Trường Sơn - Đường khát vọng

ngan trang

New member
Tên sách: Trường Sơn - Đường khát vọng
Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
Năm xuất bản: 2009
Số hoá: ptlinh, Sao Vàng



BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
Nguyễn Bắc Sơn
Vũ Tiến Lộc
Nguyễn Duy Hùng

BAN BIÊN SOẠN
Đồng Trưởng ban:
Nguyễn Thế Kỷ
Nguyễn Sĩ Cử (chủ biên)

Các thành viên:
Nguyễn Thanh Yên,
Ngô Doãn Khuyển,
Thành Tâm,
Bùi Minh Châu,
Hương Ly,
Nguyễn Trọng Tạo,
Nguyễn Thụy Kha
Nguyễn Thanh Châu



Lời Nhà xuất bản


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đường Hồ Chí Minh là tuyến chi viện và căn cứ chiến lược, một hướng chiến trường trọng yếu, một tổ chức giúp bạn xây dựng cơ sở cách mạng và phối hợp với bộ đội ta đánh địch ở Trung - Hạ Lào. Trong 16 năm từ 1959- 1975, đường Hồ Chí Minh luôn là trọng điểm đánh phá, là chiến trường thực nghiệm chiến tranh ngăn chặn, chiến tranh điện tử, chiến tranh hoá học ... của đế quốc Mỹ hòng cô lập miền Nam, thực hiện mưu đồ xâm lược, chia cắt lâu dài đất nước ta.

Với mục tiêu cao cả giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, chiến đấu và phục vụ chiến đầu anh dũng chống chiến tranh ngăn chặn khốc liệt của đế quốc Mỹ, đưa sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền bắc đến các chiến trường miền Nam và chiến trường nước bạn. Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một con đường huyền thoại, một kỳ tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong thế kỷ XX.

Ngày 3 tháng 12 năm 2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh (Nghị quyết số 38/2004/QH 11) với tổng chiều dài toàn tuyến khoảng 3.167 km. Từ năm 2003 đến nay, nhiều tuyến trên đường Hồ Chí Minh được thi công và nghiệm thu đã phát huy hiệu quả, tạo ra sức vươn và diện mạo mới cho nhiều vùng quê từ đông Trường Sơn sang tây Trường Sơn, từ Bắc vào Nam. Đây là những tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa kinh tế yếu kém, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn nhưng cũng là những địa phương có nhiều thế mạnh chưa được khai thác, nhất là tiềm năng về đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản...

Đường Hồ Chí Minh nay đã dần trở thành con đường huyết mạch, phá thế độc đạo của quốc lộ 1A,. trở thành trục đường xuyên Việt, có tầm quan trọng lớn lao trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đặc biệt với các vùng đất dọc suốt chiều dài phía tây Tổ quốc.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm đường Hồ Chí Minh ra đời và ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn (5/1959 - 5/2009), nhằm góp phần tôn vinh truyền thống yêu nước, tinh thần vượt qua khó khăn đồng thời củng cố, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Vietnam Business Forum - Cơ quan tuyên truyền đối ngoại của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách: "Trường Sơn - Đường khát vọng.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.

Tháng 5 năm 2009
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

Nguồn : quansuvn.net
 
Lời nói đầu


Đường Trường Sơn được Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh vào ngày 19/5/1959. Lúc đầu là tuyến vận tải chiến lược, sau này mang tên Đường Hồ Chí Minh.

Đường mòn Hồ Chí Minh khởi đầu từ huyện Tân Kỳ (Nghệ An) vượt qua dãy Trường Sơn trùng điệp chạy suốt đến Chơn Thành (Bình Phước) dài khoảng 16.000 km gồm 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang, một tuyến đường cho xe chạy ban ngày dài 3.100 km, một hệ thống sông dài 500 kilômét, một hệ thống đường ống dài 3.000 km từ miền bắc vào tận Lộc Ninh.

Đường mòn Hồ Chí Minh, trung bình cứ 200mi có một dốc cao, 1 đến 2 km có một suối nhỏ, 10 đến 20 km có một sông hoặc một suối lớn.
Trường Sơn nơi đây đã ghi dấu chân của khỏng biết bao nhiêu chàng trai cô gái đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình trong sự nghiệp giòi phóng miền Nam thống nhất đất nước. Những địa danh nổi tiếng như. Truông Bồn, Đồng Lộc, Xuân Sơn, Phong Nho, Long Đọi, ATP cổng Trời, động Voi Mẹp, Đak Rông A So, Pa Lin, A Lưới .... đã gắn liền với tuổi thanh xuân của những thanh niên xung phong đầy nhiệt huyết cùng những người lính quả cảm của Bộ đội Trường Sơn.

Ai đã một lần có mặt ở đường Trường Sơn hẳn sẽ hiểu rõ sự hy sinh, mất mát và sức chịu đựng vô bờ bến của một dân tộc ra trận đã trả giá như thế nào cho ngày chiến thắng.

Trong một bài viết nhân kỷ niệm 30 năm ngày mở đường Trường Sơn, cố thi sĩ phạm Tiến Quật đã viết: “... trong lịch sử chiến tranh nhiều thời của nhiều vùng đất trên hành tinh này, có những tuyến đường quân sự nổi tiếng: Đường vận chuyển quân lính trong bụng con ngựa gỗ khổng lồ vào thành Tơroa, đường vận tải qua hồ Lađôga đóng băng của Liên Xô bao vệ thành phố Lêningrát, “Con đường xanh" của Stalin xuyên dọc châu Âu đánh vào sào huyệt của phát xít Đức... Nhưng tuyến đường Trường Sơn có hai sự độc đáo. Một là, thời gian tồn tại của tuyến đường dài hơn mọi tuyến đường chiến tranh ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới. Hai là, tuyến đường Trường Sơn là một chiến trường trọng yếu và là một căn cứ hậu phương chiến lược cho chiến trường ba nước Đông Dương”.

Trong Ban biên soạn chúng tôi nhiều người đã từng sống, chiến đấu ở Trường sơn hoặc đã từng hành quân vượt Trường Sơn. Nhưng khi tiếp cận với các tư liệu về Trường Sơn, chúng tôi mới thực sự kinh ngạc về tầm vóc của tuyến đường và những kỳ tích của dân tộc Việt Nam mà cụ thể là các lực lượng đã từng chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các tuyến đường Trường Sơn.

Tài liệu về đường Trường Sơn phong phú đến mức phải ví như một núi băng mà Ban biên soạn chúng tôi chỉ tiếp cận được một phần nổi. Chiến tranh đã lùi xa và người cầm bút còn suốt đời mang nợ Trường Sơn.

Câu hỏi đặt ra với Ban biên soạn là: với khối tư liệu đồ sộ như thế thì cần tiếp cận lịch sử Trường sơn từ đâu?

May sao, trong khi đang thực hiện đề cương cuốn sách thì chúng tôi có Tài liệu tuyên truyền 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn (19/5/1959 - 19/5/2009) do Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam ấn hành với những nội dung cô đọng để Ban biên soạn bám sát và triển khai. Như vậy trong quá trình biên soạn chúng tôi coi tư liệu trên là Chính sử về đường Trường Sơn và Bộ đội Trường Sơn.

Cuốn sách còn tập hợp các bài viết của những nhà văn, nhà báo, người lính từng có mặt ở Trường Sơn. Trong các bài viết cũng đề cập những số liệu và vì tôn trọng các tác giả nên Ban biên soạn không chỉnh lý các số liệu này (chẳng hạn, bài viết của cố thi sĩ Phạm Tiến Duật) và đề nghị bạn đọc cũng xem như là số liệu tham khảo. Số liệu chính thức đã có ở phần “chính sử"

Ban biên soạn cũng tuyển chọn và giới thiệu các bài viết về ký ức Trường Sơn, 50 bài thơ, 50 bản nhạc, một số bức ký hoạ về Trường Sơn nhằm giới thiệu những "binh chủng" từng góp phần cùng Bộ đội Trường Sơn dựng nên một con đường huyền thoại.

Phần thứ hai. Đường Hồ Chí Minh công nghiệp hoá - Một khát vọng hùng cường, Ban biên soạn không đề cập nhiều đến công việc xây dựng đường Trường Sơn “nối dài" hai phía đã và đang tiến hành mà chú trọng đến việc làm thế nào để sử dụng, khai thác tốt nhất tuyến quốc lộ thứ hai chạy dài theo đất nước. Phần này liên quan đến một số địa phương có tuyến đường chạy qua.

Do thời gian gấp gáp và khả năng có hạn, cuốn sách không khỏi có những khiếm khuyết nhất định. Chúng tôi mong bạn đọc góp ý, phê bình và lượng thứ

Nhân dịp cuốn sách hoàn thành và được xuất bản, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ban Tuyên giáo Trung ương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã chỉ đạo góp ý kiến để cuốn sách được hoàn thành. Cảm ơn một số tỉnh thành, địa phương nằm trên đường Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh Binh đoàn 12 - Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn đã Cung cấp tư liệu, hình ảnh hoạt động của Bộ đội Trường Sơn xưa và nay. Cảm ơn các nhà văn, nhà báo, nhạc sĩ, hoạ sĩ, những cựu chiến binh Trường Sơn đã gửi tác phẩm, tư liệu hoặc những ý kiến đóng góp cho cuốn sách. Cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã tạo điều kiện để cuốn sách kịp ra mắt bạn đọc đúng dịp kỷ niệm lần thứ 50, ngày mở đường Hồ Chí Minh, ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn.
 
PHẦN THỨ NHẤT
ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN HUYỀN THOẠI
.


“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước...”
(Nguyễn Khoa Điềm)



CHƯƠNG MỘT
CON ĐƯỜNG VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ

I. NHỮNG BƯỚC CHÂN THẦM LẶNG

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và sự can thiệp của Mỹ (1945 - 1954) mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dút chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, Lào và Campuchia được ký kết. Các nước tham gia hội nghị long trọng tuyên bố tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương.

Là một nước trực tiếp giúp Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương (1945 - 1954) và là một thành viên của Hội nghị Giơnevơ, nhưng Tổng thống Mỹ Aixenhao tuyên bố "Mỹ không bị hiệp định này ràng buộc". Từ đó Mỹ ráo riết thực hiện việc hất cẳng Pháp, thống trị miền Nam nước ta bằng chủ nghĩa thực dân mới, chia cắt lâu dài nước Việt Nam; ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á và trên thế giới, uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa.

Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ và luôn theo dõi sát âm mưu, hành động của chúng. Giữa tháng 7 năm 1954, trong diễn văn bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (khóa II), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Mỹ không những là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt - Miên - Lào. Người chủ trương: “Tập trung lực lượng chống đế quốc Mỹ”. Từ đây bắt đầu một thời kỳ mới của lịch sử dân tộc: thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.

Ngày 5 tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, ra nghị quyết về “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng", chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của quân và dân ta trên hai miền Nam - Bắc là: đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ra sức củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của quân và dân miền Nam nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, quân và dân ta trên hai miền Nam - Bắc khẩn trương củng cố, sắp xếp lại lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc chiến đấu mới.

Trên miền Bắc, nhân dân ta khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành cải cách ruộng đất, khôi phục và phát triển kinh tế, nhằm đưa miền Bắc tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng miền Bắc thành cái "Nền", cái "Gốc" của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. thống nhất nước nhà. Quân đội nhanh chóng chấn chỉnh tổ chức, sắp xếp lại lực lượng; xây dựng theo hướng chính quy từng bước hiện đại, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng.

Ở miền Nam, quân và dân ta một lòng hướng về Trung ương Đảng, Bác Hồ, hướng về miền Bắc, tiếp tục cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ chống mưu đồ chia cắt đất nước của Mỹ - Diệm, chống “quốc sách tố Cộng, diệt Cộng"
 
Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, Mỹ - Diệm đã vứt bỏ mặt nạ "thực thi dân chủ”, thẳng tay dùng chính sách phát xít, khủng bố, nhằm duy trì chế độ thống trị của chúng.

Nhân dân ta ở miền Nam không có con đường nào khác hơn là phải vùng lên, sống chết với kẻ thù.

Thực tiễn nóng bỏng của cách mạng miền Nam vừa là điều kiện, vừa đặt ra yêu cầu bức bách đòi hỏi Đảng ta chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tìm ra con đường đưa cách mạng miền Nam tiến lên.

Tháng 1 năm 1959, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (mở rộng) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì họp tại Hà Nội, xác định con đường tiến lên của cách mạng miền Nam, vạch ra mục tiêu và phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam, phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến, trước mắt là đánh đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thiết lập chính quyền cách mạng.

Dự kiến xu thế phát triển của cách mạng miền Nam, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng đã chỉ ra phương hướng xây dựng, chiến đấu của lực lượng vũ trang trên hai miền Nam - Bắc, giao nhiệm vụ cho quân đội chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu phát triển của tình hình.

Tháng 2 năm 1959, Tổng Quân ủy họp bàn những nhiệm vụ cấp thiết về xây dựng lực lượng vũ trang ở miền Nam, phát huy vai trò của miền Bắc đối với miền Nam, chuẩn bị cho lực lượng vũ trang cả nước sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của địch.

Chấp hành Nghị quyết của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Tổng Quân ủy Trung ương, cùng với việc đẩy mạnh công cuộc xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại trên miền Bắc, việc chuẩn bị lực lượng và vật chất chi viện cho miền Nam được xúc tiến. Sư đoàn 338 bộ đội miền Nam tập kết và một số trung đoàn bộ binh chuyển thành cán đoàn huấn luyện cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ ở miền Nam. Từ Vĩnh Linh - giới tuyến quân sự tạm thời đến biên cương phía Bắc, các đơn vị trong toàn quân đều tổ chức cho bộ đội học tập, rèn luyện, sẵn sàng vào Nam chiến đấu.

Thực hiện chủ trương chi viện lực lượng vật chất cho miền Nam, Bộ Chính trị quyết định tổ chức tuyến giao liên vận tải quân sự trên bộ và trên biển.

Ngày 5 tháng 5 năm 1959, Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh - ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ nhiệm ủy ban Thống nhất Trung ương thừa lệnh Bộ Chính trị trực tiếp giao cho thượng tá Võ Bẩm - nguyên Cục phó Cục Nông trường tổ chức "Đoàn công tác quân sự đặc biệt" làm nhiệm vụ mở đường, vận chuyển hàng quân sự vào miền Nam; tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ; chuyển công văn, tài liệu từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc.

Quyết định thành lập tuyến vận tải quân sự Trường Sơn là một sáng tạo về chiến lược, thể hiện quyết tâm sắt đá giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
 
Cơ quan chỉ đạo, tổ chức mọi hoạt động của Đoàn khi mới thành lập là Ban Cán sự Đảng, gồm ba người, do đồng chí Võ Bẩm làm Đoàn trưởng kiêm Bí thư.

Tiếp đó, trung tá Nguyễn Thạnh - nguyên Giám đốc nông trường quân đội Đồng Giao, Ninh Bình, được điều về làm Đoàn phó. Đại úy Nguyễn Chương là ủy viên Ban Cán sự kiêm trợ lý bảo vệ.

Trợ lý cơ quan Đoàn ban đầu có: thượng úy Lê Trọng Tâm - bí thư Đoàn trưởng, thượng úy Huỳnh Chuẩn - trợ lý quân nhu, thượng úy Huỳnh Thường - trợ lý tài vụ, trung úy Nguyễn Ngọc Linh - trợ lý quân giới, Phạm Công Chuyên - trợ lý xây dựng... đều là những cán bộ đã từng chiến đấu trên chiến trường Trị - Thiên và Khu 5 trong kháng chiến chống Pháp.

Thời gian mới thành lập, cơ quan "Đoàn công tác quân sự đặc biệt” làm việc tại các nhà số 61, 63 và 83 phố Lý Nam Đế, Hà Nội. Những vị trí này xen giữa khu dân cư, gần cơ quan Bộ Quốc phòng, vừa tiện liên hệ với cấp trên và cán bộ miền Nam ra công tác, vừa bảo đảm bí mật.

Ngày 19 tháng 5 năm 1959, Thường trực Tổng Quân ủy triệu tập Ban Cán sự, chính thức giao nhiệm vụ cho Đoàn mở đường Trường Sơn chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong năm 1959, Đoàn có nhiệm vụ soi đường bảo đảm giao thông liên lạc từ miền Bắc vào miền Nam, vận chuyển gấp một số hàng quân sự theo yêu cầu của Liên khu 5 (gồm 7.000 súng bộ binh), tổ chức bảo đảm cho 500 cán bộ hành quân vào chiến trường làm nòng cốt xây dựng lực lượng chủ lực.

Trong điều kiện bình thường, với biên chế và thời gian cho phép, khối lượng công việc trên giao không có gì khó khăn. Nhưng đối với "Đoàn công tác quân sự đặc biệt” lúc này là một thử thách lớn, đòi hỏi phải cố gắng vượt bậc mới có thể vượt qua. Bởi lẽ đối với Đoàn, tất cả đều là bước khởi đầu. Mọi công việc từ tổ chức lực lượng, chuẩn bị vật chất, soi đường mở tuyến giao liên vận chuyển bí mật về Nam... đều còn ở phía trước. Đặc biệt toàn bộ hoạt động của Đoàn phải bảo đảm bí mật tuyệt đối cả khi chuẩn bị trên đất Bắc và khi thực hành trên tuyến

Với ý đồ chiến lược bí mật chủ động tiến công, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy yêu cầu Đoàn tuyệt đối không để đối phương biết được sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam - dù chi là một hoạt động nhỏ lẻ. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc.

Để hoàn thành nhiệm vụ, Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng quyết định biên chế bước đầu của Đoàn là 500 cán bộ chiến sĩ. Ngoài Đoàn bộ, Đoàn sẽ tổ chức tiểu đoàn vận tải bộ 301 và các bộ phận: xây dựng kho, bao gói hàng, sửa chữa vũ khí, chế biến thực phẩm. Chỉ trong một thời gian ngắn, Đoàn 559 đã định hình về tổ chức, nhiệm vụ và phương thức hoạt động.

Ra đời tháng 5 năm 1 959, Đoàn được mang phiên hiệu Đoàn 559. Ngày 1 9/5- ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày Bộ Chính trị và Thường trực Tổng Quân ủy giao nhiệm vụ mở tuyến chiến lược Trường Sơn được xác định là ngày truyền thống của Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh.
 
Ngày 20 tháng 5 năm 1 959 - một ngày sau khi chính thức nhận nhiệm vụ. tại nhà số 25A phố Phan Đình Phùng - Hà Nội, Ban Cán sự họp phiên đầu tiên quán triệt chỉ thị của Tổng Quân ủy và bàn biện pháp tổ chức thực hiện.

Nhận rõ bước phát triển mới của cách mạng miền Nam, nơi đang ngày đêm trông đợi người và vũ khí từ miền Bắc, Ban Cán sự Đảng, các cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của Đoàn 559 gấp rút lao vào mặt trận mới, thầm lặng và vô cùng khẩn trương.

Một kế hoạch tổng thể về tổ chức các mối quan hệ công tác giữa Đoàn 559 với các cơ quan Bộ Quốc phòng và các đơn vị tuyển quân, mở đường, chuẩn bị cơ sở vật chất... nhanh chóng hoàn thành để thông qua đồng chí Chủ nhiệm ủy ban Thống nhất Trung ương và trình Bộ Chính trị. Sau khi được Bộ Chính trị phê duyệt, một số cán bộ chủ trì cơ quan Bộ Quốc phòng như Cục phó Cục Cán bộ, Cục trưởng Cục Quân giới, Cục phó Cục Tài vụ... được giao nhiệm vụ trực tiếp giúp Đoàn 559 tuyển chọn cán bộ, chiến sĩ bảo đảm trang bị và tài chính...

Những ngày cuối tháng 5 năm 1959, chiếc xe Gát 69A của Đoàn gần như lăn bánh suốt ngày đêm đưa các đồng chí trong Ban Cán sự đến các tập đoàn sản xuất miền Nam, các Sư đoàn 324, 325, 305 ... tuyển nhận quân. Lực lượng vận tái bộ (sau này là tiểu đoàn vận tải bộ 301) chủ yếu được tuyển ở Sư đoàn 305 bộ đội Liên khu 5 tập kết. Thời gian này, tình hình tư tưởng bộ đội Sư đoàn 305 đang có những diễn biến khá phức tạp. Phần đông cán bộ, chiến sĩ đã chuyển ra công tác tại các cơ sở kinh tế thuộc Khu công nghiệp Việt Trì, Nhà máy supe phốt phát Lâm Thao, Nông trường Việt Lâm, Nông trường Đồn Vàng..., vừa được huy động trở lại xây dựng quân đội.

Mặc dầu đang trong quá trình ổn định tổ chức, gặp nhiều khó khăn, song với tình cảm và trách nhiệm đối với miền Nam, những yêu cầu của Đoàn 559 đều được Bộ Tư lệnh sư đoàn và các đơn vị hết lòng giúp đỡ. Sau khi thống nhất nguyên tắc, yêu cầu tuyển nhận quân với Bộ Tư lệnh Sư đoàn, Đoàn phó Nguyễn Thạnh trực tiếp tiếp nhận lực lượng, giáo dục nhiệm vụ và huấn luyện bộ đội. Đoàn trưởng Võ Bẩm tổ chức lực lượng khảo sát đường và hiệp đồng với các đơn vị, cơ quan có liên quan.

Mở đường về Nam - nhiệm vụ mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân gửi gắm vào cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 là trọng trách vô cùng lớn lao. Con đường bắt đầu từ đâu, cung chặng bố trí như thế nào cho thích hợp; phương thức hoạt động trên tuyến như thế nào để bí mật vượt qua được cái gọi là “phòng tuyến chống thâm nhập" mà kẻ thù chủ định dựng lên ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, sẽ đem quân, đem hàng đến bờ bắc sông Bến Hải hay vượt qua bờ nam... ? là những vấn đề đặt ra lúc này với bao trăn trở đối với lãnh đạo, chỉ huy Đoàn 559.

Tiên liệu những khó khăn trở ngại kể trên, trong khi giao nhiệm vụ, đồng chí Chủ nhiệm uỷ ban Thống nhất Trung ương đã gợi ý Ban Cán sự nên trực tiếp gặp và trao đổi cụ thể với đồng chí Trần Lương (Trần Nam Trung) Bí thư Khu ủy Khu 5 tìm giải pháp tháo gỡ từng bước ...

Được đồng chí Trần Lương giúp đỡ tích cực, đầu tháng 6 năm 1959, Đoàn trưởng Vò Bẩm vào Hồ Xá, Vĩnh Linh chủ trì cuộc họp bàn cụ thể việc mở đường vào Nam. Dự họp có các đồng chí Nguyễn Quyết (ông giáo Dụng) - ủy viên Khu ủy Khu 5, phụ trách công tác liên lạc với miền Bắc, Trương Chí Công - Bí thư tỉnh ủy Quảng Trị, Lê Hành - Tỉnh ủy viên Quảng Trị, Hồ Sĩ Thản - Bí thư đặc khu Vĩnh Linh.

Qua báo cáo của các đại biểu Trị - Thiên và Liên khu 5, Ban Cán sự Đoàn 559 bước đầu nắm được tình hình đấu tranh của nhân dân, tình hình hoạt động của địch ở phía nam sông Bến Hải và miền tây Trị - Thiên, Quảng Nam. Điểm nổi bật là càng ngày địch càng tăng cường hệ thống đồn bốt, bổ sung lực lượng tuần phòng dọc đường số 9... Chúng ráo riết gom dân vào các trại tập trung, tung biệt kích rình mò, lùng sục dọc theo bờ nam sông Bến Hải. Các cơ sở cách mạng trong vùng bị đảo lộn. Tuyến giao liên Thống Nhất từ Tây Nguyên ra Bắc thường xuyên bị đứt. Cùng với hoạt động đánh phá của kẻ địch, khí hậu nghiệt ngã của núi rừng Trường Sơn cũng gây cho tuyến giao liên Thống Nhất không ít khó khăn, tổn thất. Các đại biểu Khu ủy 5 và Trị - Thiên còn nêu một số kinh nghiệm cụ thể về tổ chức, duy trì tuyến giao liên Thống Nhất.
 
Từ thực tiễn tình hình chiến trường, hội nghị chủ trương thời gian đầu tuyến vận tải quân sự chiến lược được mở dựa vào tuyến giao liên Thống Nhất. Nguyên tắc hoạt động là vừa mở đường, vừa giữ được cơ sở cách mạng những nơi tuyến đường đi qua. Hội nghị xác định hướng mở tuyến, vị trí đặt trạm, quy ước thông tin liên lạc...

Một trong những vấn đề quan trọng và bức xúc được bàn kỹ ở hội nghị là Đoàn 559 dừng lại ở bờ bắc sông Bến Hải hay vượt qua bờ nam sông Bến Hải. Các đại biểu chiến trường khẩn thiết yêu cầu cấp trên cho Đoàn 559 đưa người, hàng vào sâu hơn bởi vì lúc này Liên khu 5 và Trị-thiên thiếu người để vận chuyển hàng; lực lượng vũ trang thiếu, không thể tổ chức một lực lượng bảo vệ tuyến ... Đồng chí Đoàn trưởng đã lĩnh hội ý kiến của các đại biểu chiến trường, báo cáo cấp trên và nguyện vọng chính đáng này đã được Bộ Chính trị chấp nhận.

Mặc dù hội nghị được tiến hành hết sức bí mật, nhưng mạng lưới tình báo, gián điệp của địch cũng “đánh hơi" thấy. Tình hình đó càng đòi hỏi mọi hoạt động của Đoàn 559 phải tuyệt đối bí mật. Ban Cán sự kịp thời và chủ động đề đạt với Bộ Công an có giải pháp phối hợp đối phó các hoạt động tình báo, gián điệp của địch.

Sau hội nghị ở Hồ Xá, Đoàn 559 tổ chức ngay đội khảo sát mở tuyến do Đoàn trưởng Võ Bẩm trực tiếp chỉ huy. Tỉnh ủy Quảng Trị cử đồng chí Pả Cương - Thường vụ Huyện ủy Hướng Hóa và một số cán bộ địa phương thông thạo địa hình Trường Sơn giúp mở đường. Đồng chí Ngô Văn Diệm - tiểu đoàn phó tiểu đoàn 301 và một số cán bộ trợ lý tiểu đoàn tham gia đội khảo sát. Qua nghiên cứu thực địa, đặc biệt là nghiên cứu con đường do Lữ đoàn 270 Quân khu 4 mở ở khu vực tây nam Vĩnh Linh để kết hợp khai thác gỗ và cơ động chiến đấu để phòng địch tiến công ra miền Bắc, đội khảo sát quyết định chọn Khe Hó là điểm khởi đầu cho tuyến đường lịch sử.

Khe Hó nằm giữa thung lững hẹp ở tây nam Vĩnh Linh, dưới chân dãy núi Động Nóc, kề thượng nguồn Rào Thanh. Ở đây dân cư thưa thớt, chủ yếu là người Pa Cô Vân Kiều, mức sống thấp kém, nhưng nặng nghĩa nặng tình với cách mạng. Mặc dầu vị trí khởi đầu nằm gần khu phi quân sự, nhưng nếu ta giữ được bí mật sẽ tạo được yếu tố bất ngờ, phát huy được hiệu quả.

Sau khi khảo sát tuyến đường bộ ở bắc sông Bến Hải, Đoàn trưởng Võ Bẩm khẩn trương trở ra Hà Nội chỉ huy việc tổ chức lực lượng, chuẩn bị “hàng" đưa vào chiến trường. Nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy khảo sát mở tuyến vào phía Nam sông Bến Hải được giao cho đồng chí Ngô Văn Diệm tiếp tục thực hiện. Căn cứ sơ đồ khảo sát Đoàn 559 quyết định mở tuyến hành lang bắt đầu từ Khe Hó phát triển về hướng tây nam qua làng Mít (Quảng Bình) vượt các đỉnh 1001, 1600, vượt sông Bến Hải. qua đỉnh 1701 (động Voi Mẹp), Chăng Hin, động Cà Lư, Cát Sứ, Rào Quán, vượt đường số 9, qua Đá Bàn vào Tà Riệt. Điểm đặt trạm cuối cùng là Pa Lin, kế cận trạm tiếp nhận của Liên khu 5.
Với lộ trình trên, tuyến giao liên vận tải quân sự buổi đầu phải vượt qua nhiều dãy núi cao hiểm trở, vượt qua nhiều sông suối và qua cả hệ thống đồn bốt của địch.

Địa hình Trường Sơn nói chung và khu vực “cửa khẩu” là nơi “thiên hiểm", có giá trị lớn về mặt chiến lược: che đậy kín đáo những hoạt động quân sự, hoạt động vận chuyển của ta trên mặt đất, giành lợi thế trong chiến tranh ngăn chặn hiện đại... Tuy vậy, trở ngại lớn nhất đối với những người tìm đường mở tuyến cũng như sau này thực hành vận chuyển là địa hình bị chia cắt mạnh.

Các sông, suối dọc Trường Sơn ở khu vực nam - bắc sông Bến Hải phân bố tự nhiên, trung bình 1 đến 2 km có một suối nhỏ, 10 đến 20 km có một sông hoặc một suối lớn. Sông, suối đều phát nguyên từ đỉnh Trường Sơn đổ về hai hướng đông và tây. Phía đông xuôi về biển, phía tây hợp lưu với sông Mê Kông. Ở vùng thượng nguồn, hầu hết sông, suối nơi đây có độ chênh lớn, nhiều thác ghềnh. Mùa khô gần như cạn kiệt, cả vùng thiếu nước. Mùa mưa hết thảy những dòng sông, ngọn suối đều trở nên hung hãn, nước chảy xiết... Cũng do địa hình, đặc biệt là sự xen kẽ giữa những thung lũng hẹp dưới chân các ngọn núi nhỏ, nên mùa mưa nước các triền sông suối dâng cao đột ngột (2 – 18m) nhiều điểm trở thành những túi nước lớn, chia cắt núi đồi thành những khu vực biệt lập.
 
Điều kiện khí hậu nghiệt ngã của vùng rừng nhiệt đới gió mùa đầy tính chất hoang sơ nơi đây là môi trường thuận lợi cho các loạt ký sinh trùng, côn trùng gây bệnh và một số vật chủ mang bệnh phát triển. Đáng lo ngại nhất là muỗi Anôphen truyền bệnh sốt rét.

Dẫu biết rằng mọi con đường cách mạng đều xuất phát từ lòng dân, dựa chặt vào dân, song do yêu cầu bảo đảm hết sức bí mật trong buổi đầu mở tuyến, ta không chỉ chủ trương tránh địch mà tạm thời phải tránh dân (tránh địch - bí mật với dân). Đội khảo sát không theo những lối mòn dân đi lại ở bình độ thấp, mà tìm hướng đi mới ở bình độ cao hơn, địa hình hiểm trở hơn. Khẩu hiệu có tính chất mệnh lệnh lúc này là: “ở không nhà, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”.

Từ Khe Hó theo hướng tiếp cận sông Bến Hải qua đường số 9, đội khảo sát phải vượt đính núi 1001, ngược lên động Voi Mẹp - đỉnh 1701. Lên tới động Hàm Nghi, bắt gặp lác đác những gốc cam, gốc chè của nghĩa quân Cần Vương xưa còn lại như lời nhắc với những người mở đường nỗi đau một thời đất nước đắm chìm trong đêm trường nô lệ, thôi thúc họ nhanh chóng mở đường về Nam, góp phần đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến ngày toàn thắng.

Qua khảo sát tổng thể, Đoàn tập trung nghiên cứu dự kiến các cung đoạn, những điểm vượt xung yếu như sông Ra Gã (thượng nguồn sông Cam Lộ), khe Nước Chảy (một nhánh thượng nguồn sông Ba Trăng). Hai nơi này có đường tuần tra của lực lượng bảo an từ Ba Trăng đến Miệt Xá - bắc Làng Vây. Đặc biệt, đội khảo sát phải tìm được điểm vượt qua đường số 9 và sông Đak Rông (một nhánh của sông Thạch Hàn), vùng trọng yếu trong thế phòng ngự chốt chặn của địch.

Trong khi bộ phận khảo sát thăm dò tìm đường thì bộ phận phía sau khẩn trương tổ chức lực lượng và chuẩn bị nguồn hàng đưa vào chiến trường.

Trong điều kiện miền Bắc có hòa bình, quân đội từng bước xây dựng chính quy hiện đại, một số cán bộ, chiến sĩ, trong đó có những người là con em đồng bào miền Nam tập kết được đào tạo tại các trường sĩ quan trong quân đội. Một số đã chuyển ngành sang các cơ quan nhà nước, cơ sở kinh tế. Được điều trở lại miền Nam chiến đấu theo yêu cầu của cách mạng, vì nghĩa tình son sắt với miền Nam... tất cả đã vượt lên mọi toan tính đời thường, nhanh chóng xác định quyết tâm, sẵn sàng lên đường.

Cuối tháng 5 năm 1959, Đoàn đã tuyển được 440 cán bộ, chiến sĩ, tổ chức hoàn chỉnh tiểu đoàn 301. Cán bộ, chiến sĩ được chọn hầu hết quê miền Nam, chủ yếu là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Toàn tiểu đoàn được tổ chức thành 11 đội (9 đội làm nhiệm vụ vận tải, 1 đội trinh sát bảo vệ, 1 đội làm nhiệm vụ xây dựng hậu cứ). Ban chỉ huy tiểu đoàn lúc mới thành lập gồm đại úy Chu Đăng Chữ (tức Vũ) tiểu đoàn trướng, đại úy Nguyễn Danh (tức Chính) chính trị viên, đại úy Ngô Văn Diệm tiếu đoàn phó. Về tổ chức Đảng, toàn tiểu đoàn tổ chức một Đảng bộ. Đảng ủy gồm ba đồng chí là Nguyễn Danh - Bí thư, Chu Đăng Chữ và Trần Ất (đảng ủy viên). Mỗi đội tổ chức một chi bộ. Cơ quan tiểu đoàn có các tiểu ban tham mưu, chính trị, hậu cần.

Sau khi ổn định tổ chức, toàn tiểu đoàn bước vào học tập chính trị. Cán bộ, chiến sĩ được phổ biến sẽ về Nam công tác, song tuyệt đối phải giữ bí mật ngay cả với gia đình, người thân. Yêu cầu cao nhất đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ lúc này là hoàn toàn tự nguyện, sẵn sàng cống hiến hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Mỗi cán bộ, chiến sĩ đều nhận rõ vinh dự, tự hào, đồng thời cũng nhận rõ đây sẽ là một trận tuyến mới thầm lặng, nhiều thử thách khốc hệt. Ở đây người lính không chỉ chiến đấu với kẻ thù mà còn phải chống chọi với thời tiết nghiệt ngã, với thú dữ... của núi rừng Trường Sơn, với sự cô quạnh, cách biệt tổ ấm gia đình và xã hội.
 
Những ngày tiếp theo, bộ đội được huấn luyện thể lực, tăng cường sức chịu đựng, chủ yếu là tập mang vác nặng, hành quân xa trong điều kiện đêm tối, trên địa hình phức tạp trung du vào mùa mưa. Những dãy núi đồi san sát ở Lâm Thao, Phú Thọ trở thành thao trường và điều kiện huấn luyện khá lý tưởng của tiểu đoàn 301. Đêm đêm, bất kể trời tạnh ráo hoặc mưa rào xối xả, trên vai là ba lô gạch nặng 30kg, những người lính lầm lũi leo đồi, vượt dốc. Thời gian hành quân mỗi đêm thường là 6 giờ. Lửa thử vàng, gian lao tôi luyện sức vóc và ý chí con người.

Việc chuẩn bị vũ khí trang bị để vận chuyển vào Nam cũng được tiến hành khẩn trương. Số vũ khí bộ binh chiến lợi phẩm ta thu được trong kháng chiến chống Pháp (chủ yếu là súng trường Mát, tiểu liên Tuyn - khoảng 20 tấn) trước đây do Cục Quân giới quản lý được lệnh chuyển toàn bộ cho Đoàn 559. Địa điểm tập kết vũ khí là bốt Lũ - Kim Giang, huyện Thanh Trì (cạnh bờ sông Tô Lịch), phía nam Hà Nội. Ngoài vũ khí, một số quân trang, quân dụng chiến lợi phẩm như ống nhòm, địa bàn, dao găm ... đã trang bị cho các đơn vị cũng được lệnh thu hồi và chuyển giao cho Đoàn 559.

Lúc này bốt Lũ vừa là kho, vừa là xưởng sửa chữa, hiệu chỉnh vũ khí do trung úy Nguyễn Ngọc Linh phụ trách. Mười bốn cán bộ, công nhân quân giới J23 ngày đêm tập trung sửa chữa, hiệu chỉnh từng khẩu súng bảo đảm chính xác cao. Nếu là vũ khí, trang bị do các nước xã hội chủ nghĩa sản xuất thì phải tẩy xóa hết ký hiệu.

Vũ khí sau khi sửa chữa, hiệu chỉnh, được bao gói, bảo quản cẩn thận. Việc đóng gói phải tính toán trọng lượng vừa sức người mang vác hành quân đường dài trong điều kiện địa hình rừng núi hiểm trở (mỗi gói nặng khoảng 25kg). Súng đạn bao gói còn phải dự kiến tình huống khi vận chuyển gặp địch, phải cất giấu trong nước, trong bùn đất lâu ngày mà không han gỉ, hư hỏng.

Qua nhiều lần thử nghiệm, bộ phận bao gói tìm ra cách bôi khắp súng, đạn một lượt mỡ bảo quản, bọc một lớp vải nhúng paraphin và bọc ba lớp vải chống ẩm bên ngoài. Cả gói được cuộn chặt, đem dìm xuống đáy sông Tô Lịch; hơn nửa tháng vớt lên súng, đạn vẫn khô ráo bình thường. Kết quả thử nghiệm khiến mọi người vô cùng phấn khởi.

Vũ khí trang bị sau khi hoàn tất khâu bảo dưỡng, bao gói, được đoàn xe đặc biệt cua Tổng cục Hậu cần bí mật chuyển tới khu tập kết (chân hàng) của Đoàn 559 tại một cánh rừng già gần Khe Hó. Những đồ dùng thiết yếu hàng ngày của cán bộ, chiến sĩ trong Đoàn cũng được chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo. Từ chiếc bút viết, ca uống nước, thắt lưng, đến chiếc bật lửa... đều mua loại mà trước đây binh lính Pháp thường dùng trên chiến trường Việt Nam.

Các bước chuẩn bị cơ bản hoàn thành, toàn Đoàn được lệnh hành quân nhập tuyến. Ngày 4 tháng 6 năm 1959, tiểu đoàn 301 có lệnh "cấm trại", tổ chức cấp phát bổ sung quân trang, lương thực, thuốc quân y và những đồ dùng cá nhân thiết yếu. 19 giờ ngày 4 tháng 6, tiểu đoàn 301 hành quân từ nông trường Vân Lĩnh về ga Tiên Kiên (Lâm Thao, Phú Thọ). Sau đó đoàn tàu quân sự đưa những người con của miền Nam “thành đồng Tổ quốc" rời vùng đồi trung du về Hà Nội và chuyển tàu đi Hàm Rồng, Thanh Hóa. Tạm biệt những vùng quê còn nghèo nhưng đã gắn bó, đùm bọc trong mấy năm hòa bình xây dựng, cán bộ, chiến sĩ ra đi không khỏi bùi ngùi xúc động.

Từ Hàm Rồng, sau hai ngày, đoàn xe Lam Sơn (đoàn xe I) Tổng cục Hậu cần đã chở tiểu đoàn 301 vào tập kết tại doanh trại của Sư đoàn 325 ở tây nam thị xã Đồng Hới (Quảng Bình). Riêng đội 12 rẽ về huyện Lệ Thủy, hành quân bộ lên vùng núi Bang Rợn, thượng nguồn sông Kiến Giang, tổ chức khu hậu cứ của Đoàn tại làng Ho (Quảng Bình). Để bảo đảm bí mật, bộ phận xây dựng hậu cứ lấy danh nghĩa bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Bình.
 
Ngày 16 tháng 6 năm 1959, tại nhà khách Tỉnh ủy Quảng Bình, Ban Cán sự Đoàn 559 họp mở rộng triển khai kế hoạch rải tuyến. Dự họp có các đồng chí Bí thư Đảng ủy tiểu đoàn 301, bí thư các chi bộ. Đồng chí Ngô Văn Diệm báo cáo tình hình khảo sát mở tuyến, đặc biệt trên địa bàn phía nam sông Bến Hải, Tỉnh ủy Quảng Trị và huyện ủy Hướng Hóa đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, cử cán bộ tham gia chỉ đạo giải quyết các vấn đề nảy sinh giữa địa phương và đơn vị. Tỉnh ủy Quảng Trị cử 3 đoàn viên ưu tú người dân tộc Vân Kiều làm liên lạc, trinh sát ở những trọng điểm xung yếu: Hồ Ôi ở Ra Gã, Hồ Nuồn ở Chăng Hin - khe Nước Chay, Hồ Tèo khu vực đường số 9.

Vấn đề đặt lên hàng đầu là Đoàn 559 phải giữ được bí mật, giữ được cơ sở nhân dân. Để làm được điều đó, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 phải thật sự "địa phương hóa” cả về trang phục, cách thức sinh hoạt... Bộ đội hành quân cũng như trong khi chuyển hàng không được dùng gậy và giày, dép... Nếu trường hợp bị địch bắt phải nhận là cán bộ nằm vùng để nhân dân và cơ sở địa phương có lý do đấu tranh với địch. Việc mua bán hàng hóa tại chỗ tuyệt đối hạn chế, tránh gây xáo động lớn, làm cho địch nghi ngờ...

Từ thực tế trên, các đại biểu dự hội nghị xác định quyết tâm: "Lấy ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam làm cơ sở để chiến thắng mọi khó khăn thử thách ... đưa được nhiều vũ khí, trang bị về miền Nam. Thường trực cảnh giác với mọi hành động để tránh địch; dựa vào dân, hoạt động lâu dài”.

Sau hội nghị, Ban Cán sự lệnh cho cán bộ, chiến sĩ khẩn trương thay đổi trang phục, tìm kiếm mây rừng đan gùi như đồng bào Vân Kiều vẫn dùng để thay thế ba lô. Được sự hỗ trợ hết lòng của Khu ủy Đặc khu Vĩnh Linh, chỉ sau mấy ngày, toàn Đoàn đã có được hơn 1.000 bộ quần áo bà ba, 600 đôi dép lốp...

Hoàn thành các khâu chuẩn bị, ngày 20 tháng 6, tiểu đoàn 301 hành quân vào tập kết tại khu vực Khe Hó, lấy danh nghĩa là "Công trường khai thác gỗ" và "Nông trường chăn nuôi bò". Trên cơ sở kết quả khảo sát, toàn tuyến được bố trí làm chín đội. Quân số mỗi đội giảm dần từ đội đầu đến đội cuối cùng. Đội đầu có 60 cán bộ, chiến sĩ. Đội cuối: 30 cán bộ, chiến sĩ. Mỗi đội tổ chức một chi bộ.

Đội 1 : Phụ trách cung đầu tiên, do trung úy đội trưởng Phan Văn Nho và thiếu úy đội phó Nguyễn Văn Hóa chỉ huy. Điểm đặt trạm 1 gần sở chỉ huy cơ bản tiểu đoàn 301 ở Khe Hó.

Đội 2: Phụ trách cung làng Mít (Vĩnh Linh) - Ra Gã, do trung úy đội trưởng Phạm Canh và trung úy chính trị viên Nguyễn Thúc Xuyên chỉ huy. Vị trí đặt trạm 2 ở bắc làng Mít.

Đội 3 : Phụ trách cung Ra Gã - bắc Chăng Hin, do trung úy đội trưởng Nguyễn Văn Chừng và thiếu úy đội phó Lê Toán chỉ huy. Điểm đặt trạm 3 ở nam sông Ra Gã.

Đội 4: Phụ trách cung Chăng Hin - nam động Voi Mẹp, do trung úy đội trưởng Nguyễn Cửu và thiếu úy đội phó Thi Huỳnh chỉ huy. Điểm đặt trạm 4 ở đỉnh 1600 (núi Chăng Hin).

Đội 5: Phụ trách cung nam động Voi Mẹp đến làng Cát Sứ bắc đường số 9, do trung úy đội trưởng Nguyễn Văn Tứ và thiếu úy đội phó Nguyễn Tiên chỉ huy. Điểm đặt trạm 5 ở đỉnh 1701 - nam động La Rừng.

Đội 6: Phụ trách cung từ làng Cát Sứ - vượt đường số 9 đến Ba Lòng, do trung úy đội trưởng Nguyễn Xuất và thiếu úy đội phó Trần Văn Hỷ chỉ huy. Điểm đặt trạm 6 ở nam động Cà Lư.

Đội 7: Phụ trách cung Ba Lòng - A So, do trung úy đội trưởng Hồ Huyền và thiếu úy đội phó Nguyễn Văn Tri chỉ huy.

Đội 8: Phụ trách cung A So - Pa Lin do trung úy đội trưởng Phạm Mãn và thiếu úy đội phó Nguyễn Văn Toàn chỉ huy. Điểm đặt trạm 8 ở Ly Tông.

Đội 9: Đóng ở Tà Rụt, bắc A Lưới, do trung úy đội trưởng Nguyễn Hiến và thiếu úy đội phó Nguyễn Văn Khánh chỉ huy. Đội có nhiệm vụ nhận hàng do đội 8 chuyển vào, giao cho đại diện Liên khu 5.

Chỉ huy tiền phương của tiểu đoàn 301 đứng ở trạm 5 và trạm 6 trực tiếp chỉ huy toàn tuyến, tại đây bố trí một máy vô tuyến điện và hai tổ trinh sát kiêm bảo vệ, liên lạc. Vô tuyến điện của sở chỉ huy tiền phương tiểu đoàn 301 chỉ được làm việc với vô tuyến điện chỉ huy sở Lữ đoàn 341 ở Vĩnh Linh. Từ Vĩnh Linh về Khe Hó dùng liên lạc chạy chân.
 
Để hỗ trợ cho Đoàn 559 hoàn thành nhiệm vụ, Bộ Tổng tham mưu quyết định tăng cường cho Đoàn ba trung đội trinh sát bảo vệ lấy từ Lữ đoàn 341. Số cán bộ, chiến sĩ trinh sát này có kinh nghiệm nắm địch, thông thuộc địa hình, đường sá và dân tình trong vùng. Ba trung đội phối hợp cùng lực lượng trinh sát, bảo vệ của tiểu đoàn 301 đảm trách những cung, chặng trọng yếu nhất. Một trung đội phụ trách khu vực Ra Gã (trạm 3 - trạm 4). Một trung đội do thiếu úy Nguyễn Minh Thông chỉ huy, phụ trách khu vực đường số 9 (trạm 5 - trạm 6). Một trung đội do chuẩn úy Võ Sĩ Bơi chỉ huy, phụ trách khu vực Đak Rông - Đá Bàn - Ly Tông - Tà Riệt.

Để bảo đảm bí mật, việc giao nhận hàng giữa các trạm được quy định theo ký, tín hiệu, mật khẩu. Riêng giao nhận hàng giữa trạm 5 và trạm 6 (qua đường số 9) phải tiến hành vào ban đêm. Lối vượt đường số 9 cũng phải luôn luôn thay đổi. Tuy nhiên những lối vượt đó chỉ tập trung từ cầu Đak Rông đến Khe Sanh (km 14 đến km 61).

Cán bộ, chiến sĩ trên tuyến không ở cố định một chỗ, không sinh hoạt tập trung. Từng tổ, trạm trú dưới từng mái đá, tán cây rừng rậm rạp, cứ sau ba đến năm ngày lại chuyển chỗ. Bộ đội chỉ được nấu ăn ban ngày. Ban đêm chỉ những trường hợp cần thiết mới được sử dụng đèn pin, song phải hạn chế ánh sáng ở mức thấp nhất...

Đầu tháng 7 năm 1 959, việc rải quân trên tuyến, từ trạm đầu đến trạm cuối Pa Lin được triển khai xong. Về cơ bản, độ dài từng cung chặng khoảng một ngày đi bộ; toàn tuyến đi mất tám ngày. Lực lượng trinh sát cũng được cài cắm trên tuyến, tích cực nắm địch, thông báo kịp thời cho từng trạm và chỉ huy tiểu đoàn.

Cùng thời gian này, Ty Giao thông Quảng Bình đã hoàn thành việc mở gấp đường ô tô từ bến Long Đại đến Bang dài 70km. Đoạn tiếp theo dài 80km từ Bang vào Khe Ổ cũng được Sư đoàn 325 khẩn trương khai thông. Theo tuyến đường cơ giới làm gấp các đoàn xe của Tổng cục Hậu cần được lệnh bí mật vận chuyển vũ khí, khí tài, gạo... vào lập chân hàng cho Đoàn 559 tại khu vực Khe Hó.

Sự phối hợp hoạt động giữa Đoàn 559 với các đơn vị, ban, ngành có liên quan, đặc biệt là Tổng cục Hậu cần, Sư đoàn 325, Ty Giao thông Quảng Bình ... ngay từ đầu đã khá đồng bộ, nhịp nhàng. Đây là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho Đoàn 559 ra quân trận đầu thắng lợi.

Đúng vào lúc cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 gấp rút chuẩn bị chuyển hàng qua tuyến thì địch cho một lực lượng lớn xe quân sự chở lính quần đảo liên tục dọc đường số 9; trọng tâm là khu vực từ Khe Sanh đến Lao Bảo. Ban chỉ huy tiểu đoàn 301 kịp thời báo cáo tình hình lên Ban Cán sự Đoàn 559 và tăng cường trinh sát nắm địch.

Cuộc lùng sục, vây ráp của địch kéo dài ba tuần. Nhờ chủ động nắm địch và đã có phương án đối phó, ta kịp thời “án binh bất động”, làm cho địch không phát hiện được dấu vết nào. Khi hoạt động tuần phòng của chúng trở lại với quy luật thường nhật, tiểu đoàn 301 được lệnh tiếp tục chuyển hàng qua tuyến.

Ngày 13 tháng 8 năm 1959, chuyến hàng đầu tiên vượt Trường Sơn. Với quyết tâm giành thắng lợi trận đầu, cán bộ, chiến sĩ các cung trạm đã không quản núi cao, suối sâu đêm tối, tuyệt đối bảo đảm bí mật, an toàn, đưa hàng tới đích ...

Từ chuyến ra quân đầu tiên, đối với người lính vận tải Trường Sơn cuộc sống yên bình những ngày qua đã lùi vào ký ức. Đối mặt với họ giờ đây là gian khổ, hy sinh...

Vượt đường số 9 vào ban đêm không trăng, các chiến sĩ vận tải vẫn phải sử dụng hai miếng gỗ nhỏ, nhẹ, khi qua đường mọi người lần tìm và dẫm đúng miếng gỗ đó; tuyệt đối không để lại dấu chân. Khi vượt sông Bến Hải, Ra Gã, Đak Rông ... , bộ đội phải dùng dây mây rừng buộc nối hai gốc cây ở hai bờ sông, kết thân cây chuối làm bè. Người vượt sông ngâm mình trong nước, một tay bám giữ bè chuối, trên bè là súng đạn, một tay lần dây mây rừng để sang bờ bên kia. Hết sông sâu là núi cao, dốc đứng. Có những dốc muốn vượt qua, sau này bộ đội đã phải sử dụng bốn chiếc thang, thậm chí tới sáu thang. Cũng vì vậy mà có tên là dốc "Bốn Thang", dốc “sáu Thang"...
 
Sau tám ngày đêm, vượt qua bao sông sâu, suối dữ, đèo cao và hệ thống đồn bốt chốt chặn của kẻ thù, chuyến hàng đầu tiên (gồm 20 khẩu tiểu liên Tuyn, 20 khẩu súng trường Mát, 10 thùng đạn tiểu liên và súng trường) đã được tiểu đoàn 301 chuyển tới Tà Riệt an toàn. Đồng chí Nguyễn Vạn - Thường vụ Liên khu ủy, đại diện Liên khu ủy khu 5 cùng một sổ cán bộ, chiến sĩ vô cùng phấn khởi và xúc động khi tiếp nhận số hàng này; vì họ biết mỗi khẩu súng, viên đạn đến được nơi này là tình dân ý Đảng, là tình cảm của Bác Hồ, của quân dân miền Bắc gửi gắm tới đồng bào và chiến sĩ miền Nam.

Phát huy thắng lợi chuyến đi đầu tiên, đồng thời tranh thủ yếu tố bí mật, bất ngờ, toàn Đoàn dốc sức chuyển hàng và dẫn quân qua tuyến. Đến hết tháng 8 năm 1959, Đoàn 559 đã chuyển giao tiên khu 5 được 60 súng trung liên, 100 súng tiểu liên, súng trường và hàng nghìn viên đạn súng bộ binh.

Ngày 3 tháng 9 năm 1959, Ban Cán sự Đoàn 559 họp, đánh giá kết quả những chuyến đi đầu tiên, biểu dương thành tích bước đầu của toàn đơn vị; đồng thời chỉ ra những hạn chế cần khắc phục. Ban Cán sự đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm bí mật bất ngờ; luôn thay đổi quy luật hoạt động, tìm nhiều điểm vượt đường số 9.

Trong khi việc mở đường Trường Sơn đưa lực lượng, vũ khí trang bị vào miền Nam được xúc tiến khẩn trương, phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam tiếp tục phát triến mạnh.

Lực lượng vũ trang tự vệ từng bước được khôi phục và phát triển. Đến đầu năm 1959, ở Nam Bộ đã có 139 trung đội vũ trang tự vệ; miền núi Liên khu 5 có 34 trung đội vũ trang tự vệ và hàng trăm đội tự vệ ở các xã, ấp. Đây là một thành quả to lớn của cách mạng miền Nam trong những năm đấu tranh chính trị 1954 - 1959, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn, phát triển lực lượng, đưa cách mạng miền Nam đi lên.

Cũng trong năm 1959, trước yêu cầu ngày càng cấp thiết của chiến trường, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy quyết định mở tuyến vận tải đường biển, chủ yếu vào Nam Bộ, Khu 6 (cực Nam Trung Bộ). Cùng với phát triển tuyến đường vận tải đường bộ, Đoàn 559 được giao nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược này.

Ban Cán sự Đoàn 559 cử cán bộ đến các Sư đoàn 324, 325 và một số đơn vị thuộc Quân khu Tả Ngạn, tuyển mộ một số cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết, thạo nghề đi biển để thành lập đoàn vận tải đường biển. Việc tuyền quân khá thuận tiện, bởi lẽ trong số cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết có rất nhiều người quê ven biển Quảng Nam, Quảng Ngãi ... xuất thân là ngư dân. Đặc biệt, một số người đã tham gia Đoàn 248 vận tải biển của Liên khu 5 trong kháng chiến chống Pháp, trong đó có đồng chí Nguyễn Bất - chiến sĩ thi đua Cục Hải quân. Nguyễn Văn Nửa - nguyên chiến sĩ thi đua Liên khu 5 (thời kỳ kháng chiến chống Pháp).

Tháng 7 năm 1959, tiếu đoàn 603 vận tải biển trực thuộc Đoàn 559 được thành lập Tiểu đoàn biên chế 107 cán bộ, chiến sĩ (90 phần trăm là đảng viên). Đồng chí Hà Văn Xá - nguyên là cán bộ Cục Hải quân làm tiểu đoàn trường, đồng chí Lưu Đức làm chính trị viên tiểu đoàn.

Sau khi ổn định tổ chức, biên chế, khảo sát tình hình, tiểu đoàn chọn cảng cá Thanh Khê cách cửa sông Gianh (Quảng Bình) về phía nam 4 km làm địa điểm đóng quân. Với danh nghĩa "Tập đoàn đánh cá miền Nam", tiểu đoàn vừa khẩn trương xây dựng doanh trại, vừa chuẩn bị thuyền buồm và các loại “ngư cụ” khác.

Để có được những thuyền biển như của ngư dân Liên khu 5, nhiều cán bộ, chiến sĩ miền Nam biết nghề mộc đã được điều về tiểu đoàn 603 để đóng thuyền. Riêng buồm phải nhờ Tỉnh ủy Quảng Trị tổ chức cho ngư dân làm và chuyển qua sông Bến Hải ra Thanh Khê.
 
Sau hai tháng chuẩn bị khẩn trương, tháng 9 năm 1959, tiểu đoàn đã cơ bản xây dựng xong doanh trại, đóng hoàn chỉnh hai thuyền; một thuyền có trọng tải bảy tấn và một thuyền có trọng tải hai tấn. Tiểu đoàn chủ động tổ chức bộ đội đánh cá và vận chuyển tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ, kết hợp tập dượt làm quen với sông nước ...

Để có thêm lực lượng vận tải biển, Ban Cán sự Đoàn 559 đề nghị Quân khu tăng cường đội thuyền vận chuyển hàng ra đảo Cồn Cỏ cho tiểu đoàn 603; đồng thời khẩn trương đóng thêm thuyền, chuẩn bị hàng, tìm hiểu quy luật hoạt động của địch trên biển. Theo lệnh của Ban Cán sự Đoàn 559, đầu tháng 9 năm 1959, tiểu đoàn 603 tổ chức một tổ vô tuyến điện bí mật vào “cắm" tại khu vực đèo Hải Vân, liên lạc với Liên khu 5 chuẩn bị bến bãi, đón hàng...

Đối với tuyến vận tải bộ, sau khi đã ổn định, bước đầu phát triển về tổ chức, lực lượng và vận chuyển những chuyến hàng đầu tiên thành công, ngày 12 tháng 9 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 46/QĐ-QP chính thức thành lập Đoàn 559 trực thuộc Bộ Quốc phòng; về Đảng, trực thuộc Tổng Quân ủy. Nhiệm vụ của Đoàn lúc này là mở đường, vận chuyển vật chất, đưa đón cán bộ, bộ đội từ miền Bắc vào miền Nam, vận chuyển và bảo đảm hậu cần cho Đoàn 959 chuyên gia ở Lào và vận chuyển vật chất giúp bạn Lào. Bộ Quốc phòng cung quy định một số chính sách cụ thể đối với cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 (tiền lương, phụ cấp khu vực, chế độ bồi dưỡng ... ) .

Quyết định của Bộ Quốc phòng về việc thành lập Đoàn 559 và những chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ trên tuyến là nguồn lực mới, động viên toàn Đoàn cố gắng hơn nữa, năng động, khôn khéo tìm mở đường, đưa lực lượng và vận chuyển hàng vào chiến trường đạt hiệu quả cao hơn.

Sau hội nghị lần thứ nhất trên tuyến của Ban Cán sự, tranh thủ những ngày khô ráo hiếm hoi ở đông Trường Sơn, toàn Đoàn tập trung sức vận chuyển liên tục, gần như không một ngày nghỉ. Vấn đề hệ trọng lúc này là tìm những giải pháp vượt đường số 9 cho thích hợp, bảo đảm bí mật, tránh qua lại một lối ...

Từ cách dùng hai miếng gỗ để vượt đường số 9 được áp dụng buổi đầu, bộ đội đã tìm ra cách rải tấm vải tăng hẹp (khổ rộng khoảng 40cm) qua mặt đường, người đi sau cùng sẽ cuộn mang theo. Tuy vậy, vượt đường số 9 trên mặt đất cạnh đồn Rào Quán của địch là mạo hiểm, sớm muộn sẽ bị lộ.

Biết được nỗi lo lắng này của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559, đồng chí Lê Duẩn - ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng gợi ý Đoàn nên nghiên cứu đào đường ngầm xuyên qua đường số 9. Mặc dầu phương án đào đường ngầm không thực hiện được, song gợi ý của đồng chí Lê Duẩn đã giúp Đoàn tìm được một đường cống ngầm ở khu vực Rào Quán. Hai bên miệng cống có cây cối um tùm. Đường kính của cống chỉ một mét. Do vậy, muốn qua được, từng người phải lần bò khá vất vả.

Cuối tháng 10, khi những đợt gió mùa đầu tiên tràn về biên giới phía Bắc, đồng bằng Bắc Bộ. Thanh, Nghệ Tĩnh..., thì vùng cửa khẩu cũng xuất hiện những đợt mưa tầm tã. Song vì chỉ tiêu kế hoạch vận chuyển chưa hoàn thành, toàn Đoàn vẫn dồn sức để chuyến hàng. Dù đường xa vác nặng, trèo đèo vượt suối ..., cán bộ, chiến sĩ vẫn động viên nhau chuyển hết hàng, không để hàng ứ đọng ở các trạm.

Những tháng cuối năm 1959, do có kẻ đầu thú khai báo, địch tăng cường củng cố “phòng tuyến chống thâm nhập". Dọc đường số 9 - chỉ riêng đoạn từ Cam Lộ đi Lao Bảo, địch đóng tới bảy đồn (Tân Lâm, Ba Trang, Mai Lãnh, Rào Quán, Khe Sanh, Làng Vây. Lao Bảo), nhiều đồn nằm sâu trong các bản làng hai bên đường số 9 như Miệt Xá, Tà Cơn, Làng Cát... Bọn bảo an, thám báo, dân vệ... lùng sục suốt ngày đêm. Thâm độc và giảo quyệt hơn, chúng còn giả dạng người tìm trầm, phu đồn điền cao su, cà phê, lần mò phát hiện tuyến chi viện của ta, tìm bắt cán bộ, chiến sĩ vận tải, giao liên.
 
Vào một đêm cuối tháng 10 năm 1959, trong khi bảo vệ cho đội 6 và đội 7 giao hàng ở nam đường số 9, tổ trinh sát do thiếu úy Nguyễn Minh Thông phụ trách đã lọt vào ổ phục kính của thám báo địch tại bờ sông Đak Rông. Trong tình thế bị động, tồ trinh sát đã dũng cảm chiến đấu chặn địch, tạo điều kiện cho lực lượng vận tải rút lui bảo toàn lực lượng. Thiếu úy Nguyễn Minh Thông (quê Nghi Lộc, Nghệ An) đã hy sinh anh dũng sau khi đã cùng đồng đội tiêu diệt 4 tên địch. Thượng sĩ Trần Tương (quê Đại Lộc - Quảng Đà) bị thương và bị địch bắt đưa về căn cứ. Trước mọi đòn tra tấn dã man của kẻ thù, Trần Tương vẫn một mực trả lời là "cán bộ nằm vùng" và đanh thép tuyên bố với kẻ thù rằng: đồng chí, đồng đội của anh sẽ bắt chúng đền tội. Không nhận được nguồn tin gì ở Trần Tương, kẻ thù đã thủ tiêu anh.

Tổ trinh sát do Võ Sĩ Bơi phụ trách có mặt ở đó, súng đạn trong tay, nhưng đành phải nén lòng, náu mình để bảo toàn lực lượng và giữ bí mật tuyến chi viện. Thiếu úy Nguyễn Minh Thông và thượng sĩ Trần Tương - những chiến sĩ kiên trung bất khuất chiến đấu dũng cảm, là những cán bộ, chiến sĩ đầu tiên hy sinh trên tuyến vận tải quân sự 559, để lại trong lòng đồng đội, nhân dân địa phương niềm cảm phục và tiếc thương vô hạn.

Vào cao điểm mùa khô 1959 - 1960, cường độ hoạt động của lực lượng vận chuyển trên tuyến ngày càng cao. Biên chế từng trạm không được bổ sung, bộ đội nghỉ do sốt rét ngày càng nhiều. Khối lượng hàng mang vác của từng người tăng lên. Vì vậy việc giao hàng trong đêm theo nguyên tắc “vai sang vai" để tránh bỏ quên đã không thực hiện được.

Tháng 10 năm 1 959, trong khi giao hàng tại đồn điền cà phê Rômơ (của một tư bản người Pháp ở Khe Sanh), đội 6 và đội 7 đã bỏ quên một gói hàng gồm 2 khẩu súng trường Mát. Hôm sau, vợ người chủ đồn điền phát hiện được đã bảo anh Cha Mồm - cai đồn điền có cảm tình với cách mạng cất đi. Cha Mồm đem giấu súng và báo cho ta đến lấy. Vì vậy, một tháng sau anh đã bị thủ tiêu. Từ sự việc ấy, đối phương đã có thêm tín hiệu về một tuyến chi viện quân sự từ miền Bắc vào miền Nam đang hoạt động.

Ngay sau những "sự cố” trên, tháng 10 năm 1959 Đoàn 559 quyết định chuyển chỉ huy sở, hệ thống kho tàng, sở chỉ huy tiểu đoàn 301, đội 1 ra làng Mít (Quảng Bình). Sở chỉ huy mới nằm sát hữu ngạn sông Kiến Giang, cách Bang Rợn 10km về phía nam, cách đội 2 ở làng Mít (Vĩnh Linh) bắc sông Bến Hải một cung đường đi về khoảng 10 giờ. Đồng thời theo lệnh của Ban Cán sự, đội 12, tiểu đoàn 301 khẩn trương cơ động theo hướng tây tới khu vực làng Ho, tây Quảng Bình - cạnh thượng nguồn một nhánh khác của sông Kiến Giang, sát chân đỉnh núi 1001. khẩn trương xây dựng lán trại, kho tàng. Đây là khu vực Đoàn chọn làm hậu cứ cơ bản, thuận tiện cho việc cơ động ở cả hai hướng đông và tây Trường Sơn.

Hành động ngăn chặn của kẻ thù, sự hy sinh của đồng chí, đồng đội không làm giảm nhiệt tình cách mạng của cán bộ, chiến sĩ trên tuyến. Những khẩu súng, hòm đạn đêm đêm vẫn được chuyển vào chiến trường. Tuy vậy, trước thử thách vô cùng gay go, khốc liệt của những ngày đầu hoạt động: dãi dầu nắng mưa. gối đất nằm sương, đói rét đeo đuổi suốt ngày đêm, kẻ thù luôn rình chụp, hơn thế cuộc sống âm thầm gần như câm lặng giữa rừng đại ngàn, gặp nhân dân phải tránh, gặp kẻ thù không được nổ súng tiêu diệt..., đã có chiến sĩ không tránh khỏi mềm lòng, nhớ lại những ngày sống yên bình, sôi động trên đất Bắc.

Nắm bắt những diễn biến khá phức tạp trong tư tưởng cán bộ, chiến sĩ, Ban Cán sự kịp thời chỉ đạo Đảng ủy tiểu đoàn 301 có biện pháp giáo dục, động viên bộ đội nêu cao tình cảm, trách nhiệm với đồng bào, chiến sĩ miền Nam.
 
Kết thúc năm 1959, Đoàn đã chuyển vào Tà Riệt - Pa Lin 1.667 khẩu súng bộ binh, hàng trăm nghìn viên đạn, súng trường, tiểu liên, súng ngắn... và một số quân dụng thiết yếu khác giao cho Liên khu 5. Một phần trong số đó được Liên khu 5 chuyển tiếp vào phía trong để trang bị cho các đơn vị vũ trang tự vệ vừa thành lập ở Tây Nguyên và miền tây các tỉnh Trung Bộ. Ngoài số hàng vận chuyển qua tuyến, Đoàn còn tạo chân hàng ở hậu cứ tiểu đoàn 301 và đoàn 603 một khối lượng khá lớn.

Cũng theo tuyến giao liên vận tải quân sự Trường Sơn, đến cuối năm 1959, đã có 542 cán bộ, chiến sĩ gồm phần lơn là cán bộ chỉ huy cấp trung đội, đại đội, cán bộ kỹ thuật quân khí vào làm nhiệm vụ ở miền Nam, trong đó có 515 người vào Liên khu 5 và 27 người vào Nam Bộ. Những cán bộ, chiến sĩ này đã tham gia ngay vào việc thành lập các tiểu đoàn, đại đội bộ đội tập trung ở Liên khu 5 và Nam Bộ ...

Trong khi tuyến giao liên vận tải quân sự từ miền Bắc dọc theo dãy Trường Sơn tiến dần vào phía Nam thì ở Trung Bộ các con đường giao liên được mở tiếp vào các khu căn cứ, và từ miền Đông Nam Bộ các đội vũ trang tuyên truyền cũng tiến hành soi đường ra Bắc.
Tại Trung Bộ, Liên khu ủy 5 tổ chức các đường dây hành lang vận chuyển từ Pa Lin qua các khu căn cứ vào các tỉnh duyên hải miền Trung và Tây Nguyên.

Tháng 5 năm 1959. Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Đoàn B90 tăng cường cho Liên khu 5 soi đường nối hai chiến trường Khu 5 và Nam Bộ, nối thông hành lang chiến lược Bắc- Nam. Đoàn B90 gồm 25 cán bộ, chiến sĩ (quê ở Nam Bộ, Khu 5, từng hoạt động ở chiến trường rừng núi miền Đông Nam Bộ, nam Tây Nguyên và đông bắc Campuchia) do đồng chí Trần Quang Sang (nguyên cán bộ Phòng Quốc dân thiểu số miền Đông Nam Bộ) làm Đoàn trưởng; hai Đoàn phó là đồng chí Phùng Đình Ấm (Ba Cung) và đồng chí Phạm Lạc.

Ngày 20 tháng 6 năm 1959, Đoàn B90 vượt thượng nguồn sông Bến Hải theo đường giao liên hành quân qua miền tây các tỉnh Trị - Thiên vào Quảng Nam. Tiếp đó Liên khu ủy Liên khu 5 quyết định sáp nhập Đoàn B90 với đội vũ trang công tác tỉnh Đắk Lắk, lấy phiên hiệu là B4 do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk phụ trách. Phương châm hoạt động của B4 là vừa soi đường, vừa tuyên truyền trong nhân dân để gây dựng cơ sở, tạo lập tuyến hành lang.

Ngoài một bộ phận xây dựng cơ sở giữ mối liên hệ với Tỉnh ủy Đắk Lắk và tuyến đường dây Thống nhất, B4 chia làm hai bộ phận soi đường vào Nam Bộ. Bộ phận thứ nhất do đồng chí Trần Quang Sang (đội trưởng) và đồng chí Nguyễn Quang Nhường (đội phó) chỉ huy, đi từ phía đông tỉnh Quảng Đức qua Kờ Pút, vượt sông Đồng Nai Thượng phát triển về hướng Tà Lài - Cát Tiên. Bộ phận thứ hai do đồng chí Phùng Đình Ấm (đội trưởng) và đồng chí Nguyễn Đình Kính (đội phó) chỉ huy, mở đường ra phía nam Đắc Min, vượt đường 14 tiến về Bà Rá, chiến khu Đ...

Khu vực tiếp giáp giữa Khu 5 và Nam Bộ, nơi B4 soi đường tạo lập tuyến hành lang, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 hầu như là một "vùng trắng"; cách mạng chưa "cắm rễ" được ở nơi đây. Ngay trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), nhiều đợt vũ trang tuyên truyền từ Nam Bộ ra hay từ Khu 5 vào đều bị địch đẩy bật trở lại. Để bám được vào dân, gây dựng được cơ sở cách mạng, mở tuyến hành lang nhích dần về Nam, cán bộ, chiến sĩ B4 đã phải "hóa thân thành người các dân tộc Ê Đê, Mơ Rông, Châu Ro... ; cùng làm nương rẫy và sinh sống với bà con dân tộc. Có đồng chí đã hy sinh do địch phục kích hoặc bị "quật ngã” bởi những cơn sốt rét rừng.
 
Ở Nam Bộ, từ cuối năm 1958, Xứ ủy đã chủ trương mở tuyến giao liên bộ ra bắt liên lạc với Trung ương. Đội vũ trang tuyên truyền của Xứ ủy do đồng chí Lâm Quốc Đăng phụ trách; đội vũ trang tỉnh Phước Long do đồng chí Phạm Thuận - Bí thư Tỉnh ủy phụ trách và đại đội 59 thuộc Liên tỉnh ủy miền Đông Nam Bộ do đồng chí Nguyễn Văn Tâm phụ trách đã cắt rừng, xuyên qua những vùng chưa từng có dấu chân người ở Bù Đăng, Bù Gia Mập (Phước Long), Sơ Nia (Quảng Đức) tiến ra cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Sau những tháng ngày len lỏi tìm đường giữa những cánh rừng hoang vu và núi non hiểm trở, với một niềm tin son sắt vào ánh sáng của Đảng, vào sự tất thắng của cách mạng, vào lúc 16 giờ ngày 30 tháng 10 năm 1960, đội thứ nhất của B4 đã bắt được liên lạc với đại đội 59 Liên tỉnh ủy miền Đông Nam Bộ tại một dòng suối cạn thượng nguồn sông Đồng Nai Thượng; và ngày 4 tháng 11 năm 1960, tại km 5 trên đường 14, khu vực ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia, đội vũ trang tuyên truyền tỉnh Phước Long đã bắt được liên lạc với đội thứ hai của B4 do đồng chí Phùng Đình Ấm phụ trách.

Thiết lập được tuyến hành lang giao liên từ Trung Bộ vào miền Đông Nam Bộ, tuyến giao liên vận tải quân sự Trường Sơn thật sự trở thành cầu nối giữa căn cứ địa miền Bắc với miền Nam.

Ngày 15 tháng 1 năm 1960, Ban Cán sự họp lần thứ hai trên tuyến, đánh giá tình hình, rút kinh nghiệm bước đầu triển khai nhiệm vụ và đề ra chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động có hiệu quả hơn.

Ở miền Nam, sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, phong trào cách mạng đã có những chuyển biến mau lẹ, mạnh mẽ. Nhân dân miền Nam vùng dậy đấu tranh với nhiều hình thức phong phú, sáng tạo. Từ phong trào đấu tranh của quần chúng, từ những cuộc khởi nghĩa nổ ra ở vùng rừng núi Liên khu 5, cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ đã phát triển thành phong trào Đồng Khởi cuối năm 1959 - đầu năm 1960.

Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi giáng một đòn mạnh và bất ngờ vào chính quyền phát xít Mỹ - Diệm. Vùng giải phóng và vùng quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ được mở rộng. Lực lượng đấu tranh chính trị có tổ chức của quần chúng phát triển nhanh chóng, trở thành lực lượng tiến công hùng hậu và sắc bén của cách mạng. Lực lượng vũ trang cách mạng qua phong trào Đồng Khởi có bước phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng. Bằng phong trào Đồng Khởi, cách mạng miền Nam đã từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.

Trước bước phát triển có ý nghĩa chiến lược của cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng chủ trương đẩy mạnh hoạt động chi viện chiến trường. Vị trí, vai trò của Đoàn 559 ngày càng quan trọng, nhiệm vụ của Đoàn ngày càng nặng nề hơn. Trong thư gửi Ban Cán sự Đoàn 559 nhân dịp Tết Canh Tý, Thường trực Tổng Quân ủy đánh giá cao cố gắng nỗ lực của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559: "Các đồng chí đã đảm nhiệm một nhiệm vụ vinh quang, góp phần cống hiến rất cụ thể vào sự nghiệp đấu tranh hoàn thành giải phóng dân tộc của nhân dân ta ... Các đồng chí có những người rất gương mẫu ..., tinh thần yêu nước cách mạng cao, nên đã vượt mọi khó khăn gian khổ, đạt những kết quả bước đầu tốt đẹp ...".

Chúng ta tin tưởng rằng rồi đây dù khó khăn gian khổ gấp bội, với quyết tâm ngày càng được củng cố, ý chí ngày càng cao, chúng ta sẽ vượt qua tất cả, bắt đỉnh Trường Sơn phải cúi đầu, Mỹ - Diệm phải khuất phục... Tổng Quân ủy khẳng đinh: “Nhiệm vụ công tác của Đoàn 559 ngày càng trở thành quan trọng, cấp thiết hơn; cán bộ, chiến sĩ của Đoàn càng phải cố gắng vượt qua mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ hơn nữa". Ngày 15 tháng 1 năm 1960, Ban Cán sự Đoàn họp ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của tuyến trước yêu cầu và tình hình mới.

Trên cơ sở đánh giá đúng những thuận lợi, khó khăn, Ban Cán sự chủ trương: "Tăng cường xây dựng kế hoạch vận chuyển cho hợp lý, cụ thể, nhằm bảo đảm số lượng hàng chính và chủ yếu... Luôn luôn bảo đảm chất lượng hàng hóa trên đường. Bảo đảm bí mật, sẵn sàng đối phó với địch trong mọi trường hợp... Lấy tránh địch là chủ yếu; trường hợp không tránh được thì phải có kế hoạch đối phó, chiến đấu, không được để lọt vào tay địch".
 
Thực hiện chủ trương của Ban Cán sự và được sự giúp đỡ trực tiếp của Tỉnh ủy Quảng Trị, một ban chỉ huy hành lang hỗn hợp được thành lập gồm các đồng chí: Chu Đăng Chữ, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 301, Nguyễn Danh - Chính ủy tiểu đoàn 301 và đồng chí Đào - Tỉnh ủy viên Quảng Trị. Ban chỉ huy hành lang hỗn hợp có nhiệm vụ liên hệ chặt chẽ với Tỉnh ủy Quảng Trị và Ban Cán sự Đoàn 559, tổ chức nắm cụ thể tình hình địch và ta trên đường để quyết định nhưng giải pháp cụ thể, kịp thời.

Thực hiện nhiệm vụ năm 1960, toàn Đoàn bước vào đợt sinh hoạt chính trị, quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, thư của Thường trực Tổng Quân ủy và Nghị quyết Hội nghị Ban Cán sự lần thứ hai; tiếp đó tiến hành Đại hội Đảng từ chi bộ tới Đảng bộ Đoàn. Công việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức kéo dài gần hết tháng 1.

Khi quân và dân miền Bắc nhộn nhịp chuẩn bị đón Tết cổ truyền Canh Tý, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 chính thức ra quân trên tuyến - cả hai tuyến vận chuyển đường bộ và đường thủy.

Đêm 27 tháng 1 năm 1960 (đêm 30 Tết Canh Tý), con thuyền chở chuyến vũ khí đầu tiên của Đoàn 603 được lệnh rời cảng Gianh vào giao hàng cho Liên khu 5. Thuyền có 6 người do trung úy Nguyễn Bất làm thuyền trưởng, Trần Thuế thuyền phó và các thuyền viên: Nguyễn Sanh, Nguyễn Sơn, Nguyễn Văn Nửa, Huỳnh Ba. Thuyền chở hơn 5 tấn vũ khí, đạn và thuốc quân y.

Triệt để lợi dụng yếu tố bí mật bất ngờ (đêm giao thừa), thuyền lặng lẽ rời cảng Gianh. Nhưng càng ra khơi, sóng biển càng to, gió nổi lên mỗi lúc thêm mạnh. Sáu cán bộ, thuyền viên dũng cảm chống chọi với sóng gió, đưa thuyền vào được vùng biển Quảng Nam thì bất ngờ thuyền bị gãy bánh lái và trôi dạt tới Cù Lao Xanh (thuộc vùng biển tỉnh Quảng Ngãi). Lực lượng phòng thủ của địch phát hiện được và lập tức tổ chức vây bắt thuyền của ta. Để giữ bí mật ý định chiến lược mở tuyến chi viện từ miền Bắc vào miền Nam bằng đường biển; theo phương án đã định sẵn, thuyền trưởng Nguyễn Bất lập thời quyết định thả hàng xuống biển trước khi sáu cán bộ, thuyền viên rơi vào tay địch. Bị địch bắt và tra khảo dã man, lưu đày qua nhiều nhà tù, song cả sáu cán bộ, chiến sĩ vẫn một lòng kiên trung với Đảng, với cách mạng, giữ vững bí mật tuyến đường và phương thức vận chuyển.

Sau chuyến đi đầu tiên không thành công, tiểu đoàn 603 tạm ngừng hoạt động. Mặt khác trên thực tế lúc này việc cùng một lúc tổ chức điều hành hai tuyến vận chuyển chi viện với các phương thức khác nhau, địa bàn cách xa nhau là một trở ngại, phức tạp đối với lãnh đạo, chỉ huy Đoàn 559. Trước tình hình đó, tháng 4 năm 1960, Bộ Quốc phòng quyết định giải thể tiểu đoàn 603, giao nhiệm vụ vận tải chi viện bằng đường biển cho bộ đội hải quân. Phần lớn lực lượng tiểu đoàn 603 sáp nhập vào tiểu đoàn vận tải bộ 301

Tháng 11 năm 1960, Bộ Tổng tham mưu quyết định thành lập Đoàn 70, lực lượng nòng cốt là tiểu đoàn 301. Tiểu đoàn 603 (Đoàn 759 - Tập đoàn đánh cá miền Nam) chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn, thực hiện chuyến ra quân đầu tiên tuy không thành công nhưng đã cung cấp nhiều kinh nghiệm quý về phương thức bí mật vận chuyển vũ khí chi viện chiến trường bằng đường biển, giúp bộ đội hải quân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này trong những năm sau.

Trên tuyến đường bộ, đầu tháng 2 năm 1960, tiểu đoàn 301 (sau là Đoàn 70) chính thức vào tuyến. Sau đợt sinh hoạt chính trị, củng cố tổ chức, rút kinh nghiệm, tranh thủ thời tiết khá thuận lợi, tới trung tuần tháng 2, Đoàn 70 đã chuyển vào tuyến 5.870kg vũ khí, đạn (giao cho trạm đầu của Liên khu 5 được 5.190kg) đồng thời lập chân hàng ở trạm 2 (bắc sông Bến Hải) được 1.042 kg.
 
Để đối phó với hoạt động đánh phá, ngăn chặn của địch, ngày 20/2/1960 - ngay sau khi địch mở cuộc càn “Hoành Sơn", Ban Cán sự họp khẩn cấp (lần thứ ba). Hội nghị thống nhất phương châm ánh địch tích cực, bảo đảm an toàn bí mật, tranh thủ mọi điều kiện để thực hành vận chuyển; đồng thời chỉ rõ một số nhiệm vụ cụ thể: yêu cầu trước mắt là phối hợp với địa phương ra sức củng cố cơ sở nhân dân...; tăng cường cán bộ cho những trạm xung yếu (mỗi rạm có từ 2 - 3 cán bộ cấp đại đội). Bố trí mạng vô tuyến điện, bảo đảm chỉ huy cả hai đường, tổ chức nắm địch chặt chẽ hơn nữa.

Chủ trương mới của Ban Cán sự chưa kịp triển khai, cuộc càn "Hoành Sơn" vừa kết thúc, thì đầu tháng 4 năm 1960, địch mở tiếp cuộc càn lần thứ hai, nhằm tiếp tục khủng bố triệt phá cơ sở, chặn cắt hành lang giao liên vận tải Bắc - Nam. Một trung đoàn chủ lực và nhiều đại đội địa phương quân ngụy lùng sục suốt hai tháng dọc theo hai bên đường số 9, phía bắc tới vĩ tuyến 17. Chúng đã truy bắt hơn 200 thường dân và một số đồng chí chi ủy viên, đảng ủy xã, cơ sở mật. Già Nường, già Riêu lái đò trên sông Đak Rông bị địch bắn chết. ông Vô Hơ phải bỏ thuyền trốn vào rừng. Già Lừa ở làng Bíu bị địch tra khảo đến tàn phế...

Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng địa phương, đồng bào các dân tộc trong vùng đã đoàn kết, kiên cường đấu tranh chống địch khủng bố, bắt bớ, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ tuyến hành lang... Trong đấu tranh, đã xuất hiện nhiều gương dũng cảm, mưu trí, anh dũng hy sinh.

Khi địch mở cuộc càn lớn thứ hai, đồng chí Hồ Vang - người bản Nước Chảy, cơ sở liên lạc với đội 5 nhận lệnh của Tỉnh ủy Quảng Tri báo cho Đoàn 559 biết kế hoạch càn quét của địch. Dù địch có chỉ điểm, lại bị khống chế chặt, Hồ Vang vẫn khôn khéo hướng dẫn vợ tìm cách bí mật báo cho chỉ huy Đoàn 70. Nhờ đó lãnh đạo chỉ huy Đoàn kịp thời dồn đội 7 và đội 8 vào khu vực đội 9; đội 6 và đội 5 ra khu vực đột 3, nhanh chóng cất giấu hàng hóa, bảo đảm bí mật.

Làng Cát - một làng nhỏ cạnh đường số 9, thuộc xã Hương Sơn (Hướng Hóa) nằm giữa trạm 5 và trạm 6 là trọng điểm càn quét của địch. Phát hiện địch phục kích trên tuyến vận chuyển, một số thiếu nữ Vân Kiều làng Cát đã tìm cách đấu tranh trực diện để báo động cho các trạm vận chuyển có kế hoạch phòng tránh. Vợ chồng anh Lâm Pàng - người làng Cát được giao nhiệm vụ mua và chuyển gạo, thực phẩm khô cho trạm 5. Khi bị địch bắt, tra tấn dã man, vợ chồng Lâm Pàng vẫn không khai một lời, thà hy sinh, không để tuyến đường bị lộ. Có người dân tộc Vân Kiều sáng sớm ra suối, lên nương thấy lối mòn do bộ đội hành quân trong đêm hiện rõ trên cỏ ướt lập tức quay về gọi dân bản lùa trâu bò ra quần đảo, xóa nhanh dấu vết con đường ...

Trước sự khủng bố truy bắt ráo riết của kẻ thù, hầu hết nhân dân 39 thôn, bản bắc đường số 9 phải tạm lánh vào rừng. Khác với những cuộc càn trước đây, lần này địch chốt lại vùng càn trong một thời gian khá dài, tiếp tục lùng sục tìm bắt cơ sở và manh mối tuyến vận tải quân sự. Nhân dân buộc phải ở lâu trong rừng. Bản làng tiêu điều xơ xác thưa vắng bóng người. Khu vực bắc đường số 9 dọc tuyến hành lang trở thành “vùng trắng".

Trước tình hình đó, Ban Cán sự Đoàn 559 kịp thời báo cáo Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng và quyết định đưa toàn bộ Đoàn 70 lùi về hậu cứ để củng cố lực lượng, chuẩn bị tìm phương thức mới.

Việc địch truy quét gắt gao, chốt giữ lâu ngày tạo nên "vùng trắng” dọc tuyến hành lang đặt Đoàn 559 trước những khó khăn rất lớn. Không thể tiếp tục vận chuyển trên tuyến cũ, Ban Cán sự quyết định tìm mở đường mới. Ngay sau khi rút toàn bộ đội hình ra làng Mít (Quảng Bình), nhiều đoàn cán bộ, chiến sĩ được cử đi soi tìm đường mới ở tuyến đông Trường Sơn song đều không có kết quả.
 
Tháng 6 năm 1960, một đoàn cán bộ, chiến sĩ kết hợp cùng với một số cán bộ Tỉnh ủy Quảng Trị, Huyện ủy Hướng Hóa, Huyện ủy Cam Lộ soi đường, song không bắt liên lạc được với quần chúng cơ sở ở khu vực nam - bắc đường số 9, vì phần lớn nhân dân phải chạy vào rừng lánh giặc. Một bộ phận trở về bản làng cũ do sợ địch khủng bố, không dám hoạt động. Đoàn soi đường không vượt được đường số 9, phải quay về hậu cứ.

Tháng 8 năm 1960, Đoàn trưởng Võ Bẩm vào làng Mít trực tiếp chỉ đạo tổ chức lực lượng soi đường mới dọc biên giới Việt - Lào, với phương châm "tránh địch, giấu dân", vừa tìm đường vừa gây dựng cơ sở. Mãi tới tháng 3 năm 1961, tổ soi đường này mới bắt được liên lạc với đại diện Liên khu ủy 5 ở vùng Chun, trên dãy Trường Sơn.

Trên thực tế, mùa mưa năm 1960 hoạt động vận chuyển của Đoàn 559 gần như ngừng trệ. Đường cũ không duy trì được. Đường mới chưa khai thông; các giải pháp khắc phục hoạt động ngăn chặn của kẻ thù chưa có kết quả.

Gần cuối mùa mưa năm 1960, qua trinh sát nắm tình hình, ta biết sau một thời gian chốt chặn, lừng sục, không tìm được gì hơn lực lượng địch càn quét khu vực đường số 9 đã rút về Đông Hà - Quảng Trị. Hầu hết nhân dân vào rừng lánh giặc đã trở về bản làng cũ, từng bước ổn định đời sống, sản xuất.

Trước tình hình đó, ngày 1 tháng 9 năm 1960, Ban Cán sự họp hội nghị lần thứ năm, nghiên cứu tìm giải pháp hoạt động có hiệu quả nhằm chấm dứt sự ngừng trệ vận chuyển chi viện trong gần 6 tháng vừa qua (từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1960). Ban Cán sự chủ trương "phải quyết tâm tự lực cánh sinh, tranh thủ sử dụng đi đường cũ đồng thời tiếp tục soi đường mới để làm đường dự bị

Ngay sau hội nghị Ban Cán sự, một đoàn cán bộ gồm các trung đội trưởng và trinh sát viên do đồng chí Hà Kỳ Thự chỉ huy nhận nhiệm vụ trinh sát lại đường cũ, nắm tình hình và quy luật hoạt động của địch sau cuộc càn, tình hình nhân dân trong vùng chuẩn bị kỹ phương án bố trí lại các trạm, nghiên cứu nắm lại những đoạn đường buộc phải điều chỉnh.

Trở lại tuyến hành lang cũ sau những cuộc càn quét, chà xát dài ngày khốc liệt của địch, đoàn trinh sát tận mắt chứng kiến đời sống nhân dân vốn khó khăn càng thêm khốn khó. Những gì có thể dùng được đã bị kẻ địch cướp hết. Vào đúng thời kỳ giáp hạt, dân các bản làng hầu như cạn kiệt gạo, bắp ...; nguồn sống chủ yếu là măng rừng, lõi cây chuối non ...

Ban Cán sự Đoàn 559 quyết định đưa ngay một bộ phận Đoàn 70 vào tuyến, khẩn cấp chuyển muối, gạo, thuốc chữa bệnh, cứu đói, cứu bệnh cho dân. Khi cuộc sống của nhân dân tạm qua buổi cùng cực, thì việc khôi phục tuyến hành lang cũng được hoàn tất về cơ bản; lực lượng cảnh giới, trinh sát tăng gấp 4 đến 5 lần. Toàn Đoàn được lệnh chuyển hàng qua tuyến.

Phương thức vận chuyển lúc này cũng có một số thay đổi tùy theo tình hình thực tế, chủ yếu là chuyển hàng về đêm; song cũng có lúc, có chặng tổ chức vận chuyển ban ngày. Bình thường vận chuyển tuần tự từng cung, trạm; nhưng khi nắm chắc tình hình an toàn, Đoàn tổ chức đi ồ ạt từng chuyến. Trước khi bộ đội vượt đường số 9, các tổ trinh sát cảnh báo tình hình địch chính xác. Với nhiều giải pháp vận chuyển khá năng động, năng suất vận chuyển của bộ đội tăng đáng kể. Trung bình lượng hàng vận chuyển của Đoàn trong một tháng vào mùa khô 1959 - 1960 là 4 tấn, nay tăng lên 6 tấn.
 
Với quyết tâm dồn sức vận chuyển bù lấp khoảng thời gian dài hoạt động của tuyến bị ngừng trệ, kết thúc năm 1960, Đoàn 70 đã chuyển giao cho Liên khu 5 được 30,6 tấn vũ khí, đạn và hàng quân dụng (trong tổng số hàng bao gói xuất tại kho hậu cứ là 50 tấn). Hàng chục tấn gạo, muối được gùi cõng vào tuyến, bảo đảm cho Đoàn và cứu đói cho dân. 1.808 cán bộ, chiến sĩ được bảo đảm hành quân vào miền Nam.

Ngày 22 tháng 11 năm 1960, Ban Cán sự họp đánh giá: " Thắng lợi lớn nhất là mặt bảo đảm nhiệm vụ chính trị. Kẻ địch đã dùng đủ các loại quân (chủ lực, công an, mật vụ gián điệp, bảo an, biệt kích), có lúc chúng kéo cả trung đoàn sục sạo phục kích chúng ta, có lúc chúng cải trang thành thường dân, có lúc chúng trú quân ngay trên hành lang của ta, bắt bọn phản động người địa phương dẫn đi trên đường của ta ..., nhưng chúng ta đều tránh khỏi, không để lọt vào tay chúng một vật gì và cũng không cho chúng giáp mặt lần nào".

Tuy nhiên, từ thực tiễn khó khăn của hoạt động vận chuyển trong mùa mưa năm 1960, ngoài nguyên nhân địch tăng cường đánh phá, ngăn chặn, Ban Cán sự cũng sớm thấy sự bị động lúng túng của Đoàn, không phát huy được tính tích cực chủ động khi cơ sở bị vỡ, trông nhờ địa phương mở đường mới. Đặc biệt, chủ trương lánh dân đã bộc lộ rõ sự bị động của ta. "Khi địch đánh phá đường dây dễ bị đứt, lúc địch rút thì không nắm được tình hình để nhanh chóng khôi phục hoạt động bình thường. Khi cần tìm đường mới thì không có người thông thuộc địa hình giúp đỡ. Việc tiếp tế lương thực cho số anh em hoạt động trong lòng địch không khai thác được khả năng tại chỗ, phải gùi từ ngoài vào, làm giảm khả năng mang hàng chính cho chiến trường”.

Những bài học rút ra từ thực tiễn có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo tiền đề khi điều kiện cho phép, Đoàn nhanh chóng chuyển đổi phương thức vận chuyển cho phù hợp, từ phòng tránh bị động tiến tới phòng tránh tích cực và cao hơn là: đánh địch mà đi, đánh địch để vận chuyển.

Kết thúc kế hoạch vận chuyển năm 1960, Đoàn tổ chức hội nghị mừng công tại sở chỉ huy tiền phương, khẩn trương củng cố tổ chức, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ. Hội nghị mừng công của Đoàn vinh dự được đón các đồng chí Trần Nam Trung (Trần Lương) - ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Liên khu ủy 5, đồng chí Trần Văn Trà - Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam tới dự, tặng quà và động viên cán bộ, chiến sĩ.

Nhân dịp này Đoàn 70 vận tải bộ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Ba đơn vị trực thuộc Đoàn 70: đội 6, đội 7 vận tải bộ, đội 10 trinh sát bảo vệ được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì. Thiếu úy liệt sĩ Nguyễn Minh Thông được truy tặng Huân chương Chiến công hạng Ba. Nhiều cán bộ, chiến sĩ của Đoàn được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba và bằng khen của Nhà nước. Đây là những phần thưởng cao quý đầu tiên mà Đảng Nhà nước dành cho cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 - là sự ghi nhận những chiến công thầm lặng song có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong bước khởi đầu của những người lính giao liên, vận tải trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử.

Tròn 18 tháng, trải qua hai mùa khô và một mùa mưa Trường Sơn, Đoàn vận tải quân sự chiến lược 559 đã tiến được những bước mở đầu quan trọng trên con đường chiến lược Bắc - Nam. Từ những bước lặng lẽ soi đường mở lối đầu tiên, những người lính Trường Sơn đã thiết lập được tuyến hành lang giao liên, vận tải quân sự dài hàng trăm kilômét trong điều kiện địa hình bị chia cắt và kẻ thù ngăn chặn quyết liệt. Theo nhưng con đường rừng ấy, hàng chục tấn vũ khí, khí tài thiết yếu đã được chuyển giao cho lực lượng vũ trang Liên khu 5 và Tây Nguyên, hơn hai nghìn cán bộ, chiến sĩ đã được bảo đảm hành quân vào các chiến trường.

Từ đại ngàn Trường Sơn, bằng những chiến công thầm lặng của mình, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 đã viết nên màn dạo đầu của bản trường ca hào hùng "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top