• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Phân tích bài thơ "Xuất dương lưu biệt" của Phan Bội Châu

ngan trang

New member
Phân tích bài thơ "Xuất dương lưu biệt" của Phan Bội Châu
1.Hoàn cảnh sáng tác bài thơ

Năm 1905 Phan Bội Châu lên đường sang Nhật Bản>Khi chia tay bạn bè, đồng chí, Phan ứng khẩu đọc bài thơ này. Bối cảnh lịch sử, xã hội Virtj Nam lúc đó có những điểm đáng chú ý sau:

- Đất nước ta đang trong một hoàn cảnh chính trị rất đen tối, các cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp đã hầu như tan rã, thực dân Pháp đã làm chủ tình thế,ách đô hộ đã mặc nhiên quàng lên đầu lên cổ nhân dân. Nói như Phan Châu Trinh:

Vạn dân nô lệ cương quyền hạ,
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
(Muôn dân nô lệ một đàn,
Văn chương bát cổ nồng nàn giấc say.)

- Trong một bộ phận những người trí thức dân tộc, ý chí cứu nước không hề bị thui chột, nhưng vấn đề đặt ra cấp thiết là cứu nước bằng con đường nào? Và một ánh sáng mới đã bắt đầu loé lên. Người ta đón nhận những tư tưởng mới từ bên trời Âu truyền sang, người ta say sưa trước những thành tích duy tân của nước Nhật Bản, Trung Hoa. “Kì diều thay là sức quyến rũ của lí tưởng …thực tế càng ủ dột bao nhiêu thì cái viễn cảnh của tưởng tượng lại càng đẹp đẽ, thấm thía bấy nhiêu. Luồng máu nóng trong quả tim trai trẻ bị kích thíc đã bùng lên đến tột độ”(Đặng Thai Mai). Phan Bội Châu ra đi trong niềm say mê lí tưởng đó với một sứ mạng lịch sử đè nặng đôi vai: khôi phục lại đất nước, tái tạo giang sơn.

2. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn hào hùng sôi trào nhiệt huyết và cháy bỏng khát vọng ước mơ.


- Chí làm trai:

Chí làm trai là một lí tưởng nhân sinh trong chế độ phong kiến, thể hiện tư tưởng nhập thế tích cực của đạo Nho. Chí làm trai đó thường gắn với cái mộng công danh:
Công danh nam tử còn vương nợ (Phạm Ngũ Lão)
Không công danh thời nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ)

hoặc để thoả cái chí tang bồng hồ thỉ:

Chí làm trai nam, bắc, tây. đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Nguyễn Công Trứ)

Và trong thực tế, không ít người đã lập nên công tích ở đời như Phạm Ngũ Lão từng “Múa giáo non sông trải mấy thu”, đánh đuổi giặc xâm lăng, giữ gìn đất nước; như Nguyễn Công Trứ từng khơi sông lấp biển, mang cuộc sống ấm no lại cho nhân dân…Phan Bội Châu cũng nói đến chí làm trai và cũng mong làm nên chuyện lạ ở đời:

Làm trai phải lạ ở trên đời,

Nhưng ở một nhà nho tân học, một nhà cách mạng nhiệt thành đang say mê hướng tới ánh sáng lí tưởng mới như Phan Bội Châu thì chuyện lạ đâu có phải là chuyện công danh, cũng đâu phải chỉ là phỉ sức vẫy vùng! Giữa lúc non sông chìm đắm, chí của Phan là chí xoay trời chuyển đất, lấp bể, vá trời chứ đâu chịu ngồi yên mà nhìn đất nước an bài theo ý muốn của bọn thực dân:

Há để càn khôn tự chuyển dời

Đó là lí tưởng sống mà vì nó Phan sẵn sàng hiến trọn cuộc đời mình, lí tưởng mà trước đó không lâu Phan đã nói rõ trong bài hát nói Chơi xuân:

Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn
Đenm xuân vẽ lại trong nnon nước nhà.

Với một lẽ sống như thế, tư thế con người trong vũ trụ là tư thế của một con người khổng lồ, con người làm chủ hoàn cảnh. Trong cảnh cá chậu chim lồng, giữa những tiếng tở dài bất lực ‘thời cơ đã lỡ rồi” của văn thơ Cần Vương cuói thế kỉ XIX, cái lẽ sống hào hùng, cái tư thế mạnh mẽ chủ động ấy có sức thu hút biết bao đối với cả một thế hệ thanh niên đương thời!

- Ý thức tự khẳng định mình giữa cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?

Sự tự khẳng định này cũng là sụăt khẳng định của cái Tôi nhưng là một cái Tôi khác hẳn với cái Tôi cá nhân tư sản chỉ biết đòi hưởng thụ mà trốn tránh trách nhiệm với đời. Đây là một thái độ sống tích cực không buông trôi theo dòng đời mà cũng không thụ động chờ đợi . Cái Tôi ở đây là một cái Tôi trách nhiệm chủ động ghé vai gánh vác trọng trách ở đời. Lẽ sống anh hùng ấy gắn gắn liền với một nhân sinh quan thật cao cả, đẹp đẽ, nó vượt ra ngoài cái danh lợi tầm thường, tuy vẫn có ước vọng thật chính đáng là để lại tiếng thơm muôn đời.

- Quan niệm về vinh nhục:

Trong những tác phẩm văn học khác, có lúc Phan Bội Châu đã nói: “Bôi mặt thờ kẻ thù sẽ là một vật bẩn thỉu trong vũ trụ” (Việt Nam quốc sử khảo), “Sao bằng ngẩng đầu lên làm người lỗi lạc của Tổ quốc” (Hoà lệ cống ngôn). Đó là quan niệm về nỗi nhục và vinh trong trong câu thơ này:

Non sông đã chết sống thêm nhục

Ở thời đại của Phan, không ít người thấm thía cái nỗi đau, nỗi nhục mất nước này, nhưng cách nói của Phan có cái gì đặc biệt, kích động tâm can con người. Một sự khẳng định thật dứt khoát, hàm chứa nỗi tức tối khôn nguôi “Giang sơn tử hĩ”(Non sông đã chết). Một sự phủ định cũng thật dứt khoát nhưng lại hàm chứa sự nóng bỏng sôi sục của con người không cam chịu cúi đầu; phủ định cuộc sống nhục nhã để tìm đến một lẽ sống vinh quang chứ không phải để chìm đắm trong đau buồn, thất vọng. Con người Phan là thế, lúc nào cũng sôi trào bầu nhiệt huyết.

- Thái độ với những thần tượng cũ:

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

Phan Bội Châu là một nhà nho, đã từng qua cửa Khổng, sân Trình, sách vở thánh hiền đã từng thấm sâu vào tim óc. Nhưng cùng với cả một thế hệ nhà nho tâm huyết lúc này, Phan đã được tận mắt thấy sự sụp đổcủa những thần tượng cũ trước làn sóng xâm lăng của thực dân, thấy sự bất lực của những tín điều xưa trước những vấn đề có liên quan đến sự mất còn của đất nước. Hơn thế nữa, ở thời đại “gió Âu, mưa Mĩ” này, một chân trời mới mẻ đã hé rạng trước mắt các nhà nho tiên tiến như Phan Bội Châu. Cái vốn sống, vốn tri thức ấy cộng với bầu nhiệt huyết sôi trào của một con người đang hăm hở tìm đường cứu nước đã giúp Phan Bội Châu có được một ý tưởng táo bạo và dứt khoát như thế với những cái gì đã cũ kĩ, lỗi thời, không đảm đương được trách nhiệm lịch sử đối với dân tộc nữa.

- Khát vọng và tư thế trong buổi lên đường:

Từ đầu bài thơ là những lời bộc bạch đầy hào khí, đến hai câu kết này, tác giả mượn một hình ảnh thơ thật đẹp, thật hùng tráng để bày tỏ lòng mình:

Muốn đuổi theo ngọn gió dài để đi ra biển Đông,
Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên.

Phan Bội Châu ra đi lần này là để đi “tìm hình của nước”, để tiếp cận cái chân trời mơ ước đã mở ra từ những trang sách “tân thư”. Cho nên trong hành trang Phan Bội Châu mang theo không phải chỉ có cái chí “Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà” của bản thân, mà còn cả biêt bao kì vọng của bạn bè, đồng chí, của nhân dân. Trách nhiệm đè nặng đôi vai, nhưng tâm hồn thì như đã rứt tung xièng xích, thả sức cho khát vọng ước mơ. Những ngọn gió dài (trường phong) và muôn trùng sóng bạc cùng một lúc bay lên (Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi) đã chắp cánh cho những khát vọng, ước mơ đó. Ta có cảm giác chính nhà cách mạng, nhà thơ này đã hoá thân thành những cánh chim bằng bay vút lên giữa sóng gió biển khơi, giữa cao rộng đất trời…Hình ảnh mang tính chất anh hùng ca này là kết tinh toàn bộ cái cảm hứng lãng mạn, hào hùng, cái tư thế khoẻ khoắn, hăm hở đầy nhiệt huyết, cái quyết tâm phi thường của nhân vật trữ tình là chính tác giả trong suốt bài lưu biệt này.

Cùng với sự ra đi này của Phan Bội Châu, bài thơ Xuất dương lưu biệt có thể xem như mở đầu cho một loạt anh hùng ca của thời đại mới.
 

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
93
Bài làm 1

Phân tích bài thơ “Xuất Dương lưu biệt” của Phan Bội Châu.

Bài làm 1

Phan Bội Châu (1867 – 1940) là cái tên đẹp một thời. Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỷ XX. Tên tuổi ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội…Tên tuổi Phan Bội Châu còn gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng (Tố Hữu).

Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương Trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905, ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông Du, qua Trung Hoa, Nhật Bản để cầu ngoại viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại cho các đồng chí bài thơ Xuất dương lưu biệt. Có thể nói, bài thơ này như một mốc son chói lọi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thơ văn Phan Bội Châu.

Xuất dương lưu biệt được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế, quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩ cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.


  1. Hai câu đề tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:

Sinh nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi.

Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống, mong muốn làm nên điều lạ (tử yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường, không thể sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ, tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoay chuyển đất trời, như ông đã nói trong một bài thơ khác:

Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khẩu khí anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muồn làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm như trong một vần thơ cổ:

Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.
(Tùy biên thi thoại – Viên Mai)

(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xoáng nhất ấy văn chương)


Đấng nam nhi muốn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sôi sục: Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nói người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt dầm đìa rỏ xuống ướt đẫm cả giấy…(Ngục trung thư)


  1. Phần thực ý thơ được mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và trong lịch sử:

Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.


Ngã là ta; tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ yêu nước trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu là nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định để làm nổi bật điều khẳng định. Đó là ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:

-…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội có, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng (Trần Quốc Tuấn).

- Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (Văn Thiên Tường)


Lấy cái hữu hạn bách niên của một đời người đối với cái vô hạn thiên tải của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng biểu lộ quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế, trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và nguy hiểm, ông vẫn bất khuất, lạc quan:

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!
(Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông)



  1. Phần luận, tác giả nói về sự sống và cái chết, nói về đường công danh. Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm dài đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xéo thì thân phận dân ta chỉ là kiếp trâu ngựa, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử sôi kinh, có chúi đầu vào còn đường kinh sử cũng vô nghĩa. Sách vở của Thánh hiền liệu có ích gì trong sự nghiệp cứu nước cứu nhà:

Non sông đã chết sống thêm nhục,
Thánh hiền còn đâu học cũng hoài


Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lối học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927, cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:

Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn
Dụng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ…


Sống như thế nào là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ.


  1. Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bay bổng đượm sắc màu lãng mạn:

Nguyên trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi


Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, kêu gọi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bài ca ái quốc vì thấm đượm cảm xúc, sục sôi nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết này là một ví dụ: Trường phong – ngọn gió dài, Thiêu trùng bạch lãng – ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sỹ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ: Nguyện trục (mong theo đuổi) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Nếu hai thanh trắc cuối câu 7 (Đông Hải khứ) làm cho âm điệu thắt lại, nén lại thì hai thanh bằng cuối câu 8 (nhất tề phi) lại làm cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng trầm bổng ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước cùa Phan Bội Châu. Ở đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí cùa người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thống nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều tiên sinh đã nói ở hai câu kết.

Xuất dương lưu biệt là bai thơ tuyệt tác đầy tâm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng, tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.

Theo Ths. Phạm Ngọc Thắm*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
93
Bài làm 2

Bài thơ Xuất dương lưu biệt đúng là bài thơ để nói cái chí của mình (thi dĩ ngôn chí) một khúc tráng ca thể hiện rất rõ trong tư thế, trong suy nghĩ cao cả, mới mẻ và sự quyết tâm hăm hở ra đi tìm đường cứu nước của nhà thơ, nhà cách mạng lớn Phan Bội Châu.

Ngay ở đầu bài thơ, hai câu đề có giá trị như là tuyên ngôn về chí làm trai:

Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hữu càn khôn tự chuyển di
(Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời)


Chí làm trai là một lí tưởng nhân sinh thời phong kiến. Cái phần tích cực, cái tráng khí hùng tâm của chí làm trai đã từng làm cho không ít người đã lập nên công tích ở đời. Thời trước, chí làm trai không mấy khi tách khỏi kỳ vọng công danh. Nếu Phạm Ngũ Lão nghĩ suy Công danh vương tử còn vương nợ (Thuật hoài) thì Nguyễn Công Trứ cũng trăn trở Không công danh thà nát với cỏ cây (Chí làm trai). Nhà thơ họ Nguyễn còn gắn chí làm trai với nợ tang bồng: Chí làm trai nam bắc đông tây. Cho Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Chí làm trai)…

Ở đây, Phan Bội Châu cũng nghĩ tới chí làm trai. Theo nhà thơ, đã làm trai thì phải làm nên chuyện lạ ở đời:

Làm trai phải lạ ở trên đời

Chuyện lạ ấy nhấtđịnh không phải là công danh cũng không phải là nợ tang bồng. Chuyện lạ ở bài thơ này chính là xoay chuyển trời đất, lấp biển dời non.

Há để càn khôn tự chuyển dời

Không thể sống thụ động, câu thơ là một câu hỏi tu từ, khẳng định một tư thế, một tâm thế tuyệt đẹp của nhà cách mạng trong buổi lên đường tự tin vào tài năng của mình muốn làm nên một sự nghiệp to lớn giữa lúc non sông đắm chìm trong cảnh nô lệ lầm than.

Hai câu thực tiếp đó là ý thức tự khẳng định mình, cái tôi trách nhiệm trước thời đại mình đang sống:

Vi bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?)


Hai câu thơ, câu đầu nói giọng khẳng định. Câu sau nghi vấn, nhưng thực chất cũng là khẳng định. Chí làm trai ở đây gắn liền với nhận thức về sự hiện hữu của cái tôi, cái tôi trách nhiệm và ý muốn sống hữu ích, muôn lưu danh với hậu thế. Theo Nguyễn Đình Chú: “Giữa cuộc sống tối tăm của đất nước lúc đó, có được một ý thức về cái tôi như thế, quả là cứng cỏi, là đẹp vô cùng cũng như có được một ý thức lưu danh thiên cổ bằng sự cứu nước quả là cần thiết, là cao cả vô cùng.|

Rất đỗi tự hào về trách nhiệm, vai trò của mình trong cuộc đời, “trong khoảng trăm năm”, và hơn thế nữa, trong “sau này muôn thuở”, nhà thơ nêu câu hỏi: “Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy?”. Chửng lẽ ngàn năm sau lại không có ai để lại tên tuổi mình ư? Thoạt nghe là tự hỏi mình, nhưng thực ra cũng là hỏi tất mọi người. Không chỉ hỏi thôi đâu mà chính là giục giã mọi người hành động.

Hai câu tiếp theo là quan niệm của nhà thơ về lẽ sống trong hoàn cảnh đất nước lầm than, nô lệ:

Giang sơn sử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liên nhiên tụng diệc si
(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài).


Trong hai câu thơ này, nhà thơ đề cập một cách thống thiết, đầy xúc động về thực tại đau thương của đất nước ta, nhân dân ta đang bị bọn thực dân Pháp thống trị. Cách nói này nửa khẳng định dứt khoát vừa chứa đựng nỗi căm tức khôn nguôi của một con người, một tấm lòng sục sôi, nóng bỏng không cam chịu cúi đầu trước cái nhục mất nước. Đối với nhà thơ lúc này, mọi sách vở giáo dục đều là vô ích:

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

Giọng điệu trang nghiêm, câu thơ ngắn ngọn với ý tưởng sâu sắc táo bạo.

Hai câu kết khép lại bài thơ là một tư thế hăm hở hào hùng, kì vĩ của người ra đi:

Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi

Nghĩa là:

Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muốn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.


Mượn hình ảnh thơ những ngọn gió dài (trường phong) và ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên vừa thơ mộng vừa hùng tráng, đầy hào khí, Phan Bội Châu đã thể hiện cái hùng tâm tráng khí của mình và đặc biệt là sự khao khát ra đi đến cháy bỏng của tâm hồn nhà thơ.

Người đọc tưởng như nhà thơ đang “cưỡi gió, đạp sóng” hay đang hóa chim bằng vút cánh qua “sóng gió biển khơi” giữa “cao rộng đất trời”…bay lên cùng muôn trùng sóng bạc với chân trời mới, tới thắng lợi.

Xuất dương lưu biệt, bài thơ chỉ 56 từ mà thể hiện một chí khí lớn lao, kì vĩ. Nhà thơ không can tâm làm nô lệ mà nhất quyết ra đi tìm con đường cứu nước. Giọng thơ đầy cảm xúc, sôi sục, tuôn trào, mãi mãi là lời kêu gọi mọi người hãy hành động, hãy cống hiến hết mình vì nhân dân, vì đất nước.

Theo Ths. Phạm Ngọc Thắm*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top