• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Lê Hoàn và bối cảnh định đô Thănh Long

Trong thực tế, sử sách của ta và Trung Quốc đều có ghi chép về trận quyết chiến chiến lược quan trọng này. Việt sử lược, tác phẩm khuyết danh thời Trần thế kỷ XIV chép: “Năm Tân Ty, năm đầu hiệu Thiên Phúc, mùa xuân tháng Ba (4-981), quân của Hầu Nhân Bảo đến Ngân Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng, vua (tức Lê Đại Hành - NMT), tự làm tướng đi chống Tống, sai người cắm cọc ngăn sông. Quân Tống lùi giữ Ninh Giang, vua sai trá hàng để dụ Nhân Bảo. Quân Tống thua, ta bắt chém Hầu Nhân Bảo, bọn Khâm Tộ nghe tin quân Bảo thua, liền rút lui” (1).

Đáng tiếc trong những dòng ghi chép trên đây, dịch giả Việt sử lược đã dịch nhầm từ Lãng Sơn thành Ngân Sơn. Điều này đã được Phó Giáo sư Trần Bá Chí phân tích khá kỹ trong luận văn khoa học Lãng Sơn, một vị trí quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (2).

Vấn đề này, cũng được Giáo sư Hà Văn Tấn tán đồng trong luận văn Lê Thánh Tông với Quảng Ninh như sau: “Có thể nói là tất cả các cuộc tấn công bằng đường thủy để xâm lược Việt Nam của người phương Bắc đều đi qua vùng biển Quảng Ninh. Chúng ta đã biết rõ cuộc hành binh của thủy quân Tống ở thời Lý và cuộc hành binh của thủy quân Nguyên ở đời Trần, với các chiến thắng của thủy quân Đại Việt ở vùng biển Quảng Ninh.

Ngay từ thời Lê Hoàn, năm 981, quân Tống cũng tiến theo đường này. Chỉ vì bản dịch Việt sử lược hiện có đã đọc nhầm chữ Lãng (Lãng Sơn) thành Ngân (Ngân Sơn), mà nhiều nhà sử học đã loay hoay tìm con đường tiến của Tống qua Bắc Thái (tức Bắc Cạn - NMT). Thực ra, Lãng Sơn là tên gọi một hòn núi gần Vạn Ninh của Quảng Ninh . . . “ (3).

Tống sử (Giao chỉ truyện) của Trung Quốc cũng chép về trận Bạch Đằng như sau: “Thái Bình hưng quốc năm thứ 6, tháng Ba, ngày Kỷ Mùi (28-4-981), Giao Châu hành doanh phá được 1.500 quân của Lê Hoàn ở sông Bạch Đằng. . . Đến khi Lưu Trừng đến thì Toàn Hưng cùng Lưu Trừng theo đường thủy đem quân đến thôn Đa La, nhưng nói không gặp giặc (tức chủ quân của Lê Đại Hành - NMT), lại trở về Hoa Bộ. Đến đây, Lê Hoàn giả vờ xin hàng để đánh lừa Nhân Bảo, Nhân Bảo liền bị giết chết” (4).


Như vậy, trận Bạch Đằng xảy ra lần thứ II trên dòng sông lịch sử này vào tháng 4-981 là một sự kiện hết sức trọng đại, đã được sử sách của ta và đối phương đều chú ý ghi lại.

Nhưng một vấn đề lâu nay luôn đặt ra đối với giới nghiên cứu khoa học, đó là đại bản doanh của vua Lê Đại Hành đóng ở đâu, để từ đó viết thư, cử người đến Ninh Giang, nơi đóng quân của quân Tống “giả vờ xin hàng đánh lừa Hầu Nhân Bảo”’ rồi bố trí binh lực, điều binh khiển tướng nhằm đánh tan giặc mạnh trên dòng sông Bạch Đằng lịch sử?

Vào khoảng cuối xuân năm 2000, nhận lời mời của các đồng chí lãnh đạo địa phương, chúng tôi đã trở về xã An Lạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương để nghiên cứu ngôi đền Cao và xác định lại các di tích liên quan tới Lê Đại Hành ở trong xã.

Sau một ngày điền dã gần hết địa bàn của xã, chúng tôi đã đi tới nhận định bước đầu: Địa điểm Đồng Dinh, bên cạnh khu danh thắng lịch sử Đền Cao, chính là khu vực đóng Đại bản doanh của Lê Đại Hành trong cuộc quyết chiến chiến lược trên sông Bạch Đằng xưa. Trên thực địa, “Đồng Dinh” là một cánh đồng bằng phẳng rộng chừng 25 - 30 mẫu Bắc Bộ. Đây là một điểm đóng quân khá lý tưởng, vì ba phía bắc, đông, nam đều có núi, có sông che chở, còn phía tây mở ra một hành lang rộng rãi, khiến cho “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” (tiến có thể đánh, lui có thể giữ).


___________________
(1) Việt sử lược. Nxb Văn Sử Địa, N. 1960: tr. 55, 56.
(2) Trần Bá Chí: Lãng Sơn, một vị trí quan trọng trong cutộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất. Tạp chí Khoa học - Đại học Tổng hợp Hà Nội. số 1 1985, tr. 59-64.
(3) Hà Văn Tấn: Lê Thánh Tông với Quảng Ninh, trong Núi Bài Thơ, lịch sử và danh thắng. Quảng Ninh - 1992.
(4) Tống sử - quyển Giao Chỉ truyện.
 
Nơi mà vua Lê Đại Hành chọn để đóng đại bản doanh nói trên rõ ràng đáp ứng những điều kiện tối cần thiết của một nơi đóng quân mà các bộ binh thư cổ của phương Đông chỉ dẫn. Sách Tôn Tử binh pháp ở thiên Hành quân có viết: “Phàm bố trí quân đội, phán đoán địch tình (cần theo những nguyên tắc sau đây): “Vượt qua núi, cần men theo chỗ thấp mà đi. Chiếm lĩnh vùng núi non, cần chọn những nơi cao hướng về mặt trời, cần dựa lưng vào mỏm cao chứ không đối diện với mỏm cao. Đó là nguyên tắc đóng quân ở vùng núi” (1).

Ngay trong thiên Đồn Trú, sách Binh thư yếu lược, cũng viết: “Phàm đóng quân thì phải dùng nơi sau cao, trước thấp, trông ra hướng sáng, quay lưng hướng tối, nuôi sống ở đủ nước lửa không lo, vận tải tiếp tế không trở ngại, tiến có thể đánh, lui có thể giữ. . .” (2).

Nghiên cứu nơi đóng đại bản doanh của vua Lê Đại Hành, chúng ta thấy nó “dựa lưng vào mỏm núi cao” là các ngọn Bàn Cung, Thiên Bồng, Đầu Giông, Cổ Vu và “trông ra hướng sáng” là hướng nam, phía xa có dòng Nguyệt Giang trong xanh, thoáng đãng.

Che chắn phía đông cho đại bản doanh là các ngọn núi như: Đồng Đò, Vọng Dứa, Đồng Ra và Cao Hiệu. Tất cả những núi non, gò đồi bao bọc ấy lại được dòng Nguyệt Giang và chi lưu của nó che chắn thêm khiến đại bản doanh của vua Lê Đại Hành có khả năng án binh, giấu quân làm cho quân Tống không thể tìm thấy được. Điều đó giải thích câu văn được chép trong Tống sử vừa nói ở trên: “Toàn Hưng và Lưu Trừng theo đường thủy đem quân đến thôn Đa La, nhưng nói không gặp giặc” (tức chủ quân và đại bản doanh của quân ta - NMT).

Đại bản doanh của vua Lê Đại Hành ở xã An Lạc, nếu đi theo đường thủy xuôi dòng Nguyệt Giang ra sông Kinh Thày để đến Bạch Đằng ước chừng 30km. Còn tính theo đường chim bay từ đây đến Bạch Đằng chỉ khoảng trên 20km. Đây là địa bàn đặt sở chỉ huy, có thể nói khá đắc địa trong điều kiện của cuộc chiến tranh dưới thời Trung cổ, cả hai bên tham chiến đều sử dụng vũ khí và phương tiện vận chuyển còn thô sơ.

Đồng Dinh (như tên gọi của nó) không phải là một di tích tồn tại đơn nhất, độc lập. Nó được nằm trong một quần thể di tích lịch sử làm chứng cứ khẳng định thêm cho vị trí đại bản doanh của vua Lê Đại Hành.

Xã An Lạc cùng với xã Tân Dân, thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương có vinh dự lưu giữ và bảo tồn những chứng tích quý giá đó cho chúng ta và muôn đời sau ở đây, những chứng tích liên quan tới đại bản doanh của vua Lê Đại Hành có thể chia làm hai loại: Những địa danh - lịch sử và các di tích đền, miếu, chùa. . .

Về những địa danh lịch sử của xã An Lạc và Tân Dân, hiện nay còn khá nhiều liên quan trực tiếp hoặc gợi ra cho ta những suy nghĩ về một địa bàn đóng sở chỉ huy khá lâu của một vị tướng tổng tư lệnh, vị hoàng đế thân chinh đi đánh giặc. Đó là:

Núi Cao Hiệu: núi sát với Bến Vạn, bên dòng Nguyệt Giang đổ ra sông Kinh Thày, tương truyền nơi cắm cờ và vọng gác tiền tiêu.

Nội Xưởng: Nơi tương truyền rèn, sửa vũ khí và phương tiện chiến đấu. Lò Văn: nơi một số viên quan từ hàn đi theo quân đội phụ trách việc văn thư làm việc.

Bàn Cung: nơi tương truyền vua Lê Đại Hành họp bàn việc quân với các tướng lĩnh dưới quyền.


____________________
(1) Tôn Ngô binh pháp. Nxb Công an nhân dân, N. 1994. bản dịch của Trần Ngọc Thuận. tr. 121
(2) Binh thư yếu lược. Nxb Khoa học xã hội, N. 1977, tr. 129.
 
Địa điểm Bàn Cung hiện nay còn lại vết tích trên núi Bàn Cung. Đây là quả núi chính mà đại bản doanh tựa vào. Đúng ra phải gọi là Hành Cung, nhưng vì tránh tên húy của vua Lê Đại Hành, nên đọc chệch ra là Bàn Cung. Trên lưng chừng quả núi này, cách mặt đất chừng 15 - 20 m, người ta bại núi ở hai bên để -dựng hành cung cho nhà vua và cũng làm nơi bàn bạc việc quân. Nền mỗi dãy hành cung còn lại ước chừng 1 sào Bặc Bộ (360m2).

Nền Bà Chúa: nơi ở của các vị nữ tướng. Núi Sơn Đụn: nơi tương truyền là kho quân lương của quân đội . . . về các di tích đền, miếu, đình, chùa thì ở xã An Lạc có thể nói khá nhiều như: đền Cao, đền Bến Tràng, đền Bến Cả, đền Cả, chùa Nguyệt, chùa Sơn Đụn. . . Có một điều đáng lưu ý hầu hết các ngôi đền nói trên đều thờ các vị tướng tham gia cuộc kháng chiến chống Tống năm 981 do vua Lê Đại Hành lãnh đạo.

Trong số các di tích lịch sử đó, đáng chú ý hơn cả cần nói đến khu Đền Cao mà phần trên chúng tôi đã có dịp nhắc tới. Đền Cao được xây dựng trên đỉnh ngọn Thiên Bồng, có độ cao 47m so với mặt biển. Đền tọa lạc trên bãi đất bằng phẳng rộng ước chừng 5.414 m2. Cảnh đền Cao trên núi Thiên Bồng luôn gợi cho du khách một cảm giác u tịch, thanh vắng. Phải chăng chính vì vậy, núi được đặt tên với ý nghĩa “cảnh tiên bồng lai trên thiên giới?”. Phủ kín quả núi và xung quanh đền Cao là 54 cây lim cổ, tuổi ước cũng vài trăm năm, càng tôn thêm vẻ tĩnh mịch của chốn danh thắng được mệnh danh là nơi tách khỏi bụi trần này.

Bản Ngọc phả hiện còn lưu giữ tại đền Cao là do Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và được vị Thiếu khanh Nguyễn Hiền giữ chức Quản giám bách thần sao lại vào năm Vĩnh Hựu thứ ba (1737) cho biết: Vị thần được thờ ở đây là họ Vương, húy là Đức Minh. Cũng theo Ngọc phả, trong cuộc kháng chiến chống Tống vào mùa xuân năm Tân Tỵ (981), vua Lê Đại Hành đã đem quân về lập đại bản doanh tại An Lạc. Bấy giờ An Lạc, còn có tên là Dược Đậu trang thuộc đất Bàng Châu, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương.

Ở Dược Đậu trang có 5 anh chị em họ Vương tham gia quân đội đánh giặc cứu nước. Sau khi dẹp xong giặc Tống tàn bạo, bà chị cả là Vương Thị Đào được phong làm Đào Hoa Trinh Thuận công chúa, bà chị thứ hai là Vương Thị Liễu làm Liễu Hoa Linh ứng công chúa. Người em trai thứ ba là Vương Đức Minh được phong làm Thiên Bồng Đại tướng quân đại vương, ông thứ tư là Vương Đức Xuân làm Dực Thánh Dũng Mãnh đại vương, ông thứ năm là Vương Đức Hồng làm Anh Vũ Dũng Lược đại vương.

Người em thứ ba là Vương Đức Minh được thờ tại đền Cao, còn các em trai, chị gái ông được thờ ở các đền như đền Bến Tràng, đền Bến Cả, đền Cả. . .

Trong đền Cao còn treo 13 bộ câu đối gỗ sơn son thiếp vàng, nội dung phần lớn nói lên tấm lòng ngưỡng mộ của khách thập phương đối với tướng Vương Đức Minh “sinh vi tướng, tử vi thần” được thờ ở đền. Tinh thần bao trùm lên các câu đối ở đền là ca ngợi khí thế hào hùng của quân đội thời Tiền Lê dưới sự chỉ huy của chủ soái Lê Đại Hành và các danh tướng của ông. Chúng ta thử đọc lại một hai câu dưới đây:

“Quyền chưởng trung hoa thảo tặc đại danh thuỳ vũ trụ;
Đại lao thánh giá, phù Lê chính khí đối càn khôn”.

Nghĩa là:

“Quyền giữ quốc gia, giết giặc lưu danh cùng vũ trụ;
Tôn phò thánh giá, giúp Lê chính khí sánh càn khôn”.

Thực là tràn đầy khí thế và sáng ngời chính nghĩa, hay câu sau:

“Nhạc giáng duy thần, khước Tống anh danh trường lẫm liệt,
Tinh di kỷ độ, Tiền Lê hiển miếu túc thanh cao”.
Nghĩa là:

Sơn nhạc giáng thần, phá Tống anh uy còn lẫm liệt
Đổi thay mấy độ, Tiền Lê miếu dựng vẫn uy nghi.
 
Những câu đối còn lại ở đền Cao hay ở đền Bến Cả. đền Cả đền bến Tràng tại xã An Lạc, huyện Chí Linh dường như nhàm nhắc nhở chúng ta nhớ về lịch sử xa xưa, thời đại mà vị vua anh hùng “phá Tống, bình Chiêm” Lê Đại Hành cùng quân dân thời Tiền Lê viết nên những trang sử dựng nước và giữ nước thật oai hùng.

Vào ngày 15-2-2001 , tại thành phố Hải Dương, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương tổ chức Hội thảo khoa học về An Lạc (Chí Linh) - đại bản doanh của vua Lê Đại Hành trong cuộc kháng chiến chống xâm lược năm 981.

Hội thảo đã nhận được sự hưởng ứng tham gia nhiệt thành của nhiều nhà sử học ở Viện Sử học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Lịch sử Quân sự, Đại học Quốc gia Hà Nội. . . và ở các tỉnh: Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh. . .

Qua Hội thảo, các nhà sử học có mặt đã thống nhất ý kiến rằng Địa điểm Đồng Dinh chính là nơi đóng đại bản doanh của vua Lê Đại Hành vào mùa xuân năm Tân Ty (981). Kết luận của cuộc Hội thảo này đi tới một kết quả rất có ý nghĩa: Lãnh đạo và nhân dân tỉnh Hải Dương đã cho xây dựng một ngôi đền thờ vua Lê Đại Hành trên ngọn núi Bàn Cung lịch sử.

Tháng 2-2002, tượng vua Lê Đại Hành đã được đúc xong, bằng chất liệu đồng, nặng 500kg, lấy nguyên mẫu tượng Lê Đại Hành ngồi trên ngai ở đền Vua Lê tại cố đô Hoa Lư và đã được làm lễ an vị tại đền. Ngôi đền ấy đã chính thức được hoàn thành vào mùa xuân Ất Dậu (2005) này. Đó chính là tấm lòng tri ân của hậu thế chúng ta đối với bậc tiền nhân, vua Lê Đại Hành anh kiệt.





LÊ HOÀN VÀ CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG NĂM 981


PGS. TS. Nguyễn Quang Ngọc
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển

Lê Hoàn sinh năm 941 tại Trường Châu (Thanh Liêm, Hà Nam) , (1) trong một gia đình nghèo khó, cha mẹ mất sớm, phải làm con nuôi cho gia đình viên quan sát họ Lê làng Mía (Thọ Xuân, Thanh Hoá). Lớn lên Lê Hoàn biết tiếng cha con Đinh Bộ Lĩnh nổi lên ở Hoa Lư đã theo giúp Đinh Liễn và tỏ ra là người phóng khoáng, có chí lớn, được Đinh Bộ Lĩnh rất mực tin yêu. Lê Hoàn là một trong những người có công đầu trong sự nghiệp dẹp loạn mười hai sứ quân, thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh.

Năm 971, ông là một trong những người đầu tiên được vua Đinh chọn vào hàng trụ cột của triều đình với chức Thập đạo tướng quân, đặc trách tổng chỉ huy quân đội. Sau sự biến tháng 10 năm 979, Lê Hoàn càng tỏ rõ vai trò trụ cột của vương triều Đinh với cương vị Phó vương nhiếp chính, ông không chỉ là người tận tuỵ dạy dỗ và nâng đỡ vua Đinh thơ ấu, mà còn là trung tâm quy tụ mọi nguồn sức mạnh của đất nước.


_______________________
(1) Có tài liệu chép là Ái Châu (Thanh Hoá ). nhưng ở đây chúng tôi tin theo Đại Việt sử lược là bộ sử đời Trần, được viết gần với thời Lê Hoàn nhất.
 
Được tin quân Tống sắp kéo sang xâm lược, Dương thái hậu “sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cự Lạng làm Đại tướng quân” (1). Trong khi triều đình đang họp bàn kế hoạch đánh giặc thì Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân khác yêu cầu tôn lập Lê Hoàn làm hoàng đế trước khi xuất quân. Lê Hoàn lúc này là người duy nhất trong triều đình Hoa Lư hội đủ được uy tín và tài năng, tinh thần và lực lượng bảo vệ và gìn giữ nền độc lập dân tộc, nền thống nhất đất nước trước cuộc tiến công xâm lược của nhà Tống.

Dương thái hậu nhận rõ thực tế này và đã phó thác toàn bộ vận mệnh của đất nước và triều đình Hoa Lư vào tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. “Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi hoàng đế, (2). ông lên ngôi hoàng đế lúc này là chấp nhận một sự phó thác nghiệt ngã của lịch sử, trước hết vì sự tồn vong của giống nòi, của chính sự nghiệp thống nhất đất nước cao cả mà vua Đinh Tiên Hoàng vừa khởi dựng.

Lên ngôi hoàng đế trong khung cảnh đất nước đang lâm nguy, Lê Hoàn lập tức lao vào tổ chức kháng chiến chống quân xâm lược Tống. Triều Tiền Lê trên thực tế là sự tiếp nối triều đình nhà Đinh. Lê Hoàn vẫn giữ nguyên tên nước là Đại Cồ Việt, vẫn cho tu sửa, gia cố thêm kinh thành Hoa Lư. Ông quyết định đổi niên hiệu là Thiên Phúc và lấy năm 980 là năm Thiên Phúc nguyên niên, giáng phong Đinh Toàn làm Vệ vương (thực chất là cho Đinh Toàn trở lại tước cũ, đã được nhận phong từ vua cha Đinh Tiên Hoàng hai năm trước) và vẫn lấy danh nghĩa Vệ vương của Đinh Toàn trong quan hệ bang giao với nhà Tống.

Triều đình Hoa Lư, chỉ trừ Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp kiên quyết chống lại Lê Hoàn ngay từ sau khi Đinh Tiên Hoàng qua đời, còn tất cả đều tôn phò ông, tập hợp xung quanh ông trong sự nghiệp đánh giặc, giữ nước cao cả. Lê Hoàn nêu cao ngọn cờ đoàn kết, khai thác, tập hợp và sử dụng toàn bộ tập thể triều đình nhà Đinh vào trong vương triều mới của mình.

Dương thái hậu, người đại diện cho cả hai dòng họ Đinh và họ Dương vẫn tiếp tục ngồi lại trong triều và chăm lo việc quân lương. Đại tướng quân Phạm Cự Lạng vẫn là tướng chỉ huy cao nhất. Các nhà sư Ngô Chân Lưu, Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh vẫn tiếp tục làm cố vấn cho Lê Hoàn dự bàn mưu kế. Hồng Hiến là người phương Bắc được Lê Hoàn tin dùng, phong làm Thái sư, giúp vua về mưu lược đánh Tống. Tất cả đều đặt dưới quyền Tổng chỉ huy của Lê Hoàn và đã sẵn sàng vào trận.

Một mặt quân dân Đại Cồ Việt chủ động sẵn sàng đánh bại quân xâm lược Tống bất cứ lúc nào khi chúng xâm phạm bờ cõi, nhưng mặt khác Lê Hoàn rất cần thời gian vật chất để hoàn tất công việc chuẩn bị. Đề phòng cả việc bị bất ngờ tấn công từ mặt nam, ông sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chăm Pa thăm dò tình hình và đặt quan hệ hoà hiếu (3).

Trước tối hậu thư của vua Tống, ông cử ngay người sang Trung Quốc tìm mòi cách “để hoà hoãn tình thế”, kích thích thêm tính chủ quan kiêu ngạo của quân Tống và tranh thủ thời gian chuẩn bị thêm lực lượng.

Cuối năm 980, theo kế hoạch tốc chiến, bất ngờ, 3 vạn quân Tống theo hai đường thuỷ bộ dưới sự chỉ huy của Hầu Nhân Bảo ồ ạt xâm lược Đại Cồ Việt. Sử sách chép về các cánh quân bộ và diễn biến chiến trận có nhiều mâu thuẫn nên cho đến nay trong giới nghiên cứu vẫn còn tồn tại nhiều cách lý giải khác nhau về việc tổ chức kháng chiến của Lê Hoàn. Một vấn đề hết sức mấu chốt cần phải làm rõ là liệu có phải Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng tấn công vào nước ta theo đường Lạng Sơn như một số bộ sử của ta chép hay không?


______________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư. T 1. bản dịch. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993 . tr 217.
(2) Như trên, tr 217.
(1) Đại việt sử ký toàn thư, T 1, bản dịch. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội, 1993, tr, 222.
 
Điều dễ dàng nhận thấy là tuyến đường từ Trung Quốc sang nước ta qua Lạng Sơn xuống Quỷ Môn Quan tuy đã được mở từ trước thế kỷ X, nhưng chưa bao giờ được sử dụng cho các cuộc hành quân, chuyển quân lớn. Đặng Xuân Bảng trong sách Sử học bị khảo cho biết khá cụ thể: “Con đường từ Thăng Long lên bắc, sang Trung Quốc, đời Đinh, đời Lê về trước đi qua Quảng Yên (......). Đời Lý về sau có khi đi đường Quảng Yên, có khi đi đường Lạng Sơn (đường Lạng Sơn bắt đầu từ năm Thuận Thiên thứ 9 đời Lý (1018) sai Phí Trí đi Quảng Tây đón kinh Tam Tạng, về sau Doãn Tử Tư, Nghiêm Thường cũng đi đường này)” (1).

Con đường bộ truyền thống mà các triều đại Trung Quốc tiến đánh nước ta suốt nghìn năm bắc thuộc vẫn chỉ là con đường ven biển Đông bắc. Sách Thái Bình hoàn vũ ký của Nhạc Sử đời Tống xác định rõ Quỷ Môn Quan ở cách huyện Bắc Lưu 30 dặm và đời nhà Tấn ai đi sang Giao Chỉ cũng đều phải qua đấy. Nhà bác học Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII làm sách Vân đài loại ngữ cho rằng: “Nay xét huyện Bắc Lưu gần châu Tân Yên thuộc tỉnh Yên Quảng của nước ta, Quỷ Môn Quan này phải ở chỗ ấy. Nay tục truyền nói cửa Quỷ Môn Quan ở xã Bình Lang thuộc châu ôn, tỉnh Lạng Sơn là sai” (2).

Như thế hoàn toàn có đủ cơ sở để khẳng định rằng đoàn quân bộ của nhà Tống vào nước ta, xuất phát từ Quảng Đông (Trung Quốc) men theo đường bờ biển tiến vào địa đầu Quảng Ninh, qua vùng Đông Triều, Phả Lại rồi tiến xuống trung tâm châu thổ sông Hồng (3). Trên đường tiến quân Hầu Nhân Bảo dừng lại ở núi Lãng Sơn đúng như sách Đại Việt sử lược chép “quân Hầu Nhân Bảo đến đóng ở núi Lãng Sơn (4).

Vị trí cụ thể của Lãng Sơn có lẽ còn phải được khảo cứu kỹ thêm, tuy nhiên tìm Lãng Sơn trên con đường bộ men theo bờ biển Đông Bắc vẫn theo “con đường của những kẻ xâm lược” hằng đi suốt thời kỳ Bắc thuộc như một số nhà nghiên cứu gần đây chủ trương là hoàn toàn có cơ sở. Điều đáng lưu ý là khu vực Vạn Kiếp thời thuộc Đường là Lãng Châu (5), có nhiều thông tin để dự đoán khu vực Vạn Kiếp, Lục Đầu Giang có liên quan mật thiết đến vùng chiến trường Lãng Bạc thời Trưng vương.

Mục tiêu số một của cuộc tiến quân của quân Tống là kinh đô Hoa Lư và con đường tiến quân chủ yếu của cả hai đạo quân thuỷ bộ là con đường men theo bờ biển vào khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương. Hai đạo quân này đều đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của Hầu Nhân Bảo và luôn luôn tìm cách phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau, tạo thành nguồn sức mạnh tuyệt đối để có thể đánh thật nhanh, giải quyết thật nhanh.

Chặn địch trên cả hai tuyến thuỷ, bộ trên vùng đất địa đầu miền Đông Bặc, phá tan âm mưu phối hợp hai đạo quân thuỷ bộ và kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Hầu Nhân Bảo là công việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của toàn bộ cuộc kháng chiến.


_______________________
(1) Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo, bản dịch Nxb Văn hoá thông tin, N. 1997. trg.246. Về con đường truyền thống của các triều đại Trung Quốc tiến đánh nước ta: Đặng Xuân Bảng cũng thống nhất cho rằng: “Vì từ đời Hán về sau (Trung Quốc dụng binh ở Giao Châu thường dùng thuỷ quân từ Khâm Châu ra biển, vào Quảng Yên, thẳng vào sông Lục Đầu tỉnh Hải Dương, đến Bắc Ninh...” (Sử học bị khảo. Sđd. tr 261)
(2) Lê Quý Đôn : Vân đài loại ngữ, T 1. quyển 3 , bản dịch của Tạ Quang Phát. Sài Gòn 1972, tr. 212.
(3) Tham khảo C.L.Madrone: Xứ Bắc kỳ cổ đại (trích dịch BEFEO tập XXXVIII (1937) trang 263. Tư liệu khoa Sử. Đại học Quốc gia Hà Nội. TL 170.
(4) Đại Việt sử lược (bản chữ Hán do Trần Kinh Hoà biên khảo, giới thiệu). trg. 44. Sách chép rõ chừ “lãng” nghĩa là sóng nước, gồm bộ chấm thuỷ bên chữ lương. Lưu ý có mộl số bản chép nhầm là Ngân Sơn hay Lạng Sơn.
(5) Trần Phu (sứ thần nhà Nguyên) trong An Nam tức sự chép Vạn Kiếp là Lãng Châu thời thuộc Đường. Nhiều nguồn tư liệu di tích và truyền thuyết cho phép dự đoán khu vực Lãng Châu (Kiếp Bạc - Lục Đầu Giang) cũng có thể là Lãng Sơn (hay Lạng Sơn trong một số bộ sử cũ của ta) - nơi Hầu Nhân Bảo đóng quân là vùng Lục Đầu Giang.
 
Tuy nhiên tuyến phòng thủ vòng ngoài này chỉ có thể hoàn thành được sứ mệnh của nó nếu nó gắn bó một cách hữu cơ với các tuyến phòng thủ ở trung tâm châu thổ sông Hồng và phòng thủ trực tiếp ở kinh đô Hoa Lư. Các tuyến phòng thủ này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tương hỗ cho nhau, cùng triệt để khai thác mặt thuận lợi của địa hình sông nước và sự tham gia đóng góp của toàn dân trên địa bàn căn bản của đất nước là vùng châu thổ sông Hồng.

Dù là có chức năng bảo vệ vòng ngoài, vòng giữa hay vòng trong thì các tuyến phòng thủ này đều là các tấm áo giáp che chắn cho kinh đô Hoa Lư. Để có thể chặn đứng và đánh bại quân địch trên cả hai tuyến thuỷ, bộ ở vùng đất địa đầu miền Đông Bặc, Lê Hoàn đã bố trí lực lượng dọc theo tuyến sông Bạch Đằng, Kinh Thày kéo dài cho đến vùng Lục Đầu Giang, trong đó lực lượng tập trung cao nhất ở vùng cửa biển Bạch Đằng là nơi đoàn thuyền chiến của quân Tống vừa mới từ biển tiến vào và vùng Lục Đầu Giang là nơi hợp điểm của hai đoàn quân thuỷ, bộ.

Vì ý thức được vị trí trọng yếu của toàn tuyến phòng thủ từ cửa sông Bạch Đằng cho đến Lục Đầu Giang nên Lê Hoàn đã trực tiếp chỉ huy các cuộc chặn đánh quân Tống ở đây.

Tại vùng cửa biển Bạch Đằng, học tập kinh nghiệm của Ngô Quyền hơn 40 năm trước, Lê Hoàn đã cho bố trí trận địa cọc ở cửa sông. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: mùa xuân, tháng 3, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn (Lãng Sơn), Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua (tức Lê Hoàn) tự làm tướng đi chặn giặc, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông” (1).

Sách Việt sử thông giám cương mục cũng chép tương tự như vậy nhưng có phần cụ thể hơn:“Tháng 3, mùa xuân. Quân Tống xâm lược. Nhà vua tự làm tướng, đánh bại quân địch. Bấy giờ quân Tống chia đường sang xâm lấn: Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng tiến đến Lạng Sơn (Lãng Sơn); Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến sông Bạch Đằng. Nhà vua tự làm tướng ra kháng chiến: sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch. . .” (2).

Cửa sông Bạch Đằng là cửa ngõ yết hầu từ phương Bắc vào nước ta. Càng ngược về xa xưa nó càng có vị trí kỳ cực kỳ quan trọng. Các nhà địa lý học lịch sử đời Nguyễn biên soạn bộ sách Đại Nam nhất thống chí đã nhận xét rất xác đáng rằng: ‘nước ta khống chế người Bắc, sông này là chỗ cổ họng” (3).

Từ cửa biển Bạch Đằng dùng thuyền có thể tiến sâu vào nội địa bằng cả hai đường sông Cấm và sông Bạch Đằng. Thậm chí ở vào thời điểm cách ngày nay hơn chục thế kỷ, khi Đồ Sơn còn đang là đảo giữa biển cả mênh mông, thuyền vào cửa biển Bạch Đằng có thể dễ dàng cắt đường chạy qua Kiến Thuỵ Tiên Lãng đến sông Thái Bình rồi theo dòng sông Luộc để đi vào vùng hạ châu thổ sông Hồng (4).

Chúng tôi dự đoán vùng trận địa ngăn chặn quân Tống của Lê Hoàn không thể nằm ngoài khu vực trung lưu và hạ lưu sông bạch Đằng hiện nay - nghĩa là không cách xa trận địa của Ngô Quyền năm 938. Điểm khác nhau chủ yếu trong việc bố trí lực lượng ở cửa sông Bạch Đằng giữa Lê Hoàn và Ngô Quyền chính là Ngô Quyền đã dồn toàn bộ lực lượng ra cửa sông Bạch Đằng đánh một trận quyết định kết thúc chiến tranh, còn ngoài việc chặn địch ở cửa sông Bạch Đằng, Lê Hoàn không thể không căng sức ra đối phó với các cánh quân của Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ tiến theo đường bộ và sẵn sàng phối hợp với cánh quân thuỷ của Lưu Trừng ở khu vực Lục Đầu Giang.


____________________
(1) Đại việt sử ký toàn thư. T.1. Sđd, tr 220- 221 .
(2) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, T.1, Sđd, tr 251.
(3) Đại Nam nhất thống chí, T.4, bản dịch Nxb Khoa học xã hội, H. 1971, trg. 25.
(4) Đặng Xuân Bảng trong Sử học bị khảo mô tả đường đi của Tống Cảo như sau: “Lúc bấy giờ sứ nhà Tống từ sông Bạch Đằng huyện Thuỷ Đường (tỉnh Hải Dương) vào sông Tranh (Vĩnh Lại) sang sông thuộc tỉnh Hưng Yên, xuống sông Châu Cầu Hà Nội. (sông Châu Cầu ở Lý Nhân) để vào Hoa Lư”. Đây cũng chính là con đường giao thông huyết mạch mà mãi đến thế kỷ XVII. XVIII. người phương Tây đến làm ăn buôn bán ở nước ta vẫn gọi chung là sông Đàng Ngoài với ý nghĩa là đường giao thương quan trọng nhất của toàn bộ khu vực Đàng Ngoài cho đến lúc bấy giờ.
 
Nguồn tư liệu chính sử chỉ cho biết Lê Hoàn tự làm tướng ra sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng mà không chép các hoạt động cụ thể của ông. Bổ sung cho sự nghèo nàn của nguồn tư liệu chính sử là các di tích và truyền thuyết dân gian trong vùng. Thần tích đình làng Thường Sơn huyện Thuỷ Đường (Thuỷ Nguyên) có chép: “Lê Đại Hành đem quân đến chợ phướn, đóng đồn ở gò đất cao trang Thường Sơn. Vua truyền hịch tuyển quân thu lương, được dân chúng nô nức hưởng ứng. Có gia đình họ Phạm ở Thường Sơn, cả 4 anh em kéo đến cửa doanh tình nguyện tòng quân giết giặc, vua rất cảm phục và thu dụng”.

Nhân dân địa phương còn cho biết khi Lê Hoàn đến đây tìm đất đặt hành doanh có thần linh phù hộ và tiến cử 4 anh em người họ Phạm nên mới gọi ngôi miếu cổ ở xóm Trại là miếu Phù Linh. Hành doanh của Lê Hoàn là khu chợ Phướn, nay đã thành khu dân cư xóm Đồng Mát thôn Thuỷ Tú, xã Thuỷ Đường. Chợ Phướn là ngôi chợ lớn của cả vùng, trên bến dưới thuyền tấp nập. Khu vực Bến Thuyền đến nay vẫn còn lạch nước và rất nhiều mảnh sành, mảnh vại. Xưa lạch nước này là sông thông với sông Bạch Đằng và phía ngoài cánh đồng là biển. Truyền thuyết địa phương còn coi Lê Hoàn là người con cầu tự của chùa Linh Sơn thuộc thôn Mỹ Cụ xã Chính Mỹ huyện Thuỷ Nguyên.

Ông thông thạo vùng sông nước Bạch Đằng và đã chọn vùng này làm nơi chỉ huy công việc bố phòng cửa biển cũng là điều dễ hiểu. Cũng không phải ngẫu nhiên mà khu vực huyện Thuỷ Nguyên là nơi tập trung dầy đặc các di tích và truyền thuyết về những người con anh hùng của quê hương trực tiếp đi theo Lê Hoàn đánh trận Bạch Đằng. Sự thống nhất giữa các nguồn tư liệu thư tịch cổ chính sử với các di tích và truyền thuyết dân gian vùng Thuỷ Nguyên Hải Phòng cho phép hình dung khu vực Thuỷ Đường, núi Đèo, huyện Thuỷ Nguyên là nơi Lê Hoàn đóng đại bản doanh trong quá trình chuẩn bị đón đánh quân xâm lược Tống, một chỉ huy sở tiền tiêu ở vùng cửa biển Bạch Đằng năm 981.

Tuy nhiên chắc chắn trong suốt quá trình chỉ huy kháng chiến không phải Lê Hoàn chỉ đóng đại bản doanh cố định ờ Thuỷ Đường và khu vực Núi Đèo. Nếu xét về địa thế và đặt trong các mối tương quan trong toàn bộ kế hoạch tác chiến, phải cùng một lúc đón đánh cả hai đạo quân thuỷ bộ tiến vào vùng Đông Bắc thì ông không thể không cơ động chuyển dịch chỉ huy sở đến những địa điểm an toàn hơn mà lại phát huy hiệu quả chỉ huy chiến đấu cao nhất.

Đó là chưa nói đến những lúc quân ta gặp khó khăn không giữ được vùng cửa biển Bạch Đằng thì đại bản doanh không thể không dời đi nơi khác. Ngay trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên, theo Ngọc phả cổ lục đền Hoa Chương, huyện Thuỷ Đường (nay là thôn Phương Mỹ xã Mỹ Đồng) thì Phạm Quảng vốn là người trang Hoa Chương (xưa là trang Hoa Kiều) đi theo Lê Hoàn đánh giặc, trở thành người thân tín của Lê Hoàn. Sau trận thuỷ chiến đầu tiên quân ta đánh bất lợi, hoàng đế phải rút quân ra xa khoảng 10 dặm. Phạm Quảng đã hiến kế cho hoàng đế chuyển về đóng đồn sở tại làng mình để dựa vào địa thế hiểm trở bổ sung binh lương mà chờ thời vận.

Hoa Chương nằm ở phía tây bắc của núi Đèo và chỉ cách chợ Phướn khoảng 7 - 8 km nên có lẽ cũng chỉ là nơi đóng quân tạm trong một thời gian ngắn. Tại vùng Lục Đầu Giang cũng có nhiều dấu tích hoạt động của vị tổng chỉ huy kháng chiến Lê Hoàn và vị Đại tướng quân người Nam Sách Giang Phạm Cự Lạng.

Sách Lĩnh Nam chích quái (truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt) cho biết: “Năm Thiên Phúc nguyên niên đời Lê Đại Hành (980), Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cất quân xâm lược phương Nam. Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lạng kéo quân tới sông Đồ Lồ cự địch, hai bên đối luỹ” (1), và cuối cùng quân Tống phải “xéo đạp vào nhau mà chạy tan, lầm giết lẫn nhau, ai lo chạy thoát thân người ấy, bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Quân Tống đại bại mà về” (2).


______________________
(1). Vũ Quỳnh, Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, NXB Văn hoá N.1970, tr.75
(2). Vũ Quỳnh, Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, Sdd, tr. 76
 
Ở trang Xạ Sơn huyện Giáp Sơn nay là xã Quang Trung, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) có đền thờ 4 vị tướng theo giúp Lê Hoàn đánh trận Bạch Đằng năm Tân Tỵ (981). Bản ngọc phả cho hay: “Vua (Lê Hoàn) thân chinh đi đánh giặc (Tống), đánh một vài trận chưa phân thắng phụ, vua lui quân về dựng đồn tại trang Xạ Sơn, lưu lại đó khoảng một tháng để chuẩn bị cho trận sau . . .” .

Ngay ở trang Xạ Sơn, một vị trí hiểm yếu ở gần ngã ba sông Kinh Môn - Kinh Thầy cũng chỉ là khu vực giấu quân nhiều hơn là một chỉ huy sở để “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” - như cách tính toán của Lê Hoàn. Có lẽ trong khi đóng quân ở Xạ Sơn, Lê Hoàn đã nhận ra vị trí quan trọng của khu vực trang Dược Đậu (nay là thôn Đại xã An Lạc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương) nên đã quyết định chuyển đại bản doanh về đây.

An Lạc có một hệ thống đồi núi trải rộng về phía sông Kinh Thầy ở phía đông và phía nam, sông Nguyệt Giang ở phía tây nam, phía trên thông với sông Lục Đầu, phía dưới đổ ra Ngã Ba Kèo và chỉ cách Bạch Đằng không đến 20km. Tương truyền Lê Hoàn đến đây thấy địa thế núi non hiểm trở mới lập đại bản doanh ở khu Đồng Dinh. Tại đây cho đến nay vẫn còn địa danh Nền Vua, Xiểng (xưởng), Lò Văn, Bàn Cung, Đền Cao và hệ thống đền thờ người có công giúp Lê Hoàn đánh giặc Tống. Đây là vị trí an toàn, tiện lợi cho cả tấn công và phòng thủ, lại có thể trực tiếp tổ chức chặn đánh địch trên cả hai đường thuỷ bộ (1). Tại đây có 5 anh em nhà họ Vương hết lòng hết sức phò giúp Lê Hoàn đánh giặc cứu nước (2).

Nhiều thần tích khác đều trực tiếp hay gián tiếp xác nhận có một trận đánh hết sức ác liệt giữa đại quân ta và quân Tống ở khu vực Lục Đầu Giang.

Ba anh em Đào Tế, Đào Đại, Đào Độ đều sinh ra và lớn lên ở trang Trinh Hưởng huyện Thuỷ Đường (Thuỷ Nguyên, Hải Phòng), nhưng lại lập công đánh bại quân giặc Tống ở Bàng Châu (khu vực tục Đầu Giang) (3).

Khu vực các huyện Chí Linh, Thanh Lâm (tức vùng Lục Đầu Giang, nay một phần thuộc Hải Dương, một phần thuộc Bắc Ninh, xưa là đất Bàng Châu. Sách Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Hải Dương) chép: “Huyện Chí Linh:... Từ đời Trần về trước gọi là Bàng Châu…”, “huyện Thanh Lâm... Xưa gọi là Bàng Châu...” (T. 3. Sđd. trg. 362- 363).

Đào Công Mỹ được dân các trang Đông Hương, Phượng Trì, Tam Sơn xã Dịch Sử, tổng Phá Lãng (Bặc Ninh) tiến cử và được Lê Hoàn phong làm Đô dịch sứ chuyên trách việc giao dịch thư tín giữa quân ta với quân Tống. Ông đã làm cho quân Tống tin là Lê Hoàn không thể gượng dậy được sau “thất bại” ở cửa biển Bạch Đằng và thật tâm muốn “đầu hàng” mong bảo toàn tính mệnh, để giăng bẫy tiêu diệt chủ tướng Tống . Sinh ra và lớn lên trên vùng cửa sông Văn Úc, nhưng chiến công của họ lại lẫy lừng trên sông nước Bạch Đằng và trại Bàng Châu là năm anh em nhà họ Đặng trang Đốc Kính (nay là thôn Đốc Hậu, xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng).

Qua hệ thống bố phòng, đặc biệt qua những lần di chuyển đại bản doanh của Lê Hoàn, chúng ta có thể hình dung quy mô rộng lớn, liên hoàn, tính chất phức tạp và quyết liệt của cuộc chiến trên chiến trường miền Đông Bặc. Nhìn toàn cục chiến trường và hệ thống bố phòng của Lê Hoàn, chúng ta càng thấy rõ hơn vị trí then chốt, vai trò quyết định của tuyến phòng thủ Bạch Đằng - Lục Đầu Giang đối với sự thành bại của toàn bộ cuộc kháng chiến.


______________________
(1) Tham khảo các bài viết của Nguyễn Minh Tường: Về vị trí đại bản doanh của vua Lê Đại Hành trong trận Bạch Đằng năm 981 . Tạp chí Xưa Nay. số 76 (6-2000); Trận Bạch Đằng năm 981 , trận quyết chiến chiến lược quyết định thắng lợi. Tạp chí Xưa Nay số 86 (2-2001).
(2) Tham khảo Nguyễn Minh Tường: Về vị trí đại bản doanh của vua Lê Đại Hành trong trận Bạch Đằng năm 981, Tạp chí Xưa nay, số 76 (6-2000) trg. 9-10-23)
(3) Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Hải Phòng: Một số di sản văn hoá tiên biển của Hải Phòng. T 2, Sđd, (mục đền Trinh Hưởng) trg. 161- 164.
 
Để tranh thủ thời gian củng cố và tổ chức lại lực lượng, nhất là để kích động thêm thái độ chủ quan tự mãn của Hầu Nhân Bảo và đạo quân xâm lược hùng mạnh đang ở thế thắng, Lê Hoàn đã hết sức khôn khéo chọn con đường giả hàng quân Tống: Tống sử không giấu giếm sự thật đau xót này đối với đạo quân xâm lược hùng mạnh, nhưng hết sức nghênh ngang tự phụ: “Lê Hoàn giả vờ xin hàng, mà Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng cứ tưởng là thật”.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư và sách Việt sử thông giám cương mục còn nói rõ hơn là Lê Hoàn “sai quân sĩ trá hàng để dụ Nhân Bảo, nhân đó bắt được Nhân Bảo, đem chém” (1).

Sách Đại Nam nhất thống chí đoạn nói về sông Bạch Đằng xác nhận: “Năm Thiên Phúc thứ 2 đời Lê Đại Hành, tướng Tống là bọn Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng và Lưu Trừng xâm lấn đến đây. Lê đế đã sai sĩ tốt trồng cọc gỗ ở sông để ngăn cản, bắt giết được Hầu Nhân Bảo” (2). Những thông tin trên được rút ra từ nguồn tư liệu Việt Nam về cơ bản cũng phù hợp với nguồn tư liệu thư lịch cổ Trung Quốc:

Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào chép toàn bộ quá trình từ khi Hầu Nhân Bảo tiến vào nước ta cho đến khi bị giết chết gộp lại trong một trận đánh ở Bạch Đằng: “Thái Bình hưng quốc năm thứ 6, tháng 3 ngày Kỷ Mùi (28-4-981) Giao Châu hành doanh phá được 15.000 quân của Lê Hoàn ở sông Bạch Đằng. chém lấy hơn 1.000 thủ cấp, lấy được 200 chiến hạm, thu nhặt được hàng vạn mũ trụ, áo giáp. Cũng trận này giặc giả hàng để dụ Nhân Bảo. Nhân Bảo cả tin, liền bị giặc giết hại”. (3)

Tống sử cũng chép tương tự như Tục tư trị thông giám trường biên nhưng có thêm những thông tin rõ ràng hơn: “Khi Lưu Trừng đến thì Toàn Hưng cùng Lưu Trừng theo đường thuỷ đến thôn Đa La, nhưng nói không gặp giặc lại trở về Hoa Bộ. Đến đây Lê Hoàn giả vờ xin hàng để đánh lừa Nhân Bảo. Nhân Bảo bèn bị giết chết” (4).

An Nam chí nguyên lại không chép đến thắng lợi tạm thời của quân Tống khi chúng mới tiến vào cửa biến Bạch Đằng mà chỉ nói về thất bại đau đớn của Hầu Nhân Bảo: “Thế lực của giặc (chỉ quân ta) rất mạnh, quân hậu viện (nhà Tống) chưa kịp đến thì Nhân Bảo đã sa hãm trong vòng tròn bị loạn quân giết chết ném xác xuống sông. Vua Tống hay tin lấy làm đau xói ban cho tặng điển một cách ưu hậu” . (5)

Tuy các nguồn tư liệu còn nhiều mâu thuẫn nhưng vẫn có thể cung cấp những thông tin xác thực để hình dung trên đại thể toàn bộ diễn biến của cuộc kháng chiến chống Tống của Lê Hoàn như sau: Mùa đông năm 980 thuỷ quân Tống ào ạt tiến vào nước ta bằng đường sông Bạch Đằng. Lê Hoàn tổ chức lực lượng đánh chặn ngay tại vùng hạ lưu và cửa biển nhưng không hiệu quả.

Quân Tống giành được thắng lợi tạm thời, có bộ phận đã tiến sâu vào trong sông, ngược đến khu vực sông Lục Đầu phối hợp với đạo quân bộ cũng vừa theo đường duyên hải Quảng Ninh, Đông Triều tiến đến. Thậm chí đạo quân bộ, có cánh quân của Trần Khâm Tộ đã nhanh chóng vượt qua tuyến phòng thủ ngoài của ta. liến vào áp sát tuyến phòng thủ giữa ở khu vực Tây Kết (Hưng Yên).

Chủ tướng Tống là Hầu Nhân Bảo cho rằng số phận của Lê Hoàn và triều đình Hoa Lư đang nằm trong tay y, y vô cùng chủ quan tự phụ, không lo việc phòng bị. Lê Hoàn sau những khó khăn, bất lợi ban đầu ở Bạch Đằng đã chủ động lui về vùng Xạ Sơn huyện Kinh Môn, An Lạc huyện Chí Linh (Hải Dương) củng cố lại thế trận. Ông đã hết sức khôn khéo tìm cách trá hàng quân Tống vừa tranh thủ thời gian củng cố lại lực lượng vừa kích thích tính chủ quan, ngạo mạn của đội quân xâm lược, tạo thời cơ thuận lợi tiêu diệt chúng.


____________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư. T. 1 Sđd. tr 221 .
(2) Đại Nam nhất thống chí. T.4. Sđd. tr 25.
(3) Tục tư trị thông giám trường biên. 20. 26.
(4) Tống sử. quyển 488.
(5) An Nam chí nguyên. quyển 2. tờ 164.
 
Đến khi thời cơ thuận lợi xuất hiện. Lê Hoàn nhanh chóng tổ chức phản công chặn đứng và đánh tan một lực lượng lớn cả thuỷ binh và bộ binh giặc đang đóng lại ở Lục Đầu Giang để chuẩn bị cho cuộc tiến công quyết định vào Hoa Lư. Hầu Nhân Bảo tuy thoát chết trong trận này nhưng cũng không còn con đường nào khác lại phải lui về vùng cửa sông Bạch Đằng chờ tiếp viện. Trên đà chiến thắng, Lê Hoàn mở cuộc tổng công kích quân Tống trên toàn tuyến sông Bạch Đằng. Hầu Nhân Bảo đã bị sa lưới và bị giết tại trận (1).

Đại quân Tống bị mất chủ tướng, bị đánh tan tành, không còn khả năng hồi phục. Chiến trường chống quân xâm lược Tống diễn ra ở nhiều nơi khắp cả miền đông bắc và vùng trung tâm châu thổ sông Hồng, nhưng khu vực hạ lưu, cửa biển Bạch Đằng là chiến trường chính và giữ vai trò quyết định thắng lợi của toàn bộ cuộc kháng chiến. Sách Đại việt sử toàn thư cho biết lúc đó ở Tây Kết (Khoái Châu, Hưng Yên): “Bọn Khâm Tộ nghe tin quân thuỷ bại trận, dẫn quân về” (2). Thực ra đây chính là hành động tháo chạy thảm hại của đoàn quân xâm lược sau thảm bại ở Bạch Đằng.

Sách Đại việt sử ký toàn thư chép: Thừa thắng, “vua đem các tướng đánh, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng, bắt được tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên”. (3) Tống Thái Tông không còn con đường nào khác, buộc phải ra lệnh bãi binh, rút toàn bộ tàn quân về nước, thừa nhận thất bại thảm hại của cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt.



CÓ MỘT TRẬN QUYẾT CHIẾN TRÊN SÔNG BẠCH ĐẰNG NĂM 981

TS. Lê Đình Sỹ
Phó viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

Sự nghiệp của Lê Hoàn gắn liền với cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất, trong đó có chiến thắng Bạch Đằng mùa xuân năm Tân Tỵ (981). Tuy nhiên, cho đến nay, trong giới sử học chúng ta còn tồn tại quá nhiều ý kiến khác nhau về cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất và về chiến sự trên sông Bạch Đằng dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Lê Hoàn. Chỉ riêng về trận Bạch Đằng (981) cũng đang còn nhiều vấn đề tranh cãi, ý kiến rất khác biệt. Không ít nhà nghiên cứu đã nghi ngờ hoặc phủ nhận chiến công này; dẫn đến tình trạng một số sách hoặc từ điển khi viết về truyền thống Bạch Đằng đã không đề cập đến. Vì vậy, câu hỏi: “Có hay không một trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng thời đó” rất cần được giải đáp thỏa đáng.

Một số nhà sử học đã dựa vào một số sử liệu trong đó có sách Đại việt sử ký hoàn thư chứng minh rằng đầu năm 981 quân Tống chia làm ba đạo tiến vào Đại Cồ Việt. Đạo chủ lực là bộ binh do Hầu Nhân Bảo chỉ huy vượt Nam Quan vào Lạng Sơn. Đạo thứ hai là thuỷ binh do Lưu Trừng cầm đầu từ biển tiến vào sông Bạch Đằng rồi vào sông Lục Đầu, liên lạc với bộ binh Hầu Nhân Bảo, đánh chiếm vùng tả ngạn sông Hồng. Đạo thứ ba cũng là thuỷ binh do Trần Khâm Tộ điều khiển ngược dòng sông Hồng vừa tiến công các cánh quân của Lê Hoàn xuất phát từ Hoa Lư, vừa chiếm một số vùng châu thổ sông Hồng, trong đó có cả thành Đại La, làm bàn đạp đánh chiếm kinh đô”.Hoa Lư và cả nước Đại Cồ Việt.


____________________
(1) Sách Việt sử thông giám cương mục không biết căn cứ vào đâu lại chép: “Khi quân Tống kéo đến sông Chi Lăng, nhà vua sai người trá hàng, dụ bắt được Nhân Bảo đem chém” và giải thích sông Chi Lăng ở Lạng Sơn. Mục tiêu của Hầu Nhân Bảo là nhanh chóng tiêu diệt triều đình Hoa Lư, mà đã vào được phía trong sông Bạch Đằng rồi thì chắc hẳn Hầu Nhân Bảo không cần phải vòng lên Lạng Sơn nữa. Có lẽ người chép lại sự kiện này vẫn bị ám ảnh địa danh Lạng Sơn (mà đúng ra phải gọi là Lãng Sơn) nên mới chép sông Chi Lăng (thuộc Lạng Sơn) vào đây chăng. Vấn đề cần phải được tìm hiểu thêm.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư T.1, Sđd, tr. 221.
(3) Đại việt sử ky toàn thư. T. 1. Sđd . tr 221 .
 
Theo cách hiểu này thì Hầu Nhân Bảo đã bị quân ta chặn đánh và giết chết ở ải Chi Lăng (?). Cũng có ý kiến căn cứ vào bản dịch sách Việt sử lược và một số tư liệu khác, chứng minh rằng Hầu Nhân Bảo vượt biên giới tiến qua Ngân Sơn (Cao Bằng), qua Thái Nguyên, rồi bị quân ta đánh tiêu diệt ở Bình Lỗ (Sóc Sơn, Hà Nội). Theo hai cách lý giải trên, cánh chính binh Hầu Nhân Bảo không đi theo đường thuỷ qua Bạch Đằng. Như vậy, đối tượng tác chiến của Lê Hoàn trên hướng Bạch Đằng không phải là đoàn quân Hầu Nhân Bảo và trận Bạch Đằng nếu có chỉ là trận ngăn chặn đạo quân Lưu Trừng mà thôi.

Gần đây, một số nhà sử học đã chứng minh và hiểu theo cách mới, cho rằng Hầu Nhân Bảo không-tiến hướng bộ Lạng Sơn hoặc Ngân Sơn, mà theo hướng Lạng Sơn (Quảng Ninh), qua sông Bạch Đằng và liên lạc với đạo quân bộ ở Lãng Sơn và Hoa Bộ rồi bị đánh và bị tiêu diệt trên sông Bạch Đằng (981). Quan điểm này cho rằng, thuỷ binh Hầu Nhân Bảo đến trước và thuỷ binh Lưu Trừng đến sau đều tập kết ở sông Bạch Đằng; còn cánh quân bộ từ Ung Châu qua Quỷ Môn Quan, qua Tô Mậu tiến vào, gồm các tướng Tôn Toàn Hưng, Hắc Thủ Tuấn, Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng...

Sự phản ánh của sử liệu quá ít ỏi, tản mạn, không rõ ràng và còn trái ngược nhau dẫn đến nhận thức lịch sử rất khác nhau và kết quả là chúng ta chưa xây dựng được một bức tranh khả dĩ đầy đủ và chân xác về diễn biến chiến sự trên sông Bạch Đằng (981) và thậm chí cũng chưa trình bày được những nội dung cơ bản, những nét khái quát nhất về diễn biến chiến trận ấy một cách hợp lý, lôgich để làm cơ sở cho những thể hiện tiếp theo về bức tranh đó.

Chúng tôi thấy rằng, cách chứng minh địa danh “Ngân Sơn’ trong Việt sử lược chính là Lãng Sơn và Hầu Nhân Bảo chủ tướng giặc chỉ huy đạo quân tiến theo đường thuỷ qua sông Bạch Đằng là tương đối hợp lý hơn, phù hợp với nhiều sử liệu của nước ta và sử liệu của Trung Quốc đương đại. Đây là mũi, hướng tiến công chính của quân Tống, do đó đã thu hút sự quan tâm của Lê Hoàn và được Lê Hoàn tập trung lực lượng chủ yếu của mình ngăn chặn và tiêu diệt.

Việc Lê Hoàn cho đóng cọc trên sông Bạch Đằng chống binh thuyền Hầu Nhân Bảo là có thật, là sự kế thừa kinh nghiệm của Ngô Quyền; nhưng Lê Hoàn đã không thực hiện được trận mai phục bằng sự kết hợp giữa phục binh và trận địa cọc ngầm; chiến sự lúc này diễn ra không được mau lẹ, thuận lợi như trận Bạch Đằng của Ngô Quyền đánh giặc Nam Hán (938). Thực tế, chiến sự trên sông Bạch Đằng trong kháng chiến chống Tống lần thứ nhất diễn ra nhiều lần, nhiều đợt với những trận đánh khác nhau kể từ tháng Chạp năm Canh Thìn đến tháng Ba năm Tân Tỵ (4-981).

Sử liệu Trung Quốc, sách Tống sử liệt truyện (TSLT), Tống sử bản kỷ (TSBK), Tục tư trị thông giám trường biên, Đông đô sử lược... đều chép rằng: “Năm Thái Bình hưng quốc thứ năm (980), mùa đông... quan quân tiến đánh, phá được giặc (TSLT) và “Năm Thái Bình hưng quốc thứ năm (980), tháng Chạp năm Ất Dậu (24- 1 -981 ), Giao Châu hành doanh đánh nhau với giặc, phá được quân giặc” (TSBK).

Sách An Nam chí lược của Lê Tắc theo quan điểm của sử gia phong kiến Trung Quốc chép: “Mùa thu năm ấy (980) tiến quân đánh. Mùa đông tháng Chạp đánh nhiều trận phá được hàng vạn quân Giao Chỉ. Sang mùa xuân năm sau lại phá được giặc ở sông Bạch Đằng”. Sử của ta, Việt sử thông giám cương mục cho biết, sau khi Lê Hoàn cử sứ giả sang Tống làm kế hoãn binh, bị vua Tống cự tuyệt thì “nhà vua tự làm tướng, ra kháng chiến; sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn địch. Quan quân Tống đông lắm. Quan quân ta đánh bất lợi: Hai trăm thuyền đều bị địch lấy mất cả. Hầu Nhân Bảo đem tiền quân tiến lên trước”.

Ngoài Tống sử và chính sử nước ta, nhiều thần tích ở Hải Phòng, Quảng Ninh và Hải Dương còn phản ánh chiến sự xảy ra trên đường tiến của Hầu Nhân Bảo, nhưng các trận đánh buổi đầu đó, quân ta gặp khó khăn, không chặn nổi giặc, thuỷ binh Hầu Nhân Bảo đã chiếm được sông Bạch Đằng và các làng mạc xung quanh, chúng đã đặt “Giao Châu hành doanh” tại đó.
 
Như vậy, việc đóng cọc ở sông Bạch Đằng của Lê Hoàn chỉ có tác dụng ngăn cản phần nào bước tiến của thuỷ binh Tống, chứ không đủ khả năng chặn đối phương tạo nên một thắng lợi quyết định ngay từ đầu như thời Ngô Quyền chống Nam Hán (938) hoặc không giống như thời Trần Hưng Đạo đánh quân Nguyên (1288). Điều này cho ta lý giải, vì sao sử sách xưa của ta khi bàn về bí quyết thành công của Lê Hoàn không đề cập đến tác dụng của trận địa bãi cọc.

Lê Văn Hưu đánh giá cao tài năng quân sự của Lê Hoàn, nhưng không nói gì đến trận địa cọc Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo trong Di chúc năm 1300 chỉ ca ngợi việc đắp thành Bình Lỗ để phá giặc, không nói gì đến tác dụng của trận địa cọc ngầm chống Tống của Lê Hoàn. Do đó, không nên mô tả trận đánh trên của tê Hoàn giống như các trận Bạch Đằng khác của Ngô Quyền và Trần Quốc Tuấn; và cũng không nên vì thế mà cho rằng trên hướng sông Bạch Đằng không diễn ra trận quyết chiến nào khác của Lê Hoàn sau đó.

Kết quả nghiên cứu của giới sử học hiện đại đã chứng minh có một trận Đồ Lỗ (Bình Lỗ) diễn ra trong kháng chiến chống Tống (981); tuy nhiên, việc xác định vị trí Đồ Lỗ đang là một vấn đề tranh cãi. Điều chắc chắn khẳng định là, cũng như các trận Chi Lăng (?), Bạch Đằng, Tây Kết..., trận Đồ Lỗ là một trận then chốt, một trận tiêu diệt lớn quân địch trong cuộc chiến tranh giữ nước ngày ấy. Nhưng có thể tướng Hầu Nhân Bảo không bị tiêu diệt trong trận này mà sau đó mới bị giết trong trận thuỷ chiến tháng Ba năm Tân Tỵ (tức tháng 4-981).

Mục tiêu của nhà Tống tiến quân xâm lược Đại Cồ Việt, trước hết nhằm chiếm kinh đô Hoa Lư để thủ tiêu nhà nước do Lê Hoàn xưng hoàng đế, biến nước ta thành một “lộ” của nước Tống do quan lại Tống trực tiếp cai trị. Việc vua Tống phong Hầu Nhân Bảo chức “Giao Châu lộ kế độ chuyển vận sứ” có lẽ là dự kiến nhân sự cho bộ máy cai trị về sau, một khi chúng đã bình định được Giao Châu của người Việt.

Muốn chiếm được Hoa Lư thì các đạo quân thuỷ, bộ nhà Tống phải phối hợp được với nhau ở khu vực lưu vực sông Nhị Hà (sông Hồng). Nhưng lúc đó, do sự đánh trả quyết liệt của quân và dân ta, các đạo quân Tống không thể liên lạc với nhau, không hội quân được. Tôn Toàn Hưng buộc phải đóng lỳ ở Hoa Bộ. Hầu Nhân Bảo không thể chờ được viện quân của Lưu Trừng và Trần Khâm Tộ, đã quyết định cùng Quách Tiến kéo toàn bộ quân thuỷ bộ dưới quyền từ sông Bạch Đằng đến sông Luộc để vượt thành Bình Lỗ đánh Hoa Lư.

Kết quả là tại đây Hầu Nhân Bảo đã bì quân ta giáng một đòn mạnh, bị tổn thất nặng nề, phải quay binh thuyền rút về sông Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo đã đánh giá cao vai trò của Lê Hoàn và trận đánh này rằng: “Thời Đinh Lê dùng được người tài giỏi..., xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống...”.

Sau thất bại Lỗi Giang, trở lại sông Bạch Đằng, đạo thuỷ binh Hầu Nhân Bảo đã gặp quân của Lê Hoàn và trận quyết chiến chiến lược - trận đánh quyết định số mệnh Hầu Nhân Bảo và đoàn quân xâm lược đã diễn ra giữa quân dân ta với quân Tống ngay trên sông Bạch Đằng vào tháng Ba năm Tân Tỵ (tức tháng 4/981).

Điều này phù hợp với phản ánh của sử liệu Tống sử chép: “Thái Bình hưng quốc năm thứ sáu (981), mùa xuân, tháng Ba ngày Nhâm Tuất (1/5/981), Giao Châu hành doanh lại phá được giặc Giao Chỉ ở sông Bạch Đằng, cướp được 200 chiến hạm... Tri Ung Châu Hầu Nhân Bảo bị giết ở trận này” (TSBK).

Ở chuyện Giả Thực trong Tống sử ghi: “Lê Hoàn giả vờ xin hàng, Tôn Toàn Hưng cứ tưởng là thật, chẳng lo phòng bị, nên thua to...”.
 
Sách Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào chép: “Thái Bình hưng quốc năm thứ sáu, tháng, Ba ngày Kỷ Mùi (28/4/981 ), Giao Châu hành doanh phá được 15.000 quân của Lê Hoàn ở sông Bạch Đằng, chém hơn 1.000 thủ cấp, lấy được 200 chiến hạm, thu nhặt được hàng vạn mũi tên, áo giáp. Cũng trận này, giặc giả hàng để dụ Nhân Bảo. Nhân Bảo cả tin, liền bị giặc giết hại”.

Tống sử Liệt truyện ghi: “Lê Hoàn giả vờ xin hàng để đánh Hầu Nhân Bảo. Nhân Bảo bị giết chết” và “Nhân Bảo bị giặc vây, bị giết ở giữa sông”. Sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng, phần chép về Hầu Nhân Bảo ở trận Bạch Đằng tháng Ba năm Tân Tỵ cho biết thêm : “ . . . Nhân Bảo đem vạn quân xông lên trước, thế giặc rất mạnh, viện quân phía sau đến không kịp, trận thế bị vây hãm nên Nhân Bảo bị loạn quân giết chết, quẳng xác xuống sông. Vua Tống nghe chuyện lấy làm thương tiếc, truy tặng rất ưu hậu”.

Sách Việt sử lược của ta (nguyên bản Tứ khố toàn thư) chép: “Năm Tân Tỵ, năm đầu niên hiệu Thiên Phúc, mùa quân tháng Ba (4/981), quân Hầu Nhân Bảo đến (theo đường) Lãng Sơn, quân Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, quân của Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua lự làm tướng, sai quân đóng cọc chặn sông... Quân Tống lui giữ Ninh Giang, vua sai trá hàng dụ Nhân Bảo. Quân Tống thua, ta bắt chém Hầu Nhân Bảo, bọn Khâm Tộ nghe tin quân Bảo thua, liền tháo chạy”.

Sách Đại Nam nhất thống chí và rất nhiều thần tích ở vùng Thủy Nguyên (Hải Phòng), ở Kim Môn, Chí Linh (Hải Dương) đều phản ánh trận Bạch Đằng năm 981 là một chiến công vang dội, lẫy lừng của quân dân ta trong kháng chiến chống Tống.

Diễn biến chiến sự trên sông Bạch Đằng mùa xuân Tân Tỵ (981) cho thấy, việc đánh tan quân Tống, giết chết Hầu Nhân Bảo là việc không mấy dễ dàng. Bởi vậy, Lê Hoàn mưu tính dùng kế trá hàng để làm kiêu lòng địch, hy vọng giết được chủ tướng giặc. Cách xử sự khôn khéo của Lê Hoàn đã được Tống sử chép: “Lê Hoàn giả vờ xin hàng mà Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng cứ tưởng là thật. . .”.

Vì thế, ngày 28/4/981, toàn bộ đạo quân Tống bị đánh bại, tướng Hầu Nhân Bảo bị giết tại sông Bạch Đằng và toàn bộ đạo quân Tống ở đây bị đánh bại. Cho dù chính sử nhà Tống có khuếch trương là giết được nhiều quân Lê Hoàn, thu được nhiều binh thuyền và giáp trụ của ta, nhưng cũng không che giấu được cái thực tế cay ứăng là Hầu Nhân Bảo bị mắc mưu và bị giết, quan quân Tống đại bại.

Trên thực tế, trận Bạch Đằng ngày 28/4/981 được Lê Hoàn tính toán kỹ, với mưu lược tài giỏi, ông đã chỉ huy các tướng lĩnh, binh sĩ và dân binh thực hiện một trận quyết chiến, đánh trận phản công quyết định vào quân viễn chinh Tống.

Có thể hình dung trận này như sau: Lê Hoàn đã chọn một khúc sông hiểm yếu bố trí sẵn phục binh, sau đó cho một cánh quân khiêu chiến với quân Hầu Nhân Bảo. Chiến sự đang diễn ra quyết liệt thì quân ta giả thua chạy, quân Tống “thừa thắng” đuổi theo. Khi binh thuyền địch lọt vào trận địa mai phục, Lê Hoàn tung quân đánh và đã giành được thắng lợi lớn. Hầu Nhân Bảo bị giết trong loạn quân.

Tuy chưa có đủ tư liệu để dựng lại trận thuỷ chiến này một cách hoàn hảo như trận Bạch Đằng thời Trần Hưng Đạo tiêu diệt Ô Mã Nhi (1288), nhưng có thể coi đây là một trận quyết định diễn ra rất ác liệt và thắng lợi rất vẻ vang.

Với vũ công này, quân và dân ta đã giết được tên chủ tướng nguy hiểm, hiếu chiến nhất của giặc và đánh bài hoàn toàn đạo thuỷ quân Tống. Thắng lợi to lớn của Lê Hoàn và các tướng sĩ thời Tiền Lê trong trận Bạch Đằng xuân Tân Tỵ (981 ) được nhân dân trăm họ ngợi ca và tiếng vang lưu truyền hậu thế.
 
Đôi câu đối ở đền thờ Lê Đại Hành (Phủ Diễn, Thanh Trì) có viết:

“Đế đô tích tại Hoa Lư động,
Thánh vũ kim tồn Bạch Đằng giang”

(Động Hoa Lư tráng lệ đế đô,
Sông Bạch Đằng lưu truyền chiến tích).

Được tin Hầu Nhân Bảo bị giết trên sông Bạch Đằng, Tôn Toàn Hưng cho quân tháo chạy, đạo quân Trần Khâm Tộ ở Tây Kết lo sợ rút lui, bị quân ta truy kích, tiêu diệt đến quá nửa. Các tướng giặc Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân bị bắt giải về Hoa Lư. Cuộc chiến tranh giữ nước dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn đã giành thắng lợi.

Chiến thắng của quân dân ta mùa xuân năm Tân Tỵ (981) trong đó có trận quyết chiến Bạch Đằng têsng Ba Tân Tỵ (28/4/981) là bất ngờ lớn nhất đối với nhà Tống. Đây là đòn cảnh cáo quyết liệt có ý nghĩa lâu dài, làm sụp đổ hoàn toàn tinh thần và ý chí của đối phương, buộc nhà Tống phải ra lệnh rút quân, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt.

Chúng ta không nên phủ nhận hoặc hạ thấp chiến công này. Và cũng chính vì thế, nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm ngày mất anh hùng dân tộc Lê Hoàn, chúng ta cần phải nghiên cứu để khẳng định vị trí, vai trò, ý nghĩa trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng mùa xuân Tân Tỵ (năm 981).




Phần ba

SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ KIẾN TẠO ĐẤT NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT


LÊ HOÀN - NGƯỜI MỞ ĐẦU CHO SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIAO THÔNG THUỶ NỘI ĐỊA VIỆT NAM


TS. Hà Mạnh Khoa
Viện Sử học. Viện Khoa học xã hội Việt Nam

Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng bị ám hại, quốc gia Đại Cồ Việt lâm vào tình trạng khủng hoảng. Năm 980, Lê Hoàn - Thập đạo tướng quân của vương triều Đinh lên ngôi vua trị vì đất nước, mở ra một triều đại mới trong lịch sử: Triều đại nhà Tiền Lê. Gánh vác trọng trách đứng đầu quốc gia, vua Lê Đại Hành đã giữ vững nền độc lập dân tộc, đánh tan quân xâm lược nhà Tống vào năm 981 và kế tiếp sau là “hành quân trị tội Chiêm Thành”.

Không chỉ có võ công hiển hách, Lê Đại Hành còn là một vị “minh quân” trong sự nghiệp phát triển đất nước. Một sự nghiệp chinh phục và cải tạo tự nhiên vĩ đại của cả dân tộc ở thế kỷ X đến nay vẫn còn nguyên giá trị và gắn liền với tên tuổi vua Lê Đại Hành là tiến hành đào các sông ở Thanh Hoá “từ Đồng Cổ đến Bà Hoà”. Với sự kiện đó Lê Đại Hành trở thành người mở đầu cho sự nghiệp phát triển hệ thống giao thông thuỷ nội địa Việt Nam dưới thời phong kiến.
 
1. Vài nét về điều kiện tự nhiên và đường giao thông trước thế kỷ X

1.1 Vài nét về điều kiện tự nhiên

Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam á, có diện tích hơn 330.000km2. Trên mảnh đất hình chữ S nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nắng lắm mưa nhiều, có nhiều vùng tiểu khí hậu. Việt Nam là nước có lắm sông nhiều núi, có đồng bằng châu thổ, đồng bằng ven biển, trung du cao nguyên và núi rừng trùng điệp.

Đây có thể coi như là một vùng thiên nhiên “hào phóng” nhưng trái lại cũng vô cùng khắc nghiệt gây ra muôn vàn tai họa cho con người. Các con sông hình thành trong tự nhiên đều chảy theo hướng tây bắc - đông nam, khi các sông đó là đường giao thông chủ yếu của thời kỳ mà phương tiện cơ bản là những chiếc cáng và những con thuyền đã vô hình tạo nên sự “cách trở” ngăn cách các vùng miền.

Thanh Hoá là tỉnh có vị trí quan trọng trong lịch sử dân tộc. Do đặc điểm địa hình và địa lý, Thanh Hoá trở thành một khu vực có cấu tạo tương đối hoàn chỉnh về tất cả các mặt. Vì vậy người ta thường gọi đây là một xứ - Xứ Thanh.

Trên đất Thanh Hoá, từ thời tiền sử - sơ sử và trong thời kỳ bắc thuộc đến khi cùng cả nước giành được quyền độc lập tự chủ vào đầu thế kỷ thứ X, cư dân Thanh Hoá đã triệt để tận dụng hệ thống sông ngòi tự nhiên để sản xuất, chiến đấu và xây dựng bảo vệ quê hương đất nước.

Đồng bằng Thanh Hoá được cấu tạo bởi phù sa của các sông chính: sông Mã, sông Chu, sông Yên. Các sông này đều chảy theo hướng tây bắc-đông nam chia cắt đồng bằng Thanh Hóa thành ba vùng: vùng đồng bằng sông Mã, vùng đồng bằng sông Chu, vùng đồng bằng sông Yên.

Các sông ngòi tự nhiên đó thực sự là một trong các yếu tố quan trọng tạo dựng cảnh quan môi trường, đất đai và tính cách người xứ Thanh. Nhưng trên thực tế không phải điều kiện tự nhiên nào cũng luôn phục vụ theo ý muốn chủ quan của con người. Các sông tự nhiên ở Thanh Hoá như sông Mã, sông Chu sông Yên và các chi lưu của nó đã tạo ra các đường giao thông thuỷ nội địa, giúp phân lượng nước trong mùa mưa và dẫn nước mùa khô. Nhưng do sự bồi đắp của phù sa các sông lớn và cấu tạo địa hình nên các tuyến giao thông thuỷ này như những con hào ngăn cách giữa các vùng.

1.2. Đường giao thông thuỷ bộ trước thế kỷ X

Trong bối cảnh thế kỷ X, khi đất nước mới giành được quyền độc lập tự chủ, những thế lực ở hai phía bắc và nam luôn rình rập xâm lược. . . mà Thanh Hoá lại ở vào vị trí cửa ngõ đi về phía nam. Do đó, một nhu cầu tận dụng và biến cải các dòng sông để không những phục vụ cho sản xuất, đời sống... mà còn đáp ứng các yêu cầu giao thông, quân sự; đặc biệt là nhanh chóng phải có một tuyến đường thuỷ thông suốt từ bắc đến nam Thanh Hoá - ngắn, nhanh và an toàn. Vì thế sau khi chiến thắng quân Chiêm Thành năm 982, Lê Hoàn đã tổ chức lực lượng khơi đào một tuyến đường thuỷ từ Đồng Cổ (Yên Định) đến Bà Hoà (Tĩnh Gia) giáp với Nghệ An.

Trước đó, do nhu cầu giao lưu, đã có đường bộ Thanh Hoá nối liền với Bặc Bộ ở thời kỳ này gọi là đường quốc lộ (theo ngôn ngữ hiện tại) được mọi người gọi là “đường thượng đạo, để phân biệt với đường “hạ đạo” được hình thành ở các thế kỷ sau.

Con đường thượng đạo đó đã hình thành ngay từ những ngày đầu của quá trình nhân dân hai quận Cửu Chân và Giao Chỉ cùng nhau chống xâm lược, chống đồng hoá phương Bắc, đấu tranh giành quyền độc lập tự chủ.
 
Ở vào thế kỷ X, những con đường bộ đó rất nhỏ và vô cùng hiểm trở, phải luồn lách qua nhiều núi sâu rừng thẳm và không ít loài thú dữ. Hầu như nó rất ít khi được quan tâm phát triển trừ những lúc động binh cần tiễu trừ đánh dẹp các thế lực nổi dậy chống đối chính quyền. Còn các con đường bộ ở các huyện vùng đồng bằng nó chỉ là những con đường nhỏ nối các làng và các chợ với nhau và chạy quanh co nhiều khúc qua đồng ruộng. Chỉ có một số ít được tạo thành để tiện lợi cho việc đi lại bằng cáng của các quan lại là rộng hơn.

Các đường này chạy theo một tuyến cố định nối liền các trung tâm huyện, phủ với nhau. Nhưng nhìn chung ngay cả đến thời Gia Long “các đường bộ này không lát, rải đá như các đường lớn của Trung Quốc. Chỉ có một ít cầu qua sông nhỏ và chủ yếu là cầu gỗ thường bị lũ cuốn trôi. Việc đi lại rất vất vả. Trong mùa mưa phải đi qua các sông lớn bằng thuyền hoặc đò ngang”. (1)

Đất Thanh Hoá có núi ngăn, có biển cản, đồng cao, đồng trũng liên tiếp với nhau. Từ Thụy Nguyên (nay là huyện Thiệu Hoá - trung tâm của đồng bằng Thanh Hoá) ra Bắc theo đường Thạch Thành qua huyện Phụng Hoá tỉnh Ninh Bình, thì trên tới được các huyện Mỹ Lương, Thạch Thất tỉnh Sơn Tây, dưới được các huyện Chương Đức, Từ Liêm tỉnh Hà Nội; từ Thụy Nguyên về tây theo đường Quan Hoá ra các vùng Mán Xôi: Trình Cố, phủ Trấn Nam (nay thuộc nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào), thì phía bắc đến được các châu Mai, Mộc, tỉnh Hưng Hoá, phía tây tới được miền đông nước Nam Chưởng.

Từ Thụy Nguyên về phía nam qua các huyện Đường Dương, Nông Cống rồi đi về đông nam theo đường huyện Quế Phong phủ Quỳ Châu (nay thuộc Nghệ An) ra Nhũng Đường đến Tương Dương xuống Anh Sơn (nay thuộc Hà Tĩnh) thì tới được được các huyện hạ du Nghệ An. Hà Tĩnh; từ Nông Cống rồi đi về phía nam theo đường huyện Thuý Vân phủ Quỳ Châu ra huyện Kỳ Sơn (thuộc phủ Tương Dương) đến Trấn Ninh vào châu Quỳ Hợp... thì tới được các động núi ở Quảng Bình, Quảng Trị...

Tính các đường đi như thế, thực đúng như phép binh gia “xét kỹ từng mũi tên” (nghĩa là phải chuẩn bị cẩn thận trước. (2) GS Đào Duy Anh đã viết : trước vua đi đường bộ, có lẽ là do thiên quan rồi theo đường sông Bưởi hay do đèo Phố Cát mà đến sông Mã, qua sông Mã ở khoảng làng Đan Nê huyện Yên Định là nơi có đền Đồng Cổ ở chân núi. Từ đó chắc là theo đường núi qua Thọ Xuân và Nông Cống mà vào Tĩnh Gia đến sông Bà Hoà thì mới theo đường kênh sắt mà vào Nghệ An” (3).

Trước thế kỷ X đường bộ Thanh Hóa đã hình thành nối liền với Bắc Bộ. Nhưng do những điều kiện tự nhiên và xã hội nó chưa trở thành vai trò chủ lực trong hệ thống giao thông giữa hai vùng thì đường giao thông thuỷ từ trung tân của quận Giao Chỉ đến quận Cửu Chân- Châu Ái đã trở thành quan trọng nhất. Đó là từ sông Hồng phía hữu ngạn vào sông Phủ Lý (tức sông Chân Cầu) rồi sông Đáy, sông Vân Sàng vùng Ninh Bình đến cửa Thần Phù vào Thanh Hoá.

Con đường thuỷ đó đã được hình thành từ đầu công nguyên. Thuỷ kinh chú (sách viết đầu thế kỷ VI) dẫn lại Lâm Ấp ký chép như sau: “Sông Uất Thuỷ phía nam thông với Thọ Linh, tức là một ngách sông vậy ngách ấy ở trên tiếp với sông ngách Đô Quan Tái ở phía nam Giao Chỉ” (4) và dẫn lại Lân Ấp ký: “Sông ngách ấy thông với huyện Đồng Cổ, ở đấy có trống đồng nên mới gọi tên là thế. Xưa Mã Viện lấy trống đồng ấy để đúc ngựa đồng. Đến cửa Tạc Khẩu (cửa ấy do Mã Viện đào) trong thì thông với huyện Phố Dương quận Cửu Chân” (5).


________________________

(1) Ch. Robequain: “Le Thanh Hoa”. bản dịch của Xuân Lênh. tr.245.
(2) Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo. VSH. Nxb Văn hoá thông tin. N.1997. tr.287-288
(3) Đào Duy Anh: Đất nược Việt Nam qua các đời. Nxb Khoa học. N.1965, tr.174.
(4), (5) Lịch Đạo Nguyên: Thuỷ kinh chú, bản dịch của Phan Huy Tiếp. tư liệu khoa Lịch sử. Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội. tr. 104.
 
Theo GS. Đào Duy Anh, con đường thuỷ Mã Viện đi như sau: “Mã Viện từ sông Hồng đi sang sông Đáy do sông Chân Cầu (tức sông Phủ Lý) thì cái cửa sông quan trọng mà Mã Viện đi qua đó (cửa sông Đô Quan Tái) có thể là ngã ba Chân Cầu hay ngã ba Gián Khẩu. Viện đi qua Tạc Khẩu để đi vào nội địa Cửu Chân mà đến Tư Phố “ (1).

Đinh Văn Nhật chỉ rõ: “Đô Quan Tái là đầu mối giao thông đường thuỷ vào Đồng Cổ thuộc vùng Yên Định thông với Đồng Cổ, vượt ra ngoài đến Hoàng Cương, Tâm Khẩu huyện An Định, nhờ cửa ấy mà qua Đồng Cổ tức đất Lạc Việt, đấy có trống đồng nên đặt tên ấy. . . đến cửa Tạc Khẩu, do Mã Viện đào, phía trong thông với Phố Dương (sửa là Tư Phố) quận Cửu Chân” (2).

Mã Viện đã đứng ra tổ chức, huy động một lực lượng lớn để đào sông qua cửa Tạc Khẩu, nhằm mục đích tạo thành một tuyến giao thông thuỷ an toàn, thuận lợi và nhanh chóng để đưa lực lượng vào Cửu chân đàn áp các lực lượng hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng: “Mã Viện đã đào một lối ngang qua những lối Cửu Chân và xếp đá thành một con đê để ngăn sóng biển. Từ đó người ta không bị bắt buộc phải đi ra biển nữa” (Nam Việt chí).

Địa điểm: “Chỗ núi đào đó gọi là Tạc Sơn. Chỗ cửa biển ngăn sóng đó là Tạc Khẩu’ (theo Thái Bình hoàn vũ ký). Ngày nay khu vực đó thuộc xã Nga Điền huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá và huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình. Nhờ con đường đó mà “Mã Viện đem lâu thuyền lớn nhỏ hơn 2.000 chiếc, chiến sĩ hơn 2 vạn người, theo đánh dư đảng của Trưng Trắc là bọn Đô Dương ở Cửu Chân”. Con sông đào này được hoàn thành không thể không kể đến sự đóng góp sức người, đặc biệt là kinh nghiệm đào sông của nhân dân ta.

Như vậy, rõ ràng ngay từ đầu Công nguyên đường thuỷ từ lưu vực sông Đáy vào các sông Cửu Chân qua cửa Tạc Khẩu đã được hình thành.

2. Vua Lê Đại Hành - người đầu tiên tổ chức đào sông

2.1. Sông đào thời Lê Đại Hành

Năm 981, Lê Hoàn (Lê Đại Hành) lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Thiên Đức, kinh đô vẫn tiếp tục đóng ở Hoa Lư. Vùng đất Hoa Lư là quê hương của Đinh Tiên Hoàng (nay thuộc xã Trường Yên huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình). Vào thế kỷ X, đất Hoa Lư có núi đá cao bao bọc xung quanh, núi sông tạo thành những phòng tuyến liên hoàn, rất lợi hại trong việc phòng thủ và tiến công (3) và tiếp giáp với châu Ái.

Sau khi tiến hành “kháng Tống, bình Chiêm” thắng lợi, đánh giá công lao của tê Đại Hành, nhà sử học Lê Văn Hưu thời Trần đã viết: chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được” (4) Tiếp đó, Lê Đại Hành đã thi hành nhiều biện pháp tích cực để phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng.

Trong xây dựng đất nước, Lê Đại Hành đã tiến hành hàng loạt các biện pháp để thúc đẩy kinh tế, văn hoá xã hội phát triển. Với sự kiện “mùa xuân Đinh Hợi, năm Thiên Phúc thứ 8 (987), vua lần đầu tiên cày ruộng tịch điền ở Đọi Sơn” (5), Lê Đại Hành đã mở đầu cho một lễ nghi mà tất cả vương triều sau tiếp tục noi theo để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp.


______________________________
(1), (2) Đào Duy Anh: Đất nước việt Nam qua các đời, Nxb Khoa học.N.1965, tr.37, 40, 41.
(3) Lịch sử Hà Nam Ninh. Tập 1, Sở VHTT Hà Nam Ninh, 1988, tr. 76.
(4) (5). Ngô Sỹ Liên và sử thần triều Lê: Đại việt sử toàn thư, Tập 1. Nxb KHXH, N.1985. tr.218. 217, 220.
 
Một công trình kết hợp để phát triển kinh tế với quốc phòng là: Công trình đào sông từ Đồng Cổ đến Bà Hoà. Toàn thư chép: “Khi nhà vua đi đánh Chiêm Thành, từ núi Đồng Cổ đến sông Bà Hoà, đường núi hiểm trở khó đi, người ngựa mỏi mệt, đường biển thì sóng to khó đi lại, bèn sai đào kênh, đến đây (Quý Mùi-năm 983) thì xong, công tư đều lợi” (1).

Đồng Cổ nằm ở hữu ngạn sông Mã (nay thuộc xã Yên Thọ huyện Yên Định tỉnh Thanh Hoá). Sông Bà Hoà ở phía cực nam tỉnh Thanh Hoá, thuộc xã Tân Trường, huyện Tĩnh Gia, giáp huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đổ ra cửa Lạch Bạng. Như vậy, Lê Đại Hành đã cho tiến hành đào sông nối sông Mã ở bắc Thanh Hoá với sông Bà Hoà ở nam Thanh Hoá- bắc Nghệ An. Nhưng điều đó không có nghĩa là đào một con sông hoàn toàn mới. Lê Hoàn đã tận dụng những chi lưu nhỏ của các sông Mã, sông Cầu Chày, sông Chu, sông Hoàng, sông Yên... khơi sâu, nắn thẳng và đào một số đoạn cần thiết để hình thành một tuyến giao thông thuỷ nội địa thuận tiện từ bắc đến nam Thanh Hoá.

Công trình đào sông thời Tiền Lê do Lê Hoàn khởi dựng đã “mở đầu cho sự nghiệp phát triển hệ thống giao thông thuỷ nội địa Việt Nam dưới thời phong kiến” của nước ta vào thế kỷ X thể hiện sự lớn mạnh của quốc gia độc lập tự chủ trong việc thực hiện chức năng quản lý các công trình công cộng của nhà nước phương Đông.

Sau khi đánh thắng quân Tống, để bảo vệ và mở mang bờ cõi ở phía nam, Lê Đại Hành đã hành quân tiến vào Chiêm Thành.

Lê Đại Hành từ kinh đô ở đất Trường Yên vào Ái Châu phải vượt qua các huyện Phụng Hoá (nay là Nho Quan - Ninh Bình) và Thạch Thành (Thanh Hoá). Cho nên khi hành quân đánh Chiêm Thành đi đường bộ không thể không đi qua khu vực Đồng Cổ. (2)

Đến thế kỷ X, đường bộ Thanh Hoá vào phía nam cũng hiểm trở không kém ra phía bắc. Đường thuỷ nếu theo đường Mã Viện đào ở Thần Phù mới đến vùng phía Bặc huyện Nga Sơn Đường vào các huyện đồng bằng Thanh Hoá hay vào các châu Hoan, Diễn không thể có đường nào khác ngoài cách đi đường bộ hoặc vượt biển.

Từ bắc đến nam Thanh Hoá đường bộ thì hoang vu, rậm rạp, đường biển thì bão tố thất thường không chủ động. Đường thuỷ tuy có các sông lớn và các nhánh nhỏ nhưng do địa hình và phụ thuộc vào thời tiết nên tuyến giao thông thuỷ theo hướng bắc - nam chưa được hình thành.

GS. Văn Tân cho rằng: “Trong trận viễn chinh này (Lê Đại Hành đi đánh Chiêm Thành), Lê Đại Hành nhìn thấy con đường bộ đi vào Nghệ Tĩnh là con đường khó đi, làm nhọc sức quân đội và nhọc cả sức dân, gây nhiều tổn phí cho nhà nước. Vì vậy nhà vua đã ra lệnh đào một con kênh từ Bố Hạ, Quảng Xương ngày nay đến sông Bà Hoà (Tĩnh Gia) để có thể từ sông Mã cứ theo đường thuỷ mà vào đến tận Nghệ An rồi từ Nghệ An liền ra biển”. (3)

Theo GS. Đào Duy Anh: “Từ trước người ta giới thiệu việc này là cho đào kênh từ Đan Nê đến sông Bà Hoà (Đan Nê là do đổi từ Đan Nãi). Nhưng xét về địa thế từ Đan Nê ở Yên Định đến Bà Hoà ở phía nam huyện Tĩnh Gia nhiều núi non hiểm trở không thể có đường kênh được. Tưởng nên hiểu là Lê Hoàn thấy đường bộ từ Đan Nê đến phía nam Tĩnh Gia đường đi vất vả nên sai đào kênh tục gọi là sông Nhà Lê để có thể từ sông Đáy đi luôn đường sông mà vào Nghệ An được”.


________________________
(1) Ngô Sỹ Liên và sử thần triều Lê: Đại việt sử toàn thư, Tập 1. Nxb KHXH, N.1985. tr.218. 217, 220.
(2) Hoa Bằng: Lược khảo về lịch sử đê qua các triều đại. Tập san nghiên cứu VSĐ số 31 tháng 8 năm 1957. tr.12.
(3) Văn Tân : Đường giao thông từ Bắc vào Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII. Tạp chí NCLS số 3- 1982. tr.52.
 
GS. Đào Duy Anh cho rằng: “Trước khi đi đường bộ có lẽ là do thiên quan rồi theo đường sông Bưởi hay do đèo Phố Cát mà đến sông Mã ở khoảng làng Đan Nê huyện Yên Định là nơi có đền Đồng Cổ ở chân núi. Từ đó chắc là theo đường núi qua Thọ Xuân, Nông Cống mà vào Tĩnh Gia đến sông Bà Hoà thì mới theo đường kênh Sắt mà vào Nghệ An rồi từ đó theo đường biển mà vào Chiêm Thành. Nay đào kênh mới để có thể từ bắc do sông Chính Đại mà vào Thanh Hoá và từ sông Mã theo đường kênh mới đào từ khoảng Bố Vệ tục gọi là sông Nhà Lê để vào sông Bà Hoà” (1).

Như vậy, tác giả đã cho rằng việc đào sông thời Lê Đại Hành chỉ bắt đầu từ Quảng Xương đến Tĩnh Gia. Như thế có nghĩa là khu vực có đền Đồng Cổ không phải là nơi khởi đầu của công trình “đào kênh” thời Tiền Lê. Điều đó không có sức thuyết phục. Bởi vào thời Đinh - Lê kinh đô Đại Cồ Việt ở Hoa Lư. Từ Hoa Lư vào Thanh Hoá và từ Thanh Hoá đến Nghệ An con đường hành quân của Lê Đại hành “phải qua núi cao rừng rậm người ngựa mỏi mệt”... mà Đồng Cổ là trung tâm điểm của giao thông thuỷ bộ Thanh Hoá vào thế kỷ X.

Hơn thế nữa, thế kỷ X đồng bằng Thanh Hoá mới bắt đầu khai phá, dân cư tập trung ở ven các vùng trung du đồi núi tiếp giáp với đồng bằng. Như sử sách ghi lại: Phép dùng binh ngày xưa thường coi trọng sự kết hợp thủy bộ. Vùng Đồng Cổ là điểm tập kết của quân bộ theo đường Thiên Quan vào Thanh Hoá. Và đó cũng là điểm tập kết của đường thuỷ từ kênh Đô Quan Tái - “đầu mối giao thông đường thuỷ vào Đồng Cổ” thuộc vùng Yên Định. (2)

Rõ ràng Đan Nê cổ không chỉ là nơi thờ thần trống đồng mà cả vùng đó còn là một khu vực hội tụ của các đạo quân thuỷ, quân bộ từ bắc vào Thanh Hoá trước khi tiến vào phía nam.

Vào thế kỷ X, sông Mã ở vùng Đan Nê không đi theo hứơng của hiện tại. Những đầm nước, ao hồ... và chất đất của các cánh đồng trong vùng đã chứng tỏ xưa kia dòng sông Mã đã đi qua. Đến khi đổi dòng những đoạn sông xưa thường gọi là sông Mạn Định để lại những đầm nước. Tất cả những đầm nước đó ngày nay đã bị lấp dần để canh tác hoặc làm nơi cư trú. Nhưng vẫn còn tồn tại một dòng sông nhỏ cách thị trấn Kiểu (nơi có trạm bơm nam sông Mã) khoảng 3km được thông với sông Mã bằng hệ thống cống tiêu. Hệ thống cống tiêu và dòng chảy của nó xuyên qua các xã Yên Thọ, Yên Trung, Yên Giang... có chức năng thoát nước ra sông Mã về mùa mưa.

Nguyễn Đình Thực nêu ý kiến về vấn đề này như sau: “Sông Mã có đoạn chuyển dòng lớn nhưng không tác động trực tiếp đến dòng sông khác như đoạn Mạn Định từ Đan Nê đến Kiểu”; “Sông Mã đi thẳng từ Đan Nê hạ (Làng Sổ) xuống Đan Nê thượng qua núi Thọ Vực về phía trước động Hồ Công mà xuôi xuống Hổ Nam - Phù Hưng ngày nay. Do đó vùng Đồng Cổ vẫn là chỗ thuận tiện cho đầu mối kênh” (4) .

Vùng Đồng Cổ nằm ở hữu ngạn sông Mã. Tả ngạn là huyện Vĩnh Lộc ngày nay. Nếu ở hữu ngạn chỉ có núi Khả Lao và một núi đất ở sát thị trấn Kiểu thì tả ngạn là núi Hí Mã “hình núi trông như trường đua ngựa, đứng sững một mình, nằm trên sông lớn, là chỗ đăng cao (treo đèn) và Tết trùng cửu của người địa phương” và núi Xuân Đài có động Hồ Công là danh thắng” (5).

Hai dãy núi này đều thuộc xã Vĩnh Ninh đối diện với vùng Đan Nê. Sông Mã chảy qua vùng này một bên là núi đá liên tiếp và bên kia là một núi đất nhỏ và vùng đất đồng bằng. Như vậy, sông Mã vào mùa nước lũ sau khi chảy qua các vùng thuộc miền núi và trung du vào địa phận vùng đồng bằng đã gặp một phía tả là núi giăng thành và do đó nguồn nước mạnh sẽ tập trung tràn về phía hữu, đến khi dòng nước mùa lũ rút để lại một lượng phù sa và dấu ấn những dòng nước đọng lại không rút ra sông Mã được.


________________________
(1) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời. Nxb Khoa học. 8.1965. tr.174.
(3) Đinh Văn Nhập : Đất Cửu Chân về thời Hai Bà Trưng. Tạp chí NCLS số 159- 1975. tr.22.
(4) Nguyễn Đình Thực: Sông đào thời Lê Hoàn. Tạp chí NCLS. số 178 1976. tr7.
(5) Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí. Tập II. Nxb KHXH H.1970. tr.226.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top