• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Việt Nam thời dựng nước

ButNghien

Học tập suốt đời!
Thành viên BQT
Xu
46
Nguồn : Nhà xuất bản Thanh Niên.

Nước Việt Nam – Quốc hiệu.

Thời Hồng Bàng ( 2879- 258 trước công nguyên) nước ta gọi là Văn Lang. Thời Thục An Dương Vương ( 257- 207 trước công nguyên) gọi là Âu Lạc. Dưới thời Bắc thuộc, nhà Hán chia đất nước ta thành các quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Cuối thời Đông Hán đổi gọi là Giao Châu. Năm 544, sau khi đánh đuổi được bọn đô hộ nhà Lương, Lý Bí lên ngôi vua, tự xưng là Nam Việt đế đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Năm 602 nhà Tùy (603-617) chiếm lại nước ta đặt thành Giao Châu. Năm 622 nhà Đường ( 618- 907) đổi thành An Nam đô hộ phủ.

Năm 968 sau khi dẹp xong loạn thập nhị sứ quân nên một nước độc lập. Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là Đại Cổ Việt.

Sang thời lý, vua Lý Thánh Tông đổi là Đại Việt ( từ năm 1054)

Đến thời Nguyễn, sau đánh bại nhà Tây Sơn, thiết lập chính quyền trong cả nước, vua Gia Long đặt quốc hiệu là Việt Nam ( từ năm 1804) Năm 1838 vua Minh Mệnh định lại quốc hiệu là Đại Nam.

Sau Cách Mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 – 1945, quốc hiệu của nước ta là Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa. Miền nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước từ năm 1976 quốc hiệu của nước ta là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Diện tích Việt Nam hiện nay khoảng 329.600km2, nằm trong khoảng 8030’ độ vĩ bắc với chiều dài khoảng 1650 km, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào và Campuchia, đông và nam giáp biển Đông. Nước Việt Nam nằm ở khu vực nối liền hai đại dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, nối vùng hải đảo với địa lục châu Á. Do vị trí ngã ba đường của các trung tâm văn minh lớn, cổ xưa của nhân loại, nên Việt Nam cũng sớm là điểm giao lưu của những nền văn minh đó là nơi tụ cư của nhiều tộc người khác nhau. Các phát hiện khảo cổ cho thấy Việt Nam là một trong những nơi có mặt loài người sớm nhất. Trên cơ sở cư dân bản địa sống trên đất Việt Nam và là chủ nhân của nền văn hóa đồ đồng thau rực rỡ các bộ lạc người Lạc Việt và Âu Việt, quá trình hình thành tộc người ở nước ta là một quá trình lâu dài, bao gồm nhiều đợt di cư của các tộc người tiếp theo.

Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 tộc người sinh sống, với số dân là 76.324.753 người ( kết quả điều tra đến 1-4- 1999) trong đó người Kinh chiếm 87% dân số, 53 tộc còn lại chiếm khoảng 13%. Đặc điểm nổi bật của sự phân bố dân cư của các tộc người ở nước ta là tình trạng cư trú xen kẽ nhau, nên các tộc người không có lãnh thổ rõ rẽt. Căn cứ vào ngôn ngữ, các nhà dân tộc học chia các tộc người thành 8 nhóm như sau:

1 – Việt Mường ( gồm Việt, Mường, Chứt…)

2- Tày, Thái ( gồm Tây, Nùng, Thái, Bố Y, Cao Lan, Sán Chỉ, Lào…)

3- H’Mông, Dao ( gồm H’Mông, Dao, Pà Thẻn)

4- Tạng, Miến ( gồm Hà Nhi, Lô Lô, Xá…)

5 Hán ( gồm Hoa, Sán Dìu)

6- Môn, Khơ Me ( Khơ mú, Kháng, Xinh Mun, Hơ rê, Xơ đăng, Bana, K’ho, Mạ, Rơ măm, Khơ me)

7- Mã Lai, Đa đảo ( gồm Chăm, Giơ rai, Ê đê, Ranglai)

8 – Hỗn hợp Nam Á ( gồm La chỉ, Laha, Pu péo…)
 
Truyền Thuyết Kinh Dương Vương và Hồng Bàng Thị.

(2879- 258 trước công nguyên)

Theo Truyền thuyết thì thủy tổ dân tộc ta là Kinh Dương Vương, hiện còn mộ tại làng An Lữ, Thuận Thành , Bắc Ninh.

Nguyên Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Linh ( Hồ Nam, Trung Quốc) đóng lại đó rồi lấy con gái bà Vũ Tiên, sau đó sinh được một người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục. Sau Đến Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc và phong Vương. Kinh Dương Vương là vua vào quãng năm Nhâm Tuất( 2879 trước công nguyên) và lấy con gái Thần Long là vua hồ Động Đình sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân, sau lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, trăm trứng ấy nở thành trăm con trai. Một ngày, Long Quân nói với Âu Cơ rằng : Ta là giống Rồng, mình là giống Tiên , thủy hỏa khắc nhau, không ở cùng nhau được. Hai người bèn chia con ra mà ở riêng. Năm chục người theo mẹ về núi, năm mươi con theo cha về biển, chia nhau thống trị các xứ đó, đó là thủy tổ của các nhóm Bách Việt. Người con trưởng trong số các con theo mẹ về lên Phong Sơn, được tôn là vua gọi là Hùng Vương.

Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu ( Việt Trì, Phú Thọ) đặt các tướng văn là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính.

Thời ấy người Văn Lang lấy vỏ cây làm áo, bện cỏ làm chiếu, lấy nước nhựa cây làm rượu, lấy bột cây quang lang làm cơm ( cây đao, thân to như cây cọ, thân cây có bột ăn được) lấy gầm thú ngư trùng làm mắm, lấy rễ gừng làm muối. Cây bằng dao, cắt bằng lửa, làm cơm nếp bằng ống tre, gác cây làm nhà sàn, cắt tóc ngắn để đi trong rừng cho tiện, khi có người chết thì lấy cối chày giã để báo tin cho hàng xóm, trai gái lấy nhau chưa dùng trầu cau mà lấy phong muối làm đầu.

Đời Hùng Vương thứ nhất, người nước Văn Lang làm nghề chài lưới, cứ hay bị thuồng luồng làm hại, vua mới bắt dân lấy chàm vẽ mình để thú dữ tưởng là đồng loại không làm hại được nữa.

Sử cũ cũng chép truyền thuyết của ta ở đằng mũi cũng hay làm hai con mắt, để thủy quái ở sông, bể trông thấy mà sợ.

Thông qua những truyền thuyết trong 15 bộ lạc, bộ lạc Văn Lang mạnh nhất. Bộ lạc này có thủ lĩnh tài ba, thu phục được các bộ lạc khác và trở thành thủ lĩnh liên minh các bộ lạc rồi chuyển thành người cầm đầu cả 15 bộ lạc. Vị thủ lĩnh lỗi lạc ấy gọi là vua Hùng, cha truyền con nối.

Cả nước ấy chia ra 15 bộ. Đứng đầu mỗi bộ là Lạc tướng, cũng cha truyền con nối. Dưới bộ là các công xã nông thôn, đứng đầu là Bồ Chính ( già làng). Mỗi công xã có một ngôi nhà chung để làm nơi hội họp và sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng.

Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng đơn giản, mới hình thành nhưng đã kết được lòng người. Từ tình cảm cộng đồng đến ý thức cộng đồng. Họ bước đầu hiểu được thiên nhiên và con người, thấy được sức mạnh của cộng đồng trong việc làm thủy lợi, trao đổi sản phẩm, và đấu tranh giữ được bản làng, đất nước.

Trong thời Hùng Vương có hai truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi trong dân gian thể hiện tinh thần này.

-Phù Đổng thiên Vương : Đời Hùng Vương thứ 6 giặc ân rất hùng mạnh, dường như không ai địch nổi kéo sang xâm lược nước Văn Lang. Thế giặc rất mạnh, quan quân không sao chống cự nổi. Nhà vua cho mời các quan trong triều để bàn kế phá giặc. Các quan tâu vua cho sứ giả đi rao tìm người tài giỏi ra giúp nước. Vua liền nghe theo kế ấy.

Lúc bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh có một nhà giàu, ở tuổi 62 mới sinh được một con trai lên ba và vẫn chưa biết nói. Cậu bé suốt ba năm chỉ nằm ngửa không tự ngồi hay đứng được.

Khi sứ giả đến làng rao cầu hiền, cậu bé thốt nhiên nói được và xin với cha cho mời sứ giả nhà vua vào hỏi chuyện. Khi sứ giả đến, cậu bé xin sứ giả về tâu vua đúc cho cậu một con ngựa sắt, một thanh gươm, một cái nón sắt rồi cậu sẽ ra quân giết giặc.

Từ khi sứ giả nhà vua về, cậu bé mỗi ngày một lớn, ăn khỏe lạ thường. Ngày tháng qua, cậu lớn phổng lên đến nỗi phải làm nhà riêng để ở.

Khi giặc Ân kéo đến núi Châu Sơn ( Tiên Du , Bắc Ninh) thì sứ giả đem kiếm, ngựa dâng cho cậu. Cậu vươn vai đứng dậy rồi nhảy lên ngựa mà ra roi. Ngựa chạy đến đâu, miệng phun ra lửa đến đó. Trên mình ngựa, cậu xông vào đội ngũ giặc, sải kiếm chém giặc như chém chuối. Kiếm gẫy, cậu nhổ cả cụm tre mà đánh. Không đương nổi sức mạnh thần thông của chàng trai Phù Đổng, quân giặc còn lại quỳ xuống xin hàng.

Phát được giặc Ân rồi, người anh hùng làng Phù Đổng đi đến núi Sóc Sơn thì biết mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau được phong là Xung thiên thần Vương. Hàng năm cứ đến mùng 8 tháng tư, làng Phù Đổng( còn gọi làng gióng) mở hội vui lớn, tục gọi là hội Gióng.

- Sơn Tinh Thủy Tinh.

Vua Hùng thứ 18 có một người con gái tên là Mỵ Nương, sắc đẹp tuyệt trần. Mỵ
Nương được vua cha yêu thương rất mực, Nhà vua muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng.Sơn Tinh và Thủy Tinh đều muốn hỏi nàng làm vợ. Sơn Tinh người ở núi Ba Vì, tuấn tú và tải giỏi khác thường. Chàng chỉ tay về phía đông, phía dông biến thành đồng lúa xanh, chỉ tay về phía tây, phía tây mọc lên dãy núi, còn Thủy Tinh ở mãi tận biển Đông cũng tài giỏi không kém: gọi gió, gió đến, hô mưa, mưa về. Một người là chúa miền non cao, còn người kia là chúa của vùng nước thẳm, đều xứng đáng được làm rể vua Hùng.

Vua Hùng băn khoăn không biết nhận lời ai, bèn phán rằng.

Hai người đều vừa ý ta cả nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho ai? Vậy, ngày mai, nếu ai dẫn lễ cưới đến đây trước: một trăm ván cơm nếp, hai trăm dệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao thì được rước dâu về.

Sớm hôm sau Sơn Tinh đem lễ vật đến trước và được phép đưa dâu về núi.

Thủy Tinh đến sau, không lấy được Mỵ Nương đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo, một hai đòi cướp lại Mỵ Nương. Thủy Tinh còn hô mưa gọi gió làm thành dông, bão, sấm sét, rung chuyển trời đất, dân nước sông cuồn cuộn đến đánh Sơn Tinh. Nước ngập lúa, ngập đồng, ngập cả nhà cửa.

Sơn Tinh không hề nao núng dùng phép bốc quả đồi, tùng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ. Nước dân cao lên bao nhiêu. Sơn Tinh lại cho núi dâng cao lên bấy nhiêu, Sơn Tinh lại dùng sấm sét đánh xuống, Thủy Tinh cuối cùng phải chịu thua rút quân về. Từ đó Sơn Tinh và Thủy Tinh thù nhau. Không năm nào Thủy Tinh không làm mưa làm bão, dân nước lên đánh Sơn Tinh, gây nên nạn lụt lội khắp vùng đồng bằng và trung du nước ta. Nhưng lần nào Thủy Tinh cũng phải chịu thua.

Câu chuyện có ý nghĩa này phản ánh một thực tế, hàng năm vào tháng 6 và tháng 7. Bắc Bộ bị lũ lụt, nước tràn vào đồng áng, tàn phá mùa màng, khiến nhân dân đắp đê ngăn lũ vô cùng vất vả.
 
Nhà Thục Và Nước âu Lạc

Theo truyền thuyết và sử cũ thì An Dương Vương tên là Thục Phán là cháu vua nước Thục. Nước Thục này không phải là nước Thục ở vùng Tứ Xuyên đời Chiến Quốc ( Trung Quốc) mà là một bộ tộc đã tới vùng Bắc Bộ từ lâu, xen kẽ với người Lạc Việt và nguòi Thái. Tục gọi là người Âu Việt. Chuyện xưa kể rằng Vua Hùng Vương có người con gái nhan sắc tuyệt vời tên là Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ sang cầu hôn. Vua Hùng Vương muốn gả nhưng Lạc hầu can rằng : Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. Không lấy được Mỵ Nương, Thục Vương căm giận, di chúc cho con cháu đời sau thế nào cũng phải diệt nước Văn Lang của Vua Hùng. Đến đời cháu là Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Vua Hùng có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Vua Hùng Vương nói: ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo quân đến đánh nước Văn Lang, vua Hùng còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất.

Năm Giáp Thìn ( 257 trước công nguyên). Thục Phán dẹp yên mọi bề, xưng là An Dương Vương , cải quốc hiệu là Âu Lạc ( hai tên nước Âu Việt và Lạc Việt ghép lại) đóng đô ở Phong Châu( Bạch Hạc, Phú Thọ).
 
An Dương Vương Dẹp Tần.

Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc thì Doanh Chính nước Tần đã kết thúc cuộc hỗn chiến đời Chiến Quốc, thống nhất nước Trung Hoa, lập nên một nhà nước lớn mạnh. Để thỏa mãn tham vọn mở mang lãnh thổ. Doanh Chính huy động lưc lượng to lớn phát động cuộc chiến tranh xâm lược Bách Việt.

Năm 218 trước công nguyên. Doanh Chính huy động 50 vạn quân chia làm 5 đạo đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất Việt, đạo quân thứ nhất của Tần phải đào con kênh nối sông Lương ( vùng Hùng An Trung Quốc ngày nay) để chở lương thực. Nhờ vậy, đạo quân chủ lực của quân Tần do viên tướng lừng anh Đồ Thư thống lĩnh vào được đất Tây Âu, giết tù trưởng, chiếm đất rồi tiến vào đất Lạc Việt. Nhân dân Lạc Việt biết không thể đương nổi quân Tần nên bỏ vào rừng để bảo toàn lực lượng. Thục Phán được các lạc tướng suy tôn là lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Bởi vậy, khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào Lạc Việt, chúng gặp khó khăn chồng chất. Quân địch tiến đến đâu, người Việt làm vườn không nhà trống và trốn vào rừng đến đó. Chẳng mấy chốc, quân Tần lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã mệt mỏi, chán nản và khổ sở vì thiếu lương, khí hậu độc địa, thì người Việt, do Thục Phán làm tướng, mới bắt đầu xuất trận. Chính chủ tướng Đồ Thư trong một trận giáp chiến đã bị bắn hạ. Mất chủ tướng, quân địch hoang mang mở đường tháo chạy về nước. Như vậy, sau gần 10 năm lãnh đạo nhân dân Âu Việt – Lạc Việt kháng chiến chống quân Tần thắng lợi, Thục Phán đã thực sự nắm trọn uy quyền tuyệt đối cả về quân sự lẫn chính trị, khiến cho uy tín của của Thục Vương càng được củng cố nâng cao. Từ vị trí ấy, Thục Vương có điều kiện thi thố tài năng, xây dựng đất nước Âu Lạc hùng mạnh.
 
Thục An Dương Xây Thành Cổ Loa, Công Trình Sáng Tạo Vĩ đại

Sau chiến công vĩ đại đánh thắng 50 vạn quân xâm lược nhà Tần, Thục Vương quyết định xây thành Cổ Loa.

Tục truyền rằng Thục An Dương Vương xây thành, nhiều lần nhưng đều đổ. Sau nhờ có thần Kim Quy hiện lên, bò quanh bò lại nhiều vòng dưới chân thành, Thục An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân rùa vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa. Sự thực về truyền thuyết đó như thế nào?

Thời ấy, tổ tiên ta chưa có gạch nung. Bởi vậy thành Cổ Loa được xây bằng chính đất địa phương. Thành có 9 vòng, chu vi vòng ngoài 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1,6km. Diện tích thành trung tâm lên tới 2km2. Thành được xây theo phương pháp đào đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, thẳng đứng, mặt trong xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4 đến 5 mét, có chỗ 8 đến 12m, chân lũy rộng 20 đến 30m, mặt lũy rộng 6 đến 12m. Khối lượng đất đào đắp ước tính tới 2,2 triệu mét khối. Xem vậy công trình Cổ Loa thật đồ sộ, trong khi khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu. Chính vì vậy, việc xây dựng thành Cổ Loa cực kỳ có khăn. Thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Nhưng điều đáng tự hào là cuối cùng thành đã đứng vững. Thục An Dương Vương biết dựa vào kinh nghiệm thực tế để gia cố nền móng khắc phục khó khăn. Vết chân rùa thần chính là bí mật đã được tổ tiên khám phá, xử lý. Ngày nay, khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học thấy rõ chân thành được chẹn một lớp đá tảng. Hòn nhỏ có đường kính 15cm, hòn lớn gần 60km. Cần bao nhiêu đá để sử dụng cho công trình? Kỹ thuật xếp đá? Đây quả là một kỳ công.

Thành Cổ Loa chẳng những là công trình đồ sộ. cổ nhất của dân tộc mà còn là công trình hoàn bị về mặt quân sự. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới kênh, mương dày đặc, tạo thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng một căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thủa ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê, Hoàng Giang thông với sông Cầu ở Thổ Hà, Quả Cảm ( Bắc Ninh) thông với sông Hồng ở Vĩnh Thanh ( Đông Anh). Bởi vậy, sau khi xây thành. Thục An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng thuyền chiến. Với thuật đi sông vượt bể vốn là sở trường của người Lạc Việt, chẳng mấy chốc, các đầm phá quanh thành Cổ Loa biến thành quân cảng. Rồi nhân dân được điều tới khai phá vùng rừng đa ( Gia Lâm ), rừng mơ ( Mai Lâm ), rừng dâu da
( Du Lâm). Thành ruộng, những hiệp thợ chuyên rèn vũ khí cũng xuất hiện. Bên côn, kiếm, giáo, mác đủ loại, bàn tay sáng tạo của cha ông đã chế tạo nỏ liên châu, mỗi phát bắn hàng chục mũi tên. Cũng tại Cổ Loa, kỹ thuật đúc đồng cổ đã được vua Thục khuyến khích. Hàng chục vạn mũi tên đồng những mũi tên lợi hại, có độ chính xác cao, kỹ thuật tinh vi, dùng mỏ liên châu đã được bàn tay thợ tài hoa sản xuất tại đây.

Với vị trí thuận lợi ấy, với cách bố trí thành có 9 lớp xoáy trôn ốc, 18 ụ gò cao nhô hẳn ra chân lũy để có thể từ trên cao bắn xuống, với vũ khí nỏ thần và những mũi thê đồng lợi hại, sức mạnh quân sự tổng hợp của Cổ Loa thời ấy thật đáng sợ.

Thành Cổ Loa là sự đúc kết tuyệt vời trí tuệ của cha ông, là công trình sáng tạo kỳ vĩ của dân tộc.
 
Triệu đà An Dương Vương Với Truyền Thuyết Nỏ Thần.

Nhà Tần suy yếu, xã hội Trung Quốc bước vào thời kỳ loạn lạc. Ở các nơi, bọn phong kiến cát cứ nổi lên tranh giành ngôi thứ, đánh lẫn nhau. Ở quận Nam Hải ( vùng Quảng Đông) có quan úy là Nhâm Ngao muốn đem quân đánh chiếm nước Âu Lạc của Thục An Dương Vương. Nhưng âm mưu đó chưa thực hiện được thì Nhâm Ngao chết. Khi sắp mất, Nhâm Ngao giao binh quyền lại cho Triệu Đà huy động binh mã, toan chiếm lấy Âu Lạc nhưng đều thất bại. Vì An Dương Vương có thành Cổ Loa kiên cố, lại có nỏ thần ( Liên châu) lợi hại nên quân Triệu Đà đông, thế Triệu Đà mạnh mà vẫn phải kinh hoàng nhìn quân mình phơi xác dưới thành Âu Lạc. Triệu Đà dùng mưu để giả hòa hiếu, cho con trai là Trọng Thủy sang làm rể An Dương Vương để mưu phá nỏ thần.
 
Mỵ Châu – Trọng Thủy.

Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải muốn cướp nước Âu Lạc đã bao lần đem quân sang đánh nhưng đều đại bại. Triệu Đà thấy dùng binh không xong bèn xin giảng hòa với An Dương Vương và sai con trai là Trọng Thủy sang cầu thần. Trong những ngày đi lại để giả kết tình hòa hiếu. Trọng Thủy được gặp Mỵ Châu có sắc đẹp tuyệt vời, con gái yêu của An Dương Vương. Trọng Thủy đem lòng yêu Mỵ Châu. Mỵ Châu cũng dần dần đem lòng yêu chàng tha thiết, hai người quấn quýt bên nhau, không chỗ nào trong Loa thành Mỵ Châu không dẫn chàng đến xem. An Dương Vương thấy đôi trẻ yêu nhau rất mừng, liền gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy.

Một lần, trong câu chuyện tâm tình, Trọng Thủy hỏi vợ.

Nàng ơi ! Bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được?

Mỵ Châu thành thật đáp.

Phương pháp, cách thức, kỹ thuật là vô cùng quan trọng quyết định đến thành công, kỹ thuật chế tạo nỏ Liên Châu cũng vậy.

Âu Lạc chỉ có thành cao, hào sâu, lại còn có nỏ Liên Châu, bắn một phát hàng loạt mũi tên bay đi có thể giết chết nhiều quân địch.

Trọng Thủy làm bộ ngạc nhiên vờ mới như nghe nói đến nỏ Liên Châu. Chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Mỵ Châu không ngần ngại chạy đi lấy nỏ đem cho chồng xem. Nàng lại còn chỉ cách thức bắn, lối vót tên, cách bịt đồng cặn kẽ. Trọng Thủy chăm chú nghe, nhìn khuôn khổ cái nỏ thật lâu rồi đưa cho vợ cất đi.

Sau đó, Trọng Thủy xin phép An Dương Vương về thăm cha và thuật lại cho Triệu Đà cách chế tạo nỏ Liên Châu.

Triệu Đà mừng rỡ reo lên.

Phen này nước Âu Lạc về tất tay ta.

Lợi dụng mối tình trong trắng của Mỵ Châu và sự lơ là mất cảnh giác của An Dương Vương, cha con Triệu Đà đã nắm được bí mật của thành Cổ Loa và chế tạo hàng loạt nỏ Liên Châu trang bị cho quân mình rồi cất quân sang đánh Âu Lạc.

An Dương Vương ỷ có vũ khí lợi hại, chủ quan không phòng bị. Vì vậy, khi Triệu Đà trong tay có nỏ Liên Châu đem quân ồ ạt tiến đánh, quân Âu Lạc bị thua.

Từ mối tình trong trắng bị lợi dụng của Mỵ Châu đã dẫn đến kết cục bi thảm. Triệu Đà chiếm được nước Âu Lạc.
 
Thục An Dương Vương Bãi Chức Tướng Quân Cao Lỗ.

Chuyện xưa kể rằng.

Một lần Thục An Dương Vương hỏi tướng quân Cao Lỗ, người thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.

Mấy năm nay nhà Triệu với Âu Lạc giao hảo thuận hòa. Nay con trai họ là Trọng Thủy muốn cầu hôn với Mỵ Châu, ông nghĩ thế nào? Riêng ta muốn chấp nhận lời cầu hôn cốt để hòa hiếu, tránh nạn binh đao?

Cao Lỗ suy nghĩ hồi lâu rồi tâu:

Việc này hệ trọng lắm, xin Vương Thượng cho nghĩ ba ngày.

Về nhà, Cao Lỗ suy nghĩ và băn khoăn lắm. Ý An Dương Vương đã rõ, nếu không chấp thuận, có thể bị bãi chức. Nếu đồng tình thì vận nước có nguy cơ.

Mấy hôm sau, vào chầu vua. Cao Lỗ tâu.

Xưa nay chưa thấy kẻ bại trận lại xin cho con trai ở gửi rể. Chẳng qua họ muốn biết cách bố phòng của Loa thành mà thôi. Việc ngàn lần không nên.

Thục An Dương Vương bỗng nổi giận.

Nhà Triệu đánh mãi Âu Lạc không thắng, muốn mượn chuyện cầu hôn để xí xóa hiềm khích, ta lẽ nào không thuận? Ông già rồi, ta cho ông về nghỉ.

Cao Lỗ không ngạc nhiên. Vốn điềm đạm, ông chỉ nói.

Việc đúng sai còn có vầng nhật nguyệt soi sáng, thần không ân hận khi nói điều phải.

Vì không nghe lời can của Cao Lỗ. An Dương Vương đã mắc mưu giặc khiến cho vận nước tan tành.

Lấy được nước Âu Lạc, nhà Triệu sáp nhập quận Hải Nam với Âu Lạc thành nước Nam Việt.

Vốn là người quỷ quyệt, lại rút được nhiều kinh nghiệm trong việc thống trị người Nam Việt, cho nên Triệu Đà đã áp dụng chính sách hiểm độc gọi là “Dĩ di công di”, tức là dùng người Việt trị người Việt. Triệu Đà vẫn giữ nguyên quyền vị cho các lạc tướng, dùng họ để cai trị nhân dân Âu Lạc. Triệu Đà chỉ đặt một số ít quan lại và một số quân đồn thú để kiềm chế các lạc tướng và đốc thúc họ nộp phú cống, mục tiêu chủ yếu của cuộc xâm lược lúc đó.
 
Nhà Triệu Và Nước Nam Việt.

Năm 207 – 111 trước công nguyên.

Nhà Triệu được lập từ năm 207, đến năm 111 trước công nguyên thì bị nhà Tây Hán thôn tính, trải qua năm đời vua.

Triệu Vũ Vương ( 207- 137 trước công nguyên)

Triệu Văn Vương ( 137 – 125 trước công nguyên)

Triệu Minh Vương ( 125 – 113 trước công nguyên)

Triệu Ai Vương ( 113 -112 trước công nguyên)

Triệu Dương Vương ( 112 – 111 trước công nguyên)

Năm 111 trước công nguyên nhà Triệu mới nhất nhưng từ năm 113 nội tình nhà Triệu đã rất rối ren. Lúc đó, vua Hán cho An quốc thiếu Quý sang dụ Nam Việt về chầu. Thiếu Quý nguyên là tình nhân của Cù thị ( hoàng hậu của vua Minh Vương) nên họ tư thông với nhau và dụ dỗ Triệu Ai Vương dâng nước Nam Việt cho nhà Hán. Cù thị và vua Ai Vương, tôn Kiến Đức, con trưởng của Minh Vương lên làm vua, hiệu là Triệu Dương Vương. Dương Vương làm vua được một năm thì bị vua Vũ Đế nhà Hán sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem 5 đạo binh sang đánh lấy Nam Việt. Tể tướng Lữ Gia chống không nổi bèn đem vua Dương Vương chạy chốn. Quân Hán đuổi theo bắt được, vua tôi đều bị hại. Nhà Hán thôn tính nước Nam Việt, đổi là Giao Chỉ bộ.
 
Nhà Nước Sau Công Nguyên Bắc Thuộc Lần Thứ Nhất

Giao Chỉ Và Tây Hán.

Năm 111 trước công nguyên năm 39 sau công nguyên.

Sau khi xâm lược Nam Việt, nhà Hán đổi thành Giao Chỉ bộ và chia làm 9 quận.

Hải Nam ( Quảng Đông)
Thượng Ngô ( Quảng Tây)
Uất Lâm ( Quảng Tây)
Hợp Phố ( Quảng Đông)
Giao Chỉ ( Bắc Bộ )
Cửu Chân ( Thanh Hóa)
Nhật Nam ( Nghệ Tĩnh)
Châu Nhai ( Đảo Nam Hải)
Đạm Nhĩ ( Đảo Hải Nam)

Nhà Hán đặt mỗi quận một viên Thái thú coi mọi việc trong quận và viên thứ sử giám sát các quận.

Ở Giao Chỉ các lạc tướng, lạc hầu vẫn được giữ nguyên và được cha truyền con nối như trước.

Đã có nhiều viên Thái thú đến cai trị các quận thuộc Âu Lạc, nhưng sách xưa nói nhiều đến Tích Quang, thái thú quận Giao Chỉ và Nhâm Diên, thái thú quận Cửu Chân, xem những viên quan này có công trong việc khai hóa, dạy dân làm điều nhân nghĩa. Đến năm Giáp Ngọ (34) Vua Quang Vũ nhà Hán sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Dưới ách đô hộ của thái thú Tô Định, gáng nặng thuế khóa cống nạp đè nặng lên vai người dân Giao Chỉ. Ở miền rừng núi người dân phải đi tìm chim thú lạ để cống nạp. Ở biển nhiều người phải mất xác vì tìm đồi mồi, ngọc châu. Trông vào ruộng nương thì bọn người Trung Nguyên kéo sang, ỷ vào thế lực của quận trị, đô úy trị cướp đoạt mất tất cả những nơi màu mỡ nhất. Khắp Giao Chỉ quằn quại trong cảnh hãm hiếp, hà hiếp, giết chóc dân lành.
 
Đấu Tranh Giành độc Lập Hai Bà Trưng Khởi Nghiệp ( 40 – 43)

May mắn thay, đến những năm đầu công nguyên từ miền đất Mê Linh đã xuất hiện hai người con gái kiệt xuất Trưng Trắc và Trưng Nhị và ở Chu Diên là chành trai thi Sách dũng mãnh. Bởi thế, mùa xuân năm ấy, khi mùa săn ở Mê Linh bắt đầu, quan lạc tướng Chu Diên đã cho con trai là thi Sách dẫn theo một toán thân binh tới Mê Linh để kết thân với họ Trưng. Ý quan lạc tướng Chu Diên đã rõ, hai miền đất Mê Linh và Chu Diên liên kết được với nhau thì chẳng phải chỉ tốt lành cho chuyện nhân duyên của đôi trẻ Thi Sách – Trưng Trắc mà sức mạnh của người Việt sẽ được nhân lên. Sức mạnh ấy có thể lay chuyển tình thế, lật đổ ách đô hộ của nhà Hán, khôi phục lại nước cũ của người Việt. Ít lâu sau, trong niềm hoan hỉ của mọi người. Trưng Trắc đã cùng thi Sách kết nghĩa vợ chồng. Hôn lễ vẫn theo đúng lệ cũ của người Việt, vợ chồng tuy thành thân nhưng người nào vẫn ở lại đất của người ấy.

Tô Định giật mình trước cuộc hôn nhân của nữ chủ đất Mê Linh với con trai lạc tướng Chu Diên. Bởi hắn biết rõ, đằng sau cuộc hôn lễ là sự liên kết thế lực giữa hai miền đất lớn của người Việt. Sự liên kết ấy đang nhân bội sức mạnh chống lại nền đô hộ của nhà Hán. Linh cảm thấy trước một cuộc biến sẽ xảy ra mà cội nguồn của nó từ đất Mê Linh, Tô Định hoảng hốt tìm cách triệt phá vây cánh của Trưng Trắc bằng cách đem đại binh đột ngột kéo về Chu Diên, bắt giết thi Sách, xem như đòn trấn áp phủ đầu của hắn.

Tin dữ từ Chu Diên đưa tới khiến Trưng Trắc đau đớn. Trưng Trắc ra lệnh nổi trống đồng họp binh quyết trả thù cho chồng, rửa nhục cho nước. Nghe tiếng trống ầm ào nổi lên, dân Mê Linh cung nỏ, dao búa, khiên mộc, giáo lao trong tay cuồn cuộn đổ về nhà làng. Trên bành voi cao, nữ chủ tướng Mê Linh mặc giáp phục rực rỡ. Dân Mê Linh trông thấy nữ chủ tướng đẹp đẽ, oai phong lẫm liệt thì hò reo dậy đất, ào ào bám chân voi, theo chủ tướng mà xốc tới. Trước khí thế ngút trời của đoàn quân khởi nghĩa, tòa đô úy trị của nhà Hán trên đất Mê Linh phút chốc đã tan tành. Dân Mê Linh đạp bằng dinh lũy giặc tiến xuống Luy Lâu. Trong đoàn quân trẩy đi phá quận trị Giao Chỉ của nhà Hán, ngày càng có thêm nhiều đoàn quân từ các nơi đổ về. Thành Duy Lâu cũng không đương nổi cuộc công phá của một biển người ào ào xung sát, dũng mãnh theo hiệu trống đồng của Trưng Trắc, Trưng Nhị. Tô Định kinh hoàng cao chạy xa bay về Nam Hải chịu tội với vua Hán. Tin thắng trận dồn dập bay đi. Nỗi vui mừng khiến cho người dân Việt nhiều đêm liền không ngủ. Trải qua hàng chục đời, nay đất nước của vua Hùng mới được khôi phục, nợ nước thù nhà của chủ tướng Mê Linh đã được trả. Trai gái đồng rìu, giáo sắc nắm chắc trong tay, những chiếc lông chim cắm ngất ngưởng trên đầu, bộ áo lông chim xòe rộng theo nhịp trống đồng dồn dập như không bao giờ dứt. Tin thắng trận bay đi. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cũng nổi lên theo về với Hai Bà Trưng. Đất nước sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng được cả nước tôn lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Những nữ thủ lĩnh, nữ nam cừ súy được phong các tướng lĩnh rồi người nào trở về đất ấy dốc sức cùng xây dựng cuộc đời mới.

Trưng nữ vương quyết định miễn hẳn thuế má cho thiên hạ trong hai năm.

Năm Tân Sửu ( 41) vua Hán sai Mã Viện làm tướng quân, Lưu Long làm phó tướng cùng với các quan lâu thuyền tướng quân là Đoàn Chí đem 20 vạn tinh binh kéo sang đánh Trưng Vương.

Một trận quyết chiến tối sầm cả đất trời giữa 20 vạn quân Mã Viện với dân binh các làng chạ do Trưng Vương thống suất đã diễn ra ở Lãng Bạc,( từ vùng Đông Triều – Quảng Ninh đến Yên Phong – Bắc Ninh ngày nay) quân Mã Viện đóng sẵn trên các triền đất cao giữa vùng Lãng Bạc lầy lội chuẩn bị tiến công Mê Linh thì bị Trưng Vương thu quân về giữ Cấm Khê (Vùng Thạch Thất – Quốc Oai Hà Tây ngày nay). Mã Viện lại kéo tới, một loạt trận huyết chiến nữa lại nổ ra, máu chảy đỏ sông Hồng, sông Đáy. Hơn 2 vạn người việt nữa lại nằm xuống tại đây. Chiến trường chính chống lại cuộc đàn áp man rợ của Mã Viện là 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân, tổng dân số mới có 91 vạn cả vạn người Việt đã bị giết và bị bắt. Quyết chống giặc đến cùng, sức của người Việt hầu như dốc cạn để sống mái với bọn lang sói theo ý chí của Trưng Vương. Trong một trận đánh, sau khi phóng những ngọn lao và bắn những mũi tên cuối cùng, Trưng Trắc, Trưng Nhị đã gieo mình xuống dòng sông Hát Giang. Đó là ngày mồng 6 tháng 2 năm Quý Mão ( 43)
 
Nhà đông Hán ( 25- 220)

( Bắc Thuộc Lần Thứ Hai )

Mã Viện đáng được Trưng Vương đem đất Giao Chỉ sáp nhập vào nhà Đông Hán rồi chỉnh đốn binh lượng, đem quan đi đánh dẹp các nơi, đi đến đâu xây thành đắp lũy đến đó. Mã Viện còn cho dựng cây đồng trụ ở chỗ phân chia địa giới khắc sáu chữ: “ Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” ( Cây đồng trụ đổ thì người Giao Chỉ mất nòi). Người Giao Chỉ đi qua chỗ ấy, ai cũng bỏ vào chân cột đồng trụ một hòn đá. Về sau chỗ ấy thành gò đá, đến nay không còn biết cột ấy ở chỗ nào.

Cũng như nhà Tây Hán, nhà Đông Hán gộp miền đất Âu Lạc cũ thành Châu Giao gồm 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, khoảng 50 huyện. Đứng đầu châu vẫn là thứ sử từ Trung Quốc cử sang. Thứ sử có quyền cắt đặt quan lại, điều động quân lính ở trong châu. Ở mỗi quận có chức thái thú cũng là người Hán. Bên dưới quận là các huyện. Chế độ lạc tướng cha truyền con nối của người Việt ở cấp huyện bị bãi bỏ. Thay cho các lạc tướng người Việt là những tên huyện lệnh người Hán. Luật cũ của người việt bị bãi bỏ. Dân Việt bắt buộc phải theo luật Hán. Chính quyền đô hộ đặc biệt đẩy mạnh việc di dân Hán đến ở lẫn với dân Việt, bắt dân Việt phải theo phong tục tập quán sống như người Hán. Chúng bắt dân ta học chữ Hán và tiếng Hán, truyền bá các tư tưởng “ Thần phục thiên tử” quy phục thiên triều.

Hàng năm, chúng bắt dân ta phải nộp cống nào sừng tê, ngà voi, gỗ trầm, ngọc trai, đồi mồi, san hô, kể cả hoa quả quý như vải, nhãn, dứa. Đến cả những thợ thủ công tài hoa cũng bị trở thành đồ cống.

Sử ghi: Sĩ Nhiếp mỗi năm thu hàng ngàn tấm vải cát bá, hàng trăm ngựa và nhiều thứ lâm thổ sản quý khác. Tôn Tư đã bắt hàng ngàn thợ thủ công có tài, khéo nghề tinh sảo sang xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp ( Nam Kinh).
 
Truyện Trương Trọng

Trương Trọng, người Nhật Nam ( Bình Trị Thiên, Quảng Nam) nhờ hay chữ nên được viên thái thú Nhật Nam lấy vào làm thuộc lại trong quận.

Cuối năm 78, theo lệ nhà Hán, Trương Trọng được viên thái thú cử sang kinh đô Lạc Dương ( Hà Nam) để tâu bầy công việc trong quận lên vua Hán.

Hán Minh Đế thấy Trương Trọng người thấp bé lại là dân “ man di” bèn hỏi xách mé:

Viên tiểu lại kia người quận nào?

Trương Trọng người khó chịu nhưng vẫn điềm tĩnh đáp.

Tôi là người thay mặt thái thú quận Nhật Nam vào chầu vua chứ không phải một viên tiểu lại. Bệ hạ muốn dùng người tài cán hay chỉ muốn đo xương thịt?

Bất ngờ bị đối thủ trả lời cứng cỏi lại đứng đắn vua Hán giận lắm nhưng không làm gì được.

Mấy ngày sau, nhân tết Nguyên Đán, vua mở tiệc yến. Nhận thấy trong số các quan vào chúc tết có Trương Trọng, vua Hán muốn rửa nhục bữa trước bèn hỏi Trương Trọng.

“ Nhật Nam” có nghĩa là “ phương Nam mặt trời” Ta nghe nói tất cả nhà cửa xứ ấy đều quay về phương Bắc để trông thấy mặt trời có phải không?

Thấy vua Hán kiêu ngạo tự ví mình là mặt trời, bắt mọi người phải ngưỡng mộ sùng bái. Trương Trọng quyết trả miếng. Bởi thế, trước trăm quan cùng một tâm địa cậy thế nước lớn miệt thị nước nhỏ. Trương Trọng chậm rãi đáp.

“ Nhật Nam” không phải là phía nam mặt trời. Một bậc túc nho không ai hiểu như thế. Đất Trương Nguyên ( Trung Quốc) có quận gọi là “ Vân Trung” nhưng quận ấy có ở trong mây đâu? Có quận gọi là “ Kim Thành” nhưng có phải là thành ấy xây bằng vàng đâu? Ấy là đặt tên thế thôi chứ không phải như thế. Lại nữa, ở nơi nào thì mặt trời cũng đều mọc ở đằng Đông, kẻ thất phu cũng hiểu được như thế. Còn ở xứ Nhật Nam không ai xoay nhà về phương Bắc để trông thấy mặt trời. Ngược lại, lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam, là tục lệ của dân Nhật Nam. Chẳng ai thay đổi được tục lệ đó.

Vua Hán và quần thần ngây người trước câu đối đáp rắn rỏi, mạnh mẽ của viên sứ thần có tầm vóc nhỏ mà trí tuệ lớn. Về sau Trương Trọng được vua Hán cho làm thái thú quận Kim Thành.
 
Lý Tiến Và Lý Cầm Phá Lệ

Nhìn chung, các triều đại phong kiến Trung Quốc tự xem mình là “ Thiên tử” coi dân Việt là “ man rợ” nên người Việt dẫu có học hành thông thái cũng không được trọng dụng. Ngoài trường hợp của Trương Trọng nói trên, mãi đến đời vua Linh Đế ( 168 – 189) cuối nhà Đông Hán, mới lại có người Việt, nhờ học giỏi, được cất nhắc làm thái thú quận Giao Chỉ được bổ đi làm quan bất kỳ quận nào, kể cả ở Trung Nguyên, nhưng vua Hán chỉ cho những người đỗ Mậu Tài hoặc Hiếu Liêm được làm trong sứ mà thôi. Lúc đó có người Gia Chỉ tên là Lý Cầm làm lính túc vệ trong cung khẩn thiết xin vua Hán bãi lệnh đó. Nói mãi, vua Hán cử một người Giao Chỉ đỗ Mậu Tài làm quan lệnh ở Hạ Dương, một người đỗ Hiếu Liêm làm quan ở Lục Hợp.


Thực tế đất Âu Lạc từng có những người đỗ Mậu Tài, Hiếu Liêm, làm quan nhà Hán, bác bỏ luận điểm của các nhà sử học Trung Quốc cho rằng đất Giao Chỉ từ khi Sĩ Nhiếp ( 187 – 226) sang làm thái thú, văn hóa mới phát triển, nền giáo dục mới được mở mang là không đúng.
 
Nhà đông Ngô ( 222 – 280)

Nhà Đông Hán mất, nước Trung Quốc chia làm 3 nước, Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô, đất Giao Chỉ lúc đó lại thuộc về Đông Ngô. Nhà Đông Ngô vẫn cho Nhiếp Sĩ làm thái thú.

Năm Bính Ngọ ( 226), Sĩ Nhiếp mất, con là Sĩ Huy tự xưng làm thái thú: Ngô chủ Tôn Quyền chia Giao Châu từ Hợp Phố về Bắc gọi là Quảng Châu, từ Hợp Phố về Nam gọi là Giao Châu. Sai Lữ Đại làm thứ sử Giao Châu và Trần thì sang thay Sĩ Huy làm thái thú quận Giao Chỉ. Bọn Đài Lương và Trần thì sang đến Hợp Phố thì bị Sĩ Huy đem quân ra chống giữ. Thứ sử Quảng Châu là Lữ Đại một mặt đem binh sang đánh dẹp, mặt khác cho người dụ Sĩ Huy ra hàng. Sĩ Huy đem 5 anh em ra hàng liền bị Lữ Đại bắt giết. Tôn Quyền lại hợp Quảng Châu và Giao Châu làm một và phong cho Lữ Đại làm thứ sử
 
Cuộc Khởi Nghĩa Của Triệu Thị Trinh ( 248)

Bà Triệu, Triệu Trinh Nương hay Triệu Thị Trinh đều là tên các đời sau gọi nữ anh hùng dân tộc đầu thế kỷ thứ lll. Theo dã sử. Bà Triệu sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ ( 225). Bà là em gái Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân ( Thanh Hóa). Ở đó đến nay vẫn lưu truyền nhiều truyền thuyết về thời kỳ bà chuẩn bị khởi nghĩa chống giặc Ngô. Đó là chuyện Bà Triệu thu phục được con voi trắng một ngà, chuyện “ Đá biết nói” rao truyền lời thần nhân mách bảo từ trên núi yên Quan Yên.

Có bà tướng Triệu
Vâng lệnh trời ra
Trị voi một ngà
Dựng cờ mở nước
Lệnh truyền sau trước
Theo gót Bà Vương.

Triệu Thị Trinh là người có sức khỏe, gan dạ và mưu trí. Năm 19 tuổi. Bà cùng người anh tập hợp nghĩa quân, lập căn cứ Phú Yên ( Hậu Lộc – Thanh Hóa). Đấy là một thung lũng ở giữa hai núi đá vôi, vừa gần biển lại vừa là cửa ngõ từ đồng bằng phía Bắc vào. Lúc đầu anh bà có ý can ngăn lo phận gái khó đảm nđang trọng trách, bà trả lời.

Tôi muốn cưỡi con gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá tràng kinh ở biển Đông, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không thèm cúi đầu, còng lưng làm tì thiếp người ta.

Mến mộ bà, nghĩa quân ngày đêm mài gươm luyện võ, chờ ngày nổi dậy.

Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn con lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.

Năm Mậu Thìn ( 248) nghĩa quân bắt đầu tấn công quân Ngọ. Các thành ấp của quân Ngô đều bị phá tan tành. Bọn quan cai trị, kẻ bị giết, kẻ chạy trốn hết. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa lan rộng nhanh chóng. Thứ sử Châu Giao hoảng sợ bỏ chạy mất tích. Sử sách của nhà Ngô phải thú nhận : Toàn thể Châu Giao chấn động.

Mỗi lần ra trận. Triệu Thị Ninh thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn quân xông trận, oai phong lẫm liệt. Quân Ngô kinh hồn bạt vía, đã phải thốt lên.

Hoành qua đương hổ dị
Đối diện Bà Vương nan.

Nghĩa là :

Vung giáo chống hổ dễ
Giáp mặt vua Bà khó.

Hay tin khởi nghĩa ở Cửu Chân và thứ sử Châu Giao mất tích, vua Ngô hốt hoảng phái ngay Lục Dận, một tướng từng kinh qua trận mạc, lại rất quỷ quyệt sang làm thứ sử. Lục Dận đem thêm 8.000 quân tinh nhuệ sang đàn áp. Lục Dận vừa đánh mạnh vừa đem của cái của chức tước ra dụ dỗ mua chuộc các thủ lĩnh người Việt. Một số kẻ dao động mắc mưu theo địch. Mặc dù vậy. Triệu Thị Trinh vẫn kiên cường đánh nhau với giặc không nao núng. Sau 6 tháng chống chọi vì có kẻ phản bội, bà đã hy sinh trên núi Tùng ( Hậu Lộc – Thanh Hoá, bấy giờ bà mới có 23 tuổi )

Về sau vua Lý Nam Đế khen là người trung dũng, sai lập miếu thờ, phong là : Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân. Nay ở Phú Điền ( Thanh Hóa) còn có đền thờ bà.
 
Nước Vạn Xuân độc Lập

NHÀ TIỀN LÝ ( 544 – 602)

Niên hiệu Thiên Đức

Dẹp yên cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh, nhà Ngô lấy đất Nam Hải, thượng Ngô và Uất Lâm làm Quảng Châu, đặt châu trị ở Phiên Ngung, lấy đất Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam làm Giao Châu, đặt châu trị ở Long Biên. Đất Nam Việt của nhà Triệu ngày trước thành ra Giao Châu và Quảng Châu từ đó.

Năm Ất Dậu ( 265) nhà Tấn đánh bại Ngụy, Thục, Ngô, đất Giao Châu lại thuộc về nhà Tấn. Nhà Tấn phong cho họ hàng ra trấn trị các nơi, nhưng các thân vương cứ dấy binh đánh giết lẫn nhau, làm cho anh em cốt nhục tương tàn, nước Tấn nhanh chóng suy yếu. Nhân cơ hội ấy, các nước Triệu, nước Tần, nước Yên, nước Lương, nước Hạ, nước Hán .v.v… nổi lên chiếm lấy cả vùng phía Bắc sông Trường Giang, nhà Tấn chỉ còn lại đất ở đông nam, phải dời đô về Kiến Nghiệp ( Nam Kinh ngày nay) gọi là Đông Tấn.

Năm Canh Thân ( 420), Lư Du cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía nam, nước Trung Quốc phân chia ra làm Nam Triều và Bắc Triều có nhà Ngụy, nhà Tề, nhà Chu, nối nhau làm vua. Nam Triều có nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương và nhà Trần kế nghiệp trị vì. Năm Kỷ mùi ( 479) nhà Tống mất ngôi, nhà Tề kế nghiệp, trị vì được 22 năm thì nhà Lương lại cướp ngôi nhà Tề.

Nhà Lương sai Tiêu Tư sang làm thứ sử Giao Châu. Cũng như các triều đại phong kiến Trung Quốc thưở trước, các viên quan lại nhà Lương sang cai trị Giao Châu đã áp dụng những biện pháp khắt khe, độc ác khiến dân Giao Châu cực khổ trăm bề, người người đều oán giận. Bởi vậy, năm 542. Lý Bí đã đạo dân Giao Châu nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm giữ thành Long Biên, lập nên nhà nước độc lập đầu tiên, nước Vạn Xuân.

Lý Bôn còn gọi là Lý Bí quê ở huyện Thái Bình ( nay thuộc đất Quốc Oai, Hà Tây) Bí là người Trung Quốc, lánh nạn sang nước ta từ cuối thời Tây Hán, khoảng đầu công nguyên, Trải qua 7 đời, đến Lý Bí thì dòng họ Lý đã ở Việt Nam hơn 5 thế kỷ. Chính sử Trung Quốc đều coi Lý Bí là : Giao Châu thổ nhân.

Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi ( 17 – 10 – 503). Ông là con độc nhất trong gia đình. Bố là Lý Toản, trưởng bộ lạc, mẹ là Lê Thị Oách người Ái Châu ( Thanh Hóa). Từ nhỏ Lý Bí đã tỏ rõ là cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Khi Lý Bí 5 tuổi thì cha mất, 7 tuổi mẹ lại qua đời. Cậu bé bất hạnh phải đến ở với chú ruột. Một hôm có một vị Pháp tổ thiền sư đi qua, trông thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú liền xin Lý Bí đem về chùa Linh Bảo nuôi dạy. Quả hơn mười năm đèn sách chuyên cần, lại được vị thiền sư gia công chỉ bảo. Lý Bí trở thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh kịp.Nhờ có tài văn võ kiêm toàn. Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương. Có thời kỳ Lý Bí ra làm quan cho nhà Lương, nhận chức giám quân ( kiểm soát quân sự) ở Cửu Đức, Đức Châu ( Đức Thọ, Hà Tĩnh). Nhưng do bất bình với bọn đô hộ tàn ác. Lý Bí bỏ quan về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ. Tù trưởng ở Chu Diên ( Hưng Yên ) là Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, mến tài đức Lý Bí đã đem quân nhập với đạo quân của ông. Rồi Tinh Thiều, Phạm Tu và hào kiệt các nơi cũng nổi dậy hưởng ứng.

Tháng Giêng năm Nhâm Tuất ( 542), Lý Bí khởi binh tấn công giặc. Không đương nổi sức mạnh của đoàn quân khởi nghĩa, thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ không dám chống cự, vội mang của cải, vàng bạc đút lót cho Lý Bí xin được toàn tính mạng, chạy về Trung Quốc, không đầy ba tháng, Lý Bí đã chiếm được hầu hết các quận, huyện và Thành Long Biên. Được tin Long Biên thất thủ, vua Lương lập tức hạ lệnh cho quân phản công chiếm lại. Bọn xâm lược vừa kéo sang đã bị Lý Bí cho quân mai phục đánh tan.

Đầu năm Quý Dậu ( 543) vua Lương lại huy động binh mã sang xâm lược một lần nữa. Tướng sĩ giặc khiếp sợ mà còn dùng dằng chưa dám tiến quân, thì Lý Bí đã chủ động ra quân, đón đánh giặc ở bán đảo Hợp Phố, miền cực bắc Châu Giao. Quân Lương mười phần chết bảy, tám. Tướng địch bị giết gần hết, kẻ sống sót cũng bị vua Lương bắt phải tự tử.

Tháng hai năm Giáp Tý ( 544) Lý Bí tự xưng là hoàng đế lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân ( ước muốn xã tắc truyền đến muôn đời ), đặt kinh đô ở miền cửa sông Tô Lịch ( Hà Nội) và cho dựng điện Vạn thọ làm nơi vua quan họp bàn việc nước. Triều đình gồm có hai ban văn võ. Phạm Tu được cử đứng đầu hàng quan võ. Tinh Thiều đứng đầu hàng quan văn, Triệu Túc làm thái phó, Triệu Quang Phục là tướng trẻ có tài cũng được trọng dụng.

Lý Nam Đế sai dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa ( Yên Phụ) lấy tên là chùa Khai Quốc, sau này trở thành một trung tâm phật giáo và phật học lớn của. Chùa Khai Quốc là tiền thân của chùa Trấn Quốc, trên đảo Cá Vàng ( Kim Ngư) ở Hồ Tây Hà Nội.

Việc Lý Bí đặt tên nước là Vạn Xuân, tự xưng là hoàng đế, định niên hiệu, lập một triều đình riêng ngang hàng với nước lớn phương Bắc là sự khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, sự bền vững lâu đời của đất trời phương Nam.

Triều Lý khởi nghiệp từ đây.

Đầu năm Ất Sửu ( 545), nhà Lương sau khi đàn áp những cuộc nổi dậy của nông dân Trung Quốc đã dồn sức mở cuộc tấn công xâm lược nước Vạn Xuân non trẻ nhằm chiếm lại Châu Giao. Dương Phiêu được cử làm thứ sử Châu Giao cùng với Trần Bá Tiên, một viên tướng khát máu, chia hai đường thủy bộ phối hợp cùng tiến sâu vào nước ta. Lý Nam Đế đem quân chặn đánh ở vùng Lục Đầu ( thuộc Hải Dương) nhưng không cản được giặc. Vua cho quân lui về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch ( Hà Nội). Song thành bằng đất, lũy bằng tre gỗ mới dựng nên không giữ được lâu. Quân địch hung hãn tấn công ác liệt. Thành Tô Lịch bị vỡ, lão tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế phải lui quân, ngược sông Hồng về giữ thành Gia Ninh ( ở vùng Bạch Hạc – Việt Trì – Phú Thọ) Quân Lương đuổi theo, vây hãm rồi chiếm được thành Gia Ninh. Lý Nam Đến đem quân chạy vào thành Tân Xương ( huyện Phong Châu – Phú Thọ), quân Lương lại tiến đến đuổi đánh, Lý Nam Đế yếu thế lại rút quân vào đóng ở động Khuất Lão. Được nhân dân các dân tộc ủng hộ, chỉ vài tháng sau. Lý Nam Đế đã khôi phục được lại lực lượng, quân lên tới vài vạn người, Lý Nam Đế đem quân và thuyền bè ra đóng ở hồ Điển Triệt ( thuộc xã Tứ Yên-Lập Thạch – Vĩnh Phúc. Nơi đây có con ngòi thông sông Lô với hồ, ba mặt Đông Nam, Bắc của hồ là các đồi cao, phía Tây là các đồi thấp và cách đồng trũng. Từ sông Lô chỉ có một đường đi vào phía Bắc của hồ.

Quân Lương từ Gia Ninh ngược dòng sông Lô kéo lên tấn công. Bị quân của Lý Nam Đế đánh trả quyết liệt không tiến lên được, chúng phải đóng giữa đồng trũng. Lúc này quân lính nhà Lương đã mệt mỏi, tướng lĩnh chán nản, nhưng Trần Bá Tiên vốn xảo quyệt, nhân một đêm trời mưa to gió lớn đã thúc quân vào đánh úp quân Lý Nam Đế. Lý Nam Đế lại phải lui quân vào động Khuất Lão ( Tam Nông – Phú Thọ). Anh vua là Lý Thiên Bảo cùng Lý Phật Tử ( một người trong họ) và là tướng của Lý Nam Đế đem một cánh quân lui vào Thanh Hóa. Ở động Khuất Lão, Lý Nam Đế bị đau yếu luôn nên ông trao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương, Hai năm sau, Lý Nam Đế mất vào ngày 29 tháng 3 năm Mậu Thìn ( 13 – 3 – 548)

Tưởng nhớ Lý Nam Đế, người anh hùng mở đầu nền độc lập, tự chủ của đất nước, nhân dân nhiều nơi lập đền thờ ông theo nghi lễ thờ vua. Tính riêng ở miền Bắc đã có hơn 200 đền, miếu thờ Lý Bí và các tướng của ông
 
Triệu Việt Vương ( 549 – 571)

Niên hiệu : Quang Phục


Khi được Lý Nam Đế trao toàn bộ binh quyền, Triệu Quang Phục người huyện Chu Diên (Huyện Chu Diên thuộc Hưng Yên, có Thuyết cho là vùng Đan Phượng – Hà Tây) thấy rõ lúc đó giặc còn mạnh, không thể đánh thắng ngay được nên đưa hơn 1 vạn quân từ miền núi về đồng bằng tìm cách đánh giặc. Vốn thông thuộc miền sông nước, ông đưa quân về Dạ Trạch ( Bãi Màn Trò – Hưng Yên, một vùng đồng lầy rộng mênh mông, lau sậy um tùm, ở giữa có một bãi đất cao khô ráo có thể ở được. Đường vào bãi rất khó khăn, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc, chống sào lướt nhẹ trên đám cỏ nước, theo mấy con lạch nhỏ mới tới được đại bản doanh của nghĩa quân.

Ngay khi đem quân về Dạ Trạch, Triệu Quang Phục đã nghĩ đến việc tự túc lương thực đế kháng chiến lâu dài. Ông chia quân ra làm nhiều toán : Toán chặt cây làm trại, toán chuyên đục đẽo thuyền độc mộc, toán chuyên bắt cá, toán đi săn chim, vịt trời để nuôi quân. Lương thực thiếu, Triệu Quang Phục cùng nghĩa quân ăn củ súng, khoai dại, để dành thóc gieo mạ. Khi doanh trại căn bản đã xây dựng xong cũng là lúc tướng giặc Trần Bá Tiên đánh hơi được, đem quân trùng trùng điệp điệp đến bủa vây. Nhìn đầm lầy chỉ có lau sậy, tướng giặc đặc ý nói với tả hữu.

Số phận quân Dạ Tạch đã được định liệu. Một vạn miệng ăn chen chúc trong đầm tất sẽ chết vì đói. Ta chỉ cần vây chặt mà không cần đánh.

Trần Bá Tiên chia quân lập một hệ thống đồn binh vây bọc kín khu đầm, cắt đứt liên lạc, tiếp tế giữa nghĩa quân với dân chúng. Hắn không thể ngờ được, bên trong vòng vây. Triệu Quang Phục một mặt cho quân do thám theo sát hành tung của giặc, mặt khác cho đắp bờ, khoanh bãi, tôn nền ruộng, gieo mạ để làm vụ chiêm. Hơn thế, vị tướng có tài còn nhằm trước khu đất cao ở gần sông Cái để sửa soạn làm vụ sau. Tất cả nhưng công việc này đều được tiến hành trong điều kiện thiếu thốn công cụ và sức kéo. Vì vậy, trong ngày hội xuống đồng, để làm gương cho binh sĩ, Triệu Quang Phục lúc cầm cày, khi cùng nghĩa quân thi nhau dùng đòn kéo thay trâu, không phân biệt trên dưới, tạo nên không khí phấn khởi trong sản xuất. Vì vậy, sau những ngày thiếu thốn, nghĩa quân chẳng những có đủ lương thực mà còn có thóc để dành, đủ sức quần nhau với giặc lâu dài. Theo lệnh Quang Phục, lúa quý như mệnh người, nghĩa quân vừa đánh giặc vừa thay nhau tiếp tục sản xuất.

Bao vây lâu ngày không thấy nghĩa quân chết đói, ngược lại, các đồn giặc liên tiếp bị đánh, lương thực bị cướp nên chính giặc lại lâm vào tình trạng thiếu thóc gạo trầm trọng. Giặc càng khó khăn, đêm đêm nghĩa quân đánh càng mạnh.

Sau khi Lý Nam Đế mất Triệu Quang Phục xưng hiệu là Triệu Việt Vương. Dân gian gọi ông là Dạ Trạch Vương. Đến năm Canh Ngọ ( 550), nhân nhà Lương có loạn to, thế giặc suy yếu, Triệu Việt Vương từ căn cứ Dạ Trạch, biết rõ gan ruột giặc, xuất toàn quân giao chiến, giết được tướng giặc là Dương Sàn, thu lại Kinh đô, khôi phục lại nền độc lập cho dân nước.

Như trên đã nói, khi Lý Nam Đế thất thế chạy về Khuất Lão thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng người anh trong họ là Lý Phật Tử đem quân chạy vào Cửu Chân. Bị quân Lương truy đuổi, Lý Thiên Bảo, Lý Phật Tử phải chạy sang Lào, đến đóng ở động Dã Năng, xưng là Đào Lang Vương, Lý Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về tay Lý Phật Tử.

Đến năm Đinh Sửu ( 557) Lý Phật Tử đem quân về đánh Triệu Việt Vương để giành ngôi nhà Lý, nhưng đánh không thắng. Phật Tử xin chia đất, giảng hòa. Triệu Việt Vương nghĩ tình họ Lý, cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử, Phật Tử đóng đô ở Ô Diên( làng Đại Mỗ - Từ Liêm )Triệu Việt Vương đóng đô ở Long Biên, lấy bãi Quần thần( làng thượng
Cát - Từ Liêm) làm giới hạn. Triệu Việt Vương còn gả con gái là Cải Nương cho Nhã Lang con Phật Tử để tỏ tình hòa hiếu. Nhưng Phật Tử vẫn có ý định thôn tính. Bởi vậy, Phật Tử khẩn trương chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội hành động.

Năm Tân Mão ( 571), Phật Tử phản trắc, bất ngờ đem quân đánh Triệu Việt Vương. Vì không phòng bị Triệu Việt Vương thua chạy đến cửa biển Đại Nha, đường cùng gieo mình xuống biển tự vẫn.

Dân đã lập miếu thờ tại nơi ông mất ở xã Độc Bộ, huyện Nghĩ Hưng, tỉnh Nam Định. Năm Trùng Hưng thứ nhất ( 1285), vua Trần Nhân Tông sách phong là Minh Đạo Hoàng Đế. Năm Trùng Hưng thứ 4, vua ban thêm hai chữ : Khai cơ.

Năm Hưng Long thứ 21 ( 1313) đời Trần Anh Tông, vua ban thêm bốn chữ : Thánh Liệt thần vũ.
 
Hậu Lý Nam đế ( 571 – 602)

Đánh thắng Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử xưng đế hiệu, đóng đô ở Phong Châu, sai Lý Đại Quyền giữ Long Biên và Lý Phổ Định giữ Ô Diên.

Trong lúc Lý Phật Tử làm vua ở Nam Việt thì vua Văn Đế nhà Tùy đã dẹp yên Nam – Bắc triều, thống nhất nước Trung Hoa, quy giang sơn về một mối. Năm Nhâm Tuất ( 602) vua Tùy sai danh tướng Lưu Phương đem đại binh sang đánh Nam Việt. Trước khi xuất quân, Lưu Phương sai người tâm phúc sang dụ Lý Phật Tử về hàng, nếu không sẽ làm cỏ dân Việt, Lý Phật Tử sợ thế không địch nổi bèn xin về hàng. Nam Việt lại về tay nhà Tùy.
 
Nhà Tùy đường Và Cuộc Khởi Nghĩa ( 603 – 939)

NHÀ TÙY – ĐƯỜNG

(Bắc thuộc lần thứ ba)

Do Lý Phật Tử sớm đầu hàng, nhà Tùy ( 589 – 617) đã thô tính Giao Châu dễ dàng, chia Giao Châu thành 3 quận : Giao Chỉ ( Bắc Bộ ), Cửu Chân ( Thanh Hóa), Nhật Nam ( Nghệ Tĩnh). Trụ sở quận Giao Chỉ được rời từ Long Biên ( Bắc Ninh) về Tống Bình ( Hà Nội). Nhưng nhà Tùy làm vua được 28 năm thì mất, nhà Đường kế nghiệp trị vì Trung Quốc.

Năm Tân Tị ( 621) vua Cao Tổ nhà Đường sai Khâu Hòa làm Đại Tổng Quản sang cai trị Giao Châu, đến năm Kỷ Mão ( 679) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu làm 12 châu, 59 huyện, dưới huyện là hương và xã. Tiểu hương có từ 70 – 150 hộ. Đại hương có từ 160 – 500 hộ. Tiểu xã có từ 10 – 30 hộ. Đại xã từ 40 – 60 hộ. Ở miền núi nhà Đường đặt các châu « kimi » ( ràng buộc lỏng lẻo) và đặt An Nam đô hộ phủ. Nước ta gọi là An Nam khởi đầu từ đấy.

An Nam đô hộ phủ quản 41 châu « kimi » ( vùng Việt Bắc dân tộc Tày Nùng). Năm Tân Hợi ( 711) nhà Đường lận Phong Châu đô đốc phủ ( Sơn Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc dân tộc thái, Tày và Tạng Miến), và Hoan Châu đô đốc phủ ( vùng Nghệ Tĩnh và đất Lục Lạp, Bắc Trường Sơn giáp Lào), Ái Châu ( vùng Thanh Hóa). Đứng đầu An Nam đô hộ phủ là viên đô hộ hoặc kinh lược sứ.

Việc chia nhỏ cơ quan cai trị khiến cho nhà Đường khống chế đất An Nam một cách chặt chẽ hơn. Tuy vậy trong suốt ba thế kỷ nhà Đường thống trị, nhân dân vẫn không ngừng nổi dậy giành độc lập. Đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra : Lý Tự Tiên, Đinh Kiến ( 687) Mai Thúc Loan( 722) Phùng Hưng ( 766- 791) Dương Thanh ( 819 – 820).
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top