• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu

thich van hoc

Moderator
Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong bài Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu

[f=800]
https://server1.vnkienthuc.com/files/3/FILEPDF/xuat_duong_tru_tinh.pdf[/f]​
 

Huỳnh Trúc

New member
Xu
0
I.Tìm hiểu chung
1.Tiểu dẫn
Tác giả
+Phan Bội Châu (1867-1940).Thuở nhỏ có tên là Phan Văn San. Hiệu là Sào Nam.
+Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho, tại
làng Đan Nhiệm, Nam Hoà, Nam Đàn, Nghệ An.
+Ông nổi tiếng thần đồng: 13 tuổi đỗ đầu huyện, 16 tuổi đỗ đầu xứ, 33 tuổi (1900) đỗ Giải nguyên trường Nghệ An .
+Phan Bội Châu là nhà Nho Việt Nam đầu tiên nuôi ý tưởng tìm đường cứu nước. Năm 1904, ông lập Hội Duy Tân-tổ chức cách mạng theo đường lối dân chủ tư sản.
+Năm 1905, theo chủ trương của Hội Duy Tân, Phan Bội Châu lãnh đạo phong trào Đông Du và xuất dương sang Nhật.
+Năm 1912, ông thành lập Việt Nam Quang phục hội. Cũng năm này ông bị Nam triều (đứng sau là thực dân Pháp) kết án tử hình vắng mặt.
Năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt cóc ở Trung Quốc, chúng định đem ông về nước để thủ tiêu bí mật. Việc bại lộ, thực dân Pháp phải đem ông ra xét xử công khai, trước sự đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, chúng phải xoá án khổ sai chung thân và đưa ông về quản thúc (giam lỏng) tại Huế. ông mất ở đây năm 1940.
Phan Bội Châu là người khởi xướng, là ngọn cờ đầu của phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam, trong khoảng 20 năm đầu của thế kỉ XX.
Sự nghiệp cứu nước của ông tuy không thành, nhưng đã khơi dậy tinh thần yêu nước mạnh mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân.
-Năm 17 tuổi, viết: Bình Tây thu Bắc, dán ở các cổng trong làng, để kêu gọi mọi người hưởng ứng phong trào Cần Vương.
-Trong quá trình hoạt động cách mạng, Phan Bội Châu đã sáng tác nhiều tác phẩm, thuộc nhiều thể loại khác nhau, bằng chữ Hán và chữ Nôm.
+Bái thạch vi huynh phú (1987)
+Việt Nam vong quốc sử (1905)
+Hải ngoại huyết thư (1914)
+Ngục trung thư (1906)
+Trùng quang tâm sử (1921-1925)
+Văn tế Phan Châu Trinh (1926)
+Phan Bội Châu niên biểu (1929)
+Phan Bội Châu văn tập và Phan Sào Nam tiên sinh quốc văn thi tập (hai tập văn thơ này làm trong thời gian cụ Phan bị thực dân Pháp giam lỏng tại Huế)
-Thơ văn Phan Bội Châu sôi sục, nóng bỏng tinh thần yêu nước; Thơ văn ông đã thành công trong việc tuyên truyền, cổ vũ tinh thần, ý chí dân tộc và hành động cứu nước. Thơ văn ông giàu nhiệt huyết, có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân.
ông được coi là cây bút xuất sắc nhất trong những năm đầu thế kỉ XX.
Tác phẩm:
-Duy Tân hội được thành lập năm 1905, khi phong trào Cần Vương đã cho thấy sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo. Phan Sào Nam, lúc này còn rất trẻ đã biểu hiện quyết tâm vượt qua giáo lí đã lỗi thời của đạo Nho để đón nhận luồng tư tưởng mới, tìm hướng mới khôi phục giang sơn. Phong trào Đông Du được nhóm lên, đặt cơ sở, tạo cốt cán cho phong trào cách mạng trong nước và chủ trương cầu Nhật giúp Việt Nam đánh Pháp.
-Lưu biệt khi xuất dương được viết trong bữa cơm ngày tết cụ Phan tổ chức ở nhà mình, để chia tay với bạn đồng chí trước lúc lên đường.
2.Văn bản
Thơ Nôm Đường luật cũng như thơ Đường Luật thường có bố cục 4 cặp câu (Đề, thực, luận, kết) hay 4 câu trên, 4 câu dưới.
Có thể chia bài thơ làm hai phần:
*Bốn câu trên:
Quan niệm mới về chí làm trai, cùng ý thức của cái tôi đầy trách nhiệm.
*Bốn câu còn lại:
ý thức được nỗi nhục mất nước, sự lỗi thời của nền học vấn cũ, đồng thời thể hiện khát vọng hăm hở, dấn thân trên hành trình cứu nước.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Bốn câu đầu
Làm trai phải lạ ở trên đời
Sinh ra làm thân nam nhi, phải làm được những việc lớn lao kì lạ, trọng đại cho đời.
Các bậc tiền nhân trước như: Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ đã từng nói nhiều về chí làm trai....
-Câu thơ thứ hai: Há để càn khôn tự chuyển dời
Lời nhắc nhở: làm trai phải xoay trời chuyển đất, phải chủ động, không nên trông chờ. (lẽ nào cuộc sống muốn đến đâu thì đến, mình là kẻ đứng ngoài vô can.
“Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có chí, có anh hùng”
(Nguyễn Trãi- Bảo kính cảnh giới số 5)
“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
(Phạm Ngũ lão- Tỏ lòng)
“Làm trai sống ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
(Nguyễn Công Trứ- Chí làm trai)
Chí làm trai mà các bậc tiền nhân nhắc đến gắn với lí tưởng phong kiến, gắn với nhân nghĩa, chí khí, với công danh sự nghiệp.
Chí làm trai theo quan niệm mới mẻ của cụ Phan:
Phải xoay trời chuyển đất, phải chủ động, phải làm những việc phi thường, phải gắn liền với sự nghiệp cứu nước. ý tưởng lớn lao, mới mẻ này đã giúp Phan Bội Châu thể hiện cái tôi đầy trách nhiệm của mình, trong những câu thơ tiếp theo.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Khẳng định đầy tự hào, đầy trách nhiệm: dành trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp cứu nước.
Tự nhận gánh vác việc giang sơn một cách tự giác,
Nói bằng cả tâm huyết, bằng tấm lòng sục sôi của mình. Phá vỡ tính quy phạm của văn học trung đại
(Tính phi ngã).
Gv: nghệ thuật tuyên truyền chỉ đạt được hiệu quả, khi tác phẩm được viết bằng cả tấm lòng, tâm huyết, niềm tin chân thật!
Sau này muôn thuở há không ai?
Cụ Phan không hề khẳng định mình và phủ nhận mai sau, mà muốn nói lịch sử là một dòng chảy liên tục, có sự góp mặt và tham gia gánh vác công việc của nhiều thế hệ! có niềm tin với mình như thế nào, với mai sau như thế nào mới viết được những câu thơ như thế.
2.Bốn câu cuối
-Non sông đã chết....Hiền thánh còn đâu?...
Nhục....hoài!
Việc học hành thi cử cũ, không còn phù hợp với tình hình đất nước hiện tại. (Cụ không hề phủ nhận Nho giáo, cụ chỉ muốn kêu gọi sự thức thời, tinh thần hành động vì sự nghiệp giải phóng dân tộc! Con người tràn đầy nhiệt huyết, cá tính mạnh mẽ ưa hành động đã dùng những từ phủ định đầy ấn tượng:
“Tử hĩ” (chết rồi); “Đồ nhuế” (nhơ nhuốc);
“Si” (ngu)
Các từ trong bản dịch: nhục, hoài; chưa thể hiện được các từ “Đồ nhuế”, “Si” trong nguyên tác.
-Khát vọng hành động, tư thế của nhân vật trữ tình được thể hiện qua các từ chỉ không gian: “Trường phong đông hải” “Thiên trùng bạch lãng” vừa kì vĩ, vừa rộng lớn gây ấn tượng sâu sắc về con người của vũ trụ. (Con người trong thơ xưa chưa phải là con người các nhân, cá thể mà là con người vũ trụ)
Hình ảnh mang tính vũ trụ ấy có tác dụng tô đậm phẩm chất của nhân vật trữ tình, đó là khát vọng là tư thế hăm hở lên đường cứu nước.
-Con người như muốn lao ngay vào môi trường hoạt động mới mẻ sôi động, bay lên cùng cơn gió lớn làm quẫy sóng đại dương. Mạnh mẽ hơn nữa: cùng một lúc bay lên với muôn trùng sóng bạc.
Thứ nhất:
Giọng điệu thơ đầy tâm huyết, khẳng định, tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ:
Hai câu đầu ý thơ mở ra có tính chất mạnh mẽ (hướng ngoại). Những câu tiếp: khẳng định ý thức trách nhiệm cá nhân một cách tự tin, giọng thơ lắng xuống khi nhìn vào thực trạng đất nước.
Hai câu cuối: tứ thơ lại trào lên mạnh mẽ, hăm hở, với khát vọng lên đường.
Nhân vật trữ tình được thể hiện rõ qua giọng điệu bài thơ:đó là con người tự tin, dám khẳng định mình; ý thức rõ về nỗi vinh nhục ở đời, có khát vọng lớn lao, trên hành trình đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Thứ hai:
Cách sử dụng từ ngữ:
Càn khôn, non sông, khoảng trăm năm
(những từ ngữ chỉ đại lượng không gian, thời gian rộng lớn, mang tầm vóc vũ trụ-Đặc trưng thơ tỏ chí trung đại (múa giáo non sông...) đó cũng là đặc trưng trong bút pháp thơ của Phan Bội Châu.
Những từ phủ định mạnh mẽ, đã tác động đến độc giả một cách sâu sắc (Tử hĩ, đồ nhuế, si)
III.Củng cố
Hình tượng nhân vật trữ tình là hình tượng một người anh hùng, tràn đầy ý thức về cái tôi của mình, cái tôi ý thức đầy trách nhiệm về sự tồn vong của đất nước, để từ đó thể hiện vai trò của mình với giang sơn đất nước.
IV.Luyện tập
Chí làm trai của Phan Bội Châu được khẳng định
Trên mấy cơ sở sau đây:
+Sức vươn lên mạnh mẽ của tuổi trẻ, của cái tôi. làm trai phải xoay trời chuyển đất, xuống đông đông tĩnh , lên đoài đoài yên
+Vai trò của tuổi trẻ với sự tồn vong của dân tộc, thanh niên là lực lượng cứu nước chính. Cứu nước phải tìm đường, phải học hỏi. không thể theo lối mòn cũ!
+Nét mới: sự nhạy cảm của Phan Bội Châu trước đòi hỏi của lịch sử, dứt khoát từ bỏ kiểu học vấn cũ. Chí làm trai gắn liền với sự tồn vong của dân tộc, chuyện lưu danh muôn thuở không phải là mục đích chính!


Chí làm trai trong " Xuất dương lưu biệt" (bài 1)

1.Hoàn cảnh sáng tác bài thơ

Năm 1905 Phan Bội Châu lên đường sang Nhật Bản>Khi chia tay bạn bè, đồng chí, Phan ứng khẩu đọc bài thơ này. Bối cảnh lịch sử, xã hội Virtj Nam lúc đó có những điểm đáng chú ý sau:

- Đất nước ta đang trong một hoàn cảnh chính trị rất đen tối, các cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp đã hầu như tan rã, thực dân Pháp đã làm chủ tình thế,ách đô hộ đã mặc nhiên quàng lên đầu lên cổ nhân dân. Nói như Phan Châu Trinh:

Vạn dân nô lệ cương quyền hạ,
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
(Muôn dân nô lệ một đàn,
Văn chương bát cổ nồng nàn giấc say.)

- Trong một bộ phận những người trí thức dân tộc, ý chí cứu nước không hề bị thui chột, nhưng vấn đề đặt ra cấp thiết là cứu nước bằng con đường nào? Và một ánh sáng mới đã bắt đầu loé lên. Người ta đón nhận những tư tưởng mới từ bên trời Âu truyền sang, người ta say sưa trước những thành tích duy tân của nước Nhật Bản, Trung Hoa. “Kì diều thay là sức quyến rũ của lí tưởng …thực tế càng ủ dột bao nhiêu thì cái viễn cảnh của tưởng tượng lại càng đẹp đẽ, thấm thía bấy nhiêu. Luồng máu nóng trong quả tim trai trẻ bị kích thíc đã bùng lên đến tột độ”(Đặng Thai Mai). Phan Bội Châu ra đi trong niềm say mê lí tưởng đó với một sứ mạng lịch sử đè nặng đôi vai: khôi phục lại đất nước, tái tạo giang sơn.

2. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn hào hùng sôi trào nhiệt huyết và cháy bỏng khát vọng ước mơ.


- Chí làm trai:

Chí làm trai là một lí tưởng nhân sinh trong chế độ phong kiến, thể hiện tư tưởng nhập thế tích cực của đạo Nho. Chí làm trai đó thường gắn với cái mộng công danh:
Công danh nam tử còn vương nợ (Phạm Ngũ Lão)
Không công danh thời nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ)

hoặc để thoả cái chí tang bồng hồ thỉ:

Chí làm trai nam, bắc, tây. đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Nguyễn Công Trứ)

Và trong thực tế, không ít người đã lập nên công tích ở đời như Phạm Ngũ Lão từng “Múa giáo non sông trải mấy thu”, đánh đuổi giặc xâm lăng, giữ gìn đất nước; như Nguyễn Công Trứ từng khơi sông lấp biển, mang cuộc sống ấm no lại cho nhân dân…Phan Bội Châu cũng nói đến chí làm trai và cũng mong làm nên chuyện lạ ở đời:

Làm trai phải lạ ở trên đời,

Nhưng ở một nhà nho tân học, một nhà cách mạng nhiệt thành đang say mê hướng tới ánh sáng lí tưởng mới như Phan Bội Châu thì chuyện lạ đâu có phải là chuyện công danh, cũng đâu phải chỉ là phỉ sức vẫy vùng! Giữa lúc non sông chìm đắm, chí của Phan là chí xoay trời chuyển đất, lấp bể, vá trời chứ đâu chịu ngồi yên mà nhìn đất nước an bài theo ý muốn của bọn thực dân:

Há để càn khôn tự chuyển dời

Đó là lí tưởng sống mà vì nó Phan sẵn sàng hiến trọn cuộc đời mình, lí tưởng mà trước đó không lâu Phan đã nói rõ trong bài hát nói Chơi xuân:

Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn
Đenm xuân vẽ lại trong nnon nước nhà.

Với một lẽ sống như thế, tư thế con người trong vũ trụ là tư thế của một con người khổng lồ, con người làm chủ hoàn cảnh. Trong cảnh cá chậu chim ***g, giữa những tiếng tở dài bất lực ‘thời cơ đã lỡ rồi” của văn thơ Cần Vương cuói thế kỉ XIX, cái lẽ sống hào hùng, cái tư thế mạnh mẽ chủ động ấy có sức thu hút biết bao đối với cả một thế hệ thanh niên đương thời!

- Ý thức tự khẳng định mình giữa cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?

Sự tự khẳng định này cũng là sụăt khẳng định của cái Tôi nhưng là một cái Tôi khác hẳn với cái Tôi cá nhân tư sản chỉ biết đòi hưởng thụ mà trốn tránh trách nhiệm với đời. Đây là một thái độ sống tích cực không buông trôi theo dòng đời mà cũng không thụ động chờ đợi . Cái Tôi ở đây là một cái Tôi trách nhiệm chủ động ghé vai gánh vác trọng trách ở đời. Lẽ sống anh hùng ấy gắn gắn liền với một nhân sinh quan thật cao cả, đẹp đẽ, nó vượt ra ngoài cái danh lợi tầm thường, tuy vẫn có ước vọng thật chính đáng là để lại tiếng thơm muôn đời.

- Quan niệm về vinh nhục:

Trong những tác phẩm văn học khác, có lúc Phan Bội Châu đã nói: “Bôi mặt thờ kẻ thù sẽ là một vật bẩn thỉu trong vũ trụ” (Việt Nam quốc sử khảo), “Sao bằng ngẩng đầu lên làm người lỗi lạc của Tổ quốc” (Hoà lệ cống ngôn). Đó là quan niệm về nỗi nhục và vinh trong trong câu thơ này:

Non sông đã chết sống thêm nhục

Ở thời đại của Phan, không ít người thấm thía cái nỗi đau, nỗi nhục mất nước này, nhưng cách nói của Phan có cái gì đặc biệt, kích động tâm can con người. Một sự khẳng định thật dứt khoát, hàm chứa nỗi tức tối khôn nguôi “Giang sơn tử hĩ”(Non sông đã chết). Một sự phủ định cũng thật dứt khoát nhưng lại hàm chứa sự nóng bỏng sôi sục của con người không cam chịu cúi đầu; phủ định cuộc sống nhục nhã để tìm đến một lẽ sống vinh quang chứ không phải để chìm đắm trong đau buồn, thất vọng. Con người Phan là thế, lúc nào cũng sôi trào bầu nhiệt huyết.

- Thái độ với những thần tượng cũ:

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

Phan Bội Châu là một nhà nho, đã từng qua cửa Khổng, sân Trình, sách vở thánh hiền đã từng thấm sâu vào tim óc. Nhưng cùng với cả một thế hệ nhà nho tâm huyết lúc này, Phan đã được tận mắt thấy sự sụp đổcủa những thần tượng cũ trước làn sóng xâm lăng của thực dân, thấy sự bất lực của những tín điều xưa trước những vấn đề có liên quan đến sự mất còn của đất nước. Hơn thế nữa, ở thời đại “gió Âu, mưa Mĩ” này, một chân trời mới mẻ đã hé rạng trước mắt các nhà nho tiên tiến như Phan Bội Châu. Cái vốn sống, vốn tri thức ấy cộng với bầu nhiệt huyết sôi trào của một con người đang hăm hở tìm đường cứu nước đã giúp Phan Bội Châu có được một ý tưởng táo bạo và dứt khoát như thế với những cái gì đã cũ kĩ, lỗi thời, không đảm đương được trách nhiệm lịch sử đối với dân tộc nữa.

- Khát vọng và tư thế trong buổi lên đường:

Từ đầu bài thơ là những lời bộc bạch đầy hào khí, đến hai câu kết này, tác giả mượn một hình ảnh thơ thật đẹp, thật hùng tráng để bày tỏ lòng mình:

Muốn đuổi theo ngọn gió dài để đi ra biển Đông,
Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên.

Phan Bội Châu ra đi lần này là để đi “tìm hình của nước”, để tiếp cận cái chân trời mơ ước đã mở ra từ những trang sách “tân thư”. Cho nên trong hành trang Phan Bội Châu mang theo không phải chỉ có cái chí “Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà” của bản thân, mà còn cả biêt bao kì vọng của bạn bè, đồng chí, của nhân dân. Trách nhiệm đè nặng đôi vai, nhưng tâm hồn thì như đã rứt tung xièng xích, thả sức cho khát vọng ước mơ. Những ngọn gió dài (trường phong) và muôn trùng sóng bạc cùng một lúc bay lên (Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi) đã chắp cánh cho những khát vọng, ước mơ đó. Ta có cảm giác chính nhà cách mạng, nhà thơ này đã hoá thân thành những cánh chim bằng bay vút lên giữa sóng gió biển khơi, giữa cao rộng đất trời…Hình ảnh mang tính chất anh hùng ca này là kết tinh toàn bộ cái cảm hứng lãng mạn, hào hùng, cái tư thế khoẻ khoắn, hăm hở đầy nhiệt huyết, cái quyết tâm phi thường của nhân vật trữ tình là chính tác giả trong suốt bài lưu biệt này.

Cùng với sự ra đi này của Phan Bội Châu, bài thơ Xuất dương lưu biệt có thể xem như mở đầu cho một loạt anh hùng ca của thời đại mới.
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top