Tại sao Nhật Bản theo phe Phát xít?
Để hiểu được “Đạo luật ba bên” (Tripartite Act) năm 1940 – thứ đã tạo nên quyền lực cho các nước phe Trục, chúng ta cần phải đào sâu về mối quan hệ giữa Nhật Bản và Đức. Trước tiên, bạn cần biết rằng Nhật Bản và Đức hiện đại tương đối giống nhau.
Phải mãi đến năm 1871 thì Đức mới trở thành một đất nước đúng nghĩa. Trước thời điểm đó, nơi đây chỉ là một tập hợp của nhiều quốc gia nhỏ và các thành bang. Sau khi đánh bại Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, nước Phổ đã thống nhất toàn bộ khu vực này và lập nên Đế chế Đức. Từ một quốc gia yếu thế, nước Đức giờ đây đã trở thành một trong những cường quốc trên thế giới với tầm ảnh hưởng vô cùng lớn ở Châu Âu.
Nhật Bản cũng phát triển theo chiều hướng tương tự. Khi Nhật Bản bị buộc phải dừng việc cách ly với thế giới vào năm 1854, đất nước mặt trời mọc bắt đầu quá trình Tây phương hóa thần tốc. Để rồi sau đó, lịch sử nhân loại ghi nhận một cuộc chiến tranh mang tính bản ngã nhưng ít được nhắc đến, đó là Cuộc chiến Nga – Nhật. Cả Đức và Nhật từng là quốc gia có vị thế thấp kém, bị cô lập trong quá khứ và từng chiến tranh với gã khổng lồ Nga, thì ngày nay cả hai đều tự bước trên đôi chân mình và tạo được tầm vóc không hề nhỏ trên trường quốc tế.
Những mối quan hệ sơ khởi
Sau khi dừng việc bế quan tỏa cảng, Nhật Bản đã nhanh chóng có một mối giao hảo với nước Phổ (mà sau này trở thành Đức). Nước Phổ tại thời điểm đó đang trong quá trình hiện đại hóa với tốc độ và hiệu quả cao như những gì chúng ta có thể thấy ở một người Đức điển hình. Người Nhật đã nhìn ra sự tiến bộ của người Phổ và quyết định học hỏi trực tiếp từ nước bạn với hy vọng bản thân nước Nhật cũng có thể phát triển tương tự.
Để thực hiện kế hoạch này, Nhật Bản đã thuê và đưa nhiều chuyên gia người Phổ (sau này là người Đức) đến Nhật để làm công tác cố vấn và hỗ trợ việc hiện đại hóa đất nước. Những người này được gọi là “oyatoi gaikokujin”. Vai diễn của Tom Cruise trong bộ phim “Samurai cuối cùng” (The Last Samurai) có thể giúp bạn hình dung rõ hơn về những “oyatoi gaikokujin” này.
Ngày nay, các trường học ở Nhật Bản vẫn còn lưu giữ một vài nét đặc trưng của đất nước người Phổ, điển hình là tạo hình của các bộ đồng phục học sinh. Phần lớn nam sinh Nhật Bản mặc đồng phục quân đội còn nữ sinh mặc đồng phục thủy thủ. Mọi thứ từng tồn tại trong xã hội nước Phổ trước đây đều hướng đến một mục đích duy nhất là tạo ra một lực lượng quân đội hùng mạnh nhất Châu Âu – điều mà họ đã làm rất tốt trong quá khứ.
Các biện pháp quân phiệt này giúp hợp lý hóa mọi thứ nhằm thúc đẩy quá trình hiện đại hóa diễn ra nhanh hơn. Những cố vấn người Phổ, tổ tiên của người Đức nói trên đã giúp Nhật Bản tạo ra hiến pháp và thành lập quân đội. Nhật Bản giống như một người em trai của Đức vậy, dù rằng đây là một tình huynh đệ vô cùng chua chát.
Chiến tranh Thế giới thứ nhất
Có một cách giải thích dễ hiểu cho mối quan hệ giữa Nhật và Đức. Hãy so sánh tình thế của hai quốc gia với tình bạn của ông hoàng nhạc pop Michael Jackson và Paul McCartney – người sáng lập ra ban nhạc lừng danh The Beatles. Họ là những nhạc sĩ với phong cách rất khác nhau, nhưng cả hai đều nằm trong số những nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại. Họ đến từ hai sắc tộc khác nhau, nhưng cả hai đều nhận ra mình cần phải học hỏi rất nhiều từ người kia. Hai người thực sự đã truyền cảm hứng cho nhau, thế nhưng tình bạn của họ đã tan vỡ vì chuyện kinh doanh.
Khi bản quyền những bài hát của The Beatles được rao bán, Paul McCartney đã rất sốt sắng chuẩn bị tiền để ông có thể đường hoàng nắm quyền sở hữu chính những sáng tác mà mình viết ra. Thế nhưng trong lúc Paul tưởng chừng như mọi thứ đã nằm trong tầm kiểm soát và ông sắp sửa đạt được mục đích của mình thì ông lại bị hớt tay trên bởi không ai khác mà chính là Michael Jackson – anh bạn tuyệt vời của Paul. Khi Paul McCartney đối chất bạn mình về hành động đâm sau lưng này, Michael Jackson chỉ nhún vai và bảo: “Thế mới là kinh doanh chứ!”
Đó cũng chính là những gì đã xảy ra giữa Đức và Nhật. Là một đế quốc mới nổi, Đức biết rằng họ cần phải làm những gì mà các nước đế quốc khác vẫn làm: xâm lăng và đô hộ các quốc gia khác. Bên cạnh đó, Đức còn nằm ở một vị trí rất éo le trên đất Châu Âu khi có ít tài nguyên thiên nhiên nhưng lại bị bao quanh bởi những quốc gia láng giềng hùng mạnh. Vì vậy nên việc sở hữu các thuộc địa ở nước ngoài sẽ giúp Đức ổn định được mọi thứ ở quê nhà.
Thế nhưng người Đức tới nơi khi “bữa tiệc” mang tên Thời đại Xâm lăng sắp tàn. Toàn bộ những địa chế được coi là “miếng ngon” của thế giới đều đã bị giành mất, và chỉ còn sót lại Châu Á là khu vực duy nhất chưa bị đánh chiếm hoàn toàn bởi những thế lực đến từ Châu Âu. Do đó, Đức bắt đầu công cuộc thâu tóm nhiều khu vực khác nhau ở châu Á.
Đế quốc Nhật có cách suy nghĩ rất giống với các nước đế quốc Châu Âu, thế nên họ cũng muốn có trong tay các thuộc địa của riêng mình. Họ nhận thức được tầm ảnh hưởng của mình lên phần lớn khu vực Đông Á. Vì vậy nên khi người Đức đến và đòi chiếm cái này cái kia, đối với người Nhật, nó giống như việc có một gã ất ơ nào đấy nhảy bổ vào sân sau nhà bạn và gào lên rằng phần sân này là của hắn ta.
Thế là người Nhật bắt đầu làm bạn với người Anh, khiến cho tình bằng hữu bấy lâu giữa Nhật Bản với Đức nhanh chóng trở nên nguội lạnh. Cuối cùng, sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, Nhật Bản đã sát cánh với Anh cùng các nước Đồng minh và nhanh chóng chiếm lại những vùng đất ở Châu Á mà Đức lúc bấy giờ đang nắm giữ. “Thế mới là kinh doanh chứ!”