• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Chia Sẻ Những thành tựu chính của văn minh Ấn Độ

Trang Dimple

New member
Xu
38
Ấn Độ là một bán đảo ở Nam Á, từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn ngang, trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. Ấn Độ chia làm hai miền Nam, Bắc lấy dãy núi Vinđya làm ranh giới. Miền Bắc Ấn Độ có hai con sông lớn là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange). Sông Ấn chia làm 5 nhánh, nên đồng bằng lưu vực sông Ấn được gọi là vùng Pungiáp (vùng Năm sông). Tên nước Ấn Độ là gọi theo tên con sông này. Sông Hằng ở phía Đông được coi là một dòng sông thiêng. Từ xưa nhân dân Ấn Độ thường đến khúc sông ở thành phố Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông này đã bồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ ở miền Bắc Ấn Độ, vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh của đất nước này.


ấn độ.jpeg


1. Chữ viết
Chữ viết đầu tiên ở Ấn Độ được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa. Tại các di chỉ thuộc nền văn minh lưu vực sông Ấn đã phát hiện được hơn 3.000 con dấu khắc chữ đồ họa. Suốt nửa thế kỷ từ khi phát hiện lần đầu tiên vào năm 1921, nhiều tác giả của nhiều nước đã nghiên cứu cách đọc loại chữ này nhưng chưa thành công. Mãi đến cách đây vài chục năm, một nhà khảo cổ học Ấn Độ là Tiến sĩ S.R. Rao đã khám phá được sự bí ẩn của loại chữ này.

Theo ông Rao, đây là một loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vần. Trong số hơn 3.000 con dấu ấy có 22 dấu cơ bản. Loại chữ này chủ yếu viết từ phải sang trái. Những con dấu đã phát hiện được là những con dấu dùng để đóng trên các kiện hàng để xác nhận hàng hóa và chỉ rõ xuất xứ của những hàng hóa đó.

Đến khoảng thế kỷ V TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một loại chữ khác gọi là chữ Kharosthi. Đây là một loại chữ phỏng theo chữ viết của vùng Lưỡng Hà. Sau đó lại xuất hiện chữ Brami, một loại chữ được sử dụng rộng rãi. Các văn bia của Axôca đều viết bằng loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, người Ấn Độ lại đặt ra chữ Đêvanagari có cách viết đơn giản thuận tiện hơn. Đó là thứ chữ mới để viết tiếng Xanxcrit. Đến nay ở Ấn Độ và Nêpan vẫn dùng loại chữ này.

2. Văn học
Ấn Độ là một nước có nền văn học rất phát triển. Thời cổ đại văn học Ấn Độ gồm hai bộ phận quan trọng là Vêđa và sử thi.
a) Vêđa


Vêđa vốn nghĩa là hiểu biết. Vêđa có 4 tập là Rích Vêđa, Xama Vêda, Yagiua Vêđa và Atácva Vêđa.

Ba tập Vêđa trên gồm những bài ca và những bài cầu nguyện phản ánh tình hình người Arya tràn vào Ấn Độ, tình hình tan rã của chế độ thị tộc, tình hình cư dân đấu tranh với thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt. Trong đó, Rích Vêđa với 1028 bài thơ là tập quan trọng nhất.

Còn Atácva Vêđa chủ yếu bao gồm các bài chú nhưng nội dung mà tập Vêđa này đề cập đến gồm các mặt như chế độ đẳng cấp, việc hành quân, chữa bệnh, đánh bạc và cả tình yêu nữa.

Ca ngợi thần sét Inđra, Rích Vêđa viết:

Tôi muốn ca ngợi sự tích anh hùng của thần Inđra,

Những chiến công của vị thần Thiên Lôi ấy,

Ngài đã chém con ác long cho nước mưa tuôn chảy,

Và mở toang các hang động trên non cao.

Nói về uy quyền của đẳng cấp Bàlamôn khi họ làm cố vấn tôn giáo cho nhà vua, Atácva Vêđa viết:

Sắc hơn lưỡi búa,

Sáng hơn ngọn lửa,

Vang hơn tiếng sét của Indra.

Cố vấn của người như thế chính là ta.

Trong Atácva Vêđa cũng có những bài thơ tỏ tình:

Như gió lay ngọn cỏ,

Anh lay chuyển lòng em

Rồi em sẽ yêu anh

Và không rời anh nữa.

Kế tiếp theo 4 tập Vêđa và có liên quan với Vêđa còn có các tác phẩm Bramana (Phạn thư), Araniaca (sách rừng rậm) Ypanisát (sách nghĩa sâu) v.v... Những sách này đều viết bằng văn xuôi, nội dung bao gồm những bài cầu nguyện, thần chú, những nghi thức cúng bái, những bài thuyết pháp, những lời giải thích triết lý trong kinh Vêđa chứ về văn học thì không có giá trị gì đáng kể.

b) Sử thi

Ấn Độ có hai bộ sử thi rất đồ sộ là MahabharataRamayana. Hai bộ sử thi này được truyền miệng từ nửa đầu thiên kỷ I TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỷ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng Xanxcrit.

- Mahabharata có 18 chương và 1 chương bổ sung tài liệu, gồm 220.000 câu. Đây là bộ sử thi dài nhất thế giới, so với cả hai bộ Iliat và Ôđixê của Hy Lạp cổ đại gộp lại còn dài hơn 8 lần. Tương truyền rằng người soạn lại bộ sử thi này là Viasa. Chủ đề của tác phẩm này là cuộc đấu tranh trong nội bộ một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ấn Độ. Bởi vậy tập thơ lấy tên là Mahabharata nghĩa là “Cuộc chiến tranh giữa con cháu Bharata”.

Cốt truyện như sau: Ở thành phố Haxtinapua có một dòng họ vua chúa gọi là Curu vốn là con cháu của vua Bharata. Dòng họ này có hai anh em là Đritarattơra và Panđu. Vì người anh bị mù nên Pandu được làm vua. Đritarattơra có 100 con trai, gọi chung là anh em Curu, còn Panđu có 5 con trai, gọi chung là anh em Panđu.

Sau khi Panđu chết, anh em Curu và anh em Panđu chia đôi vương quốc. Nhưng vì muốn chiếm toàn bộ đất nước, anh em Curu đã thách anh em Pađu đánh bạc. Nhờ gian lận, anh em Curu thắng liên tiếp. Bị mất hết mọi của cải, anh em Panđu đặt phần đất nước của mình vào canh bạc nhưng cũng bị thua nốt. Theo lời giao hẹn, anh em Panđu bị trục xuất và phải trốn tránh trong 13 năm, không được để phía anh em Curu phát hiện.

Hết kỳ hạn, anh em Panđu trở về yêu cầu anh em Curu trả lại đất đai cho họ, nhưng bị từ chối, do đó một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai bên bùng nổ. Sau 18 ngày đánh nhau dữ dội, hàng trăm triệu người đã bị tử trận, phe Curu chỉ có 3 người sống sót, cả 100 anh em Curu đều chết. Phe Panđu tuy thắng lợi nhưng cũng chỉ còn lại 6 người, trong đó có 5 anh em Panđu.

Xoáy vào cốt truyện ấy, bộ sử thi này đã miêu tả rất nhiều cảnh khác nhau với những chi tiết ly kỳ như cảnh ăn chơi xa hoa ở chốn cung đình, những cuộc tình duyên éo le nhưng chung thủy, những cảnh sinh hoạt trong xã hội lúc bấy giờ và đậm nét nhất là cảnh chiến đấu anh dũng nhưng vô cùng thảm khốc. Hơn nữa, cùng với thời gian, những câu chuyện như vậy không ngừng được bổ sung vào làm cho tác phẩm càng thêm phong phú.

- Ramayana có VII chương, trong đó chương I và chương VII về sau mới thêm vào, gồm 48.000 câu. Tương truyền rằng tác giả là Vanmiki. Chủ đề của tác phẩm này là câu chuyện tình duyên giữa hoàng tử Rama và người vợ chung thủy Sita.

Cốt truyện như sau: Trong thời Vêđa, vương quốc Côxala được sống trong cảnh thanh bình dưới sự trị vì của vua Đaxarađa. Người con trưởng của vua là Rama, một thanh niên thông minh dũng cảm và có đạo đức được vua chọn làm thái tử nối ngôi.

Gần đó, có một vương quốc khác là Viđêha, dân chúng cũng được an cư lạc nghiệp dưới quyền thống trị của vua Gianắc. Bản thân vua cũng cầm cày cày ruộng. Một hôm nhà vua đang cày, bỗng thấy từ luống cày hiện lên một thiếu nữ xinh đẹp. Nhà vua đem về nuôi, đặt tên là Sita và coi như con. Khi Sita đến tuổi lấy chồng, nhà vua tổ chức một cuộc thi bắn cung để kén phò mã. Nhiều thanh niên tham dự cuộc thi, nhưng chỉ có Rama giương nổi cây cung của nhà vua. Rama được kết hôn với công chúa Sita.

Nhưng một ái phi của vua Đaxarata vì ghen với hoàng hậu có con trai là Rama được làm thái tử nối ngôi nên yêu cầu vua đày Rama ra khỏi đất nước 14 năm.

Rama cùng Sita đến sống ở trong rừng. Một công chúa góa chồng một hôm dạo chơi trong rừng gặp Rama rồi đem lòng yêu chàng. Bị từ chối quyết liệt, nàng công chúa ấy tức giận nên bảo em trai mình là Ravan, vua nước Quỷ ở đảo Lanca bắt cóc Sita.

Nhờ sự giúp đỡ của vua nước Vượn là Xugriva, Rama tổ chức được một đội quân gồm toàn vượn và gấu. Theo lệnh của Rama, một cái cầu được xây dựng nối liền lục địa với đảo Lanca. Ngày nay, giữa Ấn Độ và Xri Lanca có những hòn đảo mà theo truyền thuyết của cư dân địa phương, đó chính là dấu vết của cái cầu ấy. Với đội quân vượn và gấu đó, Rama đánh bại vua nước Quỷ và cứu được Sita. Thời gian đi đày cũng hết, Rama trở về đất nước của mình và lên làm vua.

Chương cuối do người đời sau thêm vào kể tiếp rằng mặc dầu Sita đã thắng được cuộc thử lửa, Rama vẫn nghĩ nàng không giữ được trinh tiết với mình trong thời gian ở trong cung điện của Ravan, nên Rama đã đày vợ vào rừng. Tại đây, Sita sinh được 2 đứa con trai và gặp Vanmiki mà về sau trở thành tác giả của tập thơ. Lớn lên 2 đứa con ấy trở thành người đi hát rong và một hôm chúng đã hát cho Rama nghe bản trường ca Ramayana. Rama nhận ra con mình, sai sứ giả vào rừng đón Sita về cung. Sita được minh oan nhưng vẫn đau khổ vì đã bị chồng nghi ngờ nên biến vào lòng đất, người mẹ trước đây đã sinh ra nàng từ luống cày. Rama tiếp tục trị vì trong nhiều năm nữa, nhân dân được sống yên vui, nhưng bản thân ông phải sống trong cảnh buồn rầu cô độc.

Hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana là những công trình sáng tác tập thể của nhân dân Ấn Độ trong nhiều thế kỷ và là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ trong hai ngàn năm nay. Cho đến nay, các nhà văn nghệ sĩ Ấn Độ thuộc các ngành thơ kịch, họa, điêu khắc... vẫn tìm được ở trong hai tác phẩm vĩ đại ấy nhiều đề tài và cảm hứng để sáng tác.

Ngoài văn học tiếng Xanxcrít ra, còn có những tác phẩm viết bằng các thứ ngôn ngữ khác, trong đó trước hết cần phải kể đến những tác phẩm viết bằng tiếng Pali về chủ đề Phật giáo.

c) Những tác phẩm của Caliđaxa

Caliđaxa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta (thế kỷ V). Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là vở kịch Sơcuntla.

Vở kịch Sơcuntla vốn phỏng theo một câu chuyện dân gian chép trong sử thi Mahabharata, nhưng đã được tác giả cải biên và thêm nhiều tình tiết. Nội dung của vở kịch miêu tả câu chuyện tình duyên giữa nàng Sơcuntla và vua Đusơnta, trải qua nhiều éo le trắc trở, cuối cùng hai người được đoàn tụ và được hạnh phúc đời đời.

Tuy là một nhà soạn kịch cung đình, lại chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn, nhưng Caliđaxa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối, lừa gạt, không chung thủy của giai cấp thống trị, và trên chừng mực nhất định đã chống quan niệm về đẳng cấp.

Sơcuntla và Caliđaxa là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ. Suốt 15 thế kỷ nay, Sơcuntla đã trở thành nguồn cảm hứng, nguồn đề tài của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau của Ấn Độ như kịch, điện ảnh, họa, nhạc, vũ v.v... Không những ở Ấn Độ mà đối với thế giới, tác phẩm Sơcuntla cũng có một tiếng vang rất lớn.

Gớt, nhà đại văn hào Đức đã không tiếc lời ca ngợi:

“Nếu muốn có một tiếng ôm ấp được cả hoa mùa xuân và trái mùa thu,

Một tiếng làm đắm say nuôi dưỡng và thỏa mãn được tâm hồn.

Nếu muốn có một tiếng bao gồm được cả trời đất,

Thì tôi gọi: Sơcuntla.

Tiếng đó nói lên tất cả.”

Ngày nay Caliđaxa được xếp vào loại các nhà văn lớn của thế giới và năm 1957 ông đã được Hội đồng hòa bình thế giới tổ chức kỷ niệm.

d) Các tác phẩm văn học viết bằng các phương ngữ.

Từ cuối thế kỷ X về sau, ngoài văn học tiếng Xanxcrít đã xuất hiện nhiều tác phẩm văn học viết bằng các loại phương ngữ khác nhau.

Vào thế kỷ XIII, nhà thơ Tichcala đã dịch 15 chương trong bộ sử thi Mahabharata ra tiếng Têlugu, làm cho nền văn học cổ điển càng được phổ cập rộng rãi.

Đến thế kỷ XVI, XVII, dưới triều Môgôn, có một số nhà thơ đã sáng tác bằng tiếng Ba Tư. Tuy nhiên, phong phú nhất vẫn là nền văn học bằng tiếng Inđi và các loại ngôn ngữ địa phương khác. Thiên trường ca Ramayana do Tunxi Đát viết bằng tiếng Inđi là một tác phẩm nổi tiếng được nhân dân rất ưa thích.

Tập thơ Xuốc của nhà thơ mù Xuốc Đát viết bằng một loại phương ngữ khác trong tiếng Inđi mà chủ đề chính là chủ nghĩa anh hùng và tình yêu cũng là một tác phẩm có giá trị.

Những bài ca du dương, gợi cảm ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Ấn Độ của ca sĩ kiêm nhà thơ Tanxen cũng rất nổi tiếng. Ngoài ra, trong thời kỳ này còn có nhiều nhà thơ khác. Đặc trưng chung của nền thi ca giai đoạn này là dùng ngôn ngữ dân gian chứ không dùng ngôn ngữ cung đình, đồng thời còn sử dụng nhiều chất liệu trong văn học dân gian, phản ánh được tâm tư nguyện vọng của quần chúng nên được nhân dân rất thích thú.

(Còn Tiếp)

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
3 - Nghệ thuật
Thời cổ trung đại, Ấn Độ đã có một nền nghệ thuật phong phú đặc sắc bao gồm nhiều mặt, trong đó nổi bật nhất là các ngành kiến trúc, điêu khắc. Thời Harappa, nhà cửa chỉ mới xây bằng gạch, đến thời vương triều Môrya, nghệ thuật kiến trúc đá mới bắt đầu phát triển mà các công trình tiêu biểu là các cung điện, chùa, tháp, trụ đá...

Axôca đã xây cho mình một tòa hoàng cung rất lộng lẫy. Cung điện chính là một tòa nhà ba tầng và được trang sức bằng những tác phẩm điêu khắc rất đẹp.

Tháp, tiếng Xanxcrít là stupa, tiếng Pali và thupo, là công trình kiến trúc dùng để bảo tồn các di vật của Phật.

Trong số các tháp còn giữ đến ngày nay, điển hình nhất là tháp Xansi (Sanchi) ở Trung Ấn, xây từ thế kỷ III TCN. Tháp này xây bằng gạch, hình nửa quả cầu, cao hơn 16m, xung quanh có lan can có 4 cửa lớn. Lan can và cửa đều làm bằng đá và được chạm trổ rất đẹp.

Trụ đá cũng là một loại công trình kiến trúc dùng để thờ Phật. Những trụ đá này trung bình cao 15m nặng 50 tấn, trên đó chạm một hoặc nhiều con sư tử và các hình trang trí khác. Các sắc lệnh của Axôca thường được khắc trên các trụ đá đó. Trong số các trụ đá còn lại, nổi tiếng nhất là trụ đá ở Xácna (Sarnath). Trên đỉnh trụ đá này có chạm hình 4 con sư tử chụm đuôi vào nhau, mặt nhìn ra 4 hướng trong tư thế tự vệ. Dưới sư tử, có hình bánh xe luân hồi. Hình tượng này nay được vẽ thành quốc huy của nước Ấn Độ.

Trong số các chùa đền của các tôn giáo như Bàlamôn, đạo Phật, đạo Jain, chùa hay là một loại công trình đặc biệt của Ấn Độ thời cổ trung đại, thường là những công trình nghệ thuật kết hợp kiến trúc với điêu khắc, hội họa. Tiêu biểu cho loại công trình này là những gian chùa hang ở Ajanta được kiến tạo từ thế kỷ II TCN đến thế kỷ VIII sau CN. Phương pháp kiến tạo loại chùa này là khoét sâu vào vách núi đá, có nhiều cột chống và được trang trí bằng nhiều bức chạm tinh vi và những tranh bích họa rất đẹp. Dãy chùa hang Ajanta gồm tất cả 29 gian (trong đó có gian hình vuông, mỗi chiều 20m) dùng để làm nơi thờ Phật, nơi giảng kinh và nơi ở của các nhà sư.


Ngoài chùa Ajanta, dãy chùa hang Enlôra ở Trung Ấn kiến tạo vào thế kỷ VIII cũng là một công trình tuyệt mỹ.

Dãy chùa này dài khoảng 2km, bao gồm chùa Phật giáo, chùa đạo Hinđu và chùa đạo Jain.

Ở Ấn Độ còn có những ngôi chùa lớn xây bằng gạch và đá. Đặc biệt, ở chùa Tanjo có một ngọn tháp xây hình Kim tự tháp, gồm 14 tầng, cao 61m, xây dựng từ thế kỷ XI. Đó cũng là một công trình kiến trúc nổi tiếng.

Đến thời Xuntan Đêli và thời Môgôn, cùng với việc đạo Hồi trở thành quốc giáo, ở Ấn Độ đã xuất hiện những công trình kiến trúc mới xây dựng theo kiểu Trung Á và Tây Á. Đó là những nhà thờ Hồi giáo, cung điện, lăng mộ mà đặc điểm chung của lối kiến trúc này là mái tròn, cửa vòm, có tháp nhọn. Có khi các công trình này còn kết hợp với phong cách truyền thống của Ấn Độ như xây theo lối có bao lơn lộ thiên, có cột chống thanh thoát...

Công trình tiêu biểu nhất của thời Môgôn là lăng Taj Mahal được xây dựng vào thế kỷ XVII. Lăng này là kết tinh tài nghệ của các kiến trúc sư và thợ thủ công nhiều nước:

Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý v.v... Toàn bộ ngôi lăng xây bằng đá cẩm thạch trắng. Chính điện, gác chuông, tháp, sân đều bố trí rất hài hòa, bên trong bên ngoài đều chạm trổ. Nhìn từ xa, tất cả cảnh vật của lăng in lung linh trên mặt nước hồ xanh biếc, trông lại càng kỳ diệu.

Về nghệ thuật tạo hình, vì đạo Phật trong thời kỳ đầu phản đối việc thờ thần tượng và hình ảnh, nên nghệ thuật tạc tượng bị hạn chế trong một thời gian dài. Mãi đến khi phái Phật giáo Đại thừa ra đời, chủ trương đó mới thay đổi. Do vậy, từ thế kỷ I về sau, tượng Phật mới được tạo nên ngày một nhiều, trong đó tiêu biểu nhất là pho tượng bằng đá ở Ganđara.

Ngoài tượng Phật còn có các tượng thần đạo Hinđu như tượng thần Visnu, thần Siva v.v... Các tượng thần đạo Hindu thường được thể hiện dưới hình tượng nhiều đầu nhiều mặt nhiều tay và nhiều khi có hình thù rất đáng sợ.

Nói chung nghệ thuật tạo hình Ấn Độ phần lớn nhằm vào chủ đề tôn giáo, nhưng vì bắt nguồn từ cuộc sống thực tế nên tính hiện thực vẫn thể hiện rất rõ rệt, ví dụ tượng nhiều tay nhiều đầu là phỏng theo tư thế của các đội múa trong đền chùa và cung đình.

(Còn Tiếp)

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 

Trang Dimple

New member
Xu
38
4. Khoa học tự nhiên
Mặc dầu áp lực của tôn giáo rất mạnh nhưng do nhu cầu của cuộc sống hàng ngày, nhân dân Ấn Độ đã có nhiều phát minh quan trọng về một số môn khoa học tự nhiên như thiên văn, toán học, vật lý, y dược học...

1. Về thiên văn: Từ rất sớm, người Ấn Độ đã biết chia một năm làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, mỗi ngày 30 giờ, cứ 5 năm thì thêm 1 tháng nhuận. Các nhà thiên văn học Ấn Độ cổ đại đã biết được quả đất và mặt trăng đều hình cầu, biết được quỹ đạo của mặt trăng và tính được các kỳ trăng tròn trăng khuyết. Họ còn phân biệt được 5 hành tinh Hoả, Thủy, Mộc, Kim, Thổ; biết được một số chòm sao và sự vận hành của các ngôi sao chính.

Tác phẩm Thiên văn học cổ nhất của Ấn Độ là quyển Xitđanta (Siddhantas) ra đời vào khoảng thế kỷ V TCN.

2. Về Toán học: Người Ấn Độ có một phát minh tưởng rất bình thường nhưng kỳ thực là một phát minh vô cùng quan trọng, đó là việc sáng tạo ra 10 chữ số mà ngày nay được dùng rộng rãi trên thế giới.

Vào thế kỷ VIII, người Arập nhờ dịch tác phẩm Siddhantas mà học tập được chữ số Ấn Độ. Từ Arập, hệ thống chữ số này được truyền sang châu Âu, do đó những chữ số này thường bị gọi lầm là chữ số Arập.

Tư liệu sớm nhất về những chữ số này là các bia đá của Axôca khắc từ thế kỷ III TCN. Tuy nhiên con số 0 được thấy sớm nhất trong một tài liệu Arập năm 873, sau đó 3 năm mới thấy trong tài liệu Ấn Độ. Mặc dầu vậy, người ta vẫn cho rằng, số 0 cũng do người Ấn Độ sáng tạo.

Nhận được về tầm quan trọng của hệ thống chữ số này, cũng như tính chất vĩ đại của việc phát minh ra hệ thống chữ số, nhà bác học Pháp Laplaxơ (Laplace, 1749 - 1827) viết:

“Chính nhờ Ấn Độ mà chúng ta học được phương pháp tài tình chỉ dùng có mười chữ mà viết được đủ các số, mỗi chữ vừa có một trị số tuyệt đối, vừa có một trị số tùy theo vị trí của nó. Ý đó tế nhị mà quan trọng, ngày nay chúng ta cho là đơn giản quá nên không thấy được công lao của người Ấn Độ. Nhưng chính nhờ nó đơn giản mà làm toán mới hóa ra hết sức dễ dàng và hệ thống số học đáng được kể là sáng kiến ích lợi nhất. Nếu có nghĩ rằng hai vị thiên tài bậc nhất thời cổ đại là Ácsimét và Apôlôniốt (Apohonios) mà cũng không phát minh được hệ thống đó thì mới nhận định nổi sáng kiến của người Ấn Độ tài tình đến như thế nào”.

Đến thế kỷ VI, người Ấn Độ đã tính được một cách chính xác số π là 3,1416; đồng thời còn phát minh ra đại số học và về sau cũng đã truyền sang Arập.

Về hình học, người Ấn Độ cổ đại đã biết tính diện tích hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác và hình đa giác. Người Ấn Độ cũng đã biết được quan hệ giữa các cạnh của tam giác vuông.

3) Về vật lý học: Các nhà khoa học kiêm triết học Ấn Độ đã nêu ra thuyết nguyên tử. Người sáng lập trường phái triết học Vaisêsica là Canađa cho rằng vạn vật do các nguyên tử tạo nên, nhưng vật chất sở dĩ khác nhau là do mỗi loại có một thứ nguyên tử khác với loại khác. Còn các nhà triết học đạo Giainơ (Jain) thì cho rằng nguyên tử nào cũng như nhau, chỉ có cách tổ hợp khác nhau mà thôi.

Người Ấn Độ cổ đại cũng đã biết được sức hút của quả đất. Sách Siddhantas viết vào thế kỷ V TCN đã ghi rằng: “Quả đất, do trọng lực của nó, hút tất cả mọi vật về nó”.

4) Về y dược học: Ấn Độ cổ đại có những thành tựu rất lớn và sớm hơn nhiều so với các nước khác. Trong các tập Vêđa đã kể ra rất nhiều thứ bệnh và ngay từ thời bấy giờ, các thầy thuốc Ấn Độ đã biết dùng phẫu thuật để chữa bệnh. Từ thế kỷ VI, V TCN, người Ấn Độ đã biết cách chắp xương sọ, cắt màng mắt, mổ bụng lấy thai, lấy sỏi thận v.v...

Những thầy thuốc nổi tiếng trong thời cổ đại là Xusruta (Sushruta), Saraca.

Xusruta sống vào thế kỷ V TCN. Ông vừa là thầy thuốc vừa là thầy giáo dạy ở trường Y khoa Bênarét. Ông viết một quyển sách bằng tiếng Xanxcrít về phương pháp khám bệnh và chữa bệnh, trong đó mô tả rất kỹ về các môn giải phẫu, sản khoa, cách nuôi trẻ... Mặc dầu bị các tu sĩ Bàlamôn phản đối, ông chủ trương phải mổ tử thi để nghiên cứu và thực tập. Chính ông là người đầu tiên đã lột một miếng da trên thân thể để đắp vào vành tai bị cắt đứt.

Saraca sống vào thế kỷ II, là ngự y của vua Canisca thuộc vương triều Cusan. Tác phẩm của ông có nhan đề là Xamhita (Samhita) là một quyển sách y học từ sớm đã được dịch ra tiếng Arập, sau đó còn dịch ra nhiều thứ tiếng khác trên thế giới và đến nay vẫn có giá trị tham khảo. Trong tác phẩm ấy, ông xác định bổn phận của người thầy thuốc là trị bệnh thì đừng nghĩ đến mình, đừng vì lợi mà chỉ nên nghĩ đến nhiệm vụ cứu nhân độ thế.

Các tập Vêđa cũng là những tác phẩm được học cổ nhất, trong đó đã nêu ra hàng trăm loại thuốc thảo mộc. Song song với sự phát triển sớm của thuật giải phẫu, người Ấn Độ đã biết chế thuốc tê cho bệnh nhân uống để giảm đau khi mổ.

Ngoài các ngành nói trên, người Ấn Độ còn nhiều hiểu biết về các môn Hóa học, Sinh học, Nông học... do đó đã phục vụ đắc lực cho các lĩnh vực khoa học khác và các nghề thủ công như luyện thép, nhuộm, thuộc da v.v...

(Còn Tiếp)

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 

Trang Dimple

New member
Xu
38
5. Tôn giáo
Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là đạo Bàlamôn về sau là đạo Hinđu và đạo Phật. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Jain, đạo Xích.

a) Đạo Bàlamôn - Đạo Hindu

  • Đạo Bàlamôn.
Trong thời kỳ đầu của thời Vêđa, quan niệm tín ngưỡng của người Ấn Độ còn mang nhiều dấu vết của thời nguyên thủy. Họ tin rằng vạn vật đều có linh hồn nên họ sùng bái rất nhiều thứ, sùng bái các hiện tượng tự nhiên, người chết và nhiều loài động vật...

Đến những thế kỷ đầu của thiên kỷ I TCN, do sự phát triển của xã hội có giai cấp và do sự không bình đẳng về đẳng cấp ngày càng sâu sắc, từ các hình thức tín ngưỡng dân gian dần dần đã tập hợp thành một tôn giáo lớn gọi là đạo Bàlamôn. Như vậy, đạo Bàlamôn là một tôn giáo không có người sáng lập, không có tổ chức giáo hội chặt chẽ.

Đạo Bàlamôn là một tôn giáo đa thần trong đó cao nhất là thần Brama. Đó là vị thần sáng tạo thế giới. Tuy vậy, có nơi cho thần Siva, vị thần phá hoại là thần cao nhất; có nơi lại cho thần Visnu, thần bảo vệ, thần ánh sáng, thần bốn mùa, thần làm cho nước sông Hằng dâng lên và làm mưa tưới cho ruộng đồng tươi tốt là vị thần cao nhất. Do vậy, đến những thế kỷ đầu công nguyên, đạo Bàlamôn chia thành hai phái là phái thờ thần Siva và phái thờ thần Visnu. Để thống nhất các phái đó, đạo Bàlamôn nêu ra quan niệm thần sáng tạo Brama, thần phá hoại Siva và thần bảo vệ Visnu tuy là ba nhưng vốn là một.

Ngoài ra, nhiều loài động vật như voi, khỉ và nhất là bò cũng là những đối tượng sùng bái của đạo Bàlamôn.

Trong giáo lý của đạo Bàlamôn có một nội dung rất quan trọng, đó là thuyết luân hồi. Đạo Bàlamôn giải thích rằng linh hồn của con người là một bộ phận của Brama mà Brama là một tồn tại vĩnh hằng, cho nên con người tuy có sống có chết, nhưng linh hồn thì còn mãi mãi và sẽ luân hồi trong nhiều kiếp sinh vật khác nhau. Những người giữ đúng luật lệ của tôn giáo và các quy tắc mà thần đã định sẵn cho mình thì kiếp sau sẽ được đầu thai thành người cao quý, trái lại thì sẽ càng khổ cực, thậm chí sẽ bị đầu thai làm chó lợn và những động vật bẩn thỉu.

Về mặt xã hội, đạo Bàlamôn là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ.

Trước khi đạo Bàlamôn ra đời, trong quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy của người Arya, chế độ đẳng cấp đã xuất hiện rồi. Đó là chế độ chia cư dân tự do thành 4 đẳng cấp: Braman, Ksatơrya, Vaisya, Suđra.

Braman (Bàlamôn) là đẳng cấp của những người làm nghề tôn giáo.

Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến sĩ.

Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân làm các nghề như chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán, một số nghề thủ công.

Suđra là đẳng cấp của những người cùng khổ, vốn là con cháu của các bộ lạc bại trận, không có tư liệu sản xuất.

Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ đẳng cấp là do sự phân hóa giai cấp, sự phân công về nghề nghiệp và sự phân biệt về bộ tộc. Nhưng các tăng lữ Bàlamôn thì dùng uy lực của thần linh để giải thích hiện tượng xã hội ấy. Ví dụ, luật Manu, một bộ luật về tập quán được hoàn thành vào khoảng đầu công nguyên chép:

“Vì sự phồn vinh của cả thế giới, từ mồm, tay, đùi và bàn chân của mình, ngài (thần Brama) đã tạo nên Braman, Ksatơrya, Vaisya và Sudra”.

Trong 4 đẳng cấp ấy, đẳng cấp Bàlamôn có địa vị cao nhất. Luật Manu viết: “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của thân thể Brama, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Vêđa, Bàlamôn có quyền là chúa tể của tất cả các tạo vật ấy”.

Ngoài Bàlamôn, chỉ có hai đẳng cấp Ksatơrya và Vaisya mới được trở thành tín đồ của đạo Bàlamôn và cả ba đẳng cấp trên được quan niệm là những người sinh hai lần; còn Suđra không được dự các buổi lễ tôn giáo và được quan niệm là những người sinh một lần.

Đạo Bàlamôn đã truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ trong nhiều thế kỷ. Đến khoảng thế kỷ VI TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một tôn giáo mới là đạo Phật. Đạo Bàlamôn bị suy thoái trong một thời gian dài.

* Đạo Hindu (Ấn Độ giáo).

Sau một thời gian hưng thịnh, đến khoảng thế kỷ VII, đạo Phật bị suy sụp ở Ấn Độ. Nhân tình hình đó, đạo Bàlamôn dần dần phục hưng, đến khoảng thế kỷ VIII, IX đạo Bàlamôn đã bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế lễ... Từ đó, đạo Bàlamôn được gọi là đạo Hinđu, trước đây ta hay gọi là Ấn Độ giáo.

Đối tượng sùng bái chủ yếu của đạo Hinđu vẫn là ba thần Brama, Siva và Visnu.

Thần Brama được thể hiện bằng một hình tượng có 4 đầu để chứng tỏ thần có thể nhìn thấu mọi nơi. Bốn tập kinh Vêđa chính là được phát ra từ 4 cái miệng của thần Brama.

Thần Siva được thể hiện thành hình tượng có mắt thứ ba ở trên trán, luôn luôn cầm một cái đinh ba Siva thường cưỡi bò hoặc ngồi trên tấm da hổ, có những con rắn hổ mang quấn quanh cổ. Thần Siva là thần phá hoại những thứ mà thần Brama sáng tạo ra, nhưng Siva cũng có mặt sáng tạo. Sự sáng tạo ấy được thể hiện qua hình tượng linga - yoni mà nhân dân Ấn Độ sùng bái.

Liên quan đến thần Siva có nữ thần Kali (còn gọi là nữ thần Pácvati), vợ của thần Siva và thần Ganêxa, con trai của thần.

Nữ thần Kali (Pavacti) được thể hiện thành hình tượng một phụ nữ mặt đen, miệng há hoác, lưỡi lè ra. Nữ thần cũng trang sức bằng những con rắn, đeo hoa tai bằng xác đàn ông, chuỗi hạt là những sọ người, mặt và ngực bôi đầy máu. Thần có 4 tay, một tay cầm gươm, một tay cầm một đầu người, còn hai tay nữa thì đưa ra để ban phúc lành. Trước kia có khi phải giết người để tế thần Kali, về sau chỉ cúng bằng dê cái.

Thần Ganêxa tuy có hình thù kỳ dị đầu voi mình người nhưng đó là thần Trí tuệ và Thịnh vượng.

Thần Visnu được quan niệm là đã giáng trần 9 lần. Trong sáu lần đầu, thần xuất hiện dưới dạng các động vật như cá, lợn rừng... Đến lần thứ 7, thần Visnu chính là Rama, nhân vật chính trong sử thi Ramayana. Lần thứ 8, thần Visnu giáng thế thành thần Krisna. Thần Krisna thường bênh vực kẻ nghèo, chữa bệnh cho người mù, người điếc và làm cho người chết sống lại. Lần thứ 9, thần Visnu biến thành Phật Thích ca. Đây là một biểu tượng chứng tỏ đạo Hinđu có tiếp thu một số yếu tố của đạo Phật, đồng thời đây cũng là một thủ đoạn để đạo Hinđu thu hút các tín đồ đạo Phật cải giáo theo đạo Hinđu. Đến kiếp thứ 10 tức là lần giáng sinh cuối cùng, thần Visnu sẽ biến thành thần Kali. Đó là vị thần sẽ hủy diệt thế giới cũ tội lỗi, tạo dựng thế giới mới với đạo đức trong sáng.

Ngoài các vị thần nói trên, các loài động vật như khỉ, bò, rắn, hổ, cá sấu, chim công, vẹt, chuột v.v... cũng là các thần đạo Hindu, trong đó được tôn sùng hơn cả là thần khỉ và thần bò.

Thần khỉ Hanuman sở dĩ được tôn thờ vì có công giúp Rama (tức là Visnu) giết được quỷ Ravan để đưa Sita trở về quê hương. Vì vậy thần Hanuman được coi là thần Sức Mạnh và thần Trung Thành. Để cúng thần Hanuman người theo đạo Hinđu ăn chay vào ngày thứ ba hàng tuần. Hình thức ăn chay là ban ngày chỉ uống nước, tối mới được ăn.

Thần bò Kamđênu được thần Krisna (kiếp thứ 8 của Visnu) chăn dắt, suốt đời đi theo Krisna. Thần Kamđênu được quan niệm là do thần Brama tạo ra đồng thời với đẳng cấp Bàlamôn và được coi là mẹ của hầu hết các thần. Vì vậy, cho đến nay, bò được coi là một con vật thiêng liêng. Tín đồ đạo Hinđu không những kiêng ăn thịt bò mà còn không dùng những đồ dùng làm bằng da bò.

Đạo Hinđu cũng chia thành hai phái là phái thờ thần Visnu và phái thờ thần Siva.

Mỗi buổi sáng, tín đồ phái Visnu dùng son vẽ lên trán, còn tín đồ phái Siva thì bôi lên lông mày một vạch ngang bằng than phân bò cái hoặc đeo ở tay, ở cổ cái linga. Tuy nhiên hai phái đó vẫn đoàn kết với nhau và có khi cùng cúng tế trong một ngôi đền.

Đạo Hinđu cũng chú trọng thuyết luân hồi, cho rằng con người sau khi chết, linh hồn sẽ đầu thai nhiều lần. Mỗi lần đầu thai như vậy con người sẽ sung sướng hơn hay khổ cực hơn kiếp trước là tùy thuộc vào những việc làm của kiếp trước tức là quả báo (Karma).

Kinh thánh của đạo Hinđu, ngoài các tập VêđaUpanisát còn có Mahabharata, Bhagavad Gita, RamayanaPurana.

Mahabharata, Bhagavad Gita và Ramayana là những tập trường ca, còn Purana là tập truyện cổ nói về sự sáng tạo, sự biến chuyển và sự hủy diệt của thế giới.

Sau khi phục hưng, đạo Hinđu được các vương công Ấn Độ hết sức ủng hộ, do đó đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa nguy nga và ban cấp cho rất nhiều ruộng đất, có khi lên đến hàng nghìn làng.

Trong các chùa ấy đã tạc rất nhiều tượng thần để thờ. Các tượng thần đạo Hinđu thường có hình thù kỳ dị đáng sợ như nhiều đầu, nhiều mắt, nhiều tay... trong các chùa lớn có tới hàng nghìn tu sĩ Bàlamôn và hàng nghìn vũ nữ.

Khỉ tế lễ, các tu sĩ thường xoa dầu, xức nước hoa cho tượng, dùng thịt dê cùng các thức ăn uống khác để cúng thần. Trong khi cử hành lễ cúng, các thầy tu đọc kinh, còn các vũ nữ thì múa những điệu múa tôn giáo.

Về tục lệ,
đạo Hinđu cũng hết sức coi trọng sự phân chia đẳng cấp. Đến thời kỳ này, do sự phát triển của các ngành nghề, trên cơ sở 4 đẳng cấp cũ (vama) đã xuất hiện rất nhiều đẳng cấp nhỏ mới gọi là jati.

Những đẳng cấp nhỏ này cũng có sự phân biệt về địa vị xã hội rất khắt khe, đóng kín về mọi mặt và đời đời cha truyền con nối. Đặc biệt đạo Hinđu hết sức khinh bỉ và ghê tởm tầng lớp lao động nghèo khổ phải làm các nghề bị coi là hèn hạ như quét rác, đồ tể, đao phủ, đốt than, đánh cá v.v... Những người làm các nghề đó bị coi là những người ô uế, không thể tiếp xúc được. Nếu những người sạch sẽ nhỡ đụng chạm vào họ thì phải tẩy uế. Nếu nhiễm uế nhẹ thì chỉ cần vẩy nước thánh là được; nếu nặng thì phải rửa bằng nước tiểu bò, thậm chí phải uống một thứ nước gồm 5 chất của bò cái: sữa lỏng, sữa đặc, bơ, nước tiểu và phân.

Đạo Hinđu còn duy trì lâu dài nhiều tục lệ lạc hậu như tảo hôn, vợ góa phải hỏa táng theo chồng. Nếu không tuẫn tiết thì phải cạo trọc đầu và ở vậy suốt đời không được tái giá. Ngày nay các tục lệ đó đều đã bãi bỏ.

Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thời kỳ đạo Phật thịnh hành, đạo Bàlamôn - đạo Hinđu là tôn giáo chủ yếu ở Ấn Độ. Tôn giáo này còn truyền bá sang một số nước Đông Nam Á, đặc biệt là Campuchia từ thời Ăngco về trước.

Ngày nay, ở Ấn Độ có khoảng 84% tổng số cư dân theo đạo Hinđu. Ngoài Ấn Độ, đa số dân Nêpan và đảo Bali ở Inđônêxia, gần 20% dân Bănglađét và Xri Lanca vẫn theo đạo Hinđu.

Ở nước ta, một bộ phận đồng bào Chăm cũng là tín đồ của đạo này, nhưng đó là một thứ đạo Bàlamôn - Hinđu đã sửa đổi nhiều.

b) Đạo Phật
Vào giữa thiên kỷ I TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện một số dòng tư tưởng chống đạo Bàlamôn. Đạo Phật là một trong những dòng tư tưởng ấy.

Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Phật là Xitđácta Gôtama (Siddharta Gautama), sau khi thành Phật được đệ tử tôn xưng là Xakia Muni (Thích ca Mâuni), con vua Sutđôđana nước Capilavaxtu ở chân núi Hymalaya, miền đất bao gồm một phần miền Nam nước Nêpan và một phần của Ấn Độ ngày nay.

Năm 29 tuổi, hoàng tử Xitđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Đến năm 35 tuổi, Xitđácta đã nghĩ ra được cách giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau, do đó cho rằng đã tìm được con đường cứu vớt. Từ đó, ông được gọi là Buddha, ta quen gọi là Phật hoặc Bụt, nghĩa là “người đã giác ngộ”, “người đã hiểu được chân lý”.

Về niên đại của Phật, hiện nay đang có những ý kiến khác nhau. Có một số người cho rằng Phật sinh năm 563 và mất năm 483 TCN; một số người khác thì cho rằng Phật sinh năm 624 và mất năm 544 TCN. Tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu kỷ nguyên Phật giáo.

Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo được tóm tắt trong câu nói sau đây của Phật Thích ca: “Trước đây và ngày nay ta chỉ lý giải và nêu ra cái chân lý về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khô”. “Cũng như nước đại dương chỉ có một vị là mặn, học thuyết của ta chỉ có một vị là cứu vớt”.

Cái chân lý về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy được thể hiện trong thuyết “tứ thánh đế” hoặc còn gọi “tứ diệu đế”, “tứ chân đế”, “tứ đế”, nghĩa là 4 chân lý thánh. Đó là: khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.

Khổ đế là chân lý về các nỗi khổ. Theo Phật, con người có tám nỗi khổ (bát khổ): sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ mình không ưa, xa người mình yêu, cầu mà không được, giữ lấy 5 uẩn (thủ ngũ uẩn).

“Uẩn (skandha) là tập hợp, tích tụ. Đạo Phật cho rằng con người không có thực thể tự nó (vô ngã) mà chỉ là sự tập hợp 5 thứ: sắc (vật chất tạo thành thân thể), thụ (cảm giác), tưởng (quan niệm),hành (hành động), thức (nhận thức). Vì con người chỉ là sự tập hợp của 5 thứ đó, nên đó cũng là một nỗi khổ.

Như vậy, đối với con người, ngoài khổ đau vô tận, không có cái gì khác.

Tập đế là chân lý về nguyên nhân của các nỗi khổ. Nguyên nhân chủ yếu là luân hồi, mà nguyên nhân của luân hồi là nghiệp, sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn như ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang... Ham muốn không dứt thì nghiệp không dứt, nghiệp không dứt thì luân hồi mãi mãi.

Diệt đế là chân lý về sự chấm dứt các nỗi khổ. Nguyên nhân của khổ đau là luân hồi, vì vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt luân hồi. Muốn chấm dứt luân hồi thì phải chấm dứt nghiệp. Đó là một món nợ truyền từ kiếp này sang kiếp khác do lòng ham muốn tạo nên, do đó nói vắn tắt muốn chấm dứt luân hồi thì phải trừ bỏ hết mọi ham muốn.

Một khi đã chấm dứt được luân hồi thì sẽ được yên tĩnh, thanh thản, sáng suốt và như vậy đã đạt tới cảnh giới Niết bàn (Nirvana).

Đạo đế là chân lý về con đường diệt khổ tức là phương pháp thực hiện việc diệt khổ. Con đường đó gọi là “bát chính đạo” (8 con đường đúng đắn), gồm:

chính kiến: tín ngưỡng đúng đắn.

chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn.

chính ngữ: nói năng đúng đắn.

chính nghiệp: hành động đúng đắn.

chính mệnh: sống đúng đắn.

chính tịnh tiến: mơ tưởng những cái đúng đắn.

chính niệm: tưởng nhớ những cái đúng đắn.

chính định: tập trung tư tưởng ngẫm nghĩ đúng đắn.

Chung quy “bát chính đạo” là suy nghĩ, nói năng và hành động đúng đắn.

Về giới luật, tín đồ Phật giáo chủ yếu phải kiêng 5 thứ (ngũ giới):

không sát sinh.

không trộm cắp.

không tà dâm.

không nói dối.

không uống rượu.

Trong số đó, giới luật “không sát sinh” là không được giết người, còn giết các động vật thì luật cấm không khắt khe lắm. Phật giáo ban đầu không cấm tín đồ ăn thịt.

Tục tín đồ, nhất là các tăng ni phải ăn chay, không được ăn thịt động vật là do vua Lương Vũ đế (502-549) của Trung Quốc đặt ra vào thời kỳ đạo Phật thịnh hành ở nước này.

Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết duyên khởi. Duyên khởi là chữ nói tắt câu “chư pháp do nhân duyên nhi khởi” nghĩa là “các pháp đều do nhân duyên mà có”.

“Pháp” (dharma) là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần. Giáo lý của đạo Phật cũng là sự vật nên cũng gọi là “pháp”.

Còn nhân duyên là nguyên nhân, nhưng trong đó, nhân là nguyên nhân chủ yếu, duyên là nguyên nhân phụ. Ví dụ: Sở dĩ một cái cây có thể nảy mầm và phát triển được là nhờ có hạt giống, đất, nước, khí trời, ánh sáng, trong đó, hạt giống là nhân, đất nước, khi trời ánh sáng là duyên.

Như vậy, mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nhưng duyên khởi do đâu mà có? Học thuyết Phật giáo giải thích rằng duyên khởi do tâm mà ra. Tâm là nguồn gốc của duyên khởi thì cũng là nguồn gốc của vạn vật.

Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương “vô tạo giả” tức là không có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ. Đây là một nội dung cơ bản mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo Bàlamôn và cũng là một sự khác biệt quan trọng giữa đạo Phật với nhiều tôn giáo khác.

Bên cạnh thuyết “vô tạo giả”, đạo Phật còn nêu ra các thuyết “vô ngã”, “vô thường”.

Vô ngã là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng chỉ là sự tập hợp của 5 uẩn sắc, thụ, tưởng, hành, thức chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài. Đây là nội dung thứ hai mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo Bàlamôn, vì đạo Bàlamôn chủ trương có bản ngã.

Vô thường là mọi sự vật đều ở trong quá trình sinh ra, biến đổi, tiêu diệt chứ không bao giờ được ổn định.

Như vậy, về thế giới quan, tuy đạo Phật ban đầu chủ trương vô thần (vô tạo giả) nhưng chung quy vẫn là duy tâm chủ quan.

Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp, vì đạo Phật cho rằng nguồn gốc xuất thân của mỗi người không phải là điều kiện để được cứu vớt. Mọi người, dù thuộc đẳng cấp nào một khi đã tu hành theo học thuyết của Phật thì đều trở thành những thành viên bình đẳng của một Tăng đoàn.

Đồng thời đạo Phật mong muốn có một xã hội trong đó vua thì có đạo đức và phải dựa vào pháp luật để trị nước, không được chuyên quyền độc đoán, còn nhân dân thì được an cư lạc nghiệp.

Như vậy, đạo Phật ban đầu là một học thuyết khuyên người ta phải từ bỏ ham muốn, tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt chứ không thừa nhận thượng đế và các vị thần bảo hộ, do đó không cần nghi thức cúng bái và cũng không có tầng lớp thầy cúng.

  • Sự phát triển của đạo Phật ở Ấn Độ
Sau khi Phật tịch, đạo Phật được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc Ấn Độ. Để soạn thảo giáo lý, quy chế và chấn chỉnh về tổ chức, từ thế kỷ V-III TCN, đạo Phật đã triệu tập 3 cuộc đại hội ở nước Magađa, quốc gia lớn nhất ở Ấn Độ lúc bấy giờ. Từ nửa sau thế kỷ III TCN, tức là sau đại hội lần thứ ba, đạo Phật trước tiên được truyền sang Xri Lanca, sau đó truyền đến các nước khác như Myanma, Thái Lan, Inđônêxia...

Đến khoảng năm 100 sau CN, đạo Phật triệu tập đại hội lần thứ tư tại nước Cusan ở Tây Bắc Ấn Độ. Đại hội này thông qua giáo lý của đạo Phật cải cách, và phái Phật giáo mới này được gọi là phái Đại thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ gọi là phái Tiểu thừa.

Sự khác nhau chủ yếu giữa hai phái biểu hiện ở các mặt sau đây:

- Phái Tiểu thừa (Hinayana) nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hoặc “con đường cứu vớt hẹp” cho rằng chỉ có những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt.

Phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa là cỗ xe lớn hoặc “con đường cứu vớt rộng” thì cho rằng không phải chỉ những người tu hành mà cả những người trần tục quy y theo Phật cũng được cứu vớt.

- Phái Tiểu thừa cho rằng chỉ có Phật Thích Ca là Phật duy nhất. Việc cứu độ chúng sinh chỉ có Phật mới làm được, những người thường không thể thành Phật.

Phái Đại thừa cho rằng Phật Thích Ca là Phật cao nhất, nhưng ngoài Phật Thích Ca còn có nhiều Phật khác như Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư. Phật A Di Đà hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Tây. Phật Di Lặc là vị Phật tương lai sẽ nối nghiệp Phật Thích Ca để giáo hóa cõi đời này mà sách Phật gọi là cõi Ta bà (Saha) nghĩa là nơi khó chịu đựng. Phật Dược Sư ở cõi Tĩnh lưu ly ở phía đông thế giới chúng ta. Phật Dược Sư thường cứu giúp chúng sinh tai qua nạn khỏi.

Hơn nữa phái Đại thừa cho rằng ai cũng có thể thành Phật và thực tế đã có nhiều người đã đạt đến cõi Phật. Đó là các Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Địa Tạng... Tuy đã thành Phật, nhưng các Bồ tát không lên cõi Niết bàn mà tự nguyện ở lại cõi trần để cứu độ chúng sinh.

- Phái Tiểu thừa quan niệm Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền não khổ đau. Phật Thích Ca đã đạt đến cảnh giới Niết bàn vào năm 35 tuổi, sau đó Phật vẫn tiếp tục sống và hoạt động 45 năm nữa.

Phái Đại thừa thì quan niệm Niết bàn là thế giới của các Phật giống như thiên đường của các tôn giáo khác. Đồng thời với quan niệm đó, phái Đại Thừa còn tạo ra địa ngục, nơi đày đọa những kẻ tội lỗi.

Phái Đại thừa còn đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là kẻ trung gian giữa tín đồ và Bồ tát.

Từ đó, tượng Phật được tạc đúc rất nhiều, nghi thức cúng bái càng phức tạp, hương hoa cũng được sử dụng trong khi cúng Phật.

Sau đại hội Phật giáo lần thứ tư, các nhà sư càng được khuyến khích ra nước ngoài truyền đạo; do đó đạo Phật càng được truyền bá mạnh mẽ sang Trung Á và Trung Quốc. Những thế kỷ tiếp sau đó, đạo Phật suy yếu dần ở Ấn Độ, nhưng lại được phát triển ở phần lớn Châu Á và đã trở thành quốc giáo của một số nước như Xri Lanca, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào.

c) Đạo Jain (Jainisme, Kỳna)
Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Jain (Giainơ) là một người xuất thân từ đẳng cấp Ksatơrya ở ngoại ô thành Vaixali thuộc tỉnh Biha ngày nay. Sau khi đắc đạo, ông được các tín đồ gọi là Mihariva nghĩa là “Đại anh hùng”. Về niên đại có thuyết nói ông sinh năm 599 và chết năm 527 TCN, có thuyết nói ông sinh năm 549 và chết năm 477 TCN.

Năm Mihariva 30 tuổi, cha mẹ ông vì lòng tin tôn giáo đã nhịn ăn tự tử. Buồn rầu từ việc đó, ông từ bỏ gia đình và từ bỏ mọi tiện nghi kể cả quần áo, đi lang thang tu hành khổ hạnh ở miền Tây Bengan. Sau 13 năm, ông được các tín đồ của mình tôn là “Jina” nghĩa là khắc phục ham muốn và gọi tôn giáo do ông sáng lập là đạo Jain.

Đạo Jain chủ trương không thờ thượng đế vì họ cho rằng vũ trụ không phải do một đấng hóa công nào sáng tạo ra, nhưng lại thờ tất cả các thần thánh trong huyền thoại. Đồng thời họ cũng cho rằng vạn vật đều có linh hồn và cũng tán thành thuyết luân hồi. Chỉ có những linh hồn hoàn hảo nhất mới chấm dứt được vòng luân hồi, được giải thoát vĩnh viễn và được tồn tại một cách sung sướng ở Niết bàn.

Giới luật của đạo Jain cũng gồm có 5 điều chủ yếu:

- Không được giết bất cứ một sinh vật nào.

- Không nói dối.

- Không lấy bất kỳ một vật gì của kẻ khác nếu không phải là tặng phẩm.

- Không dâm dục.

- Không được tích lũy của cải quá nhiều. Phải sống khổ hạnh, từ chối mọi thú vui của xã hội.

Tín đồ đạo Jain thường thực hiện giới Luật đó một cách rất máy móc. Ví dụ để giữ đúng luật không sát sinh, họ kiêng cày ruộng để khỏi làm chết các sinh vật trong đất; kiêng ăn mật để khỏi làm hại đến đời sống của ong; kiêng lọc nước để khỏi làm chết các sinh vật nhỏ trong nước; mỗi lần bước chân đi đều phải quét sạch mặt đất phía trước để khỏi dẫm chết các sinh vật nhỏ ở trên đường v.v... Trái lại, đối với bản thân mình tín đồ đạo Jain phải thản nhiên trước cái chết tức là phải thắng được lòng ham sống, rồi đến một tuổi nào đó, họ chủ trương tuyệt thực tự tử.

Do quan niệm của đạo Jain về thế giới và nhân sinh như vậy nên đạo Jain chống lại uy quyền của kinh Vêđa, cho rằng lời trong kinh Vêđa không phải là lời dạy của Thượng đế vì đơn giản là không có Thượng đế. Đạo Jain cũng chống đạo Bàlàmôn và những hình thức cúng bái phiền phức của nó, đồng thời cũng chống chế độ đẳng cấp.

Đến khoảng thế kỷ I sau CN, đạo Jain chia thành hai phái: phái Svetambara là phái áo trắng và phái Đigambara là phái áo trời tức là khỏa thân. Về sau tín đồ phái Đigambara cũng mặc quần áo bình thường, chỉ có các đạo sĩ của họ thì hoàn toàn không mặc quần áo kể cả khi ra ngoài đường.

Đền thờ của đạo Jain mang tính chất quần thể, thường gồm nhiều ngôi đền giống nhau. Trong đền có rất nhiều cột, có đền có đến trên 1.000 cột. Đặc biệt là những cột ấy đều làm bằng đá cẩm thạch trắng và được chạm khắc rất đẹp và mỗi cột có một vẻ khác nhau.

Do đạo Jain là một tôn giáo khắt khe và có phần kỳ quặc nên truyền bá không được rộng rãi. Tuy vậy đạo Jain vẫn tồn tại ở Ấn Độ suốt chiều dài lịch sử và ngày nay số tín đồ chiếm khoảng 0,7% dân số Ấn Độ, tập trung chủ yếu ở miền Tây và Tây nam đất nước này.

d) Đạo Xích (Sikh)
Từ thế kỷ VIII, đạo Phật hoàn toàn suy, đạo Hinđu trở thành tôn giáo chủ yếu ở Ấn Độ. Cũng vào thời kỳ này, đạo Hồi bắt đầu được truyền vào Ấn Độ và từ thế kỷ XIII về sau thì trở thành tôn giáo có thế lực ở quốc gia này.

Dựa trên giáo lý của đạo Hinđu và đạo Hồi, đến cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, ở Ấn Độ xuất hiện một giáo phái mới gọi là đạo Xích. Chữ “Sikh” vốn bắt nguồn từ chữ Sishya nghĩa là “đệ tử”.

Người sáng lập đạo Xích là Nanac Đép (Nanak Dev, 1469-1538).

Đạo Xích chỉ tin vào một vị thần tối cao duy nhất, chống việc thờ các tượng thần. Họ phản đối sự cuồng tín của đạo Hinđu và đạo Hồi, không hành hương đến các con sông như đạo Hinđu.

Kinh thánh của đạo xích là Gran Sahep bao gồm tác phẩm của 10 giáo sĩ đạo xích cùng với kinh của đạo Hinđu và kinh của đạo Hồi. Ngôi đền thờ lớn nhất của đạo Xích là đền vàng ở bang Punjap.

Về mặt xã hội, đạo Xích chống chế độ đẳng cấp, thực hiện sự khoan dung và yêu mến mọi người, coi trọng sự mến khách, sẵn sàng giúp đỡ những người đến nương náu trong đền thờ của họ.

Đến thế kỷ XVII, giáo sĩ Gôbin Xinh bổ sung cho đạo Xích yếu tố vũ trang để đối phó với nạn khủng bố người theo đạo Xích. Từ đó tên của nam tín đồ đạo Xích đều có thêm chữ Xinh. Đồng thời giáo sĩ Gôbin Xinh quy định 5 đặc điểm của tín đồ đạo Xích là:

- Không cắt tóc, không cạo râu.

- Luôn luôn mang theo lược chải đầu bằng gỗ hoặc ngà.

- Mặc quần ngắn.

- Đeo vòng tay bằng sắt.

- Mang kiếm ngắn hoặc dao găm.

Ngày nay số tín đồ đạo xích chiếm khoảng 2% dân số Ấn Độ. Họ đòi tách bang Punjap khỏi Ấn Độ để thành lập một nước độc lập gọi là Khalixtan.

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 

Hanamizuki

New member
Xu
0
5. Tôn giáo
Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là đạo Bàlamôn về sau là đạo Hinđu và đạo Phật. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Jain, đạo Xích.

a) Đạo Bàlamôn - Đạo Hindu
  • Đạo Bàlamôn.
Trong thời kỳ đầu của thời Vêđa, quan niệm tín ngưỡng của người Ấn Độ còn mang nhiều dấu vết của thời nguyên thủy. Họ tin rằng vạn vật đều có linh hồn nên họ sùng bái rất nhiều thứ, sùng bái các hiện tượng tự nhiên, người chết và nhiều loài động vật...

Đến những thế kỷ đầu của thiên kỷ I TCN, do sự phát triển của xã hội có giai cấp và do sự không bình đẳng về đẳng cấp ngày càng sâu sắc, từ các hình thức tín ngưỡng dân gian dần dần đã tập hợp thành một tôn giáo lớn gọi là đạo Bàlamôn. Như vậy, đạo Bàlamôn là một tôn giáo không có người sáng lập, không có tổ chức giáo hội chặt chẽ.

Đạo Bàlamôn là một tôn giáo đa thần trong đó cao nhất là thần Brama. Đó là vị thần sáng tạo thế giới. Tuy vậy, có nơi cho thần Siva, vị thần phá hoại là thần cao nhất; có nơi lại cho thần Visnu, thần bảo vệ, thần ánh sáng, thần bốn mùa, thần làm cho nước sông Hằng dâng lên và làm mưa tưới cho ruộng đồng tươi tốt là vị thần cao nhất. Do vậy, đến những thế kỷ đầu công nguyên, đạo Bàlamôn chia thành hai phái là phái thờ thần Siva và phái thờ thần Visnu. Để thống nhất các phái đó, đạo Bàlamôn nêu ra quan niệm thần sáng tạo Brama, thần phá hoại Siva và thần bảo vệ Visnu tuy là ba nhưng vốn là một.

Ngoài ra, nhiều loài động vật như voi, khỉ và nhất là bò cũng là những đối tượng sùng bái của đạo Bàlamôn.

Trong giáo lý của đạo Bàlamôn có một nội dung rất quan trọng, đó là thuyết luân hồi. Đạo Bàlamôn giải thích rằng linh hồn của con người là một bộ phận của Brama mà Brama là một tồn tại vĩnh hằng, cho nên con người tuy có sống có chết, nhưng linh hồn thì còn mãi mãi và sẽ luân hồi trong nhiều kiếp sinh vật khác nhau. Những người giữ đúng luật lệ của tôn giáo và các quy tắc mà thần đã định sẵn cho mình thì kiếp sau sẽ được đầu thai thành người cao quý, trái lại thì sẽ càng khổ cực, thậm chí sẽ bị đầu thai làm chó lợn và những động vật bẩn thỉu.

Về mặt xã hội, đạo Bàlamôn là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ.

Trước khi đạo Bàlamôn ra đời, trong quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy của người Arya, chế độ đẳng cấp đã xuất hiện rồi. Đó là chế độ chia cư dân tự do thành 4 đẳng cấp: Braman, Ksatơrya, Vaisya, Suđra.

Braman (Bàlamôn) là đẳng cấp của những người làm nghề tôn giáo.

Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến sĩ.

Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân làm các nghề như chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán, một số nghề thủ công.

Suđra là đẳng cấp của những người cùng khổ, vốn là con cháu của các bộ lạc bại trận, không có tư liệu sản xuất.

Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ đẳng cấp là do sự phân hóa giai cấp, sự phân công về nghề nghiệp và sự phân biệt về bộ tộc. Nhưng các tăng lữ Bàlamôn thì dùng uy lực của thần linh để giải thích hiện tượng xã hội ấy. Ví dụ, luật Manu, một bộ luật về tập quán được hoàn thành vào khoảng đầu công nguyên chép:

“Vì sự phồn vinh của cả thế giới, từ mồm, tay, đùi và bàn chân của mình, ngài (thần Brama) đã tạo nên Braman, Ksatơrya, Vaisya và Sudra”.

Trong 4 đẳng cấp ấy, đẳng cấp Bàlamôn có địa vị cao nhất. Luật Manu viết: “Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của thân thể Brama, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Vêđa, Bàlamôn có quyền là chúa tể của tất cả các tạo vật ấy”.

Ngoài Bàlamôn, chỉ có hai đẳng cấp Ksatơrya và Vaisya mới được trở thành tín đồ của đạo Bàlamôn và cả ba đẳng cấp trên được quan niệm là những người sinh hai lần; còn Suđra không được dự các buổi lễ tôn giáo và được quan niệm là những người sinh một lần.

Đạo Bàlamôn đã truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ trong nhiều thế kỷ. Đến khoảng thế kỷ VI TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một tôn giáo mới là đạo Phật. Đạo Bàlamôn bị suy thoái trong một thời gian dài.

* Đạo Hindu (Ấn Độ giáo).

Sau một thời gian hưng thịnh, đến khoảng thế kỷ VII, đạo Phật bị suy sụp ở Ấn Độ. Nhân tình hình đó, đạo Bàlamôn dần dần phục hưng, đến khoảng thế kỷ VIII, IX đạo Bàlamôn đã bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế lễ... Từ đó, đạo Bàlamôn được gọi là đạo Hinđu, trước đây ta hay gọi là Ấn Độ giáo.

Đối tượng sùng bái chủ yếu của đạo Hinđu vẫn là ba thần Brama, Siva và Visnu.

Thần Brama được thể hiện bằng một hình tượng có 4 đầu để chứng tỏ thần có thể nhìn thấu mọi nơi. Bốn tập kinh Vêđa chính là được phát ra từ 4 cái miệng của thần Brama.

Thần Siva được thể hiện thành hình tượng có mắt thứ ba ở trên trán, luôn luôn cầm một cái đinh ba Siva thường cưỡi bò hoặc ngồi trên tấm da hổ, có những con rắn hổ mang quấn quanh cổ. Thần Siva là thần phá hoại những thứ mà thần Brama sáng tạo ra, nhưng Siva cũng có mặt sáng tạo. Sự sáng tạo ấy được thể hiện qua hình tượng linga - yoni mà nhân dân Ấn Độ sùng bái.

Liên quan đến thần Siva có nữ thần Kali (còn gọi là nữ thần Pácvati), vợ của thần Siva và thần Ganêxa, con trai của thần.

Nữ thần Kali (Pavacti) được thể hiện thành hình tượng một phụ nữ mặt đen, miệng há hoác, lưỡi lè ra. Nữ thần cũng trang sức bằng những con rắn, đeo hoa tai bằng xác đàn ông, chuỗi hạt là những sọ người, mặt và ngực bôi đầy máu. Thần có 4 tay, một tay cầm gươm, một tay cầm một đầu người, còn hai tay nữa thì đưa ra để ban phúc lành. Trước kia có khi phải giết người để tế thần Kali, về sau chỉ cúng bằng dê cái.

Thần Ganêxa tuy có hình thù kỳ dị đầu voi mình người nhưng đó là thần Trí tuệ và Thịnh vượng.

Thần Visnu được quan niệm là đã giáng trần 9 lần. Trong sáu lần đầu, thần xuất hiện dưới dạng các động vật như cá, lợn rừng... Đến lần thứ 7, thần Visnu chính là Rama, nhân vật chính trong sử thi Ramayana. Lần thứ 8, thần Visnu giáng thế thành thần Krisna. Thần Krisna thường bênh vực kẻ nghèo, chữa bệnh cho người mù, người điếc và làm cho người chết sống lại. Lần thứ 9, thần Visnu biến thành Phật Thích ca. Đây là một biểu tượng chứng tỏ đạo Hinđu có tiếp thu một số yếu tố của đạo Phật, đồng thời đây cũng là một thủ đoạn để đạo Hinđu thu hút các tín đồ đạo Phật cải giáo theo đạo Hinđu. Đến kiếp thứ 10 tức là lần giáng sinh cuối cùng, thần Visnu sẽ biến thành thần Kali. Đó là vị thần sẽ hủy diệt thế giới cũ tội lỗi, tạo dựng thế giới mới với đạo đức trong sáng.

Ngoài các vị thần nói trên, các loài động vật như khỉ, bò, rắn, hổ, cá sấu, chim công, vẹt, chuột v.v... cũng là các thần đạo Hindu, trong đó được tôn sùng hơn cả là thần khỉ và thần bò.

Thần khỉ Hanuman sở dĩ được tôn thờ vì có công giúp Rama (tức là Visnu) giết được quỷ Ravan để đưa Sita trở về quê hương. Vì vậy thần Hanuman được coi là thần Sức Mạnh và thần Trung Thành. Để cúng thần Hanuman người theo đạo Hinđu ăn chay vào ngày thứ ba hàng tuần. Hình thức ăn chay là ban ngày chỉ uống nước, tối mới được ăn.

Thần bò Kamđênu được thần Krisna (kiếp thứ 8 của Visnu) chăn dắt, suốt đời đi theo Krisna. Thần Kamđênu được quan niệm là do thần Brama tạo ra đồng thời với đẳng cấp Bàlamôn và được coi là mẹ của hầu hết các thần. Vì vậy, cho đến nay, bò được coi là một con vật thiêng liêng. Tín đồ đạo Hinđu không những kiêng ăn thịt bò mà còn không dùng những đồ dùng làm bằng da bò.

Đạo Hinđu cũng chia thành hai phái là phái thờ thần Visnu và phái thờ thần Siva.

Mỗi buổi sáng, tín đồ phái Visnu dùng son vẽ lên trán, còn tín đồ phái Siva thì bôi lên lông mày một vạch ngang bằng than phân bò cái hoặc đeo ở tay, ở cổ cái linga. Tuy nhiên hai phái đó vẫn đoàn kết với nhau và có khi cùng cúng tế trong một ngôi đền.

Đạo Hinđu cũng chú trọng thuyết luân hồi, cho rằng con người sau khi chết, linh hồn sẽ đầu thai nhiều lần. Mỗi lần đầu thai như vậy con người sẽ sung sướng hơn hay khổ cực hơn kiếp trước là tùy thuộc vào những việc làm của kiếp trước tức là quả báo (Karma).

Kinh thánh của đạo Hinđu, ngoài các tập VêđaUpanisát còn có Mahabharata, Bhagavad Gita, RamayanaPurana.

Mahabharata, Bhagavad Gita và Ramayana là những tập trường ca, còn Purana là tập truyện cổ nói về sự sáng tạo, sự biến chuyển và sự hủy diệt của thế giới.

Sau khi phục hưng, đạo Hinđu được các vương công Ấn Độ hết sức ủng hộ, do đó đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa nguy nga và ban cấp cho rất nhiều ruộng đất, có khi lên đến hàng nghìn làng.

Trong các chùa ấy đã tạc rất nhiều tượng thần để thờ. Các tượng thần đạo Hinđu thường có hình thù kỳ dị đáng sợ như nhiều đầu, nhiều mắt, nhiều tay... trong các chùa lớn có tới hàng nghìn tu sĩ Bàlamôn và hàng nghìn vũ nữ.

Khỉ tế lễ, các tu sĩ thường xoa dầu, xức nước hoa cho tượng, dùng thịt dê cùng các thức ăn uống khác để cúng thần. Trong khi cử hành lễ cúng, các thầy tu đọc kinh, còn các vũ nữ thì múa những điệu múa tôn giáo.

Về tục lệ, đạo Hinđu cũng hết sức coi trọng sự phân chia đẳng cấp. Đến thời kỳ này, do sự phát triển của các ngành nghề, trên cơ sở 4 đẳng cấp cũ (vama) đã xuất hiện rất nhiều đẳng cấp nhỏ mới gọi là jati.

Những đẳng cấp nhỏ này cũng có sự phân biệt về địa vị xã hội rất khắt khe, đóng kín về mọi mặt và đời đời cha truyền con nối. Đặc biệt đạo Hinđu hết sức khinh bỉ và ghê tởm tầng lớp lao động nghèo khổ phải làm các nghề bị coi là hèn hạ như quét rác, đồ tể, đao phủ, đốt than, đánh cá v.v... Những người làm các nghề đó bị coi là những người ô uế, không thể tiếp xúc được. Nếu những người sạch sẽ nhỡ đụng chạm vào họ thì phải tẩy uế. Nếu nhiễm uế nhẹ thì chỉ cần vẩy nước thánh là được; nếu nặng thì phải rửa bằng nước tiểu bò, thậm chí phải uống một thứ nước gồm 5 chất của bò cái: sữa lỏng, sữa đặc, bơ, nước tiểu và phân.

Đạo Hinđu còn duy trì lâu dài nhiều tục lệ lạc hậu như tảo hôn, vợ góa phải hỏa táng theo chồng. Nếu không tuẫn tiết thì phải cạo trọc đầu và ở vậy suốt đời không được tái giá. Ngày nay các tục lệ đó đều đã bãi bỏ.

Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thời kỳ đạo Phật thịnh hành, đạo Bàlamôn - đạo Hinđu là tôn giáo chủ yếu ở Ấn Độ. Tôn giáo này còn truyền bá sang một số nước Đông Nam Á, đặc biệt là Campuchia từ thời Ăngco về trước.

Ngày nay, ở Ấn Độ có khoảng 84% tổng số cư dân theo đạo Hinđu. Ngoài Ấn Độ, đa số dân Nêpan và đảo Bali ở Inđônêxia, gần 20% dân Bănglađét và Xri Lanca vẫn theo đạo Hinđu.

Ở nước ta, một bộ phận đồng bào Chăm cũng là tín đồ của đạo này, nhưng đó là một thứ đạo Bàlamôn - Hinđu đã sửa đổi nhiều.

b) Đạo Phật
Vào giữa thiên kỷ I TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện một số dòng tư tưởng chống đạo Bàlamôn. Đạo Phật là một trong những dòng tư tưởng ấy.


Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Phật là Xitđácta Gôtama (Siddharta Gautama), sau khi thành Phật được đệ tử tôn xưng là Xakia Muni (Thích ca Mâuni), con vua Sutđôđana nước Capilavaxtu ở chân núi Hymalaya, miền đất bao gồm một phần miền Nam nước Nêpan và một phần của Ấn Độ ngày nay.

Năm 29 tuổi, hoàng tử Xitđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của loài người. Đến năm 35 tuổi, Xitđácta đã nghĩ ra được cách giải thích bản chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau, do đó cho rằng đã tìm được con đường cứu vớt. Từ đó, ông được gọi là Buddha, ta quen gọi là Phật hoặc Bụt, nghĩa là “người đã giác ngộ”, “người đã hiểu được chân lý”.

Về niên đại của Phật, hiện nay đang có những ý kiến khác nhau. Có một số người cho rằng Phật sinh năm 563 và mất năm 483 TCN; một số người khác thì cho rằng Phật sinh năm 624 và mất năm 544 TCN. Tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu kỷ nguyên Phật giáo.

Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo được tóm tắt trong câu nói sau đây của Phật Thích ca: “Trước đây và ngày nay ta chỉ lý giải và nêu ra cái chân lý về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khô”. “Cũng như nước đại dương chỉ có một vị là mặn, học thuyết của ta chỉ có một vị là cứu vớt”.

Cái chân lý về nỗi đau khổ và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy được thể hiện trong thuyết “tứ thánh đế” hoặc còn gọi “tứ diệu đế”, “tứ chân đế”, “tứ đế”, nghĩa là 4 chân lý thánh. Đó là: khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.

Khổ đế là chân lý về các nỗi khổ. Theo Phật, con người có tám nỗi khổ (bát khổ): sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ mình không ưa, xa người mình yêu, cầu mà không được, giữ lấy 5 uẩn (thủ ngũ uẩn).

“Uẩn (skandha) là tập hợp, tích tụ. Đạo Phật cho rằng con người không có thực thể tự nó (vô ngã) mà chỉ là sự tập hợp 5 thứ: sắc (vật chất tạo thành thân thể), thụ (cảm giác), tưởng (quan niệm),hành (hành động), thức (nhận thức). Vì con người chỉ là sự tập hợp của 5 thứ đó, nên đó cũng là một nỗi khổ.

Như vậy, đối với con người, ngoài khổ đau vô tận, không có cái gì khác.

Tập đế là chân lý về nguyên nhân của các nỗi khổ. Nguyên nhân chủ yếu là luân hồi, mà nguyên nhân của luân hồi là nghiệp, sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn như ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang... Ham muốn không dứt thì nghiệp không dứt, nghiệp không dứt thì luân hồi mãi mãi.

Diệt đế là chân lý về sự chấm dứt các nỗi khổ. Nguyên nhân của khổ đau là luân hồi, vì vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt luân hồi. Muốn chấm dứt luân hồi thì phải chấm dứt nghiệp. Đó là một món nợ truyền từ kiếp này sang kiếp khác do lòng ham muốn tạo nên, do đó nói vắn tắt muốn chấm dứt luân hồi thì phải trừ bỏ hết mọi ham muốn.

Một khi đã chấm dứt được luân hồi thì sẽ được yên tĩnh, thanh thản, sáng suốt và như vậy đã đạt tới cảnh giới Niết bàn (Nirvana).

Đạo đế là chân lý về con đường diệt khổ tức là phương pháp thực hiện việc diệt khổ. Con đường đó gọi là “bát chính đạo” (8 con đường đúng đắn), gồm:

chính kiến: tín ngưỡng đúng đắn.

chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn.

chính ngữ: nói năng đúng đắn.

chính nghiệp: hành động đúng đắn.

chính mệnh: sống đúng đắn.

chính tịnh tiến: mơ tưởng những cái đúng đắn.

chính niệm: tưởng nhớ những cái đúng đắn.

chính định: tập trung tư tưởng ngẫm nghĩ đúng đắn.

Chung quy “bát chính đạo” là suy nghĩ, nói năng và hành động đúng đắn.

Về giới luật, tín đồ Phật giáo chủ yếu phải kiêng 5 thứ (ngũ giới):

không sát sinh.

không trộm cắp.

không tà dâm.

không nói dối.

không uống rượu.

Trong số đó, giới luật “không sát sinh” là không được giết người, còn giết các động vật thì luật cấm không khắt khe lắm. Phật giáo ban đầu không cấm tín đồ ăn thịt.

Tục tín đồ, nhất là các tăng ni phải ăn chay, không được ăn thịt động vật là do vua Lương Vũ đế (502-549) của Trung Quốc đặt ra vào thời kỳ đạo Phật thịnh hành ở nước này.

Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết duyên khởi. Duyên khởi là chữ nói tắt câu “chư pháp do nhân duyên nhi khởi” nghĩa là “các pháp đều do nhân duyên mà có”.

“Pháp” (dharma) là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần. Giáo lý của đạo Phật cũng là sự vật nên cũng gọi là “pháp”.

Còn nhân duyên là nguyên nhân, nhưng trong đó, nhân là nguyên nhân chủ yếu, duyên là nguyên nhân phụ. Ví dụ: Sở dĩ một cái cây có thể nảy mầm và phát triển được là nhờ có hạt giống, đất, nước, khí trời, ánh sáng, trong đó, hạt giống là nhân, đất nước, khi trời ánh sáng là duyên.

Như vậy, mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp mà thành. Nhưng duyên khởi do đâu mà có? Học thuyết Phật giáo giải thích rằng duyên khởi do tâm mà ra. Tâm là nguồn gốc của duyên khởi thì cũng là nguồn gốc của vạn vật.

Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương “vô tạo giả” tức là không có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ. Đây là một nội dung cơ bản mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo Bàlamôn và cũng là một sự khác biệt quan trọng giữa đạo Phật với nhiều tôn giáo khác.

Bên cạnh thuyết “vô tạo giả”, đạo Phật còn nêu ra các thuyết “vô ngã”, “vô thường”.

Vô ngã là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng chỉ là sự tập hợp của 5 uẩn sắc, thụ, tưởng, hành, thức chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài. Đây là nội dung thứ hai mà đạo Phật nêu ra để chống lại đạo Bàlamôn, vì đạo Bàlamôn chủ trương có bản ngã.

Vô thường là mọi sự vật đều ở trong quá trình sinh ra, biến đổi, tiêu diệt chứ không bao giờ được ổn định.

Như vậy, về thế giới quan, tuy đạo Phật ban đầu chủ trương vô thần (vô tạo giả) nhưng chung quy vẫn là duy tâm chủ quan.

Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp, vì đạo Phật cho rằng nguồn gốc xuất thân của mỗi người không phải là điều kiện để được cứu vớt. Mọi người, dù thuộc đẳng cấp nào một khi đã tu hành theo học thuyết của Phật thì đều trở thành những thành viên bình đẳng của một Tăng đoàn.

Đồng thời đạo Phật mong muốn có một xã hội trong đó vua thì có đạo đức và phải dựa vào pháp luật để trị nước, không được chuyên quyền độc đoán, còn nhân dân thì được an cư lạc nghiệp.

Như vậy, đạo Phật ban đầu là một học thuyết khuyên người ta phải từ bỏ ham muốn, tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt chứ không thừa nhận thượng đế và các vị thần bảo hộ, do đó không cần nghi thức cúng bái và cũng không có tầng lớp thầy cúng.

  • Sự phát triển của đạo Phật ở Ấn Độ
Sau khi Phật tịch, đạo Phật được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc Ấn Độ. Để soạn thảo giáo lý, quy chế và chấn chỉnh về tổ chức, từ thế kỷ V-III TCN, đạo Phật đã triệu tập 3 cuộc đại hội ở nước Magađa, quốc gia lớn nhất ở Ấn Độ lúc bấy giờ. Từ nửa sau thế kỷ III TCN, tức là sau đại hội lần thứ ba, đạo Phật trước tiên được truyền sang Xri Lanca, sau đó truyền đến các nước khác như Myanma, Thái Lan, Inđônêxia...

Đến khoảng năm 100 sau CN, đạo Phật triệu tập đại hội lần thứ tư tại nước Cusan ở Tây Bắc Ấn Độ. Đại hội này thông qua giáo lý của đạo Phật cải cách, và phái Phật giáo mới này được gọi là phái Đại thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ gọi là phái Tiểu thừa.

Sự khác nhau chủ yếu giữa hai phái biểu hiện ở các mặt sau đây:

- Phái Tiểu thừa (Hinayana) nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hoặc “con đường cứu vớt hẹp” cho rằng chỉ có những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt.

Phái Đại thừa (Mahayana) nghĩa là cỗ xe lớn hoặc “con đường cứu vớt rộng” thì cho rằng không phải chỉ những người tu hành mà cả những người trần tục quy y theo Phật cũng được cứu vớt.

- Phái Tiểu thừa cho rằng chỉ có Phật Thích Ca là Phật duy nhất. Việc cứu độ chúng sinh chỉ có Phật mới làm được, những người thường không thể thành Phật.

Phái Đại thừa cho rằng Phật Thích Ca là Phật cao nhất, nhưng ngoài Phật Thích Ca còn có nhiều Phật khác như Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, Phật Đại Dược Sư. Phật A Di Đà hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương Tây. Phật Di Lặc là vị Phật tương lai sẽ nối nghiệp Phật Thích Ca để giáo hóa cõi đời này mà sách Phật gọi là cõi Ta bà (Saha) nghĩa là nơi khó chịu đựng. Phật Dược Sư ở cõi Tĩnh lưu ly ở phía đông thế giới chúng ta. Phật Dược Sư thường cứu giúp chúng sinh tai qua nạn khỏi.

Hơn nữa phái Đại thừa cho rằng ai cũng có thể thành Phật và thực tế đã có nhiều người đã đạt đến cõi Phật. Đó là các Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Địa Tạng... Tuy đã thành Phật, nhưng các Bồ tát không lên cõi Niết bàn mà tự nguyện ở lại cõi trần để cứu độ chúng sinh.

- Phái Tiểu thừa quan niệm Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền não khổ đau. Phật Thích Ca đã đạt đến cảnh giới Niết bàn vào năm 35 tuổi, sau đó Phật vẫn tiếp tục sống và hoạt động 45 năm nữa.

Phái Đại thừa thì quan niệm Niết bàn là thế giới của các Phật giống như thiên đường của các tôn giáo khác. Đồng thời với quan niệm đó, phái Đại Thừa còn tạo ra địa ngục, nơi đày đọa những kẻ tội lỗi.

Phái Đại thừa còn đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là kẻ trung gian giữa tín đồ và Bồ tát.

Từ đó, tượng Phật được tạc đúc rất nhiều, nghi thức cúng bái càng phức tạp, hương hoa cũng được sử dụng trong khi cúng Phật.

Sau đại hội Phật giáo lần thứ tư, các nhà sư càng được khuyến khích ra nước ngoài truyền đạo; do đó đạo Phật càng được truyền bá mạnh mẽ sang Trung Á và Trung Quốc. Những thế kỷ tiếp sau đó, đạo Phật suy yếu dần ở Ấn Độ, nhưng lại được phát triển ở phần lớn Châu Á và đã trở thành quốc giáo của một số nước như Xri Lanca, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào.

c) Đạo Jain (Jainisme, Kỳna)
Theo truyền thuyết, người sáng lập đạo Jain (Giainơ) là một người xuất thân từ đẳng cấp Ksatơrya ở ngoại ô thành Vaixali thuộc tỉnh Biha ngày nay. Sau khi đắc đạo, ông được các tín đồ gọi là Mihariva nghĩa là “Đại anh hùng”. Về niên đại có thuyết nói ông sinh năm 599 và chết năm 527 TCN, có thuyết nói ông sinh năm 549 và chết năm 477 TCN.


Năm Mihariva 30 tuổi, cha mẹ ông vì lòng tin tôn giáo đã nhịn ăn tự tử. Buồn rầu từ việc đó, ông từ bỏ gia đình và từ bỏ mọi tiện nghi kể cả quần áo, đi lang thang tu hành khổ hạnh ở miền Tây Bengan. Sau 13 năm, ông được các tín đồ của mình tôn là “Jina” nghĩa là khắc phục ham muốn và gọi tôn giáo do ông sáng lập là đạo Jain.

Đạo Jain chủ trương không thờ thượng đế vì họ cho rằng vũ trụ không phải do một đấng hóa công nào sáng tạo ra, nhưng lại thờ tất cả các thần thánh trong huyền thoại. Đồng thời họ cũng cho rằng vạn vật đều có linh hồn và cũng tán thành thuyết luân hồi. Chỉ có những linh hồn hoàn hảo nhất mới chấm dứt được vòng luân hồi, được giải thoát vĩnh viễn và được tồn tại một cách sung sướng ở Niết bàn.

Giới luật của đạo Jain cũng gồm có 5 điều chủ yếu:

- Không được giết bất cứ một sinh vật nào.

- Không nói dối.

- Không lấy bất kỳ một vật gì của kẻ khác nếu không phải là tặng phẩm.

- Không dâm dục.

- Không được tích lũy của cải quá nhiều. Phải sống khổ hạnh, từ chối mọi thú vui của xã hội.

Tín đồ đạo Jain thường thực hiện giới Luật đó một cách rất máy móc. Ví dụ để giữ đúng luật không sát sinh, họ kiêng cày ruộng để khỏi làm chết các sinh vật trong đất; kiêng ăn mật để khỏi làm hại đến đời sống của ong; kiêng lọc nước để khỏi làm chết các sinh vật nhỏ trong nước; mỗi lần bước chân đi đều phải quét sạch mặt đất phía trước để khỏi dẫm chết các sinh vật nhỏ ở trên đường v.v... Trái lại, đối với bản thân mình tín đồ đạo Jain phải thản nhiên trước cái chết tức là phải thắng được lòng ham sống, rồi đến một tuổi nào đó, họ chủ trương tuyệt thực tự tử.

Do quan niệm của đạo Jain về thế giới và nhân sinh như vậy nên đạo Jain chống lại uy quyền của kinh Vêđa, cho rằng lời trong kinh Vêđa không phải là lời dạy của Thượng đế vì đơn giản là không có Thượng đế. Đạo Jain cũng chống đạo Bàlàmôn và những hình thức cúng bái phiền phức của nó, đồng thời cũng chống chế độ đẳng cấp.

Đến khoảng thế kỷ I sau CN, đạo Jain chia thành hai phái: phái Svetambara là phái áo trắng và phái Đigambara là phái áo trời tức là khỏa thân. Về sau tín đồ phái Đigambara cũng mặc quần áo bình thường, chỉ có các đạo sĩ của họ thì hoàn toàn không mặc quần áo kể cả khi ra ngoài đường.

Đền thờ của đạo Jain mang tính chất quần thể, thường gồm nhiều ngôi đền giống nhau. Trong đền có rất nhiều cột, có đền có đến trên 1.000 cột. Đặc biệt là những cột ấy đều làm bằng đá cẩm thạch trắng và được chạm khắc rất đẹp và mỗi cột có một vẻ khác nhau.

Do đạo Jain là một tôn giáo khắt khe và có phần kỳ quặc nên truyền bá không được rộng rãi. Tuy vậy đạo Jain vẫn tồn tại ở Ấn Độ suốt chiều dài lịch sử và ngày nay số tín đồ chiếm khoảng 0,7% dân số Ấn Độ, tập trung chủ yếu ở miền Tây và Tây nam đất nước này.

d) Đạo Xích (Sikh)
Từ thế kỷ VIII, đạo Phật hoàn toàn suy, đạo Hinđu trở thành tôn giáo chủ yếu ở Ấn Độ. Cũng vào thời kỳ này, đạo Hồi bắt đầu được truyền vào Ấn Độ và từ thế kỷ XIII về sau thì trở thành tôn giáo có thế lực ở quốc gia này.


Dựa trên giáo lý của đạo Hinđu và đạo Hồi, đến cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, ở Ấn Độ xuất hiện một giáo phái mới gọi là đạo Xích. Chữ “Sikh” vốn bắt nguồn từ chữ Sishya nghĩa là “đệ tử”.

Người sáng lập đạo Xích là Nanac Đép (Nanak Dev, 1469-1538).

Đạo Xích chỉ tin vào một vị thần tối cao duy nhất, chống việc thờ các tượng thần. Họ phản đối sự cuồng tín của đạo Hinđu và đạo Hồi, không hành hương đến các con sông như đạo Hinđu.

Kinh thánh của đạo xích là Gran Sahep bao gồm tác phẩm của 10 giáo sĩ đạo xích cùng với kinh của đạo Hinđu và kinh của đạo Hồi. Ngôi đền thờ lớn nhất của đạo Xích là đền vàng ở bang Punjap.

Về mặt xã hội, đạo Xích chống chế độ đẳng cấp, thực hiện sự khoan dung và yêu mến mọi người, coi trọng sự mến khách, sẵn sàng giúp đỡ những người đến nương náu trong đền thờ của họ.

Đến thế kỷ XVII, giáo sĩ Gôbin Xinh bổ sung cho đạo Xích yếu tố vũ trang để đối phó với nạn khủng bố người theo đạo Xích. Từ đó tên của nam tín đồ đạo Xích đều có thêm chữ Xinh. Đồng thời giáo sĩ Gôbin Xinh quy định 5 đặc điểm của tín đồ đạo Xích là:

- Không cắt tóc, không cạo râu.

- Luôn luôn mang theo lược chải đầu bằng gỗ hoặc ngà.

- Mặc quần ngắn.

- Đeo vòng tay bằng sắt.

- Mang kiếm ngắn hoặc dao găm.

Ngày nay số tín đồ đạo xích chiếm khoảng 2% dân số Ấn Độ. Họ đòi tách bang Punjap khỏi Ấn Độ để thành lập một nước độc lập gọi là Khalixtan.

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top