quay trở về sống với những cử tri để thấu hiểu tâm trạng, tình cảm, lợi ích và quyền lợi của họ. Ông kết luận rằng cần quay lại đề xuất ban đầu "Tổng thống sẽ được bầu với nhiệm kỳ bảy năm và không được tái cử".

Ngài DAVIE: Ủng hộ ý kiến này.

Bác sĩ FRANKLIN: Dường như một vài quý ngài cho rằng việc bầu cử do toàn thể dân chúng tiến hành sẽ làm hạ thấp giá trị của chức Tổng thống, nhưng điều này đi ngược lại các nguyên tắc cộng hòa. Trong mọi chính quyền tự do, những người cai trị chỉ là đầy tớ, còn dân chúng mới là người chủ thật sự. Vì thế, trao cho dân chúng quyền bầu chọn Tổng thống không phải làm hạ thấp mà nâng cao giá trị của chức vụ này.

Về đề xuất của Đại tá Mason: Hội nghị nhất trí với kết quả bỏ phiếu như sau: NH: đồng ý; MA không quyết định. CT: phản đối; NJ: đồng ý; PA: phản đối; DE: phản đối; MD: đồng ý; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý;

Toàn bộ điều khoản nói về Tổng thống được sửa chữa như sau: "nhánh hành pháp quốc gia sẽ được thiết lập, chỉ gồm một người duy nhất, được cơ quan lập pháp quốc gia lựa chọn, với nhiệm kỳ bảy năm, không được bầu lại lần hai, có quyền thi hành mọi đạo luật quốc gia, có quyền bổ nhiệm các viên chức không được Hiến pháp qui định, có thể bị cách chức nếu bị luận tội vì thiếu trách nhiệm hoặc có những hành vi sai trái, được nhận một khoản tiền không thay đổi trong suốt thời gian giữ chức vụ, từ Ngân khố Quốc gia".

Tuy nhiên, tới ngày 4, 5 và 6 tháng Chín, khi bản phác thảo Hiến pháp được làm xong và đem ra tranh luận, sau rất nhiều đắn đo và dựa theo những điều chỉnh của các điều khoản khác, Hội nghị lại quyết định phương pháp bầu chọn Tổng thống theo như cách Madison đã đề xuất. Tức là bầu ra các đại cử tri và những người này mới bầu chọn Tổng thống.…
 
Bản phác thảo Hiến pháp đầu tiên​


Ngày 6 tháng Tám​


Ngày 26 tháng Bảy, sau gần hai tháng thảo luận căng thẳng, cuối cùng, Hội nghị cũng đạt được thỏa thuận tại các điểm chính yếu nhất.

Cùng ngày, các đại biểu bầu ra Ủy ban chi tiết để xây dựng bản dự thảo Hiến pháp trên cơ sở những điều đã được thống nhất, bao gồm 5 người: Nathaniel Gorham; John Rutledge, Chủ tịch Ủy ban này; Edmund Randolph; James Wilson và Oliver Ellsworth.

Sau 10 ngày nghỉ họp để Ủy ban này soạn thảo, ngày 6 tháng Tám, bản phác thảo đầu tiên đã được đệ trình lên Hội nghị. Đây là một văn bản khá rắc rối và dài dòng nếu so sánh với bản Hiến pháp sau này. Suốt một tháng sau đó, các đại biểu đã tranh luận và chỉnh sửa từng câu chữ, từng điều khoản cho tới khi mọi điều được hoàn tất vào ngày 8 tháng Chín.

Ngài RUTLIDGE trình bày bản Báo cáo của Ủy ban chi tiết:

"Chúng tôi, công dân các tiểu bang New Hampshire, Massachussetts, Rhode-Island và các đồn điền quan phòng, Connecticut, New York, New-Jersey, Pennsylvania, Delaware, Maryland, Virginia, Bắc Carolina, Nam Carolina, và Georgia, tuyên bố thiết lập bản Hiến pháp cho chính quyền của chúng tôi và cho sự thịnh vượng của chúng tôi.

Điều I

Tên gọi của chính quyền là "Hợp chúng quốc Hoa Kỳ" (The United States of America).

Điều II

Chính quyền sẽ có các thẩm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tối cao.

Điều III

Quyền lực được trao cho Quốc hội, gồm hai Viện riêng biệt, một Hạ viện và một Thượng viện, có quyền phủ quyết mọi đạo luật của nhau. Cơ quan lập pháp sẽ nhóm họp vào ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Mười hai hằng năm.

Điều IV

Khoản 1. Các thành viên của Hạ viện sẽ được dân chúng tất cả các tiểu bang trong liên minh bầu chọn, hai năm một lần. Cử tri ở mỗi bang phải có phẩm chất cần thiết như phẩm chất của cử tri ở bang có cơ quan lập pháp đông đảo nhất.

Khoản 2. Mọi thành viên của Hạ viện phải trên 25 tuổi, phải là công dân của Hoa Kỳ ít nhất ba năm trước cuộc bầu cử và vào thời điểm được bầu, phải là cư dân ở bang mà người đó được lựa chọn.

Khoản 3. Tại kỳ họp đầu tiên, và cho tới khi việc kiểm tra dân số được tiến hành theo cách thức qui định sau đây, Hạ viện sẽ bao gồm 65 đại biểu: New Hampshire sẽ được quyền bầu ba, bang Massachusetts bầu tám, bang Rhodes Island và các đồn điền Quan phòng bầu một, bang Connecticut bầu năm, bang New York bầu sáu, bang New Jersey bầu bốn, bang Pennsynvania bầu tám, bang Delaware bầu một, bang Maryland bầu sáu, bang Virginia bầu mười, bang Bắc Carolina bầu năm, bang Nam Carolina bầu năm và bang Georgia bầu ba đại biểu.

Khoản 4. Do số dân của mỗi tiểu bang sẽ có thay đổi, một số tiểu bang có thể tách ra, lãnh thổ một vài tiểu bang có thể mở rộng và có thể hai hay nhiều tiểu bang sáp nhập với nhau, cũng như có những tiểu bang mới được thành lập trong phạm vi lãnh thổ Hợp chúng quốc nên tùy theo trường hợp, Quốc hội Liên bang sẽ qui định số đại biểu của các tiểu bang trên cơ sở dân số, căn cứ theo qui định ở đây với tỷ lệ 40.000 dân có một đại biểu.

Khoản 5. Mọi đạo luật liên quan đến tiền bạc, hay lương bổng của các viên chức chính quyền đều do Hạ viện khởi xướng. Thượng viện không có quyền thay đổi hay bổ sung. Không một khoản tiền nào được lấy từ ngân khố quốc gia, nếu không tuân thủ đúng những qui định và phải được khởi xướng tại Hạ viện.

Khoản 6. Chỉ có Hạ viện mới có quyền luận tội. Hạ viện sẽ chọn Chủ tịch và các viên chức khác cho mình.

Khoản 7. Khi khuyết ghế dân biểu ở bất cứ bang nào, Thống đốc bang đó sẽ ban hành lệnh tổ chức cuộc bầu cử bổ sung cho những chỗ trống đó.

Điều V

Khoản 1. Thượng viện của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ sẽ do các cơ quan lập pháp tiểu bang lựa chọn. Mỗi cơ quan lập pháp được chọn hai đại biểu. Khi có ghế trống, Thống đốc tiểu bang sẽ tạm thời bổ nhiệm cho tới khóa họp sau của cơ quan lập pháp tiểu bang đó. Mỗi Thượng nghị sĩ có một phiếu bầu.

Khoản 2. Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ sáu năm. Nhưng ngay sau cuộc bầu cử lần đầu tiên, các Thượng nghị sĩ sẽ được phân đều thành ba nhóm. Thượng nghị sĩ nhóm một sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ hai, Thượng nghị sĩ nhóm hai sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ tư, Thượng nghị sĩ nhóm ba sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào cuối năm thứ sáu, sao cho sau mỗi hai năm sẽ bầu lại 1/3 số Thượng nghĩ sĩ.

Khoản 3. Mọi thành viên của Thượng viện phải trên 30 tuổi và có ít nhất bốn năm là công dân Hoa Kỳ, đồng thời khi được bầu, phải là cư dân của bang mà người đó được bầu chọn.

Khoản 4. Thượng viện sẽ chọn Chủ tịch Thượng viện và các viên chức khác cho Viện của mình.

Điều VI

Khoản 1. Thời gian, địa điểm và cách thức tiến hành bầu cử Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ sẽ do cơ quan lập pháp của mỗi bang qui định. Nhưng bất cứ lúc nào, Quốc hội Liên bang cũng có quyền thay đổi các qui định đó.

Khoản 2. Quốc hội Liên bang có quyền qui định những yêu cầu về mức độ tài sản thống nhất đối với các đại biểu của mỗi Viện mà Quốc hội Liên bang cho là thích hợp.

Khoản 3. Ða số trong mỗi Viện đủ để tổ chức cuộc họp triển khai công việc, còn thiểu số có quyền trì hoãn phiên họp.

Khoản 4. Mỗi viện sẽ có thẩm quyền về cuộc bầu cử của mình, về kết quả của cuộc bầu cử đó và về việc đánh giá tiêu chuẩn các nghị sĩ của Viện mình.

Khoản 5. Tự do phát biểu và tự do tranh luận tại Quốc hội không bị buộc tội, hay chất vấn tại bất kỳ tòa án nào, hay bất kỳ một nơi nào khác ngoài Quốc hội. Các thành viên của mỗi Viện trong mọi trường hợp, ngoại trừ tội phản quốc, hay tội gây chiến, không thể bị bắt giữ trong khi đang có mặt tại Quốc hội, hoặc trong khi tới Quốc hội, hoặc trở về nhà.

Khoản 6. Mỗi Viện có quyền quyết định thủ tục hoạt động của mình, có thể trừng phạt các thành viên có tư cách đạo đức không đúng đắn và có thể khai trừ thành viên của Viện mình.

Khoản 7. Hạ viện và Thượng viện có quyền giữ một quyển sổ ghi chép các hoạt động của mình và thỉnh thoảng, công bố các điều đã ghi. Những phiếu thuận và phiếu chống của các thành viên về bất cứ vấn đề nào đều phải ghi vào sổ này.

Khoản 8. Trong thời gian họp của Quốc hội, nếu không được sự đồng ý của Viện kia, Không một Viện nào được nghỉ họp quá ba ngày, hoặc chuyển sang địa điểm khác. Nhưng qui định này không thể áp dụng đối với Thượng viện khi Viện này thi hành các quyền qui định trong Điều ______.

Khoản 9. Không một Thượng nghị sĩ hay Hạ nghị sĩ nào được nhận một chức vụ dân sự trong chính quyền Hợp chúng quốc trong thời gian được bầu làm nghị sĩ. Thành viên của Thượng viện cũng không được giữ chức vụ nào như vậy trong một năm sau khi hết nhiệm kỳ.

Khoản 10. Các đại biểu của mỗi Viện sẽ được nhận một khoản trợ cấp bồi thường cho các hoạt động của họ, do tiểu bang nơi bầu chọn họ qui định và thanh toán.

Khoản 11. Tiêu đề các đạo luật của Hợp chúng quốc sẽ là "Được Thượng viện và Hạ viện trong Quốc hội ban hành".

Khoản 12. Mỗi Viện đều có quyền khởi thảo mọi đạo luật, trừ những luật được qui định trước đây.

Khoản 13. Mọi đạo luật phải được cả Hạ viện và Thượng viện thông qua, nhưng trước khi trở thành luật, phải gửi cho Tổng thống Hợp chúng quốc phê chuẩn. Nếu tán thành, Tổng thống sẽ thể hiện sự đồng ý của mình bằng việc ký nhận. Nhưng nếu thấy việc phê chuẩn đạo luật này là không chính đáng, Tổng thống sẽ trả lại Viện đã khởi xướng đạo luật này cùng với ý kiến không tán thành. Viện này sẽ thông báo rộng rãi ý kiến không tán thành của Tổng thống trong bản ghi chép của Quốc hội và tiến hành xem xét lại dự luật đó.

Nếu sau khi xem xét lại và hai phần ba thành viên của Viện đó đồng ý thông qua, bất chấp sự phản bác của Tổng thống, thì dự luật sẽ được gửi cho Viện kia kèm theo ý kiến không tán thành của Tổng thống để Viện này xem xét. Nếu được hai phần ba thành viên của Viện đó phê chuẩn, thì dự luật sẽ trở thành đạo luật. Nhưng trong những trường hợp này, các phiếu bầu của cả hai Viện đều phải ghi rõ tán thành, hay không tán thành.

Tên của những người tán thành và không tán thành dự luật đó phải được đưa vào biên bản họp của mỗi Viện. Những dự luật mà Tổng thống không gửi trả lại trong vòng bảy ngày sau khi được đệ trình lên sẽ trở thành đạo luật, trừ trường hợp Quốc hội không nhóm họp nên Tổng thống không thể gửi trả Quốc hội được. Trong trường hợp đó, dự luật sẽ không trở thành đạo luật.
 
Bản phác thảo Hiến pháp đầu tiên (tiếp theo)​


Ngày 6 tháng Tám​


Đây là một văn bản khá rắc rối và dài dòng nếu so sánh với bản Hiến pháp sau này. Suốt một tháng sau đó, các đại biểu đã tranh luận và chỉnh sửa từng câu chữ, từng điều khoản cho tới khi mọi điều được hoàn tất vào ngày 8 tháng Chín.

Điều VII

Khoản 1. Quốc hội có quyền:

* Đặt và thu các khoản thuế, thuế quan, thuế môn bài.

* Qui định các hoạt động trong lĩnh vực thương mại với ngoại quốc và giữa các bang.

* Ban hành đạo luật nhập quốc tịch thống nhất trên toàn lãnh thổ Hợp chúng quốc.

* Ðúc và in tiền.

* Qui định giá trị của đồng tiền trong nước và đồng tiền nước ngoài.

* Xác định tiêu chuẩn cân đo.

* Thiết lập các trạm bưu điện và mạng lưới bưu điện.

* Vay mượn tiền và ban hành trái phiếu.

* Bổ nhiệm bằng lá phiếu viên Bộ trưởng Tài chính.

* Thiết lập các tòa án dưới quyền của Tòa án tối cao.

* Xác định và trừng phạt các tội cướp biển, trọng tội xảy ra trên biển và những vi phạm luật pháp quốc tế, trừng phạt những kẻ làm tiền giả và sự vi phạm các đạo luật của quốc gia.

* Dẹp tan cuộc nổi loạn tại bất kỳ tiểu bang nào nếu có lời cầu khẩn của cơ quan lập pháp tiểu bang đó.

* Tuyên bố chiến tranh;

* Tổ chức quân đội;

* Thiết lập và trang bị các tàu chiến;

* Sử dụng quân đội để thi hành luật pháp của liên minh, thi hành các Hiệp ước, tiêu diệt những cuộc nổi dậy và những vụ phiến loạn.

* Soạn thảo mọi đạo luật cần thiết và đúng đắn để thực thi những quyền lực nói trên, cũng như tất cả những quyền lực khác đã được Hiến pháp này trao cho chính quyền Hợp chúng quốc, hoặc cho bất cứ một cơ quan và quan chức nào khác.

Khoản 2. Tội phản quốc chống lại Hợp chúng quốc bao gồm hành vi gây chiến tranh tấn công Liên bang, hoặc bất kỳ tiểu bang nào, hoặc đi theo kẻ thù của Hợp chúng quốc. Quốc hội Liên bang có quyền qui định mức án cho tội phản quốc. Không một ai bị phán quyết về tội phản quốc nếu không có hai người làm chứng về hành vi phạm tội. Nhưng không được dùng một cực hình nào, hay tịch thu tài sản đối với người đó, ngoài cuộc sống của chính họ.

Khoản 3. Các loại thuế trực thu sẽ được xác định bằng cách tính tổng số những người da trắng ở mọi lứa tuổi, mọi giới tính, kể cả những người từng là nô lệ và 3/5 số những người khác không nêu ra ở đây (không tính những người Da Đỏ không nộp thuế). Công việc thống kê sẽ tiến hành trong vòng sáu năm sau cuộc họp đầu tiên của Quốc hội Liên bang và sau đó, cứ 10 năm một lần, tiến hành theo cách thức do Quốc hội Liên bang qui định.

Khoản 4. Sẽ không đặt ra loại thuế hoặc thuế quan đối với hàng hóa xuất khẩu từ bất cứ bang nào, cũng sẽ không đặt ra loại thuế thân hoặc các loại thuế trực thu khác.

Khoản 5. Không có thuế thân nào được đánh nếu không tương ứng với cuộc điều tra dân số kể trên trong Khoản 3.

Khoản 6. Không một đạo luật hàng hải nào được thông qua nếu không có sự chấp thuận của 2/3 đại biểu có mặt tại mỗi Viện.

Khoản 7. Hợp chúng quốc Hoa Kỳ sẽ không ban tặng các tước hiệu quý tộc.

Điều VIII

Các đạo luật của Hoa Kỳ được ban hành theo Hiến pháp này và mọi điều ước được ký kết dưới thẩm quyền của Liên bang sẽ là luật tối cao của mọi tiểu bang và của mọi cư dân. Quan tòa ở các bang đều phải tuân theo những luật này. Bất cứ điều khoản nào trong Hiến pháp hoặc luật pháp của các bang trái ngược với Hiến pháp Liên bang đều không có giá trị.

Điều IX

Khoản 1. Thượng viện có quyền ký kết các Hiệp ước, bổ nhiệm các Đại sứ và thẩm phán Tòa án tối cao.

Khoản 2. Trong mọi tranh chấp và những bất đồng hiện đang tồn tại, hoặc sau này phát sinh giữa hai hay nhiều tiểu bang, liên quan đến quyền hạn hay lãnh thổ, Thượng viện sẽ có những quyền hạn sau. Dù là cơ quan lập pháp, hay hành pháp, hay đại diện hợp pháp của bất kỳ tiểu bang nào trong những bất đồng với tiểu bang khác phải đệ trình lên Thượng viện, tuyên bố vấn đề và đề nghị được điều trần.

Theo yêu cầu của Thượng viện, những trình bày và kiến nghị đó phải được gửi cho cơ quan lập pháp hay hành pháp của tiểu bang có tranh chấp. Thượng viện sẽ qui định một ngày nhất định để yêu cầu người đại diện của các bên liên quan phải có mặt tại Quốc hội. Các đại diện này sẽ được bổ nhiệm bởi sự đồng lòng chung của các bên để làm người được ủy quyền, hay làm thẩm phán lập ra một tòa án để điều trần và phán quyết vụ việc này. Nhưng nếu những người đại diện không đồng ý, cứ một tiểu bang sẽ được Thượng viện chọn ra ba người.

Từ danh sách đó, mỗi bên sẽ gạch bỏ tên từng người một, cho tới khi còn 13 người. Từ danh sách này, Thượng viện sẽ chỉ định không ít hơn bảy người và không nhiều quá chín người, và sẽ rút thăm ra năm người, để lập ra một tòa án nghe và phán quyết lần cuối cùng vụ tranh cãi này, với điều kiện đa số những thẩm phán này sẽ nghe nguyên nhân và đồng ý với lời phán quyết.

Nếu bất cứ bên nào từ chối không có mặt tại ngày qui định mà không đưa ra được lý do chính đáng cho việc không tham dự, hoặc có mặt, nhưng từ chối tham gia việc gạch tên, Thượng viện sẽ tiếp tục chọn từ mỗi tiểu bang ba người và viên Thư ký của Thượng viện sẽ gạch thay cho bên vắng mặt hay từ chối đó.

Nếu bất cứ bên nào khước từ thẩm quyền của tòa án đó, hoặc không chấp thuận phán quyết hoặc vẫn bảo vệ lý lẽ của mình, thì tòa án này vẫn tuyên bố lời phán quyết của mình. Lời phán quyết này sẽ là cuối cùng. Toàn bộ quá trình sẽ được chuyển cho Chủ tịch Thượng viện và sẽ được ghi chép lại trong bản báo cáo chung để đảm bảo công bằng cho các bên liên quan.

Mọi nhân viên được ủy quyền đó, trước khi tham gia tòa án, phải tuyên thệ, và phải được một thẩm phán của Tòa án tối cao, hay Tòa án cao cấp của tiểu bang nơi vụ kiện này được xét xử đảm bảo, "sẽ nghe và phán quyết vụ việc này theo như sự suy xét tốt nhất của ông ta, không thiên vị, không có cảm tình và không mong chờ được tặng thưởng"

Khoản 3. Trong mọi tranh cãi liên quan đến đất đai mà hai hay nhiều tiểu bang tuyên bố là thuộc sở hữu của mình, thì mọi lời khiếu nại phải trình lên Thượng viện để phán quyết cuối cùng, theo cách thức giống như cách được miêu tả cho các cuộc tranh cãi giữa các bang.

Điều X

Khoản 1. Quyền hành pháp của Hợp chúng quốc sẽ trao cho một người. Danh hiệu của ông ta sẽ là "Tổng thống của Hợp chúng quốc Mỹ châu"; và phải xưng hô với Tổng thống là "Thưa Ngài" (His Excellency). Ông ta sẽ được bầu chọn bởi lá phiếu của cơ quan lập pháp với nhiệm kỳ bảy năm, nhưng không được bầu chọn lại lần thứ hai.

Khoản 2. Thỉnh thoảng, Tổng thống phải thông báo cho Quốc hội về tình hình của Liên bang và đề nghị Quốc hội xem xét những biện pháp mà Tổng thống thấy cần thiết và thích hợp và có thể tham vấn họ trong những trường hợp cần thiết. Trong trường hợp bất đồng giữa hai Viện, Tổng thống có quyền hoãn các cuộc họp này tới một thời điểm mà ông nghĩ là thích hợp. Tổng thống phải quan tâm và để ý rằng mọi đạo luật của Hợp chúng quốc được thực thi đúng đắn.

Tổng thống sẽ bổ nhiệm các quan chức cao cấp của Hợp chúng quốc và bổ nhiệm mọi viên chức trong trường hợp Hiến pháp không qui định. Tổng thống sẽ tiếp kiến các viên đại sứ và các nhân vật đứng đầu nhánh hành pháp của các tiểu bang. Tổng thống có quyền hủy bỏ bản án hoặc ân xá cho những hành vi chống lại Hợp chúng quốc, trừ những vụ trọng tội. Tổng thống sẽ là Tổng tư lệnh các lực lượng lục quân và hải quân Hoa Kỳ và các lực lượng dự bị tiểu bang.

Trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống sẽ được nhận một khoản tiền lương trả cho công việc của mình. Khoản tiền này không tăng và cũng không giảm trong suốt nhiệm kỳ. Trước khi nhậm chức, Tổng thống sẽ tuyên thệ như sau: "Tôi long trọng tuyên thệ rằng tôi sẽ thi hành đúng đắn chức vụ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ."

Tổng thống sẽ bị cách chức nếu bị Hạ viện luận tội và bị Tòa án tối cao tuyên án với các tội danh phản quốc, nhận hối lộ, hay tham nhũng. Trong trường hợp bị cách chức, chết, từ chức, hay không đủ năng lực thi hành quyền lực và bổn phận của mình, Chủ tịch Thượng viện sẽ thay thế thi hành những quyền của Tổng thống này cho tới khi một Tổng thống khác của Hợp chúng quốc được bầu chọn, hay cho tới khi Tổng thống cũ khôi phục lại đủ năng lực điều hành.
 
Bản phác thảo Hiến pháp đầu tiên (tiếp theo)​


Ngày 6 tháng Tám​


Điều XI

Khoản 1. Quyền lực tư pháp của Hoa Kỳ sẽ được trao cho Tòa án tối cao và những tòa án cấp dưới do Quốc hội thiết lập khi thấy cần thiết.

Khoản 2. Các thẩm phán Tòa án tối cao và các tòa án cấp dưới sẽ giữ chức vụ suốt đời nếu luôn luôn có hành vi chính đáng. Trong thời điểm bắt đầu nhậm chức, họ được nhận khoản tiền lương cho công việc của mình và khoản tiền này sẽ không bị giảm đi trong suốt thời gian đó.

Khoản 3. Quyền lực tư pháp của Tòa án Tối cao có hiệu lực đối với tất cả các vụ kiện phát sinh bởi những bộ luật do Quốc hội Hợp chúng quốc ban hành, trong mọi việc liên quan tới các đại sứ, các công sứ và các lãnh sự, các vụ buộc tội viên chức của Hợp chúng quốc, các trường hợp liên quan tới luật pháp hàng hải và hải quân, các tranh chấp giữa hai hay nhiều bang (trừ những vụ kiện về đất đai), giữa một bang với các công dân của bang khác, giữa các công dân của các bang khác nhau, giữa một bang hoặc các công dân của bang đó với nước ngoài hoặc các công dân và đối tượng nước ngoài.

Trong các trường hợp luận tội, hay liên quan tới các đại sứ, các công sứ và các lãnh sự và các trường hợp có liên quan tới một bang, Tòa án Tối cao sẽ có quyền xét xử sơ thẩm.

Trong những trường hợp đã nhắc đến ở trên, nếu có sự chống án, với những ngoại lệ và dưới những qui định do Quốc hội ban hành, Quốc hội có thể giao bất cứ phần nào của việc phán xử đã nói ở trên (ngoại trừ vụ xét xử Tổng thống của Hợp chúng quốc), theo cách thức và với những giới hạn mà Quốc hội cho là đúng đắn, cho các tòa án cấp thấp, như vẫn thường xảy ra.

Khoản 4. Mọi vụ án xét xử trọng tội (trừ tội phản quốc) phải tiến hành tại bang xảy ra vụ việc phạm tội và phải có một đoàn bồi thẩm.

Khoản 5. Phán quyết của tòa án trong mọi vụ luận tội sẽ không đi quá việc cách chức và không cho phép ông ta có quyền giữ bất cứ chức vụ nào liên quan đến danh dự, hay niềm tin, hay lợi lộc của Hợp chúng quốc. Nhưng người bị kết án có thể bị xét xử và tuyên án theo luật.

Điều XII

Không tiểu bang nào có quyền đúc, hay in tiền, hay ban hành các lệnh trưng thu, hay tịch thu, hay ký kết một Hiệp ước, liên minh, hay hợp bang, hay ban hành bất cứ danh hiệu quý tộc nào.

Điều XIII

Nếu không được Quốc hội Hợp chúng quốc đồng ý, không tiểu bang nào có quyền ban hành và phát hành tiền giấy, hay bất cứ hình thức nào dùng cho việc thanh toán; cũng không được đặt thuế nhập khẩu; không được tổ chức bất cứ đội quân, hay hạm đội nào trong thời bình; không được ký kết, hay tham gia một thỏa thuận với bất kỳ tiểu bang nào, hay với ngoại quốc, hay tham gia bất kỳ cuộc chiến tranh nào, trừ phi bị kẻ thù xâm lược, hay khi có mối nguy hiểm quá khẩn cấp, không thể trì hoãn, cho tới khi Quốc hội Hợp chúng quốc được tham vấn.

Điều XIV

Mọi công dân của mọi tiểu bang đều có quyền được hưởng mọi đặc ân và quyền miễn trừ như công dân của tất cả các tiểu bang khác.

Điều XV

Bất kỳ ai bị buộc tội phản quốc, hay các trọng tội tại bất kỳ tiểu bang nào, chạy trốn khỏi việc xét xử, nếu được tìm thấy tại bất kỳ tiểu bang nào khác, phải được đưa về tiểu bang nơi anh ta trốn chạy để xét xử, nếu Thống đốc tiểu bang nơi anh ta trốn chạy yêu cầu.

Điều XVI

Mọi đạo luật của Quốc hội, mọi văn bản và phán quyết của các tòa án, đều phải được tất cả các tiểu bang tôn trọng.

Điều XVII

Các tiểu bang mới được lập ra một cách hợp pháp trong phạm vi lãnh thổ của Hợp chúng quốc cần được Quốc hội chấp thuận để gia nhập chính quyền này, nhưng cần có sự chấp thuận của 2/3 số đại biểu có mặt tại mỗi Viện. Nếu các tiểu bang mới được hình thành trong lãnh thổ của bất kỳ tiểu bang nào, thì cũng cần cả sự chấp thuận của cơ quan lập pháp của tiểu bang đó.

Nếu được chấp thuận, các tiểu bang mới cũng được hưởng mọi quyền như các tiểu bang ban đầu. Nhưng Quốc hội, căn cứ vào điều kiện của các tiểu bang mới, qui định các khoản nợ cần phải đóng góp.

Điều XVIII

Hợp chúng quốc sẽ đảm bảo mỗi tiểu bang có một chính quyền cộng hòa. Hợp chúng quốc bảo vệ các tiểu bang chống lại sự xâm lược của nước ngoài, hoặc theo yêu cầu của cơ quan lập pháp tiểu bang đó, dẹp tan những rối loạn bên trong.

Điều XIX

Theo đề xuất của 2/3 cơ quan lập pháp tiểu bang trong liên minh, Quốc hội của Hợp chúng quốc sẽ triệu tập một Hội nghị để tiến hành sửa đổi bản Hiến pháp này.

Điều XX

Mọi thành viên của Quốc hội, các viên chức hành pháp, hay tư pháp của Hợp chúng quốc và của các tiểu bang sẽ phải tuyên thệ ủng hộ bản Hiến pháp này.

Điều XXI

Việc phê chuẩn của…… Hội nghị của các tiểu bang là đủ để bản Hiến pháp này có hiệu lực.

Điều XXII

Bản Hiến pháp này sẽ được đệ trình lên Quốc hội xem xét. Hội nghị này có ý kiến là sau đó, theo đề xuất của Quốc hội, bản Hiến pháp sẽ được gửi cho các tiểu bang phê chuẩn.

Điều XXIII

Để thiết lập chính quyền Liên bang, Hội nghị này cho rằng các hội nghị thông qua đó phải gửi lời phê chuẩn của mình lên Quốc hội Hợp bang. Sau khi nhận được sự chấp thuận của ______ Hội nghị của các tiểu bang, Quốc hội Hợp bang, vào một ngày sớm nhất có thể, sẽ qui định và công bố địa điểm bắt đầu thi hành các thủ tục theo như bản Hiến pháp này. Sau đó, các cơ quan lập pháp tiểu bang sẽ lựa chọn thành viên cho Thượng viện và chỉ đạo việc bầu chọn thành viên cho Hạ viện. Các nghị sĩ đó sẽ gặp nhau tại thời gian sớm nhất có thể và tại địa điểm do Quốc hội Hợp bang qui định, để chọn ra Tổng thống của Hợp chúng quốc và thi hành bản Hiến pháp này.
 
Ký kết bản Hiến pháp​


Ngày 17 tháng Chín​


- Ngày 8 tháng Chín, sau khi thống nhất tất cả các điều khoản, Hội nghị lại bầu ra Ủy ban Văn phong để viết lại bản Hiến pháp này với câu chữ rõ ràng và chặt chẽ hơn.

Bản Hiến pháp chính thức do Gouverneur Morris, người được coi là có khả năng viết tốt nhất, chắp bút dựa trên bản phác thảo, nhằm có được một văn bản ngắn gọn và mạch lạc. Sau một vài ngày sửa chữa, Hội nghị đã đồng ý với văn bản này.

Trong ngày 17 tháng Chín, ngày họp cuối cùng của Hội nghị, lễ ký kết bản Hiến pháp đã diễn ra rất trang nghiêm và cảm động. Đại biểu cao tuổi nhất, Bác sĩ FRANKLIN đã viết một trong những bài diễn văn hay nhất của mình.

Nhưng tại ngày họp cuối cùng, trong số 55 đại biểu từng tham dự, chỉ còn 42 người có mặt, và trong đó chỉ có 39 đại biểu đồng ý ký vào bản Hiến pháp. Ba đại biểu Gerry, Mason và Randolph đã từ chối ký và tuyên bố những lý do họ không thể ký vào bản Hiến pháp.

Bản thảo Hiến pháp viết được đọc trước toàn thể Hội nghị.

Bác sĩ FRANKLIN đứng lên với bài phát biểu cầm trong tay, nhờ Ngài Wilson đọc giùm.

"Thưa Ngài Chủ tịch,

Tôi thừa nhận rằng lúc này, có nhiều điểm trong bản Hiến pháp này, tôi không thể chấp nhận. Nhưng tôi không chắc rằng tôi sẽ không bao giờ chấp nhận nó. Tôi đã sống đủ lâu để hiểu rằng chúng ta không nên dựa quá nhiều vào sự phán xét của chính bản thân mình. Tôi thường thấy mình sai lầm ngay tại những điều ưng ý nhất. Khi tôi càng nhiều tuổi, tôi càng nghi ngờ sự phán xét của chính mình và quan tâm chú ý hơn đến những nhận xét của người khác. Hầu hết loài người, cũng như những giáo phái trên thế giới, thường tự cho rằng mình mới là người hiểu biết sự thật và bất kể ai khác với quan điểm của mình đều là sai lầm.

Steele, một người theo đạo Tin Lành, nói với Giáo hoàng Công giáo rằng sự khác biệt duy nhất giữa hai tôn giáo này là nhà thờ Công giáo La Mã không thể sai lầm, còn Nhà thờ Tin Lành của nước Anh cũng không bao giờ sai lầm. Nhưng dù nhiều quý Ngài lại nghĩ rằng ý kiến của mình, cũng như tôn giáo của mình là không thể sai lầm thì một vài người đã thể hiện tính cách giống như một cô gái Pháp, luôn luôn càu nhàu và bới móc mọi lỗi lầm của những người xung quanh, để rồi tự cho rằng ngoài mình ra, chẳng có ai là đúng cả.

Với những suy nghĩ đó, thưa Ngài, tôi đồng ý với bản Hiến pháp này với mọi lỗi lầm của nó nếu có, bởi tôi nghĩ rằng chúng ta cần một chính quyền chung. Không một chính quyền nào mang lại điều tốt đẹp cho dân chúng nếu không được thiết lập đúng đắn, dù nó có thể hoạt động tốt trong nhiều năm để rồi lại chấm dứt trong cảnh chuyên quyền độc tài như mọi mô hình chính quyền trước đây. Khi dân chúng trở nên đồi bại thì một chính quyền độc tài là cần thiết, bởi không một mô hình chính quyền nào khác ngoài nền độc tài đáp ứng được những đòi hỏi lúc đó. Tôi cũng nghi ngờ rằng không một Hội nghị nào có thể làm ra được một bản Hiến pháp tốt đẹp hơn.

Khi chúng ta nhóm họp tại đây, tập trung mọi sự khôn ngoan và hiểu biết của mình, mọi quý Ngài đều bị ràng buộc bởi những tâm trạng, quan điểm và cả những lầm lẫn, những lợi ích địa phương và những quan điểm ích kỷ của nhiều người khác. Vậy sự nhóm họp như vậy có thể làm ra được điều gì hoàn hảo? Thưa Ngài, do đó, tôi cảm thấy kinh ngạc khi hệ thống này đã hoàn hảo tới mức có thể và tôi nghĩ bản Hiến pháp này cũng làm những kẻ thù của chúng ta ngạc nhiên, những kẻ đang tin tưởng trông chờ rằng chúng ta cũng giống như những người xây dựng Tháp Babel; rằng các tiểu bang của chúng ta đang ở bên bờ miệng vực của sự tan rã, gặp nhau tại đây chỉ để cắt cổ họng của người khác.

Thưa Ngài, tôi đồng ý với bản Hiến pháp này bởi tôi chẳng thể hy vọng một văn kiện xuất sắc hơn và tôi cũng không thể đoan chắc rằng đó không phải là văn bản xuất sắc nhất. Những ý kiến nêu ra những sai trái của bản Hiến pháp này là vì mong ước những điều tốt lành cho dân chúng. Tôi không bao giờ tiết lộ bất cứ điều gì về Hội nghị này. Những lời lẽ tranh cãi sinh ra trong những bức tường này và rồi cũng chết trong những bức tường này.

Nếu như tất cả chúng ta trở về, gặp những người đồng bào và kể cho họ nghe những lời phản đối mà mình nghe được, mong ước giành được sự ủng hộ của họ thì điều đó chỉ cản trở việc chấp thuận văn bản này và mất đi những lợi thế về sự đồng tâm nhất trí của chúng ta. Theo ý kiến tôi, hầu hết sức mạnh và sự hiệu quả của chính quyền, để mang lại và đảm bảo hạnh phúc của con người, đều phụ thuộc vào quan điểm chung của dân chúng về hiệu quả của chính quyền, cũng như sự khôn ngoan và đức hạnh của những viên chức chính quyền.

Do đó, tôi tin rằng số phận của chúng ta cũng là số phận của dân chúng và vì sự thịnh vượng chung, chúng ta hãy chân thành và nhiệt tình đồng tâm ca ngợi bản Hiến pháp này. Nếu được Quốc hội Hợp bang chấp thuận và được các hội nghị tiểu bang phê chuẩn thì ảnh hưởng của chúng ta sẽ được nhân rộng. Nhờ đó, một chính quyền tốt đẹp sẽ được thiết lập.

Tóm lại, thưa Ngài Chủ tịch, tôi thật sự mong ước mọi quý Ngài tham dự Hội nghị này, những người vẫn còn những bất đồng về bản Hiến pháp, theo gương tôi, nhân lúc này, hãy nghi ngờ một chút về tính không thể nhầm lẫn của chính mình và thể hiện sự đồng lòng chân thành nhất bằng cách đặt chữ ký của mình vào văn kiện này".

Sau đó, ông đề xuất rằng bản Hiến pháp sẽ được các đại biểu ký kết sau câu chữ "Được làm tại Hội nghị với sự chấp thuận của tất cả các tiểu bang có mặt ngày 17 tháng Chín, chúng tôi xin đề tên mình vào văn bản này."

Ngài GORHAM nói rằng nếu không quá muộn, thì ông muốn để giảm bớt sự phản đối đối với bản Hiến pháp là điều khoản qui định "cứ 40.000 người dân lại có một đại biểu" đã từng gây nhiều tranh luận, nhưng vẫn chưa quyết định dứt khoát, nên sửa thành 30.000 người.

Ngài KING và Ngài CARROL ủng hộ ý kiến của Ngài Gorham.
 
Ký kết bản Hiến pháp (tiếp theo)​


Ngày 17 tháng Chín​


Khi Ngài Chủ tịch Hội nghị đứng lên để nêu vấn đề cần bỏ phiếu, ông nói rằng mặc dù chức vụ Chủ tịch Hội nghị làm ông không thể trình bày hết mọi tâm trạng của mình và có thể ngay tại lúc này cũng buộc ông phải im lặng.

Nhưng ông không thể che giấu ước mong của mình rằng cần phải có một số thay đổi để giảm tối đa những chống đối. Nhiều đại biểu cho rằng số nghị sĩ quá ít sẽ không đủ đảm bảo quyền và lợi ích cho dân chúng, nên ông tin rằng việc tăng số lượng nghị sĩ sẽ làm giảm bớt những lời phản đối bản Hiến pháp này.

Đề xuất của Ngài Gorham không gặp phải một lời phản đối nào và được Hội nghị hoàn toàn nhất trí.

Tất cả các tiểu bang cũng đồng ý rằng mọi người tham gia Hội nghị sẽ ký vào bản Hiến pháp này.

Ngài RANDOLPH lại đứng lên và nói bóng gió về những nhận xét của Bác sĩ Franklin. Ông xin lỗi mọi người vì buộc phải từ chối ký vào bản Hiến pháp, dù nếu tất cả mọi người đều ký tên sẽ thể hiện sự khôn ngoan và giá trị của bản Hiến pháp và làm dân chúng thêm tin tưởng để phê chuẩn nó.

Tuy nhiên, ông nói rằng việc từ chối ký này không có nghĩa là ông chống đối bản Hiến pháp mà chỉ muốn được tự do làm theo đúng bổn phận và sự phát xét của chính mình. Ông từ chối ký bởi vì ông nghĩ công chúng sẽ bác bỏ sự lựa chọn của Hội nghị. Sẽ không đủ chín tiểu bang phê chuẩn văn bản này và tất yếu, sẽ dẫn đến sự rối loạn. Với quan điểm đó, ông không thể bắt buộc mình phải tán thành văn bản này, để ông được phép làm bất cứ điều gì mà ông cho là cần thiết để mang lại điều tốt đẹp chung cho xã hội.

Ngài G. MORRIS nói rằng ông cũng có những điểm phản đối, nhưng coi mô hình hiện nay là mô hình tốt nhất có thể đạt được, nên ông sẽ chấp nhận nó, bất chấp mọi lỗi lầm. Đa số sẽ tán thành mô hình này và ông sẽ tuân theo quyết định đó. Thời điểm này buộc phải bỏ sang một bên việc xem xét những sự thay đổi và vấn đề lớn nhất là có một chính quyền liên bang, hay không? Và chính quyền đó cần phải được thiết lập, nếu không, sự vô chính phủ sẽ xảy ra. Ông nói rằng chữ ký đối với văn bản này chỉ là thể hiện sự đồng lòng của các tiểu bang có mặt lúc này.

Ngài WILLIAMSON: Gợi ý rằng các đại biểu nên ký vào bức thư gửi Quốc hội hơn là ký vào bản Hiến pháp vì điều này sẽ làm hài lòng một vài người không tán thành bản Hiến pháp. Bản thân ông nghĩ là không thể có một kế hoạch nào tốt đẹp hơn và chẳng băn khoăn gì trong việc đặt chữ ký của mình vào văn bản này.

Ngài HAMILTON: Lo ngại không chắc tất cả các đại biểu sẽ ký vào Hiến pháp. Việc một vài quý ngài phản đối và thậm chí từ chối ký, có thể sẽ làm dấy lên ngọn lửa chống đối và làm giảm đi lòng sốt sắng ủng hộ bản Hiến pháp. Mọi người đều biết rằng không ai trong Hội nghị này khác biệt quan điểm về mô hình này hơn bản thân ông, nhưng cần phải suy tính kỹ càng giữa khả năng tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ sẽ xảy ra và cơ hội đạt được một chính quyền tốt từ kế hoạch này.

Ngài BLOUNT: Trước đây, ông đã tuyên bố là ông sẽ không ký. Nhưng mô hình này đã tốt đẹp hơn và không muốn việc từ chối ký của ông sẽ làm giảm đi sự đồng lòng của các tiểu bang tại Hội nghị.

Bác sĩ FRANKLIN: Thể hiện mối lo âu của ông về những nhận xét của Ngài Randolph về bài phát biểu của ông sáng nay. Ông tuyên bố rằng khi viết kiến nghị đó, ông không biết chính xác ai sẽ từ chối ký và hy vọng mọi người sẽ hiểu ông.

Ông thừa nhận rằng Ngài Randolph với những nghĩa vụ và bổn phận cao cả là người đầu tiên đề xuất mô hình này đã đóng góp rất nhiều trong quá trình thảo luận, nên hy vọng Ngài Randolph sẽ gạt bỏ những bất đồng để chấp thuận bản Hiến pháp với tình bằng hữu, nhằm ngăn chặn những điều tồi tệ có thể xảy ra nếu tên của ông không có trong văn bản này.

Ngài RANDOLPH: Coi việc ký vào bức thư gửi Quốc hội cũng giống như việc ký vào bản Hiến pháp. Sự thay đổi hình thức đó, đối với ông, chẳng khác gì nhau. Ông nhắc lại rằng bằng việc từ chối ký vào bản Hiến pháp, có thể ông đã làm một việc tồi tệ và sai trái nhất trong cuộc đời, nhưng đó là mệnh lệnh của lương tâm ông, buộc ông không thể đắn đo hay thay đổi. Ông nhắc lại niềm tin của ông rằng việc bắt buộc dân chúng, hoặc phải chấp nhận toàn bộ, hoặc phải bác bỏ văn bản này, sẽ chỉ tạo ra sự hỗn loạn vô chính phủ.

Ngài GERRY: Thể hiện tâm trạng đau đớn của ông, và sự bối rối buộc ông phải đứng lên đề xuất những thay đổi nữa với mô hình đã được quyết định này. Trong khi kế hoạch này còn đang chờ đợi phê chuẩn, thì ông muốn được hoàn toàn tự do phán xét mô hình này. Bây giờ, bản thân ông tự thấy mình sẽ đối xử với nó như đối với một đạo luật của Hợp bang. Ông lo ngại rằng một cuộc nội chiến có thể xảy ra do cuộc khủng hoảng hiện nay của nước Mỹ. Ông coi mối nguy hiểm ở Massachussetts là thực sự nghiêm trọng [tức là vụ bạo động của Daniel Shays-ND].

Tại tiểu bang đó có hai phe phái, một phe dân chủ thái quá, ông coi đó là điều tồi tệ nhất trong số mọi tai họa chính trị, nhưng phe phái kia cũng hung bạo trong thái cực đối lập. Do cuộc xung đột về tán thành và phản đối bản Hiến pháp, nên mối lo ngại nhất là sự hỗn loạn. Ông nghĩ là vì nhiều lý do, cần thiết phải xây dựng một mô hình trung lập và hòa giải hơn nữa, để làm dịu đi tâm trạng kích động có phần thái quá của các phe phái. Hội nghị đã phê chuẩn bản Hiến pháp này, nhưng ông tin rằng điều đó sẽ có tác dụng ngược lại.

Do đó, ông không thể ký vào văn bản này để ông được quyền làm mọi việc cần thiết. Việc thay đổi hình thức ký kết không có gì khác nhau đối với ông cả. Nhưng nếu việc ký kết không rõ ràng, dân chúng sẽ không bao giờ biết sự bất đồng của ông. Ông không thể không coi những lời bóng gió của Bác sĩ Franklin làm nhằm ám chỉ ông và những quý ngài từ chối ký.

Tướng PINKNEY: Dường như chúng ta không thể làm thay đổi được những người quyết tâm không ký vào Hiến pháp bằng một hình thức mập mờ như đề xuất. Nên ông nghĩ cách tốt nhất là trình bày thắng thắn việc chấp thuận, hay không chấp thuận Hiến pháp và để tự nó nói lên bản chất của sự việc. Ông muốn công khai rõ ràng mục đích việc ký kết của các đại biểu. Ông sẽ ký vào Hiến pháp với suy nghĩ rằng điều này sẽ góp phần ủng hộ bản Hiến pháp với mọi ảnh hưởng của ông và cam kết sẽ làm đúng như vậy.

Bác sĩ FRANKLIN: Bây giờ là quá sớm để tự chúng ta cam kết trước Quốc hội và trước cử tri của chúng ta rằng sẽ chấp thuận kế hoạch này.

Ngài INGERSOL: Không coi việc ký kết dù là dưới hình thức nào đi nữa như một sự cam kết của những người ký rằng sẽ ủng hộ bản Hiến pháp này, ngoài việc gợi ý rằng mọi điều đưa ra đã được nghiên cứu là thích hợp nhất.

Về đề xuất của Bác sĩ Franklin: NH: đồng ý; MA: đồng ý; CT: đồng ý; NJ: đồng ý; PA: đồng ý; DE: đồng ý; MD: đồng ý; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: không thống nhất ý kiến; GA: đồng ý.

Ngài King gợi ý là cần hủy bỏ bản ghi chép của viên Thư ký về Hội nghị này, hoặc nên trao cho Ngài Chủ tịch giữ. Ông nghĩ bản ghi chép này sẽ làm công chúng hoang mang và kinh sợ, còn những người chống Hiến pháp sẽ lợi dụng để ngăn cản việc phê chuẩn.

Ngài Wilson cho là nên làm theo cách thứ hai, trao nó cho Ngài Chủ tịch, dù ông từng nghĩ là cách thứ nhất là hay nhất, nhưng sợ rằng những lời lẽ dối trá có thể bị lan truyền.

Cuộc bỏ phiếu về vấn đề trao những ghi chép và những văn bản liên quan về Hội nghị cho Ngài Chủ tịch: NH: đồng ý; MA: đồng ý; CT: đồng ý; NJ: đồng ý; PA: đồng ý; DE: đồng ý; MD: phản đối; VA: đồng ý; NC: đồng ý; SC: đồng ý; GA: đồng ý;

Ngài Chủ tịch hỏi Hội nghị muốn sử dụng bản Ghi chép thế nào, liệu có phân phát những bản chép cho những thành viên liên quan hay không? Hội nghị hoàn toàn nhất trí rằng: "Ngài Chủ tịch sẽ giữ bản ghi chép này và các văn bản khác và làm theo quyết định của Quốc hội Liên bang, nếu cơ quan này được lập theo bản Hiến pháp".

Sau đó, các đại biểu lần lượt ký vào văn bản này.

Trong khi các đại biểu cuối cùng đang ký vào bản Hiến pháp, Bác sĩ Franklin chỉ vào hình mặt trời sau lưng ghế chủ tịch Hội nghị, nói với một vài đại biểu đứng gần đó rằng những họa sĩ vẽ nó khó phân biệt được đó là cảnh mặt trời đang mọc, hay đang lặn.

Ông nói, trong cuộc họp này, ông thường nhìn vào hình mặt trời này với những niềm hy vọng đan xen những nỗi sợ hãi và ông không thể nói được đó là cảnh mặt trời đang mọc, hay đang lặn. Nhưng giờ đây, cuối cùng, ông cảm thấy hạnh phúc, vì biết chắc chắn đó là cảnh mặt trời đang mọc, chứ không phải đang lặn.

Bản Hiến pháp cuối cùng được tất cả các đại biểu ký tên, trừ Ngài Randolph, Ngài Mason và Ngài Gerry. Họ từ chối thể hiện sự đồng ý bằng việc đặt tên của mình lên đó. Thế là Hội nghị kết thúc và không biết bao giờ mới gặp lại.
 
Phần III:

Một số bức thư và tranh luận điển hình về hiến pháp Mỹ​


Ơn Chúa tối cao, cha và những người bạn của cha có thể làm cho họ [dân chúng] hài lòng bằng việc thiết lập một chính quyền khôn ngoan và công bằng. Với riêng cha, cha chưa bao giờ ở trong một bối cảnh như hiện nay và cha phải tuyên bố rằng cha tham dự Hội nghị này không phải vì tiền, dù một nghìn bảng một ngày.

Thư của GEO. MASON gửi con trai, Ngày 1 tháng Sáu năm 1787​


Giới thiệu​


Ngay trong quá trình tiến hành Hội nghị Lập hiến, nhiều đại biểu đã bất đồng sâu sắc với quan điểm về một chính quyền mạnh, và nhiều người đã bỏ ra về. Trong số 55 người đã tham dự Hội nghị Lập hiến, chỉ có 42 đại biểu còn có mặt vào buổi cuối cùng, nhưng cũng chỉ có 39 người đồng ý.

Ba chính khách xuất sắc là Gerry, Randolph và Mason, dù có mặt, nhưng vẫn từ chối ký vào văn kiện nay. Sau khi Hội nghị chấm dứt, quan điểm chống và tán thành chính quyền liên bang đã bùng lên thành một cuộc tranh luận rộng lớn và sâu sắc trên khắp 13 tiểu bang. Những người đã ký vào văn kiện này trở thành những người biện hộ chủ chốt cho tư tưởng liên bang, nhằm thuyết phục dân chúng và những chính khách khác phê chuẩn mô hình này.

Quan điểm tán thành và phản đối thể hiện trong những bức thư trao đổi giữa các đại biểu và với những chính trị gia khác, trong các bài báo và các bài phát biểu tại Hội nghị phê chuẩn của các tiểu bang, với việc phân tích những lợi hại của mô hình chính quyền Liên bang. Những bức thư và những bài phát biểu này, dù chống đối hay tán thành, thì những quan điểm đó đều thể hiện trách nhiệm cao cả đối với dân chúng và đất nước, thể hiện ước mong về một chính quyền tôt đẹp.

Trong phần này, độc giả có thể đọc thấy những dòng chữ mang đầy tính nhân bản với những mục đích cao cả của G. Mason trong bức thư gửi người con trai, những tâm sự trong nhật ký riêng của Washington, những dự định ban đầu của Madison và quan điểm của rất nhiều đại biểu khác.

Cho đến nay, có hàng trăm bức thư, các bài tranh luận, các bài báo liên quan đến quá trình thông qua Hiến pháp vẫn được lưu giữ, và là nguồn tư liệu tốt cho những ai quan tâm đến lịch sử nước Mỹ thời đầu dựng nước... Dưới đây, tôi chọn một số bức thư, những bài phát biểu điển hình, gồm cả những bài tán thành và chống đối, để trình bày quan điểm và tư tưởng của các chính khách Mỹ khi đó.

Phần này chủ yếu trích dẫn theo cuốn Farrand's Record, Elliot's Debate, cuốn Federalist Papers và cuốn Anti-federalist Papers. Các bài trích dẫn, tôi đều ghi rõ nguồn tài liệu tham khảo và sắp xếp theo thứ tự thời gian và cố gắng giới thiệu thêm một số thông tin trước mỗi bài để bạn đọc tiện theo dõi.

Cuốn Elliot's Debates là tập hợp những tranh luận trong các hội nghị phê chuẩn Hiến pháp liên bang của các Tiểu bang, bao gồm 5 tập do Jonathan Elliot tập hợp và xuất bản vào giữa thế kỷ XIX. Ngày nay, đây là nguồn tư liệu đầy đủ nhất cho giai đoạn kết thúc Hội nghị Lập hiến, từ tháng Chín năm 1787 đến thời điểm khai mạc Quốc hội Liên bang khóa 1, tháng Ba năm 1789.

Cuốn Farrand's Record (Những ghi chép về Hội nghị Lập hiến năm 1787) bao gồm ba tập, do Max Farrand tập hợp mọi văn bản liên quan đến Hội nghị xuất bản năm 1911. Cuốn sách này chứa đầy đủ những tư liệu cần thiết cho việc nghiên cứu những thảo luận tại Hội nghị, bao gồm những ghi chép của Madison, của Rufus King, của Robert Yates và những bức thư liên quan đến bản Hiến pháp Liên bang. Trong cuốn Federalist Papers, tôi chọn dịch 3 bài nổi tiếng nhất: số 1, số 10 và số 51, đồng thời, giới thiệu một bài luận chống lại quan điểm liên bang.
 
Thư của James Madison gửi George Washington​


Trong số tất cả các đại biểu tham dự Hội nghị Lập hiến, không ai có sự chuẩn bị công phu và kỹ lưỡng về mọi điểm của mô hình chính quyền như Madison. Chính nhờ những đóng góp to lớn cho quá trình xây dựng cũng như bảo vệ bản Hiến pháp mà sau này, Madison đã được mệnh danh là "Cha đẻ của bản Hiến pháp Mỹ".

Từng tham gia hoạt động chính trị từ khi còn rất trẻ, nhưng Madison đã thể hiện được tài năng và kiến thức sấu sắc của mình. Sau khi tham dự Hội nghị Annapolis, Madison đã cùng với Hamilton viết lời kêu gọi Quốc hội Hợp bang tổ chức Hội nghị Lập hiến để bàn về tương lai của nhà nước liên minh.

Nhưng nhận thức được rằng trước hết cần phải hiểu cặn kẽ mọi ngóc ngách của chính quyền và tìm được một mô hình nhà nước phù hợp, mùa Xuân-Hè năm 1786, Madison rời bỏ mọi công việc tại chính quyền tiểu bang và liên bang, lặng lẽ một mình trở về ngôi nhà ở Montperlier, mải mê vùi đầu vào hàng trăm cuốn sách thu lượm được.

Đó là những cuốn rất nổi tiếng của các tác giả Thế kỷ Ánh sáng, như Khế ước Xã hội, Tinh thần Pháp luật , Về một cộng đồng hoàn hảo và những cuốn khác về lịch sử tồn tại và diệt vong của các nhà nước Hy Lạp và La Mã cổ đại, Hợp bang Thụy Sĩ thế kỷ XIV, Liên bang Bỉ, Phổ giữa thế kỷ XVII...

Với những cuốn sách này, Madison hy vọng sẽ tìm được những nguyên lý và trở ngại cho sự hoạt động của chính quyền. Suốt thời gian này, Madison nghiền ngẫm những ý tưởng và rồi viết những nhận xét về đặc điểm hình thành và nguyên nhân sụp đổ của các mô hình nhà nước đó vào cuốn sổ nhỏ có tên là “Những ghi chép về các mô hình liên bang cổ xưa và hiện đại” và những điều yếu kém của thể chế Hợp bang đương thời vào cuốn Những trục trặc trong hệ thống chính quyền Mỹ… Trong quá trình nghiền ngẫm những ý tưởng này, Madison đã trao đổi suy nghĩ của mình với rất nhiều chính khách đương thời, thảo luận những nét chính yếu về mô hình nhà nước Cộng hòa.

Bức thư sau đây của ông gửi Washington trình bày những nét chính yếu về mô hình chính quyền liên bang mà ông mong ước. Dù không phải tất cả những đặc điểm trong mô hình này được chấp nhận, nhưng dẫu sao, những điều Madison đề xuất vẫn là cốt lõi cơ bản cho chính quyền liên bang Mỹ. Những đề xuất của ông, cùng với những trao đổi với các đại biểu Virginia, sau này, đã trở thành nền tảng cho Phương án Virginia mà đại biểu Edmund Randolph đưa ra ngay ngày khai mạc Hội nghị.

Ngày 16 tháng Tư năm 1787.

Tôi rất vinh dự khi nhận được bức thư của Ngài ngày 31 tháng Ba và thật sung sướng khi thấy quan điểm của Ngài về những cải cách sẽ được Hội nghị Lập hiến theo đuổi. Đó chính là sự chấp thuận những điều lâu nay tôi thường ấp ủ. Những trì hoãn [về tổ chức Hội nghị này] sẽ là sự bất kính đối với những người đã đề xướng sự cải cách và có thể gây ra những thù địch ngấm ngầm mà bề ngoài cứ tưởng là đang giảm bớt. Những nỗ lực triệt để, dù không thành công, thì ít nhất cũng biện hộ cho những người đã đề xuất triệu tập Hội nghị này.

Cuối cùng, thì phải giải quyết những trở ngại đó thông qua những cuộc tranh luận tại Hội nghị này. Tôi đã hình thành trong đầu những nét chủ yếu về một hệ thống mới và xin đệ trình những điểm này tới Ngài mà không hề lo sợ điều gì.

Nhận thức rằng nền độc lập của các tiểu bang là hoàn toàn không thể nhân nhượng được và việc hợp nhất tất cả các tiểu bang riêng rẽ vào một nền cộng hòa đơn nhất cũng không thích hợp, vì thật ra, điều này là không thể thực hiện được, tôi đã tìm kiếm một giải pháp trung lập nào đó, có thể bảo đảm quyền lực tối đa cho chính quyền quốc gia, đồng thời không xóa bỏ các chính quyền tiểu bang vì các chính quyền này vẫn có những lợi ích nhất định.

Điểm mấu chốt tôi muốn đề xuất là phải thay đổi quyền đại diện. Mô hình hiện nay của Liên minh đòi hỏi sự chấp thuận của mọi tiểu bang là cần thiết để phê chuẩn mọi đạo luật quan trọng do Quốc hội Hợp bang ban hành. Như vậy, sự bình đẳng về quyền bỏ phiếu sẽ mâu thuẫn với sự bất bình đẳng về vai trò quan trọng của các tiểu bang thành viên.

Không ai phủ nhận rằng các tiểu bang Virginia và Massachusetts có nhiều trọng lượng và ảnh hưởng hơn các tiểu bang Delaware hay Rhode Island, cả trong và ngoài Quốc hội, [nhưng cũng chỉ có một phiếu bầu-ND]. Một hệ thống vận hành với sự can thiệp của các cơ quan lập pháp tiểu bang, trong nhiều trường hợp, sẽ gây ra trục trặc. Một lá phiếu trong Hội đồng quốc gia của Delaware không thể có hiệu lực và giá trị như của bang lớn nhất trong liên minh. Tôi thật sự tin là sự thay đổi như vậy sẽ không gặp phải quá nhiều trở ngại.

Đa số các tiểu bang và những tiểu bang có ảnh hưởng nhất đòi phải có những ưu tiên đối với họ. Ðối với các tiểu bang miền Bắc, thì mô hình này sẽ coi trọng dân số của họ, còn các tiểu bang miền Nam sẽ hy vọng vào điều này trong tương lai. Trong mọi vấn đề, các bang nhỏ phải qui thuận theo ý muốn của đa số. Đề xuất này, đặc biệt thúc giục sự thay đổi về quyền đại diện, cũng sẽ làm giảm bớt sự chống đối của các bang lớn trong việc trao nộp các quyền lực cần thiết [cho chính quyền liên bang].

Tiếp theo, tôi muốn đề nghị rằng ngoài các quyền lực của Quốc hội Hợp bang hiện nay, phải cho phép chính quyền quốc gia có thẩm quyền tuyệt đối trong mọi trường hợp cần sự thống nhất, như quyền qui định thương mại, bao gồm quyền đánh thuế các hàng hóa xuất nhập khẩu, qui định thời hạn và hình thức nhập cư…

Trên hết và cao hơn hết, chính quyền Liên bang phải có quyền phủ quyết bất kỳ đạo luật nào của các cơ quan lập pháp tiểu bang, tương tự như các đặc quyền của Vua Anh trước đây , theo tôi là tuyệt đối cần thiết và không thể xâm phạm bởi quyền hạn của các tiểu bang.

Nếu không có quyền phủ quyết này, mọi quyền lực khác ghi trên giấy đều vô giá trị và không được chấp hành. Các tiểu bang sẽ tiếp tục vi phạm quyền hạn pháp lý của liên bang, vi phạm các hiệp ước và các bộ luật quốc gia, hay quấy rối lẫn nhau bởi các đạo luật thù nghịch và tranh giành nhau bởi các quan điểm sai trái về lợi ích.

Một tác dụng tốt đẹp khác của đặc quyền này là việc kiểm soát những thay đổi bất thường của chính quyền tiểu bang, kiểm soát sự chèn ép lợi ích của đa số đối với thiểu số và các cá nhân. Ước mong lớn lao nhất không có trong các chính quyền cộng hòa là sự xét xử vô tư, công bằng, không thiên vị và không vụ lợi trong những tranh chấp, giữa những phe phái khác nhau trong xã hội. Chỉ đa số mới có quyền quyết định, nhưng thường quá lạm dụng điều này.

Trong các chế độ quân chủ, chủ quyền thường trung hòa hơn đối với các phe phái và các lợi ích khác nhau, nhưng thật không may là các Quân vương lại có những lợi ích riêng và đôi khi có những mưu đồ ghê tởm chống lại tất thảy mọi người. Có thể các đặc quyền quốc gia theo mô hình này không đủ công bằng đối với những vấn đề địa phương, nhưng bản thân đặc quyền này sẽ ràng buộc một cách hiệu quả những mưu đồ lợi ích đi ngược lại lợi ích chung của toàn xã hội. Kể từ khi có hòa bình, chưa bao giờ các đại biểu Quốc hội Hợp bang lại thống nhất sự ủng hộ đối với chương trình tiền giấy, hay bất kỳ biện pháp cần thiết nào khác.

Uy quyền tối cao của quốc gia cũng phải được mở rộng và tôi tin là cần phải có hệ thống tư pháp. Nếu những thẩm phán, những người sẽ giải thích và áp dụng các bộ luật, lại ràng buộc vào lợi ích và các lời tuyên thệ với các tiểu bang của họ chứ không phải với liên bang, thì vai trò của liên bang trong việc xây dựng các bộ luật có thể sẽ không có hiệu quả. Chí ít, các thẩm phán cũng phải tuyên thệ lòng trung thành với liên bang như đối với tiểu bang.

Trong mọi trường hợp liên quan đến người nước ngoài hay công dân của các tiểu bang khác, quyền kháng cáo phải được đệ trình lên các tòa án liên bang. Quyền hạn xét xử các vụ việc trên biển cũng phải hoàn toàn thuộc về các tòa án liên bang. Uy quyền tối cao của quốc gia trong bộ máy hành pháp có thể gặp cản trở trừ khi chính quyền liên bang bổ nhiệm có quyền bổ nhiệm những quan chức của mình. Quân đội phải được tổ chức dưới hình thức này hay hình thức khác và chịu sự điều hành của liên bang để bảo đảm mục đích phòng thủ chung.

Một chính quyền, với những quyền hạn rộng lớn như vậy, phải được tổ chức tốt và cân bằng. Cơ quan lập pháp cần chia thành hai viện. Một Viện được tất cả dân chúng hay các cơ quan lập pháp tiểu bang bầu chọn hằng năm, còn Viện kia có ít đại biểu hơn, có nhiệm kỳ dài hơn và mỗi nhiệm kỳ chỉ bầu lại một thiểu số, trong khi đa số vẫn giữ chức vụ.

Quyền phủ quyết có lẽ nên trao cho viện này là hợp lý nhất. Để kiểm soát chính quyền một cách chắc chắn hơn, có thể thiết lập thêm một Hội đồng phê duyệt, bao gồm những quan chức cao cấp.

Bộ máy hành pháp quốc gia cũng cần phải được thiết lập. Tôi chỉ vừa mới hình thành những suy nghĩ về mô hình tổ chức của bộ máy hành pháp và các quyền lực được trao cho cơ quan này.

Cũng cần phải bổ sung một điều khoản đảm bảo sự yên bình của các tiểu bang, chống lại những mối nguy hiểm bên trong cũng như bên ngoài. Để thực hiện điều này, quyền cưỡng buộc cũng phải được tuyên bố rõ ràng. Với các quyền thương mại trong tay, bộ máy hành pháp quốc gia luôn có quyền thi hành những biện pháp thương mại trên bộ cũng như trên biển.

Nhưng những khó khăn và rắc rối trong quá trình dùng vũ lực cưỡng chế một tiểu bang thi hành ý muốn chung của cả quốc gia, nên tôi rất mong muốn loại bỏ việc sử dụng vũ lực này. Quyền phủ quyết các đạo luật sẽ tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chính quyền liên bang và tiểu bang. Ngoài ra, cũng cần xác định rõ các hàng hóa sẽ bị đánh thuế. Các quyền này, cùng với việc điều hành vấn đề thương mại, nên trao cho chính quyền liên bang.

Ðể thiết lập được một hệ thống chính quyền hợp pháp và mạnh mẽ, mô hình này cần phải được công chúng phê chuẩn chứ không chỉ đơn giản là sự phê chuẩn của các cơ quan lập pháp tiểu bang. Ðiều này càng cần thiết hơn, khi tất yếu, bản Hiến pháp mới sẽ không tránh khỏi sự xung đột với các bản Hiến pháp tiểu bang hiện nay.
 
Thư của George Read gửi John Dickinson​


George Read và John Dickinson là đại biểu của Delaware, tiểu bang thuộc loại nhỏ nhất trong 13 tiểu bang Bắc Mỹ và là những chính khách quan trọng của tiểu bang và cả Hợp bang.

George Read từng nhiều lần làm Thống đốc và Chủ tịch Hội đồng Lập pháp Delaware, còn John Dickinson là tác giả chính của Các điều khoản Hợp bang. Bức thư của G. Read thể hiện mối lo lắng của những bang nhỏ ngay trong những ngày họp đầu tiên của Hội nghị.

Philadelphia, ngày 21 tháng Năm năm 1787​


Thật không may mắn rằng Ngài đã không nói sớm với tôi về chuyện thuê nhà ở đây. Phố Market, nơi tôi ở rất đông và căn buồng tôi ở quá nhỏ, không thể kê thêm một chiếc giường thứ hai. Sau khi từ New York trở về, tôi đã tới đây ngay theo lệnh của Ngài Thống đốc Randolph, khi đó ông ta hy vọng là sẽ mang vợ theo, nhưng rồi lại thôi, dù bà ta vẫn định đến đây trong một vài ngày tới.

Tôi vẫn chưa gặp Ngài Bassett, dù tối hôm qua ông ta đã đến đây. Ông ta nghỉ ở Quán rượu Nữ Hoàng Da Đỏ , nơi Ngài Mason, đại biểu tiểu bang Virginia nghỉ, người cuối cùng trong số 7 đại biểu của tiểu bang này. Bây giờ, chúng tôi đã có thể tổ chức cuộc họp với sự có mặt của 6 tiểu bang: Bắc và Nam Carolina, Virginia, Delaware, Pennsylvania, và New York. 3 tiểu bang Georgia, New Jersey và Massachusetts, mỗi bang có một đại diện.

Những người khác cũng sẽ sớm đến đây. Các đại biểu của Conneticute vừa mới được bổ nhiệm mấy ngày trước cũng sẽ tới đây. Chúng tôi không nhận được tin nào từ tiểu bang New Hampshire, có lẽ cũng đã cử người tới dự, còn tiểu bang Maryland, thì chắc Ngài biết rõ hơn vì tôi đã tới đây rồi. Cho đến nay, tiểu bang Rhode Island vẫn không cử người tới dự.

Những quý ngài khác đến đây sớm, đặc biệt là các đại biểu từ Virginia, đã có một cuộc họp ngay ngày đầu tiên, nhưng rất lo âu về sự chậm trễ của các tiểu bang khác trong việc cử đại biểu tới dự. Cuộc họp chính thức sẽ được tiến hành ngay khi có đủ mặt 7 tiểu bang. Tôi mong Ngài sớm đến.

Hiện tôi đang giữ một bản phác thảo Hiến pháp dự định sẽ được đệ trình lên Hội nghị. Một số đặc điểm của phương án này được lấy từ mô hình chính quyền của tiểu bang New York. Một viện đại biểu - Hạ viện, và một viện khác - Thượng viện sẽ hình thành cơ quan lập pháp, nhánh có quyền lực nhất của chúng ta. Hạ viện sẽ được chọn theo tỷ lệ dân cư của mỗi tiểu bang, bao gồm tất cả những người da trắng và 3/5 những người da đen.

Thượng viện sẽ được các đại biểu của Hạ viện bầu chọn từ bốn vùng lớn của đất nước mà cả nước Mỹ được chia ra với mục đích bầu chọn Thượng nghị sĩ. Sau khi bầu xong, các Thượng nghị sĩ sẽ được chia thành bốn nhóm để luân phiên bầu lại hằng năm. Tổng thống có quyền hành pháp trong thời hạn bảy năm. Theo phương án này, tiểu bang chúng ta được cử một đại biểu vào Hạ viện, bao gồm 80 ghế .

Tôi nghĩ điều quan trọng là các bang nhỏ phải kiểm soát chặt chẽ những hoạt động và âm mưu của các bang lớn. Nhiều kẻ có thể hợp tác với nhau để nuốt chửng và chèn ép các bang nhỏ và nếu Ngài muốn góp công sức chống lại những toan tính đó, thì Ngài phải nhanh chóng đến đây.
 
Thư của Wiliam Grayson gửi James Monroe​


William Grayson (1736-1790) là đại biểu của tiểu bang Virginia tại Quốc hội Hợp bang, người kịch liệt chống đối bản Hiến pháp, và đòi phải có Tuyên ngôn nhân quyền. Sau này, cùng với Richard Henry Lee, Grayson là Thượng nghị sĩ đầu tiên của Virginia tại Quốc hội Liên bang.

Còn James Monroe (1758-1834) là chính khách nối tiếng của Mỹ, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Mỹ như Thượng nghị sĩ, Công sứ tại Pháp, Thống đốc Virginia (1799-1802), Công sứ tại Anh (1803-1807), Ngoại trưởng Mỹ (1811-1817) và là Tổng thống thứ 5 của Mỹ trong hai nhiệm kỳ (1816-1825), nổi tiếng với "Học thuyết Monroe", được công bố năm 1823.

Khi Hội nghị diễn ra, Wiliam Grayson và James Monroe đều là đại biểu tại Quốc hội Hợp bang, nhưng dù không được chọn làm đại biểu tham dự Hội nghị Lập hiến. Bức thư này thể hiện mối quan tâm đó và thể hiện quan điểm của các chính khách không tham dự Hội nghị nghi ngờ về kết quả mà Hội nghị mang lại.

New York, ngày 29 tháng Năm năm 1787.​


Nhiều đại biểu rời Quốc hội Hợp bang để tham dự Hội nghị Lập hiến làm Quốc hội mất đi nhiều sức mạnh, và dĩ nhiên chẳng thể làm được việc gì ở đây cả. Tôi thật sự tin là việc này sẽ kéo dài cho đến khi Hội nghị Lập hiến giải tán, có lẽ phải mất tới ba tháng.

Tôi không biết chắc cuộc họp của họ sẽ mang đến những gì, nhưng khó lòng tin được rằng sẽ mang lại nhiều điều tốt lành. Đối với tôi, dân chúng nước Mỹ chưa hoàn toàn chín muồi cho bất cứ cải cách quan trọng nào, tới mức cuối cùng họ có thể thông qua hay bác bỏ nó. Sức mạnh và uy tín của tướng Washington, như Ngài cũng nhận thấy là rất cao ở nước Mỹ, song tôi cũng chẳng tin rằng uy tín này đủ để làm cho dân chúng chấp nhận đóng thuế hay tự nguyện trao nộp các quyền cho nhà nước.

Các đại biểu từ các tiểu bang miền Tây tán thành một chính phủ rất mạnh và mong muốn thuyết phục mọi cơ quan lập pháp tiểu bang đồng ý thiết lập một chính quyền chung. Nhưng tôi không cho rằng dân chúng sẽ ủng hộ họ. Ngược lại, dân chúng Massachusettes nghĩ rằng chính phủ quá mạnh và sẽ lại có các cuộc nổi dậy chống lại để thiết lập một chính phủ dân chủ hơn.

Tại Connecticut, dân chúng đã bác bỏ yêu cầu đó trong năm quyết định này và không một ai được bầu vào các chức vụ của chính quyền nếu ông ta tuyên bố sẽ thanh toán các món nợ trong nước. Rhode Island từ chối cử các đại biểu tham dự vì dư luận ở đây tán thành một chính quyền tốt đẹp, sau khi họ đã thanh toán hết các khoản nợ của mình bằng những đồng tiền mất giá trị để tàn phá những kẻ thù chủ nợ của họ.

New Hamsphire thì vẫn chưa chi trả một đồng xu nào từ khi giành được hòa bình và cũng không có ý định thanh toán vĩnh viễn. Nếu tiểu bang này cố gắng đánh thuế để thanh toán các khoản nợ trong nước, thì có lẽ chỉ trong nửa tháng, 500 cuộc nổi dậy như của Shays sẽ nổ ra.

Tiểu bang New York đã thanh toán phần lớn số nợ bằng cách cướp bóc của New Jersey và Connecticut. Tiểu bang Jersey sẽ có những hành động thái quá vì các động cơ trả thù vì lợi ích cá nhân. Ngài cũng sẽ thấy là việc Pensylvania tham gia Hội nghị chỉ để buộc cơ quan hành pháp tối cao của Hợp chúng quốc phải đặt tại Philadelphia, nhằm mang lại cho tiểu bang này những lợi thế thương mại nhằm bù đắp việc mất đi những quyền lực của tiểu bang.

Tôi không biết các tiểu bang miền Nam thế nào, nhưng tôi nghĩ có thể do những quan điểm khác biệt nào đó, họ sẽ khó chấp nhận tham gia một chính quyền liên minh nếu phải từ bỏ một số quyền lực.
 
Thư của Geo Mason gửi con trai​


Bức thư này thể hiện trách nhiệm cao cả, lòng nhân ái và niềm tin về một chính quyền tốt đẹp của G. Mason, người đấu tranh không mệt mỏi cho quyền của con người.

Sau này, Mason là một trong ba đại biểu đã từ chối ký vào bản Hiến pháp và sau đó, liên tục đấu tranh đòi phải có một Tuyên ngôn nhân quyền. Đây là một bức thư rất cảm động, thể hiện những ước mong chân thành nhất của ông về tương lai của nước Mỹ.

Philadelphia, ngày 1 tháng Sáu năm 1787.​


Những điều cha nói với con trước đây, trước khi Hội nghị này nhóm họp, về mô hình một hội đồng quốc gia vĩ đại sẽ bao gồm hai Viện trong cơ quan lập pháp, một tòa án và một cơ quan hành pháp dựa trên nguyên tắc đại diện bình đẳng tại Quốc hội.

Quyền lực sẽ được trao cho các cơ quan này vì những mục đích cao cả của liên bang, nhưng vẫn kiểm soát được các cơ quan lập pháp tiểu bang và đây vẫn là những cơ quan đầy quyền lực. Virginia có vinh dự được đệ trình những điểm chính yếu của kế hoạch này. Trên cơ sở đó, Hội nghị sẽ tiến hành thảo luận chi tiết, nhưng chậm đến mức không thể biết khi nào mới hoàn tất, sớm nhất cũng không thể trước tháng Tám, dù mọi người muốn hoàn thành một cách nhanh chóng.

Khi mới đến đây, qua trao đổi thẳng thắn với đại biểu từ các tiểu bang khác, cha cảm thấy thật cay đắng và phẫn nộ với những thất bại không ngờ được mà chúng ta phải gánh chịu từ những nguyên tắc dân chủ trong chính quyền. Chúng ta dường như đang đi vào sự cực đoan và có thể sẽ lâm vào tình trạng "tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa".

Cha nghĩ đó là điều nguy hiểm, dù cha hài lòng khi thấy Hội nghị này tập trung được nhiều người có những tư tưởng cộng hòa thuần khiết. Tại Hội nghị này, nước Mỹ cũng tập hợp được những cá nhân xuất sắc nhất, những người có tài năng đáng khâm phục, với những mục đích cao cả. Mọi con mắt của nước Mỹ đang hướng về Hội nghị này và sự trông đợi của họ đã tăng lên rất cao.

Ơn Chúa tối cao, cha và những người bạn của cha có thể làm cho họ hài lòng bằng việc thiết lập một chính quyền khôn ngoan và công bằng. Với riêng cha, cha chưa bao giờ ở trong một bối cảnh như hiện nay và cha phải tuyên bố rằng cha tham dự Hội nghị này không phải vì tiền, dù 1.000 bảng một ngày.

Cuộc Cách mạng giành độc lập từ nước Anh và quá trình xây dựng chính quyền mới lúc đó chẳng là gì so với công trình vĩ đại đang ở trước mắt cha. Lòng nhiệt tình thời đó đã truyền cảm hứng và ủng hộ hệ thống được thiết lập như hiện nay.

Nhưng cần phải nhìn một cách thật bình tĩnh và đúng đắn, thì sẽ thấy rằng việc thiết lập chính quyền này có thể sẽ mang lại hạnh phúc hay đau khổ cho hàng triệu người, cả hiện nay và trong tương lai. Đó vẫn là mục tiêu cao cả, đầy hấp dẫn và thách thức sự hiểu biết của loài người.

Mọi thông tin về quá trình hội họp đều bị ngăn cấm. Cha nghĩ điều này là cần thiết để tránh những hiểu lầm có thể xảy ra vì những quan điểm khác biệt về cho tới khi mô hình chính quyền được hoàn thiện bằng một cách thức đúng đắn.
 
Thư của G. Washington gửi Hầu tước La Fayette​


Hầu tước Lafayette (1757-1834) được mệnh danh là “Người anh hùng hai châu lục”, ở cả châu Mỹ và châu Âu, vì có đóng góp to lớn cho cả cuộc Cách mạng Mỹ và Pháp.

Năm 1777, ông đứng về phía nhân dân Mỹ trong cuộc chiến tranh với Anh, tự tuyển mộ quân đội và vượt biển sang giúp nhân dân Mỹ. Lafayette rất thân thiết với George Washington và nhiều lãnh tụ của cuộc Cách mạng Mỹ.

Năm 1789, ông tán thành cuộc Cách mạng Pháp và đề xuất Tuyên ngôn nhân quyền. Ông cũng là Tư lệnh Vệ binh Quốc gia kể từ năm 1789. Năm 1815, ông là một trong những người đòi Napoléon I thoái vị.

Trong bức thư này, Washington trình bày những suy nghĩ và những lo âu của cá nhân ông về Hội nghị Lập hiến cho Hầu tước La Fayette, lúc này đã trở về Pháp.

Philadelphia, ngày 6 tháng Sáu năm 1787.​


Suốt từ khi tới đây, tôi luôn có ý định viết cho Ngài một bức thư dài tại chính nơi này trước khi rời đi để tôi cảm thấy hài lòng và cũng mang lại thông tin cho Ngài [về Hội nghị này] nhưng vẫn chưa tìm được dịp nào. Do vậy, tôi phải đợi đến khi kết quả của cuộc họp hiện nay trở nên rõ ràng hơn và cho đến khi các đại biểu tham dự được phép thông tin về quá trình hội họp.

Ngài Hầu tước thân mến, tôi dám nói rằng Ngài sẽ ngạc nhiên khi nhận được bức thư tôi viết từ nơi này và có lẽ Ngài sẽ càng ngạc nhiên hơn khi biết rằng trái ngược với những tuyên bố công khai và những dự định của tôi về những vấn đề phức tạp và về bản chất yếu đuối tự nhiên của con người rằng không thể có bất kỳ ai có thể giải quyết được một cách tốt đẹp những vấn đề mà ông ta gặp phải.

Áp lực của công chúng lớn đến mức tôi không thể cưỡng lại lời kêu gọi triệu tập một Hội nghị các tiểu bang để quyết tâm rằng liệu tại thời điểm hiện nay, chúng tôi có thể thiết lập được một chính quyền đáng kính trọng, đảm bảo cuộc sống, sự tự do và phồn vinh, hay phải chấp nhận một chính quyền mà rồi sẽ dẫn tới tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ, bị điều khiển bởi những kẻ mị dân không quan tâm gì đến lợi ích quốc gia ngoài những tham vọng cá nhân.

Tôi không thể nói được điều gì sẽ đến sau những cuộc thảo luận kỹ càng. Nếu được phép, tôi sẽ thông tin cho Ngài biết và tin rằng càng chi tiết thì tôi sẽ càng hài lòng.
 
Thư của Edward Carlington gửi Thomas Jefferson​


Edward Carlington là sĩ quan tùy tùng của Washington trong chiến tranh, cũng là một chính khách của tiểu bang Virginia. Giống như bức thư của Grayson gửi Monroe, bức thư này cũng thể hiện mối quan tâm là lo lắng của họ về Hội nghị này, về tương lai chính trị và số phận của cả nước Mỹ.

Lúc này, Thomas Jefferson không có mặt ở Mỹ, ông đang là Công sứ tại Paris, nhưng ông rất quan tâm và theo sát những diễn biến ở quê nhà.

New York, ngày 9 tháng Sáu năm 1787.​


Nhiệm vụ của những đại biểu này là tiến hành mọi cải cách cho thể chế Hợp bang của chúng ta hiện nay. Lúc đầu, một số tiểu bang đã hạn chế quyền của các đại biểu chỉ được quyết định vấn đề thương mại, nhưng sau đó, lại cho phép họ tự do thảo luận. Quyền hạn rộng lớn này cùng với sứ mạng chung của các tiểu bang rõ ràng đã buộc tướng Washington phải chấp nhận tham dự, trái với dự định ban đầu của ông.

Thái độ của ông trong cả hai giai đoạn đều cho thấy ông rất băn khoăn về sự cần thiết phải có những cải cách. Những đại biểu tham dự Hội nghị này đều nhận thức được sứ mạng mà những người khác đã giao phó cho họ và Hội nghị này đang khuấy động sự chú ý của cả đất nước.

Ấn tượng chung, trong cũng như ngoài Hội nghị này, là một chính quyền liên bang hiệu quả sẽ được thành lập để đáp ứng với hoàn cảnh của đất nước, không bị tác động bởi những thay đổi thất thường [trong nền chinh trị]. Sức mạnh của chính quyền này sẽ lan tỏa khắp đất nước.

Dù lúc đầu, dân chúng có thể chần chừ và do dự, nhưng rồi họ sẽ chấp nhận chính quyền này. Dân chúng rồi đây sẽ tin rằng cần phải từ bỏ mô hình chính quyền yếu kém hiện nay và họ sẽ không bác bỏ nếu một mô hình khôn ngoan, sáng suốt được thiết lập, để tự đưa mình trở lại thời kỳ hỗn loạn vô chính phủ.

Các tranh luận và suy xét kỹ lưỡng ở Hội nghị này được hoàn toàn giữ bí mật. Những kết luận chỉ được đưa ra sau những nghiên cứu kỹ lưỡng, được hình thành từ quan điểm chung của mọi người. Nói gọn lại là có hai mô hình.

Thứ nhất là củng cố lại toàn bộ đất nước vào một nhà nước cộng hòa, làm cho các tiểu bang khi đó chẳng khác gì những vùng đất lệ thuộc vào sự điều hành của chính quyền trung ương.

Thứ hai là thử tìm một chính quyền liên bang với các thẩm quyền độc lập và hoàn hoàn về thương mại, thuế khóa và quân sự của liên minh, quyền tuyên bố chiến tranh và hòa bình, cùng với quyền phủ quyết mọi đạo luật của các cơ quan lập pháp tiểu bang. Tôi nghĩ ý tưởng đầu tiên là không thực tế và do vậy, sẽ không được đề xuất và thông qua.

Những bộ luật chung cho cả nước, bao gồm quá nhiều vùng đất, nhiều phương thức sản xuất và phong tục tập quán của các tiểu bang chúng ta, sẽ phải thi hành với quá nhiều sự cưỡng ép và một cơ quan lập pháp chung sẽ không đủ năng lực để xây dựng những bộ luật phù hợp với địa phương, dù đa số mong muốn.

Trong mọi trường hợp, các đạo luật như vậy sẽ bị phớt lờ và các mục tiêu của chính quyền liên bang sẽ không thực hiện được. Những quyền lực cần thiết, cũng như những lợi ích của việc đại diện, sẽ bị mất và công chúng chỉ tuân thủ nếu chính quyền sử dụng vũ lực, nhưng điều đó đi chệch khỏi một thể chế tự do. Một chế độ như thế sẽ dẫn đến một nền chuyên quyền hoặc những trục trặc mà hiện nay chúng ta đang tìm cách loại bỏ.

Thực ra, tôi tin rằng không có gì tốt đẹp hơn việc trao cho chính quyền liên bang toàn quyền kiểm soát các chính quyền tiểu bang.

Đó là chủ đề đáng để thảo luận. Nếu các quyền hành pháp được kiểm soát hiệu quả và phải hợp lý thì mô hình chính quyền xây dựng trên các nguyên tắc được điều chỉnh phù hợp, chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta sự ổn định và sức mạnh như một quốc gia.

Trừ khi liên bang có ảnh hưởng quyết định đối với các tiểu bang, thì sẽ có những nỗ lực không ngừng nhằm giành lại những quyền đã trao. Chính quyền Liên bang không thể có lý do bác bỏ được những đạo luật không sai trái của các tiểu bang. Quyền phủ quyết của Vua Anh đối với các đạo luật của chúng ta trước đây không phải là hoàn toàn sai trái.
 
Thư của Hamilton gửi George Washington​


Cùng với Madison, Hamilton là người đã đề xướng triệu tập Hội nghị Lập hiến, nhưng do bất bình với hai đại biểu cùng tiểu bang là John Lansing và Robert Yates, Hamilton đã rời bỏ Hội nghị.

Việc ông có mặt tại Philadelphia là không có ý nghĩa khi lá phiếu của ông luôn bị hai đại biểu kia bác bỏ.

Mặt khác, mô hình về chính quyền của ông không được Hội nghị chấp thuận. Tuy nhiên, Hamilton vẫn tiếp tục trao đổi với Washington, người đang là Chủ tịch Hội nghị, về quan điểm của mình và báo cho Washington biết những thông tin ông bắt gặp trên đường đi.

Ước muốn của Hamilton, cũng là ước muốn chung của nhiều chính khách đương thời, đó là nhất quyết phải thiết lập một chính quyền quốc gia mạnh. Sau này, khi chính phủ đầu tiên của Washington được thiết lập, được chọn làm Bộ trưởng Tài chính, Hamilton đã cống hiến mọi sức lực và khả năng để triển khai những ý tưởng của mình.

New Jersey, ngày 3 tháng Bảy năm 1787,​


Thưa Ngài,

Trong chuyến đi của tôi về New Jersey và từ khi đến đây, tôi đặc biệt lo âu khi nhận thấy tâm trạng của công chúng và càng tin tưởng rằng Hội nghị Lập hiến này là cơ hội sống còn cuối cùng cho chúng ta thiết lập lại sự thịnh vượng của đất nước trên một nền tảng vững chắc hơn. Tôi cũng nói chuyện với những người hiểu biết, không chỉ ở thành phố này mà còn ở nhiều miền trong tiểu bang.

Họ đồng ý rằng một cuộc cách mạng kỳ diệu mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn đang ở trong tâm trí tất cả mọi người. Họ nghĩ rằng do nỗi sợ hãi làm chấn động công chúng nên Hội nghị này sẽ không tiến đủ xa. Họ dường như tin rằng một mô hình nhà nước vững mạnh sẽ phù hợp với sự trông chờ của công chúng hơn là bất kỳ mô hình nào khác. Bất chấp việc những viên chức chính quyền đang làm mọi cách có thể để tạo ra những mối ác cảm về Hội nghị này, xu hướng chung hiện nay dường như đi theo hướng ngược lại.

Mọi người bắt đầu tin rằng "mô hình tuyệt hảo của chính quyền", như họ từng đòi hỏi, sẽ không thể đáp ứng được mọi nhu cầu của đất nước. Thay vào đó, họ muốn một mô hình nào đó không quá xa với mô hình mà họ vừa từ bỏ.

Những dấu hiệu đó dù không khẳng định rằng dân chúng sẵn sàng ủng hộ hoàn toàn kế hoạch này như tôi trông đợi, nhưng cũng không có lý do nào để hết hy vọng về một mô hình chính quyền mạnh, nếu Hội nghị đề xuất và phê chuẩn. Họ tin rằng chúng ta đã không có nhiều quyền lực để thực hiện những mong mỏi của dân chúng về một bản Hiến pháp có hiệu quả…

Do không biết rõ quan điểm của Ngài nên tôi không thể khẳng định được liệu các suy nghĩ của chúng ta sẽ giống nhau đến mức độ nào, nhưng tôi tin rằng Ngài sẽ hiểu được những suy nghĩ chân thật này. Mối lo âu của tôi về sự kiện này buộc tôi phải viết bức thư này trình bày điều mà dường như là tâm trạng chung của dân chúng. Xin thú thật với Ngài rằng tôi rất lo âu về những chia rẽ bè phái tại Hội nghị khi tôi rời Philadelphia.

Tôi sợ rằng chúng ta sẽ bỏ lỡ “cơ hội vàng” cứu vãn nước Mỹ khỏi sự chia rẽ, tình trạng hỗn loạn vô chính phủ và cảnh nghèo đói. Không có một biện pháp hỗn tạp hay yếu ớt nào có thể giải quyết dứt điểm vấn đề này. Cần phải có quyết định sáng suốt và không có gì mang lại sự thành công cho Hội nghị này bằng sự hài lòng của dân chúng.

Tôi sẽ ở lại đây 10 đến 12 ngày nữa, nhưng nếu tin rằng sự có mặt của tôi ở Philadelphia là cần thiết thì tôi sẽ sớm trở lại.
 
Ghi chép của Manasseh Cutler​


Manasseh Cutler (1742-1823), tiến sĩ Luật, là người đồng sáng lập trường Ðại học bang Ohio. Trong thời gian Hội nghị Lập hiến nhóm họp, ông đã tới thăm Philadelphia và có những cuộc gặp với các đại biểu của Hội nghị.

Phần sau được trích ra từ nhật ký của ông về những điều ông cảm nhận được về các đại biểu cũng như về Hội nghị này. Những ghi chép này rất thú vị vì đã thể hiện cuộc sống và phong cách của những đại biểu quý tộc đương thời và bối cảnh của Hội nghị cũng như sự quan tâm đặc biệt của những người dân thường trông đợi về kết quả của Hội nghị này.

Ngày 13 tháng Bảy năm 1787.​


Quán rượu này nằm trên Phố thứ 3, giữa phố Chợ và phố Hạt dẻ, ngay gần trung tâm thành phố. Quán rượu này có một phong cách lịch sự và trang nhã, có nhiều tòa nhà với các sảnh rộng, cùng với nhiều phòng nhỏ thích hợp cho việc ngủ trọ. Trong khi tôi đang dùng trà thì vài đại biểu của Hội nghị Lập hiến, hiện đang nhóm họp tại thành phố này với mục đích hình thành một bản Hiến pháp Liên bang, bước vào nhà. Hai trong số họ là các đại biểu của tiểu bang Massachusetts.

Ngay khi uống trà xong, tôi bước đến chỗ họ ngồi (họ cũng sống ở đây), đến chỗ Ngài Strong và muốn nói chuyện với ông ta. Trước đây, chưa bao giờ chúng tôi quen nhau và tôi cũng chưa từng viết thư cho ông ta, nhưng cả hai chúng tôi đều biết tiếng nhau; và sau đó Ngài Gerry nói với Ngài Strong là ông ta rất muốn gặp tôi, do bức thư ông ta nhận của Thống đốc Bowdoin.

Ngài Strong rất lịch sự giới thiệu tôi với Ngài Gorham, người Chalestown, Massachusetts; Ngài Madison, Ngài Mason và cậu con trai đến từ tiểu bang Virginia; Thống đốc Martin; quý Ngài Hugh Williamson, Bắc Caroline, quý Ngài John Rutledge và Ngài Pinckney, tiểu bang Nam Caroline; Ngài Hamilton, từ New York; họ đều sống trong ngôi nhà này và nhiều quý ngài khác cũng có mặt tối hôm đó với họ.

… Chúng tôi đến tòa nhà Quốc hội tiểu bang. Ðây là một tòa nhà rất sang trọng với kiến trúc đẹp và tiện lợi hơn bất cứ tòa nhà nào khác mà tôi biết từ trước đến nay. Lúc này, Tòa án Tối cao đang đặt tại đây và chỉ có ba thẩm phán. Một căn phòng rộng ở phía Ðông, dành cho các hoạt động công cộng, nhưng lúc này dành cho Hội nghị Lập hiến sử dụng. Lính gác có mặt tại đây để ngăn không cho ai lại gần và họ rất cảnh giác trong bổn phận của mình.

Ngài Flanklin sống ở Phố Chợ, giữa Phố thứ 2 và Phố thứ 3, ngôi nhà của ông lại lùi sâu một chút. Chúng tôi gặp ông ta đang đứng trong vườn, dưới một cây dâu lớn với nhiều quý ngài khác và hai hay ba quý bà. Tôi trao cho ông các bức thư của tôi.

Sau khi đọc chúng, ông bắt tay tôi và với những lời lẽ lịch sự, ông giới thiệu tôi với các quý ngài khác, hầu hết là các đại biểu tại Hội nghị Lập hiến và chúng tôi trao đổi với nhau cởi mở cho tới khi trời tối. Ngài Flanklin cho tôi xem một thứ rất khác lạ mà ông vừa nhận được, và ông ta rất hài lòng với điều này.

Ðó là một con rắn có hai đầu đặt trong một cái chai lớn. Ngài Flanklin nói về con rắn này. Nếu như nó phải trườn qua các bụi rậm và một đầu thích đi hướng này, còn đầu kia lại thích trườn theo hướng kia và chẳng đầu nào chịu nhường nhau. Rồi ông định nói về một điều hài hước xảy ra trong Hội nghị Lập hiến, để so sánh con rắn với nước Mỹ, như thể ông quên mất rằng mọi điều trong Hội nghị này phải giữ bí mật nên viên thư ký Hội nghị đã chặn ông lại và lấy đi câu chuyện có lẽ ông sắp kể với tôi.

... Khoảng 10 giờ tối, tôi trở về nhà trọ. Các quý ngài sống trong ngôi nhà này cũng tập trung ăn tối tại một chiếc bàn ăn. Trông họ rất sang trọng theo đúng phong cách giới quý tộc. Sau bữa ăn, Ngài Strong lại đến và mời tôi về ngôi nhà của họ và chúng tôi ở đó tới tận 12 giờ.
 
Thư của J. Madison gửi T. Jefferson​


Rất lo ngại về triển vọng thành công của Hội nghị, Madison liên tục viết thư trao đổi với Thomas Jefferson, khi này đang ở Pháp để chia sẻ những suy nghĩ của mình, đồng thời muốn nhận được ý kiến góp ý của Jefferson.

Madison hiểu rằng một luật gia xuất sắc và một chính trị có nhiều ảnh hưởng như Jefferson chắc chắn sẽ có tác động lớn đến tiểu bang Virginia cũng như với toàn thể nước Mỹ.

Những bức thư này là tiền đề cho tình bằng hữu lâu dài giữa hai người, để cuối cùng, trong chính quyền mới, họ trở thành những lãnh tụ của Đảng Cộng hòa - Dân chủ và đều có những đóng góp vô cùng to lớn cho nhà nước Cộng hòa Mỹ.

Philadelphia, ngày 6 tháng Chín năm 1787​


Khi Hội nghị sắp kết thúc, tôi lại lo ngại về những điều sẽ phơi bày cho công chúng ở đây, trước khi bản Hiến pháp này đến tay Ngài. Tôi có thể bảo vệ bằng cách mã hóa [bức thư] để tránh bị tiết lộ giữa chừng, nhưng tôi thấy thời gian từ khi nhận được bức thư của Ngài ngày 20 tháng Sáu tới nay thật ngắn ngủi, [nên không kịp].

Hôm nay là ngày đầu tiên ngoài những giờ ở phòng họp, tôi được tự do thoát khỏi các công việc của ủy ban, và là ngày nghỉ cuối cùng trước khi Hội nghị này kết thúc. Bây giờ Hội nghị hầu như chỉ họp với 11 bang . Các buổi họp được tiến hành liên tục, trừ 10 ngày nghỉ để một ủy ban được bổ nhiệm soạn thảo chi tiết các điều vừa được thảo luận.

Hội nghị sẽ kết thúc trong vòng 1-2 tuần nữa. Mô hình chính quyền sẽ gửi cho công chúng tất cả các tiểu bang phê chuẩn, bao gồm Tổng thống được trao quyền hành pháp; Thượng viện do cơ quan lập pháp tiểu bang bổ nhiệm; Hạ viện do dân chúng bầu ra, căn cứ theo số dân mỗi bang. Hai cơ quan này cùng giữ quyền lập pháp. Một bộ máy tư pháp cũng được thiết lập.

Mô hình bộ máy hành pháp là một trong vài điểm còn lại chưa được thống nhất. Mỗi tiểu bang sẽ có hai đại biểu tại Thượng viện với nhiệm kỳ sáu năm. Hạ viện được dân chúng các tiểu bang bầu chọn hai năm một lần. Quyền lập pháp sẽ được mở rộng ra cả lĩnh vực thương mại, thuế và một số lĩnh vực chung khác của liên bang. Quyền lực của Quốc hội Hợp bang hiện nay sẽ được phân bổ vào các cơ quan thích hợp căn cứ vào bản chất của quyền lực đó.

Các tiểu bang sẽ bị hạn chế quyền phát hành tiền giấy và một số quyền khác. Ðó là những nét chính, nhưng chi tiết các vấn đề này có lẽ sẽ làm Ngài ngạc nhiên. Tôi mạo muội nói rằng dù kế hoạch này được phê chuẩn cũng sẽ không thể đáp ứng hoàn toàn các đòi hỏi của quốc gia, không ngăn chặn những sai sót ở các tiểu bang đang gây ra sự bất bình khắp mọi nơi hiện nay. Chi tiết về vấn đề này, tôi sẽ viết cho Ngài trong bức thư sau.

Nỗi lo âu của toàn bộ dân chúng về Hội nghị này đặc biệt lớn. Những bài báo và những lời phỏng đoán đề cập đến kế hoạch đang được thảo luận tại Hội nghị có nhan nhản ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, công chúng chắc chắn là chẳng biết gì cả vì Hội nghị này hoàn toàn bí mật. Ý kiến chung hiện nay có lẽ là ủng hộ, song không thể loại trừ một số nhân vật sẽ chống lại bất kỳ sự cải cách nào.

Tôi nghĩ là công chúng hiện nay hay trong một thời gian ngắn tới đây sẽ chấp nhận bất cứ điều gì, miễn là cam kết về sự ổn định của nền cộng hòa, đảm bảo quyền tự do cá nhân, bất chấp những thành kiến địa phương hay những toan tính nhất thời. Nếu khoảnh khắc này qua đi, thì thật khó có thể nói số phận của chúng ta sẽ đi về đâu.

Ngài Wythe đã không trở lại đây nữa. Vợ ông ấy bị ốm, và đó là lý do buộc ông ấy phải rời Hội nghị. Nhưng bà ta đã mất chỉ một vài ngày sau khi ông ấy về nhà...
 
Thư của các đại biểu Bắc Caroline gửi Thống đốc Caswell

Philadelphia, ngày 18 tháng Chín năm 1787​


Sau suốt 4 tháng làm việc mệt mỏi và lo âu, Hội nghị này đã soạn thảo xong mô hình chính quyền của Hợp chúng quốc. Chúng tôi hy vọng mô hình này sẽ loại bỏ những khiếm khuyết của mô hình Hợp bang hiện nay.

Với việc mở rộng quyền lực, bản Hiến pháp này sẽ mang lại một chính quyền hiệu quả. Chúng tôi có vinh dự được gửi kèm theo bức thư này một bản sao của bản Hiến pháp và khi Ngài gửi văn bản này lên Nghị viện tiểu bang, chúng tôi khẩn khoản cầu xin Ngài nhận xét công bằng đối với cơ quan đáng kính trọng đó rằng chúng tôi đã làm hết sức mình để bảo đảm và thúc đẩy lợi ích của tiểu bang Bắc Caroline.

Ngài sẽ thấy việc bầu chọn Hạ viện sẽ căn cứ vào dân số, nhưng phải nói chính xác là căn cứ vào toàn bộ người da trắng và 3/5 những người da đen. Ngài cũng sẽ nhận thấy là trong ba năm đầu tiên, Bắc Caroline sẽ có 5 đại biểu tại Hạ viện, chỉ chiếm 1/13 toàn bộ số đại biểu của Viện này và phần phải đóng góp hằng năm vào ngân sách quốc gia cũng không quá cao.

Chúng tôi có lý do chắc chắn để tin rằng công dân tiểu bang Bắc Caroline là nhiều hơn 1/13 toàn bộ dân số Hợp bang, nhưng tiểu bang không chứng minh được điều này và các đại biểu cũng không quá hăng hái biện hộ, bởi nếu thế, số thuế phải đóng, căn cứ theo số đại diện, cũng sẽ tăng lên.

Chúng tôi có nhiều lý do để hy vọng về chính quyền quốc gia này. Điều chúng tôi lo sợ nhất là mức thuế đánh quá nặng và không bình đẳng. Nhưng chúng tôi hy vọng Ngài cũng như chúng tôi tin rằng các tiểu bang miền Nam nói chung và Bắc Caroline nói riêng, sẽ được hệ thống chính quyền đề xuất đảm bảo về lĩnh vực này.

Khoản 9 của Điều 1 trong bản Hiến pháp qui định không có thuế thân hay thuế thu trực tiếp nào sẽ được đặt ra nếu không phù hợp với tỷ lệ của dân cư, và theo điều này, thì cứ 5 người nô lệ da đen sẽ bằng 3 người da trắng.

Nếu thuế đất được đặt ra, thì cũng sẽ được đánh theo tỷ lệ đó. Ví dụ 50 công dân tiểu bang Bắc Caroline sẽ không phải nộp thuế cho toàn bộ đất đai của mình nhiều hơn số tiền 50 công dân của một tiểu bang miền Ðông phải đóng. Ðiều này có lợi lớn cho chúng ta khi hầu hết ruộng đất của họ thì nhỏ và nhiều người trong số họ lại sống ở các thị trấn hay thành phố. Hơn nữa, đất đai của chúng ta lại màu mỡ hơn của họ rất nhiều.

Việc qui định 5 người da đen chỉ phải đóng thuế tương đương với 3 người da trắng cũng làm tăng đáng kể lợi thế của chúng ta trong mô hình chính quyền mới. Các tiểu bang miền Nam cũng cam kết trả lại tự do cho những nô lệ đang khao khát thoát ra khỏi cảnh ngộ đó, tốt hơn những qui định trong bản Các điều khoản Hợp bang hiện nay.

Theo dự kiến, phần lớn ngân khố quốc gia sẽ thu bằng việc đánh thuế hàng xuất nhập khẩu, thuế hải quan và một số thuế khác. Nhưng Ngài sẽ thấy điều này được xác định trong Khoản 8, Ðiều 1 của Hiến pháp qui định rằng mọi thứ thuế đều thống nhất trong toàn liên bang.

Trong khi chúng tôi rất quan tâm tới việc tự bảo vệ mình và hình thành những đạo thuế có lợi cho tiểu bang nhà, thì cũng không thể nói rằng những người anh em khác của chúng ta ở miền Nam sao nhãng những lợi ích đó. Luật hàng hải hay quyền qui định các vấn đề thương mại nằm trong tay chính quyền liên bang. Theo đó, các tàu thuyền và thủy thủ được thuê sẽ mang lại sức mạnh cho các bang miền Bắc.

Ðây chính là điều các bang miền Nam phải chấp nhận để đổi lấy những lợi thế đã đề cập ở trên. Nhưng chúng tôi cầu xin Ngài xem xét lại toàn bộ sự thỏa hiệp để thấy chúng tôi không từ bỏ bất cứ lợi ích gì của Bắc Caroline và chúng tôi hoàn toàn nhận thức được sự độc lập cao nhất của các tiểu bang miền Nam. Chúng ta có thể tiến hành đóng tàu thuyền cho riêng mình và nếu việc đóng tàu và buôn bán hàng hải phát đạt ở tiểu bang quê nhà thì chúng ta cũng sẽ sớm sản xuất cho những người hàng xóm của mình.

Chúng tôi cũng muốn trình bày những quan điểm của chúng tôi về những điều khoản liên quan đến tiền bạc nói chung. Ngoài ra, cũng còn những xem xét khác liên quan đến mô hình đó, nhưng chúng tôi không muốn làm phiền Ngài với việc viện dẫn dài dòng chi tiết. Những điều này sẽ được chính thức đệ trình lên cơ quan lập pháp tiểu bang.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top