• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Chia Sẻ Nước Văn Lang- sử 6 - Bút Nghiên

vàng

New member
Xu
0
Con người sinh sống trên đất nước ta đã luôn cải tiến công cụ sản xuất, năng xuất lao động ngày càng tăng lên. Đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện. Xã hội ngày càng có sự thay đổi mạnh mẽ – Nhà nước Văn Lang ra đời. Nhà nước Văn Lang ra đời trong hoàn cảnh nào? Được tổ chức ra sao? Ta đi tìm hiểu qua bài học hôm nay.


Lịch sử 6 - Bài 12: Nước Văn Lang
Thế kỷ thứ VII TCN, thủ lĩnh bộ lạc Văn Lang tài giỏi thống nhất các bộ lạc, đặt tên nước là Văn Lang, tự xưng là Hùng Vương.


van_lang-500_tcn_500.jpg

Lược đồ lãnh thổ nước Văn Lang năm 500 TCN


1. Hòan cảnh ra đời của nhà nước Văn Lang (nhà nước thời Hùng Vương)
- Cư dân thuộc văn hóa Đông Sơn là người Lạc Việt.
- Cư dân Lạc Việt sống tập trung ở ven đồng bằng ven sông Hồng, sông Cả , sông Mã, thuận lợi cho nghề nông trồng lúa nước .
* Thuận lợi: đất phù sa màu mỡ thích hợp cho việc trồng lúa nước .
* Khó khăn là vào mùa mưa nước sông dâng cao gây lũ lụt thiệt hại lớn về người và của.
- Nhà
nước Văn Lang ra đời trong hòan cảnh : mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo ; giải quyết xung đột giữa các bộ lạc Lạc Việt., nhu cầu trị thủy và bảo vệ mùa màng .

2. Nhà nước Văn Lang thành lập.
- Thế kỷ thứ VII TCN, thủ lĩnh bộ lạc Văn Lang tài giỏi thống nhất các bộ lạc, đặt tên nước là Văn Lang, tự xưng là Hùng Vương .
- Tổ chức của nhà nước Văn Lang :
+ Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang , đóng đô Văn Lang ( Bạch hạc – Phú Thọ ngày nay ).

+ Cả nước chia thành 15 bộ .

+ Đứng đầu nhà nước là vua
Hùng Vương,giữ mọi quyền hành .
+ Giúp vua cai trị có Lạc Hầu ( tướng văn), Lạc Tướng ( tướng võ ).

+ Đứng đầu các bộ có Lạc tướng.
+ Đứng đầu chiềng chạ là Bồ Chính .
- Tổ chức nhà nước Văn Lang đơn giản, chưa có luật pháp và quân đội.



co_cau_to_chuc_nha_nuoc_thoi_hung_vuong_500.jpg

Cơ cấu tổ chức nhà nước thời Hùng Vương



den_hung_tren_nui_nghia_linh_mausoleum_of_hung_king.jpg

Lăng Hùng vương trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh- Việt Trì – Phú Thọ

Bài viết trên đã khái quát kiến thức Lịch sử 6 - Bài 12: Nước Văn Lang Bút nghiên chúc các em học tập tốt Hãy chia sẻ để cùng học tốt nhé.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Lịch sử hình thành và phát triển nước Văn Lang

Thời kỳ đầu dựng nước Văn Lang có 18 đời vua Hùng Vương (năm 2879 tới năm 258 tr. Công nguyên) chia làm hai giai đoạn : giai đoạn đầu gồm nhà nước Văn lang và nhà nước Âu Lạc.

Thời đại Hùng Vương với 18 triều đại tức 18 Chi kéo dài 2.581 năm. Chi Hùng Vương đầu tiên là Chi Cán có hiệu vua Kinh Dương Vương húy là Lộc Tục với số năm giữ vương quyền là 86 (từ 2879-2794 tr. CN). Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép rằng :”Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh cháu ba đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hố Nam – Trung Quốc) gặp một nàng tiên lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi cho con trai trưởng là Đế Nghi lam vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỹ.” Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ Bắc giáp Động Đình hồ (tỉnh Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (nước Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên), phía Đông giáp biển Nam Hải. \

Vẫn theo Việt Nam sử lược và Sổ tay Báo cáo viên năm 2005, Chi thứ hai là Chi Khan hiệu vua là Lạc Long Quân (2793-2525) húy Sùng Lãm lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ và đẻ ra một lần được một trăm người con trai rồi chia đôi, kẻ lên núi người xuống biển. Khoa Khảo cổ học, Dân tộc học và Tiền sử đã giúp cho các nhà nghiên cứu sử học xác định dân Bách Việt thời thượng cổ đã sinh tụ dàn trải khắp đất nước Trung Hoa, trước ở Hoa Bắc rồi vượt sông Hòang Hà xuống sinh tụ ở Hoa Nam sau khi bị Hán tộc đánh đuổi đi và nhà nước Văn Lang được thành lập có cương vực như lãnh thổ Bắc Bộ ngày nay kể luôn cả tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An.Nước Văn Lang do 15 bộ lạc hợp thành là: Văn Lang, Giao Chỉ, Việt Thường, Vũ Ninh, Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thanh Tuyền, Cửu Đức, Chu Diên, Tân Xương, Bình Văn, Kê Từ, Bắc Đái (theo VSL).Kinh đô là Phong Châu (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú và có đền thờ các vua Hùng). Các vua Hùng thay nhau làm chủ đất nước đầu tiên của dân Việt (Lạc Việt), tới đời thứ 18 là vua cuối cùng thuộc Chi Quý hiệu Hùng Duệ Vương húy Huệ Lang (408-258 Tr. CN).

Vào khoảng năm 218 (tr.CN) cuối đời Hùng Vương thứ 18, Tần Thủy Hoàng sau khi tiêu diệt 6 nước ở Hoa Bắc, Hoa Trung (Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, Tần) đã đưa quân tràn xuống phía Nam đánh chiếm tiếp Hoa Nam thuộc vùng Lĩnh Nam (ta có sách ghi chép các sự kiện huyền thoại trong sách “Lĩnh nam trích quái”) gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây rồi xâm phạm nước Văn Lang (không có người lạnh đạo – có thể vua Hùng 18 đã qua đời nhưng không người thay thế) do tướng Đồ Thư lãnh đạo 50 vạn quân. Cuộc kháng chiến (vào rừng đánh du kích) của nhân dân Văn lang với quân xâm lược nhà Tần kéo dài từ năm 214 đến năm 208 (Tr.CN) thì châm dứt do Tần Thủy Hoàng qua đời. Thời gian này, dân Lạc Việt (nước Văn Lang) liên kết với dân Tây Âu do Thục Phán (một thủ lĩnh nước Thục, nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, di cư tới đất Âu Lạc nắm lấy cơ hội – theo nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc) lãnh đạo chống quân xâm lược phương Bắc nên đã chuyển sang nước Âu Lạc ra đời với tên vua tự xưng là An Dương Vương (257-207 tr.CN) đóng đô ở Cổ Loa, nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội.

Về Mô hình xã hội nước Văn Lang
– Đứng đầu đất nước là vua Hùng thế lập cha truyền con nối.
– Giúp việc bên cạnh vua có các quan Lạc hầu (gọi là Hồn)
– Lạc tướng là chức quan cai quản một bộ (tức bộ lạc cũ).
– Dưới Lạc tướng là chức Bồ chính đứng đầu các làng, bản.

– Dân gọi là Lạc dân – Lạc dân làm kinh tế gia đình nộp tỷ lệ nhỏ sản phẩm cho Nhà nước Văn Lang. Nghề chính là cấy lúa nước kết hợp với chăn nuôi trâu bò, lợn gà, đánh cá, săn bắn. Ngoài ra còn có các nghề thủ công như làm gốm, chế tác đồ đá, đan lát tre nứa, đan lưới, dệt vải, nấu đúc đồng, rèn sắt, đóng thuyền, sản xuất đồ gỗ, đồ mỹ nghệ v.v… Đã xuất hiện một bộ phận làm nghề buôn bán đổi chác.

– Có một tỷ lệ nhỏ nô tỳ (gọi là xảo xứng thần bộc nữ lệ) phục vụ gia đình quí tộc trong nhà nước Văn Lang. Ở nước ta không thiết lập chế độ chiếm hữu nô lệ, đại đa số dân trong nước là dân tự do tức Lạc dân. Quan hệ giữa Vua Hùng và Lạc dân rất gần gũi “cùng cày ruộng, cùng tắm sông, cùng săn bắn, cùng xem hội” sử cũ gọi là “đời hồn nhiên” (Lĩnh Nam chích quái thế kỷ 15).

Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện lên vua nhà Hán về tình hình Âu Lạc trước khi nhà Hán xâm lược và đô hộ nước ta, có thể nói, bấy giờ nhà nước Văn Lang đã có pháp luật để điều chỉnh xã hội. Sách “Hậu Hán thư” viết: luật của người Việt so sánh với luật Hán hơn mười điều. Cũng có thể “luật Việt” mà sách Hậu Hán thư ghi theo lời tâu của Mã Viện là một thứ luật tục (tập quán pháp chứ chưa phải là luật pháp thành văn). Sách thường ghi cư dân nước ta bấy giờ là người Lạc Việt và quốc hiệu là Văn Lang do vua Hùng đặt.

Đời sống vật chất nước Văn Lang:

Ăn: Lương thực chủ yếu là gạo tẻ, gạo nếp nấu cơm; bữa ăn có thịt, cá, cua, lươn, ốc, ếch, rau, dưa, cà, kiệu. Gia vị dùng hành, tỏi, gừng, riềng, nghệ, ớt và nhiều loại rau thơm. Đã biết làm nhiều loại bánh kẹo, quốc tục là bánh dày, bánh chưng. Rượu dùng cúng lễ, cưới xin. tiệc ngọc, đãi khách.

: Kiểu nhà sàn là chủ yếu. Cung điện lầu các của vua cũng làm theo lối gác sàn.

Mặc: Vải còn hiếm. Ngày thường nữ mặc váy ngắn và yếm che ngực, nam đóng khô cởi trần. Ngày hội nữ mặc áo và váy dài, nam mặc áo và quần dài, đầu chít khăn cài lông chìm, tay đeo vòng, cổ đeo hạt chuỗi, tai đeo hoa.
Đời sống tinh thần:
Tín ngưỡng trời đất, núi sông, thần lúa, tổ tiên, linh hồn người qua đời và các vật thiêng khác.
Cư dân thích trang trí nhà cửa đồ dùng, thích đồ trang sức, rất yêu văn nghệ ca hát nhảy múa. Nhạc cụ có sáo, nhị, kèn, trống, chiêng, cồng, mõ, đàn bầu. Ca dao tục ngữ và chuyện kể đã phát triển.
Về quốc phòng:
Lực lượng quân sự có quân thường trực và quân hương dũng (dân binh), vũ khí có gậy, tay thước, giáo, lao, nồ, rìu chiến, dao găm. Hành quân đĩ bộ hoặc đi thuyền, các vị tướng cưỡi ngụa hoặc voi. Trường huấn luyện quân sĩ đặt ở cẩm Đội (Thụy Vàn).
Về ngoại giao:
Phương lược ngoại giao của các Vua Hùng là mềm dẻo thân thiện và bảo vệ chủ quyền. Đời Chu Thành Vương, vua sai đem biếu con chim trĩ trắng, vua Chu biếu lại cỗ xe chỉ Nam*. Song đa cự tuyệt gay gắt và chuẩn bị đối phó khi Việt Vương Câu Tiễn muốn ép làm chư hầu.”
Kinh đô nước Văn Lang:
Triều Hùng Vương đóng đô à thành Văn Lang (nay là Việt Trì). Tập truyền rằng:
– Cung điện nhà vua dựng ở gò Làng cả thôn Việt Trì (khu Mì Chính).
– Tháp Lọng (Kim Đức) là nơi các Lạc Hầu ở.
– Cẩm Đội (Thụy Vân) đặt trường huấn luyện quân sĩ.
– Nông Trang là nơi đặt kho thóc của nhà vua.
– Chợ Lú là chợ mua bán lúa gạo.
– Đồng Lú Minh Nông là xứ đồng vua dạy dân cấy lúa nước.
– Gò Tiên Cát là nơi dựng lầu kén chồng cho công chúa Ngọc Hoa và xẩy ra câu chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh.
– Xứ đồng Hương Trầm hoàng tử Lang Liêu trồng lúa nếp thơm, làm bánh dày, bánh chưng.
– Lầu Thượng, Lầu Hạ là khu lầu các vợ con vua ố.
– Thậm Thình là tiếng tượng thanh nhắc lại làng đó đã có lần giã gạo mấy ngày đêm, dâng vua.
– Làng Khang Phụ, làng cổ Tích có mộ của các vua


Nước Văn Lang dù còn ở hình thức sơ khai và có phần sớm với sự phân hoá xã hội chưa sâu sắc nhưng đã đánh dấu một bước phát triển có ý nghĩa thời đại của lịch sử Việt Nam – mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước của dân tộc.


( Sưu tầm)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nêu lí do ra đời của nhà nước Văn Lang?
Trả lời:


- Do sản xuất phát triển, cuộc sống định cư, làng chạ mở rộng, hình thành những bộ lạc lớn.

- Do xã hội có sự phân chia thành kẻ giầu, người nghèo

- Do nhu cầu đoàn kết để bảo vệ sản xuất nông nghiệp (Chống lại thiên tai)

- Do nhu cầu mở rộng giao lưu, tự vệ và đoàn kết chống giặc ngoại xâm

- Do cần có người chỉ huy (tổ chức) để giải quyết các xung đột

Đó là những điều kiện cơ bản (hoàn cảnh) dẫn đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nhà nước Văn Lang ra đời trong hoàn cảnh nào?

- Ở vùng đồng bằng ven các sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay đã dần hình thành các bộ lạc lớn (khoảng các thế kỉ VIII - VII TCN)

- Bên cạnh đó, sản xuất ngày càng phát triển => Sự phân hóa giàu nghèo => Những người giàu lên được bầu làm người đứng đầu để trông coi mọi việc, người nghèo thì phải rơi vào cảnh nô tì

=> Mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo.

- Cư dân Lạc Việt luôn phải đấu tranh với thiên nhiên để bảo vệ mùa màng => cần có người đứng ra chỉ huy để chống thiên tai, bảo vệ mùa màng.

- Hơn nữa, cư dân Lạc Việt cũng phải chống giặc ngoại xâm và giải quyết xung đột giữa các bộ tộc

=> Nhà nước Văn Lang đã ra đời để đáp ứng những yêu cầu từ hoàn cảnh phức tạp đó.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
BÀI 12: NHÀ NƯỚC VĂN LANG.



Câu 1: Vào khoảng thế kỷ VIII – VII TCN đã hình thành các bộ lạc lớn ở đâu?


a> Vùng Bắc Bộ.
b> Vùng Bắc Trung Bộ.
c> Vùng Bắc Trung Bộ và Nam Bộ.
d> Vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.

Câu 2: Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Văn Lang?

a> Xã hội phân chia giàu, nghèo. Mở rộng giao lưu và tự vệ.
b> Sản xuất phát triển, cuộc sống định cư, làng chạ được mở rộng.
c> Bảo vệ sản xuất vùng lưu vực con sông lớn.
d> Cả ba câu trên đúng.

Câu 3: Yếu tố nào sau đây không thuộc cơ sở ra đời của Nhà nước Văn Lang?

a> Yêu cầu chống ngoại xâm.
b> Yêu cầu bảo vệ kinh tế nông nghiệp lúa nước.
c> Phân hóa xã hội sâu sắc.
d> Tất cả các yếu tố trên.

Câu 4: Lý do dẫn đến sự ra đời của Nhà nước đầu tiên ở nước ta?

a> Do nhu cầu liên kết chống ngoại xâm
b> Do nhu cầu về thủy lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp.
c> Do nhu cầu phân hóa xã hội sâu sắc.
d> Do nhu cầu về thủy lợi, quản lí xã hội và liên kết chống ngoại xâm..

Câu 5: Truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh nói lên hoạt động của nhân dân ta hồi đó?

a> Chống lũ lụt, bảo vệ sản xuất nông nghiệp.
b> Chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước.
c> Mâu thuẫn xung đột giữa các bộ lạc với nhau.
d> Chống hạn hán để bảo vệ sản xuất nông nghiệp.

Câu 6: Nghề chính của cư dân Văn Lang lúc bấy giờ là gì?

a> Săn bắt thú rừng.
b> Trồng lúa nước.
c> Đúc đồng.
d> Làm đồ gốm.

Câu 7: Lúc bấy giờ bộ lạc Văn Lang cư trú ở?


a> Vùng đất ven sông Hồng – từ Ba Vì ( Hà Tây ) đến Việt Trì ( Phú Thọ).
b> Vùng đất ven sông Mã – từ Nghệ An đến Thanh Hóa.
c> Vùng đất ven sông Cả - từ Nghệ An đến Thanh Hóa.
d> Vùng đất ven sông Hồng – từ Ba Vì ( Hà Tây ) đến Hà Nội.

Câu 8: Sự tích Âu Cơ – Lạc Long Quân nói lên điều gì?

a> Phản ánh trong quá trình hình thành của Nhà nước Văn Lang.
b> Sự ủng hộ của mọi người.
c> Vị trí của nước Văn Lang ở vùng cao.
d> Cả 3 câu trên đúng.

Câu 9: Nhà nước Văn Lang ra đời vào khoảng thời gian nào?

a> Thế kỷ VII TCN.
b> Thế kỷ VI TCN.
c> Thế kỷ V TCN.
d> Thế kỷ IV TCN.

Câu 10: Nhà nước Văn Lang, chia ra cả nước làm 15 bộ, đứng đầu mỗi bộ là ai?

a> Lạc hầu.
b> Lạc tướng.
c> Bồ chính.
d> Quan Lang.

Câu 11: Nhà nước Văn Lang tồn tại trong khoảng thời gian nào?


a> Khoảng thế kỷ V đến thế kỷ III TCN.
b> Khoảng thế kỷ V đến thế kỷ IV TCN.
c> Khoảng thế kỷ VII đến thế kỷ III TCN.
d> Khoảng thế kỷ V Iđến thế kỷ IV TCN.

Câu 12: Ngày giỗ tổ Hùng Vương hằng năm là ngày nào?

a> Ngày mồng 9 tháng 3 âm lịch hàng năm
b> Ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm
c> Ngày mồng 3 tháng 10 âm lịch hàng năm
d> Ngày mồng 8 tháng 3 âm lịch hàng năm

Câu 13: Các vua Hùng đã có công gì với đất nước?

a> Các vua Hùng đã có công khai hoang mở mang diện tích đất trồng trọt.
b> Các vua Hùng đã có công dựng nước.
c> Các vua Hùng đã có công giữ nước.
d> Các vua Hùng đã có công lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm.

Câu 14: Kinh đô nước Văn Lang đặt ở đâu?

a> Cổ Loa ( Hà Nội).
b> Mê Linh ( Vùng đất từ Ba Vì đến Tam Đảo, nay thuộc Hà Tây, Vĩnh Phúc).
c> Bạch Hạc ( Việt Trì – Phú Thọ ngày nay).
d> Đông Anh ( Hà Nội).

Câu 15: Đứng đầu các bộ lạc Nhà nước Văn Lang là ai?

a> Lạc Tướng.
b> Lạc Hầu.
c> Bồ chính…
d> Cả ba ý trên đúng.

Câu 16: Nhà nước Văn Lang, chưa có luật pháp và quân đội Đúng hay sai?

a> Đúng.
b> Sai.

Câu 17: Thời Văn Lang, xã hội chia thành những tầng lớp nào?

a> Những người quyền quý, dân tự do, nô tì.
b> Chủ nô, nô lệ.
c> Phong kiến, nông dân công xã.
d> Quý tộc, nông nô.

Câu 18: Vua Hùng lên ngôi đặt tên nước là gì? Chia nước làm bao nhiêu bộ?

a> Vua Hùng đặt tên nước là Lạc Việt, chia nước là 15 bộ.
b> Vua Hùng đặt tên nước là Âu Lạc, chia nước là 15 bộ.
c> Vua Hùng đặt tên nước là Văn Lang, chia nước là 15 bộ.
d> Vua Hùng đặt tên nước là Âu Việt, chia nước là 15 bộ.

Câu 19: Rút ra nhận xét gì về tổ chức Nhà nước Văn Lang lúc bấy giờ?

a> Còn đơn giản.
b> Đã quy củ.
c> Tương đối mạnh.
d> Tương đối quy củ.

Câu 20: Nhà nước Văn Lang là:

a> Nhà nước đầu tiên trên đất nước ta?
b> Nhà nước thứ hai trên đất nước ta?
c> Nhà nước đầu tiên của thời nguyên thủy.
d> Nhà nước đầu tiên thời cổ đại.

Câu 21: Điền vào chỗ trống những từ thích hợp.

Dựa vào thế mạnh của mình và được sự ủng hộ của các …..( a)…..bộ lạc khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay……(b)……bộ lạc Văn Lang đã hợp nhất các bộ lạc đó lại thành một nước. Sử cũ viết: Vào khoảng thế kỷ VII TCN, ở vùng Gia Ninh ( Phú Thọ), có vị thủ lĩnh dùng tài năng khuất phục được các bộ lạc và tự xưng là …..(c)…..đóng đô ở Bạch Hạc ( Phú Thọ ngày nay ) đặt tên nước là …..(d)…..



Đáp án: câu 1d, câu 2d, câu 3c, câu 4d, câu 5a, câu 6b, câu 7a, câu 8d, câu 9a, câu 10b, câu 11c, câu 12b, câu 13b, câu 14c, câu 15a, câu 16a, câu 17a, câu 18c, câu 19a, câu 20a. câu 21 (a) tù trưởng. (b) thủ lĩnh, (c ) Hùng Vương, ( d) Văn Lang.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Nước Âu Lạc đời An Dương Vương

Vừa mới bắt đầu dựng nước, nhân dân ta đã phải liên tiếp đương đầu với nhiều mối đe dọa từ bên ngoài. Truyền thuyết nhan gian kể lại cuộc chiến đấu chống lại nhiều kẻ giặc như giặc Man, giặc Mủi Đỏ, giặc Ân... xác nhận từ thời các vua Hùng, nhân dân ta đã phải nhiều lần đứng dậy chống ngọai xâm

Vào thời cuối các vua Hùng, nạn ngoại xâm càng trở thành mối đe dọa to lớn. Ở Trung Quốc, Việt Vương Câu Tiễn sau khi diệt nước Ngô năm 473 tr CN làm bá chủ miền Duyên Hải từ Sơn Đông đến Quảng Đông và đã từng sai sứ xuống dụ nước Văn Lang nhưng đã bị vua Hùng cự tuyệt. Sự kiện này được các nhà sử học Việt Nam coi là cuộc đụng độ đầu tiên giữa nước ta với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Truyền thuyết "Họ Hồng Bàng" trong sách Lĩnh Nam chích quái cũng phản ánh phần nào cuộc tiếp xúc và đụng độ của người Việt với người Hoa Hạ ở phương Bắc. Sách có chép" Dân phương Nam khổ vì bị người phương Bắc quấy nhiễu, không được yên sống như xưa...". Nước Tần thành lập năm 221 tr CN đã mở rộng những cuộc chiến tranh xâm lược đại quy mô ra cả hai phía bắc, nam thành lập một đế chế rộng lớn đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Về phía Nam tiếp tục kế thừa và phát triển chủ trương " bình Bách Việt" của nước Sở trước đây, Tần Thủy Hoàng đã sai 50 vạn quân xâm lược đất đai của Bách Việt ở phía Nam Trường Giang. Hàng vạn quân Tần vượt biên giới tràn vào lãnh thổ phía Bắc và đông bắc nước ta lúc đó. Lúc này hai tộc người Lạc Việt và Âu Việt (Tây Âu) vốn gần gũi về dòng máu, về địa vực cư trú, về kinh tế và văn hóa lại có điều kiện liên kết chặt chẽ lại với nhau hơn trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Theo sách Hoài Nam Tử, "lúc đó người Việt đều vào rừng ở với cầm thú, không ai chịu để quân Tần bắt", và "họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần" . Đó là hình thức phôi thai của lối đánh du kích và thông qua lối đánh này mà lực lượng kháng chiến của người Việt ngày càng lớn mạnh; còn quân Tần dần dần bị dồn vào thế nguy khốn và tuyệt vọng. Trên đà chiến thắng, người Việt tập hợp lực lượng tổ chức đánh lớn nhằm tiêu diệt sinh lực địch, đại phá quân Tần, giết chết chủ tướng Đồ Thư, buộc nhà Tần phải bãi binh. Đây là thắng lợi oanh liệt đầu tiên của cả dân tộc ta chống lại họa xâm lược của phong kiến phương Bắc.

Trong cuộc chiến đấu này, vai trò và uy tín của Thục Phán, người thủ lĩnh kiệt xuất của liên minh bộ lạc Tây Âu ngày càng được nâng cao, không chỉ ở trong bộ lạc Tây Âu mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trong bộ lạc Lạc Việt. Sau khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, trong điều kiện cộng đồng cư dân Lạc Việt - Tây Âu đã hình thành và uy tín ngày càng cao của Thục Phán, Thục Phán đã thay thế Hùng Vương, tự xưng là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc. Sách Việt sử lượcchép rằng "Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay" , còn một số thần tích và truyền thuyết dân gian lại cho rằng sau nhiều cuộc xung đột, cuối cùng Hùng Vương theo lời khuyên của con rể là Thánh Tản Viên đã nhường ngôi cho Thục Phán.

Tên nước Âu Lạc bao gồm hai thành tố là Tây Âu (hay Âu Việt) và Lạc Việt, phản ánh sự liên kết của hai nhóm người Lạc Việt và Tây Âu. Trong triều vua Thục vẫn có Lạc hầu và các địa phương vẫn do Lạc tướng cai quản. Lãnh thổ nước Âu Lạc cũng được mở rộng trên cơ sở sáp nhập hai vùng lãnh thổ Văn Lang và Tây Âu. Sự thành lập nước Âu Lạc không phải là kết quả của một cuộc chiến tranh thôn tính, tiêu diệt lẫn nhau mà là một sự hợp nhất cư dân và đất đai của Lạc Việt và Tây Âu, của vua Hùng và vua Thục. Vì vậy, nước Âu Lạc là một bước phát triển mới, kế tục và cao hơn nước Văn Lang. Nước Âu Lạc của An Dương Vương chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn (khoảng gần 30 năm, từ năm 208 đến năm 179 tr.CN) (1), nhưng nó cũng đã có những đóng góp to lớn vào trong tiến trình phát triển của lịch sử đất nước.

Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thời Âu Lạc đều tiếp tục phát triển trên cơ sở những thành tựu đã đạt được của nước Văn Lang trước đây. Văn hóa Đông Sơn vẫn là cơ sở văn hóa chung của nước Văn Lang và Âu Lạc. Do yêu cầu bức thiết của cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, trong thời Âu Lạc, kỹ thuật quân sự có những tiến bộ vượt bậc. Đó là việc sáng chế ra nỏ Liên Châu bắn một lần nhiều phát tên, được coi là loại vũ khí mới, lợi hại (mà dân gian gọi là nỏ thần) và việc xây dựng kinh đô Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), hình ảnh tập trung sự phát triển nhiều mặt của nước Âu Lạc.

Cổ Loa nằm trên bờ bắc sông Hoàng. Ngày xưa Hoàng Giang là một dòng sông lớn nối liền với sông Hồng và sông Cầu, tức là từ Cổ Loa có thể thông ra cả hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình để đi đến mọi miền đất nước lúc đó. Cổ Loa ở giữa vùng đồng bằng đông dân, kinh tế phát đạt, lại được xây dựng trên một vùng đất đã được khai phá có xóm làng cư trú từ lâu đời, liên tục từ Sơ kỳ đồng thau cho đến Sơ kỳ đồ sắt. Việc dời đô về Cổ Loa với vị trí địa lý, giao thông, kinh tế như vậy chứng tỏ một yêu cầu phát triển mới của nước Âu Lạc.

Theo di tích còn lại, thành Cổ Loa gồm 3 vòng thành khép kín là thành Nội, thành Trung và thành Ngoại. Thành Nội hình chữ nhật có chu vi 1650 mét, cao khoảng 5 mét, rộng khoảng từ 6 đến 12 mét và chỉ mở 1 cửa ở phía nam. Tương truyền đấy chính là nơi thiết triều của vua Thục. Thành Trung là một vòng thành khép kín bao phía ngoài thành Nội với chu vi 6500 mét, có 5 cửa là Bắc, Đông, Nam, Tây Bắc và Tây Nam, trong đó cửa Đông là một cửa đường thủy mở lối cho một nhánh sông Hoàng chảy vào sát thành Nội. Thành Ngoại dài khoảng 8000 mét có 3 cửa Bắc, Đông và Tây Nam, trong đó cửa Đông là cửa thông ra sông Hoàng. Cả ba vòng thành đều có ngoại hào nối với nhau và nối liền với sông Hoàng tạo thành một mạng lưới giao thông đường thủy rất tiện lợi. Ngoài 3 vòng thành và hào khép kín, khoảng giữa các vòng thành và phía ngoài thành Ngoại còn có nhiều đoạn lũy và ụ đất được bố trí và sử dụng như những "công sự" phòng vệ nằm trong cấu trúc chung của thành.

Thành Cổ Loa với những di tích hiện còn là công trình lao động đồ sộ một kỳ công của người Việt cổ trong buổi đầu dựng nước, khi dân số Âu Lạc thuở đó mới khoảng 1 triệu người. Cấu trúc và kỹ thuật xây dựng thành Cổ Loa biểu thị tài năng sáng tạo của nhân dân Âu Lạc. Đây là một kiến trúc quân sự kiên cố được phòng vệ chắc chắn, kết hợp chặt chẽ giữa quân bộ và quân thủy. Thành Cổ Loa còn biểu thị một bước phát triển mới của Nhà nước Âu Lạc, của quyền lực xã hội và sự phân hóa xã hội. Tất nhiên di tích thành Cổ Loa hiện nay có phải hoàn toàn chỉ là tòa hình thời An Dương Vương hay nó còn được tu bổ, bồi đắp, xây dựng thêm trong các đời sau. Phân biệt một cách thật rạch ròi đâu là di tích thời An Dương Vương và đâu là di tích các thời đại sau cũng đang còn là dấu hỏi của sử học.

Trong cuộc chiến tranh chinh phục Bách Việt, quân Tần tuy bị tổn thất nặng nề và thất bại ở Âu Lạc, nhưng đã chiếm được miền đất rộng lớn của người Việt và lập ra 4 quận là Mân Trung (Chiết Giang, Phúc Kiến, Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (bắc và đông Quảng Tây) và Quận Tượng (tây Quảng Tây và nam Quý Châu). Năm 210 tr CN, Tần Thủy Hoàng chết, đế chế Tần suy yếu, 4 quận ở phía nam trên thực tế đã thoát khỏi sự quản lý và kiểm soát của triều đình trung ương. Triệu Đà (vốn là người Hán) tranh thủ cơ hội chiếm lấy quận Nam Hải; giữ các cửa ải và chặn các đường giao thông từ bắc xuống, diệt trừ những quan lại nhà Tần có ý chống đối và thay bằng những người thân cận, cùng phe cánh lập ra chính quyền cát cứ của họ Triệu ở Phiên Ngung. Năm 205 tr CN, nhà Tần bị nhà Hán tiêu diệt, Triệu Đà lập tức đánh chiếm cả Quế tâm và Quận Tượng lập ra nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung. Triệu Đà đã lợi dụng sự sụp đổ của đế chế Tần để thực hiện mưu đồ cát cứ và lợi dụng tình trạng lộn xộn của nhà Hán khi mới thành lập để củng cố và phát triển chính quyền của mình. Buổi đầu nhà Hán chấp nhận chính quyền cát cứ của Triệu Đà, phong cho Triệu Đà làm Nam Việt Vương. Triệu Đà trên danh nghĩa thần phục nhà Hán, nhưng trong thực tế vẫn hoàn toàn nắm thực quyền và ra sức củng cố lực lượng cát cứ ở Nam Việt. Năm 183 tr CN, Triệu Đà lập thành một nước riêng, không chịu thần phục nhà Hán và đẩy mạnh các hoạt động bành trướng lãnh thổ, trong đó hướng chủ yếu là nước Âu Lạc ở phương Nam . Quân xâm lược nhà Triệu đã nhiều lần tiến vào Tiên Du, Vũ Ninh, sông Bình Giang (vùng Bắc Ninh ngày nay). Lực lượng quốc phòng của An Dương Vương lúc bấy giờ khá hùng mạnh với số quân đông, được huấn luyện chu đáo, có vũ khí tết với loại nỏ Liên Châu, có tòa thành Cổ Loa kiên cố. Dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương và những tướng soái tài ba như Cao Lỗ, quân dân Âu Lạc đã nhiều lần đánh bại và đánh lui quân xâm lược Triệu Đà ở vùng núi đồi Tiên Du và Vũ Ninh.

Sau nhiều lần tấn công thất bại, biết không thể chinh phục nước Âu Lạc bằng vũ lực, Triệu Đà quyết định thay đổi thủ đoạn xâm lược. Triệu Đà xin giảng hòa với An Dương Vương và xin cầu hôn công chúa Mỵ Châu cho con trai mình là Trọng Thủy. Lợi dụng tục ở rể của người Việt, Triệu Đà cho Trọng Thủy sang ở rể tại kinh thành Cổ Loa. Các tướng lĩnh của An Dương Vương lúc đó như Cao Lỗ, Nồi Hầu đã thấy rõ âm mưu của Triệu Đà, ra sức khuyên can nhưng ông không nghe và từng bước bị quân giặc dẫn dắt vào cạm bẫy. An Dương Vương bị lung lạc ý chí chiến đấu, tê liệt tinh thần cảnh giác, nội bộ trong triều bất hòa, chia rẽ. Nhiều tướng giỏi như Cao Lỗ, Nồi Hầu, Đinh Toán... đã bị bạc đãi, bị giết hại hay phải bỏ đi. Trong khi đó, Trọng Thủy lại lợi dụng cương vị con rể và tình yêu chân thành của Mỵ Châu để "xem trộm nỏ thần, ngầm làm máy nỏ khác, đổi móng rùa vàng giấu đi" ...., như các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc chép. Điều này có thể được hiểu là Trọng Thủy đã đánh cắp các bí mật quân sự, làm mất uy thế, làm suy yếu lực lượng quốc phòng của nước Âu Lạc. Do những sai lầm chủ quan của mình mà An Dương Vương bị đẩy vào tình thế cô lập, xa rời nhân dân, xa rời những người cương trực và tài giỏi, khiến cho vận nước đang đứng trước bờ vực thẳm.

Được tin báo của Trọng Thủy, Triệu Đà lập tức tiến quân xâm lược nước Âu Lạc, bất ngờ đánh thẳng vào thành Cổ Loa. Cuộc chiến đấu của An Dương Vương bị thất bại. Cơ đồ của Âu Lạc đã bị chìm đắm. Đất nước rơi vào thảm họa hơn 1000 năm bị Bắc thuộc.

Việt Nam trong bối cảnh chung của Đông Nam Á, nằm ở khu vực quê hương của loài người. Sống ở nơi gió mùa, thuộc vùng nhiệt đới ẩm, thế giới thực, động vật phong phú, đa dạng, cư dân nguyên thủy vùng này từ hái lượm và săn bắt đã sớm biết thuần hóa một số loài thực vật, phát minh ra nghề trồng trọt cách đây khoảng 1 vạn năm. Vì thế, Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam lại được ghi nhận là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm của loài người. Vào Hậu kỳ đá mới, cách ngày nay khoảng 5 - 6 nghìn năm, cư dân Việt Nam và Đông Nam Á đã từ một nền nông nghiệp sơ khai tiến lên nền nông nghiệp trồng lúa nước... Tất cả những thành tựu văn hóa tiền sử đó là những bước chuẩn bị, là tiền đề đưa lịch sử Việt Nam vào thời đại dựng nước và giữ nước đời Hùng Vương - An Dương Vương, đánh dấu một bước phát triển vượt bậc về mọi mặt của tiến trình lịch sử dân tộc.

Trong thời đại dựng nước, ta có nhiều thành tựu lớn, trong đó hai thành tựu cơ bản nhất là đã tạo dựng được một nền văn minh rực rỡ - nền văn minh Sông Hồng và hình thái Nhà nước sơ khai -Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc . Những thành tựu này không chỉ là những bằng chứng hùng hồn xác nhận thời đại Hùng Vương - An Dương Vương là những thời đại có thật mà còn chứng minh rằng chúng ta có một lịch sử dựng nước sớm, một nền văn hiến lâu đời; tạo ra nền tảng bền vững cho toàn bộ sự sinh tồn và phát triển của quốc gia dân tộc Việt Nam. Từ đấy, người Việt trên cơ sở một lãnh thồ chung, một tiếng nói chung, một cơ sở kinh tế - xã hội gắn bó trong một thể chế Nhà nước sơ khai, một lối sống mang sắc thái riêng, biểu thị trong một nền văn minh, văn hóa chung, đã tự khẳng định sự tồn tại của mình như một quốc gia văn minh có đủ điều kiện và khả năng vững vàng tiến lên vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo của thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử thời kỳ hơn 1000 năm thống trị của phong kiến phương Bắc.
 
* HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI

1. Vào khoảng thế kỉ VIII - VII TCN vùng đồng bằng ven các con sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay tình hình kinh tế, xã hội như thế nào?
Trả lời:


Vào khoảng thế kỉ VIII - VII TCN vùng đồng bằng ven các con sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay đã dần hình thành những bộ lạc lớn, sản xuất phát triển, sự phân hóa giầu nghèo ngày càng sâu sắc.

2. Việc mở rộng nghề trồng lúa nước ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn có thuận lợi và khó khăn như thế nào đối với cư dân Lạc Việt?
Trả lời:


- Thuận lợi: Đồng bằng ven sông lớn có đất trồng trọt phù sa mầu mỡ, mềm, xốp, dễ canh tác, cho năng suất cao, nước tưới đủ quanh năm

- Khó khăn: Lũ lụt thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống.

3. Truyện Thánh Gióng nói lên hoạt động gì của cư dân Lạc Việt thời kì đó?
Trả lời:


Truyện Thánh Gióng cho thấy trong xã hội đã có sự tranh chấp, xung đột. Truyện nói lên ý thức tự vệ chống xâm lược của cư dân Lạc Việt thời kì đó.

4. Theo em, truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh nói lên hoạt động gì của nhân dân hồi đó?
Trả lời:


Truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh phản ánh hoạt động chống lũ lụt, nhu cầu đoàn kết để bảo vệ sản xuất nông nghiệp (chống thiên tai của nhân dân lúc bấy giờ).

5. Sự xuất hiện của nhiều loại vũ khí - hình 31, 32 (SGK trang 34) nói lên điều gì?
Trả lời:


Sự xuất hiện của nhiều loại vũ khí chứng tỏ cư dân Lạc Việt luôn phải:

- Đấu tranh với thiên nhiên để bảo vệ mùa màng

- Đấu tranh chống giặc ngoại xâm để bảo vệ đất đai, lãnh thổ, tự do

- Giải quyết những xung đột giữa các tộc người, giữa các bộ lạc với nhau

6. Nêu lí do ra đời của nhà nước Văn Lang?
Trả lời:


- Do sản xuất phát triển, cuộc sống định cư, làng chạ mở rộng, hình thành những bộ lạc lớn.

- Do xã hội có sự phân chia thành kẻ giầu, người nghèo

- Do nhu cầu đoàn kết để bảo vệ sản xuất nông nghiệp (Chống lại thiên tai)

- Do nhu cầu mở rộng giao lưu, tự vệ và đoàn kết chống giặc ngoại xâm

- Do cần có người chỉ huy (tổ chức) để giải quyết các xung đột

Đó là những điều kiện cơ bản (hoàn cảnh) dẫn đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang

7. Bộ lạc Văn Lang sống ở đâu? Đời sống của họ như thế nào?
Trả lời:


Bộ lạc Văn Lang sống ở vùng đất ven sông Hồng - từ Ba Vì (Hà Nội) đến Việt Trì (Phú Thọ) là một trong những bộ lạc giàu có và hùng mạnh nhất thời đó. Đời sống của họ sớm phát triển, có nghề đúc đồng và cư dân đông đúc.

8. Nhà nước Văn lang ra đời vào thời gian nào? Đứng đầu là ai? Đóng đô ở đâu?
Trả lời:


Nhà nước Văn lang ra đời vào khoảng thế kỉ VII TCN. Đứng đầu nhà nước Văn Lang là Hùng Vương. Đóng đô ở văn Lang (Bạch Hạc - Phú Thọ)

9. Truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân nói lên điều gì?
Trả lời:


Truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân nói về việc 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên vùng cao (vị trí của người Văn Lang là ở vùng cao) đã tôn thờ người anh cả lên làm vua, hiệu Hùng, đặt tên nước là Văn Lang. Điều này phản ánh quá trình hình thành nhà nước Văn Lang với ý nghĩa đại diện cho cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

10. Giỗ tổ Hùng Vương hàng năm là ngày nào?
Trả lời:


- Hàng năm, ngày giỗ tổ Hùng Vương là ngày 10 tháng 3 âm lịch

"Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mồng mười tháng ba"

11. Các vua Hùng đã có công lao gì với đất nước ta? Bác Hồ đã căn dặn chúng ta như thế nào khi Bác về thăm đền Hùng (Phú Thọ)?
Trả lời:


- Các vua Hùng đã có công dựng nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của người Lạc Việt

- Bác Hồ đã căn dặn:

"Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước"

12. Nhà nước Văn Lang được tổ chức như thế nào?
Trả lời:


- Nhà nước Văn Lang có hai cấp chính quyền: Trung ương và địa phương. Nếu chia theo đơn vị hành chính thì có 3 cấp: Nhà nước - Bộ - Chiềng, chạ.

- Đứng đầu nhà nước là vua Hùng. Giúp việc cho vua là các Lạc hầu, Lạc tướng giải quyết công việc chung của nhà nước. Bên dưới là các bộ do Lạc tướng đứng đầu. Dưới bộ là các chiềng, chạ do Bồ chính đứng đầu.

- Nhà nước Văn Lang chưa có luật pháp và quân đội
 
Văn Lang là nhà nước đầu tiên của Việt Nam trong lịch sử. Nhà nước Văn Lang được cai trị bởi các vua Hùng. Đứng đầu nhà nước là Hùng Vương, chia nước làm 15 bộ, vua giữ mọi quyền hành trong nước, tường văn là là Lạc Hầu, tướng võ là Lạc Tướng. Con trai vua là Quan Lang, con gái vua là Mị Nương. Các vị vua cai trị nước Văn Lang có tất cả 18 đời vua đều gọi là Hùng Vương.

Vào khoảng thế kỉ VIII-VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, đã dần hình thành những bộ lạc lớn, gần gũi nhau về tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế. Sản xuất phát triển, trong các chiềng, chạ, một số người giàu lên, được bầu làm người đứng đầu để trông coi mọi việc, một số người nghèo khổ, phải rơi vào cảnh nô tì. Xung đột xảy ra không chỉ giữa người Lạc Việt và các tộc khác mà còn giữa các bộ lạc Lạc Việt với nhau. Cần phải giải quyết các xung đột đó để sống yên ổn hơn. Lúc bấy giờ, ở vùng Gia Ninh (Phú Thọ), có vị thủ lĩnh dùng tài năng khuất phục được các bộ lạc và tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở bạch Hạc (Phú Thọ), đặt tên nước là văn Lang.

Theo bộ sử khác, Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ sinh được 100 người con trai, 50 người theo mẹ lên núi cùng suy tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top