• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Lê Hoàn và bối cảnh định đô Thănh Long

Có thể hiểu nghĩa cả câu thơ gắn với hoàn cảnh đất nước lúc bây giờ mới chiến thắng quân xâm lược Tống năm 981 nên nguy cơ chiến tranh vẫn còn, chưa thật sự ổn định, giống như dây mây quấn quít, ràng buộc rất phức tạp. Câu thư đưa đến sự thức tỉnh, cảm nhận về vận nước, nếu khéo giữ thì được lâu bền, không khéo giữ thì dẫn đến rối ren, nguy biến.

Về hình thức, câu thư thể hiện bằng tiểu đối giữa “vận nước” và “dây mây quấn quít”’ được nối với nhau bằng liên từ “như”, qua đó tạo nên sự đăng đối và mối liên tưởng? liên hệ giữa “Vận nước” và “dây mây quấn quýt”; và ngược lại là hình ảnh dây mây quấn quít cũng giống như vận nước vậy. Cách thức đặt tiểu đối so sánh như thế giúp câu thư trở nên có hình ảnh, sinh động, rõ nghĩa, dễ đi vào tâm trí người đọc.

Nếu như câu thư mở đầu thiên về khơi gợi, nêu vấn đề về hiện tình đất nước thì câu thư tiếp theo Nam thiên lý thái bình (Trời Nam sửa sang nền thái bình) nhằm xác lập yêu cầu, biện pháp, cách thức giữ nước, thiên về sự khẳng định, mở đường chỉ lối.

Riêng chữ lý có nghĩa là liệu lý, điều hành, sửa sang chính sự để đất nước được yên bình, chúng dân no đủ. Việc xác định “Trời Nam sửa sang nền thái bình” là cách nói thẳng thắn, đầy tinh thần trách nhiệm của nhà sư trước hiện trạng đất nước đang như dây mây quấn quít, phức tạp. Đó cũng là sự tiếp nối, hô ứng với nội dung đã được nêu ra từ câu thơ trên.

Rõ ràng lời thư còn có ý nghĩa rộng lớn, vượt thời gian của một thời để thành bài học cho muôn đời, bởi lẽ triều đại nào cũng rất cần thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật, cần sự điều hành, sửa sang, vun đắp cho quốc gia được thái bình, thịnh trị. Ở đây, lời thơ dịch cũng đã theo sát được cả phần nội dung, ý nghĩa và vần điệu của nguyên tác:

Vận nước như mây quấn,
Trời Nam giữ thái bình. . .

Trong hai câu thơ sau, nhà sư nhấn mạnh phương hướng, xác định thể thức và biện pháp trị nước cho chính nhà vua. Câu thư Vô vi cư điện các (ở cung điện dùng đường lối “vô vi”) mang sắc thái như một lời khuyến cáo, khuyên bảo, cụ thể hoá được cách thức giữ thái bình cho đất nước. Hai chữ “vô vi” theo học thuyết Đạo giáo có nghĩa là không làm những việc trái tự nhiên.

Theo sách Đạo đức kinh của Lão Tử thì “đạo” vốn là vô vi, thuận theo lẽ tự nhiên. con người không nên can thiệp và đi ngược lại quy luật đời sống. Trong phép trị nước và hoạt động xã hội, bậc vua hiền tài vẫn có thể “vô vi nhi trị” đặt ra chính sách thuận lòng dân, trông coi bốn phương nhẹ nhàng tưởng như không làm gì cả mà đất nước vẫn yên bình, thịnh trị.

Nho giáo cũng đề cao vai trò “Đại biện hành hoá”, “Thế thiên hành hoá”, thay trời trị nước của nhà vua. Nếu nhà vua có đức sáng, có phẩm chất tốt đẹp thì trăm họ chúng dân sẽ tự nguyện theo về. Khổng Tử đã nói trong thiên Vi chính, sách Luận ngữ. “Vi chính dĩ đức thí như bắc thần cơ kỳ sở nhi chúng tinh củng chi” (Thi hành chính sự nhờ vào đức cũng giống như sao Bắc Đẩu đứng yên một chỗ mà các vì sao khác đều châu tuân về).

Một mặt khác, vì Pháp Thuận là một vị thiền sư cho nên cần hiểu hai chữ “vô vi” theo cả nghĩa “vô vi pháp” của nhà Phật nữa mới thật đầy đủ. Về thực chất thì đây cũng chỉ là một cách hiểu, một cách hình dung và cách diễn đạt khác về kế sách trị nước thuận theo quy luật tự nhiên mà thôi. Bởi lẽ thuật ngữ “vô vi pháp” có nghĩa là “Pháp xa lìa nhân duyên tạo tác”, hướng con người tới chân như, yên bình, tự tại.

Vận dụng vào việc trị nước, tinh thần “vô vi” của nhà Phật đề cao việc thuận theo nhân duyên, từ bi bác ai, dẫn tới giải thoát về nơi an lạc, cuộc sống thanh bình, không tạo tác nên những điều sai trái, gây phiền nhiễu cho dân, đi ngược lại xu thế chung.
 
Như vậy, theo Pháp Thuận thì nhà vua ở nơi cung điện giữ vai trò người điều hành chính sự cần có biện pháp phù hợp với mục đích trị nước an dân, không làm những việc tàn ngược, trái với lẽ thường. Chỉ có cách điều hành chính sự thuận theo tự nhiên như thế thì nhà vua mới hoà thuận với chúng dân, khéo léo xây dựng đất nước yên bình mà nhàn nhã như là không phải làm gì cả.

Đó cũng là yêu cầu cao đối với bậc vua sáng tôi hiền và hướng tới mục đích cao cả nhất: Xứ xứ tức đao binh (Khắp nơi dứt nạn đao binh). Phần dịch thơ hai câu sau này cũng cho thấy sự liền mạch, hô ứng, tiếp nối nhau giữa hành động à mục đích, biện pháp và kết quả:

Vô vi nơi điện các,
Chốn chốn dứt đao binh .

Có thể nói bài thơ Vận nước được viết bằng chữ Hán theo thể ngũ ngôn tuyệt cú Đường luật chỉ có 20 chữ, hết sức súc tích, ngắn gọn nhưng đã bộc lộ đầy đủ tình cảm, ý thức trách nhiệm của sư Pháp Thuận trước nhà vua và hiện tình đất nước.

Câu kết của bài thơ Chốn chốn dứt đao binh thực chất cũng chính là câu trả lời cho vấn đề “vận nước”, khẳng định cơ sở vững bền của vận nước trước sau cũng phải dựa trên nền tảng hoà bình, ổn định, thống nhất đất nước.

Bài thơ mang tính chính luận mà vẫn có sức sống lâu bền chính bởi đã đề cập đến vấn đề lớn lao của cả một dân tộc, khơi gợi hứng thú và mối quan tâm cho mọi người dân nước Việt.

Tiếp nối dòng thơ dấn thân nhập thế là bài từ Vương lang quy (Chàng Vương trở về) trong cuộc xướng hoạ thi ca với sứ giả nhà Tống Lý Giác của đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu diễn ra năm 987.

Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
Thần tiên phục đế hương.
Thên trùng vạn lý thiệp thương lang,
Cửu thiên quy lộ trường.
Tình thảm thiết,
Đối ly trường,
Phan luyến sứ tinh lang.
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương,
Phân minh tấu ngã hoàng.

(Nắng tươi gió thuận cánh buồm giương,
Thần tiên lại đế hương.
Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương,
Về trời xa đường trường.
Tình thảm thiết,
Chén lên đường,
Vin xe sứ vấn vương.
Xin đem thâm ý vì Nam cương,
Tâu vua tôi tỏ tường.)

(Hà Văn Tấn dịch)
 
Đến nay đã có nhiều tiểu luận tìm hiểu văn bản và phân tích nội dung tư tưởng của bài từ này . Trên phương diện tâm thế sáng tạo, chúng tôi cho rằng lời lẽ bài từ không hẳn là “mềm yếu, quá nhún nhường” mà thiên về cách đánh giá của Phan Huy Chú: “Nhà Tiền Lê tiếp đãi sứ nhà Tống, tình ý và văn thư rất là chu đáo. Khúc hát hay cũng đủ khoe có nhân tài mà quốc thể được thêm tôn trọng làm cho người bắc phải khuất phục”. (1)

3 . Nghiệm sinh tới 65 năm trên cõi đời (941 - 1005 ) và có tới 26 năm ở ngôi vua (980-1005), Lê Hoàn đã chứng kiến cả một thời thịnh trị cũng như tao loạn dưới triều vua Đinh; trải qua cả một thời nội loạn cũng như chống giặc phương bắc và đánh dẹp phương Nam; bản thân từng là tôi trung, tướng tải và cũng đạt tới đỉnh cao ngôi vị hoàng đế.

Sống vào giai đoạn giao thời, cả đất nước đang chuẩn bị tâm thế cho cuộc dời đô, xác định vững vàng chủ quyền dân tộc, bản lĩnh văn hoá và tạo đà cho một quá trình phát triển mới, Lê Hoàn đã xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với giới thiền sư, trọng dùng họ với tư cách là những bậc thiện tri thức tiêu biểu nhất thời bấy giờ.

Đáp lại niềm tin của Lê Hoàn, các thiền sư đã cùng bày mưu tính kế, góp phần đánh đuổi giác ngoại xâm cũng như mở mang bờ cõi, phát triển nền văn hoá - văn học dân tộc. Những việc làm trong cuộc đời cũng như tác phẩm mà các thiền sư để lại đã phản ánh sắc nét đời sống tinh thần dân tộc, biểu đạt được những giá trị tinh hoa văn hoá - văn học Phật giáo độc đáo ở một thời kỳ lịch sử.



LÊ ĐẠI HÀNH, VỊ VUA KHAI SÁNG TRIỀU TIỀN LÊ


PGS. Hà Đình Đức
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên. Đại học Quốc gia Hà Nội.

Năm 938, Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán giành độc lập cho đất nước chấm dút gần một ngàn năm Bắc thuộc, lập nên triều Ngô kéo dài 27 năm (939 - 965). Cuối triều Ngô, thổ hào, chúa đất nổi lên ở nhiều nơi dẫn đến tranh chấp thôn tính lẫn nhau gây nên tình trạng hỗn loạn, sử cũ gọi là loạn 12 sứ quân. Nền độc lập, thống nhất của đất nước bị đe doạ.

Trước tình hình đó, Đinh Bộ Lĩnh cùng các tướng lĩnh tài năng: Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn đã lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại 12 sứ quân thống nhất đất nước lập nên triều Đinh. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Lê Hoàn được nhà vua chọn và giao cho làm Thập đạo tướng quân, tổng chỉ huy quân đội của quốc gia.


___________________________
(1) Xin xem:
- Bùi Văn Nguyên: Về mấy câu thơ đối đáp giữa sư Thuận và sứ nhà Tống Lý Giác. Nghiên cứu Văn học số 6-1963, tr. 98-101.
- Phạm Thị Tú : Về bài Thơ đần tiên và tác giả của nó, sư Khuông Việt. Tạp chí Văn học. số 6- 1974. tr. 135- 138.
- Nguyễn Tài Cẩn: Vấn đề lập trường đối với nhà Tống trong bài Vuơng lang quy. Tạp chí Văn học, số 2- 1981 , tr. 137- 142.
- Nguyễn Hữu Sơn: Thiền sư Ngô Chân Lưu và một bài hơt bài từ ngoại giao. Tập văn Phật giáo (số Phật đản). TP. Hồ Chí Minh, 1988. tr. 46-47.
- Nguyễn Đăng Na: đề bài Vương lang quy từ - khảo sát và giải mã văn bản. Tạp chí văn học, số 1 - 1995. tr. 9 - 14.
 
Năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng là Đinh Liễn bị tên quan hầu là Đỗ Thích giết hại. Triều đình lập con thứ là Đinh Toàn lúc ấy mới 6 tuổi lên làm vua, tôn mẹ là Dương thị làm hoàng thái hậu. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn làm phó vương nắm binh quyền và được Dương thị giao phó quyền chấp chính thay vua.

Mùa thu năm 980, nhân lúc tình hình nội bộ nhà Đinh lục đục nhà Tống đem quân sang xâm lược nước ta. Dương Thái hậu giao cho Lê Hoàn đem quân đi đánh giặc. Các tướng lĩnh đã đề nghị Dương Thái hậu trao áo long cổn cho Lê Hoàn và chính thức mời Lê Hoàn lên làm vua để thuận lợi lãnh đạo kháng chiến (1).

Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi đã củng cố vững chắc thêm nền độc lập thống nhất của đất nước. Từ khi lên ngôi hoàng đế, Lê Hoàn chú trọng đến kế sách ngoại giao với các nước trong khu vực. Đối với Chiêm Thành ở phía nam, nhân việc vua Chiêm bắt giam sứ giả của Đại Cồ Việt, nhà vua nổi giận, sai đóng chiến thuyền, rèn sửa vũ khí chuẩn bị đánh vào Chiêm Thành.

Đoạn đường bộ từ châu Ái trở vào núi non hiểm trở rất khó đi, đường biển thì sóng to gió lớn. Nhà vua bèn cho đào kênh từ núi Đồng Cổ (Yên Định, Thanh Hoá) đến Bà Hoà (TĩnhGia, Thanh Hoá). Công trình hoàn tất trong vòng hai năm, giúp cho việc vận chuyển quân đội, lương thực vũ khí tiến đánh Chiêm Thành.

Mùa xuân Nhâm Ngọ (982), nhà vua tự khởi binh đi đánh Chiêm Thành. Ngay trận đầu ra quân giao chiến, quân ta đã ồ ạt xông lên, vua Chiêm là Bê Nhi Thuế bị chém chết ngay tại trận. Thành trì bị san phẳng. Quân Chiêm thua lo, nhiều tướng sĩ bị quân ta bắt sống, thu được nhiều vàng bạc châu báu.

Sau khi chinh phạt Chiêm Thành thắng lợi trở về, Lê Đại Hành lại chủ trương thông hiếu với nhà Tống. Vua nói: “Kết thân với hùm sói là một điều ngu dại, tin vào bằng hữu và bụng dạ ngay thật của hùm sói là việc làm còn ngu dại hơn. Nhưng ta cũng không nên chọc giận hùm sói mà làm chi, xua đuổi hùm sói quyết không xua đuổi đến cùng đường. Mỗi năm một vài lần ta ném cho hùm sói khúc xương, miếng thịt để chúng ở yên mà không quấy rầy ta thì chẳng phương hại chi, nhược bằng hùm sói không chịu nằm yên, nhất định nhảy vào nhà ta để tác yêu, tác quái thì cả nhà không phân biệt già trẻ, lớn bé phải lấy hết tính mạng mà bẻ nanh vuốt chúng”. (2)

Năm Quý Mùi (983) vua sai sứ sang nhà Tống, đây là đoàn sứ bộ đầu tiên của ta sang nước Tống kể từ sau chiến thắng mùa xuân năm 981 . Ba năm sau, năm Bính Tuất nhà Tống cử sứ giả sang phong vua là An Nam đô hộ Tĩnh hải quân Tiết độ sứ kinh triệu quận hầu. Khi tiếp sứ, nhà vua cho bày đồ quý ở sân điện để chứng tỏ sự giàu có, đồng thời tiếp đãi sứ rất nồng hậu, lại đem hai bại tướng là Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân cùng nhiều quân sĩ bị bắt trong chiến tranh mùa xuân năm 981 trao trả lại cho nhà Tống.

Lê Đại Hành đã thi hành một loạt chính sách nhằm phát triển kinh tác văn hoá. Năm Giáp Thân (984), nhà vua cho đúc tiền Thiên Phúc, lưu hành trong cả nước. Mở một số trung tâm thương mại lớn: Trường Yên, Long Biên và Tống Dinh... Kinh đô Hoa Lư được mở mang, dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân, cột dát vàng bạc làm nơi coi chầu. Phía đông là điện Phong Lưu, phía tây là điện Tử Hoa. Bên tả là điện Bồng Lai, bên hữu là điện Cực Lạc. Xây lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua nghỉ. Bên cạnh điện Trường Xuân là điện Long Tộc mái lợp ngói bạc. Một số đền chùa trong nước cũng được tu tạo lại.


_____________________________
(2) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Tập 3. Nxb Khoa học xã hội. N. 1992. tr. 251 .
(2) Vua Lê Đại Hành và quê hương làng Trung Lập. Nxb. Thanh Hóa. 2003. trg. 51.
 
Nhà vua rất coi trọng nghề nông, đã lấy ngân khố nhà nước tiến hành nạo vét kênh ngòi phục vụ tưới tiêu và giao thông vận tải. Kéo dài và nối liền kênh từ Đồng Cổ - Bà Hoà với kênh Đa Cái (Hà Tĩnh) đến giáp Quảng Bình. Nhân dân thường gọi là kênh nhà Lê. Chính hệ thống kênh này còn được sử dụng vận chuyển lương thực và vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đã được Nhà nước công nhận là Di tích Lịch sử văn hoá.

Lê Đại Hành thực hiện chủ Trường “Dĩ nông vi bản” (lấy nghề nông làm gốc). Mùa xuân Đinh Hợi (987) vua lần đầu tiên đi cày ruộng tịch điền ở núi Đọi. Truyền thuyết kể rằng:

“Vua cày ruộng ở núi Đọi được một hũ vàng, lại cày ở Bàn Hải được một hũ bạc. Nhân dân đặt tên hai xứ ấy là ruộng kim ngân”.

Năm Bính Tuất (986). Lê Đại Hành cho kiểm kê dân số cả nước nhằm cân đối lực lượng lao động và lực lượng vũ trang (binh lính và hương binh). Quân đội Đại Cồ Việt lúc bấy giờ rất hùng mạnh nên các nước láng giềng đều nể sợ.

Năm Nhâm Dần (1002), nhà vua thực hiện cải cách trong quân đội, cho tuyển chọn lính, chia tướng hiệu thành hai ban văn và võ, đổi 10 đạo trong nước thành lộ, phủ, châu và bên dưới là hương, xã.

Lê Đại Hành đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ và phát huy vốn cổ văn hoá dân tộc. Nhiều nghệ nhân múa hát tài ba lúc bấy giờ như Dương Thị Như Ngọc, Phạm Thị Trâm được nhà vua phong chức “Ưu bà” và sai dạy cho binh sĩ múa hát.

Từ cuộc đua thuyền nhân ngày sinh của nhà vua đã trở thành ngày hội của cả nước và sau đó được coi là nghi thức quốc gia mỗi khi tiếp sứ thần nước ngoài. Hoạt động này thể hiện tinh thần thượng võ đồng thời nhà vua cũng có ý ngầm phô trương sức mạnh của thủy quân nước ta với các sứ thần trong khu vực.

Chuyện xưa kể rằng có lần tiếp sứ thần nhà Tống, vua ta đã mời sứ thần ăn trầu, theo nghi lễ ngoại giao sứ thần đều phải làm theo, tuy người Tống không có tục nhuộm răng đen và ăn trầu như người Giao Châu. Vì vậy nên trong dân gian có câu:

Thà cho thịt nát xương tan.
Cớ chi lại chịu một đàl trắng răng.

Trong đời thường nhà vua thường đi điền dã xem nhân dân cày cấy, làm gốm, dệt lụa, đến thăm các xưởng sản xuất quân khí, đóng thuyền chiến và tham gia các lễ hội...

Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (941) tại trang Kẻ Xốp, nay là làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá, trong một gia đình nông dân nghèo. Lên sáu tuổi đã mồ côi cả cha lẫn mẹ phải đi làm con nuôi cho nhà người. Khi lớn lên ông theo Nam Việt Vương Đinh Liễn. Từ một người lính đã tự thân học hỏi rèn luyện, ngoài hai mươi tuổi ông đã trở thành viên tướng dũng lược tài ba, chỉ huy hơn hai ngàn quân sĩ.

Mười năm sau ông đã là viên quan đầu triều, thống soái chỉ huy quân đội cả nước. Do biến cố của lịch sử và nhờ tài năng kiệt xuất của mình, Lê Hoàn đã được Quốc mẫu Đàm thị (mẹ vua Đinh Tiên Hoàng) và Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng sĩ tôn lên ngôi hoàng đế.

Lê Đại Hành đã có công lớn đánh đuổi quân xâm lược nhà Tống giành lại độc lập cho đất nước, chinh phục Chiêm Thành để giữ yên bờ cõi. ông còn có nhiều công lao trong cải cách hành chính, củng cố quân đội, mở mang phát triển nông nghiệp, bảo tồn và phát huy vốn văn hoá dân tộc. Ông là người khai sáng triều Tiền Lê kéo dài 29 năm (980 -1009).
 
Lê Đại Hành ở ngôi 24 năm, mất ngày 8 tháng 3 năm ất Tỵ ( 1005 ) tại Hoa Lư, thọ 65 tuổi, táng tại sơn lăng thuộc châu Trường Yên. Nhân dân quê hương ông đã lập miếu thờ nhà vua ngay trên mảnh đất nơi ông đã sinh ra.

Đến Đầu thời Lý đã xây dựng lại thành đền thờ vua Lê Đại Hành theo hình chữ công, gồm nhà tiền đường năm gian, trung đường ba gian và hậu cung năm gian. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử và thời gian, ngôi đền vẫn được nhân .dân gìn giữ, tôn tạo và được bảo vệ nguyên bản cho đến tận ngày nay.

Ngày mồng 8 tháng 3 năm nay (Ất Dậu) tức ngày 16 tháng 4 năm 2005 tại đền thờ Lê Đại Hành trên quê hương ông, tỉnh Thanh Hoá long trọng tổ chức lễ dâng hương nhân ngày giỗ lần thứ 1000 của vua Lê Đại Hành, để tưởng nhớ đến công lao to lớn của ông đối với quê hương, đất nước.




Phần bốn

LÊ HOÀN, NHÀ TIỀN LÊ
VÀ BỐI CẢNH ĐỊNH ĐÔ THĂNG LONG


LÊ HOÀN, NGƯỜI TỔ CHỨC, PHÁT HUYVÀ KHƠI MỞ
NHIỀU TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA VĂN HOÁ DÂN TỘC

PGS. TSKH. Nguyễn Hải Kê
Khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH&NV Đại học Quốc gia Hà Nội

1. Lê Hoàn - người chèo lái con thuyền quốc gia Đại Cồ Việt khi vận nước lâm nguy

Mùa đông - 979, tại kinh đô Hoa Lư của quốc gia Đại Cồ Việt, chỉ một đêm cả hai cha con vua Đinh Bộ Lĩnh bị sát hại. Định Quốc công Nguyễn Bặc tổ chức truy lùng, bắt được kẻ ám sát, rồi cùng Ngoại giáp Đinh Điền, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn rước Vệ vương Toàn - con còn lại của Đinh Bộ Lĩnh mới 6 tuổi, lên ngôi hoàng đế. Lê Hoàn làm Phó vương nhiếp chính.

Nhưng, Định Quốc công Nguyễn Bắc, Ngoại giáp Đinh Điền, Phạm Hạp “ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ” (1) bèn cùng nhau dấy binh. muốn tiến đến kinh đô, giết Lê Hoàn (2) “làm kinh động nước nhà. Vua còn nhỏ yếu chưa kham nổi nhiều nạn”.


_______________________
(1) Ngô Sỹ Liên và sử thần triều Lê: Đại việt sư ký toàn thư. bản kỷ. Q 1 . tờ 7a. Theo bản khắc năm Chính Hoà 18- 1697. Bản dịch của Ngô Đức Thọ. hiệu đính của Hà Văn Tấn. Nxb. KHXH, H.1998. Tập 1, trg. 215. Từ đây viết tắt là Toàn thư.
(2) Về sự kiện này, Ngô Thì Sỹ dân thêm Dật sử. có chi tiết: hoàn lúc mới nhiếp chính. bọn Nguyên Bắc biết Hoàn tất sẽ cướp ngôi, bèn đưa con em đón Hoàn ở ngang đường, lấy đại nghĩa để trách Hoàn; rồi định đưa thân liều chết. Hoàn nói rằng: “các ông lầm rồi, ta há phải là kẻ làm phản”. “Thế rồi an ủi nhau giải lán ra về, nhưng mỗi người đều có chí nhằm sơ hở để loại trừ nhau. Đến khi Hoàn đưa quân vào trong cung nhận nhường ngôi, bọn Bặc không chịu khuất phục đều bỏ trốn. Hoàn cũng không hỏi đến” Ngô Thì Sỹ: Đại Việt sử ký tiền biên. bản kỷ. Q. 1. tờ 11a. Bản dịch của Lê Văn Bảy, Nguyễn Thị Thảo, Dương Thị The, Phạm Thị Thoa. Nxb KHXH. N. 1997: tr. 160
 
Ngay thời gian đó, hay tin cha con Đinh Bộ Lĩnh mất, rồi triều đình như vậy, từ phía nam, Ngô Nhật Khánh, con rể “bất đắc dĩ” của cố hoàng đế dẫn hơn ngàn chiếc thuyền quân Chiêm Thành theo cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang nhằm chọc thẳng vào kinh đô Hoa Lư.

Phía Bắc: Hầu Nhân Bảo - Tri châu Ung báo về vua Tống. “An Nam quận vương cùng với con là Liễn bị giết chết, nước ấy sắp mất, có thể nhân lúc này đem một cánh quân sang đánh lấy. Nếu bỏ lúc này không mưu tính, sợ lỡ mất cơ hội”.

Chẳng chờ viên Tri châu này về triều, vua Tống, theo lời bàn của Lư Đa Tốn cho rằng “An Nam rối loạn bên trong. Đó là lúc trời làm mất” đã áp dụng chiến lược bất ngờ đánh úp sét đánh không kịp bịt tai”; giao cho Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu lục lộ thuỷ bộ chuyển vận sứ với cả một đoàn tướng tá Kinh Hồ như Tôn Toàn Hưng, Hác Thủ Tuấn, Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn. . . họp quân cả bốn hướng hẹn ngày sang xâm lược.

Hơn 40 năm sau Bạch Đằng 938, đất nước dẫu vẫn còn không ít khó khăn, song chưa bao giờ vận nước lại mong manh đến thế!

Trong thời điểm cực kỳ nghiêm trọng với sự tồn vong của quốc gia dân tộc, trọng trách chèo lái con thuyền quốc gia Đại Cồ Việt được trao vào tay Lê Hoàn.

2. Lê Hoàn - người chuyển nguy thành an, ưu thế nước đi lên

Trước áp lực của tập hợp Nguyễn Bặc, Đinh Điền, lời khẳng định của Lê Hoàn trước Thái hậu: “Thần ở chức Phó vương nhiếp chính, dù sống chết biến họa thế nào đều phải đảm đương trách nhiệm” thể hiện rõ bản lĩnh, vượt qua những thói tục tầm thường, dám chịu trách nhiệm của vị Tổng chỉ huy các lực lượng võ trang trước đòi hỏi của vương triều, mệnh nước.

Mối lo Đinh Điền, Nguyễn Bắc, Phạm Hạp được loại trừ nhanh chóng.

Với nạn xâm lược của nhà Tống.

Cuộc xâm lược quy mô, được nhà Tống chuẩn bị gần nửa năm (từ cuối mùa hạ, tháng 6 năm Canh Thìn - 980 đến mùa xuân năm Tân Tỵ - 981 ) huy động 3 vạn quân với một loạt các tướng lĩnh.

Chỉ trong thời gian ngắn (mùa xuân năm 981 ) quân dân Đại Cồ Việt do Lê Hoàn “tự làm tướng” đã ghi vào lịch sử dân tộc vũ công chói lọi “đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được”(Lê Văn Hưu), “. . . đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là anh hùng nhất đời vậy” (Ngô Sỹ Liên). (1)

Với vấn nạn từ phía nam, khí thiêng sông núi Đại Cồ Việt đã trợ phù cho vận nước khi chỉ qua một đêm trong nam 979, ngay trên cửa biển không xa kinh đô Hoa Lư, gió bão giáng đòn “Đại Ác” đã làm lật đắm thuyền khiến “Ngô Nhật Khánh cùng đám quân Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát về nước”. Tuy nhiên, không phải vì thế mà mối đe doạ từ phía nam vĩnh viễn được loại trừ.

Năm 982, hai viên sứ giả của Lê Hoàn là Từ Mục và Ngô Tử Canh bị triều đình Chiêm giữ.


______________________
(1) Xem Nguyễn Quang Ngọc : Lê Hoàn và chiêm thắng Bạch Đăng năm 981, báo cáo trong Hội thảo.
 
Lê Hoàn liền “sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh”. Cuộc nam chinh lần ấy của Lê Hoàn kéo dài trọn 1 năm - lâu nhất trong các vua thời phong kiến Việt.

Như vậy là chỉ trong vòng 3 năm, từ khi lên ngôi, hai mối đe doạ trực tiếp đến độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia Đại Cồ Việt từ phương Bắc và phương Nam đã được Lê Hoàn giải quyết nhanh, gọn.

Điều đặc biệt quan trọng là trước, trong và sau quá trình giải quyết những vấn nạn thuộc về địa - chính trị thường xuyên này của quốc gia, Lê Hoàn còn tạo ra một thế mới, mẫu mực trong nguyên tắc bang giao với triều đình phương Bắc, và mở đầu một quá trình lãnh thổ - văn hoá xuống phương nam mà các triều đại phong kiến Việt Nam về sau tiếp tục tuân thủ và phát triển. (1)

3. Lê Hoàn - người khơi mở nhiều điển lễ văn hoá

Các nguồn sử liệu như Đại Việt sư ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí khi biên chép các sự kiện từ kỷ nguyên độc lập tự chủ thời Ngô Quyền trở đi, thường có những điển lễ, sự kiện, gắn với chữ “thủy” (bắt đầu) “sơ” (đầu tiên):

Chẳng hạn:

“Kỷ Hợi - 939, mùa xuân, vua bắt đầu xưng vương”.

“Năm Mậu Thìn - 968. . . vua lên ngôi, bắt đầu dựng đô mới”. (2)

Nếu hơn 40 năm của thời Ngô, Đinh (938 đến 980) chỉ có 2 lần như vậy, thì trong 24 năm của thời Lê Hoàn, bên cạnh những điển lễ , . . . đi liền với chữ “bắt đầu", còn có những chữ “hậu dĩ vi thường” (về sau làm thành lệ thường) . . .

Mùa thu, tháng bảy ngày rằm, năm Ất Dậu - 985, nhằm vào lễ sinh nhật của Lê Hoàn, “vua sai người làm thuyền ở giữa sông, lấy tre làm núi giả đặt trên thuyền, gọi là Nam Sơn, rồi bày lệ vui đua thuyền, về sau thành lệ thường” (3).

Mùa xuân năm Đinh Hợi - 987, “vua lần đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi (Hà Nam), lại cày ở núi Bàn Hải”(?)
Từ năm 989 đến 995, Lê Hoàn đã lần lượt phong vương cho các con (gồm cả con nuôi):


____________________
(1) Tham khảo các báo cáo tại hội thảo: Phạm Xuân Hằng: Lê Hoàn và buổi đầu của nền ngoại giao độc lập Đại Cồ Việt.
Trần Thị Băng Thanh: Lê Hoàn và một giai đoạn mới trong cuộc bang giao lưới nhà Tống.
Hà Duy Biển: Lê Hoàn và qúa trình lãnh thổ về phía nam của cộng đồng dân tộc Việt Nam thời quốc gia độc lập tự chủ.(2 ) Toàn thư. Q.1 . tờ 2b, Sđd, tr.211
(3) Toàn thư. Q.2. tờ 17a, Sđd. tr. 223.
 
Về việc phong vương cho các hoàng tử, Ngô Thì Sỹ đánh giá:

“Các hoàng tử đời Lý Trần đều được phong tước vương. Người nào công đức to hơn thì thêm chữ Đại, có lẽ là phong theo lệ này”.

Lê Đại Hành tránh cái loạn của nhà Đinh phong khắp cho con gồm 13 tước vương, chia nhau ở các châu quận. Có lẽ là theo lối ngày xưa. Muốn nơi lớn nhỏ ràng buộc lẫn nhau, lúc nguy cấp thì cứu nhau, chống kẻ khinh rẻ mà giữ sự bền lâu, không thể thừa cơ dòm ngó như mình đối xử với nhà Đinh. Lo nghĩ cũng chu đáo đấy, phương pháp cũng chặt chẽ đấy”. (2)
Lưu ý là:

- 8/9 vị hoàng tử đều được phân công phía Bắc Hoa Lư, ở lại bên bờ Bắc - nam sông Hồng hiện nay.

- Chỉ có 1 hoàng tử đóng quân ở Vũ Lung (thuộc Thanh Hoá ngày nay) phía nam Hoa Lư.

Mặt khác qua danh hiệu tước vương của các hoàng tử, thất là các hoàng tử phụ trách ở vùng trung tâm châu thổ, khu vực hai bên bờ nam, Bắc sông Hồng: Hành Quân ương, Ngự an vương, Ngự Bắc vương, Phiên Định vương, Trung Quốc ương. . . đã gợi ý những nhiệm vụ, sứ mạng mà Lê Hoàn đang đặt ra, đòi hỏi các hoàng tử phải đảm trách ở vùng châu thổ này, vừa cho thấy rõ Lê Hoàn bằng hành động thực tế đã rất coi trọng vùng trung tâm châu thổ sông Hồng.


_____________________
(1) Ngô Thì Sỹ : Đại Việt sử ký tiền biên biên. Q. 1. tờ 28a-b. Nxb Khoa học xã hội. H. 1997. tr 175.
(2) Ngô Thì Sỹ : Đại Việt sử ký tiền biên. q1 . tờ 45b. Sđd. tr. 189.
Vùng này vào những năm cuối của thiên kỷ thứ nhất vẫn còn những hoạt động lẻ tẻ chống đối lại triều đình mà sử cũ gọi là “giặc”. Năm Đinh Dậu - 997, Lê Hoàn “thân đi đánh giặc ở Đỗ Động Giang (vùng Thanh Oai - Hà Tây ngày nay), bắt được đồ đảng đem về kinh sư. Năm Canh Tý - 1000 “xuống chiếu đi đánh giặc ở châu Phong vùng Sơn Tây, Phú Thọ) là bọn Trịnh Hàng, Đan Trường ôn” . . .

Như vậy, chính việc tập trung đến 8/9 con trai - lực lượng thân tín của mình vào khu vực này với những sứ mạng hành quân , ngự man , phiên định . . . và bản thân dẫn quân đi đánh dẹp lực lượng chống đối ở Đỗ Động Giang, cho thấy Lê Hoàn đánh giá cao vai trò của vùng châu thổ, mong ổn định tình hình ở trung tâm châu thổ. Quá trình đó, rõ ràng đã chuẩn bị địa bàn trực tiếp, để hơn 10 năm sau đó Lý Công Uẩn có thể ung dung quyết định rời đô lừ Hoa Lư về Đại La.

Nhận xét về thế nước Đại Cồ Việt cũng như công việc phát triển kinh tế văn hoá, xã hội đất nước của vua Lê Hoàn, Ngô Thì Sỹ rồi Phan Huy Chú đều thống nhất cách đánh giá:

“Sứ thần Trung Quốc phải tôn sùng, tù trưởng sơn động hết chuyện làm phản. Thành Hoa Lư phồn vinh hơn cả nhà Đinh. Còn lưu ý đến sức dân, quan tâm đến chính sự của nước, chú trọng nghề làm ruộng, nghiêm ngặt việc biên phòng, quy định pháp lệnh. Tuyển lựa quân ngũ, . . . có thể nói là hết sức siêng năng , hết lòng lo lắng” (1) .

Với 24 năm ở cương vị cao nhất của quốc gia, Lê Hoàn đã hoạt động không mệt mỏi vì sự phát triển của quốc gia Đại Cồ Việt Không phải ngẫu nhiên mà hơn 700 năm trước, có người hỏi Lê Văn Hưu ( 1230 - 1322):

“Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Lê Văn Hưu đáp: “Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt Nam, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn” (2).

4. Lê Hoàn - người tập hợp, quy tụ, tổ chức, phát huy, nhân lên có hiệu quả nhân tài, sức mạnh quốc gia, dân tộc.

Mùa thu năm Canh Thìn - 980, khi có tin quân Tống sắp sang, cùng với việc chọn dũng sĩ đi đánh giặc, Lê Hoàn quyết định “lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cự Lạng làm Đại tướng quân” (3).

Vị tướng người huyện Chí Linh (Hải Dương) ấy chẳng phải ai xa lạ. Chính là em trai Phạm Hạp - Vệ uý đời vua Đinh Bộ Lĩnh, một trong ba người cầm đầu phái tổ chức cuộc tấn công Lê Hoàn, đã bị chính Lê Hoàn truy kích lên tận Cát Lợi (Bắc Giang) và bắt sống đem về Hoa Lư.

Và, trong giờ phút khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân, thì Cự Lạng, người đang mang mối thù về anh trai bị bắt, lại cùng với các tướng khác dưới quyền của Lạng, “đều mặc áo trận, đi thẳng vào Nội phủ”. . .

Nhưng, chính Phạm Cự Lạng(4), chứ không phải là ai . khác, xướng xuất với mọi người: thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thư, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài may có chút công lao, thì có ai biết cho. Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn”.
 
Quân sĩ nghe vậy đều hô vạn tuệ!

Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn, khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi hoàng đế. (1)

Như vậy là sau hơn nửa năm làm Phó vương nhiếp chính, cho đến lúc này, khi lực lượng chống đối (hay hiểu nhầm?) như Nguyễn Bặc, Đinh Điền. . . đã không còn nữa, đất nước đang đứng bên bờ vực mất còn của hoạ ngoại xâm, và chỉ khi “mọi người vui lòng quy phục” , Lê Hoàn mới chính thức lên ngôi.

Cuộc chuyển giao ngôi vua từ triều Đinh sang Lê - đến thời điểm này đã diễn ra như có bàn tay của đạo diễn bậc thầy. Sau khi Lê Hoàn lên ngôi, cựu hoàng đế - cậu bé Đinh Toàn 6 tuổi được giáng phong mà thực chất là trở về vị trí cũ làm Vệ vương.

Hai mươi mốt năm sau, năm 1001, khi cùng Lê Hoàn tấn công lực lượng chống đối ở miền Cử Long (vùng Lạc Thuỷ - Thanh Hoá), Vệ vương Đinh Toàn đã hy sinh tại trận khi 28 tuổi.

Tiếp tục tinh thần từ triều Đinh, những trí thức hàng đầu của quốc gia như thiền sư Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu (933- 1011). . . càng được Lê Hoàn trọng dụng . Thiền sư Pháp Thuận (915-990) trong buổi đầu khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư có công bàn hoạch định sách lược. Khi thiên hạ thái bình sư không nhận chức tước của triều đình phong thưởng, vua lại càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, mà gọi là Đỗ Pháp sư, thường uỷ thác cho sư các công việc văn hàn. . . Vua từng hỏi sư về vận nước ngắn dài”. (2)

“Trong văn kiện bang giao lúc bấy giờ, như bức thư xin nối ngôi của Vệ vương Toàn thấy được bút pháp uyển chuyển khúc chiết, đúng thể cách. Cho đến câu thư nối vần thiên nha, khúc ca tiễn sứ giả, tình tứ sắc bén đầy đủ, dù văn nhân, từ khách ngày nay cũng không hơn được” (3)

Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 - 1011) - người đã được vua Đinh Bộ Lĩnh phong chức Tăng thống, ban hiệu Khuông Việt đại sư từ năm 971 , tiếp tục được sự kính trọng đặc biệt của Lê Hoàn “phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều được tham dự .

Thời đại Lê Hoàn ngoại giao Việt-hán không chỉ trước, trong và sau chiến tranh xâm lược của nhà Tống (981) đã được phát triển đến một tầm cao mới. Một trong những nguyên nhân quan trọng của thành công này, vì Lê Hoàn đã tin cậy, trao phó cho các đại trí thức như Khuông Việt Ngô Chân Lưu, Pháp Thuận . . .

Chính thiền sư Vạn Hạnh (?- 1018 ) - người thiết kế, tổ chức tài giỏi - trụ cột của Lý Công Uẩn, của kinh thành Thăng Long khái mở thập niên đầu tiên của thiên niên kỷ mới, cũng đã được vua Lê Hoàn “đặc biệt tôn kính” (4). . .


___________________
(1) Dẫn theo: Thiền uyển tập anh. bản dịch của Ngô Đức Thọ. Nguyễn Thuý Nga. Phân viện Phật học và Nxb Văn học. N. 1990.
(2) Ngô Thì Sỹ. Đại việt sử ký tiền biên . Q. 1 . tờ 24b. Sđd. tr. 171
(3) Thiền uyển tập anh. Sđd.
(4) Tham khảo Nguyễn Hữu Sơn: Loại hình tác phẩ’/1 Tniền n ăn tạp anh. Nxb KHXH. H.2003 và báo cáo: Lê Hoàn với Phật giáo và văn hóa - văn học Phật giáo thời Lê Hoàn tại hội thảo.
 
Trong triều đình Lê Hoàn có thái sư Hồng Hiến (?-988) là người Trung Hoa, “thông hiểu kinh sử, thường theo cuộc chinh phạt, làm quân sư, cùng là khuyên vua lên ngôi, mưu bàn việc nước có công lớn? vua tin dùng như tâm phúc” (1).

Nhận xét về đội ngũ trong triều đình nhà Tiền Lê thời Lê Hoàn, Ngô Thì Sỹ viết: “anh tài nước ta đời nào cũng có, thường không thiếu người dù không thấy được cụ thể nuôi dạy thành tài, không chép việc soạn thảo của các văn thần, nhưng Hồng Hiến do học rộng mà làm đến tam sư, sư Thuận, sư Chân Lưu làm cao tăng cũng đảm đương được trách nhiệm đối đáp (2).

Trong lịch sử của triều đình Việt Nam thời độc lập tự chủ, Lê Hoàn thuộc vào hàng ít ỏi các vị vua anh minh có bản linh và mềm tin dùng người - như là một mẫu mực về phương pháp sử dụng chuyên gia như vậy.

Trong thời điểm cam go nhất của vận mệnh quốc gia dân tộc từ viên Thập dạo tướng quân quen trận mạc, Lê Hoàn đã được tín nhiệm trao đám trách chèo lái con thuyền quốc gia.

Con thuyền Đại Cồ Việt dưới sự chèo lái của Lê Hoàn đã vượt qua mọi nguy hiểm khó khăn, cập bến vinh quang, mở ra kỷ nguyên “nam thiên lý thái bình” (trời Nam mở nền thái bình). Việc chuyển giao từ Đinh sang Lê, được thực hiện một cách ít đổ bể, đứt đoạn nhất. Sức mạnh dân tộc được tổ chức, “kết tinh thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nhấn chìm lũ cướp nước”.

Lê Hoàn không phải là vị vua mở đầu cho thời kỳ độc lập tự chủ của Việt Nam, không phải là vị vua thọ nhất, hay vị vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các vương triều của quốc gia, nhưng nhiều hoạt động của Lê Hoàn đã trở thành điển lễ gây dựng, khơi mở những (truyền thống quý báu của văn hoá Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn, sức mạnh của triều đình Tiền Lê, của quốc gia Đại Cồ Việt được thống nhất, nhân lên và phát huy chính là thông qua con đường đại đoàn kết, tập hợp phát huy mọi lực lượng quốc gia, trí thức của thời đại. Đó chính là cội nguồn, tâm điểm, đích thực trí tuệ, tài năng, nghị lực, nhân cách, bản lĩnh của Lê Hoàn.

* Trong vòng 25 năm từ cuối 979 đến tháng ba năm 1005.

Con thuyền Đại Cồ Việt dưới sự chèo lái của Lê Hoàn đã trải qua những thử thách nghiêm trọng nhất:

Việc chuyển giao từ Đinh sang Lê không bị đứt đoạn.

Tiềm năng, sức mạnh, trí tuệ dân tộc dưới ngọn cờ Lê Hoàn được tổ chức, phát huy, kết thành một làn sóng vô cùng thạnh mẽ, lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn nhấn chìm lũ cướp nước. “Năm 981 và sau đó được tiếp tục nhân lên. phát huy trong hướng tới kỷ nguyên Nam thiên lý thái bình (Trời Nam mở thái bình)”.

Không phải là vị mở đầu cho thời kỳ độc lập tự chủ của Việt Nam.

Không phải là vị vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các vương triều của quốc gia.

Nhưng nhiều hoạt động của Lê Hoàn đã trở thành điển lễ, gây dựng những truyền thống quý báu của văn hoá Việt Nam.

* Hơn sáu mươi năm, sớm tắm mình trong trường đời, trong cuộc đấu tranh gian khổ, sôi động và không mệt mỏi vì công cuộc thống nhất đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc, kiến thiết và hưng thịnh quốc gia dân tộc, quy tụ và phát huy mọi tiềm năng sức mạnh, trí tuệ của quốc gia, đó chính là cội nguồn tạo nên sức mạnh, trí tuệ, nhân cách, bản lĩnh đích thực của Lê Hoàn, là con đường duy nhất để từ một cậu bé sinh vào đúng rằm tháng bảy năm 941, lại sớm bị mồ côi cả mẹ lẫn cha, với buổi thơ “trăm điều cô đơn, cay cực”,... trở thành một vị vua anh hùng, anh minh, rạng rỡ non sông không chỉ riêng của thế kỷ thứ X.

______________________
(1) Toàn thư, Q.1. tờ 9a. Sđd. tr.226.
(2) Ngô Thì Sỹ: Đại Việt sử ký biên.
 
LÊ ĐẠI HÀNH VÀ SÓC THIÊN VƯƠNG

Nguyễn Vinh Phúc
Hội Sử học Hà Nội.


Thế là Lê Đại Hành vị vua quê ở Ái Châu, đóng đô ở Trường Châu lại có cơ duyên với thành Đại La tức Hà Nội ngày nay.

Xin bắt đầu từ một câu chuyện được ghi trong tập Lĩnh Nam chích quái, đó là Truyện quôc sư xây đền Sóc Thiên vương. Chuyện như sau:

“Thời Lê Đại Hành, Khuông Việt thái sư Ngô Chân Lưu thường lưu lạc tới hương Bình Lỗ (còn gọi là Vệ Linh Sơn), mến thích phong cảnh thanh u đẹp đẽ ở đây, bèn dựng một ngôi am mà ở.

Đêm, vào lúc canh ba, sư mộng thấy có vị thần đeo qua vàng, cưỡi ngựa sắt, tay trái cầm cây thương vàng, tay phải cầm bảo kiếm, theo sau tới hơn mười người, diện mạo đáng sợ, tới mà nói rằng: “Ta là Tỳ sa môn đại vương, kẻ theo sau đều là thần Dạ thoa. Thiên đế có sách sai ta tới Bắc quốc để bảo hộ hạ dân ở đó. Ta vốn có duyên với người, cho nên tới báo để ngươi biết”.

Thái sư kinh hoàng tỉnh dậy, nghe thấy trong núi có tiếng thét, trong lòng vô cùng sợ hãi, bèn vào thân núi, thấy một cây lớn có mây lành vây ở trên bèn sai thợ tới đốn để tạc tượng thần như hình dạng trông thấy trong mộng, rồi lập đền thờ, hương lửa cúng vái.

Năm Thiên Phúc thứ nhất, quân Tống vào ăn cướp, bên ta sai quân tới đền cầu khẩn. Khi ấy, quân Tống đóng ở thôn Tây Kết, hai bên chưa giao chiến, quân Tống trông thấy đã kinh hãi lui về giữ Đại giang, lại gặp lúc sóng nổi cuồn cuộn, giao long nổi lên mặt nước, quân giặc tan vỡ. Vua cảm sự anh linh của thần, bèn xây thêm miếu võ, phong làm Sóc Thiên Vương để trấn phương Bắc.

Đền ở xã Vệ Linh, huyện Kim Hoa, thường xuyên phụng thờ không bao giờ ngớt. Có người cho rằng Đổng Thiên vương sau khi dẹp được giặc, cưỡi ngựa sắt tới cây đa núi Vệ Linh thì lên trời chỉ để lại một cái áo. Tới nay người đời gọi cây này là cây thay áo”.

Trong câu chuyện trên, ta thấy có nhắc tới ở hương Bình Lỗ có núi Vệ Linh. Nhiều nhà nghiên cứu như Nguyễn Vinh Phúc, Lê Văn Lan đã xác định Bình Lỗ là khu vực nằm ven quốc lộ 3 ngày nay từ Phù Lỗ lên đến núi Sóc. Nay đoạn đường này dài 15 km.

Thuở trước một hương có phạm vi rộng ngang một tổng sau này. Như hương Thổ Lỗi đời Lý Thánh Tông, quê của Ỷ Lan, có thể kéo dài từ Sủi (Phú Thị) qua Dương Xá, Thuận Quang, xuống tận Như Quỳnh, đường dài cũng tới 10 km, ven quốc lộ 5, (do vậy các làng trên này đều nhận là làng quê của Ỷ Lan). Vậy hương Bình Lỗ là tên chung của cả một vùng từ núi Sóc xuống tới sông Cà Lồ và do đó sách Lĩnh Nam chích quái mới chú thích Bình Lỗ có núi Vệ Linh. Núi Vệ Linh tức núi Sóc, còn có nhiều tên nữa như núi Mã, núi Đền...

Ngày ấy hương Bình Lỗ nằm chắn con đường nam chinh của quân Tống và con sông Cà Lồ là dãy hào thiên nhiên để ngăn giặc, che chở cho Đại La. Mà theo thực tế lịch sử thì 4 đạo quân Tống không phải nhằm vào kinh đô Hoa Lư mà nhằm vào chính Đại La thành.
 
Xin nhắc lại một số sự kiện chính:

Năm Thiên Phúc thứ nhất tức năm 981 Tống triều phát binh xâm lược Đại Cồ Việt. Ở mặt đường bộ, lực lượng tiến quân của Tống triều gồm hai đạo, một do Háu Nhân Bảo chỉ huy, một do Tôn Toàn Hưng chỉ huy. Về quan hệ giữa hai đạo quân này thì những cách chỉ định của sử Trung Quốc như:

“Hầu Nhân Bảo đem tiền quân trước”, và “Tôn Toàn Hưng đóng quân lại ở Hoa Bộ”. . . khiến có thể hiểu được rằng đấy là các bộ phận trước sau của một cánh quân cùng triển khai các hoạt động trên một hướng.

Tuy nhiên, căn cứ vào “trách nhiệm trọng thần để đảm nhận công việc” đánh lấy nước Đại Cồ Việt của Hầu Nhân Bảo, và với chi tiết: “Nhân Bảo thúc giục mãi nhưng Toàn Hưng không tiến binh”, thì rõ ràng Hầu Nhân Bảo là người phụ trách cả hai đạo quân khác nhau này, cũng như cả các đạo quân thủy bộ khác nữa. Với cương vị đó, Hầu Nhân Bảo đã chủ động tách ra một lực lượng bộ binh, thực hiện phương thức tiến binh tạo thành nhiều mũi nhọn, chọn con đường từ Ung Châu xuống miền rừng núi bây giờ thuộc Cao Bằng.

Đạo bộ binh do Hầu Nhân Bảo chỉ huy đại để đã theo con đường trùng với quốc lộ số 3 ngày nay mà “tiến lên trước”- như Tống sử đã ghi. Nó đã vượt được qua miền rừng núi phía Bắc nước Đại Cồ Việt, vượt được sông Cầu ở mạn Thái Nguyên ngày nay, để tràn qua miền trung du mà xuống tới rìa phía Bắc đồng bằng Bắc Bộ ngày nay, rồi sau đó mới “lui giữ Ninh Giang” tức sông Cầu - như Việt sử lược đã chép.

Đấy là mũi tiến quân thứ nhất trên mặt bộ của binh lực viễn chinh Tống triều. Nó, rất cần được sự hỗ trợ, yểm hộ của mũi tiến quân thứ hai trên mặt bộ của binh lực viễn chinh Tống triều, do Tôn Toàn Hưng chỉ huy. Đạo quân này - như Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi, tiến binh theo ngả Lạng Sơn, Chi Lăng, đại để theo con đường trùng với quốc lộ số 1 ngày nay mà tràn xuống đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng các điểm tiến quân xa nhất của nó trên trục đường này chỉ là Hoa Bộ rồi Đa La-như Tống sử đã ghi.

Hoa Bộ, theo sự chỉ dẫn của sách Quế hải ngu hành chí dẫn trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập 1, thì ở phía nam trại Thái Bình tức vùng Tả Giang, giáp biên giới Lạng Sơn và ở gần Quang Lang tức vùng Ôn Châu thuộc Lạng Sơn.

Theo tự dạng ghi chép của sách Tống sử thì Hoa Bộ có nghĩa là “bến sông Hoa”. Sách Đại Nam nhất thống chí, đoạn chép về sông Nhật Đức, tức sông Thương, có nói về một trong ba nguồn của sông này, là “từ khe nhỏ châu Ôn tỉnh Lạng Sơn vào phía tây Bắc huyện Hữu Lũng, chảy 12 dặm làm thành sông Hoá” (1, 2).

Về cả tự dạng và nhất là về phát âm, trong ngôn ngữ, văn tự Trung Quốc, Hoa và Hóa rất gần nhau. Vì vậy “bến sông Hoa” cũng có thể hiểu là “bến sông Hóa”. Do đó, Hoa Bộ có thể là vùng sông Hóa, gần phía nam Chi Lăng, trên quốc lộ số 1 ngày nay.

Còn Đa La thì phải tìm ở phía nam Hoa Bộ, cũng trên trục quốc lộ số 1 bây giờ, Đa La là tên chỉ thấy ở nguồn sử liệu Trung Quốc. Chắc chắn đó là một tên phiên âm. Do đó, Đa La có thể là vùng Đa Mai (Đa Mỗi) gần Bắc Giang ngày nay, trên sông Thương. ở đó còn nhiều truyền thuyết về sự tích đánh giặc phương Bắc (3).

Đấy là những con đường và địa điểm có thể xác định được tươngđối rõ, liên quan đến hai mũi tiến quân trên mặt bộ của Tống triều. Cùng trên mặt đường bộ có thể còn có một đạo quân nữa, chưa được nghiên cứu thấu đáo. Đó là đạo quân do tướng Trần Khâm Tộ chỉ huy.

___________________
(1) Đại Nam nhất thống chí, Quyển XIX.
(2) Nguyễn Đổng Chi: Kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam. Tập 1. Lê Thị Nhâm Tuyết : Phụ nữ 7 Việt Nam qua các thời đại. Hà Nội. 1975 , tr. 11 .
(3) Ý kiến của Lê Văn Lan trong bài: Bức tranh chiên cuộc mùa xuân 981 trong sách Lê Hoàn do Sở VH-TT Thanh Hoá xuất bản, 1985.
 
Tất cả sử cũ của ta thống nhất ghi nhận Trần Khâm Tộ là tướng đứng đầu một đạo quân mà vào mùa xuân tháng ba năm Tân Tỵ (981) đã tiến đến Tây Kết. Nhưng các sử thần nước Việt thời xưa đều không nói thêm dòng nào về vị trí của địa điểm Tây Kết. Các tác giả Việt sử thông giám cương mục thậm chí còn chua: “Tây Kết, không rõ ở đâu,, Chỉ đến thời gian gần đây, một số dịch giả và người làm chú thích cho các bản dịch Việt văn của Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, cùng một số nhà nghiên cứu khác, mới đoán định hoặc xác định vị trí của địa điểm này, là ở trên sông Hồng, phía đông nam Hà Nội, trùng với nơi đã diễn ra các trận đánh lớn chống quân Nguyên ở thời Trần”.

Như vậy, trận đánh Tây Kết là diễn ra trên mặt trận đường bộ, ở phía Bắc Hà Nội ngày nay, chứ không phải trên hướng đường thủy, ở phía nam Hà Nội bây giờ. Do đó, ở hướng đường thủy có một đạo quân Tống triều, xuất phát từ Liêm Châu (Quảng Tây) theo đường sông Bạch Đằng mà vào Đại Cồ Việt, do Lưỡng Lưu Trừng chỉ huy - như các nguồn sử liệu Trung Quốc và Việt Nam đều thống nhất ghi nhận.

Nhưng, dù là còn phải tiếp tục tìm kiếm xác minh từng đạo binh, từng vị trí tiến quân của lực lượng viễn chinh Tống triều, đến đây, đã có thể ghi nhận một tình hình chung, thật rõ ràng là: với các mũi tiến quân thủy bộ lợi hại - tiến đánh nước Việt từ nhiều hướng và bằng nhiều đạo quân khác nhau. phương thức này trước đây, kể từ cuộc hành binh của Mã Viện năm 43 đến cuộc ra quân của Hoàng Thao năm 938, đều chưa thấy ứng dụng. Nhưng từ đấy trở về sau, phương thức này đã hóa thành quen thuộc đối với các thế lực thống trị, bành trướng Trung Quốc, gần như đến mức quy luật, khi tấn công xâm lược nước Việt.

Các mũi tiến quân của Tống triều như thế sẽ kết thúc và nhân bội sự lợi hại của nó bằng cách hợp điểm, hội sư. Xét các hướng phóng tới của cả bốn đạo thì quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng thì thấy rõ cái đích nhắm vào đầu tiên của tất cả các mũi tiến binh, nơi chúng phải hợp điểm, hội sư không phải là kinh đô Hoa Lư của nước Đại Cồ Việt khi ấy, mà lại là vùng Đại La, tức là vùng Hà Nội bây giờ.

Hẳn là miền đất này, tuy 30 năm sau mới được chính thức ghi nhận vào văn bản “là nơi thắng địa, muôn vật phong thịnh tốt tươi, bốn phương tụ họp”, nhưng đến lúc ấy, đã thực sự trở thành miền đất chiến lược có vị trí trung tâm đất nước như thế rồi. Và như thế, cũng hẳn là, trong chiến lược của giặc, chiếm được xong miền đất ấy thì rồi cũng sẽ dễ dàng thanh toán nốt Hoa Lư.

(Nếu như còn có thuyết cho rằng chữ Ngân Sơn ở Việt sử lược vốn là chữ Lãng Sơn bị người dịch dịch sai, do đó Hầu Nhân Bảo không phải vượt biên giới ở Cao Bằng, qua Ngân Sơn mà xuống, theo con đường trùng với quốc lộ 3 ngày nay, mà là vượt biên ở Lãng Sơn (tỉnh Quảng Ninh) và tiến theo con đường trùng với quốc lộ 18 ngày nay, thì dù có thế nữa vẫn là hắn ta trước tiên nhằm vào Đại La).

Trong tình hình này, dễ dàng nhận ra đối sách quân sự của quân dân Đại Cồ Việt và vị vua - tổng tư lệnh Lê Hoàn. Đó là không chờ đánh địch ở khu vực kinh thành Hoa Lư, mà đưa các lực lượng ra vòng ngoài, bảo vệ miền Đại La, không cho giặc hợp điểm, hội sư ở đấy, và như vậy tất phải chặn đánh chúng còn ở xa hơn nữa, tốt nhất là chẹn lại từng đạo quân của giặc ngay ở tuyến địa đầu, biến chúng thành những lực lượng cô lập để mà chọn lựa đánh tiêu diệt và quả nhiên đã lần lượt tiêu diệt cả 4 đạo quân đó.

Như vậy thành Đại La (Hà Nội nay) từng được Lê Hoàn tổ chức bảo vệ với một sự quan tâm đặc biệt. Chính sự thực lịch sử trên đã được thần linh hóa thành ra việc âm phù của vị thần mà Lê Đại Hành sau đó phong cho là Sóc Thiên vương.

Một chi tiết trong câu chuyện dẫn ở trên rất đáng chú ý là:

“Vua cảm sự anh linh của thần, bèn xây miếu sở”. Ngày nay ta đều biết không làm gì có sự anh linh thần bí nhưng Lê Đại hành cảm được sự anh linh và cho xây đền thờ là vua đã tận dụng tín ngưỡng dân gian đương thời để có thêm sức mạnh chiến đấu. Tức là thần linh cũng đã hiện lên để trợ giúp - gọi là âm phù - cho con người ta. Quan niệm đó vốn phổ biến trong dân gian xưa, thoạt nghe thì là quan niệm thần bí, nhưng nghĩ kỹ thì lại thấy có hiệu quả rất trần thế.

Vì sự thực thần linh đâu có làm thay cho con cháu. Nếu Lê Đại Hành không có binh hùng tướng dũng, nhất là không có đầu óc chiến lược tài tình sáng suốt thì làm sao mà đập tan bọn xâm lược. Cho nên tin vào việc thần linh âm phù chính là một hình thức củng cố tinh thần bằng cách gợi lại truyền thống của cha ông cũng là sức mạnh tinh thần của dân tộc ẩn tàng trong tâm thức của mọi người.

Cho nên Sóc Thiên vương chính là tượng hình lên sức mạnh dân tộc và Lê Đại Hành phong vương cho ông tức là sự ghi nhận biểu tượng anh hùng đó.

Sóc Thiên vương của núi Sóc, của Hà Nội. chính là một vị tướng vô hình của Đại Hành hoàng đế.
 
DI TÍCH LỊCH SỬ LÊ HOÀN Ở HÀ NỘI

TS. Nguyễn Doãn Tuân
Trưởng ban QL Di tích và Danh thắng Hà Nội


Lê Hoàn (941 - 1005 ), người ở Châu Ái - một nhân vật có nhiều công lao đóng góp trong việc giữ vững chủ quyền dân tộc khi đất nước mới bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ. Chiến công đập tan cuộc xâm lược của quân nhà Tống ở phía Bắc và bọn Chiêm Thành quấy nhiễu ở biên giới phía nam do Lê Hoàn lãnh đạo là một trong những trang sử vẻ vang của dân tộc ta.

Do đã lập nên những kỳ tích trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc giữ vững nền độc lập dân tộc nên ông đã được các sử gia phong kiến và hiện đại hết lời khen ngợi.

Sách Lịch triều hiến chương loại chí (Tập 1 , Nxb Khoa học xã hội, tr. 191) ghi : “Vua là người chống quân Tống, bình nước Chiêm, chốn Hoa Hạ và Man Di đều hãi sợ. Trung Quốc mấy lần sắc phong khen ngợi. Tiếng tăm vua lừng lẫy. Nói về trị nước thì vua để ý việc thường dùng của dân, dốc lòng về quốc chính, trọng nông nghiệp, cẩn thận về biên phòng, quy định pháp lệnh tuyển dân làm lính, đổi đặt châu phủ, chia đặt các phiên trấn”.

Nhà sử học Lê Văn Hưu đánh giá: “Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, bắt Quân Biện, Phụng Huân, dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi yên tĩnh, cái công đánh đấy dẫu nhà Hán nhà Đường cũng không ai hơn được” (Đại Việt sử ký toàn thư - Nxb Khoa học xã hội, quyển I).

Với sử gia Ngô Sỹ Liên thì: “Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, phá tan quân Triệu Tống để bẻ cái mưu vua tôi ăn chắc, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy” (Đại Việt sử ký toàn thư - Nxb Khoa học xã hội, quyển I).

Lê Hoàn mất năm 1005 và được nhân dân nhiều nơi tôn thờ làm thành hoàng.

Trong tổng số gần 2000 di tích của Thủ đô, chúng tôi chỉ tìm được ba di tích thờ Lê Hoàn ở Hà Nội: đó là đình Phú Diễn ở thôn Phú Diễn, xã Hữu Hoà, đình Hoa Xá và Minh Ngự Lầu ở thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì.

Trong Đại Việt Sử ký toàn thư bản kỷ quyển 1 (tr. 166- 167) của Ngô Sỹ Liên và Việt sử thông giám cương mục chính biên quyển I (tr. 224-248) có ghi: “mùa xuân tháng 3, Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng, vua tự làm tướng chống giữ, sai binh lính đóng cọc ngăn sông, quân Tống rút lui...”.

Và trong quá trình chinh chiến, vua Lê Đại Hành thường kéo quân theo dòng sông Nhuệ tiến lên phía Bắc, dân các ấp dọc theo hai bờ sông đều giúp nhà vua. Những di tích trên nằm gần nhau, dọc theo sông Nhuệ - địa bàn hoạt động của Lê Hoàn - vùng đất sinh trưởng của danh sĩ Bắc Kỳ Ngô Thì Nhậm ở cuối thế kỷ 18.

Tôi xin giới thiệu về ba di tích cùng hội thảo:

1. Đình Phú Diễn

Đình Phú Diễn nằm sát bờ nam sông Nhuệ. Là một làng cổ hình thành từ rất lâu đời, trong quá trình tồn tại, mảnh đất này gắn bó với nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc - mà dấu ấn còn in đậm và lưu truyền mãi trong truyền thuyết dân gian là sự kiện vua Lê Đại Hành trên đường hành quân lên phía Bắc chống giặc đã dừng chân săn bắn - để rồi, có một thời gian dài, làng mang tên “Đại Hành”- và dân làng thờ ông làm Thành hoàng ở chốn đình chung ngàn năm hương khói không dứt.

Di tích có quy mô không lớn nhưng hiện bảo lưu được lối kết cấu kiến trúc và nghệ thuật truyền thống: Đình có mặt bằng kiến trúc hình chữ “đinh” gồm nhà đại bái và hậu cung; toàn bộ khung nhà được làm bằng gỗ với các bộ vì bốn hàng chân, vì nóc theo kiểu chồng rường giá chiêng. Trên bề mặt các thanh rường được phủ kín các hoa văn truyền thống như văn thực vật, văn mây, sóng nước, tứ linh, tứ qúy. Các hoạ tiết trang trí này được làm bằng kỹ thuật chạm nổi và chạm bong kênh.
 
Bên cạnh khối kiến trúc nghệ thuật có giá trị cần được bảo tồn, là bộ di vật văn hoá - lịch sử khá phong phú về số lượng và đa dạng về chủng loại của thời Lê Trung hưng còn lưu lại như: 6 pho tượng thú bằng đá, kiệu thờ, hạc gỗ và những sản phẩm văn hoá vật chất thời Nguyễn như các hương án, long ngai, bia đá, sắc phong...

Ngoài giá trị lịch sử, các di vật này còn được chạm khắc tinh xảo, mang giá in nghệ thuật cao và là những cổ vật quý trong kho tàng di sản văn hoá nước nhà. Đặc biệt. ở đây hiện còn bảo lưu được cuốn sách cổ “Phú Diễn Lê đế phả lục” do quan Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và quan Quản giám bách thần chi điện, Hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền sao lại vào năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (17 10), cho biết:

“Năm Ất Tỵ (1005) năm thứ 11 hiệu Thiên Ứng, vua mất tại điện Trường Xuân, táng ở sơn lăng, châu Trường Yên. Nhiều địa phương dựng đền thờ vua. Thuở ấy, dân ấp bản hữu giang, thuộc thôn Phú Diễn, huyện Thanh Oai cũng dựng miếu thờ để nhớ đức lớn của vua đã giúp dân, ghi công kỳ vĩ của vua đã đánh tan giặc Tống. Chính đất này, sông này lưu truyền mãi chiến tích ức vạn năm không phai mờ vết hài vua khi xe kiệu dừng chân. Nhớ ngày sinh, ngày mất của vua, lửa hương thờ truyền mãi. Vì dân ấp đã tôn vua làm thần (bản cảnh thành hoàng bậc nhất), mong vua thiêng liêng giúp đỡ dân lành”.

Đình Phú Diễn được Bộ Văn hoá- Thông tin xếp hạng tại Quyết định số 490/QĐ ngày 22/4/1992.

2. Đình Hoa Xá và Minh Ngự Lầu

Hai di tích nằm gần bên nhau, phía tả sông Nhuệ, thuộc xã Tả Thanh Oải huyện Thanh Trì. Mảnh đất này được Dư địa chí của Nguyễn Trời, coi “là 1 trong 4 kinh trấn phên dậu phía nam của nước ta”. Tả-Hữu Thanh Oai là một địa phương có truyền thống văn hoá lâu đời. Nhiều truyền thuyết, ca dao, tục ngữ... được lưu truyền mãi đến ngày nay - mà truyền thuyết về cô gái Tó (hay bà Chúa Hến) được kể lại từ đời này qua đời khác, và cũng được in sâu vào tâm khảm của nhân dân địa phương như chuyện cổ tấm Cám” khi xưa. . .

Nơi này, chính là nơi Lê Hoàn dừng binh để lấy quân lương, là quê hương - nơi sỉnh trưởng của bà chúa Tó - một người con gái đã vận động nhân dân vùng Hữu Thanh Oai đóng thuyền, vùng Tả Thanh Oai góp lương thực cho quân Lê Hoàn đánh trận - còn chính bản thân mình lại làm ra loại bánh dùng làm lương khô cho quân lính - đó chính là loại bánh chè lam - đặc sản trong ngày hội làng... Người được vua phong thứ phi- một trong năm hoàng hậu của Lê Hoàn.

Theo cuốn “Hoa Xá Lê đế- phi miếu phả lục”, do quan Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và quan Quản giám bách thần chi điện, Hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền sao lại vào năm Vĩnh Hựu (1740) thì:

“Một hôm, qua ấp Hoa Xá ở Tả Thanh Oai, tạm dừng quân để lấy binh lương, giờ Ngọ, nhà vua trông thấy một người con gái cùng gánh gạo trong đám dân công. Cô đội nón lá, mặc áo vải thô, mắt sáng, mày thanh, mặt xinh như ngọc, miệng cười tươi như hoa. Trong phút nghỉ ngơi, cô xuống sông vốc nước rửa tay. Trên trời có đám mây năm sắc che thân. Nhà vua cho rằng người con gái đó không phải bình thường. Rồi đem lòng thầm ước nhưng mặt ngoài còn e.
 
Ít lâu sau, thiên hạ thái bình. Quân sĩ reo ca khải hoàn rước vua về kinh đô Hoa Lư. Nhà vua mở tiệc thưởng người có công. Các đình thần tôn tặng vua Lê mỹ hiệu “Minh càn ứng vận thần vũ thăng binh, trí nhân, quảng hiếu Đại Hành hoàng đế. Lê Hoàn chọn ngày ngự giá Bắc tuần, thăm hỏi dân làng. Ngày về tại ấp Hoa Xá: bên tả giang, mời già trẻ trong ấp cùng đến dự yến. Rồi cho vời nàng Đô Hồ, ban quần gấm áo ngự, phong làm quý phi. Sai bà tắm gội, thay áo mũ, cùng sánh xa giá về kinh.

Lúc đó bà con, họ hàng và dân ấp đều vui mừng lấy làm vinh hiển. Vua Lê lại cấp ruộng đất, tiền của để bà đóng thuyền thả sông và lập cung điện ở vườn cũ, gọi là “Đô Hồ phi cung”. Khi vua băng hà “dân ấp Hoa Xá có lập đền thờ để tưởng nhớ ơn đức giúp dân, ghi tạc công lao phá Tống của ngài”.

Lúc thánh phi mất, dân làng hàng năm cúng giỗ. Nơi ở cũ của bà dựng lầu Minh Ngự. Nhà cung phi sửa thành miếu điện. Từ đó, miếu - đình Hoa Xá là nơi phối thờ hai vị và hồn thơm hiển ứng, đời đời linh thiêng giúp cho dân làng”.

Đình Hoa Xá nằm ngay bên dòng sông Nhuệ, có quy mô khá lớn, bao gồm các bộ phận kiến trúc: giếng đình - sân - nghi môn ngoại - sân - nghi môn nội - sân - hai dãy tảo mạc - đình chính và khu vườn rộng. Phía sau nghi môn nội là đôi ngựa đá của Ngô Thì Nhậm cung tiến vào đình từ năm 1798.

Minh Ngự Lầu xưa được gọi là miếu bà Chúa Hến, tương truyền là đó là ngôi nhà của cha mẹ bà và ở đó đã sinh ra Đô Hồ phu nhân. Di tích có quy mô không lớn, nhưng liên quan chặt chẽ đến đình Hoa Xá. Tương truyền rằng, “xưa kia, khi ngày rằm tháng Giêng làm lễ hội làng, thì từ tối 14, tượng và ngai của ông bà được rước về Minh Ngự Lầu. Sau khi tắm rửa, ở lại một đêm đến sáng hôm rằm thì rước trở về đình...”.

Cũng giống như đình Phú Diễn, đình Hoa Xá và Minh Ngự Lầu được làm theo lối kiến trúc - nghệ thuật truyền thống, hiện vẫn còn một số mảng chạm khắc mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 18 và lưu giữ được rất nhiều hiện vật mang giá trị cổ vật quý hiếm: 16 đạo sắc phong thần của các triều đại phong kiến Lê - Tây Sơn và Nguyễn phong tặng cho Đô Hồ phu nhân là “Nhân uyển chi thần”, phong cho Lê Đại Hành là hoàng đế –thượng đẳng thần”; rất nhiều- câu đối, bài thư ca ngợi công đức của hai vị thành hoàng, đặc biệt còn bút tích để lại của Ngô Thì Nhậm trong bài cung tiến ngựa đá” ở cuối thế kỷ 18, là tượng Đô Hồ phu nhân, là những tấm bia đá, những bộ kiệu đòn, kiệu Bát Cống thế kỷ 18 . . .

Và, tại Minh Ngự Lầu, Bác Hồ đã về thăm Tả Thanh Oai và nói chuyện, căn dặn dân làng phải chăm lo đồng ruộng và gìn giữ những di tích lịch sử quý giá của làng xã.

Đình Hoa Xá và Minh Ngự Lầu được Bộ Văn hoá- Thông tin xếp hạng tại Quyết định số 226/QĐ-BT ngày 5/2/1994. Là những di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật trong kho tàng di sản văn hoá của quốc gia, thông qua Hội thảo này, chúng tôi giới thiệu về 3 di tích Lê Hoàn ở Hà Nội và cũng có lời khuyến nghị rằng: đây là những điểm di tích cần được Thành phố đầu tư tu bổ tôn tạo trong chương trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
 
GÓP PHẦN TÌM HIỂU KHU VỰC ĐẠI LA THỜI TIỀN LÊ
(Qua khảo sát một số di tích ở Hà Nội)

Vũ Đường Luân
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. ĐH Quốc gia Hà Nội


Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã kết thúc vĩnh viễn hơn một nghìn năm Bắc thuộc, mở đầu kỷ nguyên độc lập lâu dài và phục hưng dân tộc. Ngô Quyền - người anh hùng cuộc kháng chiến chống Nam Hán - chính thức xưng vương và đóng đô ở Loa Thành.

Bàn về sự kiện này, sử gia Lê Văn Hưu có lời bình luận: “tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi mến hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được” (1).
Năm 968, sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh “ bèn tự lập làm đế, chọn được chỗ đất đẹp ở Đàm thôn nhưng vì thế đất chật hẹp không có lợi về việc đặt hiểm nên vẫn đóng đô ở Hoa Lư" (2).

Và cũng kể từ đó, Hoa Lư trở thành trung tâm hành chính - chính trị - quân sự của nhà nước Đại Cồ Việt dưới hai triều đại nhà Đinh (968-980) và Tiền Lê (981 - lo09) Tuy nhiên, việc định đô ở Cổ Loa và Hoa Lư của các triều đại Ngô- Đinh- tiền Lê không đồng nghĩa với sự suy tàn của Tống Bình - Đại La, một khu vực đã có một thời gian dài được chính quyền phong kiến phương Bắc chọn là trung tâm hành chính của quận Giao Chỉ (Bắc Bộ) dưới thời Tuỳ, rồi An Nam đô hộ phủ (Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ) dưới thời thuộc Đường, cho đến buổi đầu của kỷ nguyên độc lập dưới chính quyền của họ Khúc và họ Dương (905-937).

Mùa thu, tháng 7, năm 1010, vua Lý Thái Tổ “từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long” (3) .

Sự kiện định đô ở Đại La - Thăng Long chứng tỏ rằng khu vực này đã có một quá trình phát triển độc lập, liên tục và chắc chắn rằng nó có những vị trí nhất định, đặc biệt là trong suốt nửa cuối thế kỷ X, làm cơ sở cho quyết định dời đô của Lý Công Uẩn.

Tuy vậy cho đến nay, những hiểu biết về khu vực Đại La (bao gồm thành Đại La và khu vực phụ cận) (2) và vị thế của nó vào thế kỷ X (nhất là thời Đinh- Tiền Lê) vẫn đang còn là một vấn đề cần được các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu. Trong các tài liệu thư tịch cổ và các tài liệu khảo cổ học còn rất ít ỏi thì việc tìm hiểu khu vực này từ các di tích lịch sử’ truyền thuyết và ký ức dân gian được xem như một cách tiếp cận phù hợp.

Nhưng trên thực tế, kể cả nguồn tư liệu dân gian về thời kỳ này ở Hà Nội hiện nay cũng chiếm số lượng không nhiều. Nếu tính riêng thời Tiền Lê thì ở Hà Nội cũng chỉ còn tồn tại ở một số khu vực sau:


________________________
(1) Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê. Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Nxb KHXH. Hà Nội. 1993 tr.205
(2) Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1. Sđd, tr.211
(3) Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê. Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1 . Sđd. tr.241.
(4) Khu vực Đại La được hiểu tương đương với khu vực thành phố Hà Nội hiện nay.
 
- Thần tích và đền thờ thành hoàng của các làng Tả Thanh Oai (xã Tả Thanh Oai); Hữu Thanh Oai, Hữu Từ, Hữu Trung, Phú Diễn (xã Hữu Hoà) huyện Thanh Trì. (1)

- Thần tích và đền thờ thành hoàng làng Trung Nha (phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy) (2).

- Sự tích và đền thờ thành hoàng làng Kim Văn (Kim tú, Thanh Trì) (3).

- Sự tích đền Hồng Thánh và tướng quân Phạm Cự Lượng.

- Truyền thuyết và đền thờ Y Hạnh phu nhân ở Tứ Liên (Tây Hồ) (4).


_____________________
(1) Thần phả tại đình Hoa Xá (Tả Thanh Oai) và bản Phú Diễn miếu ngọc phả cho biết vua Lê Đại Hành trên đường đi đánh quân Tống đã đi qua làng, được nhân dân dịa phương giúp đỡ lương thực: trong đó có Dũng Mãnh tướng quân là người địa phương theo vua đánh giặc. Đồng thời, nhà vua trông thấy một cô gái xinh đẹp gánh thóc trong đám dân chúng, trên đầu có đám mây ngũ sắc. Vua cho rằng người con gái ấy không phái tầm thường bèn cho người đến hỏi. Sau khi thắng giặc trở về liền lấy người con gái đó làm phi. Dân gian truyền gọi là Đô Hồ phu nhân (Bà Chúa Hến) và lập đền thờ.
(2) Theo cuốn Thành hoàng sự tích lục tại đền Trung Nha thuật lại rằng: để chặn đánh đạo quân lớn nhất do Hầu Nhân Bảo làm chủ tướng, vua Lê Đại Hành sai tướng tiên phong là Trần Công Tích đem quân từ Hoa Lư lên đóng ở Nghĩa Đô, phía tây Bắc thành Đại La để tuyển thêm quân. Lúc đó ở làng Nghè (làng Trung Nha) có hai cô gái là Lê Hồng Nương và Lê Quý Nương xin đầu quân. Hai cô chỉ huy việc hậu cần, nấu cơm cho quân đội. Sau khi chiến thắng trở về. Trần Công Tích kết duyên cùng hai nàng và giao trấn giữ vùng thành Đại La.
(3) Chuyện kể rằng: vào khoảng niên hiệu Thiên Phúc triều Lê, bà hoàng hậu họ Dương là vợ của Lê Hoàn đêm nằm thấy một ông già cầm một cành hoa sen trắng đến giường. hoa ấy liền hoá ra một con rắn trắng. Sau đó hoàng hậu sinh một người con gái đặt tên là Cúc Phương công chúa. Khi Lê Long Đĩnh giết Long Việt. Cúc Phương công chúa ôm thi thể Long Việt mà khóc rồi nhiếc mắng Long Đĩnh. Long Đĩnh giận lắm bèn giết công chúa, thấy công chúa hoá ra một con rồng trắng và bay đi. Sau này khi Lý Công Uẩn lên ngôi, trên đường đi đánh giặc ở Diễn Châu, công chúa hiển linh giúp đỡ nhà vua. Thái Tổ sai triều thần sắc phong cho công chúa Linh Quang Thánh Y và cấp cho 22 làng làm thang mộc ấp để phụng sự.
(4) Nhân dân khu vực Tứ Liên thường kể chuyện về ba anh em Bảo Trung, Minh Khiết và Ý Hạnh vốn quê ở Đồng Lục, phủ Khoái Châu theo mẹ đến Xuyên Bảo trang (châu Tứ Liên xưa). Mấy năm sau. Ý Hạnh đang làm cỏ ngoài ruộng dâu, bỗng nước sông lên rất nhanh nàng bị cuốn đi. Dân làng tìm cách cứu nhưng không kịp. chỉ vớt được xác và thấy trên trán nàng có hình chim chén ngọc. Mộ được đắp ở ngay bờ sông. tục gọi là mả Bà Chén. Sau này khi Lê Hoàn đi đánh quân Tống qua lăng Bà Chén, bà hiển linh giúp vua đánh giặc. Vua phong bà làm Y Hạnh phu nhân và ra lệnh cho dân làng thờ phụng.
 
- Truyền thuyết về việc xây dựng đền Sóc Thiên Vương ở Vệ Linh (Sóc Sơn) và Hồ Tây (1).

Những thông tin còn mang ít nhiều yếu tố hoang đường, thần thoại từ tư liệu dân gian chắc chắn chưa thể nào thể hiện được đầy đủ những dấu ấn của thời kỳ Tiền Lê ở Hà Nội. Tuy nhiên, với các tư liệu hiện có cũng cho chúng ta những hiểu biết bước đầu về khu vực Đại La trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân Đại Cồ Việt vào nửa cuối thế kỷ X.

Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các dấu tích của thời Tiền Lê ở Hà Nội đều có liên quan (hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp) đến Lê Hoàn và cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (8/10 di tích). Riêng số di tích thờ Lê Hoàn ở Hà Nội thời kỳ này đã chiếm 3 trên tổng số 35 di tích trong cả nước (2). Điều đó thể hiện tương đối rõ nét dấu ấn về Lê Hoàn và cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất ở đây.

Nếu quan sát các di tích liên quan đến cuộc kháng chiến chống Tống năm 980-981 ở Hà Nội trên bản đồ thì chúng ta có thể nhận ra các di tích này nằm dọc theo hai bên bờ sông Nhuệ (Tả Thanh Oai, Hữu Thanh Oai, Hữu Từ, Hữu Trung, Phú Diễn) và sông Tô Lịch (Tứ Liên, Trung Nha).

Thông tin từ các thần tích và các dấu tích của Lê Hoàn tại khu vực Hà Nội cho biết các tuyến sông kể trên có thể là một phần trên con đường hành quân của Lê Hoàn từ Hoa Lư lên Đại La và khu vực phía Bắc vào mùa đông năm 980. Đây cũng chính là tuyến đường mà Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long vào năm 1010 .

Bản ngọc phả của đình Hoa Xá (Tả Thanh Oai) do Hàn lâm Lễ viện, Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn vào năm đầu niên hiệu Hồng Phúc (1572) đời vua Lê Anh Tông ghi:

“bấy giờ vua Lê Đại Hành thường theo đường sông Nhuệ tiến lên phía Bắc. Dân các ấp dọc hai bờ sông đều theo giúp nhà vua”. Cuốn Phú Diễn Lê đế ngọc phả hiện được lưu giữ trong đình Phú Diễn cũng ghi chép tỉ mỉ sự kiện vua Lê Đại Hành trên đường hành quân lên phía Bắc đánh giặc Tống đã dừng chân lại ở khu vực của làng.

Theo lời kể của nhân dân địa phương ở Hữu Thanh Oai (Hữu Châu) cho biết trên đường từ kinh đô Hoa Lư đi đánh giặc phương Bắc năm đó, khi qua đất Hữu Châu vua cho quân dừng lại trên một gò đất hình con quy ở xứ Đồng Gạch tục gọi là Rừng Mơ để nghỉ ngơi. Được tin, nhân dân địa phương đã ra chúc tụng dâng tiệc chay để vua dùng, xin duệ hiệu và cắn hướng đình để sau này thờ cúng.

Hiện nay, tại khu vực các làng Tả Thanh Oai, Hữu Thanh Oai, Hữu Từ, Phú Diễn còn lưu lại nhiều dấu tích gắn liền với dấu ấn của Lê Hoàn. Cánh đồng kiệu là nơi vua hạ kiệu, có gò dui trống là nơi quân lính của nhà vua luyện tập; hoặc ở Hữu Từ có các địa điểm như võng đòn cong, gò hình nhân bái tướng, gò voi phục, gò long mã, thuyền rồng, ân Tiền, ấn Hậu . . .


____________________________
(1) Lĩnh Nam chích quái thuật lại chuyện thời Lê Đại Hành, Khuông Việt đại sư Ngô Chân Lưu thường xuyên liên lạc với làng Bình Lỗ (còn gọi là Vệ Linh Sơn). Đêm nằm mơ thấy thần nhân. thái sư bèn thân vào núi lấy gỗ tạc tượng để thờ cúng. Năm Thiên Phúc thứ 1, quân Tống vào ăn cướp, quân ta sai quân tới đền cầu khẩn Khi ấy quân Tống đóng ở thôn Tây Kết, hai bên chưa giao chiến. quân Tống trông thấy đã kinh hãi lụt về giữ Đại Giang, gặp lúc sóng nổi cuồn cuộn. giao long nổi lên mặt nước, quân giặc tan vỡ. Vua cảm thấy sự anh linh của thần bèn xây thêm miếu võ, phong làm Sóc Thiên Vương để trấn phương Bắc... Tới triều Lý. để tiện thờ cúng, mới xây đền vũ ở phía đông Tây Hồ để trấn phương Bắc, lại tôn làm phúc thần: nay là phường Nhật Tân Tây Hồ Tây.
(2) Theo thống kê trong Thư mục thần tích thần sắc của Viện Thông tin KHXH: Xem thêm tham luận của Ngô Vũ Hải Hằng “Hệ thống di tích thờ Lê Hoàn ở Việt Nam”.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top