Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

songngu

Active member
Xu
57

Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng chợt tắt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Chẳng bao giờ, ôi ! chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm,

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

(Rút từ tập Thơ Thơ, 1938)

-------------

Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt nam, Hoài Thanh đã thấy "Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt". Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tựa đề Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự hoạ của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.

Thực ra, cái điệu sống vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục không thể tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao kì diệu. Mà sống là phải tận hưởng và tận hiến! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp.

Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.

Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất "ngại" cặp kè với chính luận. Thế nhưng, nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên thuộc loại thơ cảm xúc. Nhưng đọc kĩ sẽ thấy thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cấu tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột có lúc đã thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh hoạ cho triết học. Mà đó chính là cảm niệm triết học của một hồn thơ.

231404581417416309_small.jpg
Tôi muốn tắt nắng đi...

Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài, nhưng tự nó đã hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ "Ta muốn ôm". Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ trực tiếp cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều dễ thấy là thi sĩ có dụng ý chọn cách xưng hô cho từng phần. Trên, xưng "tôi" - lập thuyết, đối thoại với đồng loại. Dưới, xưng "ta" - đối diện với sự sống. Trình tự luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ ào ạt, sôi nổi như thác cuốn đã xoá mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.

Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. ấy là ước muốn quay ngược qui luật tự nhiên - một ước muốn không thể:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi

Muốn "tắt nắng", muốn "buộc gió" thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được qui luật, làm sao có thể vĩnh viễn hoá được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.

Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khiêu gợi. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.

Hãy xem cách diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Có lẽ trước Xuân Diệu, trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ - tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một một người tình rạo rực, trinh nguyên.

Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái lôgic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn "tắt nắng", muốn buộc gió chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho một trần thế như thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì trong sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, "ngon" nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái "ngon" kia khi còn trẻ thôi. Trong khi đó, cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:

Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

Con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên trí với quan niệm thời - gian - tuần - hoàn, với cái chu kì bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Con người hiện đại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống với quan niệm thời - gian - tuyến - tính. Thời gian như một dòng chảy vô thuỷ vô chung mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !

Không chỉ dùng sinh mệnh cá thể, Xuân Diệu còn đo đếm thời gian bằng cái quãng ngắn ngủi nhất của sinh mệnh cá thể: tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần hoàn.

Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người quá ư ngắn ngủi hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Không chỉ quan niệm, mà ngay cả cảm giác cũng hết sức mới lạ. Xuân Diệu đã đem đến một cảm nhận đầy tính "lạ hoá" về thời gian và không gian:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...

Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép "tương giao" (Correspondance) của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới, trước hết là thời gian và không gian. Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: "Mùi tháng năm" - thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương - chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn "buộc gió lại" ư - hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt phôi pha! Một chữ "rớm" cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ "vị" liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất: "vị chia phôi"! Thì ra chữ "rớm" và chữ "vị" đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó. Giọt lệ thường long lanh trên khoé mắt người trong giờ phút chia phôi. Giọt lệ thành hiện thân, biểu tượng của chia phôi. Vì sao thời gian lại mang hương vị - hình thể của chia phôi? ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép "tương giao"? Thực ra cái tinh tế của Xuân Diệu là ở chỗ này đây. Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay với không gian và với cả chính thời gian. Tựa như một phần đời của mỗi cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên bất tận: "than thầm tiễn biệt". Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi!

Và, một điều rất đáng nói đã bộc lộ đây đó trong thi phẩm này là: do dùng tuổi trẻ để đo đếm thời gian, nên ở Xuân Diệu đã xuất hiện một ý niệm thời gian khá đặc biệt, đó là thì sắc. Thời gian được nhìn ở phía nhan sắc, gắn với nhan sắc của sự vật. Vì thế mà với hồn thơ này, thời gian, về thực chất không có ba thì phân lập rành rẽ với quá khứ - hiện tại - tương lai, mà chỉ có hai thì luôn tranh chấp và chuyển hoá thôi đó là thời tươi và thời phai. Nó không phải là hai mùa. Không phải Xuân Diệu lược qui bốn mùa vào hai mùa. Mà là hai thì của mỗi một tạo vật thiên nhiên. Thời tươi: vạn vật thắm sắc, thời phai: vạn vật phôi pha, phai lạt. Vật nào trong trần thế này cũng trải qua hai thì ấy. Tất cả những ý niệm thời gian khác như năm tháng, mùa vụ, phút giây... dường như đều tan trong cái ý niệm thì sắc tổng quát đó. Mà ta thấy ở đây, nó hiện diện trong sự đối lập của "độ phai tàn" (thời phai) và "thời tươi":

- Chim rộn ràng chợt dứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.

- Cho no nê thanh sắc của thời tươi.

Có thể nói ý niệm thì sắc này đã chi phối toàn bộ nhỡn quan Xuân Diệu đối với việc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới trong sự trôi chảy vô thuỷ vô chung của nó.

Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có một cách thực tế nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian, là tranh thủ sống:

Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao gì nữa...
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm

Đến đây, phần luận giải cuả tuyên ngôn Vội vàng đã đủ đầy luận lí!

Phần cuối của bài thơ là lúc tuyên ngôn được hiện ra thành hành động, ấy là Vội vàng trong hình thái sống của cái tôi cá nhân cá thể này. Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt, vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống trào cuốn của mình:

Ta muốn ôm:
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, thành những đợt sóng vỗ mãi vào vào tâm hồn người đọc. Câu thơ Ta muốn ôm chỉ có ba chữ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa hàng thơ, là hoàn toàn có dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế này vào lòng ham muốn vô biên của nó. Cái điệp ngữ:"Ta muốn" được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm - riết - say - thâu - cắn. Có thể nói, câu thơ "Và non nước, và cây, và cỏ rạng" là không thể có đối với thi pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ "và" đến thế? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ "và" hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi s !

Câu thơ:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi

cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ "cho" điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thoả thuê: chếnh choáng - đã đầy - no nê. Sóng cứ càng lúc càng tràn dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:

- Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !

Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhuỵ đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong một cuộc tình chếnh choáng men say.

Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc, phải sống vội vàng. Thế là, Vội vàng chính là cách duy nhất để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường như cũng là cái giá trả cho hạnh phúc vậy! Xuân Diệu quả đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ của nguồn sống trẻ. Ta hiểu vì sao, khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ!


ST

Tham khảo 1 số bài về Bài thơ VỘI VÀNG của Xuân Diệu dưới đây:

1. Phân tích bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu

2. Phân tích bài thơ Vội vàng

3. Cảm nhận về bài thơ Vội vàng

4. Bình giảng bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

5. Bình giảng bài thơ Vội vàng

6. Đọc - hiểu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

7. Tìm hiểu bài thơ Vội vàng

8. Vội vàng - Xuân Diệu



 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Đề: Bình giảng bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu.

Bài làm

Có thể nói trong phong trào thơ mới, Xuân Diệu không cần phải tranh luận bằng những bài chính luận bởi vì những sáng tác của ông chính là một minh chứng hùng hồn cho những ưu thế của thời đại mới trong thơ ca.

Qua sự nghiệp văn chương còn đề lại, Xuân Diệu đã ddie vào các lĩnh vực: thơ, truyện ngắn, bút kí, tiểu luận phê bình, dịch thơ, lĩnh vực nào ông cũng tỏ ra xuất sắc, thấu đáo và gây được ấn tượng khó quên đối với người đọc.

Nhưng nổi bật nhất và đã được bao nhiêu thế hệ cảm phục, rồi chắc chắn sẽ mãi mãi được mọi người kính trọng, đấy là một Xuân Diệu nhà thơ, một Xuân Diệu khao khát vô hạn về tình yêu, về cuộc sống được thể hiện một cách mãnh liệt trên những dòng thơ kiệt xuất mà tiêu biểu là bài Vội vàng.

Mở đầu bài thơ là bốn câu thơ ngắn, nỗi câu năm chữ:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Tác giả muốn giữa lại sắc màu tươi đẹp của cuộc đời cho nên mới đòi tắt hết ánh nắng, để cho hương còn lại mãi, nhà thơ muốn buộc gió lại, vì sợ gió sẽ mang hương đi mất. Thật là những ý tưởng táo bạo và đầy tính chất lãng mạn. Bởi vì nắng và gió là những biểu tượng khách quan, tôi muốn tắt nắng, tôi muốn buộc gió tức là lấy cái tôi chủ quan để áp đặt lên thế giới khách quan. Nếu như ta đồng ý với nhận định văn học lãng mạn khẳng định "cái tôi" thì đây là cách khẳng định riêng của nhà thơ Xuân Diệu.

Nhưng màu và hương ấy là gì? Nhà thơ đã trả lời cho chúng ta:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Cả một không gian tươi thắm, tràn ngập hoa lá, ánh sáng, tình yêu. Những từ "này đây" có mặt trên từng câu thơ như một sự phô bày cụ thể hương sắc hết sức quyến rũ của cuộc đời. Mặc dù là tả cảnh nhưng đoạn thơ cũng gợi lên hương vị tình yêu bởi hình ảnh liên kết nhau dồn dập tạo cho ta cảm giác cuộc sống thật phong phú, cái nọ chen cái kia, sức sống bừng bừng muôn màu muôn vẻ. Quả thật, cuộc sống đang tồn tại, đang réo gọi, cuộc sống đem tới nguồn vui:

Mỗi buổi sáng thần Vui hằng gõ cửa:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Cách so sánh quả thật táo bạo! Tháng giêng tức là ngày xuân. Người ta có thể nói tháng giêng đẹp, ngày xuân vui, chứ chưa ai dám nói "tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Liên kết hình ảnh "tuần tháng mật", ta sẽ thấy so sánh này diễn ta niềm khát khao về tình yêu. Nghĩa là mùa xuân - tuổi trẻ về tình yêu, đó là cuộc sống. Con người khao khát sống, đón lấy mùa xuân trong thời trẻ chứ không phải để mùa xuân qua đi rồi mới ngồi nuối tiếc:

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Chính vì vậy cho nên trong tâm hồn người yêu cuộc sống ấy có hai trạng thái: vừa sung sướng vừa rội vàng: Vui sướng đón lấy mùa xuân và vội vàng sợ xuân sẽ hết.

Tại sao vậy? Bởi vì:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non,nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất,

Đấy là gì nếu không phải là cảm thức thời gian? Nhà thơ Xuân Diệu qua thơ mình, đã thể hiện sâu sắc cảm thức đó. Trong bài thơ Đây mùa thu tới, Xuân Diệu đã tả sự vận hành của thời gian trong hình ảnh mùa thu. Con người tinh tế ấy cảm nhận được bước đi vô cùng mong manh của thời gian: "Từ tôi phút ấy sang tôi phút này". Hiểu được điều đó, ta sẽ hiểu được cảm quan tinh vi của nhà thơ trong một từ "đương" mà hai nghĩa "đương tới" và "đương qua".

Điều đó lí giải tính cách vồ vập, sôi nổi,vội vàng trong tình yêu của Xuân Diệu. Bởi một lẽ, con người là hữu hạn, tuổi trẻ là một khoảng thời gian trong cuộc đời. Vì thế, cả đoạn thơ tiếp theo là sự kiến tạo nhưng quan hệ đối lập, đối lập trùng điệp, đối lập tiếp nối, đối lập để chỉ ra cái hữu hạn của con người:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi.

Trời đất là vô cùng, nhưng tôi là hữu hạn. Cho nên, trong cách nhìn của Xuân Diệu, ngay hiện tại đã có tương lai bởi vì đó là thời gian, thời gian thì vận hành mãi mãi. Rồi tất cả sẽ chia tay:

Mùi tháng năm đều rơm rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...

Một loạt những hình ảnh thiên nhiên hiện lên qua cảm thức thời gian ấy:

Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi?
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Nhà thơ nhìn thiên nhiên cảnh vật bằng tâm trạng chủ quan của mình cho nên nghĩ rằng cơn gió thì thào để nói lời tiễn biệt với lá biếc, con chim ngừng ca hót vì sắp sửa không còn được giây phút như hiện tại, như hôm nay. Cho nên, sau những câu hỏi lo lắng là những dấu chấm cảm, dấu chấm lửng tiếc rẻ:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

"Mùa chưa ngả chiều hôm" nghĩa là còn mùa xuân, còn tuổi trẻ. Chính lúc đó, chính lúc sức sống mãnh liệt, chính lúc trái tim nồng nàn, thì hãy sống cho trọn vẹn:

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Đây là một đoạn thơ rất được truyền tụng của Xuân Diệu. Nhịp thơ sôi nổi, dồn dập như nhịp đập của trái tim rộn ràng. Ôm sự sống, riết mây đưa, say cánh bướm…cái gì cũng mạnh mẽ, dồn dập, sôi nổi thể hiện niềm khát khao dâng tràn, cuồn cuộn. Ta có cảm tưởng thơ của Xuân Diệu chỉ là sự tuôn chảy những cảm xúc từ trái tim lai láng thi hứng, không một chút gượng gạo, không một nét làm duyên, không một từ bị ép uổng. Phải nói có một cái gì tham lam rất Xuân Diệu cũng nên! Ngay cả nụ hon là hết sức riêng tư của hai người, thế mà đối với Xuân Diệu cái hôn cũng gom chứa, thâu tóm cả núi non, cỏ cây, giang sơn. Nghĩa là cái hôn đầy khao khát, muốn chiễm lĩnh tối đa. Bởi vì chỉ có như vậy mới đủ:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hơi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Xuân Diệu là nhà thơ của từ ngữ thật bình dị mà vô cùng tinh tế: mơn mởn, chếnh choáng, đã đầy, no nê… Những từ ngữ ấy góp phần làm rõ tính cách của một hồn thơ hết mình, sống hết mình, yêu hết mình, làm việc hết mình. Nếu ai đó định nghĩa nhà thơ là con người của tình cảm thì Xuân Diệu là tình cảm của con người ham sống, khao khát sống. Bởi vì, đối với nhà thơ, mục đích của người là sự sống “mà còn gì làm cho sự sống đầy đủ hơn xuân và tình”.

Cho nên, Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân. Khi ông khao khát vô biên, tuyệt đỉnh, chẳng phải ông muốn hôn lên tới đỉnh cao nhất của sự sống đó sao? “Ham yêu, biết yêu, Xuân Diệu muốn tận hưởng tình yêu vì ông thấy chỉ tình yêu mới gồm được bao nhiêu ý nghĩa” (Thế Lữ)

Lời nhận xét ấy của Thế Lữ, một người biết Xuân Diệu ngay từ những ngày đầu nhà thơ chập chững làm thơ cho phép ta nghĩ rằng chất “vội vàng” trong thơ Xuân Diệu không phải là kiểu yêu cuồng sống vội mang màu sắc của chủ nghĩa hiện sinh như những nhân vật của Francois Sagan.

Vì những lẽ đó, ta có thể kết luận “Vội vàng” là một trong những bài thơ hay nhất và tiêu biểu nhất của Xuân Diệu cũng như của dòng thơ lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

Theo Ths.Phạm Ngọc Thắm*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Cho nên, Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân. Khi ông khao khát vô biên, tuyệt đỉnh, chẳng phải ông muốn hôn lên tới đỉnh cao nhất của sự sống đó sao? “Ham yêu, biết yêu, Xuân Diệu muốn tận hưởng tình yêu vì ông thấy chỉ tình yêu mới gồm được bao nhiêu ý nghĩa” (Thế Lữ
Tuổi trẻ thời nay mấy ai biết yêu ??
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top