Chuyền đề :Hà Nội thơ

Hide Nguyễn

Du mục số
Từ độ mang gươm đi mở cõi. Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long

Bài thơ "Nhớ Bắc" của nhà cách mạng, vị tướng lừng danh thời chống Pháp trên chiến trường khu D, Huỳnh Văn Nghệ .

Huỳnh Văn Nghệ sinh ngày 2 tháng 2 năm 1914 tại làng Tân Tịch,tổng Chánh Mĩ hạ, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương ).


* xuất thân trong một gia đình nghèo, từng phải sống dưới ghe trên sông Bao Ngược, gặp trận bão cuốn hết cả gia tài và hai người con đầu.
* Cha: Huỳnh Văn Tờn, biết chữ Nho, dạy võ, nhưng có lúc phải đi làm mướn (cưa gỗ), khi dược chính quyền thực dân Pháp mời ra làm hương tuần (một chức việc ở xã, trông coi việc canh phòng, tuần tra) nhưng không nhận. Sau bị rắn độc cắn chết.
* Mẹ: Đoàn Thị Hiển, sinh năm Canh Thìn (1880), làm nghề gánh hàng bán cau khô, vải , nước mắm, thường đi chợ Tân Uyên để mua hàng về bán cho các làng lân cận nhu Tân Hòa, Mĩ Lộc...

Từ nhỏ đến năm 1924: Huỳnh Văn Nghệ học tiểu học tại quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Từ 1924-1930: học Trường Trung học Petrús Ký (Sài Gòn), nay là Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong. Từ năm 1931, làm công chức tại Sở Hỏa xa Đông Dương (Sài Gòn). Từ 1932-1939:

* Năm 1932-1938: được giác ngộ, tham gia Cách mạng trong phong trào Đông Dương Đại hội.
* Bắt đầu làm thơ, viết báo (tiếng Việt , tiếng Pháp) đang trên các báo ở Sài Gòn.

Hoạt động quân sự

Năm 1944, ông trở về nước lập khu nghĩa quân Đất Quốc tại quê hương Tân Uyên, Biên Hòa. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và tham gia Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, trực tiếp chỉ huy bắt sống tỉnh trưởng và cảnh sát trưởng tỉnh Biên Hòa. Ông được giao nhiệm vụ chỉ huy trưởng lực lượng Giải phóng quân Biên Hòa, cố vấn cho Ủy ban kháng chiến miền Đông. Chính quyền cách mạng giao cho ông trọng trách mang hơn 10 vạn đồng (tiền Đông Dương) qua Campuchia mua vũ khí về phục vụ cách mạng nhưng hai kẻ môi giới cầm tiền đã bỏ trốn, khiến ông không hoàn thành nhiệm vụ. Sau này hai kẻ môi giới lừa bịp đã bị bắt.

Cuối tháng 9 năm 1945, Sài Gòn bị Pháp chiếm, trạng sư Dương Văn Giáo, “lãnh tụ” Việt Nam phục quốc đồng minh hội, đứng ra thành lập chính phủ “Nam Kỳ Cộng hòa quốc” phục vụ cho thực dân Pháp. Huỳnh Văn Nghệ đã trực tiếp tham gia bắt sống Dương Văn Giáo.

Tháng 5 năm 1946, Tư lệnh Nam Bộ Nguyễn Bình phong cho Chi đội trưởng Chi đội (tương đương trung đoàn) 10 Huỳnh Văn Nghệ làm Khu bộ phó Khu 7 (miền Đông Nam Bộ, một trong 3 khu quân sự-hành chính ở Nam Bộ). Sau này ông được thăng chức Khu trưởng Khu 7 kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Khu 7. Ông đã chỉ huy nhiều trận đánh nổi tiếng với bí danh Tám Ngãi.

Năm 1953, ông được cử ra Bắc học tập và tiếp tục công tác trong Quân đội với hàm Thượng tá, chức vụ Phó Cục trưởng Cục Quân huấn thuộc Bộ Tổng Tham mưu.

Chuyển sang ngạch dân sự

Rời Quân đội, Huỳnh Văn Nghệ chuyển sang làm Tổng cục phó Tổng cục Lâm nghiệp. Năm 1965, ông về miền Nam tham gia chống Mỹ, làm Phó ban Kinh tài Trung ương Cục miền Nam.

Sau khi đất nước thống nhất, ông là Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp (nay đã hợp nhất vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Ông lâm bệnh và mất tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 3 năm 1977.
[sửa] "Thi tướng"

Không chỉ là một chỉ huy quân sự tài ba, ông còn là một nhà thơ có những vần thơ in đậm trong tâm trí người đọc. Đồng đội và nhân dân miền Nam gọi ông là "Thi tướng rừng xanh".

Ở Huỳnh Văn Nghệ nhiệm vụ chiến sĩ và sứ mệnh thi sĩ đã hoà quyện với nhau, như chính lời ông viết:

Tôi là người lăn lóc giữa đường trần,
Không phân biệt lúc mài gươm múa bút.
Đời chiến sĩ máu hoà lệ, mực
Còn yêu thương là chiến đấu không thôi
Suốt một đời gươm chẳng ráo mồ hôi
Thì không lẽ bút phải chờ kiếp khác.
Trên lưng ngựa múa gươm và ca hát,
Lòng ta say chiến trận đến thành thơ…

Thơ của ông giản dị mà gần gũi, đầy cảm hứng mà sâu sắc, hồn nhiên mà xúc động. Bài thơ Nhớ Bắc của ông làm tại Chiến khu Đ năm 1946 với 4 câu tuyệt bút mở đầu đã được nhiều thế hệ người Việt Nam truyền tụng:

Ai về xứ Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

(Câu cuối có một số bản chép là "Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long". Tuy nhiên sau này đã được đính chính lại đúng nguyên tác là "trời Nam").

Bài thơ kết thúc bằng 4 câu mang nặng tình với đất nước:

Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm hồ xưa Linh Quy hỡi
Bao giờ mang trả kiếm dân ta.

Gần 50 bài thơ của ông đã được chọn in trong tập Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ, NXB Đồng Nai, 1998. Ngoài ra ông còn viết truyện ký, tự truyện được tập hợp trong hai tập sách Quê hương rừng thẳm sông dài và Những ngày sóng gió.

Tháng 12/2006, các tập thơ Chiến khu xanh, Bên bờ sông xanh, Rừng thẳm sông dài. được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.

Đầu năm 2007, tỉnh Bình Dương phối hợp với tỉnh Đồng Nai và Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học Huỳnh văn nghệ - Cuộc đời và sự nghiệp tại Nhà Lưu niệm Huỳnh Văn Nghệ, thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Tại thị xã Thủ Dầu Một, có một con đường mang tên Huỳnh Văn Nghệ. Và cũng để tưởng nhớ công lao của một vị tướng - một nhà thơ, tỉnh Bình Dương đã quyết định thành lập Giải thưởng văn học nghệ thuật Huỳnh Văn Nghệ của tỉnh Bình Dương.




Bản 1.



Ai về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước rồng tiên nặng nhớ thương.

Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn nhớ vẫn thương mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng.

Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm
Muốn trở về quê mơ cảnh tiên (?)


Bản 2 .

Nhớ Bắc

Ai về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Rồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long

Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng!
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu hồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.

Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng

Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm
Muốn trở về quê, mơ cảnh tiên.

Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm hồ xưa linh quy hỡi
Bao giờ mang trả kiếm dân ta.)


Sưu tầm.
 
"Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long"


Dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, hai câu thơ bất hủ của Huỳnh Văn Nghệ được vang lên nhiều lần. Thiết nghĩ, đến năm Thăng Long - Hà Nội 1000 tuổi, hai câu thơ đó sẽ được đọc đúng và được khắc ghi ở đâu đó trong lòng thủ đô. Như một nỗi niềm. Như một ước hẹn. Như một gửi gắm.




Đấy là câu thơ phải đọc đúng trong bài thơ “Nhớ Bắc” của nhà thơ - chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ.

Theo sách “Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ” do Sở Văn hóa Thông tin Thể thao Đồng Nai xuất bản năm 1997, ông sinh ngày 02 tháng 02 năm 1914 tại làng Tân Tịch (Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa; nay thuộc xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Vùng quê ông là quê hương của những nhà văn có tiếng như Nguyễn Văn Nguyễn, Bình Nguyên Lộc, Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn... “Huỳnh Văn Nghệ học xong sơ học ở trường quận, học tiếp trường nội trú ở trường Pétrus Ký Sài Gòn, ra làm công chức hỏa xa, từ đó đến với cách mạng. Khởi nghĩa Nam Kỳ bị đàn áp, Huỳnh Văn Nghệ sang Thái Lan, liên lạc với phong trào yêu nước ở đấy, sau đó lại có mặt trong đội ngũ tiên phong giành chính quyền ở Biên Hòa - Sài Gòn mùa thu năm 1945. Thực dân Pháp tái chiếm Nam Kỳ, ông cùng một số đồng chí vận động, tập hợp lực lượng, lập chiến khu kháng chiến, chỉ huy Chi đội 10 Vệ quốc đoàn Biên Hòa, Tư lệnh Khu VII, Tỉnh đội trưởng Thủ Biên... Tập kết ra Bắc, ông được giao nhiệm vụ Phó cục trưởng Cục quân huấn với quân hàm thượng tá; sau chuyển ngành sang Bộ Lâm nghiệp; rồi lại tham gia đoàn quân chiến thắng, giải phóng miền Nam. Ông mất năm 1977 tại thành phố Hồ Chí Minh, an táng tại quê nhà” (sđd, tr 5-6).



Huỳnh Văn nghệ là hình ảnh của cả một lớp người tay gươm tay súng hăng hái xả thân vì nghĩa lớn non sông. Con người và văn thơ ông được truyền tụng nhất hồi ở chiến khu Đ (miền Đông Nam Bộ) thời chống Pháp. Sách “Thơ văn Huỳnh Văn Nghệ” phần văn tập hợp những tác phẩm văn xuôi Quê hương rừng thẳm sông dài, Những ngày sóng gió, Anh Chín Quỳ, Truyện kể hơn 350 trang và phần thơ 43 bài, chủ yếu viết hồi “chín năm”. Thơ Huỳnh Văn Nghệ có âm hưởng hào hùng, bi tráng, nặng tình cảm. Trong “Tập văn cách mạng và kháng chiến” do Hội Văn Nghệ Việt Nam xuất bản tại Việt Bắc thời kháng Pháp ông được chọn bài “Tiếng hát giữa rừng”.


Ngựa bỗng dừng chân
Bên quân y viện

Giật mình nghe tiếng
Quốc ca vang.
Phải chăng giờ chào cờ buổi sáng
Hay hội nghị cơ quan?
Sao chỉ một người cất giọng
Hát đi hát lại nhiều lần.


Tác giả phỏng đoán. Nhưng khi dừng ngựa hỏi thăm thì mới hay: đó là tiếng hát của một chiến sĩ bị thương đang nằm cho bác sĩ cưa chân bằng chiếc cưa thợ mộc.


Bác sĩ vừa cưa vừa khóc
Chị cứu thương mắt cũng đỏ hoe
Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre
Anh chiến sĩ cứ mê mải hát.


Cưa cứ cưa, xương cứ đứt
Máu cứ rơi từng vết đỏ hồng
Hai bàn tay siết chặt đôi hông
Dồn hết phổi vào trong tiếng hát:
“Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc...”
Đã hát đi hát lại bao lầnVẫn chưa đứt xương chân
Vẫn chưa ngừng máu đỏ


Chỉ đến khi ca phẫu thuật gian khổ xong, người chiến sĩ lịm đi, tiếng hát mới ngưng, “ảnh Bác Hồ như rưng rưng nước mắt”.
Đặc biệt, Huỳnh Văn Nghệ được nhắc đến nhiều nhất là bởi hai câu thơ:


Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long


Có ba chữ hay bị đọc sai trong hai câu này: “độ” thành “thuở”, “trời Nam” thành “nghìn năm”, và nhất là “cõi” thành “nước”. “Cõi” đây là cõi giang sơn, vùng lãnh thổ, công nghiệp mở mang bờ cõi đất nước của bao đời tiền nhân, những con người ra đi từ sông Hồng đến lập ấp bên dòng Cửu Long. Biên tập sửa lại câu chữ như thế có vẻ làm câu thơ nghe mênh mang hơn, nhưng không hợp với tên bài thơ và nỗi niềm tác giả gởi gắm trong đó khi sáng tác. Và đặc biệt không tôn trọng nguyên văn một tác phẩm. Huỳnh Văn Nghệ viết “Nhớ Bắc” tại chiến khu Đ năm 1946, giữa những ngày gian lao của cuộc kháng chiến giành lại độc lập, người con ở vùng đất mới, ở chiến khu thành đồng hướng về cội nguồn, về miền đất tổ để nói một lời thề son sắt, để được tiếp thêm truyền thống sức mạnh. Câu thơ mở đầu chỉ sáu chữ, thốt lên như một lời kêu “Ai về Bắc ta đi với”. Tâm tư của nhà thơ đã thành tâm tư chung của muôn triệu người đất Việt phương Nam, hơn thế, của muôn triệu người đất Việt muôn nơi, mỗi khi nhớ về quê Việt tổ. Thăng Long đây không chỉ là Thăng Long kinh thành, đó còn là vùng châu thổ sông Hồng - cái nôi của người Việt, của dân tộc Việt.

Hãy cùng đọc lại bài thơ để biết ơn nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ.


Nhớ Bắc

Ai về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Rồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long

Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng!

Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu hồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.

Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng

Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên

Chinh Nam say bước quá xa miền
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm
Muốn trở về quê, mơ cảnh tiên.


(Theo nhóm biên soạn “Thơ Văn Huỳnh Văn Nghệ”, trong một cuốn sổ tay khác, tác giả ghi bài thơ này được sáng tác ở ga Sài Gòn, năm 1940, nhan đề “Tiễn bạn về Bắc” và có thêm khổ cuối:


Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm hồ xưa linh quy hỡi
Bao giờ mang trả kiếm dân ta.)


Dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, hai câu thơ bất hủ của Huỳnh Văn Nghệ được vang lên nhiều lần. Thiết nghĩ, đến năm Thăng Long - Hà Nội 1000 tuổi, hai câu thơ đó sẽ được đọc đúng và được khắc ghi ở đâu đó trong lòng thủ đô. Như một nỗi niềm. Như một ước hẹn. Như một gửi gắm.
Còn ông, nhà thơ - chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ đã “lên đường”, như hai câu thơ của ông khắc ghi trên bia mộ:

...Gởi lại bạn những vần thơ trên cát
Và giờ đây tôi qua bến, lên đường...


Hà Nội, đông mùa hai ngàn.

(Bài đã đăng báo Văn Nghệ Trẻ năm 2000)

 
NGÀN NĂM THƯƠNG NHỚ

Ca dao Việt Nam có những câu tuyệt hay, như câu này:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Tuyệt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.


Đầy chất thơ, giống như những câu thơ, nhưng vẫn là ca dao, cái hay đặc biệt của những câu này là như vậy. Chất phác hơn một chút, sẽ mất chất thơ, nhưng thơ hơn một chút, sẽ không còn là ca dao. Một sớm mai hoàn toàn yên tĩnh, gió rất nhẹ, sương còn toả trên mặt Hồ Tây, nhưng cũng đủ sáng để nhận ra mặt hồ gần như tấm gương mênh mông. Những âm thanh rất gợi của một ngày mới bắt đầu: tiếng chuông chùa Trấn Vũ, tiếng gà gáy phía huyện Thọ Xương, đặc biệt là tiếng chày nhịp nhàng nơi làng Yên Thái. Không phải tiếng chày giã gạo mà là tiếng chày giã bột gỗ dó để làm giấy. Hà Nội như được thu lại, xinh xắn trong bốn dòng lục bát. Đọc câu ca dao, không chỉ thấy và nghe Hà Nội, mà còn thấy và nghe được một tấm lòng Hà Nội.

Nhưng đâu chỉ những người sinh trưởng ở Hà Nội mới có tấm lòng Hà Nội. Người đọc thơ có lẽ ai cũng quý tấm lòng của một chàng trai xứ Đồng Nai trong hai dòng thơ này:

Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long

(Huỳnh Văn Nghệ)

Không phải ba năm hay ba trăm năm, mà là ngàn năm, những người con đất phương Nam vẫn nhận ra mình là con cháu những người từ Thăng Long mà đi, vẫn có Thăng Long như một miền quê yêu dấu trong trái tim. Hai câu thơ nghe hào hùng mà thật cảm động.

Người Việt Nam, dù ở đâu, yêu nhớ Thăng Long - Hà Nội đã đành, có những nhà thơ từ xa xôi đến Hà Nội, cũng phải dành cho Hà Nội một tình yêu đặc biệt. Giữa năm 1956, sau 2 năm đất nước bị chia cắt, một nhà thơ Hy Lạp, nhà thơ Menelaos Loudemis, trong bài thơ rất hay Lời từ giã Việt Nam, đã có những câu thơ dành cho Hà Nội:

Tôi không bao giờ
Quên được Hồ Gươm
Lẵng hoa đẹp giữa lòng thành phố
Những ngôi chùa xám cổ
Nghiêng mình xuống nước
Tìm thánh thần xưa
Nhưng chỉ gặp những con người hiện tại
Tôi không bao giờ
Quên được sông Hồng
Thêu sóng đỏ trên áo dài Hà Nội.


Những liên tưởng và so sánh như thế chỉ có thể từ trái tim mà có.

Chính Hữu vốn gốc Nghệ Tĩnh, nhưng đã gắn rất chặt với Hà Nội từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954):

Nhớ buổi ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa


Cái chất hào hoa ấy là chất Hà Nội. Sau này, trong những năm Hà Nội tạm bị chiếm, Chính Hữu cũng có mấy câu thơ rất thấm thía về tấm lòng Hà Nội:

Hà Nội đêm buốt tê
Mái buồn nghe sấu rụng


(Hà Nội đêm 1952)

Sấu là một loại cây đặc trưng của đường phố Hà Nội. Tiếng quả sấu rụng trên mái nhà là một âm thanh đặc trưng của Hà Nội, cũng gần giống như tiếng leng keng của tàu điện Hà Nội. Đêm buồn, không ngủ được, mà nghe tiếng sấu rụng trên mái nhà thì... buồn ơi là buồn!

Trong kháng chiến chống Pháp, bài thơ Đất nước nổi tiếng của Nguyễn Đình Thi lại bắt đầu từ một cảm xúc về Hà Nội:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy


Nào những hương cốm mới, rồi sáng chớm lạnh, phố dài xao xác hơi may, thềm nắng lá rơi đầy... đó là mùa thu, và chỉ có thể là mùa thu Hà Nội.

Đọc thơ Hà Nội mà không nhớ thơ Bà huyện Thanh Quan thì quả là thiếu sót. Nữ sĩ người Hà Nội chính gốc vì quê bà là làng Nghi Tàm, kề ngay bên Hồ Tây. Tác phẩm của bà để lại chỉ mấy bài thơ nhưng bài nào cũng hay, bài nào cũng chỉ có thể là giọng điệu riêng của bà, không lẫn được với ai. Cả mấy bài thơ của Bà huyện Thanh Quan đều buồn, nhất là khi bà tiếc nhớ về một Thăng Long đã thay đổi:

Tạo hoá gay chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn chau mặt với tang thương
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường


(Thăng Long hoài cổ)

Mỗi câu thơ đều kết thúc bằng hai từ Hán Việt, nghe thật cổ kính và thật buồn. Từ ngôn ngữ đến âm thanh nhịp điệu, chỗ nào bài thơ cũng có cái giọng dịu dàng mà nghiêm trang, đài các của một nhà thơ con nhà Hà Nội.


Hide sưu tầm.
 
“Tôi hát bài ca ngợi ca Hà Nội/Ôi Thủ đô xao xuyến trong trái tim tôi”. Những câu hát về Thủ đô như thế chẳng có gì là lạ với mỗi người dân Việt Nam. Những bài hát về Hà Nội có thể được vang lên từ bất kì đâu: nơi thành thị phồn hoa hay góc làng quê bé nhỏ. Những bài hát về Thủ đô dường như đã trở thành lời ca chung và đi vào tiềm thức nhân dân cả nước.


ho-tay%20bang%20lang%20suong.jpg
Hồ Tây bảng lảng sương.​

Chẳng thể nào kể hết những bài hát, bài thơ viết về Hà Nội. Đó là góc quán vắng liêu xiêu, một chiều Tây Hồ gợn sóng bảng lảng khói sương, đường Cổ Ngư tràn đầy kỉ niệm. Mỗi bài hát là một phần Hà Nội qua cảm xúc và cách nhìn khác nhau nhưng đều chứa đựng một tình yêu tha thiết. Dường như, ai đã từng sinh ra và lớn lên ở nơi đây đều có cảm tình đặc biệt với Thủ đô yêu dấu.

Với những nhạc sĩ, tình yêu ấy gửi vào nốt nhạc khi thiết tha đầy niềm tự hào, khi trầm hùng sâu lắng. Âm nhạc có sức chuyển tải rất lớn không chỉ bằng lời của ca từ, mà còn qua giai điệu và cảm xúc, ngân nga rơi xuống cõi lòng rất đỗi rưng rưng. Tất cả những bài ca về Hà Nội đều mang vẻ hào hoa, trang nhã, đều gợi nét riêng mang cái hồn, cái phong thái chung của Hà Nội.

Hà Nội một thời đạn bom đã trở thành quá khứ hào hùng. Vẫn còn đó qua làn khói lửa, một Thủ đô bất khuất kiên cường :

"Ôi nhớ, Thủ đô năm ấy/Ta đánh giặc bên mâm pháo/Truyền thống cha ông gìn giữ non sông, từ thuở Thăng Long…"

Niềm tự hào về Trái tim hồng ấy không chỉ chảy trong huyết quản của người dân Hà Nội mà còn là niềm tự hào của nhân dân cả nước, của cả dân tộc:

"Ôi Đông Đô! hùng thiêng dấu xưa còn in nơi đây/ Ơi Thăng Long! Ngày nay chiến công rạng danh non sông"

Cái nhìn của người nhạc sĩ tuy không thể tránh khỏi sự lí tưởng hóa nhưng không thể nào phủ nhận vẻ đẹp muôn màu của Hà Nội. Có thể ồn ào náo nhiệt đấy rồi lại lắng mình suy tư, có thể hiện đại hào nhoáng đấy nhưng đâu đó vẫn thấp thoáng nét trầm mặc cổ xưa, có thể xuồng sã đấy nhưng vẫn giữ được vẻ thanh lịch tao nhã Tràng An.

Muốn đến với chút Hà Nội bâng khuâng trong nỗi nhớ, ta có thể tìm thấy “Người nghệ sĩ lang thang hoài trên phố/ Bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi một con đường”. Nhạc sĩ Phú Quang chọn cho mình cái nhìn tinh tế về Hà Nội, một góc phố rêu phong, một sắc đỏ cây bàng mùa đông, hay một chiều Hồ Tây xao sóng nghiêng nghiêng (Em ơi Hà Nội phố). Rồi những buổi chiều lãng đãng, thong thả hoà mình vào dòng người kiếm tìm những khoảnh khắc riêng để cảm nhận về Hà Nội. Lời ca thân thuộc, êm nhẹ, như là kể, mà cũng là hiện thực trước mắt. Những hình ảnh đẹp đẽ của xưa, nay cứ ùa về từ miền ký ức.

"Tôi vội vã trở về/Lấy cho mình dù chỉ là chút bóng đêm trên đường phố quen/Dù chỉ là 1 chiều sương giăng lối cũ/Tôi bồi hồi khi chạm bóng cửa ô". (Hà Nội ngày trở về)

hn%20tho%20mong%20khi%20dem%20xuong.jpg
Hà Nội thơ mộng khi đêm xuống.

Viết về Hà Nội, ta còn thấy phảng phất chút lãng đãng của tâm hồn nhạy cảm. Tình yêu. Phải, chỉ tình yêu thôi chưa đủ để làm nên sức sống cho những bài ca viết về Hà Nội. Đó là sự trải lòng mình. Trịnh Công Sơn Viết về Hà Nội vẫn với giọng điệu da diết khiến người ta không thể nào đừng băn khoăn, canh cánh trong lòng.

Nhoè phố mong manh, nhoè phố mưa/ Chợt nắng long lanh, chợt nắng thưa”.

Thời gian trôi đi, thành phố ngày càng mở rộng và lớn mạnh. Trên hết vẫn là cái cốt lõi Thăng Long mang nét cổ kính, nơi đúc kết tinh hoa tâm hồn và văn hóa của cả dân tộc. Viết về Hà Nội nay, nhưng dường như trong tâm khảm của các nhạc sĩ nói riêng và người Việt Nam nói chung, luôn có ý thức về một Thủ đô ngàn năm văn hiến. Một ngàn năm trôi đi tưởng như trong chớp mắt, nhưng kéo dài qua bao thế hệ, bao biến động và trải theo những bài ca.

Một chiều lang thang trên con phố ồn ào, rất có thể ta thấy rơi vào một khoảng lặng ưu tư của riêng mình. Vẫn cất lên tiếng ca đâu đó “Hà Nội ơi! Trong trái tim ta”.

Theo NHN
 
anh có tài liệu nào về Thăng Long - Hà Nội ko? hjhj..... em đang viết bài về '' Thăng Long - Hà Nội một ngàn năm văn hiến và anh hùng", có thì up cho em ha. thank
:byebye::byebye:
 
Có đó, em sang box Văn hóa Việt Nam có các chuyên đề anh lập ra đó. Anh có kêu gọi được một bạn ThăngLongVN tham gia nữa, em có thời gian cũng up lên nhé !

Nhớ đọc hết để khỏi bị trùng ! Em cũng cần đọc nhiều để còn không chỉ biết mà còn hiểu nữa .Có gì không hiểu cứ đặt câu hỏi lại cho anh !

Chúc vui !
 
Trong những ngày mùa thu tháng Tám kỷ niệm 60 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đọc lại bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi, ta cảm thấy một niềm tự hào dân tộc từ trong sâu thẳm tâm hồn.



Đất nước

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da...
Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!



1948

(Rút trong tập thơ Người chiến sĩ, NXB Văn nghệ , 1956.


Lời bình của Trịnh Thanh Sơn:

40095258_87186sm.jpg


Nhà thơ Nguyễn Đình Thi Bài thơ Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác vào cuối năm 1948 (theo hồi ức của nhà văn Tô Hoài) tại chiến khu Việt Bắc, mà cụ thể là ở vùng rừng núi Tuyên Quang. Lúc đó, ông đang là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ VN. Đất nước ra đời sau bài hát Người Hà Nội chưa đầy một năm, vì vậy không khí trường ca vẫn còn thấm đẫm. Có thể coi Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một trường ca thu nhỏ, bởi nó mang trong mình đầy đủ những phẩm chất cốt lõi của một trường ca.

Chính vì vậy, bài thơ Đất nước đã là một gợi ý cho rất nhiều những trường ca sau này, xuất hiện trong thời chống Mỹ. Tôi nói là những "gợi ý", nhưng thực chất đó là những bài học về phương pháp tư tưởng, phong cách nghệ thuật, và cả thủ pháp nghệ thuật khi tiến hành một trường ca.

Tuy nhiên, bài thơ Đất nước vẫn nguyên vẹn và mãi nguyên vẹn là một bài thơ trữ tình hoành tráng và lộng lẫy. Nhà thơ sáng tác bài thơ này ở tuổi 24, ở tuổi ấy mà viết như thế, chỉ có những thiên tài mới làm nổi, chỉ có dân tộc và cách mạng mới làm nổi.

Tài năng của Nguyễn Đình Thi đã gặp được thiên thời - địa lợi - nhân hòa, gặp được ngọn gió lớn mà ta vẫn quen gọi là "bão táp Cách mạng", vì thế mà vút lên, vì thế mà bền lâu, vì thế mà cách tân và hiện đại.

Nói "hiện đại" là ngầm so sánh với cái gì trước đó là "chưa hiện đại". Ở đây tôi muốn dừng lại ở một so sánh nho nhỏ, rằng Đất nước của Nguyễn Đình Thi hiện đại hơn Thơ mới trước đó không bao lâu.

Ông mở đầu bài thơ bằng việc tả mùa thu, một mùa thu như bao mùa thu trong cách nhìn của mùa thu thứ nhất, mùa thu đầu tiên:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Ta nhớ những ngày thu đã xa...


"Những ngày thu đã xa" là những ngày thu nào vậy? Phải chăng, đó là một nỗi buồn trong thơ Bích Khê:

Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi... thu mênh mông!


Hay trong thơ Chế Lan Viên trước đó:

Thu đến đây, chừ biết nói răng
Chừ đây buồn giận biết sao ngăn
Tìm trong những sắc hoa đang rụng
Ta kiếm trong hoa chút sắc tàn!


Không phải vậy, nỗi nhớ mùa thu năm xưa là một mùa thu rất khác. Đó là mùa thu năm 1946, đất nước sau bao cố gắng của Bác Hồ, vẫn phải một lần nữa đứng lên đánh Pháp, đấy là mùa thu nhà thơ trẻ phải rời Thủ đô Hà Nội thân yêu một lần nữa để trở lại chiến khu Việt Bắc, với niềm tin "Kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi". Phút chia tay với Thủ đô yêu dấu chưa đầy một tuổi Dân chủ Cộng hòa, tâm trạng nhà thơ mới bồi hồi, xao xuyến, xa xót làm sao:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy!


Thơ ấy có nhạc và có hoa. Giai điệu đã sẵn trong giai điệu và tiết tấu của thơ rồi, còn vẽ một bức tranh lụa hay sơn dầu thì sao? Khó nhất là tả cho được cái buổi sáng "chớm lạnh", và những đường phố dài "xao xác hơi may". Còn "người ra đi đầu không ngoảnh lại" và "sau lưng thềm nắng lá rơi đầy" chắc chắn là "nhìn được" bằng đường nét, bố cục và mầu sắc.

Nhưng không phải vậy đâu, tả được cái tình rưng rưng nước mắt của người "ra đi đầu không ngoảnh lại" kia mới là thật khó. Cái ấy, cái điều chiêm cảm ấy, chỉ có thơ mới làm được!

Và thơ cũng làm được một điều hơn thế, rằng chỉ sau hai khổ thơ đầu với lưu luyến, buồn thương, đau xót tiễn đưa, mùa thu bỗng khác hẳn, sáng bừng lên với một mầu sắc khác, bởi tâm trạng của người thơ đã khác, khỏe mạnh, tự tin và sáng bừng lên:

Mùa thu nay khác rồi!

Chỉ với năm chữ mở đầu của khổ thơ thứ ba "Mùa thu nay khác rồi" ta thấy tâm thế của người thơ đã chuyển, đã vươn tới một vị thế cao hơn, tự tin và sung mãn hơn trong tầm vóc của một nội lực lớn. Hình tượng của nhà thơ bỗng cao sừng sững:

Ta đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc, nói cười, thiết tha...


Nhận thức về "nội hàm" của một mùa thu mới là vô cùng sáng rõ và cách tân, bởi đây là mùa thu khác, mùa thu của những người đã có quyền làm chủ núi đồi, làm chủ những rừng tre phấp phới, và là một "mùa thu thay áo mới", một mùa thu "trong biếc, nói cười, thiết tha!".

Câu cuối của khổ thơ này thật tài hoa, và nó là đặc sản của thi tài Nguyễn Đình Thi.

Sự kết hợp của những tính từ - động từ - trạng từ, bất ngờ đến nỗi làm ta phải sững sờ trong chiêm cảm một vẻ đẹp ngôn ngữ Việt mà trước đây chưa bao giờ có. Ai trong biếc? Ai nói cười? Ai thiết tha? Chính là hồn của mùa thu mới, hồn của dân tộc vậy!

Một câu thơ mà làm sáng cả non sông, đất nước và làm cho chúng ta tự hào, tự tin biết bao. Một đất nước, với những ngày thu ấy, sẽ mãi mãi trường tồn. Đó là chủ quyền của người Việt, của giống nòi dân Việt. Trong cảm hứng hào sảng ấy ông viết tiếp:

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông chảy nặng phù sa...


Để rồi, vang vọng những câu thơ hào sảng nhất về giống nòi:

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về

Ngày xưa nói về gì vậy?

Những buổi ngày xưa nói gì đây?

Và ông trả lời như một bích họa thắm đỏ máu xương, rằng:

Ôi! Những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai xé nát trời chiều

Và: Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu


Tôi gọi những câu thơ này là những câu thơ thăng hoa nhất của người chiến sĩ - nghệ sĩ Nguyễn Đình Thi. Ngoài những gì hay và đẹp nhất mà ông đã dâng hiến cho nền thi ca hiện đại Việt Nam, những câu thơ trên, ông đã tự khiêm nhường bộc lộ một thiên tài thi ca, ít ai sánh nổi:

Cảm hứng rộng dài đất nước, dân tộc và cá nhân người chiến sĩ đã gắng quện vào nhau, hòa đồng trong nhau, để bản thân người nghệ sĩ bỗng trở thành một tế bào của đất nước. Một đất nước từng Ngời lên nét mặt quê hương/ Mỗi gốc lúa, bờ tre hồn hậu/ Cũng bật lên những tiếng căm hờn! Rồi ông nói, như hai triệu người dân chết đói nói, như tiếng vọng của những âm hồn:

Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da...


Đau buồn ấy là đau buồn ký sự, đau buồn nhiếp ảnh, đau buồn hội họa. Còn đau buồn và phản kháng thơ phải cao bút lên như thế này, sâu thẳm và triết luận trong một so sánh và phương pháp tư tưởng đầy nghịch lý, minh triết như thế này:

Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà...


Những câu thơ tưởng như một lời đại ngôn ấy, bỗng làm người đọc xúc động và thẩm thấu một ý nghĩa quan trọng trong triết học về lẽ sống. Ai giết nổi chim và hoa? Ai bắn được "lòng dân ta yêu nước thương nhà!" Ấy là sự bắn vào hư không, ấy là sự tàn sát trong vô vọng. Hệ quả cuối cùng, chỉ là sự thất bại mà thôi!

Chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn cầu đã thất bại hoàn toàn vì chân lý giản dị ấy, và Nguyễn Đình Thi - với một chiêm cảm lớn, đã tổng kết qua thơ.
Càng đọc Đất nước, chúng ta càng cảm nhận và thấu suốt, đó là một bài thơ lớn, được viết từ một tâm hồn, tâm hồn của một nghệ sĩ đồng hành với lòng dân, biết tôn vinh một giá trị vĩnh hằng, đó là tấm lòng cửa người dân với quê hương, đất nước. Non sông nước Việt vẫn trường tồn, đã trường tồn, đang trường tồn và sẽ trường tồn bởi một giá trị văn hóa vĩnh hằng, đó chính là: "Lòng dân ta yêu nước, thương nhà!

Trong những ngày mùa thu tháng Tám, kỷ niệm 60 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đọc lại bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi, chúng ta cảm thấy một niềm tự hào dân tộc từ trong sâu thẳm tâm hồn:

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn, đứng dậy sáng lòa!


Những câu thơ ấy cho ta gặp lại một mùa thu năm xưa, một mùa thu định mệnh của toàn dân tộc, và bỗng cảm thấy tâm hồn thanh thản, sạch trong "mát trong như sáng năm xưa".

Viết về bài thơ Đất nước, tôi ngỡ như được gặp lại ông - một Nguyễn Đình Thi ân tình và cởi mở, thường gật đầu hiền hậu khi gặp tôi ở sân 51 Trần Hưng Đạo, đôi khi vẫy tay gọi lôi lên phòng của ông, tặng tôi một tập thơ vừa xuất bản. Trong tôi, Nguyễn Đình Thi vĩnh hằng là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ lớn và độc đáo của dân tộc Việt.

Cùng với những bản nhạc Diệt phát xít, Người Hà Nội, bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi mãi mãi sống cùng non sông đất nước.


Theo Văn nghệ
 
Phan Vũ- nhà thơ “Em ơi! Hà Nội phố”
avatar.aspx


(VOV) - Tôi gặp Phan Vũ trong căn nhà nhỏ của ông ở thành phố Hồ Chí Minh. Ở tuổi 84, ông làm thơ, vẽ và viết báo.


Có lẽ người yêu Hà Nội nào cũng từng ngân nga giai điệu của ca khúc “Em ơi! Hà Nội – Phố” với những ca từ như thấm sâu vào máu thịt : “…Ta còn em cây bàng mồ côi mùa đông. Ta còn em nóc phố mồ côi mùa đông. Mảnh trăng mồ côi mùa đông…”. Thế nhưng, không phải ai cũng biết rõ về tác giả của những vần thơ đã được nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc để làm nên một trong những ca khúc hay nhất về Hà Nội.

Những câu thơ đầy nhạc cảm trong ca khúc “Em ơi! Hà Nội – Phố” được trích ra từ một trong những bài thơ hay nhất của Phan Vũ được viết thành trường ca gồm 23 đoạn. Bài thơ ra đời vào những ngày đêm Hà Nội bị đánh bom năm 1972, trong một căn gác nhỏ nơi nhà thơ sống ở phố hàng Bún. Bằng những cảm xúc khi ấy, ông đã viết nên những vần thơ bất hủ mà nhiều người cho rằng đến giờ chưa một bài thơ viết về Hà Nội nào sánh được.

Một điều thú vị nữa là bài thơ chưa bao giờ được in, cho đến tận năm ngoái (2008) , tập thơ Phan Vũ với bản gốc trường ca“Em ơi! Hà Nội – Phố” lần đầu tiên xuất bản. Đọc “Em ơi! Hà Nội – Phố” của Phan Vũ mà nghe dư âm xưa hiện về nơi phố cổ, một Hà Nội thanh bình êm ả những năm 60-70 của thế kỷ trước. Phan Vũ “vẽ” lại Hà Nội xưa, thời chiến tranh khắc nghiệt nhưng rất lãng mạn, hào hùng:

“Tiếng dương cầm trong căn nhà đổ “ .

Luôn thấp thoáng đâu đó là những hình bóng người con gái đẹp:

“Ai đó chờ ai?
Tóc cắt ngang xõa xõa bờ vai….” .


Từ hồi đó, thơ của ông đã đầy màu sắc, đọc từng câu mà hình như đang xem họa sỹ vẽ Hà Nội:

“….một màu xanh thời gian.
Một màu xám hư vô,
Chợt nhòe,
Chợt hiện…”
“Nhợt nhạt vàng son”

một Hà Nội man mác lẫn hồn thơ mùa thu:

“ Ta còn em cô hàng hoa
Gánh mùa thu qua cổng chợ

Những chùm hoa tím
Ngát mùa thu… “


một Hà Nội lãng mạn phong cách riêng của Hà Nội…

"Ta còn em tà áo nhung huyết dụ.
Đất nghìn năm còn mãi dáng kiêu sa,
Phường cũ lưu danh người đẹp lụa.
Ngõ phố nào in dấu hài hoa…?"



phanvu.jpg


Nhà thơ Phan Vũ Nhà thơ, họa sĩ 84 tuổi đọc cho tôi nghe bài thơ- trường ca “ Em ơi Hà Nội phố”, chia sẻ với tôi những cảm xúc dường như vẫn còn tươi nguyên như ngày nào. Ông vẫn còn một kỳ vọng là được chính thức giới thiệu và tự mình đọc trường ca “Em ơi! Hà Nội – Phố” chính tại Hà Nội, cho những người Hà Nội... * Thưa nhà thơ Phan Vũ, ông đã viết trường ca “Em ơi! Hà Nội – Phố” như thế nào ?

Phan Vũ: Mùa đông năm 1972, lúc ấy B52 đánh Hà Nội ác liệt. Trong những ngày đó, tôi sống ở Hà Nội. Hàng ngày, hay đi lang thang. Tôi thân với họa sĩ Bùi Xuân Phái, nên hay đi theo ông Phái. Ông vẽ phố, còn tôi nghĩ về phố. Nhiều khi đến đêm, lúc 1,2 giờ sáng ông Phái còn đem tranh đến nhà tôi treo.

Trường ca đó như một nhật ký bằng thơ. Bởi với những gì đã diễn ra hồi đó, một bài thơ không đủ chứa đựng được. Tôi viết trong khoảng 10 ngày. Nhà tôi ở phố Hàng Bún. Chiến tranh, người ta đi vắng hết. Bom đạn, cây cối nhà cửa đổ nát.

Căn nhà tôi ở là một nhà kiểu Pháp, của một trung tá Pháp, nhà có lò sưởi. Lúc đấy tôi đi lượm cây cối, những mảnh gỗ vỡ, rồi đêm nào cũng đốt lên, rồi thì làm thơ…

* Trong trường ca có thấp thoáng hình bóng “khăn choàng tím đỏ”, “đôi mắt buồn”, cô gái nhẹ buông rèm cửa”, “tà áo nhung huyết dụ”… Đó là những cô gái nào vậy, thưa ông?

Phan Vũ (cười): Rất nhiều người con gái. Đã có một người viết luận văn cao học về bài thơ này, cô ấy ngồi tẩn mẩn đếm xem có bao nhiêu người con gái trong đó. Trong khi tôi cũng không biết đích xác là có bao nhiêu cô !

* Thế còn cô gái “Tiếng dương cầm trong căn nhà đổ”- một hình ảnh thơ gây ấn tượng mạnh với công chúng?

Phan Vũ: Cô ấy nhà ở phố Quán Thánh, chơi đàn Piano. Cô ấy học bà Thái Thị Liên cùng Đặng Thái Sơn. Sau này cô sang Nga học, rồi sang Pháp định cư ở Pháp. Thuở đó chúng tôi là bạn thân, ở nhà gần nhau. Trời lạnh, tôi sang nghe cô đàn. Cô ấy sau này có một cuộc đời nhiều truân chuyên, trắc trở...

“…Ta còn em những ngọn đèn mờ
phan-vu--duongcamtrongcannh.jpg


Tiếng dương cầm trong căn nhà đổ - tranh Phan Vũ

Trên nóc phố,
Mùa trăng không tỏ
Tiếng rao đêm
Lạc giọng
Thờ ơ...

Ta còn em bảy nốt cù cưa,
Lão Mozart hàng xóm
Từng đêm quên ngủ
Cô gái mặc áo đỏ Venise
Tiếng dương cầm trong căn nhà đổ
Những mảnh vỡ trên thềm
Beethoven và Sonate ánh trăng…”

là đoạn viết về cô gái đó.

Chính vì bom đạn năm 1972 nên tôi mới viết: “Ta còn em…”, điệp từ lặp đi lặp lại, như là một lời thách thức: Cứ ném bom đi, ta vẫn sống!. Vẫn còn những kỷ niệm, những hoài niệm.

*Vì sao ông viết “Cây bàng mồ côi”, “mảnh trăng mồ côi”…

Phan Vũ: Ẩn ý của từ “mồ côi” là nỗi cô đơn một mình. Chiến tranh, đổ nát, tôi đi lang thang một mình… Nghệ sĩ nào cũng có chút cô đơn trong người và quan trọng là biết “hưởng thụ” sự cô đơn ấy.

*Có nhiều từ mang chất “họa” trong thơ ông: màu xanh thời gian, màu xám hư vô, nhợt nhạt vàng son…

Phan Vũ: Đoạn tôi thích nhất trong trường ca:

… Ta còn em một màu xanh thời gian
Một màu xám hư vô
Chợt nhòe
Chợt hiện
Chợt lung linh ngọn nến
Chợt mong manh
Một dáng hình
Nhợt nhạt vàng son
Đậm đầy cay đắng…"

Màu xanh của thời gian. Tranh của tôi giờ rất nhiều màu xanh. Tôi thích Chagall (danh họa người Do Thái Marc Chagall- PV).

* Vì sao mãi sau này ông mới đến với hội họa?

Phan Vũ: Ngày xưa tôi thích vẽ, tôi chơi với nhiều danh họa: Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng… Ở bên cạnh mấy bè bạn vẽ đẹp quá, thành thử không vẽ được. Sau này, khi vào Nam sống thì tôi vẽ…

tranh-phan-vu.jpg

Một tác phẩm của Phan Vũ- họa sĩ

*Trên mạng Internet, nhiều người tranh luận về bản gốc trường ca “Em ơi! Hà Nội – Phố” của ông…


Phan Vũ: “Em ơi! Hà Nội – Phố” của tôi là tam sao thất bản vì xưa đâu có in? Lần này đã có bản gốc. Tam sao thất bản vì thơ tôi chỉ là thơ miệng, tôi ngồi đọc thơ, chứ không in sách. Thiên hạ gọi tôi là “nhà thơ” nhưng tôi có thơ in đâu?

Tập thơ này năm ngoái mới in. Thường tôi làm thơ hay để lang thang trên bàn, ở các góc trong nhà, con gái tôi mới thu lượm lại. Năm ngoái khi tôi sang triển lãm tranh ở Pháp, có một người ái mộ thơ tôi đến gặp. Ông ấy lấy in thành tập này, tuy nhiên trong đó không tránh được có những lỗi biên tập nhỏ.

Tôi đã làm những cuộc trình diễn thơ. Làm thơ rồi đốt. Có người hỏi vì sao lại đốt. Vợ tôi- Thy Nga, hồi bà ấy còn sống, chưa được nghe bài này. Đốt đi là để hóa vàng, cho vợ tôi nghe.
*Một câu trong “Em ơi! Hà Nội – Phố” mà nhiều người thắc mắc:

“Người nghệ sĩ lang thang
Hoài,
Trên phố,
Bơ vơ
Không nhớ nổi con đường…”


Vì sao lại không nhớ nổi con đường vậy, thưa ông?

Phan Vũ: Hồi đó chiến tranh nên đường phố Hà Nội rất vắng, tôi hay đi bộ, đi lang thang suốt ngày, nhiều lúc tôi ngẩn ngơ suy nghĩ … đang đi trên một con đường mà chả biết đường nào!
* Trong thơ có bóng dáng của nhiều người con gái như thế, chắc hẳn ông là một nghệ sĩ rất hào hoa…

Phan Vũ: Những người con gái ấy trong thơ tôi rất trong sáng, không có gì dung tục. Anh em bạn bè nói đùa: Phan Vũ đi chừng 5 bước là có 1 chuyện tình!. Nhưng giờ xe tôi chạy mấy chục km chỉ thấy nguyên xi 1 lão già (cười).

(Rồi ông đọc bài thơ “tự họa”):

Phan Vũ sinh ở Hải Phòng năm 1926. Ông là nhà thơ, nhà viết kịch, là tác giả của nhiều tác phẩm được công chúng ái mộ: tập thơ Hà Nội – Phố, kịch Lửa cháy lên rồi (giải thưởng Văn học năm 1955), Thanh gươm và Bà mẹ, kịch bản phim Dòng sông âm vang…

Ông từng đạo diễn các phim Người không mang họ, Bí mật thành phố cấm, Như một huyền thoại (phim về nữ anh hùng Võ Thị Sáu).

Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, khi đã ngoài 70 tuổi, ông chú tâm đến với hội họa và đã có 9 cuộc triển lãm tranh ở trong và ngoài nước.

Gã- thằng nhóc mê tiếng kèn dụ dỗ
Lầm lạc từ số không đến vô cùng
Chẳng đoán được tay có tay không
Trong khuôn mặt ấy có gì gian dối
Gã- xoè bàn tay che một đời mưa
Một đời nắng
Chân trần rát bỏng
Con đường
Sợi thong lọng
Treo đầu phận số
Chênh vênh bờ vực lối đi về
Thì đã thí thân cho cuộc chơi cợt nhả
Xá gì trươt chân lộn cổ
Vẽ mặt bôi râu
Cho đúng vai hề
Một đời nửa tỉnh nửa mê
Bởi độc tố thơm mùi ngọt sữa
Gã- Con ngựa quên hiệu còi khởi chạy
Phi thật nhanh nhưng chệch đường đua
chan-dung-tu-hoa.jpg


Chân dung tự họa
Ngày ra đi một kẻ dại khờ
Ngày trở về da mồi tóc bạc
Một thằng khờ dại nguyên si
Gã- đứng giữa ngày tàn chiều tận
Trên thân đau đếm đủ lằn roi
Đòn hội chợ của đám đông không thù oán
Bởi cô đơn chính là hình án
Giữa chợ đời còn rao bán tài hoa
Gã- một mặt phẳng cho một tầm nhìn
Một chiều cao cho những đường thẳng đứng
Một màu xanh cho tất cả màu xanh

Chỉ đời như chẳng lạ, chẳng quen
Muộn phiền
Cam chịu

Quanh quẩn giang hồ trong xép nhỏ
Những bài thơ lỡ dở lem nhem
Gã trần trụi đi qua thời gian
Một nhịp
Mông mênh hun hút gió
Và một đam mê ảo điên rồ
Khi kim đồng hồ chỉ vào số trắng
Trong độ chênh ngày tháng
Không có gì trối trăng.

(Hết).

Phan Vũ bảo, cả đời ông có 2 bài thơ “đúng chất” để có thể để lại cho người sau. Một bài thơ về Sài Gòn, và bài thơ về Hà Nội: trường ca “Em ơi! Hà Nội – Phố”.

Chia tay ông, tôi cứ nghĩ, lẽ ra Bùi Xuân Phái và Phan Vũ phải là hai anh em ruột mới phải: một ông vẽ Hà Nội, một ông làm thơ Hà Nội sao mà hay, mà đẹp, mà mơ mộng, mà hiện thực mà hồn nhiên đến thế!.

Mong sao, ông có thể thực hiện được ước nguyện của mình đúng dịp hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội: “Tôi biết nhiều người Hà Nội họ thích bài thơ “Em ơi! Hà Nội – Phố”. Tôi cũng đề tặng: Gửi những người Hà Nội đi xa. Tôi phải ra Hà Nội, đọc, chính thức giới thiệu với người Hà Nội trường ca “Em ơi! Hà Nội – Phố” trong một không gian Hà Nội…”


Lê Bích (thực hiện
 
NHỚ HỒ GƯƠM


Hồ Gươm ơi ta mãi nhớ trong đầu
Làn nước xanh xanh đến nao nao
Với ta hồ vẫn như ngày ấy
Như tình dang dở bao khát khao

Nhớ bên em dạo ngắm đền xưa
Lãng đãng mây bay bóng tháp rùa
Cây si mốc chúc cành xuống nước
Những cuộc tình như áng mây đưa

Ở Sài Gòn không có mùa đông
Nên vẫn nhớ cái rét mặn nồng
Những giờ phút trên cầu Thê Húc
Với người yêu trong những đêm đông

Cuộc tình đầu còn mãi vấn vuơng
Bên đên Ngọc Sơn với người thương
Hỡi người yêu xưa em còn nhớ
Bên nhau ngày đó ở hô Gươm

18-4-06



NHỚ HÀ NỘI MÙA ĐÔNG


Ở Sài Gòn chẳng có mùa đông
Vẫn nhớ hòai cái rét thắm nồng
Của năm tháng tuổi thơ Hà Nội
Đã một thời mơ hái diêu bông
Ta nhớ em nhớ mùa hoa sữa
Nhớ từng phố cổ những đêm đông
Nhớ tường vôi cũ màu nham nhở
Những ngôi nhà có mái rêu phong
Đừơng Cổ Ngư có em bên cạnh
Nghe tim đập rộn rã phập phồng
Đi bên em không còn lạnh nữa
Dù Hà nội đang giữa mùa đông
Đi bên anh có em bé nhỏ
Khuôn mặt xinh như đóa hoa hồng
Mỗi khi hôn mắt nàng nhắm lại
Tim anh rực lửa giữa mùa đông

Hà Nội ơi ta còn nhớ mãi
Vẫn nhớ hòai năm tháng mùa đông

23-4-06


HƯƠNG HÀ NỘI


Em ở đâu mà em không nói
Phố cổ xưa hay miền đất mới
Nhà không phố phố hỏi không tên
Vẫn thân quen đất trời Hà Nội

Vẫn bốn mùa không hề thay đổi
Lá sen xanh ướp hương cốm mới
Hoa sữa về thơm ngát mùa thu
Sáng đi làm vẫn quen hương phở

Hương Hà Thành vẫn ở trong em
Vẫn mãi là Hà Nội thân quen
Như hợp chất ngấm vào trong máu
Thấm vào tế bào và cả trong gien

Dù phố cũ hay nơi ở mới
Vẫn là em Hà Nọi của anh
Vẫn là hương của đất Hà Thành

14-5-06



MÙA THU NHỚ

Hà nội vào thu Dạ Lan hương
Đường Cổ Ngư xưa Hoa sữa vương
Chùm so đũa tần ngần xao xuyến
Gió thì thào thổn thức vấn vương

Hòang hôn về chống chếnh cung đường
Mùi dạ lan da diết mùi hương
Như nhắc nhủ những ngày êm đẹp
Bóng ai xưa như mãi vấn vương

Thu về như nhắc nỗi hòai mong
Hỡi người năm ấy còn nhớ không
Thu về để lại tình trong mộng
Vẫn đẹp tươi hòai vẫn nhớ mong

Ôi dĩ vãng thân yêu sâu lắng
Bỗng hiện về trong gió thu buồn
Rồi lặng lẽ tan vào xa vắng
Lòng tràn trề cảm giác cô đơn

Ngắn ngủi một thời bao kĩ niệm
Bây giờ xa cách mấy trùng dương
Ước gì phép lạ gặp nhau lại
Cùng dắt nhau đi hết đọan đường

25-7-06


CON SÁO SANG SÔNG


Sáng nay gió lạnh trời trở đông
Mênh mang cuồn cuộn nước sông Hồng
Mây kéo đầy trời trôi lãng đãng
Con sáo sổ lồng sáo sang sông
Sáo đi để lại lồng trống rỗng
Để lại cả trời những khỏang không
Để người ở lại bao nuối tiếc
Bao năm nuôi dưỡng sáo trong lồng
Sáo vui cùng bạn nơi đất mới
Có biết một người vẫn hằng mong
Xin đừng ngóai lại buồn nao dạ
Kẻ ở trông theo xót quặn lòng
Thôi thế từ nay là cách biệt
Những gì ước hẹn hóa hư không

5-8-06



BÊN HỒ TÂY

Chiêu nay dạo bước cạnh Hồ Tây
Mây mù phủ kín như khói mây
Trời đông gió lạnh hồ gợn sóng
Nhớ sóng tình xưa ở chốn này

Rung rinh bóng liễu dưới đáy hồ
Bóng ai đang thủ thỉ hẹn hò
Giật mình mới nhớ mình đơn lẻ
Lạc lỏng chiều nay đến thẫn thờ

Từng nhớ từng thương từng chụm đầu
Từng chung dòng lệ ướt vai nhau
Bây giờ chỉ thấy sương thấm lạnh
Ướt cả trong tim lạnh cả đầu

Chiều nay lối cũ ở hồ này
Lại nhớ cùng ai tay nắm tay
Kĩ niệm năm xưa thành ảo mộng
Chìm theo sóng nước xuống Hô Tây

9-8-06


CÁNH DIỀU XƯA


Nghiêng nghiêng trong gió tắm mây trôi
Cánh diều ai thả cuối chân trời
Như đang đùa giỡn cùng nắng xế
Cõng nặng trên lưng những đầy vơi

Diều ơi có nhớ bãi sông Hồng
Diều chở dùm ta bao ước mong
Vẫn dòng sông ấy con diều ấy
Chỉ vắng bóng người cũ bên sông

Nặng chĩu lòng tôi những sớm chiều
Chân trời xa thẳm nỗi thương yêu
Những áng mây ngàn thời thơ ấu
Văng vẵng đâu đây tiếng sáo diều

11-8-06


GIÓ THU


Đường Cổ Ngư tà áo lụa ai bay
Tóc xõa ngang vai chiều xanh nỗi nhớ
Chiếc lá bàng buồn bay trên hè phố
Cũng tháng ngày này người năm ấy có hay

Ngày em đi heo hắt nắng chiều vương
Màu tím lạnh đường chân trời ngút ngát
Lãng đãng mây bay nghe hồn phiêu bạt
Hồ Tây ngày nào còn đọng mắt sương

Em ở đâu rồi, em đã về đâu
Cành liễu rũ như đang cùng hối tiếc
Phượng hồng ơi đâu chỉ là li biệt
Ngọn gió thu buồn chợt đến chợt đau

11-9-06



NHỚ HOA ĐÀO HÀ NỘI


Hơn cả hoa xuân của đất trời
Hoa Đào Hà Nội của riêng tôi
Với mối tình đầu bao thơ mộng
Đã đi theo tôi suốt cuộc đời

Tôi nhớ hoa nhớ cả triệu lần
Hoa đào Hà Nội ấm mùa xuân
Thắm hồng đôi má người yêu dấu
Và cả bờ môi thấp thóang gần

Nhớ khi se lạnh bên Hồ Gươm
Cùng ngắm hoa đào với người thương
Lại thấy tim mình bao rạo rực
Bỗng cảnh Hồ Gươm đẹp lạ thường

Xuân của đất trời hoa ngát hương
Nhớ đào Hà Nội bao vấn vương
Đi suốt đời tôi theo năm tháng
Bóng dáng đào xưa với người thương

Hà nội tết này vui không em
Hoa đào có đỏ má em thêm
Nụ cười em hơn hoa đào nở
Ấm cả mùa xuân mãi không quên

15-3-07


CÁNH ĐÀO XƯA

Tết về có dịp ngắm hoa đào
Lại nhớ về Hà Nội biết bao
Nhớ cùng người yêu xem đào tết
Trái tim rạo rực bao khát khao

Nhớ Hồ Gươm trong những ngày xuân
Những cành đào thấp thóang xa gần
Như tô thắm thêm hồ xanh biếc
Và hồng má em đến bao lần

Nhớ hoa đào hay chỉ nhớ em
Thiêu vắng bao năm cảnh đòan viên
Vẫn nhớ vẫn thương mà cách trở
Ngắm hoa đào lại càng nhớ em

Biết bao năm rồi có những đêm
Mơ đào Hà Nội gọi tên em
Bóng đào Hà nội còn in mãi
Và bóng dáng em mãi không quên



H À NỘI TRONG T ÔI


Mỗi lần đ ược về thăm Hà Nội
Đi trên con đường phố cũ xưa
Lại nghe thấy phố như thầm g ọi
Vẵng bên tai những kĩ niệm xa

Nh ững cảnh cũ giờ như biết n ói
Cho tôi nghe kí ức tuổi thơ
Tường nham nhở ngôi nhà lập ngói
Và hàng cây vẫy lá đ ợi ch ờ


Bao n ăm rồi tuổi thơ còn đó
H à N ội x ưa v ẫn ở trong t ôi
Nghe leng keng tiếng xe đi ện đ ỏ
V à thơm mùi hoa sữa không nguôi

Nhớ không em những chiều mùa đông
Trời rét lạnh ăn kem Thủy Tạ
Cát rét ngọt với chiếc kem không
Sao lại thấy em hồng đôi má

D ù ở đ âu chân trời đất lạ
Vẫn không quên Hà N ội của tôi
Với mối tình đầu in sâu quá
Vẫn ở trong tim mãi tuyệt vời

22-3-07



HÀ NỘI TRONG TÔI

Cứ mỗi lần đ ược về Hà Nội
Dạo trên đường phố cổ ngày xưa
L ại thấy bóng cũ xôn xao gọi
Văng vẵng trong tôi kĩ niệm xa

Con đường nh ỏ dường như biết nói
Cho t ôi nghe kí ức tuổi thơ
Nh ững ng ôi nh à li ê u xi êu m ái ngói
V à hàng cây n ơi đã hẹn hò

Còn nhớ không em những chiều đông
Trời giá rét ăn kem Thủy Tạ
Hai cái lạnh có phép lạ lùng
Cho em t ôi thắm hồng đôi má

D ù ở đâu n ơi miền đất lạ
Hà N ội ơi c òn m ãi kh ông nguôi
C ùng mối tình đầu in sâu quá
Trong trái tim tôi đ ến muôn đ ời

22-3-07



ÂM THANH HÀ NỘI


Nhiều đêm mơ trong giấc ngủ
Trở về kí ức tuổi thơ
Leng keng tiếng xe điện đỏ
Tôi emcùng đứng bến chờ

Gõ nhịp đều đếu “tục tắc”
Ai bán mì dạo Hàng Buồm
Trong đêm nghe sao man mác
Bồng bềnh rạo rực bâng khuâng

Chỉ mơ mà sao nhớ thế
Hà nội hiện về từng đêm
Âm vang một thời trai trẻ
Trong mơ vẳng tiếng thân quen

Hà Nội một thời mãi nhớ
Âm thanh nào nhắc tên em
Tiếng xưa nào luôn nhắc nhở
Một thời Hà Nội không quên
Hà Nội một thời để nhớ

28-3-07


MIÊN MAN VỚI TUỔI THƠ HÀ NỘI


Nhiều đêm vang trong giấc ngủ
Tiếng rao lanh lãnh “phá xa “
Của ai bán lạc ngòai phố
Vang vào trong đêm ngân nga

Nhiều lần mơ trong giấc ngủ
Vẵng nghe tiếng guốc xa xa
Gõ nhịp đều trên hè phố
Của cô nàng bán dạo hoa

Trên đầu chít khăn mỏ quạ
Lưng tròn áo tứ thân nâu
Da trắng thêm hồng đôi má
Mỗi lần qua ấm mùa thu

Chỉ mơ sao mà nhớ quá
Hà Nội hiện mỗi giấc mơ
Tiếng rao hay là tiếng guốc
Vẫn miên man với tuổi thơ

28-3-07


Thơ sưu tầm.
 
Phố buồn

Ngô Văn Phú

Em có nhớ góc phố buồn u tối
Ta thường qua, lặng lẽ bước thâm trầm
Nhạc dang dở, than nỗi đời rắc rối
Không gian thầm dâng nhẹ hương hoàng lan

Yêu đến đỗi. Lòng cũng buồn đến đỗi
Nói hoài rồi. Cần lắm, phút lặng im
Hơi thở nhẹ lẫn mùi hoa bối rối
Dáng em đi tóc xoã phủ vai mềm

Phố u tối. Tình yêu không lối thoát
Lòng chơi vơi theo chiếc lá thu buông
Đêm Hà Nội. Hai người. Hai cái bóng
Nhạc tắt rồi, giai điệu vẫn còn vương

Anh đếm được những bước chân quanh quẩn
đang dấn vào những lối hẹp mê cung
Phố u tối. Những nỗi buồn thăm thẳm
cắm đinh sâu vào ván - gỗ - đời - mình
 
Mùa thu không em

Trần Quốc Hoàn


Mùa thu sang trong nỗi nhớ không em
Mưa vẫn rơi trên con đường hiu quạnh
Anh bước đi trong một chiều thu lạnh
Trên con đường đã vắng bóng em yêu...

Ngày em đi, ta nhớ, một buổi chiều
Em đã hẹn ta ở cuối con đường đó
Chiều hôm ấy mưa rơi, ta vẫn nhớ
Hai đứa đi bên nhau chẳng nói một lời...

Em chẳng nói nhưng mắt em đã nói
Lời chia tay, mắt em đã nói rồi
Lặng nhìn mưa rơi hay em khóc?
Lá vàng rơi và em đã đi rồi....

Tôi biết rằng em đã yêu rồi
Biết nhưng chỉ để biết thế thôi
Em đã ra đi, đi mãi mãi
Chiếc lá vàng rơi, thu dần trôi....

Và rồi khi chiếc lá thôi rơi
Khi mùa thu yêu dấu đã qua rồi
Ngắm chiếc lá vàng em gửi lại
Dường như tôi lại thấy em tôi.
 
Đi trong huơng thời gian

Em đi về phía mùa thu
Xôn xao bình minh phố
Lấp lánh từng ô cửa
Tỏa thơm hương thời gian

Hà Nội còn thu trải nắng hanh vàng
Mái ngói nghiêng nghiêng dầu dãi
Em là góc mùa tươi lại
Đồng Xuân vào sắm cau trầu
Để anh là Cúc đậm màu
Đê mê mắt nhìn trẻ mãi
Bao nhiêu ngày cũ trôi nhanh
Hồn nhiên tóc liễu lên xanh dịu dàng…

Đi trong mùa thu hân hoan
Khúc dương cầm ai thả
Nhịp thở ru cành lá
Tán xòe che gốc cây già

Ta đi tìm Ngọc Hà làng hoa
Gặp trầm tích Hoàng Thành những vết đao đau đáu
Rùa thiêng nhận về Gươm báu
Ba Đình nắng trải mênh mang
Phía ngoại ô hương cốm nồng nàn
Thành đô mở một ngày thu mới
Lưng tựa vào vách núi
Hướng ra sông Hồng…

Anh và em đi vào ngàn năm Thăng Long
Ngan ngát hương thơm thời gian.



Nguyễn Hạnh Hiếu
 
HƯƠNG HOA SỮA


Mỗi sáng thu về ngát mùi thơm
Hoa trắng tràn trên khắp phố phường
Người đi mê mãi nơi xa lạ
Có nhớ ta còn bao vấn vương

Gió thổi thơm lừng buổi ban mai
Thóang nâng suối tóc lược em cài
Giữa mùa hoa rộ hương lưu luyến
Đây đó tuôn tràn thương nhớ ai

Hà Nội thu về ngát mùi hương
Hoa sữa thơm quện bao nhớ thương
Lâng lâng trong dạ hương và gió
Bỗng lại nhớ ai đến điên cuồng

22-4-07


HÀ NỘI XƯA ĐÂU RỒI



Bắt đền ai đây hỡi Hà Thành
Nhịp sống bây giờ sao quá nhanh
Lá vàng cũng vội rơi xuống đất
Bởi dòng xe như chẵng có phanh

Đầu phố nhỏ trước con ngõ nhỏ
Biến đâu rồi quán nước chè xanh
Và không thấy bóng người dạo bộ
Cùng cây sấu em đã hẹn anh

Gió cuốn bụi đương lá cuốn bay
Ô tô xe máy ngút trời mây
Đường xưa còn đó giờ sao vắng
Sáng chiều thư thả dạo đó đây

Giờ yêu nhau nhờ mail và chat
Đâu như xưa dạo mát Hồ tây
Hết cả ngày trên sàn chứng khóan
Thời gian đâu hóng gió heo mây

23-4-07


Thơ sưu tầm.
 
Hà Nội trong tôi

Màu phố cổ màu xanh me vàng sấu
Bình minh chói lòa những ô kính tháp cao
36 phố phường trầm tích
Hồ Tây xanh biếc tự thưở nào
Nắng vàng thu gọi đôi mắt đợi
Lích chích vòm cây máy chú sẻ nâu
Phố của Phái cà phê giọt nhỏ
Cây trầm ngâm lá úa chân lầu

Có những niềm vui đang chảy dài trên phố
Mượt thêm tóc tuổi giao mùa
Và sông Hồng dịu gió
Vẽ vòng cung vào đất Hai Vua

Những siêu thị khoe màu hiện đại
Còn ai nhớ không quán cóc ven đường
Và nghệ nhân già miết tò he bên gốc liễu
Mắt đục mờ còn xoay ngược thời gian

Dòng người dòng xe thu hẹp lòng đại lộ
Biệt thự chen nhau khuất lấp ao hồ
Hà Nội trong tôi còn nguyên nét cổ
Và Hồ Gươm
Đài nghiên-Tháp bút vẽ trời thơ.

Huỳnh Đường
 
Yêu em trong lòng Hà Nội





Phòng ở
hai mươi mét vuông (không phải của mình)
tôi sở hữu trái tim em thắm đỏ
bên nhau nồng nàn trong lòng Hà Nội.
Phố Nhà binh sấu già gió thổi
đường một chiều, bao võ tướng văn nhân
em-đi-về-sớm-tối
một con đường Hà Nội riêng tôi!

Ta không thuộc về những lung linh vời vợi
em vô danh
tôi vô danh
giữa ức triệu dân thường
trong gió sương châu thổ sông Hồng
cái trọ trẹ miền Trung khó lẫn…

Cứ vậy quen dần một Thủ đô người góp
một Thăng Long hội tụ trăm miền
một Đông Đô dày trầm tích văn hiến
bao nhiêu vô danh Đất Việt đắp bồi!

Ta góp vào Hà Nội một tình yêu
được che chở trong rêu phong nghìn tuổi
nghìn năm sau lứa đôi nào dạo bước
trong gió sông Hồng còn nghe rõ chúng tôi …

Nguyễn Hữu Quý
Hà Nội, tháng cuối, năm Mậu Tý
Văn nghệ số 8 (21-2-2009)
 
Ai về Hà Nội ngược nước Hồng Hà,
Buồm dong ba ngọn vui đà nên vui,
Đường về xứ Lạng mù xa,
Có về Hà Nội với ta thì về.
Đường thuỷ thì tiện thuyền bè,
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang.​

Nguồn :St
 
Bảng vàng hoa tím

(Vũ Hoàng Chương)

Thể thơ: Thơ mới bảy chữ (thời kỳ: Hiện đại)


Hà Nội xưa đưa nàng đi thi,
Có chàng thư sinh tình rất si.
Cài hoa lên tóc còn buông xõa
Chàng nhủ người yêu: Chớ sợ gì!

Hoa này, anh đã mất nhiều công
Chọn ở Hàng Bài, em biết không?
Đề khó đến đâu hoa cũng thuộc,
Rắc hoa đầy giấy góp là xong...

Nàng vui như Tết, vào sân trường,
Hy vọng bay theo lòng ngát hương.
Chàng đợi nàng trong rừng Bách Thảo,
Như trong huyền thoại của Đông Phương.

Đưa nhau ríu rít đón nhau về,
Ngày lại ngày... cho tình càng mê.
Bài Sử Địa hay bài Vạn Vật
Cũng đều tươi nét hoa "Pensée"!

Đường lên Hàng Quạt gió say reo;
Cửa Bắc giờ đây bảng sắp treo.
Dựa sát vai chàng, hơi thở gấp,
Ôi, nàng cảm động biết bao nhiêu!

Người đi xem bảng mới lơ thơ,
Nắng sớm đùa trên cỏ nhởn nhơ.
Chàng dỗ dành: Em đừng nghĩ quẩn;
Yêu nhau, thi có trượt bao giờ!

Kia rồi: Hương phấn đã truyền tin!
Đôi lứa mừng, quên cả giữ gìn.
Tay khoác tay nhau làm cánh bướm
Song song, lìa sóng cỏ, bay lên.

Chợt nghe thiên hạ bảo thầm nhau:
Người đẹp Hàng Gai lại đỗ đầu!
Chàng ghé bên tai nàng, giễu cợt:
Áo hồng như thế áo cô đâu!

Nàng xem hoa nở đúng tên nàng
Rồi mỉm cười: Thôi, kệ bảng vàng!
Anh hãy cắt bài thơ áo tím
Cho em mặc nhé! Rất thời trang!
 
Có phải em mùa thu Hà Nội

(Tô Như Châu)


Tháng Tám mùa thu lá khởi vàng chưa nhỉ.
Từ độ nguời đi thương nhớ âm thầm.
Có phải em là mùa thu Hà Nội.
Tuổi phong sương ta cũng gắng đi tìm.
Có phải em mùa thu xưa.

Có bóng mùa thu thức ta lòng sang mùa.
Một ngày về xuôi chân ghé Thăng Long buồn.
Có phải em là mùa thu Hà Nội.
Ngày sang thu anh lót lá em nằm,
Bên trời xa sương gió bay.

Thôi thì có em đời ta hy vọng.
Thôi thì có em sương khói môi mềm.
Có phải em là mùa thu Hà Nội.
Nghe đâu đây lá ướt và mi xanh.
Nghe đâu đây hồn Trưng Vương sông Hát.

Có chắc mùa thu lá rơi vàng tiếng gọi.
Lệ mừng gặp nhau xôn xao phím dương cầm.
Có phải em là mùa thu Hà Nội.
Nghìn năm sau ta níu bóng quay về.
Ôi mùa thu của uớc mơ.

(1995)
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trần Quang Lộc phổ nhạc.
 
Chiều thu

(Nguyễn Bính)

Thể thơ: Thơ mới bảy chữ (thời kỳ: Hiện đại)



Thăm thẳm trời xanh lộng đáy hồ,
Mùi hoa thiên lý thoảng chiều thu.
Con cò bay lả trong câu hát,
Biấc trẻ say dài nhịp võng ru.

Lá thấp cành cao gió đuổi nhau,
Góc vườn rụng vội chiếc mo cau.
Trái na mở mắt, nhìn ngơ ngác,
Đàn kiến trường chinh tự thủa nào.

Lúa trổ đòng tơ, ngậm cốm non,
Lá dài vươn sắc lưỡi gươm con.
Tiếng chim mách lẻo cây hồng chín,
Điểm nhạt da trời những chấm son.

Hai cánh chia quân chiếm mặt gò,
Bê con đùa mẹ bú chưa no.
Cờ lau súng sậy giam chân địch,
Trận Điện Biên này lại thắng to.

Sông đỏ phù sa, nước lớn rồi,
Nhà bè khói bếp lững lờ trôi.
Đường mòn rộn bước chân về chợ,
Vú sữa đẫy căng mặt yếm sồi.

Thong thả trăng non dựng cuối làng,
Giữa nhà cây lá bóng xiên ngang.
Chiều con, cặm cụi đôi ngày phép,
Ngồi bẻ đèn sao, phất giấy vàng.
 
Ai về Hà Nội ngược nước Hồng Hà,
Buồm dong ba ngọn vui đà nên vui,
Đường về xứ Lạng mù xa,
Có về Hà Nội với ta thì về.
Đường thuỷ thì tiện thuyền bè,
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang.

Bài này hình như giống một bài ca dao nào đó thì phải ? Không biết Thăng LongVN hay bạn nào nhớ ra không ?

------

Gửi tặng một bài nữa nhé !


Nhớ mùa thu HÀ NỘI

Sáng tác : Trịnh Công Sơn


[FLASH]https://www.nhaccuatui.com/m/WIn0TLEr5b[/FLASH]

Hà Nội mùa thu cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ
nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu.
Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội
mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió,
mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ,
cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua.
Hồ tây chiều thu mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi
màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời.
Hà Nội mùa thu đi giữa mọi người lòng như thầm hỏi tôi đang nhớ ai,
sẽ có một ngày trời thu Hà Nội trả lời cho tôi,
sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi.
Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội
... nhớ đến một người để nhớ mọi người


 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top