Ôn thi môn Tốt nghiệp môn Văn

BÀI 8: ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ (Hê-minh-uê)

BÀI 8: ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ(Hê-minh-uê)

1. Những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác:

a. Cuộc đời:
- Ơ- nít Hê-minh-uê (1899-1961) sinh tại bang I-li-noi trong một gia đình tri thức. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông đi làm phóng viên.

- Tham gia tích cực chống chiến tranh thế giới lần thứ I, II

- Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, cảm thấy mình là thế hệ mất mát, khó hoà nhập với cuộc sống đương thời, tìm sự bình yên trong men rượu và tình yêu.

- Sang Pháp, làm báo và sáng tác, 1926 cho ra đời cuốn tiểu thuyết “Mặt trời vẫn mọc”

b. Sự nghiệp sáng tác:
- Số lượng các tác phẩm đồ sộ, ở nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, một số bài thơ, hồi kí
- Tác phẩm tiêu biểu: Chuông nguyện hồn ai; ông già và biển cả.

- Là người đề ra nguyên lí sáng tác “TẢNG BĂNG TRÔI”: Tác phẩm văn chương như một tảng băng trôi- một phần nổi, bảy phần chìm. Nhà văn nhấn mạnh vào yếu tố hàm súc, ngụ ý trong mạch ngầm văn bản, tạo ra được “ý tại ngôn ngoại” và khẳng định hiệu quả của cách viết ấy. Tác giả phải hiểu biết cặn kẽ những điều mình muốn viết, sau đó lược bỏ những chi tiết không cần thiết, giữ lại phần cốt lõi, sắp xếp lại để người đọc khi tiếp xúc với chúng vẫn có thể hiểu được những gì mà tác giả đã lược bỏ đi. Nhiệm vụ của người đọc là tự tìm ý nghĩa, giá trị qua phần chìm của tảng băng những hình tượng, hình ảnh… giàu tính tượng trưng, đa tầng nghĩa.

- Thống nhất trong ý đồ sáng tác: viết một áng văn xuôi trung thực giản dị về con người.

c. Đóng góp, vị trí.
- Nhà văn Mĩ vĩ đại nhất thế kỉ XX
- Được nhận giải thưởng Pu-lit-dơ - giải thưởng văn chương cao quý nhất của nước Mĩ.
- Nhận giải Nô-ben về văn chương.

2. Hoàn cảnh sáng tác
Viết năm 1952, sau gần 10 năm sống ở Cu- ba. Bối cảnh câu chuyện là ngôi làng chài yên ả bên bến cảng La-ha-ba-na. Phu-en-tec, một thuỷ thủ trên tàu được coi là nguyên mẫu của ông lão Xan-ti-a-gô.

3. Tóm tắt tác phẩm:

Ông lão Xan-ti-a-gô, 74 tuổi ,thường đánh cá trên vùng biển Nhiệt lưu. Đã 84 ngày ông đi biển cùng chú bé Ma-nô-lin mà chẳng kiếm được con cá nào. Đêm ngủ ông vẫn mơ về thời trai trẻ. Một ngày kia ông quyết định một mình ra khơi tới vùng “Giếng lớn”. Thế rồi một con cá lớn mắc mồi. Đó là con cá kiếm mà ông hằng mơ ước. Bằng ý chí, sức chịu đựng phi thường và phải chiến đấu gần như kiệt sức, đến ngày thứ 3 ông mới hạ được con cá. Nhưng sau đó, cả một đàn cá mập bao vây, tấn công con cá kiếm. Ông lại phải chiến đấu đơn độc với cả đàn cá mập hung dữ, tuy nhiên ông vẫn nghĩ “không một ai cô đơn nơi biển cả”. Cuối cùng khi đưa được thuyền trở về bến con cá kiếm chỉ còn bộ xương trơ trụi.

4. Hình tượng con cá kiếm và ý nghĩa biểu tượng:
- Rất lớn và đẹp
- Đầy sức mạnh
- Kiêu hùng, bất khuất.
- Ý nghĩa biểu tượng : tượng trưng cho vẻ đẹp và sức mạnh của thiên nhiên; cho những trông gai thử thách của cuộc đời; cho ước mơ, sáng tạo của nghệ thuật; cho lí tưởng và hoài bão cao đẹp mà con người theo đuổi.

5. Hình tượng ông lão đánh cá Xan-ti-a- gô:
- Ông lão là người thạo nghề

- Ông có sức mạnh tinh thần của người chiến thắng :
+ Luôn có niềm tin vào bản thân
+ Có ý chí và nghị lực phi thường

- Là biểu tượng cho vẻ đẹp và sức mạnh của con người.

- Từ hình tượng ông lão đánh cá, toát lên bài học của thành công : Phải có trí tuệ và hiểu biết, tỉnh táo và nhẫn nại, có niềm tin, ý chí và nghị lực vượt qua thử thách.

6. Đặc sắc nghệ thuật:
- Lối kể chuyện độc đáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn kể và lời văn miêu tả nhân vật, miêu tả đối thoại, độc thoại nội tâm.

- Khắc hoạ thành công chân dung nhân vật qua cảm giác, sử dụng ngôn ngữ kể và ngôn ngữ của nhân vật để khắc hoạ điều này.

- Cách viết giản dị nhiểu chỗ tưởng như “lỏng” song kì thực lại rất chặt chẽ. Viết theo nguyên lí tảng băng trôi.

7. Đặc điểm của nghệ thuật tảng băng trôi qua đoạn trích:
- Phần nổi của “tảng băng trôi”: hành trình theo đuổi, chiến đấu để bắt được con cá kiếm của ông lão Xan-ti-a-gô.

- Phần chìm của “tảng băng trôi”:

+ Hành trình theo đuổi và thực hiện ước mơ giản dị nhưng lớn lao của con người.

+ Hành trình khám phá vẻ đẹp và chinh phục thiên nhiên của con người.

+ Hành trình vượt qua thử thách để đến với thành công.

+ Con đường đến với thành công hiếm khi bằng phẳng.

+ Cần phải chinh phục tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của con người nhưng cũng chớ coi thường thiên nhiên. Thiên nhiên là kẻ thù nhưng cũng là bạn của con người. Chiến đấu hết mình để giành thắng lợi trước các lực lượng của tự nhiên nhưng cũng phải biết sống hoà hợp với thiên nhiên.

+ Bài học về niềm tin vào bản thân, vào sức mạnh và khả năng tồn tại của con người trong cuộc sống.

8. Chủ đề:
Thông qua hình ảnh ông lão Xan-ti-a-gô quật cường, chiến thắng con cá kiếm, Hê-minh-uê gửi gắm một thông điệp: trong bất cứ hoàn cảnh nào “con người có thể bị huỷ diệt nhưng không thể đánh bại”
CÂU HỎI THAM KHẢO THI TỐT NGHIỆP:
Câu 1. (2 điểm): Nêu những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của nhà văn Hê-minh-uê?
Câu 2. (3 điểm): Anh (chị) hiểu như thế nào về nguyên lí tảng băng trôi? Nguyên lí ấy được biểu hiện như thế nào trong đoạn trích được học?
 
KỊCH: Hồn Trương Ba, da hàng thịt

KỊCH
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
(LƯU QUANG VŨ)

1. Hoàn cảnh sáng tác:
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch gây được nhiều tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch được viết năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới lần đầu ra mắt công chúng.

2. Tóm tắt:
+ Cảm thấy không thể sống nhờ như thế này mãi, hồn Trương Ba muốn thoát ra khỏi thân xác anh hàng thịt thô lỗ, phàm tục.

+ Cuộc đối thoại giữa hồnxác. Hồn Trương Ba đành bần thần nhập lại thân xác anh hàng thịt.

+ Những người thân trong gia đình (vợ, cháu gái, con dâu) đều thấy Trương Ba đã khác xưa, đã lệch lạc nhiều lắm. Đau đớn cực độ, Trương Ba lập cập đến bên cột nhà, đốt hương để gặp Đế Thích.

+ Đế Thích thuyết phục Trương Ba chấp nhận cuộc sống hiện tại hoặc nhập vào thân xác cu Tị để bảo toàn sự sống. Trương Ba suy nghĩ, cân nhắc và đưa ra quyết định dứt khoát : chấm dứt sự hiện diện của một tồn tại trớ trêu có tên gọi là "Hồn Trương Ba, da hàng thịt".

+ Hồn Trương Ba vẫn còn mãi giữa màu xanh cây vườn, trong những điều tốt lành của cuộc đời và trong kí ức yêu thương của những người thân.

3. Nhân vật Trương Ba:

3.1. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác:

Hồn Trương Ba: Cho rằng : “Ta vẫn có một đời sống riêng : nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác "không có tiếng nói", "không có tư tưởng, không có cảm xúc", "chỉ là xác thịt âm u đui mù", "chỉ là cái vỏ bên ngoài".

Xác hàng thịt: Khẳng định "ông không tách khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác". “Lí lẽ” mà Xác đưa ra là : “Hai ta đã hoà với nhau làm một rồi”...

Hồn Trương Ba: phủ nhận những “dẫn chứng” xác nêu ra không phải là hành động xuất phát từ ý thức của mình : “Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày...”.

Xác hàng thịt: Xác “chứng minh” ảnh hưởng “sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết”

Hồn Trương Ba:
Hồn cho rằng đó là những lí lẽ “ti tiện” không thể chấp nhận được.

Xác hàng thịt:
Xác “tìm kiếm giải pháp” cho sự tồn tại “hoà bình” mang tên "hồn Trương Ba, da hàng thịt" bằng “trò chơi tâm hồn”. “Luật chơi” là Hồn cứ việc nghĩ mình cao khiết thánh thiện, làm điều gì xấu thì cứ đổ tội cho Xác để được thanh thản. Bù lại Hồn sẽ làm đủ mọi việc để thoả mãn những khát thèm của Xác.

Nhận xét chung:
- Hồn Trương Ba trở thành người “đuối lí” trong cuộc đối thoại này:

+ Từ chỗ cao giọng phủ nhận : “Vô lí, mày không thể biết nói !”, "Mày không có tiếng nói" đến chỗ chấp nhận xác có tiếng nói, nhưng đó là “tiếng gọi nơi hoang dã” của bản năng thấp kém, tầm thường.

+ Từ chỗ phủ định quyết liệt, lớn giọng khi xác đưa ra những bằng chứng “hai năm rõ mười” về sức mạnh sai khiến của nó, đến chỗ “không dám trả lời”, lúng túng trong câu nói đứt quãng “Ta… ta… đã bảo mày im đi”, “Nhưng… nhưng…”.

+ Từ chỗ hăng hái đấu lí, đáp lại tất cả những lí lẽ xác đưa ra, đến chỗ “bịt tai lại” “Ta không muốn nghe mày nữa”.

+ Từ cách xưng hô “mày” – “ta” vào đầu cuộc đối thoại, xác đã tinh ý nhận ra khi cuộc đối thoại ở vào hồi kết : “Ấy đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy !”.

+ Từ mạnh mẽ, đầy khí thế đấu tranh, đến tiếng kêu “trời” tuyệt vọng và dáng dấp bần thần tội nghiệp nhập lại thân xác anh hàng thịt cho người đọc cảm giác dường như hồn đã bị dồn vào con đường cụt không lối thoát, đành phải chấp nhận sự an bài, “hoà thuận” “hồn Trương Ba, da hàng thịt”.

- Trong cuộc đối thoại, xác hàng thịt mỗi lúc một lấn lướt, dồn đuổi hồn Trương Ba:


+
Xác chủ động “tuyên chiến” khi hồn khao khát được tồn tại độc lập riêng mình.

+ Xác thách thức, giễu cợt mỉa mai hồn : “có đấy”, “có tiếng nói đấy”, “có thật thế không”.

+ Xác cao giọng khoái chí đòi Hồn phải “thành thật trả lời”.

+ Xác biết rõ người ta nghĩ gì về mình, đồng thời cũng tỏ ra hiểu thấu từ điệu bộ lúng túng bên ngoài đến những biện luận bên trong tìm kiếm sự thanh thản và vô tội của Hồn.

+ Xác “lợi khẩu” khi đưa ra lí lẽ. Xác “mềm dẻo” trong thuyết phục, tranh luận. Khi thì sử dụng lí lẽ, lúc đưa ra bằng chứng. Khi thì cao giọng thách thức, lúc buồn rầu thanh minh. Khi thì đắc ý, tinh quái, lúc lại vuốt ve xoa dịu, an ủi mà mỉa mai. Vừa dụ dỗ, mua chuộc vừa trắng trợn phỉ báng. Xác đã chứng tỏ được ưu thế của nó, uy quyền của nó, sự chi phối khủng khiếp của nó bằng kết cục màn đối thoại là “cái hồn ương bướng” lại tìm về với chỗ trú thân là xác anh hàng thịt.

® Cuộc đối thoại cũng cho thấy sự ngộ nhận của Hồn về chính mình. Sau bấy nhiêu chuyện đã xảy ra với gia đình và bản thân, Hồn vẫn cho rằng mình nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, mọi tội lỗi đều là do Xác gây nên. Cho nên, không phải ngẫu nhiên Xác khẳng định “tác giả” của “trò chơi tâm hồn” không ai khác ngoài “những điều ông vẫn tự nói với mình và với người khác đấy chứ”, xác chỉ làm nhiệm vụ “tổng kết” và phát biểu “luật chơi” cho rõ ràng, cụ thể mà thôi. Mâu thuẫn kịch tạm thời chùng xuống để chờ đợi một cao trào bùng nổ mới, chỉ xảy ra khi nào điều ngộ nhận trên được “vỡ lẽ” hoàn toàn.

Hàm ý của cuộc đối thoại : Linh hồn và thể xác là hai phương diện tồn tại trong mỗi con người. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần “người” và phần “con” trong mỗi con người.

3.2. Hồn Trương Ba và những người thân:
- Trong thân thể anh hàng thịt, Trương Ba đã không còn là mình. Tất cả những người thân đều đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng, bàng hoàng.

- Người vợ yêu thương rưng rưng trong dòng nước mắt tủi thân tủi phận, chua chát, dằn dỗi.

- Đứa cháu gái vỡ oà tiếng khóc tức tưởi không hiểu sao ông nội thân yêu gần gũi lại trở thành một người “xấu lắm, ác lắm”.

- Chị con dâu bàng hoàng dòng nước mắt sẻ chia và bế tắc, muốn thương, muốn níu giữ hình ảnh của thầy mà không biết phải làm thế nào.

- Trương Ba “thẫn thờ”, ông ôm đầu bế tắc, để rồi nhận thấy “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”. Một sự vỡ lẽ vừa bàng hoàng vừa chua chát đã dẫn đến quyết định dứt khoát: thắp hương, châm lửa để gọi Đế Thích.

3.3. Trương Ba - Đế Thích:

* Trương Ba:
+ Sự khập khiễng của “hồn Trương Ba, da hàng thịt” và giá mà nó phải trả khi cố gắng duy trì để tồn tại trong một cái vỏ giả tạo như vậy đã giúp Trương Ba thấm thía hơn bao giờ hết cái khát vọng : “Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”. “Là tôi trọn vẹn”, cái điều tưởng chừng đơn giản nhưng lại chẳng dễ chút nào. Thói quen “sống nhờ, sống gửi” đã khiến con người ta có lúc quên đi cái tôi của bản thân mình. Thói quen “áp đặt” của Đế Thích cho người đời đôi khi cũng làm cho mong muốn giản dị “là tôi trọn vẹn” nghịch lí thay, lại trở thành khát vọng.

+ “Là tôi trọn vẹn”- dám là mình, dám chịu trách nhiệm về mình. Sống thực cho ra con người thật chẳng dễ chút nào. Sống gửi, sống nhờ, sống chắp vá, không được là mình trọn vẹn, đó là sống với bất cứ giá nào - kiểu sống vô nghĩa. Cuộc sống là đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng vô cùng. Ham sống, muốn được sống là ước muốn tự nhiên của mỗi con người. Nhưng... Nếu cái giá phải trả đắt quá. Thì nhất định không thể sống như vậy được !

+ Hồn Trương Ba trước khi bước vào thế giới vĩnh hằng còn qua một phép thử nữa, phép thử có tên “cu Tị”. Trương Ba hình dung trước cảnh một ông già 60 ngụ trong thân xác của một cậu bé 10 tuổi thì cũng đầy bi kịch.. Trương Ba không chấp nhận.

+ Lựa chọn của Trương Ba là tất yếu. Đó là sự lựa chọn dũng cảm. Chấp nhận cái chết, chấp nhận sự hư vô để được "là tôi trọn vẹn". Đó là lẽ tất yếu bởi Trương Ba đã thấm thía cái bi kịch đau đớn của cảnh không được là mình. Tất yếu bởi Trương Ba đã “ngộ” ra nhận thức về lẽ sống. Tất yếu bởi đó là kết quả của sự đấu tranh ở một tâm hồn thanh cao, trong sáng, vượt lên nghịch cảnh.

* Đế Thích:
- Quan niệm về sự sống rất đơn giản, sống chỉ là sự tồn tại
- Ích kỉ, muốn Trương Ba sống chỉ là để thoả mãn thú hơi cờ của mình.

4. Đặc sắc nghệ thuật:
- Sáng tạo cốt truyện dân gian.
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại.
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách góp phần phát triển tình huống truyện.
- Những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan niệm về lẽ sống đúng đắn.

5. Chủ đề:
Qua đoạn trích và cả vở kịch, tác giả muốn khẳng định: được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn còn quý giá hơn. Con người phải luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm thường, dung tục để hoàn thiện nhân cách.


CÂU HỎI THAM KHẢOTHI TỐT NGHIỆP:
Câu 1. (3 điểm): Đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt có ý nghĩa gì?
Câu 2. (3 điểm): Chỉ ra sự khác nhau trong quan niệm của Trương Ba và Đế Thích về ý nghĩa sự sống?
Câu 3. (5 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật Trương Ba trong đoạn trích?
 
Nghị luận xã hội.

1.Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí:
Lưu ý: Để làm tốt bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí cần thực hiện một số nội dung cơ bản sau:

A. Mở bài: Giới thiệu vấn đề yêu cầu trong phần đề bài.

B. Thân bài:
+ Giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.
+ Phân tích, chứng minh những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận bằng việc những dẫn chứng trong sách vở, trong thực tế cuộc sống.

C. Kết bài:
Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thực và hành động thiết thực

ĐỀ THAM KHẢO:

Đề 1. (3 điểm):Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”. Ý kiến trên của nhà văn Pháp M. Xi-xê-rông gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì việc tu dưỡng và học tập của bản thân. Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị).

Đề 2. (3 điểm): Hãy viết một viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) phát biểu ý kiến của anh (chị) về mục đích học tập do UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.

Đề 3. (3 điểm): Hãy viết một viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) bình luận ý kiến của nhà văn Sê- khốp: “Con người càng phát triển cao về trí tuệ và đạo đức thì càng tự do và cuộc sống càng đem lại cho ta nhiều thích thú hơn”

Đề 4. (3 điểm):“Sống đẹp” đâu phải là những từ trống rỗng
Chỉ có ai bằng đấu tranh, lao động
Nhân lên vẻ đẹp cuộc đời
Mới là người sống cuộc sống đẹp tươi.
Những vần thơ trên của thi hào người Đức G.Bê-khe gợi cho anh (chị) những suy nghĩ gì sự phấn đấu của tuổi trẻ học đường hiện nay. Hãy viết một viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị).

Đề 5. (3 điểm): Thi hào Đức Rên-nơ Ma-ri-a Rin-ke đã viết cho một người bạn của mình như sau: “Tình yêu của một người đối với một người khác, đó có lẽ là sự thử thách khó khăn nhất đối với mỗi người trong chúng ta”. Từ lời khẳng định trên, anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) phát biểu suy nghĩ của mình về ý nghĩa của tình yêu và trách nhiệm của tuổi trẻ trong tình yêu.

Đề
6. (3 điểm):Giá trị của con người không ở chân lí người đó sở hữu hoặc cho rằng mình sở hữu, mà ở nỗi gian khó chân thành người đó nhận lãnh trong khi đi tìm chân lí” (Lét-xinh). Từ câu nói trên, anh (chị) suy nghĩ gì về thành công và thất bại trong hành trình tìm kiếm những giá trị cao đẹp của đời sống con người. Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị).

Đề
7. (3 điểm): Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về câu nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).

Đề
8. (3 điểm): Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về câu danh ngôn : “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.

2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống:
Lưu ý: để làm tốt bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống cần thực hiện một số nội dung cơ bản sau:

A. Mở bài: giới thiệu hiện tượng được yêu cầu trong phần đề bài.

B. Thân bài:
+ Nêu rõ hiện tượng.
+ Phân tích những mặt đúng, mặt sai, lợi-hại và chỉ ra nguyên nhân.

C. Kết bài: bày tỏ thái độ, ý kiến về hiện tượng xã hội đó.


ĐỀ THAM KHẢO THI TỐT NGHIỆP:

Đề 1. (3 điểm): Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng vô cảm trong một bộ phận thanh niên, học sinh hiện nay.

Đề 2. (3 điểm): Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng hút thuốc lá trong học sinh hiện nay.

Đề 3. (3 điểm): Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng vi phạm giao thông của một số học sinh hiện nay.

Đề 4. (3 điểm): Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng nghiện Ka-ra-ô-kêInterrnet trong nhiều bạn trẻ hiện nay.

Đề5. (3 điểm):Mặc dù biết là sai, song nhiều học sinh vẫn học “tủ” dẫn đến những kết quả không mong muốn trong các kì thi. Anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng đó.


The end - Chúc các em học sinh làm bài thật tốt !
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top