Các nhân vật lịch sử Việt Nam

  • Thread starter Thread starter ButBi
  • Ngày gửi Ngày gửi

ButBi

New member
Xu
0
NHÂN VẬT LỊCH SỬ VIỆT NAM

Dương Mạc Thạch, người chính trị viên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân

Đồng chí Dương Mạc Thạch, sinh năm 1915, quê ở xã Gia Bằng (nay là xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) là người Đảng viên, Bí thư Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của huyện Nguyên Bình và là người chính trị viên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (VNTTGPQ).

Đồng chí Dương Mạc Thạch vốn là người sáng dạ, thông minh, nhanh nhẹn, có hoài bão và chí hướng, năm 1934 đồng chí tham gia cách mạng và được kết nạp vào Đảng. Đồng chí là người cán bộ nhiệt tình với phong trào ở Nguyên Bình, vận động nhiều người theo cách mạng và cũng là một trong những hạt nhân lãnh đạo, là Bí thư Chi bộ đầu tiên của huyện Nguyên Bình. Năm 1940, đồng chí Dương Mạc Thạch là Ủy viên Ban chấp hành lâm thời tỉnh Cao Bằng, vốn là người am hiểu địa bàn, nắm chắc phong trào cách mạng và là người có uy tín ở địa phương, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc, do vậy sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941) đến trước cách mạng tháng Tám năm 1945, đồng chí Dương Mạc Thạch được tổ chức phân công bám trụ hoạt động ở Nguyên Bình và vùng giáp ranh với Bắc Kạn. Tại những vùng này, đồng chí đã tích cực xây dựng và phát triển cơ sở, vận động đồng bào Tày, Nùng, Mông, Dao vào Hội cứu quốc, tổ chức Mặt trận Việt Minh ở các xã, tổng. Tháng 12/1942, các ban Việt Minh tổng đã họp tại Lũng Dẻ (châu Nguyên Bình) bầu ra Ban Việt Minh châu do đồng chí Dương Mạc Thạch làm chủ nhiệm. Đồng thời, đồng chí còn được Tỉnh uỷ phân công trực tiếp cùng với đồng chí Võ Nguyên Giáp “Nam tiến” xuống vùng Bắc Kạn để phát triển phong trào, tổ chức các đội tự vệ. Nhờ vậy, sau một thời gian các Chi bộ Đảng ở Ngân Sơn, Chợ Rã lần lượt được thành lập. Thời kỳ này, đồng chí Dương Mạc Thạch là Tỉnh uỷ viên Cao - Bắc - Lạng và là người cán bộ chủ chốt chỉ đạo xây dựng và phát triển phong trào khu vực này, vì vậy đồng chí là một đối tượng luôn bị địch săn lùng, truy bắt. Tháng 02/1944, trên đường xuống núi Phja Boóc gặp địch khủng bố gắt gao, đồng chí đã phải ở lại hoạt động ở các xã phía Bắc huyện Ngân Sơn và cũng tại đây, đồng chí đã 2 lần bị địch phục kích nhưng may mắn thoát được.


Ngày 22/12/1944, tại buổi lễ thành lập Đội VNTTGPQ, đồng chí Dương Mạc Thạch được cử làm chính trị viên của đội. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Võ Nguyên Giáp, đã cùng với đội trưởng Hoàng Sâm chỉ huy Đội VNTTGPQ làm nên chiến thắng ngay từ trận đầu. Buổi đầu, đội VNTTGPQ gặp rất nhiều khó khăn về tài chính (chỉ được cấp 50 đồng bạc Đông Dương), đồng chí đã vận động một số người quyên góp ủng hộ và bàn bạc, vận động gia đình mình ủng hộ Đội 500 đồng.


Sau khi đánh đồn Đồng Mu trở về, đầu năm 1945 khi Đội VNTTGPQ đã phát triển thành nhiều đại đội, đồng chí Dương Mạc Thạch được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy một đại đội hoạt động dọc đường 3b, vừa vũ trang tuyên ruyền, vừa chặn đánh quân Nhật ở Nà Phặc, Hà Hiệu, Đèo Giàng… Trong cách mạng tháng Tám năm 1945, đã cùng đơn vị tham gia giải phóng Thị xã Bắc Kạn, đến năm 1948 có thời kỳ làm Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến Bắc Kạn,… Giữa năm 1948, đồng chí được điều về Bộ Tư lệnh làm đặc phái viên các tỉnh miền núi, đầu năm 1949 được bổ nhiệm làm Trưởng phòng quốc dân Miền núi của Liên khu I.


Từ năm 1950, đồng chí Dương Mạc Thạch được cử đi học trường Chính trị Hà Nam (Trung Quốc), cuối năm 1951 về nước được bổ sung vào Tỉnh uỷ tỉnh Yên Bái sau đó được Trung ương điều lên Hà Giang. Gần 20 năm, đồng chí đã trải qua các chức vụ: Tỉnh uỷ viên, Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh uỷ tỉnh Hà Giang. Tên tuổi của đồng chí đã gắn bó với quê hương nơi đây, đã góp phần xây dựng và phát triển đối với tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn này. Đầu năm 1970 đồng chí Dương Mạc Thạch được điều về làm Bí thư Đảng uỷ Trường Đại học Nông nghiệp 3 Bắc Thái, cho đến tháng 8/1978 được nghỉ hưu, trở về sống tại quê hương Cao Bằng và mất một năm sau đó.


Sau hơn 40 năm tham gia hoạt động cách mạng, đồng chí Dương Mạc Thạch được giao trọng trách trên nhiều cương vị, nhiều vùng quê khác nhau. Trong buổi đầu cách mạng còn nhiều khó khăn, song đồng chí luôn tỏ rõ bản lĩnh vững vàng, sự quyết đoán của người chỉ huy quân đội, của người lãnh đạo, xứng đáng là một trong những người con ưu tú trên quê hương cách mạng Cao Bằng. Với những công lao to lớn đó, đồng chí Dương Mạc Thạch đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng huân chương Hồ Chí Minh, huân chương kháng Pháp hạng nhất và nhiều huân chương khác. Để gìn giữ và phát huy những truyền thống tốt đẹp mà cha ông để lại, mọi cán bộ, Đảng viên và nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng luôn không ngừng nỗ lực, phấn đấu xây dựng quê hương Cao Bằng ngày càng giàu đẹp xứng đáng là nơi thành lập Đội VNTTGPQ, là cái nôi của cách mạng Việt Nam.
Nam Tuấn (Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng)
Nguồn: caobang.gov.vn/default.aspx?tabid=253&ID=619&CateID=129
 
An Dương Vương

An Dương Vương trong tâm thức nhân dân ta
Dương Trung Quốc

"Chết thì bỏ con bỏ cháu
Sống thì không bỏ mồng Sáu tháng Giêng"

Câu ca với những lời lẽ quả quyết nhưng lại rất mộc mạc, hồn nhiên ấy là nói về tình cảm thiết tha với ngày Hội làng của dân xã Cổ Loa và 7 xã xung quanh, thuộc huyện Đông Anh, ngoại ô Hà nội. Tâm điểm của lễ hội là tòa Thành ốc (Cổ Loa) và tâm linh của lễ hội hướng về An Vương Vương. Đó là những di tích và nhân vật gắn liền với một thời đoạn lịch sử vẫn còn chất đầy huyền thoại tiếp nối thời đại các vua Hùng cũng vần vũ những đám mây ngũ sắc của những huyền thoại.

Nếu thời đại các vua Hùng còn định vị đuowjc bởi địa danh Phong Châu mà các thế hệ sau tôn phong là Đất Tổ và xây dựng ngôi Đền thờ Tổ thì tên tuổi của An Dương Vương còn lại một chứng tích vật chất đầy sức thuyết phục, cũng là chứng tích vật chất về một cái mốc đầu tiên ghi nhận Hà Nội hôm nay bao gồm cả vùng đất từng là kinh đô trước khi Lý Công Uẩn định đô ở Thăng Long hơn một thiên niên kỷ.

Về An Dương Vương, "Từ điển bách khoa Việt Nam" viết một cách ngắn gọn: "tên thật là Thục Phán, người sáng lập và là vua nước Âu Lạc. Có giả thiết cho là thủ lĩnh người Tây Âu ở vùng núi phía Bắc đã từng xung đột với vua Hùng và cũng là người chống Tần thắng lợi (214 - 208 trước CN), nối ngôi vua Hùng, hợp nhất Tây Âu và Lạc Việt thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Tục truyền An Dương Vương được rùa thần giúp đỡ cho móng làm lẫy nỏ rất hiệu nghiệm, nên đã đánh bại nhiều lần xâm lược của Triệu Đà. Sau đó Triệu Đà dùng mưu (cho con trai là Trọng Thủy sang cầu hôn với con gái An Dương Vương là Mỵ Châu) lấy cắp lẫy nỏ thần rồi mới đem quân sang đánh (179 trước CN) An Dương Vương thua chạy đến Nghệ An, nhảy xuống biển tự tử"

Lời giảng nghĩa ngắn ngủi ấy cố gắng khẳng định một nhân vật có thật và một thời đại có thật trong lịch sử dân tộc ta là cái gạch nối giữa thời đại các vua Hùng với những thời đại sau đó trong dòng mạch liên tục của một quốc gia tự chủ và đã tạo dựng được một nền văn minh có bản sắc riêng biệt bên cạnh một nền văn minh lớn cũng là một mối thử thách thường trực và khủng khiếp từ phương Bắc tràn xuống. Nhưng trong lời giảng nghĩa ấy vẫn phải nhắc đến những từ "giả thiết", "tục truyền"...

Bởi lẽ, từ nhiều thế kỷ trước trong các cuốn sách như "Viện điện u linh"; "Lĩnh Nam chích quái", "đại Việt sử ký toàn thư" hay các tác phẩm của Nguyễn Trãi (Dư địa chí). Phan Huy Chú (lịch triều hiến chương loại chí) đều nhắc tới An Dương Vương họ Thục tên Phán là con của vua Thục (đất Tứ Xuyên - Trung Quốc ngày nay) vì xung khắc của tổ phụ với Hùng Vương của nước Văn Lang mà mang quân đánh chiếm, lập nước Âu Lạc, xưng vương và xây thành Cổ Loa. Nhưng rồi cuối thế kỷ XIX, một số sử thần lại cho rằng Âu Lạc và người đứng đầu Thục Vương không dính dáng gì đến nước Ba Thục mà chỉ là một thế lực ở lân cận "gắn liền với nước Văn Lang". Sang đầu thế kỷ XX, có học giả còn cực đoan hơn khi cho rằng" nước Nam không có An Dương Vương nhà thục" (Nguyễn Văn Tố" còn một số sử gia người Pháp lại khẳng định "Trước nhà hán không có lịch sử An Nam"...

Nhưng trong tâm thức của nhiều người Việt Nam nhất là của dân "bát xã hộ nhi" (tám làng thờ cúng và tham gia tế lễ trong ngày hội ở Chùa Thượng) thì An Dương Vương chính là Vua Chủ ăn sâu vào
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 4/2001)
Nguồn: hanoi.gov.vn​
 
Mai An Tiêm

Nhân vật truyền thuyết thời Hùng Vương dựng nước. Theo giã sử và truyền miệng, ông họ Mai, tên An Tiêm được vua Hùng Vương thứ XVII yêu mến và gả con gái cho, vợ chồng sống trong an vui. Ông thường tâm sự với vợ: “Giàu sang này đều là do tiền kiếp”. Câu nói trên lọt vào tai bọn nịnh thần, chúng tâu lên khiến vua Hùng Vương giận, đày ông và gia đình ra ngoài hải đảo sống với nghề trồng dưa, mà dưa rất ngon.

Cuộc sống rất chật vật, nhưng không vì vậy mà ông than oán bất cứ ai kể cả nhà vua. Một thời gian sau, dưa ông được đem về đất liền. Có người đem dâng lên nhà vua, nhà vua ăn thử dưa do An Tiêm trồng và tiến cống, thấy quả thật như lời truyền trong dân gian. Từ đó vua Hùng Vương ân xá cho vợ chồng, con cái An Tiêm; cho gia đình ông trở về đất liền và phục chức cũ.

Cuộc đời ông và sự nghiệp trồng dưa của An Tiêm được nhà Văn Nguyễn Trọng Thuật hư cấu nên tiểu thuyết Quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc có tên Quả dưa đỏ. Tác phẩm được giải văn học của Hội khai trí tiến đức năm 1925 ở Hà Nội.

Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 12.
 
Bạch Thái Bưởi (Giáp tuất 1874 – Nhâm thân 1932)

Bạch Thái Bưởi: "Cậu ký" đường thủy

BachThaiBuoi.jpg


Ở nước ta, lịch sử đã ghi lại sự phát triển rất sớm của các ngành nghề thủ công nghiệp, tuy nhiên đó chỉ là những ngành nghề thủ công quy mô nhỏ mà người quản lý thường là chủ gia đình. Đến thời kỳ Pháp thuộc, công nghiệp đã có bước phát triển. Tuy phần lớn DN nằm trong tay chủ tư bản Pháp, nhưng cũng đã xuất hiện những doanh nhân người Việt thành đạt, có ý thức dân tộc, tiêu biểu là Bạch Thái Bưởi. Trong hàng “tứ đại gia” giàu có nhất nước vào những năm đầu của thế kỷ XX (Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Bưởi), Bạch Thái Bưởi (1874-1932) được coi là một doanh nhân kiệt xuất của đất Việt. “Ông vua đường thủy” này - như người ta xưng tụng - đã khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng.


"Cậu ký" lập nghiệp

Bạch Thái Bưởi sinh năm 1874, trong một gia đình nông dân nghèo, họ Đỗ tại làng An Phúc, tỉnh Hà Đông. Cha ông mất sớm, nên ông phải giúp mẹ sinh sống bằng nghề bán hàng rong. Lúc ấy có một nhà phú hào họ Bạch thấy ông thông minh, lanh lợi, nên nhận làm con nuôi và đổi lại họ Bạch. Nhờ đó, ông có cơ hội ăn học. Bạch Thái Bưởi được đi học chữ quốc ngữ, chữ Pháp. Rồi ông xin làm chân ký lục (nhân viên thư ký) cho một hãng buôn người Pháp ở phố Tràng Tiền (Hà Nội), sau đó sang làm với một hãng thầu công chánh. Chính ở những nơi này, cậu ký Bưởi đã học được cách tổ chức, quản lý sản xuất và tiếp xúc với thiết bị, máy móc.


Vào làm công cho người Pháp, với vốn liếng tiếng Pháp khá thông thạo nên năm 21 tuổi, Bạch Thái Bưởi được Phủ Thống sứ Bắc kỳ chọn làm người giới thiệu sản phẩm gian hàng tại hội chợ Bordeaux (Pháp) năm 1895. Qua chuyến đi này, ông được mở rộng tầm mắt, hiểu biết về kỹ thuật văn minh phương Tây cũng như nghệ thuật kinh doanh làm giàu. Là một thanh niên không chịu an phận, đây là cơ hội ngàn vàng tạo niềm phấn kích, khiến ông quyết tâm đi vào con đường kinh doanh. Vì vậy khi về nước, ông liền xin thôi việc và bắt tay xây dựng cơ nghiệp riêng.

Nhà quản lý chợ tiền bối


Khi người Pháp xúc tiến việc mở đường sắt nối liền Bắc-Nam, nhận thấy nhu cầu tà-vẹt gỗ rất lớn, Bạch Thái Bưởi dốc hết vốn liếng dành dụm bấy lâu hùn với một người Pháp vào việc lãnh thầu cung cấp tà-vẹt cho công trình này. Suốt 3 năm ròng, ông lùng khắp rừng sâu, lũng thấp tìm cho được gỗ thật bền, thật tốt để đáp ứng yêu cầu, gây uy tín với người Pháp. Sau vụ làm ăn này, ông được số tiền lời trên mấy vạn.

Sau đó, ông xin phép mở dịch vụ cầm đồ ở Nam Định. Xưa nay, cầm đồ là lĩnh vực mà người Tàu độc quyền thao túng. Để cạnh tranh với họ, ông phải đem tất cả tài tổ chức, kinh nghiệm ra đối phó. Nhân viên toàn người Việt, lại ăn nói, cư xử nhã nhặn, tiền chịu lời phải chăng, cho nên dù bị nhà cầm quyền làm khó dễ đủ điều, thương khách người Hoa chờ ông vỡ nợ…, nhưng khách hàng của ông vẫn ngày một đông.
Thừa thắng, ông lãnh thêm việc thầu thuế chợ ở Vinh (1906-1913), ở Nam Định (1906-1909), ở Thanh Hóa (1907-1909). Ngành in ấn vốn là nghề hoàn toàn mới lạ đối với ông, nhưng khi thấy xã hội có nhu cầu, ông vẫn bỏ tiền ra mở “Công ty in và Xuất bản Bạch Thái Bưởi” (sau là Đông Kinh ấn quán), xuất bản tờ “Khai hóa nhật báo” nhằm cổ động phong trào thực nghiệp ở nước ta.

"Vua" sông nước Bạch Thái

Năm l909, với vốn liếng, kinh nghiệm làm ăn trong những năm qua, Bạch Thái Bưởi quyết tâm lao vào một lĩnh vực kinh doanh mới: vận tải đường sông. Chính từ đây, ông vươn lên đỉnh cao trong sự nghiệp kinh doanh, trở thành “Vua sông biển Đông Dương” và là một trong “tứ đại gia” lừng lẫy thời đó.



Ngày nay ở Quảng Ninh có một cảng biển mang tên ông.

Đầu tiên, Bạch Thái Bưởi thuê lại ba chiếc tàu Phi Phụng, Phi Long, Khoái Tử Long của một người Pháp là R.Marty vừa hết hạn hợp đồng với nhà nước. Ba chiếc tàu của ông chạy hai tuyến Nam Định-Hà Nội và Nam Định-Bến Thủy.

Vào nghề sông nước, ông phải đương đầu với các đối thủ người Pháp, Hoa có thế lực mạnh, lại giàu kinh nghiệm hơn nhiều lần. Đặc biệt là việc ông cạnh tranh quyết liệt với người Hoa. Giới Hoa thương lúc đầu rất ngạc nhiên khi thấy một người Việt dám lao vào vùng “cấm địa” của họ. Về sau, họ mới lo sợ, kết hợp với nhau để loại trừ ông. Cuộc tranh đua rất căng thẳng: ông hạ một giá, họ hạ hai giá; ông đãi khách uống trà, họ thết khách thêm bánh ngọt. Giá tàu từ Nam Định lên Hà Nội: trước là 40 xu, nay còn 5 xu… So với các thương gia người Hoa, tình thế của ông thật nguy ngập, mướn ba chiếc tàu, mỗi tháng trả 2.000 đồng, mà mỗi chuyến chỉ thu được 20 đồng.

Chính lúc cực kỳ nguy ngập đó, Bạch Thái Bưởi đã sử dụng thế mạnh tinh thần: "Vật chất khó đương đầu thì dùng đòn tâm lý". Ông vận động, kêu gọi mọi người ủng hộ công cuộc kinh doanh của người Việt, “ta về ta tắm ao ta”. Ông tung ra những đoàn diễn thuyết trên các bến tàu, nêu rõ những thiệt thòi của người Việt, cổ vũ tinh thần đồng bang. Bạch Thái Bưởi còn treo một cái ống trên tàu, để ai thấy việc làm của ông là đáng khuyến khích, bỏ tiền vào, giúp cho chủ tàu đỡ phần lỗ lã, đủ sức cạnh tranh. Kết quả hành khách đều bỏ tàu Hoa mà đi tàu Việt.

Cuối cùng nhờ vậy ông đã thắng. Đội tàu của ông không những vượt qua sóng gió mà còn lớn mạnh, được bổ sung bằng những đội tàu của công ty Pháp, Hoa bị phá sản như: Marty d’Abbadie, Desch Wanden… Năm 1915, ông còn mua lại xưởng đóng và sửa chữa tàu của R.Marty.


Sau bảy năm kinh doanh trên sông nước, Bạch Thái Bưởi đã tạo dựng một cơ ngơi khép kín từ chạy tàu đến đóng tàu, sửa chữa tàu và các chi nhánh ở nhiều nơi. Năm 1916, ông chuyển trụ sở từ Nam Định vào Hải Phòng và đặt tên cho hãng là “Giang hải luân thuyền Bạch Thái Công ty”, với lá cờ hiệu màu vàng có hình mỏ neo và ba sao đỏ.

Năm 1917, Hãng Deschwanden của Pháp bị phá sản, Bạch Thái Bưởi mua lại sáu chiếc tàu khác của hãng này. Ngày 7/9/1919, công ty của Bạch Thái Bưởi đã làm rạng danh ngành hàng hải Việt Nam khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Con tàu Bình Chuẩn dài 42m, rộng 7,2m, cao 3,6m, trọng tải 600 tấn, động cơ compound 450 mã lực, chạy bằng hơi nước có dung tích tám mét khối, vận tốc đạt 8 hải lý/giờ. Tàu Bình Chuẩn chạy chuyến đầu tiên từ Hải Phòng cập bến Sài Gòn ngày 17/9/1920, trong sự đón chào nồng nhiệt của giới công thương Sài Gòn lúc đó.

Công ty của Bạch Thái Bưởi bắt đầu mở rộng tầm hoạt động khắp Đông Dương và các nước lân cận như Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật, Singapore…Nhưng đỉnh cao phát triển của công ty là khoảng cuối thập niên 1920 đầu 1930, khi ấy công ty có trên 40 con tàu, với số lượng nhân viên lên tới 2.500 người làm việc trên các đội tàu, xưởng đóng tàu. Văn phòng và chi nhánh của công ty có ở các thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định, Tuyên Quang, Việt Trì, Bến Thủy, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Sài Gòn…

"Vua mỏ nước Việt"

Dường như với Bạch Thái Bưởi : “Chiến thắng không hiểm nguy thì chiến thắng không vẻ vang”. Cho nên khi đã thắng kẻ có tiền bạc, ông lại muốn ăn thua với kẻ có nhiều quyền thế. Các mỏ than lúc bấy giờ đều nằm trọn trong tay người Pháp, vậy mà ông vẫn liều mạng xông vào trận địa này. Năm 1928, Bạch Thái Bưởi đem hết tài sản, dốc vào việc khai mỏ. Nhờ tài khéo léo và mưu mẹo, ông được cấp phép khai mỏ than ở vùng Quảng Yên. Ông nhận thức rằng: muốn hơn người Pháp trong việc khai mỏ cần phải có người điều hành giỏi chuyên môn, thấu đáo kỹ thuật. Cho nên ông nhờ người thân tín ở Pháp, tuyển dụng ở các trường kỹ thuật những người có tài năng về Việt Nam làm việc. Hoạt động như vậy, không bao lâu, than của ông chất thành núi (đến năm 1945 mới bán hết), ông trở thành “Vua mỏ nước Việt”.


Với đầu óc thực tế, tầm mắt nhìn xa, ông còn dự định tạo dựng nhiều công trình như: xây một nhà máy xay gạo ở Nam Định với những thiết bị tân tiến mua tận Hambourg (Đức), chương trình đặt ống cống, xây nhà máy nước, dựng nhà máy điện cho thành phố Nam Định và cả việc đặt đường sắt Nam Định – Hải Phòng, nhưng tiếc là vì hoàn cảnh, vì chiến tranh, nên ông không thực hiện được.

"Có Bưởi thì không có Robin"

Mặc dù tiếp xúc thường xuyên với người Pháp, học tập kỹ thuật tân tiến của người phương Tây, nhưng chưa bao giờ Bạch Thái Bưởi đánh mất “cội nguồn dân tộc” của mình. Chẳng hạn, khi đặt tên các con tàu, ông đều lấy từ nguồn lịch sử của dân tộc như: Lạc Long, Hồng Bàng, Trưng Trắc, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi… Có lần lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của người dân bị trị, trong Hội nghị kinh tế lý tài, ông bị Toàn quyền Robin đe dọa: “Nơi nào có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi”, ông đáp lại: “Nước này còn Bạch Thái Bưởi thì không còn Robin”.


Xuất thân từ tầng lớp nghèo khó, ông luôn quan tâm đến đời sống của giới thợ thuyền. Ngoài chế độ an sinh dành cho các nhân viên của mình, ông còn giáo dục con cái lòng quý trọng những người cần lao, nghèo khó. Các con đến tuổi trưởng thành đều được ông cất giao công việc trên các bến tàu hay các khu mỏ… Thậm chí, cô con gái học ở Hà Nội, nghỉ hè về, ông cũng dẫn theo để tập việc, ghi chép sổ sách, xét hồ sơ trợ cấp cho học sinh nghèo có chí du học.

Nếu Lương Văn Can vạch ra 10 nguyên nhân làm các DN Việt Nam không phát triển được, thì chính Bạch Thái Bưởi đã lấp đầy những khiếm khuyết đó bằng những tôn chỉ nghiêm túc trên thương trường: thương phẩm, thương hội, tín thực, kiên tâm, nghị lực, trọng nghề, thương học, giao thiệp, tiết kiệm và coi trọng hàng nội hóa.

Ngày 22/7/1932, một cơn đau tim đã vật ngã “Nhà DN bền chí, quả cảm bậc nhất của nước Việt, ở đầu thế kỷ XX”. Sau hơn 20 năm ngang dọc trên thương trường, Bạch Thái Bưởi qua đời tại Hải Phòng để lại cho lịch sử doanh thương Việt Nam một tên tuổi đã trở thành huyền thoại.

Nguồn: vietnamnet.vn/kinhte/thuongnhan/2004/10/334264/​
 
Bảo Đại (sinh năm 1913 - mất năm 1997)

Bảo Đại (Nguyễn Vĩnh Thụy) - Vị hoàng đế cuối cùng (thời gian ở ngôi: 1926-1945)

BaoDai.jpg


Bảo Đại tên thật là Nguyễn Vĩnh Thụy, con vua Khải Định. Có nhiều dư luận hoài nghi về vấn đề này, vì ai cũng biết Khải Định là một ông vua bất lực không thể có con. Bà Hoàng Thị Cúc sinh ra Vĩnh Thụy chỉ là một nàng hầu, đã có thai từ trước và được vua Khải Định công nhận... Chuyện bí mật cung đình này đã được đồn đại, có một số người trong hoàng tộc đã viết rõ ràng trong hồi ký. Nhưng theo sự nhìn nhận của chính thống thì ông vẫn là con của Khải Định, và đã được Khải Định chǎm sóc nâng niu. Mẹ ông vẫn được tôn xưng là bà Từ Cung như chúng ta đã biết.

Vĩnh Thụy sinh nǎm 1913, đến nǎm 10 tuổi thì được phong làm Đông cung thái tử. Sau khi trở thành người kế vị, Vĩnh Thụy được trao cho Khâm sứ Sác-lơ mang về Pháp đào tạo. Nǎm 1925, vua Khải Định mất, thế tử Vĩnh Thụy về chịu tang, và được nối ngôi cha, lấy hiệu là Bảo Đại khi mới 13 tuổi. Sau khi lên ngôi, Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục học tập cho đến khi tốt nghiệp Trung học (tương đương học vị tú tài Pháp). Trong thời gian vua ở nước ngoài Hội đồng phụ chính điều hành mọi việc triều đình. Mọi việc khác đều thuộc quyền nhà nước bảo hộ. Triều đình Huế chỉ còn là bộ máy tay sai do thực dân Pháp trả lương mà thôi.
Tháng 8-1932, lúc này Bảo Đại đã 19 tuổi, cùng triều quan xuống tàu về nước.

Ngày 10-9-1932 Bảo Đại ra đạo dụ số l tuyên cáo chấp chính. Để tô vẽ cho ông vua Tây học thực dân Pháp và Nam triều đã sắp xếp cho Bảo Đại một chuyến đi thǎm các tỉnh trong nước (ở cả Bắc và Trung kỳ). Nhân dân các tỉnh buộc phải tổ chức đón rước rất rầm rộ. Sau 10 nǎm đào tạo ở "Mẫu quốc" trở về, Bảo Đại cho ban hành hàng loạt chính sách cải cách thực chất chỉ là hình thức mị dân mà thôi. Bắt đầu bằng cách bãi bỏ những trò vái lạy, không để cho các quan khấu đầu quỳ tấu ở trước sân đình. Điều này chẳng có gì là lớn lao, nhưng đối với các quan lại phong kiến trước đây là điều hệ trọng!


Người ta có cảm tưởng ông vua thanh niên Tây học đang muốn tỏ ra không giống lớp người cổ hủ ngày xưa. Tiếp đó, Bảo Đại ra những đạo dụ để cho các vị thượng thư già lão về nghỉ. Các cụ là Nguyễn Hữu Bài (bộ Lại), Tôn Thất Đàn (bộ Hình), Phạm Liệu (bộ Binh), Võ Liêm (bộ Lễ), Vương Tứ Đại (bộ Công) được về nghỉ với danh hiệu là nguyên lão cố vấn. Sau đó Bảo Đại chọn một số trí thức và quan lại tương đối có tiếng vào lập nội các mới, gồm các ông:

- Ngô Đình Diệm, giữ bộ Lại
- Thái Vǎn Toản, giữ bộ Lễ Nghi-Mỹ thuật.
- Hồ Đắc Khải, giữ bộ Công
- Bùi Bằng Đoàn, giữ bộ Tư pháp
- Phạm Quỳnh, giữ bộ Giáo dục


Việc cải tổ nội các này chỉ gây dư luận lúc đầu còn sau này cũng chẳng có tác dụng gì. Mọi việc quốc gia đại sự đều nằm trong tay người Pháp cai quản. Quân Pháp đã đàn áp được các phong trào, các đảng phái yêu nước như các cuộc khởi nghĩa Yên Bái, phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh, từ khi Bảo Đại chưa về nước. Các Viện dân biểu ở Bắc kỳ, Trung kỳ cũng không làm được việc gì, và cũng không liên lạc gì với nhà vua. Bảo Đại dù có muốn làm gì cũng không xoay xở được. Có lúc hình như Bảo Đại đã có phản ứng với những viên chức Pháp cạnh mình. Ông cự lại với viên Khâm sứ Thibaudeau khiến người này bị gọi về Pháp, ông mắng tên đại úy Pháp làm sĩ quan bảo vệ mình: "Mày tên là Tốt (viên này có tên Pháp: Bon nghĩa là tốt), nhưng mày không tốt"!

Người Pháp còn tìm cách ràng buộc Bảo Đại bằng dây tình ái. Vợ chồng bố nuôi là Sác-lơ bố trí cho ông gặp cô Nguyễn Thị Lan, con một nhà hào phú công giáo Nam Bộ. Đám cưới phải có sự can thiệp của Tòa Thánh, và cô Lan trở thành Nam Phương hoàng hậu (1934).

Một thanh niên có khả nǎng tiến thủ như Bảo Đại mà phải chịu giám sát, o ép như vậy chắc là không chịu được. Nhưng Bảo Đại lại không có gan và cũng không có cách làm gì để noi gương các ông vua chống Pháp trước đây. Không còn cách nào khác Bảo Đại đã phung phí tuổi thanh xuân của mình vào các thú vui tiêu khiển. Thích đi sǎn, hùa theo trò chơi đen đỏ (cả ở Việt Nam và Pháp). Bảo Đại rất mê sắc đẹp mặc dù bà Nam Phương rất giữ gìn, không cho ông được phóng túng. Nhưng Bảo Đại đã lợi dụng những lúc ra ngoài Hoàng cung để theo đuổi những mối tình lãng mạn vào những phút giây bất chợt. Khi đi sǎn ở Đà Lạt, Bảo Đại làm quen với một cô đầm, bị chồng cô ta ghen bắn ông bị thương, phải vào bệnh viện, nói thác ra là bị ngã gãy xương chân. Chặng đường tuổi hai mươi của Bảo Đại đã trôi qua như thế.

Tháng 3 nǎm 1945, Nhật đảo chính Pháp, song vẫn sử dụng Bảo Đại làm con bài chính trị. Đây chính là lúc Bảo Đại có điều kiện để trực tiếp làm quen với thời cuộc. Bảo Đại cho giải tán nội các do Phạm Quỳnh đứng đầu, cố tìm những người có uy tín để làm việc trong hoàn cảnh thay thầy đổi chủ. Nhờ sự giúp đỡ của một vài viên quan, ông đã ra chỉ dụ, tuyên bố từ nay đất nước phải đi theo nguyên tắc: dân vi quí? Bảo Đại đã mời được những nhà trí thức có danh tiếng lúc bấy giờ để lập một chính phủ mới gồm:

- Trần Trọng Kim: Thủ tướng
- Trần Vǎn Chương: Bộ Ngoại giao
- Lưu Vǎn Lang: Bộ Giao thông
- Vũ Ngọc Anh: Bộ Y tế
- Hồ Tá Khanh: Bộ Kinh tế
- Nguyễn Hữu Thí: Bộ tiếp tế
- Trịnh Đình Thảo: Bộ Tư pháp
- Trần Đình Nam : Bộ Nội vụ
- Hoàng Xuân Hãn: Bộ Giáo dục
- Phan Anh: Bộ Thanh niên
- Vũ Vǎn Hiền: Bộ Tài chính


Phải công nhận rằng Chính phủ mới tập hợp được những con người đang được dư luận chú ý. Thật ra thì lúc đầu nhiều vị không có cảm tình với Bảo Đại vì họ đã thấy một số nhà cách mạng lão thành (như Huỳnh Thúc Kháng) không muốn hợp tác với nhà vua. Và dù là chính phủ gì đi nữa, cũng vẫn là con bài của phát xít Nhật.

Nhưng cũng vào lúc ấy, phong trào cách mạng đã phát triển mạnh. Ngày 19-8-1945, nhân dân đã vùng lên cướp chính quyền ở Hà Nội. Thắng lợi vang dội của cuộc khởi nghĩa ở Thủ đô đã cổ vũ các địa phương trong cả nước kiên quyết xốc tới giành toàn thắng.

Ở Huế, các huyện tỉnh Thừa Thiên cũng đã giành được chính quyền. Chính phủ bù nhìn và triều đình phong kiến tàn tạ đã sống những giờ phút cuối cùng. Đêm 23-8-1945, Chính phủ Cách mạng Lâm thời gửi điện đòi Bảo Đại thoái vị.
Chiều 30-8-1945, trước hàng vạn nhân dân dự cuộc mít tinh trước Ngọ Môn, Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, nộp ấn, kiếm cho phái đoàn Chính phủ ta, và tuyên bố: "Thà làm dân một nước độc lập, hơn làm vua một nước nô lệ" và nhận huy hiệu trở thành công dân Vĩnh Thụy. Lúc đó Bảo Đại 32 tuổi, làm vua được 19 nǎm.
Nguồn: hanoi.vnn.vn/chuyen_de/0004/cac_vi_vua/bai_17.html
 
Bát Nàn Tướng Quân (Vũ Thị Thục)

Bát Nàn Tướng Quân (Vũ Thị Thục) (Đinh Sửu 17 – Quí Mão 43)

vuthithuc.jpg


Công chúa, cũng gọi là Bát Nàn, có sách chép là Bát Não.
Theo truyền thuyết và thần tích làng Tiên La, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình, cùng thần tích thờ miếu ở xã Phượng Lâu, huyện Phù Ninh, nay thuộc Vĩnh Phú (thần tích do danh thần thời hậu lê là Hàn Lâm đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn): Bát Nạn công chúa là vị anh hùng như thời Trưng Vương, Bà Vốn là con của Võ Công Chất và Hoàng Thị Mầu. Thân phụ bà là hào trưởng ở Phượng Lâu khi bà chào đời cha mẹ đặt tên là thục. Về sau bà nổi tiếng tài sắc, tục gọi là Thục nương. Bà có chồng là Phạm Danh Hương (có sách chép là vị Lạc hầu Trương Quán) quê ở Đức Bác (tức Liệp Trang, huyện Lập Thạch). Vợ chồng bà đều có lòng yêu nước, ngầm lo việc cứu nước giúp dân.

Bấy giờ có tên hào mục là Trần căm tức vì không cưới được Thục nương có ý “làm phản”, nên bắt giết đi.

Năm Kỉ Hợi 39, khi Đặng Thi Sánh bị giết ở Châu Diên, thì chồng bà cũng bị giết ở Duyên Hà. Quân Tô Định vây dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà cầm dao sông đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Từ ấy, nặng nợ nước thù nhà bà quyết chí báo phục, đêm ngày chiêu tập hào kiệt dựng cờ khởi nghĩa.

Năm Canh tí 40, tháng 3, Hai Bà Trưng lãnh đạo quân dân toàn quận phát động cuộc khởi nghĩa. Bà theo giúp cùng với nữ tướng Lê Chân thống lãnh quân tiên phong.

Cứu quốc thành công, nước nhà độc lập, Trưng vương phong bà làm Bát Nạn đại tướng quân Trinh thục công chúa. Bà từ chối tước lộc, chỉ xin đem đầu giặc tế chồng một tuần. Tế xong, bà cởi bỏ nhung trang trở lại chùa làng Tiên La. Nhưng chẳng bao lâu nghe tin Mã Viện kéo binh sang, bà dấn chân cứu nước lần nữa. Chị em Trưng vương tuẫn quốc trong ngày 6 tháng 2, bà cũng tử tiết trong ngày 16 tháng 3 năm Quí mão 43.

Các triều đại sau đều có truy phong bà làm thần:
+ Đời Lê Thánh tông, sắc phong: Ý đức đoan trang Trinh thục công chúa.
+ Đời Minh Mạng nhà Nguyễn sắc phong: Dực bảo trung hưng linh phù chi thần.
+ Đời Khải Định sắc phong: Dực bảo trung hưng linh phù thượng đẳng thần.

Vì khi cầm binh đuổi giặc, từ cửa sông Đáy về ngã ba sông Nông, bà thường cai quản những 18 cửa ngàn, nên tục gọi bà là Thượng ngàn. Và ngôi chùa mà bà ở tu, sách chép là chùa Nam Liên ở trên núi, nên tục cũng gọi bà là sư nữ Nam Liên.

Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 21-22.
 
Bế Văn Đàn (1931 – 1954)

Be%20Van%20Dan.jpg


Đồng chí Bế Văn Đàn, sinh năm 1931, dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh (nay là xã Triệu Ẩu), huyện Phục Hoà, tỉnh Cao Bằng. Xuất thân trong một gia đình nghèo có truyền thống cách mạng, cha làm thợ mỏ, mẹ mất sớm, lớn lên đồng chí tham gia hoạt động du kích. Tháng l năm 1948 đồng chí xung phong vào bộ đội và tham gia nhiều chiến dịch, đồng chí luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, tích cực vượt qua mọi khó khăn ác liệt, kiên quyết chấp hành mọi chỉ thị mệnh lệnh nghiêm túc, chính xác kịp thời, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Cuộc kháng chiến chống thực đân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Đảng ta quyết định mở chiến dịch Đông Xuân năm 1953 - 1954, đơn vị hành quân đi chiến dịch, đồng chí Bế Văn Đàn làm liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ địch ở Mường Pồn. Lúc đó, khi thấy lực lượng ta ít, địch tập trung hai đại đội có phi pháo yểm trợ liên tiếp phản kích, nhưng cả hai lần chúng đều bị quân ta đánh bật. Cuộc chiến đấu diễn ra căng thẳng và quyết liệt. Địch liều chết xông lên. Ta kiên quyết ngăn chặn, chốt giữ. Cần có lệnh cho đại đội quyết tâm giữ ở Mường Pồn bằng bất cứ giá nào, để các đơn vị khác triển khai lực lượng, thực hiện các chủ trương của chiến dịch. Mặc dù đồng chí vừa đi công tác về nhưng khi thấy chỉ huy thông báo đồng chí đã xung phong lên đường làm nhiệm vụ. Mặc cho bom rơi, đạn nổ, đồng chí đã dũng cảm vượt qua lưới đạn dày đặc của địch, xuống truyền đạt mệnh lệnh cho đại đội kịp thời, chính xác. Trong khi đó, trận chiến đấu diễn ra ngày càng ác liệt hơn, đồng chí được lệnh ở lại đại đội chiến đấu. Địch phản kích lần thứ ba, chúng điên cuồng mở đường tiến, đại đội bị thương vong nhiều, chỉ còn 17 người, bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng đồng chí vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng chưa bắn được vì không có chỗ đặt súng, tình thế hết sức khẩn trương, không ngần ngại Bế Văn Đàn chạy lại cầm 2 khẩu trung liên đặt lên vai mình và hô bạn bắn. Đồng chí Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn đã nói: ''Kẻ thù trước mặt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi''. Đồng chí Pù nghiến răng nổ súng vào đội hình quân địch quật ngã hàng chục tên. Địch hoảng hốt bỏ chạy, đợt phản kích này của chúng bị bẻ gãy. Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, đồng chí Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và đã anh dũng hy sinh, hai tay vẫn còn ghì chặt súng trên vai mình. Tấm gương dũng cảm của đồng chí đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận hăng hái thi đua giết giặc lập công, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu

Đồng chí Bế Văn Đàn lúc hy sinh là tiểu đội phó, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tấm gương chiến đấu dũng cảm, chấp hành nghiêm mệnh lệnh của cấp trên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Do đó, trong đại hội mừng công của đơn vị, đồng chí Bế Văn Đàn được truy tặng Huân chương chiến công hạng nhất và được bình bầu là chiến sĩ thi đua số một của tiểu đoàn. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, ngày 31/8/1955, đồng chí được Quốc hội truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương quân công hạng nhì.

Đồng chí Bế Văn Đàn là một người anh hùng liệt sĩ cùng hàng ngàn các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống lúc tuổi đôi mươi, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ ''nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng'' và đến Đại thắng mùa xuân năm 1975 lịch sử. Với những cống hiến đó, đồng chí không những là một tấm gương, một niềm tự hào của nhân dân các dân tộc Cao Bằng mà còn là niềm tự hào của nhân dân cả nước.

Nguồn: caobang.gov.vn/PrintPreview.aspx?ID=878​
 
Bùi Bằng Đoàn (Kỷ Sửu 1889 - Ất mùi 1955)

Từ Thượng thư Bộ Hình Nam Triều đến Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
BuiBangDoan.jpg


Cụ Bùi Bằng Đoàn (1889- 1955) là một ông quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực và yêu thương dân chúng trong triều đình Huế. Cách mạng Tháng Tám thành công, trong thế nên “xuất” hay nên “xử” của một nhà Nho, Cụ đã nhận lời mời của Hồ Chủ Tịch ra nhậm chức Trưởng ban Thanh tra đặc biệt Chính phủ. Tổng tuyển cử 6.1.1946, Cụ trúng cử ĐBQH và sau đó được bầu làm Trưởng ban Thường trực QH. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Cụ đã lên Việåt Bắc, sát cánh cùng Hồ Chủ Tịch trong những thời điểm khó khăn nhất...Cuộc đời của Cụ Bùi Bằng Đoàn là một tấm gương tận tụy, vì nước vì dân...

buibangdoanvabac.jpg

Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Bùi Bằng Đoàn (bên phải)
và Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở Chiến khu Việt Bắc năm 1947

Ông quan thanh liêm

Cụ Bùi Bằng Đoàn sinh ngày 17.8.1889 (Kỷ Sửu) trong một gia đình nho học tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây. Cụ từng đỗ Cử nhân dưới triều vua Thành Thái, gặp thời Tây học bắt đầu thịnh hành, Cụ phải khai thêm 3 tuổi cho đủ để vào học truờng Hậu bổ. Đến năm 1933, cụ đã giữ chức Nam triều Tư pháp Bộ Thượng thư, nổi tiếng là ông quan đức độ, thanh liêm, chính trực, chăm dân. Trên công đường ở những nơi cụ làm quan, đều có treo một bảng thông báo “không nhận quà biếu”.

Với người nhà, cụ rất nghiêm khắc, cấm tiệt việc nhận quà, nếu lỡ nhận rồi thì phải mang đi trả lại. Khi làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định) cụ đã đề xuất và thực hiện việc đắp đê Bạch Long ngăn nước mặn, tạo lập được một vùng lúa, dâu rộng lớn. Ghi công đức cụ, dân địa phương đã làm lễ tế sống vị “phụ mẫu chi dân” trẻ tuổi ngay nơi nhậm chức. Năm 1925, trước việc báo chí lên án cảnh phu đồn điền ở miền Nam bị bóc lột dã man, Chính phủ Nam Triều đã cử Bùi Bằng Đoàn vào Nam bộ thanh tra các đồn điền cao su của Pháp. Cụ đã tiến hành thanh tra thấu đáo, viết một bản báo cáo dày đến 100 trang bằng tiếng Pháp nêu bật lên những điều vô lý trong chính sách đối với phu đồn điền. Những kiến nghị xác đáng của bản báo cáo đã được nhà đương cục chấp nhận, giảm thiếu những chế độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó.

Cụ Bùi Bằng Đoàn là một người đặc biệt thông minh, theo Nho học nhưng rất giỏi toán, nhất là môn đại số. Còn đối với Pháp văn, cụ là người tinh thông. Chính vì thế, năm 1925, mặc dù đang làm tri phủ Nghĩa Hưng nhưng vẫn được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử vụ án cụ Phan Bội Châu. Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, Bùi Bằng Đoàn đã thông dịch rõ ràng, trung thực những lời nói, lý lẽ đanh thép của cụ Phan Bội Châu để rồi sau đó tòa án đã không khép được cụ Phan vào án chung thân mà giảm xuống hình thức “an trí ở Huế”. Tháng 3.1945, Nhật đảo chính Pháp, Vua Bảo Đại xuống chiếu thành lập Chính phủ, Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn đã từ chối tham gia Chính phủ bù nhìn, cáo quan về quê. Tuy nhiên, Chính phủ Nam Triều đã mời cụ ở lại bằng được và giao giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm Hà Nội. Ở thời điểm “đêm trước” của cách mạng, tổ chức Việt Minh đã tiếp xúc và mời cụ làm Hội trưởng Hội bảo vệ tù chính trị. Và cụ đã đến với Việt Minh, đến với cách mạng một cách tự nhiên, như phẩm chất vốn có trong con người chính trực của cụ.

Một lòng theo cách mạng

Ông Bùi Nghĩa, con trai cụ Bùi Bằng Đoàn kể lại: Không biết cụ đã tham gia Việt Minh từ bao giờ nhưng kế hoạch tổ chức mít tinh ngày 17.8 như thế nào, Việt Minh sẽ nhân dịp đó tổ chức diễn thuyết ra sao cụ đều biết cả. Ngày 2.9.1945, cụ được mời tham gia dự lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Ba Đình. Tại buổi lễ đó, cụ Bùi Bằng Đoàn đã gặp Hồ Chủ Tịch và cụ Hồ đã có nhã ý mới cụ Bùi tham gia chính quyền cách mạng. Việc này, cụ đã kể lại cho con cháu trong nhà ngay sau đó. Tuy nhiên, khi cách mạng thành công, theo lẽ thường, cụ đã “treo ấn, từ quan” về an trí ở quê nhà Liên Bạt, Hà Tây. Sống trong cảnh điền viên chẳng được bao lâu, ngày 17.11.1945, cụ nhận được thư của Hồ Chủ Tịch mời ra gánh vác việc nước. Bức thư viết: “Thưa Ngài/ Tôi tài đức ít ỏi, mà trách nhiệm nặng nề. Thấy Ngài học vấn cao siêu, kinh nghiệm phong phú. Vậy nên, tôi muốn mời Ngài làm Cố vấn cho tôi, để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi trừ hại cho nước nhà dân tộc. Cảm ơn và chúc Ngài mạnh khỏe/Kính thư- Hồ Chí Minh”.

Từ một ông quan thanh liêm, chính trực làm việc dưới triều đình phong kiến, nhận thức rõ đường lối cách mạng và mến mộ tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ lại rời quê, dấn thân vào con đường cách mạng. Tham gia chính quyền mới, cụ đã từng giữ các chức vụ: Cố vấn Chủ tịch nước, Trưởng ban Thanh tra đặc biệt, Đại biểu Quốc hội khóa I, Trưởng ban Thường trực Quốc hội từ tháng 11.1946 cho đến khi tạ thế, tháng 4.1955. Trong thời gian tham gia cách mạng của cụ Bùi Bằng Đoàn, có hai sự kiện đáng ghi nhớ. Một là, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 18.12.1946, cơ quan Ban Thường trực Quốc hội phải sơ tán đến địa điểm mới và ngôi nhà của cụ tại thôn Liên Bạt, Ứng Hòa, Hà Tây trở thành trụ sở làm việc của Ban thường trực QH một thời gian. Hai là, thời gian ở Việt Bắc cụ lâm bệnh nặng, cuối năm 1948 Hồ Chủ Tịch và Trung ương đã quyết định đưa cụ về xuôi để dưỡng bệnh. Khi về gần đến nhà thì gặp lính Pháp đang càn quét ở Vân Đình, cụ phải lánh đi. Khi đó, một mình cụ bà Trần Thị Đức ở nhà, đang cất dấu tài liệu của Quốc hội, của Đảng thì bị giặc Pháp ập vào và bắn chêtë. Sự hy sinh của cụ bà mãi tới năm 1955, khi về thăm nhà cụ Bùi mới được biết.

Cụ Bùi Bằng Đoàn làm việc trong một thời gian ngắn tại chiến khu Việt bắc. Tại đây, mối thâm giao giữa cụ Hồ và cụ Bùi Bằng Đoàn không chỉ là tình cảm cách mạng mà còn là của những người bạn tri ân. Có lẽ ai cũng biết bài thơ Hồ Chủ Tịch tặng cụ Bùi Bằng Đoàn:

“Xem sách chim rừng vào cửa đậu/
Phê văn hoa núi ghe nghiêng soi
Tin vui thắng trận dồn chân ngựa
Nhớ cụ thơ xuân tặng một bài”...
Cụ Bùi cũng đã có bài thơ họa:
“Sắt đá một lòng vì chủng tộc
Non sông muôn dặm giữ cơ đồ
Biết Người việc nước không hề rảnh
Vung bút thành thơ đuổi giặc thù”.

Ở núi rừng Việt Bắc kham khổ, gặp bạo bệnh, cụ phải giao việc của Ban Thường trực Quốc hội lại cho cụ Tôn Đức Thắng và cụ Tôn Quang Phiệt để về xuôi chữa bệnh. Tuy xa Trung ương, xa Hồ Chủ Tịch nhưng cụ vẫn thường xuyên liên hệ với chiến khu, vẫn thư từ và gửi góp ý cho Trung ương và Chính phủ về những vấn đề mà cụ quan tâm. Thỉnh thoảng, Cụ vẫn trả lời phỏng vấn, viết báo để động viên quân, dân tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Từ Thượng thư Bộ Hình Nam triều, chuyên lo việc xử án nổi tiếng thanh liêm, chính trực, cụ Bùi Bằng Đoàn đã vượt qua những định kiến của thời cuộc, của chế độ cũ- mới để tham gia chính quyền cách mạng, trở thành ĐBQH khóa I, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam. Đức thanh liêm và tấm lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân của cụ Bùi Bằng Đoàn thật đáng để chúng ta kính trọng và học tập.

Báo Người đại biểu nhân dân số 255

Nguồn: quochoi.vn/60namqhvn
 
Mai Hắc Đế (722)

Mai Hắc Đế (722)

Khơi Nguồn Khởi Nghĩa Đường Lâm

Sau khi Lý Phật Tử xin thần phục nhà Tùy ở Trung Hoa để chịu ách Bắc thuộc lần thứ ba, đất nước Giao Châu lệ thuộc vào nhà Tùy (589-617) vào năm 603.

Khi Đường Thái Tông lập nên triều đại nhà Đường (618-907), trong thì dùng Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Ngụy Trưng; ngoài thì dùng Lý Tính, Lý Tích để thu tóm bốn phương vào một mối.

Vào đầu thế kỷ thứ VIII, sau thời gian Võ Tắc Thiên giữ ngôi Nữ Vương, lấy quốc hiệu là Chu, Lý Long Cơ lập lại vương triều nhà Đường, đưa thân phụ lên ngôi Hoàng Đế là Đường Duệ Tông, vài năm sau ngôi báu được nhường cho Lý Long Cơ là Đường Huyền Tông, thời Trung Đường.

Đời Đường Huyền Tông (713-756), nền văn học nghệ thuật của Trung Hoa được đánh dấu thời kỳ cực thịnh, thi ca thời Sơ Đường (618-713) và Thịnh Đường (713-776) rất lẫy lừng bởi những nhân tài xuất hiện như Vương Xương Linh, Vương Duy, Thôi Hiệu, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Trương Kế... để lại biết bao áng thơ trác tuyệt cho hậu thế, tạo niềm hãnh diện trong văn học với ánh hào quang trên văn đàn quốc tế.

Thế nhưng, từ Đường Thái Tông đến Đường Huyền Tông vẫn áp dụng con đường bành trướng của các triều đại cũ, cố mở rộng chính sách chinh phục từ Tây Vực đến Triều Tiên sang phía Nam bờ cõi, duy trì chính sách cai trị bằng vũ lực vì vậy quan lại ở biên cương có cơ hội trấn lột .

Năm Kỷ Mão (679) Giao Châu đổi thành An Nam Đô Hộ Phủ, đóng đô ở Giao Châu, thay đổi khu vực, chia ra 12 châu và 59 huyện. Nước ta gọi là An Nam khởi nguồn từ đó.

Trong 12 châu đó gồm: Giao Châu, Lục Châu, Phúc Lộc Châu, Phong Châu, Thang Châu, Trường Châu, Chi Châu, Võ Nga Châu, Võ An Châu, Ái Châu, Hoan Châu và Diễn Châu. Vì vậy, danh xưng điạ danh Giao Châu kể từ đó gồm 8 huyện chung quanh khu vực Hà Nội ngày nay.

Đất nước An Nam trong thời gian đó luôn luôn bị loạn lạc giữa nội tình và ngoại xâm. Có nhiều cuộc nổi dậy để chống lại ách thống trị của nhà Đường, trong đó có Mai Thúc Loan, huyện Thiên Lộc, Hoan Châu (nay thuộc Thạch Hà, Hà Tĩnh).

Quê hương của Mai Thúc Loan nổi tiếng với quả vải, người dân phải thu hoạch rất nhiều rồi chọn lọc ra loại tuyệt hảo để cống phẩm cho quan chức hưởng thụ và mang về dâng cho triều đình. Nạn cống triều với quả vải, còn gọi là lệ chi được gọi là “cống lệ chi” làm cho dân tình điêu linh, khốn khổ.

Sống trong cảnh lầm than đó, dòng họ Mai đã cam chịu từ đời nầy sang đời khác trong mảnh đất được gọi là gò họ Mai. Thế rồi, người đàn bà bất hạnh với cảnh đói rách phải đi làm thuê quần quật để lo cho miếng cơm manh áo, mang lấy bào thai, đẻ ra dứa con đen thui, đặt họ mẹ tên là Thúc Loan ở làng Ngọc Trừng.

Theo sách Thiên Nam Ngữ Lục thì nguời đàn bà nghèo khó nầy đến xem nấu muối, bị một làn khói muối ngũ sắc bao lấy mình rồi mang thai.

Tuy đen đủi, xấu xí nhưng Mai Thúc Loan thông minh, lanh lợi, có sức khỏe lạ thường và vô cùng gan dạ. Là người con chí hiếu, Mai Thúc Loan phụ giúp cho thân mẫu làm lụng, vào rừng kiếm củi. Thế rồi, cuộc đời bất hạnh laiï ập đến cho cuộc đời cậu bé khi thân mẫu bị cọp vồ chết để cam phận trong cảnh đời mồ côi.

Mai Thúc Loan sớm sống cuộc đời tự lập, đi làm thuê cho gia đình làm lò đúc đồng, được thời gian rồi không chịu cảnh bị ức hiếp của bọn quan lại, hào phú nên theo phường săn bắn cho thỏa nguyện với cuộc sống.

Nhờ có sức khỏe và nhanh nhẹn nên Mai Thúc Loan trở thành tay đô vật và giỏi cung tên, được dân địa phương bầu làm thủ lĩnh. Người thợ săn Mai Thúc Loan có mồi thủ truyền kiếp với thù dữ nên bất chấp hiểm nguy, nghe nơi nào có bóng dáng thú dữ lai vãng liền tìm đến để diệt trừ. Tính gan da, can cường ï đó đã tạo niềm tin với mọi người nên khi có giạc Chà Và và Côn Lôn cướp bóc, dân làng tôn Mai Thúc Loan lãnh nhiệm vai trò “Đầu Phu” để chống trả với giặc cướp.

Rồi mùa vải lại đến, quan quân nhà Đường bắt dân chúng phải thu hoạch và cống nạp, Mai Thúc Loan lãnh trách nhiệm cầm đầu nhóm dân phu, băng rừng lội suối để mang cống phẩm về châu, huyện.

Hận thù trước ách thống trị đó, Mai Thúc Loan liền hô hào dân chúng nổi dậy, năm Nhâm Tuất (722), năm Khai Nguyên thứ mười đời Đường Huyền Tông ở Trung Hoa, cuộc phất cờ khởi nghĩa của Mai Thúc Loan được thành công khi chiếm được Hoan Châu, lập căn cứ cho công cuộc nổi dậy chống Bắc phương.

Mai Thúc Loan chọn căn cứ Hùng Sơn, Đại Sơn đề xây hào,đắp lũy và xây thành Vạn An, tự xưng là Hoàng đế và được mệnh danh là Mai Hắc Đế.

"Đường đi cống vải từ đây dứt
Dân nước đời đời hưởng phúc chung".


Cuộc khởi binh của Mai Thúc Loan được tiến hành chớp nhoáng nhờ sự hưởng ứng của dân làng, nghĩa binh từ vùng nầy lan rộng sang làng khác, có được đạo quân đông đảo , tuy chưa được huấn luyện thuần thục nhưng cũng áp đảo được quân giặc.

Để tạo uy thế mạnh mẽ, Mai Hắc Đế cho sứ giả vượt đèo Ngang vào Nam, qua Vụ Ôn sang Tây, liên kết với Chân Lạp và Lâm Ấp để chống cự với quan quân nhà Đường; và được sự hỗ trợ của hai nước láng giềng nầy.
Mai Hắc Đế chiếm được phủ thành Tổng Bình (Hà Nội), quan Đô Hộ Quang Sở Khách hoảng sợ phải tháo chạy về nước xin cầu viện binh.
Nhà Đường phái quan Nội Thị là Dương Tư Húc cùng Quang Sở Khách đem đại quân trở lại xung trận với Mai Hắc Đế.

Trước vũ lực hùng mạnh quả quân Bắc phương, Mai Hắc Đế khó chống cự nổi nên rút vào vùng núi Hùng Sơn, còn gọi là Rú Đụn, bên bờ sông Lam, cầm cự được thời gian ngắn, lâm bệnh nặng rồi mất.

Ngày nay ở núi Vệ Sơn, Nghệ Tĩnh còn có vết tích di tích thành cũ của Mai Hắc Đế và còn đền thờ ở Nam Đàn, Nghệ Tĩnh.

Tuy cuộc nổi dậy để khôi phục lại giang sơn đất nước chỉ trong thời gian rất ngắn nhưng đã nói lên ý chí quật cường của con người bất khuất trước ách thống trị của bạo lực. Người dân nhớ ơn Mai Hắc Đế , lập đền, ghi lại ánh thơ:

“Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng
Vạn An thành lũy khói hương xông
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức
Trăm trận Lý Đường phục võ công...”.


Trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đã ghi lại hình ảnh của Mai Hắc Đế:

“Quan Đường lắm kẻ tham tài,
Bình dân hàm oán, trong ngoài họp mưu.
Mai Thúc Loan ở Hoan Châu
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa.
Hiệu cờ Hắc Đế mở ra,
Cũng toan quét dẹp sơn hà một phương.
Đường sai Tư Húc tiếp sang,
Hợp cùng Sở Khách, hai đàng giáp công,
Vận đời còn chửa hanh thông,
Nước non để giận anh hùng nghìn thu
Lam thủy trăng in tăm ngạc lặn
Hùng Sơn gió lặng khói lang không..."”.


Mai Hắc Đế mất đi, An Nam chìm đắm lại trong thời kỳ Bắc thuộc. Và, trong thời gian sau đó, triều chính nhà Đường rơi vào tình trạng bất an bởi Đường Huyền Tông say mê Dương Quý Phi, An Lộc Sơn làm chức Tiết Độ Sứ kiêm cả khu vực Bình Lư, Phạm Dương và Hà Đông (nay là Sơn Tây) để rồi làm cuộc tạo phản năm 755, Đường Huyền Tông phải bỏ ngôi vua, lánh nạn ở đất Ba Thục. Mai Thúc Loan khởi nghĩa với địa lợi, nhân hòa nhưng chưa gặp thiên thời, nếu đúng vào giai đoạn tranh quyền ở Trung Hoa thì công cuộc quang phục quê hương sẽ được lâu dài.

Gần bảy mươi năm sau, mới có ngọn cờ khời nghĩa được tiếp nối với hình ảnh Phùng Hưng.

Nguồn: Internet
 
Trần Nguyên Ðán - Vua Trần Nghệ Tông

Trần Nguyên Ðán, hiệu là Băng Hồ, tức là ông ngoại của nhà anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, là cháu bốn đời của Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải. Ông làm quan đến chức Tư đồ nhập nội kiểm hiệu Bình Chương Quốc thượng hầu, tức như ngôi Tể tướng.

Vì thấy Vua Trần Nghệ Tông quá nhu nhược lại tin dùng Hồ Quý Ly, ông đoán biết cơ nghiệp nhà Trần sắp đến hồi mạt vận, hết lời khuyên can Nghệ Tông sửa đổi lại triều chính, chăm lo đến tình cảnh cơ cực của dân, nhưng Nghệ Tông không nghe. Kế cùng, Băng Hồ rút lui về ở ẩn tại Thanh Hư động, núi Côn Sơn, thuộc làng Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn, tỉnh Hải dương. Mùa đông năm Canh Ngọ niên hiệu Quang Thái thứ 3 (1390), Băng Hồ ốm nặng. Thượng hoàng Nghệ Tông được tin, xa giá về Côn Sơn thăm. Biết Tư đồ không qua khỏi, Nghệ Tông hỏi ông về cách cứu vãn tình hình chính sự. Băng Hồ lặng lẽ không đáp, hồi lâu chảy nước mắt và đọc hai câu thơ:

Nhân ngôn ký tử dữ lão nha
Bất thức lão nha liên ái phủ?

Tức là câu về sau người ta đã dịch ra và hầu như đã trở thành một câu ca dao:

Ðem con mà gửi cho quạ già
Biết đâu quạ để con ta được toàn?

Bấy giờ Nghệ Tông ngờ rằng Băng Hồ tướng công mê loạn nói nhảm, nên không để ý, cứ việc tin dùng Quý Ly, giao tất cả quyền chính cho một tay ông ta và uỷ thác con mình là Vua Thuận Tông cho ông ta phò tá. Qủa nhiên, tám năm sau (bốn năm sau khi Nghệ Tông mất) Hồ Quý Ly thiên đô vào Thanh Hoá (Tây Ðô), bắt Thuận Tông phải nhường ngôi lại cho con mới lên ba, tức Thiếu Ðế (1398- 1400) rồi Quý Ly giết Thuận Tông, truất Thiếu Ðế mà lên làm vua, đúng như lời tiên tri của Trần Nguyên Ðán.

(Nguồn Internet)
 
Vua Trần Nhân Tông

Vua Trần Nhân Tông tên thực là Trần Khâm, quê ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, Nam định; sinh năm 1258, mất năm 1308, làm Vua được 14 năm rồi đi tu ở núi Yên Tử, khai sáng ra phái Trúc Lâm trong Phật giáo Việt nam. Nhà vua sáng tác khá nhiều thơ văn.

Sau khi đại thắng trận Bạch Ðằng năm 1288 và kết thúc vẻ vang công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên, Trần Hưng Ðạo rước Vua Nhân Tông cùng Thượng hoàng Thánh Tông về Thăng Long. Vua mở tiệc khao thưởng tướng sĩ, và truyền cho dân chúng mở hội vui chơi ba ngày ba đêm, gọi là "thái bình diên yến".

Tương truyền rằng trong mấy hôm đó, người ta thấy ở chân các con ngựa đá tạc ra để chầu hầu trước các miếu, điện đều có dính bùn. Người ta cho rằng chính các ngựa đá và muôn vật vô tri của đất nước đều có tham gia đánh giặc. Việc đến tai Vua Trần Nhân Tông. Nhân lúc vui mừng, Vua liền ứng khẩu ngâm hai câu thơ rằng:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
Dịch:
Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
 
Phạm Trấn - Ðỗ Uông

Khoảng đời nhà Mạc, ở miền Hải Dương có hai người bạn ở gần làng nhau: Phạm Trấn ở làng Lâm Kiều và Ðỗ Uông ở làng Ðoàn Lâm.

Vào năm Quang Bảo đời Mạc Phúc Nguyên (1554- 1561), hai người cùng trạc ba mươi tuổi và cùng đỗ khoa thi hội. Ðến kỳ thi đình, Phạm Trấn đỗ Trạng nguyên, còn Ðỗ Uông thì đỗ Bảng nhãn. Trấn, sức học vốn kém Uông, nên hí hửng lắm, bảo: "Gìờ ta mới đè được thằng Uông đây!"

Uông nghe nói tức lắm. Lúc vinh quy, Trạng Bảng cùng về một đường. Bảng không chịu nhường Trạng đi trước, cứ dóng ngựa đi ngang hàng.

Ðến làng Hoạch Trạch, dân chúng kéo nhau ra xem và xin thơ để đề vào chiếc cầu ở đầu làng. Ðó là chiếc cầu ngói hơn mười gian. Bảng, Trạng liền thách nhau qua bảy gian phải vịnh xong bài thơ; ai xong trước đi trước, không được tranh nhau.

Lần ấy Trấn thắng, ai cũng chịu tài, chỉ Uông không phục, cho là thơ đã làm sẵn từ bao giờ. Rồi, lại dóng ngựa đi ngang hàng. Ðến làng Minh Luận, có người mới làm xong nhà, ra đón đường xin một bài thơ mừng nhà mới. Trấn đọc luôn: Năm năm thêm phú quý
Ngày ngày hưởng vinh hoa
Xưa có câu như thế
Nay mừng mới làm nhà.

Lần này, Uông đã có vẻ hơi chịu tài nhanh nhẹn của Trấn. Ðến cầu làng Ðoàn Lâm, tục gọi là Cầu Cốc, trong cầu có cô bán hàng là cô Loan; hai người lại thách nhau làm bài thơ Nôm lấy đề là "Cô Loan bán hàng cầu Cốc". Hạn mỗi câu phải có hai giống chim, qua cầu phải xong, ai xong trước đi trước, nhất thiết không được tranh nhau nữa. Trấn ngồi trên lưng ngựa, đọc ngay rằng: Quai vạc đôi bên cánh phượng phong
Dở giang bán chác lựa đồ công
Xanh le mở khép nem hồng mới
Bạc ác phô phang rượu vịt nồng...

Bảng bấy giờ mới thực sự chịu phục Trạng là nhanh trí và nhường cho Trạng đi trước, không tranh dành gì nữa.

(Nguồn Internet)
 
Nguyễn Văn Xiển - Tôn Thất Thuyết

Xiển Ngộ tên thật là Nguyễn Văn Xiển. Sinh vào khoảng 1860, người làng Hoàng Bột, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá) cùng quê với Trạng Quỳnh. Ông thông minh hoạt bát, học giỏi, nhưng thi mãi không đỗ, thường có những hành động, cử chỉ ngạo ngược. Người đời cho ông là "Ngộ chữ" (điên vì nhiều chữ quá) và gọi ông là Xiển Ngộ. Cái tên này đã thành phổ biến khắp vùng Thanh Hoá. Nhưng hành động ngỗ ngược của ông đã thành ra những giai thoại nhiều người biết.
Một hôm, Xiển Ngộ đến Thanh Hoá đi thi, lại hỏng lần nữa. ông buồn rầu, cùng các bạn hỏng thi ngồi than phiền, chực mượn rượu tiêu sầu, nhưng sờ túi, các thầy đồ đều hết tiền cả. Một bạn đố Xiển dám vào xin tiền Tôn Thất Thuyết, lúc ấy đang làm tổng đốc Thanh Hoá, có tiếng là hách dịch lắm. Xiển nhận làm ngay, nhưng bắt anh em phải cuộc.

Sáng sớm hôm sau, Tôn Thất Thuyết ra công đường thấy một người quỳ ở sân, Thuyết quát lính hỏi tên kia muốn kêu gì. Xiển đứng dậy trình ngay:

- Con muốn chết, đến đây để nhờ lưỡi gươm của cụ lớn hoá kiếp cho.

Tôn Thất Thuyết quát:

- Tên này thật là điên cuồng ngu ngộ. Vì sao mày lại muốn chết?

Xiển đáp:

- Bẩm cụ lớn, con là học trò thi hỏng, nhà lại nghèo, sống thêm hỗ bút hỗ nghiên, nên muốn chết cho rảnh.

Thuyết thấy Xiển có vẻ thư sinh nho nhã, nói năng lại hoạt bát, liền bảo:

- Nếu là học trò giỏi mà thi hỏng thì cũng đáng thương. Còn như học trò lười, dốt, thì chết đi cũng phải. Bây giờ ta sẽ ra đề cho ngươi vịnh thử bài thơ xem ngươi là học trò hạng nào.

Rồi Thuyết lấy ngay đầu đề là "điên cuồng ngu ngộ".

Xiển ứng khẩu đọc luôn bốn câu thơ như sau:
Cao Tổ điên hào kiệt
Võ Ðế ngộ thần tiên
Tăng Ðiểm cuồng thiên địa
Nhan Tử ngu thánh thần.
Nghĩa là :
Cao Tổ điên đảo người hào kiệt
Vũ Ðế giác ngộ chuyện thần tiên
Tăng Ðiểm ngông cuồng với trời đất
Nhan Tử ngu ngơ mà thánh hiền.
( Bốn nhân vật kể trên đều là những bực vua chúa thánh hiền tài giỏi trong sử sách: Hán Cao Tổ có tài thuyết phục làm cho những người tài giỏi phải theo mình. Hán Vũ Ðế thích tìm hiểu chuyện thần tiên để rút kinh nghiệm xử thế. Tăng Ðiểm (Tăng Tử) là học trò giỏi bực nhất của Khổng Tử. Lúc nói chí hướng của mình, ông không thích làm quan làm giàu mà thích sống thanh cao. Nhan Tử (Nhan Hồi) học trò giỏi nhất của Khổng Tử. Bề ngoài, ông có vẻ như người ngu đần, nhưng thực ra là bậc thánh hiền.)

Nghe bài thơ, Tôn Thất Thuyết biết Xiển là người tài giỏi, học rộng, trí nhanh; trong chớp mắt biến bốn chữ chê thành bốn chữ khen, để tỏ chí khí của mình. Thuyết bèn thưởng cho Xiển 30 quan tiền, và an ủi, khuyên lơn Xiển nên cố gắng học nữa.

Thế là Xiển Ngộ đã được cuộc. Các bạn phải khao một bữa chén linh đình.
(Nguồn Internet)
 
Tướng Lê Văn Quân, chết rồi vẫn bị đánh trăm roi

Tướng Lê Văn Quân, chết rồi vẫn bị đánh trăm roi.​

Lê Văn Quân (? - Tân Hợi 1791) còn có tên là Lê Văn Câu hay Lê Văn Duân, tuy là người ít học, nhưng lúc xông trận thì rất dũng mãnh nên được người đương thời gọi là Dũng Nam công.
Ông là một danh tướng có nhiều công lao ở thời kỳ nhà Nguyễn dựng nghiệp.

Lê Văn Quân, người huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là Tiền Giang).
Khi Nguyễn Nhạc cất binh khởi nghĩa vào năm 1771, và các anh em Châu Văn Tiếp chiêu tập dân miền thượng được hơn nghìn người đến chiếm giữ núi Trà Lang thuộc Phú Yên, Lê Văn Quân từ nơi xa xôi, tìm đến xin theo Châu Văn Tiếp và được bổ chức cai đội.

Khi biết Lê Văn Quân là người dũng cảm, thiện chiến, Châu Văn Tiếp đồng ý gả em gái tên là Châu Thị Đậu (1) cho ông.
Sau Châu Văn Tiếp cùng ông theo về với chúa Nguyễn.

Năm 1782, Nguyễn Nhạc cùng em là Nguyễn Huệ mang quân vào đánh chiếm Gia Định. Nhưng khi hai ông vừa rút quân về Qui Nhơn thì tại Bình Thuận, Châu Văn Tiếp cùng các tướng dưới quyền trong đó có Lê Văn Quân chia quân đánh dồn dập vào Gia Định, khiến tướng Tây Sơn là Đỗ Nhàn Trập không sao cầm cự nổi, đành tháo chạy về Qui Nhơn.

Tháng 2 năm Quí Mão 1783, hai anh em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại mang quân vào Nam. Lần này, Nguyễn vương (Nguyễn Phúc Ánh) phải chạy xuống Ba Giồng rồi qua Xiêm La (Thái Lan) cầu viện.

Tháng 6 năm 1784 vua Xiêm La là Chất Tri (Chakri, Rama I) sai hai người cháu, cũng là hai viên tướng cao cấp là Chiêu Tăng và Chiêu Sương, theo sự hướng dẫn của Bình Tây đại đô đốc Châu Văn Tiếp, đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiến thuyền vượt vịnh Xiêm La, qua ngả Kiên Giang Ngoài ra, còn có đạo bộ binh gồm khoảng 3 vạn quân, do các tướng Lục Côn, Sa Uyển, Chiêu Thùy Biện chỉ huy, băng qua đất Chân Lạp (Campuchia), rồi tràn vào nước Việt qua ngả An Giang.

Ngày 13 tháng 10 cùng năm 1784, Châu Văn Tiếp giáp chiến với quân Tây Sơn ở sông Mang Thít thuộc địa phận Long Hồ (nay là Vĩnh Long), bị phò mã Tây Sơn là Trương Văn Đa đâm chết. Bấy giờ Lê Văn Quân đang giữ chức tiền quân, Nguyễn vương bèn thăng Lê Văn Quân giữ chức Bình Tây đại đô đốc, tước Dũng quận công. Ngay sau đó, Lê Văn Quân thống lĩnh đại quân tiến đánh Ba Lai, Trà Tân và các nơi khác.

Được tin cấp báo, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem đại binh thuyền vào ứng cứu. Đêm 19 rạng ngày 20 tháng 1 năm 1785, quân Xiêm và quân Nguyễn đại bản doanh của Nguyễn Huệ ở Mỹ Tho. Nhưng khi lực lượng hùng hậu này lọt vào khoảng giữa Rạch Gầm và Xoài Mút, thì chỉ trong vòng chưa đầy một ngày, toàn bộ quân Xiêm và quân Nguyễn đều đại bại, khiến Nguyễn Phúc Ánh, lại phải sang nương nhờ nước Xiêm.

Đến khi hay tin Nguyễn Huệ đã đem đại quân về Qui Nhơn, chỉ để lại đô úy Đặng Văn Trấn làm trấn thủ Gia Định, Nguyễn vương sai người về nước gọi Lê Văn Quân sang.
Theo lệnh, Lê Văn Quân đem khoảng 600 người đến yết kiến. Được vua Xiêm cho ở riêng một chỗ ở ngoài thành Vọng Các (Bangkok) gọi là Long Kỳ (2), nhờ vậy vua tôi có đất chia nhau làm ruộng để đợi ngày khôi phục.
Lúc bấy giờ nhân có quân Miến Điện sang đánh Xiêm La, Nguyễn vương cùng Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành đem quân đi đánh giúp nước Xiêm, lại có công trừ được những giặc Mã Lai thường vẫn hay đến quấy nhiễu ở mặt bể, nên vua Xiêm càng trọng đãi vua tôi nhà Nguyễn lắm.

Tháng 7 năm 1787, Nguyễn vương dẫn quân về nước. Nhưng mãi đến năm 1789, sau khi Lê Văn Quân, Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Văn Trương hợp binh đánh ở Hổ Châu, quân Tây Sơn do Phạm Văn Tham không phá được vây, phải lui về Ba Thắc rồi xin hàng, Gia Định mới thuộc hẳn về Nguyễn vương.

Đại nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 27) cho biết tướng Lê Văn Quân nghĩ rằng Võ Tánh nhờ lấy được Phúc Lộc công chúa Nguyễn Thị Ngọc Du (chị của Nguyễn Phúc Ánh) nên mới được tin dùng, được đứng ngang hàng với ông, chứ không tài cán gì. Vì vậy, Lê Văn Quân luôn để dạ hiềm khích và không ưa Võ Tánh.

Tháng 4 năm Canh Tuất (1790), Nguyễn Phúc Ánh cho Lê Văn Quân làm tổng chỉ huy, cùng với Võ Tánh mang quân ra đánh nhau với quân Tây Sơn ở Bình Thuận. Biết Lê Văn Quân quả quyết, bạo dạn nhưng hay khinh suất, còn Võ Tánh thì hăng hái nhưng thường nóng vội, đã thế, hai người lại không ưa nhau, nên Nguyễn vương cử thêm Nguyễn Văn Thành cùng đi để kiềm chế. Trận đầu, quân Nguyễn thắng lớn, Lê Văn Quân nhân đó tự đề cao công trận của mình, khiến Võ Tánh càng khinh Lê Văn Quân ra mặt.

Nhân đà thắng lợi, Lê Văn quân muốn tiến đánh luôn Diên Khánh, nhưng vì Nguyễn Văn Thành can ngăn nên Lê Văn Quân đành phải đóng quân ở Phan Rang chờ thời. Đúng lúc đó, Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành được lệnh rút quân về Gia Định. Lực lượng Tây Sơn nhân đó đánh thẳng vào dinh trại của Lê Văn Quân. Không sao địch nổi, tướng sĩ bị chết quá nhiều, buộc Lê Văn Quân phải đưa thư cấp báo. Nhận thư, Nguyễn Văn Thành khuyên Võ Tánh cùng nhau đem quân tiếp cúu, nhưng Võ Tánh quyết không nghe, chỉ mỗi một mình Nguyễn Văn Thành trở lại đánh giải vây rồi cùng Lê Văn Quân về giữ Phan Rí.

Mùa thu năm 1790, Lê Văn Quân lại bị quân Tây Sơn tấn công rất gấp. Một lần nữa, lại phải xin quân cứu viện, từ đó Lê Văn Quân bắt đầu nhục chí...

Hoàng Việt hưng long chí kể:
“Bấy giờ vua Chân Lạp ([[Campuchia]]) nói với vua Xiêm là Nam triều luyện quân đúc súng, có ý thôn tính đất đai nước Xiêm. Vua Xiêm ngờ vực, sửa soạn cất quân sang đánh...
Thế Tổ (Nguyễn Phúc Ánh) biết người Xiêm nể trọng Lê Văn Quân, gọi Quân về để dàn xếp mối bất hòa. Quân hổ thẹn vì bị Võ Tánh khinh bỉ nên cố ý lừng khừng không về ngay, lại dâng biểu về nói đại ý trong trận Bình Thuận dạo trước, quan quân cứu viện có nhiều kẻ ngang ngược cướp bóc của dân đen, xin triều đình cho phái viên ra tra xét tội. Có lẽ Quân có mưu ngầm muốn thanh toán với Võ Tánh.
Thế Tổ giận Quân nấn ná, bèn sai Nguyễn Văn Nhàn, Nguyễn Tiến Lượng sang Xiêm để gỡ mối hiềm nghi. Xem đến biểu tâu của Văn quân, Thế Tổ khiển trách rằng:
Việc đã qua còn xét hỏi làm gì, chỉ thêm rắc rối. Hơn nữa triều đình còn lắm chuyện phải lo, Văn quân kia còn định toan tính điều gì?..”

Văn quân sợ tội lại dâng biểu cáo ốm. Thế tổ bèn sai cai cơ Nguyễn Văn Lợi ra thay thế Quân. Một thời gian lâu, Quân cứ cáo bệnh nghỉ mãi, bởi vậy, Thế Tổ truyền Lợi chia quân của Văn quân ra làm ba, giao cho Phùng Văn Nguyệt, Nguyễn Văn Lợi và Nguyễn Văn tính cai quản...

Thế tổ lại sai Phùng Văn Nguyệt đóng quân ở Hưng Phước, cũng là để xem xét bệnh tình của Văn Quân thế nào. Văn Quân khỏi ốm, từ Hưng Phước về Gia Định.
Thế Tổ sai giao Quân cho triều đình xét tội. Các quan đều nói tội của Văn Quân đáng xử tử. Thế Tổ xét Quân có công theo hầu ở Vọng Các, trải bao gian lao nguy hiểm, khi về Gia Định đi chinh chiến có công lao nhiều nhất, không nở xử đến cực hình. Thế Tổ bèn sai tước đoạt quan tước của quân, cho chờ để lập công chuộc tội. Quân là kẻ không có học, ít hiểu biết, nghe tuyên mệnh thì uất ức hổ thẹn, rồi uống thuốc đọc tự tử.

Thế tổ vừa giận vừa tiếc, đích thân đến nơi Quân ở gào khóc, xong cầm roi đánh lên quan tài một trăm roi..."

Đó là vào mùa xuân năm Tân hợi (1791).

Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn.
Long Xuyên, ngày 7 tháng 9 năm 2008
Chú thích:
(1) Châu Thị Đậu (? - ?) tục gọi Châu muội nương, là người giỏi võ nghệ. Như chồng, bà giúp chúa Nguyễn rất tận lực. Những lúc xông pha ra chiến trận, bà chẳng kém gì trai. Những ngày theo Nguyễn Phúc Ánh sang Vọng Các, chính bà đã hai lần cầm binh đánh thắng quân Miến Điện và Chà Và (âm của chữ Java, Chà Và là người đến từ đảo Java) theo lời yêu cầu tiếp viện của vua Xiêm, khiến người Xiêm rất thán phục.

(2) Nay ở Bangkok có một chỗ gọi là làng Gia Long, tức là nơi ở của Nguyễn vương ngày trước (theo Việt Nam sử lược tập 2, tr. 115).

Tài liệu:
(Dùng để tham khảo & đối chiếu)
-Ngô Giáp Dậu, ''Hoàng Việt hưng long chí'', NXb Văn học, 1993.
-Trần Trọng Kim, ''Việt Nam sử lược quyển 2'', Trung tâm học liệu, Sài Gòn, 1971.
-Phạm Văn Sơn, ''Việt sử tân biên quyển 4'', Tủ sách sử học Việt Nam, Sài Gòn, 1961.
-Nguyễn Khắc Thuần, ''Danh tướng Việt Nam tập 3'', Nxb Giáo dục, 2005.
-Nguyễn Khắc Thuần, ''Việt Nam giai thoại tập 8'', Nxb Giáo dục,
 
Võ Nguyên Giáp - Thiên tài quân sự

Võ Nguyên Giáp - Thiên tài quân sự

Năm 1992, Hội đồng khoa học Hoàng gia Anh vinh danh 10 nhân vật quân sự lỗi lạc nhất mọi thời đại, trong đó có hai vị tướng kiệt xuất của Việt Nam: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Điều đặc biệt, trong số những người được vinh danh, duy nhất Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn sống. Để được tôn vinh thiên tài quân sự qua mọi thời đại của nhân loại thật không dễ. Thế nhưng, với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không chỉ nhận được sự đồng thuận rất cao của giới quân sự, kể cả với những người bình chọn “khó tính” nhất, ông còn nhận được sự ngưỡng mộ, kính trọng của nhiều nguyên thủ quốc gia, chính khách, học giả, nhà sử học, nhà báo, nhà văn và đông đảo nhân dân thế giới.

Dưới ánh sáng đường lối kháng chiến của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đằng sau những thắng lợi mang tính thời đại của nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, Võ Nguyên Giáp là một động lực. Những chiến tích vĩ đại mà ông đã góp phần cống hiến xuất sắc, ít người sánh kịp, đã nâng ông lên tầm một vị tướng huyền thoại, để lại một dấu son rực rỡ trong lịch sử quân sự thế giới.

Nghiên cứu về con người và sự nghiệp của ông, thế giới không chỉ ca ngợi tài thao lược kiệt xuất, mà thường phân tích sâu 5 yếu tố cơ bản nhất và đó cũng là 5 bài học có giá trị lớn nhất làm nên một thiên tài quân sự.1. Trước hết, ông được đánh giá là một chuyên gia lỗi lạc hàng đầu về đường lối chiến tranh nhân dân của phong trào giải phóng dân tộc trong nước và trên thế giới.

CeciB.Curry, một chuyên gia nghiên cứu lịch sử quân sự hiện đại có tên tuổi của Mỹ, đã viết cuốn sách “Võ Nguyên Giáp, một thiên tài quân sự”, xuất bản ở Mỹ năm 1997.

Cuốn sách được dịch ra tiếng Pháp năm 2003 ấn hành ở Paris và cũng được dịch ra tiếng Trung Quốc xuất bản ở Bắc Kinh, trích lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Chiến lược chiến tranh của chúng tôi không phải chỉ liên quan đến những công việc thuần túy quân sự. Chiến tranh phải là một chiến lược tổng thể kết hợp nhiều yếu tố khác nhau. Mục đích chính trị là căn bản. Quân đội không phải chỉ có nhiệm vụ chiến đấu, mà phải tuyên truyền, giáo dục dân chúng. Như vậy, mọi người đều là lính. Tất cả, mỗi làng, mỗi quận (huyện) là một pháo đài và cả nước chúng tôi là một chiến trường rộng lớn. Chúng tôi tập trung lực lượng ở vùng này hay vùng khác tùy thuộc vào điều kiện chính trị chiếm ưu thế từng thời kỳ trong từng giai đoạn. Điều này là một nguyên tắc chiến lược rất quan trọng để tiến hành chiến tranh toàn dân…” (Nguyên văn của dịch giả Nguyễn Văn Sự).

Đường lối chiến tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đã nêu rõ phải tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến; xây dựng LLVT với 3 thứ quân gồm: Dân quân du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực, trong đó bộ đội chủ lực làm nòng cốt, yếu tố vũ khí rất quan trọng nhưng yếu tố con người và chính trị tinh thần đóng vai trò quyết định; tiến hành chiến tranh du kích kết hợp với chiến tranh chính quy, lấy yếu địch mạnh, lấy nhỏ đánh lớn, lấy chất lượng tinh thắng số lượng đông; tập trung kết hợp phân tán linh hoạt v.v..

Không chỉ quán triệt sâu sắc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tiến hành đường lối chiến tranh nhân dân Việt Nam một cách hết sức sáng tạo. Ông coi trọng trước hết việc rèn luyện vững chắc bản lĩnh chính trị cho quân đội. Tình yêu nước nồng nàn, lòng trung thành vô hạn với lý tưởng cách mạng, tinh thần vì nhân dân quên mình, đoàn kết quân dân cá nước luôn được truyền lại và thấm sâu đến từng chiến sĩ. Các LLVT luôn ra sức luyện tập tinh thông kỹ thuật, chiến thuật, làm tốt công tác dân vận.

Ông kết hợp rất khéo léo, chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa… đạt kết quả toàn diện trên cả hai mặt trận: Kháng chiến và kiến quốc. Ở tuyến trước, quân dân Việt Nam thực hiện linh hoạt phương châm quân sự “2 chân, 3 mũi” (2 chân quân sự, chính trị song song, 3 mũi tấn công vũ trang, đấu tranh chính trị của quần chúng và binh địch vận), đánh địch khắp ba vùng chiến lược: Rừng núi, đồng bằng, đô thị. Còn ở tuyến sau, luôn xây dựng, củng cố vững chắc căn cứ địa cách mạng và hậu phương, chi viện đắc lực cho tiền tuyến.

Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự. Đường lối ưu việt của cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, kháng chiến trường kỳ đã đánh bại và làm phá sản đường lối tốc chiến, tốc thắng và các chiến lược của những đế quốc hùng mạnh nhất thế kỷ 20.

2. Tư duy khoa học của Võ Nguyên Giáp về xây dựng lực lượng quân sự rất độc đáo, sáng tạo và toàn diện.

Bắt đầu từ con số 0, ông đã có và có tất cả những đơn vị chiến đấu, phục vụ chiến đấu đáp ứng được nhu cầu chiến tranh trong hoàn cảnh đất nước nghèo nàn, lạc hậu, thiếu thốn trăm bề. Ông hội tụ được một đội ngũ cán bộ ưu tú các cấp, có khả năng độc lập, tự chủ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở những địa bàn tinh nhuệ được xây dựng thành một binh chủng chính quy. Ngành quân y và cái bếp mang tên người Anh hùng Hoàng Cầm, được triển khai đến tận đại đội trong chiến đấu.

Ông là người đề xuất mở đường Trường Sơn, về sau mang tên huyền thoại đường Hồ Chí Minh và còn phát triển thêm “Con đường mòn” trên biển. Bộ đội hành quân bộ hàng trăm, hàng nghìn cây số ra mặt trận. Mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông vận tải quá thô sơ. Bảo đảm hậu cần bằng gồng gánh, thồ xe đạp, mang vác trên vai hơn 50kg vượt qua biết bao sông suối, núi đèo, đói rét, bệnh tật, thú dữ, đạn bom. Một nền hậu cần thời trung cổ đã thắng một nền hậu cần hiện đại, khổng lồ nhất thế giới của quân đội Pháp, Mỹ.

3. Võ Nguyên Giáp là một vị tướng sắc sảo nhất về nghệ thuật khoét sâu chỗ yếu của địch.

Ông rất cẩn trọng trong so sánh tương quan lực lượng đôi bên, không bao giờ đánh giá thấp đối phương. Cách đánh tập trung quy mô nhỏ. Chỗ yếu lớn nhất của địch là chiến tranh phi nghĩa, không có được các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Việt Nam thì ngược lại, với cuộc chiến tranh toàn dân, đàn ông, đàn bà, người già, con trẻ đều là chiến sĩ, làm cho quân địch luôn lo sợ cái chết rập rình. Chúng lo sợ cả gỗ, đá, thân tre, lá lúa đều biến thành chông, bẫy, gươm, dao.

Địch tập trung lớn, ta biết tránh đối đầu trực diện, làm cho chúng không tìm thấy đối phương, hiệu suất chiến đấu rất thấp. Chúng ta biết linh hoạt phân tán và tập trung ưu thế binh hỏa lực đánh vào chỗ sơ hở, điểm yếu và hiểm yếu của địch, gây cho chúng thiệt hại nặng nề.

Võ Nguyên Giáp là vị tướng luôn chủ động bắt buộc đối phương bị động thay đổi thế cờ, đánh theo cách đánh của ông, vì thế mà phá sớm về chiến thuật, chiến dịch, chiến lược, dẫn đến thất bại hoàn toàn.

4. Về tài thao lược, thế giới xem ông là bậc thầy về chiến lược, chiến thuật quân sự.

Hơn 30 năm chỉ huy quân sự, Võ Nguyên Giáp chưa bao giờ phạm sai lầm về chiến lược. Ngược lại, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tập thể Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Võ Nguyên Giáp đã buộc 10 danh tướng Pháp, Mỹ mắc sai lầm về chiến lược và thua trận, trong đó có 7 đại tướng Pháp: Philippe Leclerc, Eátienne Va lluy, C.Blaijot, M.Cargentier, Delattre De Tassigny, Raoal Salan, Henri Navarre và 3 đại tướng Mỹ: Westmoreland, C.Abrams và F.C.Weyand.

Các thiên tài quân sự thường truyền lại binh thư, binh pháp. Võ Nguyên Giáp đã dốc tâm trí nghiên cứu học thuyết quân sự của giai cấp vô sản và tư bản, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của Liên Xô, chiến tranh chống Nhật của Trung Quốc, lý luận quân sự của Clausewit , những trận đánh của Napoléon, truyền thống đánh giặc của tổ tiên, những trận đánh thắng và không thắng của ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đúc kết thành những nguyên tắc quân sự độc đáo của Việt Nam.

Các sách quân sự và các tác phẩm văn học của ông đã giúp nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự trên thế giới hiểu biết về cuộc chiến tranh toàn dân và tự giải đáp được nguyên nhân vì sao thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Võ Nguyên Giáp không qua một trường quân sự nào, ông học trong thực tế là chính. Chiến tranh luôn ẩn chứa nhiều yếu tố ngẫu nhiên không thể biết và lường trước được hết. Ông không xử trí chiến thuật quân sự bằng những "giải pháp quân sự cố định học đường", mà luôn xuất phát từ thực tế chiến trường để giải quyết mọi tình huống ngoài dự kiến và lật ngược thế cờ. Lý luận về "trận đánh quyết định" trong học thuyết quân sự của ông được giới quân sự chú ý và nghiên cứu.

Ông cho rằng, ta có thể đánh thắng địch trong khi chúng đông quân nhất, nhiều vũ khí nhất và ngay cả khi chúng cho là ta không thể thắng chúng, miễn là ta có cách đánh đúng và thích ứng với thực tế... Ông đã hoàn toàn đúng với học thuyết về "trận đánh quyết định" ở Điện Biên Phủ, "Điện Biên Phủ trên không" và chiến dịch Hồ Chí Minh.

1235852068_20040604001705502.jpg


Với bài báo "Tướng Giáp suýt thua trong trận đánh Điện Biên Phủ như thế nào?" đăng trên tờ "Người quan sát mới", nhà sử học Pháp Boudarel đã phản biện đại ý: Tướng Giáp đã hai lần tấn công thất bại "Con nhím Nà Sản". Lần thứ nhất, dùng chiến thuật "Đầu nhọn đuôi dài"... bị tổn thất mà không thắng. Lần thứ hai, sớm nhận ra Tướng Giáp sẽ chỉ đạo thay đổi chiến thuật, dùng cách đánh "Khoanh chặt để bắt sống con nhím", Navarre đã rút bỏ Nà Sản; ta đã giải phóng được địa bàn nhưng thất bại ý đồ chính là tiêu diệt sinh lực địch; Tướng Giáp dám "Khoanh chặt để bắt sống con nhím khổng lồ Điện Biên Phủ" là ông ta dám thế chấp sinh mạng chính trị của mình cho trận đánh, vì nếu thua thì ông sẽ mất hết, dù ông còn sống thì đó cũng chỉ là sự tồn tại.

Phải có một bản lĩnh lớn, ông mới thuyết phục được các cố vấn Trung Quốc từ bỏ ý định "Đánh nhanh, thắng nhanh, với chiến thuật đầu nhọn, đuôi dài nở hoa trong lòng địch". Và mọi người đã đồng thuận chấp nhận cách đánh của ông - cách đánh của Việt Nam - cách đánh Bác Hồ luôn căn dặn, đó là "Đánh chắc, tiến chắc; dùng chiến thuật bao vây đánh lấn theo kiểu bóc vỏ, xẻ múi, nghiền hạt". Tướng Giáp đã bắt sống con nhím khổng lồ Điện Biên Phủ, không cho nó xổng chuồng.

5. Võ Nguyên Giáp là vị tướng có một nhân cách phi thường.

Nét đẹp cao quí tập trung nhất về nhân cách của ông là tinh thần "Dĩ công vi thượng". Ông tâm niệm, làm theo lời răn dạy đó của Bác Hồ suốt cả đời mình.

Với ông, Tổ quốc, dân tộc và Đảng là trên hết, không gì thiêng liêng, cao cả hơn. Trước sóng gió trên mặt trận quân sự và cả trong cuộc sống, ông tỉnh táo lạ thường, tỉnh táo đến sáng suốt tuyệt vời. Ông luôn gạt cá nhân mình sang một bên, đặt sinh mạng chính trị của đất nước, nhân dân lên trên hết, tìm cách thu hẹp mọi bất đồng, mâu thuẫn; nhằm khắc phục những khuyết điểm, sai lầm gây nguy hại cho quốc gia, dân tộc. Ông luôn tỏ rõ là một vị tướng tài đức song toàn, có uy tín cao và tròn vẹn, là chỗ dựa tinh thần và nơi gửi gắm niềm tin của nhân dân, cán bộ, đảng viên.

Ông rất mực khiêm tốn: Công trạng của ông vô cùng to lớn nhưng ông không nói về mình, luôn đề cao công lao thành tích của nhân dân, quân đội, Đảng và Bác Hồ.

Tháng 2/1989, ông thay mặt Chính phủ tiếp kiến Thống chế Méhra - người thống lĩnh chỉ huy lực lượng không quân và các lực lượng phòng không toàn Ấn Độ dẫn đầu đoàn đại biểu quân sự cấp cao Ấn Độ sang thăm nước ta.

Thống chế Méhra không ngớt lời ca ngợi ông là một vị tướng huyền thoại. Ông cảm ơn và từ tốn đáp lời: "Nếu không có một tập thể lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, nhân dân và quân đội anh hùng, tướng lĩnh chúng ta dù tài giỏi đến đâu, cũng không thể làm nên công trạng, thành tích". Thống chế Méhra rất tâm đắc lời ông.

Tháng 11/1998, John Kennedy (con trai Tổng thống Mỹ Kennedy) cho đăng trên tạp chí George cuộc phỏng vấn ông. John Kennedy hỏi: "Ai là vị tướng người Việt giỏi nhất?". Không một phút suy nghĩ, ông trả lời ngay: "Nhân dân Việt Nam", John Kennedy rất bất ngờ và thú vị.

Học và làm theo Bác, ông rất chuộng lối sống giản gị, thanh cao. Căn phòng tiếp khách của ông đã đón tiếp không biết bao nhiêu người có địa vị xã hội cao ở nhiều nước, nhưng không có đồ vật gì sang trọng cả. Ông đi tàu hỏa về thăm quê hương. Ông đi máy bay dân dụng lên thăm Điện Biên Phủ. Ông chan hòa tình cảm với nhân dân, cán bộ, chiến sĩ rất hồn nhiên, vui vẻ.

Trên lĩnh vực quân sự, nhân cách của ông tỏa sáng rực rỡ tinh thần quyết đoán, dân chủ, nhân hậu.

Trước những quyết định khó khăn, đòi hỏi người chỉ huy phải dũng cảm, trí tuệ. Về điều này, trong lịch sử quân sự thế giới, ít người sánh kịp. Ông cho rằng, những thắng lợi trên chiến trường, xét cho cùng là do những người trực tiếp chiến đấu quyết định. Vì vậy, ông rất coi trọng phát huy dân chủ. Ông luôn chịu khó lắng nghe, chọn lọc và trân trọng những sáng kiến, cách đánh hay của cán bộ, chiến sĩ và trong nhân dân, tạo nên một khối đoàn kết vững chắc, một sức mạnh vô địch của cuộc chiến tranh toàn dân.

Ông rất nghiêm minh về kỷ luật nhưng cũng rất bao dung, nhân hậu. Ông xem cán bộ, chiến sĩ như anh em trong một đại gia đình cách mạng.

Ông hết lòng yêu thương chiến sĩ và không ít lần đã khóc trước thương vong của bộ đội, nhân dân trong chiến tranh. Đặc biệt, ông quí từng giọt máu của người lính. Ông tâm sự với đội ngũ cán bộ thuộc quyền rằng: Chiến tranh không phải là vấn đề thể diện, không được phiêu lưu, mạo hiểm, không cho phép đánh đổi bằng bất cứ giá nào. Một người chỉ huy giỏi là một người đánh thắng kẻ thù nhưng ta thương vong thấp nhất, đổ xương máu ít nhất. Sinh mạng của con người là vô giá và không gì có thể bù đắp được nỗi đau mất mát trong chiến tranh.

Dĩ công vi thượng, khiêm tốn, sống giản dị, thanh cao, quyết đoán, dân chủ và bao dung, nhân hậu -Đó là nhân cách Võ Nguyên Giáp - một thiên tài quân sự.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của vị chỉ huy tối cao Hồ Chí Minh và tập thể Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, những chiến thắng vĩ đại mà Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp góp phần làm nên, đã tác động mạnh mẽ vào dòng chảy lịch sử, làm thay đổi bộ mặt thế giới thứ ba và số phận một số nước trên thế giới, thúc đẩy sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Nhân dân Ấn Độ gọi ông là “Một con người Việt Nam đã thuộc về toàn thế giới”.

images93599_HoChiMinh.jpg


Còn khắp năm châu, ông không chỉ được tôn vinh là một vị tướng huyền thoại, mà còn là một thiên tài quân sự của mọi thời đại. Điều này, không có gì khó hiểu. Vì ông là một trong những người học trò xuất sắc nhất và là bạn chiến đấu gần gũi, thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vị Đại tướng của nhân dân, người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Và có lẽ, chính những tên gọi giản dị này lại ghi đậm trong ta những ấn tượng đẹp đẽ, sâu sắc nhất, những bài học quí giá cần được chiêm nghiệm mỗi khi ta nghĩ đến con người và sự nghiệp của ông đã hiến dâng cho nhân dân, đất nước ta.



Nghiahoa (Theo vietnamnet)​
 
Hồ Quý Ly, vị vua mang tư tưởng cải cách

Ông có hai người cô đều được vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đều trở thành mẹ nhà vua Trần, do đó ông sớm được đưa vào triều đình.
Ban đầu, vua Trần Dụ Tông cho ông làm Trưởng cục Chi hậu (1371), đến vua Trần Nghệ Tông đưa lên làm Khu mật đại sứ, lại gả con gái là công chúa Huy Ninh.
Ông là người có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế, văn hóa.
Làm việc trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu cực độ, đất nước nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, ông không chịu nổi. Ông được cử giữ chức cao nhất trong triều. Năm 1395 Thượng hoàng Trần Nghệ Tông chết, ông được cử làm Phụ chính Thái sư, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong nước.
Năm 1400, ông truất ngôi vua Trần, lập nên nhà Hồ, chấn chỉnh bộ máy quan lại.
Chưa được một năm, Hồ Quý Ly theo cách nhà Trần, nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương, làm Thái Thượng Hoàng.
Hồ Quý Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên "vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước.
Về mặt xã hội, ông thiết lập sở "Quản tế" (như ty y tế ngày nay). ở các lộ, ông đều lập một kho lúa gọi là "Thường bình", lấy tiền công mua lúa trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.
Ông thực thi lại chính sách phân phối ruộng đất, quy định trong nước chỉ trừ đại vương và trưởng công chúa, còn không người nào được phép có quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng thừa phải nộp lại cho Nhà nước. Ông còn hạn chế số nô tỳ trong các nhà quyền quý, các gia đình phải tùy theo thứ bậc mà nuôi tôi tớ nhiều hay ít, không được quá số quy định.
Hồ Quý Ly cũng là người đề xướng việc phát hành tiền giấy đầu tiên ở Việt Nam.
Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây thành, đóng thuyền chiến, v.v...
Nhìn chung, những cải cách của Hồ Quý Ly là tích cực, với mong muốn xây dựng một nước Việt Nam cường thịnh, tư tưởng đổi mới của ông cũng rất đáng trân trọng song những cải cách của ông chưa mang lại những kết quả đáng kể.
Triều Hồ thành lập chưa được mấy năm thì quân Minh tràn sang xâm lược. Hồ Quý Ly tổ chức cuộc kháng chiến, song "quân nhà Hồ trăm vạn nhưng không một lòng", Hồ Quý Ly không thể cố thủ bằng cách dựa vào thành quách, cho nên sau 6 tháng kháng cự, ông và con cháu bị giặc Minh bắt đưa về Trung Quốc. Tuy thất bại, nhưng ông là người có tinh thần tự chủ cao. Đáp lời người Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam, ông tự hào viết nên một bài thơ:
Dục vấn An Nam sự
An Nam phong tục thuần
Y quan Đường chế độ
Lễ nhạc Hán quân thần
Ngọc ủng khai tâm tửu
Kim đao chước tế lân
Niên niên nhị tam nguyệt
Đào lý nhất ban xuân
Tạm dịch:
"An Nam muốn hỏi rõ
Xin đáp: phong tục thuần
Lễ nhạc nghiêm như Hán
Y quan chẳng kém Đường
Dao vàng cá nhỏ vẩy
Bình ngọc rượu lừng hương
Mỗi độ mùa xuân tới
Mận đào nở chật vườn".
Khi còn nắm chính quyền, ông cương quyết đề cao công tác giám sát, chống thói xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thường. Với quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có trách nhiệm, ông gửi lời trách cứ trong một bài thơ:
Đài gián từ lâu tiếng lặng thinh
Triều đình để phép bị coi khinh
Tử Trừng, Trung úy sao mềm yếu?
Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình!
Với nhà vua bất tài vô dụng, ông cương quyết phế bỏ. Kẻ giáo điều theo chính thống thì cho rằng thế là thoán nghịch, nhưng nhà sử học công minh thì không thể không thừa nhận đó là việc cần làm, nếu đứng trên lập trường vì quyền lợi đất nước, chứ không vì quyền lợi của một cá nhân, một dòng họ. Đối với nhà vua bất tài mà tham quyền cố vị, ông có bài thơ Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân) viết như sau:
Cũng một duộc vua hèn
Hôn Đức và Linh Đức
Sao chẳng sớm liệu đi?
Chỉ để người nhọc sức!
 
PHAN CHÂU TRINH: “NHÀ CÁCH MẠNG HÀNG ĐẦU CỦA VIỆT NAM”

Ngày 24-3-1926, cách đây đúng 80 năm, một tin chấn động loan khắp nước: chí sĩ Phan Châu Trinh đã qua đời. Ngày 4-4 tiếp liền đó, tại Sài Gòn, đã diễn ra đám tang của ông, mà Nguyễn Ái Quốc lúc ấy đã báo cáo với Quốc tế Cộng sản là “trong lịch sử người An Nam chưa từng được chứng kiến một sự kiện to lớn như vậy bao giờ”.

Phan-Chau-Trinh.jpg


Có mấy tư liệu về số người dự đám tang Phan Châu Trinh: 30.000 người, 100.000 người, 140.000 người. Dù là con số nào thì đấy cũng là một cuộc xuống đường vĩ đại của người Sài Gòn - Chợ Lớn. Và hầu hết các tỉnh trong nước đều cử người về Sài Gòn dự tang lễ, rồi trở về địa phương mình tổ chức lễ truy điệu: thật sự đã diễn ra một quốc tang, trong toàn quốc, trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt của chủ nghĩa thực dân.

Vì sao cái chết của con người ấy đã có thể gây ra trận “động đất” dữ dội đến vậy?

Huỳnh Thúc Kháng, cùng Trần Quý Cáp là hai người đồng chí thân thiết nhất của Phan Châu Trinh, dường như đã trả lời câu hỏi đó bằng đánh giá sau đây, thoạt nghe có thể rất lạ; ông viết: “Phan Châu Trinh là nhà cách mạng đầu tiên của Việt Nam”.

Nên chú ý: ông không nói “nhà yêu nước”, cũng không nói “người chiến sĩ giải phóng dân tộc”, những danh hiệu cũng hết sức cao quý. Nhà cách mạng - khác với người yêu nước, người chiến sĩ giải phóng dân tộc - là người chủ trương không chỉ chống ngoại xâm, giành độc lập cho đất nước; nhà cách mạng là người chủ trương và thực hiện một cuộc thay đổi tận gốc xã hội, chuyển từ một xã hội này sang một xã hội khác, khác tận gốc, về cơ bản.

Phan Châu Trinh là một người như vậy. Ông là người Việt Nam đầu tiên nhận ra một cách sáng rõ, toàn diện, có hệ thống và triệt để nhất cuộc toàn cầu hóa đang diễn ra thời bấy giờ trên thế giới, cuộc toàn cầu hóa lần thứ nhất; thế giới đã thay đổi một cách căn bản, đã bước sang một thời đại khác; và Việt Nam đã thua, nước mất, dân tộc lâm vào cảnh nô lệ tàn khốc, mọi cuộc vùng dậy cứu nước đều thất bại bi thảm... chính là vì đã u mê mịt mù không hề nhìn thấy được thực tế mới to lớn đó.

Từ đó, cách đặt vấn đề của Phan Châu Trinh khác và vượt lên hẳn một tầm cao hoàn toàn mới: ông không chỉ dừng lại ở vấn đề độc lập dân tộc, ông đặt vấn đề độc lập dân tộc trong một phạm trù rộng, xa và cơ bản hơn nhiều: phát triển dân tộc, trong một thời đại đã thay đổi về cơ bản. Thậm chí còn có thể nói rõ hơn nữa: ông chủ trương đưa dân tộc lên tầm cao mới, để hội nhập cùng thế giới mới, phát triển trong thế giới mới đó. Và đấy là con đường cứu nước duy nhất, căn bản và bền vững nhất, theo ông.

Vậy nên, bài học đầu tiên của Phan Châu Trinh là bài học về một tầm nhìn chiến lược, chiến lược thời đại. Chính từ đó ông chủ trương một cuộc cách mạng xã hội chứ không chỉ là một cuộc chiến đấu chống ngoại xâm riêng rẽ, cụ thể.

Tình thế của chúng ta ngày nay đương nhiên đã khác rất xa thời Phan Châu Trinh. Nhưng lại vẫn có một điều tương tự và là rất cơ bản: chúng ta cũng lại đang đứng trước một cuộc toàn cầu hóa, cuộc toàn cầu hóa lần thứ hai. Lại một lần nữa đặt ra với chúng ta vấn đề tầm nhìn thời đại.

Cũng từ đó, bài học thứ hai: vì vô cùng yêu nước, vô cùng đau đáu với số phận của dân tộc nên không hề mị dân, không “tự hào” hão một cách mù quáng, tự đánh lừa mình và đánh lừa quần chúng, Phan Châu Trinh là người dám nhìn thẳng vào những yếu kém chết người của dân tộc, hết sức quyết liệt, triệt để.

Và quan trọng hơn nữa, ông đi tìm những nhược điểm chết người đó ở chính chỗ cơ bản nhất của xã hội.

Về điều này, Hoàng Xuân Hãn đã có phân tích rất sâu sắc; ông nói: “Sau khi phong trào Cần Vương bị đàn áp tan rã hoàn toàn, Phan Châu Trinh đã đi sâu nghiên cứu những nhược điểm cơ bản về văn hóa xã hội Việt Nam, cụ thấy rõ nguyên nhân sâu xa đưa đến mất nước, bị nô lệ ngày càng khốc liệt, là sự thua kém của xã hội ta so với phương Tây. Phan Châu Trinh đã đưa ra đường lối mới mẻ để tìm lối thoát cho con đường cứu nước”.

Phong trào của Phan Châu Trinh được gọi là phong trào Duy tân, đổi mới, và trước hết, cơ bản nhất là đổi mới về văn hóa.


Hơn 60 trường được lập ra ở Quảng Nam, hoàn toàn dạy và học theo lối mới, mạnh mẽ Âu hóa, chủ trương thực học triệt để, và nhằm đào tạo nên những con người dám và biết tư duy tự do, sống tự do, trong một xã hội tự do...

Chính cuộc gieo tri thức mới vào quảng đại quần chúng đó, chỉ trong không đầy năm năm, từ năm 1903 đến năm 1908, đã tạo nên cuộc Trung kỳ dân biến long trời lở đất, làm rung chuyển cả chế độ thống trị thực dân ở Đông Dương, chấn động cả sang chính quốc Pháp, là một báo hiệu sớm của công cuộc Cách mạng Tháng Tám về sau này.

Một đỉnh núi cao thì càng đi ra xa càng thấy rõ hơn chiều cao của nó, và những dòng sông bắt nguồn từ đỉnh núi như vậy sẽ chảy đi rất xa. Những tư tưởng cơ bản của Phan Châu Trinh còn nóng hổi với hôm nay, thậm chí càng sống dậy sinh động hơn trong những ngày này, khi chúng ta lại một lần nữa đứng trước những thách thức mới của phát triển.

Tầm nhìn xa mang tính thời đại tỉnh táo, sáng suốt đến kinh ngạc của ông, sự dũng cảm, quyết liệt của ông trong tự vấn dân tộc, tính triệt để của ông trong chủ trương giải quyết tận gốc vấn đề cơ bản nhất của phát triển dân tộc - vấn đề nền tảng văn hóa, chủ trương “cách mạng tân văn hóa của ông”... Nhà sử học Pháp Daniel Héméry quả đã nói rất đúng: “...Những nan đề do Phan Châu Trinh xác định từ đầu thế kỷ XX, các thế hệ người Việt Nam còn phải đảm nhận lâu dài”.

Sưu tầm
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top