Đỗ Thị Lan Hương
Active member
- Xu
- 16,068
Nhắc đến Quang Dũng là nhắc đến một trong những thế hệ nhà thơ được tôi luyện và trưởng thành trong bom lửa thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông là một người đa tài, có thể vẽ tranh, sáng tác nhạc, nhưng vẫn nổi tiếng và được nhiều người biết đến với tư cách một nhà thơ. Phong cách thơ Quang Dũng nổi bật lên chất phóng khoáng, hào hoa đầy lãng mạn. Bài thơ "Tây Tiến" là một bài thơ đem lại dấu ấn đậm nét, khắc ghi Quang Dũng vào sâu tâm trí độc giả. Nhớ về đồng đội, những miền đất và binh đoàn xưa, nơi mà tác giả từng vào sinh ra tử, nhà thơ đã kí thác tâm sự qua sự khắc họa đậm nét vẻ đẹp hào hoa, hào hùng và bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến.
Vẻ đẹp hào hoa, hào hùng và bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến qua bài thơ "Tây Tiến" (Quang Dũng)
“Tây Tiến” của Quang Dũng là tác phẩm đã lưu giữ những kỷ niệm hào hùng, đáng nhớ của một thời tiến quân về Miền Tây cùng quân dân nước bạn Lào chống Pháp xâm lược. Đó là một tiếng thơ bi tráng của thơ ca VN trong những ngày đầu cả dân tộc tiền hành cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện. Quang Dũng khắc tạc thành công tượng đài nghệ thuật bằng ngôn từ về tập thể đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hào vẻ đẹp vừa lãng mạn, hào hoa, vừa hào hùng, bi tráng.
Toàn bộ bài thơ có 34 dòng, chia thành 3 phần. 14 dòng đầu Quang Dũng tập trung khắc họa bức tranh thiên nhiên, núi rừng, đèo, dốc Miền Tây dữ dội hiểm trở, sương dày, mưa mịt mù trời đất cùng thác gầm, cọp dữ. 8 dòng tiếp theo ghi lại kỷ niệm bồi hồi về một đêm hội nơi xứ bạn cùng cảnh sông nước miền tây buổi chiều buông vừa hoang sơ vừa nên thơ, huyền ảo. Những dòng thơ còn lại tập trung khắc họa hình tượng đoàn quân Tây Tiến.
Có thể nói, hình tượng những người lính trong thi phẩm được khắc họa với vẻ đẹp tinh thần vừa hào hùng vừa hào hoa. Những con người mang trong mình lý tưởng cứu nước cao đẹp nên có ý chí, nghị lực phi thường để đối mặt, vượt lên những thử thách khốc liệt của cuộc sống, sinh hoạt, chiến đấu của chiến trường. Đó còn là những con người mang vẻ đẹp hào hoa với trái tim nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống, con người Miền Tây và nỗi nhớ bay bổng, lãng mạn, đằm thắm về quê hương. Có lẽ, khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng những người lính Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ thực sự “xúc động hồn thơ” mà còn phát huy tận độ tài năng của một cây bút tài hoa trong thơ ca cách mạng Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến được khắc họa trong tương quan bối cảnh bức tranh Miền Tây nên thơ, thi vị, gợi cảm. Dõi theo mạch cảm xúc Tây Tiến, người ta thấy chất hào hoa được hé lộ khi những người lính ấy cứ vượt qua một thử thách là lại tìm thấy cho mình một cơ hội để thưởng thức những vẻ đẹp nên thơ, thi vị của thiên nhiên, cuộc sống, con người Miền Tây.
Vừa mới hành quân trong màn “sương lấp”, mệt mỏi đến rã rời, những người lính Tây Tiến thu vào hồn màn mưa rừng Pha Luông huyền ảo:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Vừa mới vượt qua đèo dốc heo hút, thăm thẳm, tâm hồn nghệ sỹ nơi những người lính ấy
bắt ngay được vẻ đẹp huyền ảo, gợi cảm:
“Mường lát hoa về trong đêm hơi”
Vừa thoát khỏi sự rình rập của thú dữ, họ mở lòng đón nhận:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Đó còn là vẻ đẹp tâm hồn tinh tế của người lính khi nhận ra, xót xa trước vẻ đẹp dung dị bị lãng quên của hoa lau “nẻo bến bờ”. Khi ngỡ ngàng đắm say ngắm nhìn vẻ đẹp của những thiếu nữ Miền Tây trong lửa khi họ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Quả thực, người lính Tây Tiến tiềm ẩn trong mình một tâm hồn nghệ sỹ lãng mạn, bay bổng, trẻ trung, có một chút đa tình. Đó là kết quả cái nhìn đa chiều của Quang Dũng nói riêng và của thơ ca cách mạng nói chung.
Từ cái nhìn đa chiều ấy, Quang Dũng phát hiện ra vẻ dẹp trong sâu thẳm tâm hồn người chiến sỹ Tây Tiến ước mơ hướng về quê hương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”
Câu thơ có cấu trúc tương phản. Mắt mở to vừa thể hiện sự mỏi mệt vì thiếu ngủ do hành binh trận mạng vừa thể hiện nghị lực vượt lên chính mình của người lính Tây Tiến. “Gửi mộng” là gửi mơ ước, khao khát đằm thắm. Đó là nỗi nhớ quê hương trong sâu thẳm trái tim những người lính Tây Tiến. Đặc biệt, nỗi nhớ bật trào từ những rạo rực khát khao yêu thương:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai câu thơ chứa đựng hai từ như nhãn tự làm ngời lên vẻ đẹp những người lính Tây Tiến – “mộng”, “mơ”. Nó khiến người lính Tây Tiến trở nên thật tình tứ: không phải nỗi nhớ mộc mạc được biểu đạt dung dị hướng đến “người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya” trong thơ Hồng Nguyên. Nỗi nhớ của người lính Tây Tiến hướng về thủ đô yêu dấu, dồn vào “dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” được xây dựng bằng bút pháp chấm phá, gợi tả tài hoa, thâu tóm vẻ đẹp riêng, chứa đựng sự quyến rũ kỳ diệu của những thiếu nữ Hà Nội thanh lịch. Nỗi nhớ ấy làm nên bản sắc riêng trong tâm hồn những người lính ra đi từ một góc phố hoặc giảng đường đại học.
Có một thời người ta cho rằng những câu thơ ấy là biểu hiện của “mộng rớt tiểu tư sản”. Nó chỉ khiến người ta yếu mềm, ủy mị, mất đi nhuệ khí chiến đấu song chính nỗi nhớ ấy mới là cội nguồn của sức mạnh tinh thần kỳ diệu, giúp người lính Tây Tiến vững bước vượt lên tất cả. Bởi họ hiểu rằng những bước hành quân gian khổ hôm nay là để dành, để giữ những dáng kiều thơm cho mai sau. Mục đích cầm súng giàu chất nhân văn của cả dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp và trong suốt thời kỳ lịch sử của dân tộc:
“Dù rằng đời ta thích hoa hồng
Kẻ thù buộc ta ôm cây súng”.
Đọc "Tây Tiến", bất cứ ai cũng đều có chung tình cảm kính phục, ngưỡng mộ những người lính mang trong mình vẻ đẹp tinh thần rất hào hoa, hào hùng. Dường như vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến qua cách thể hiện cảm nhận riêng của Quang Dũng được phát hiện trong tương quan với bức tranh thiên nhiên Miền Tây hoang sơ, hiểm trở, dữ dội. Vẻ đẹp này được phác họa ngay từ dòng đầu tiên của tác phẩm. Núi rừng Miền Tây và cuộc vạn lý trường chinh Tây Tiến lúc nào cũng sẵn sàng bẻ gãy ý chí của những người lính ấy. Sự hiểm trở của địa hình:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Hay sự oai linh của chốn “rừng thiêng nước độc”: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét” sự rình mò của thú dữ: “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu “sương lấp”, “mưa rừng”. Những thiếu thốn trong đời sống sinh hoạt chiến trường cùng sự dãi dầu thân xác trong thời gian dài dặc “quân mỏi”, “Anh bạn dài dầu không bước nữa”. Đọc hành trình này, người ta thấy vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng của người lính Tây Tiến cứ sáng dần lên. Đến khi họ đối mặt với thách thức dịch bệnh, cái chết, vẻ đẹp tinh thần của những người lính Tây Tiến mới ngời chói. Nét vẽ nào về người lính Tây Tiến cũng rất sắc sảo đến lạ kỳ. Có thể thấy, vẻ đẹp được tập trung trong 8 dòng thơ:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Trước hết người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp của lý tưởng cứu nước cao cả.
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ vang lên như một lời thề. Nó đúng là cái giọng của những trượng phu coi cái chết “nhẹ như lông hồng”. Những chiến sỹ Tây Tiến là sản phẩm của niềm tin, trí thức Hà Nội, những chàng trai “chưa trắng nợ anh hùng”, mang cái chí của nam nhi thời loạn, sẵn sàng xếp bút nghiên ra sa trường. Họ coi “Gian nan là nợ anh hùng phải vay”, cho nên tự nguyện dấn thân, sẵn sàng xả thân hành binh trận mạc.
“Tuổi xanh chắc tiếc xá chi bạc đầu”
(Tố Hữu)
Cũng chính những con người ấy xác định cho mình lý tưởng sống cao đẹp “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Ta cũng tìm thấy sự đồng điệu này ở những người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp nơi hồn thơ Chính Hữu:
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”.
Dòng thơ là sản phẩm của hai nghệ sỹ có nguồn gốc xuất thân khác nhau nhưng có sự đồng điệu kỳ diệu trong cách biểu đạt cũng như trong nội dung trữ tình được thể hiện. Đối với những người lính xuất thân nghèo khó, gian nhà là tài sản lớn nhất, có giá trị nhất. Nó được tạo dựng bằng sự chắt chiu của nhiều thế hệ trong gia đình. Vậy mà những người lính nông dân ấy sẵn sàng để lại sau lưng, vững bước ra trận.
“Đời xanh” là một hoán dụ nghệ thuật để chỉ quãng đời tuổi trẻ, quãng đời đẹp nhất, có ý nghĩa nhất của những người lính trí thức Hà Nội, vậy mà họ không hề phân vân, do dự khi cống hiến quãng đời ấy cho sự nghiệp cứu nước. Cái ngữ khí biểu đạt bằng thứ ngôn từ đặc sắc, tự nhiên “mặc kệ”, “chẳng tiếc” lại trở thành những nhãn tự trong mọi dòng thơ để biểu đạt sâu sắc, cảm động lý tưởng cứu nước, thái độ dứt khoát, ý chí quyết tâm sắt đá, dâng hiến những gì có giá trị nhất của đời mình cho cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những người lính. Họ ra đi từ những miền quê khác nhau nhưng đều có đích đến giống nhau – chiến trường – nơi phẩm chất anh hùng tiềm tàng trong họ sẽ được phát lộ, thử thách, tôi rèn.
Những câu thơ có âm điệu rắn rỏi, lời thơ ít nhiều mang phong cách khẩu ngữ, buột ra như một lời nói thường tưởng không có gì là chau chuốt, là nghệ thuật vậy mà lại có khả năng làm xúc động lòng người. Thế mới biết một câu thơ hay bao giờ cũng là những câu thơ được viết từ ngôn ngữ chân cảm của người nghệ sỹ. Không chỉ vậy cái điệu thơ ngang tàng ấy còn phảng phất lời thơ trong Kinh thi, Chinh Phụ ngâm khúc, Tống biệt hành… Xuất phát từ lý tưởng cứu nước đẹp đẽ ấy, người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp của những con người có ý chí, nghị lực phi thường.Ý chí, nghị lực ấy giúp người lính vượt lên mọi thử thách nghiệt ngã của hiện thực chiến đấu nơi chiến trường. Những thiếu thốn trong sinh hoạt, sự hoành hành của bệnh tật.
Dõi theo bài thơ, người đọc thấy Tây Tiến là cuộc hành quân đầy gian khổ. Vì vậy Quang Dũng thay vì dùng “đoàn quân” mà dùng “đoàn binh” – vừa chân xác vừa tài hoa, gợi sinh động hình ảnh những chiến binh có vũ khí đang trong tư thế xông trận oai phong – sẵn sàng tiến công chiến đấu, vừa gợi âm hưởng hào hùng, mang màu sắc sử thi hào hùng cho hình tượng thơ. Bắt đầu từ đây vẻ đẹp hào hùng của người lính được đặc tả qua một số chi tiết giàu chất tả thực “không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Chi tiết tả thực, cách nói độc đáo, hình ảnh “không mọc tóc” gợi ta hình dung về những anh “vệ trọc”, “vệ túm” trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Do thời tiết khí hậu, nhất là căn bệnh sốt rét rừng nơi Lam Sơn khiến hầu hết mọi người lính rụng tóc.
Điều kiện chiến đấu vất vả thiếu thốn buộc người lính phải cạo trọc đầu để thuận tiện trong sinh hoạt, đặc biệt là khi đánh giáp lá cà. Hình ảnh “quân xanh màu lá” cũng vậy. Cấu trúc ngôn từ rất lạ lại chứa nhiều ý nghĩa.“Xanh màu lá” là màu xanh quân phục, hay màu da xanh xao vì bệnh tất, vì những đêm thiếu ngủ, bữa thiếu ăn. Chính ở đây câu chữ chứa đựng sự hàm súc cao. Thơ ca chống pháp viết về người lính dường như đều chối bỏ hiện thực này.
Chính Hữu trong “Đồng chí” miêu tả chi tiết đến trần trụi hiện thực gian khổ của người lính:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày”
Tố Hữu khi vẽ chân dung người lính vệ quốc trong “Cá nước” chọn hình ảnh
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”
Hồng Nguyên có câu thơ gân guốc về hiện thực ấy trong “Nhớ”:
“Lột sắt đường tàu, rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không đi lùng giặc đánh”
Còn hiện thực ấy qua ngòi bút hồn thơ Quang Dũng dường như được tái hiện bằng cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Là một cây bút lãng mạn, dường như Quang Dũng có sở trường phát huy sức mạnh biểu đạt bằng thư pháp tương phản đối lập – một dấu ấn thi pháp của khuynh hướng lãng mạn, hào hoa, hào hùng. Nó tạo thành cấu trúc đối ở những cấp độ giữa các đoạn, trong một khổ, trong dòng thơ. Câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” cũng vậy. Ba chữ “dữ oai hùm” đứng riêng chứa đựng sức mạnh nhưng khi đứng trong cấu trúc này, nó kết tụ thành một sức mạnh ẩn chứa một vẻ đẹp giàu chất sử thi – cái thần thái oai phong, lẫm liệt làm ngời lên vẻ đẹp tinh tế, kiêu hùng, kiêu dũng của những người lính Tây Tiến. Tạo nên sự tương phản giữa vẻ ngoài với vẻ đẹp sức mạnh tinh thần bên trong “oai phong” đầy dũng khí, Quang Dũng làm cho những người lính Tây Tiến toát lên vẻ đẹp đậm chất sử thi hào hùng. Nhưng đó chưa phải thử thách khốc liệt nhất với người chiến sỹ.
Cuộc trường chinh về Miền Tây khiến những người lính đối mặt với thử thách khốc liệt nhất – cái chết. Quang Dũng ghi lại hình ảnh đồng đội mình ngã xuống mang âm điệu ngậm ngùi:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những câu thơ gợi lên hình ảnh rùng rợn, hãi hùng của chiến trường. Ta hình dung đây đó những nấm mồ hoang lạnh nơi đất khách, xứ người. Nó như truyền đến ta những cảm giác lạnh rợn từ những lời thơ Đoàn Thị Điểm:
“Hồn tử sỹ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu sỹ tử mấy người
Nào ai mặc mặc, nào ai gọi hồn”
Viết về chiến tranh trong thơ ca cách mạng, mấy ai dám đưa những hình ảnh thê lương ấy vào trang văn, trang thơ bởi có một thời người ta ngỡ rằng những hình ảnh ấy khiến người đang sống chùn bước, nhụt ý chí nhưng Quang Dũng lại dám viết bởi nhà thơ có lối nói riêng. Xuất phát từ những cảm xúc rất thật của mình, tài năng, thành công của Quang Dũng là ở chỗ nhà thơ chiến sỹ ấy viết về nó để làm ngời lên vẻ đẹp hào hùng của hình tượng mình đang khắc họa. Ngay sau dòng thơ này, Quang Dũng đẩy vẻ kiêu dũng của đồng đội đến cực điểm:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Ở đây, Quang Dũng chọn lối viết tả thực bởi nếu vậy câu thơ sẽ phải là:
“Áo sờn thay chiếu anh vùi đất”
Thay vào đó là hình ảnh “áo bào”, “về đất” được bao bọc trong nguồn xúc cảm đầy chất lãng mạn. “Áo bào” là kết quả sự tái tạo một thi liệu cổ điển, giúp Quang Dũng tô đậm vẻ đẹp tráng sỹ trượng phu của người lính Tây Tiến ngã xuống như những dũng tướng, vẫn oai phong, lẫm liệt, kiêu dũng. Chữ “về”, sản phẩm của cách nói giảm, nói tránh diễn tả tư thế ngạo nghễ, tâm thế thản nhiên, thư thái của người lính Tây Tiến khi đón nhận cái chết, không còn mang nét nghĩa nặng nề bi thương, mất mát của sự tổn thất mà hàm chứa niềm tự hào của những con người ý thức rằng: hoàn thành nhiệm vụ với đất nước, tổ quốc, nếu có ngã xuống cũng là được trở về với đất mẹ, sống trong vòng tay bao dung yêu thương của đất mẹ: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Quang Dũng là cây bút giỏi dùng từ chỉ địa danh. Qua hồn thơ của ông, mỗi địa danh khơi dậy một chất thơ bí ẩn mà dường như chỉ hồn thơ lãng mạn, tài hoa như Quang Dũng mới nắm bắt được và đưa vào thơ như một ngôn từ đắc dụng. Con sông mã lần hai xuất hiện trở lại. Lần một nó gợi nhớ, gợi thương, lần hai nó được chọn để khép lại khúc độc hành về những người lính Tây Tiến khi hóa thành con chiến mã gầm lên khúc ca bi tráng oai linh tiễn đưa người lính Tây Tiến về với đất mẹ. Lời thơ gợi không khí chiến trận của bản anh hùng ca trong lời thơ cổ. Câu thơ nói cái bi mà vẫn hùng.
Với những câu thơ thấm đẫm cảm xúc lãng mạn, bi tráng, Quang Dũng làm hiện lên hình tượng người lính Tây Tiến trong vẻ đẹp chói ngời lí tưởng cứu nước, tinh thần quả cảm khi đối mặt với thử thách nơi chiến trường. Đó thực sự là những con người làm chủ hoàn cảnh. Không chỉ vậy, họ còn là những con người tiềm tàng khả năng cải tạo hoàn cảnh.
Những người lính Tây Tiến là tượng đài nghệ thuật lãng mạn thấm đẫm chất bi tráng, giàu chất hiện thực về người lính vệ quốc trong kháng chiến chống Pháp. Đó là biểu tượng về vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam trong những năm tháng ấy. Quang Dũng kế thừa thành tựu nghệ thuật của thơ ca Trung đại, lãng mạn trong việc khắc họa những con người lý tưởng của thời đại. Hình tượng người lính Tây Tiến vừa hào hoa, anh hùng, vừa bi tráng. Họ là những con người vĩ đại nhưng rất bình thường. Có lẽ vậy hình tượng thơ mới tạo được sức sống lâu bền trong dòng chảy của thời gian, lịch sử.
Vẻ đẹp hào hoa, hào hùng và bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến qua bài thơ "Tây Tiến" (Quang Dũng)
“Tây Tiến” của Quang Dũng là tác phẩm đã lưu giữ những kỷ niệm hào hùng, đáng nhớ của một thời tiến quân về Miền Tây cùng quân dân nước bạn Lào chống Pháp xâm lược. Đó là một tiếng thơ bi tráng của thơ ca VN trong những ngày đầu cả dân tộc tiền hành cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện. Quang Dũng khắc tạc thành công tượng đài nghệ thuật bằng ngôn từ về tập thể đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hào vẻ đẹp vừa lãng mạn, hào hoa, vừa hào hùng, bi tráng.
Toàn bộ bài thơ có 34 dòng, chia thành 3 phần. 14 dòng đầu Quang Dũng tập trung khắc họa bức tranh thiên nhiên, núi rừng, đèo, dốc Miền Tây dữ dội hiểm trở, sương dày, mưa mịt mù trời đất cùng thác gầm, cọp dữ. 8 dòng tiếp theo ghi lại kỷ niệm bồi hồi về một đêm hội nơi xứ bạn cùng cảnh sông nước miền tây buổi chiều buông vừa hoang sơ vừa nên thơ, huyền ảo. Những dòng thơ còn lại tập trung khắc họa hình tượng đoàn quân Tây Tiến.
Có thể nói, hình tượng những người lính trong thi phẩm được khắc họa với vẻ đẹp tinh thần vừa hào hùng vừa hào hoa. Những con người mang trong mình lý tưởng cứu nước cao đẹp nên có ý chí, nghị lực phi thường để đối mặt, vượt lên những thử thách khốc liệt của cuộc sống, sinh hoạt, chiến đấu của chiến trường. Đó còn là những con người mang vẻ đẹp hào hoa với trái tim nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống, con người Miền Tây và nỗi nhớ bay bổng, lãng mạn, đằm thắm về quê hương. Có lẽ, khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng những người lính Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ thực sự “xúc động hồn thơ” mà còn phát huy tận độ tài năng của một cây bút tài hoa trong thơ ca cách mạng Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến được khắc họa trong tương quan bối cảnh bức tranh Miền Tây nên thơ, thi vị, gợi cảm. Dõi theo mạch cảm xúc Tây Tiến, người ta thấy chất hào hoa được hé lộ khi những người lính ấy cứ vượt qua một thử thách là lại tìm thấy cho mình một cơ hội để thưởng thức những vẻ đẹp nên thơ, thi vị của thiên nhiên, cuộc sống, con người Miền Tây.
Vừa mới hành quân trong màn “sương lấp”, mệt mỏi đến rã rời, những người lính Tây Tiến thu vào hồn màn mưa rừng Pha Luông huyền ảo:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Vừa mới vượt qua đèo dốc heo hút, thăm thẳm, tâm hồn nghệ sỹ nơi những người lính ấy
bắt ngay được vẻ đẹp huyền ảo, gợi cảm:
“Mường lát hoa về trong đêm hơi”
Vừa thoát khỏi sự rình rập của thú dữ, họ mở lòng đón nhận:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Đó còn là vẻ đẹp tâm hồn tinh tế của người lính khi nhận ra, xót xa trước vẻ đẹp dung dị bị lãng quên của hoa lau “nẻo bến bờ”. Khi ngỡ ngàng đắm say ngắm nhìn vẻ đẹp của những thiếu nữ Miền Tây trong lửa khi họ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Quả thực, người lính Tây Tiến tiềm ẩn trong mình một tâm hồn nghệ sỹ lãng mạn, bay bổng, trẻ trung, có một chút đa tình. Đó là kết quả cái nhìn đa chiều của Quang Dũng nói riêng và của thơ ca cách mạng nói chung.
Từ cái nhìn đa chiều ấy, Quang Dũng phát hiện ra vẻ dẹp trong sâu thẳm tâm hồn người chiến sỹ Tây Tiến ước mơ hướng về quê hương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”
Câu thơ có cấu trúc tương phản. Mắt mở to vừa thể hiện sự mỏi mệt vì thiếu ngủ do hành binh trận mạng vừa thể hiện nghị lực vượt lên chính mình của người lính Tây Tiến. “Gửi mộng” là gửi mơ ước, khao khát đằm thắm. Đó là nỗi nhớ quê hương trong sâu thẳm trái tim những người lính Tây Tiến. Đặc biệt, nỗi nhớ bật trào từ những rạo rực khát khao yêu thương:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai câu thơ chứa đựng hai từ như nhãn tự làm ngời lên vẻ đẹp những người lính Tây Tiến – “mộng”, “mơ”. Nó khiến người lính Tây Tiến trở nên thật tình tứ: không phải nỗi nhớ mộc mạc được biểu đạt dung dị hướng đến “người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya” trong thơ Hồng Nguyên. Nỗi nhớ của người lính Tây Tiến hướng về thủ đô yêu dấu, dồn vào “dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” được xây dựng bằng bút pháp chấm phá, gợi tả tài hoa, thâu tóm vẻ đẹp riêng, chứa đựng sự quyến rũ kỳ diệu của những thiếu nữ Hà Nội thanh lịch. Nỗi nhớ ấy làm nên bản sắc riêng trong tâm hồn những người lính ra đi từ một góc phố hoặc giảng đường đại học.
Có một thời người ta cho rằng những câu thơ ấy là biểu hiện của “mộng rớt tiểu tư sản”. Nó chỉ khiến người ta yếu mềm, ủy mị, mất đi nhuệ khí chiến đấu song chính nỗi nhớ ấy mới là cội nguồn của sức mạnh tinh thần kỳ diệu, giúp người lính Tây Tiến vững bước vượt lên tất cả. Bởi họ hiểu rằng những bước hành quân gian khổ hôm nay là để dành, để giữ những dáng kiều thơm cho mai sau. Mục đích cầm súng giàu chất nhân văn của cả dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp và trong suốt thời kỳ lịch sử của dân tộc:
“Dù rằng đời ta thích hoa hồng
Kẻ thù buộc ta ôm cây súng”.
Đọc "Tây Tiến", bất cứ ai cũng đều có chung tình cảm kính phục, ngưỡng mộ những người lính mang trong mình vẻ đẹp tinh thần rất hào hoa, hào hùng. Dường như vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến qua cách thể hiện cảm nhận riêng của Quang Dũng được phát hiện trong tương quan với bức tranh thiên nhiên Miền Tây hoang sơ, hiểm trở, dữ dội. Vẻ đẹp này được phác họa ngay từ dòng đầu tiên của tác phẩm. Núi rừng Miền Tây và cuộc vạn lý trường chinh Tây Tiến lúc nào cũng sẵn sàng bẻ gãy ý chí của những người lính ấy. Sự hiểm trở của địa hình:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Hay sự oai linh của chốn “rừng thiêng nước độc”: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét” sự rình mò của thú dữ: “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu “sương lấp”, “mưa rừng”. Những thiếu thốn trong đời sống sinh hoạt chiến trường cùng sự dãi dầu thân xác trong thời gian dài dặc “quân mỏi”, “Anh bạn dài dầu không bước nữa”. Đọc hành trình này, người ta thấy vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng của người lính Tây Tiến cứ sáng dần lên. Đến khi họ đối mặt với thách thức dịch bệnh, cái chết, vẻ đẹp tinh thần của những người lính Tây Tiến mới ngời chói. Nét vẽ nào về người lính Tây Tiến cũng rất sắc sảo đến lạ kỳ. Có thể thấy, vẻ đẹp được tập trung trong 8 dòng thơ:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Trước hết người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp của lý tưởng cứu nước cao cả.
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ vang lên như một lời thề. Nó đúng là cái giọng của những trượng phu coi cái chết “nhẹ như lông hồng”. Những chiến sỹ Tây Tiến là sản phẩm của niềm tin, trí thức Hà Nội, những chàng trai “chưa trắng nợ anh hùng”, mang cái chí của nam nhi thời loạn, sẵn sàng xếp bút nghiên ra sa trường. Họ coi “Gian nan là nợ anh hùng phải vay”, cho nên tự nguyện dấn thân, sẵn sàng xả thân hành binh trận mạc.
“Tuổi xanh chắc tiếc xá chi bạc đầu”
(Tố Hữu)
Cũng chính những con người ấy xác định cho mình lý tưởng sống cao đẹp “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Ta cũng tìm thấy sự đồng điệu này ở những người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp nơi hồn thơ Chính Hữu:
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”.
Dòng thơ là sản phẩm của hai nghệ sỹ có nguồn gốc xuất thân khác nhau nhưng có sự đồng điệu kỳ diệu trong cách biểu đạt cũng như trong nội dung trữ tình được thể hiện. Đối với những người lính xuất thân nghèo khó, gian nhà là tài sản lớn nhất, có giá trị nhất. Nó được tạo dựng bằng sự chắt chiu của nhiều thế hệ trong gia đình. Vậy mà những người lính nông dân ấy sẵn sàng để lại sau lưng, vững bước ra trận.
“Đời xanh” là một hoán dụ nghệ thuật để chỉ quãng đời tuổi trẻ, quãng đời đẹp nhất, có ý nghĩa nhất của những người lính trí thức Hà Nội, vậy mà họ không hề phân vân, do dự khi cống hiến quãng đời ấy cho sự nghiệp cứu nước. Cái ngữ khí biểu đạt bằng thứ ngôn từ đặc sắc, tự nhiên “mặc kệ”, “chẳng tiếc” lại trở thành những nhãn tự trong mọi dòng thơ để biểu đạt sâu sắc, cảm động lý tưởng cứu nước, thái độ dứt khoát, ý chí quyết tâm sắt đá, dâng hiến những gì có giá trị nhất của đời mình cho cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những người lính. Họ ra đi từ những miền quê khác nhau nhưng đều có đích đến giống nhau – chiến trường – nơi phẩm chất anh hùng tiềm tàng trong họ sẽ được phát lộ, thử thách, tôi rèn.
Những câu thơ có âm điệu rắn rỏi, lời thơ ít nhiều mang phong cách khẩu ngữ, buột ra như một lời nói thường tưởng không có gì là chau chuốt, là nghệ thuật vậy mà lại có khả năng làm xúc động lòng người. Thế mới biết một câu thơ hay bao giờ cũng là những câu thơ được viết từ ngôn ngữ chân cảm của người nghệ sỹ. Không chỉ vậy cái điệu thơ ngang tàng ấy còn phảng phất lời thơ trong Kinh thi, Chinh Phụ ngâm khúc, Tống biệt hành… Xuất phát từ lý tưởng cứu nước đẹp đẽ ấy, người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp của những con người có ý chí, nghị lực phi thường.Ý chí, nghị lực ấy giúp người lính vượt lên mọi thử thách nghiệt ngã của hiện thực chiến đấu nơi chiến trường. Những thiếu thốn trong sinh hoạt, sự hoành hành của bệnh tật.
Dõi theo bài thơ, người đọc thấy Tây Tiến là cuộc hành quân đầy gian khổ. Vì vậy Quang Dũng thay vì dùng “đoàn quân” mà dùng “đoàn binh” – vừa chân xác vừa tài hoa, gợi sinh động hình ảnh những chiến binh có vũ khí đang trong tư thế xông trận oai phong – sẵn sàng tiến công chiến đấu, vừa gợi âm hưởng hào hùng, mang màu sắc sử thi hào hùng cho hình tượng thơ. Bắt đầu từ đây vẻ đẹp hào hùng của người lính được đặc tả qua một số chi tiết giàu chất tả thực “không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Chi tiết tả thực, cách nói độc đáo, hình ảnh “không mọc tóc” gợi ta hình dung về những anh “vệ trọc”, “vệ túm” trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Do thời tiết khí hậu, nhất là căn bệnh sốt rét rừng nơi Lam Sơn khiến hầu hết mọi người lính rụng tóc.
Điều kiện chiến đấu vất vả thiếu thốn buộc người lính phải cạo trọc đầu để thuận tiện trong sinh hoạt, đặc biệt là khi đánh giáp lá cà. Hình ảnh “quân xanh màu lá” cũng vậy. Cấu trúc ngôn từ rất lạ lại chứa nhiều ý nghĩa.“Xanh màu lá” là màu xanh quân phục, hay màu da xanh xao vì bệnh tất, vì những đêm thiếu ngủ, bữa thiếu ăn. Chính ở đây câu chữ chứa đựng sự hàm súc cao. Thơ ca chống pháp viết về người lính dường như đều chối bỏ hiện thực này.
Chính Hữu trong “Đồng chí” miêu tả chi tiết đến trần trụi hiện thực gian khổ của người lính:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày”
Tố Hữu khi vẽ chân dung người lính vệ quốc trong “Cá nước” chọn hình ảnh
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”
Hồng Nguyên có câu thơ gân guốc về hiện thực ấy trong “Nhớ”:
“Lột sắt đường tàu, rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không đi lùng giặc đánh”
Còn hiện thực ấy qua ngòi bút hồn thơ Quang Dũng dường như được tái hiện bằng cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Là một cây bút lãng mạn, dường như Quang Dũng có sở trường phát huy sức mạnh biểu đạt bằng thư pháp tương phản đối lập – một dấu ấn thi pháp của khuynh hướng lãng mạn, hào hoa, hào hùng. Nó tạo thành cấu trúc đối ở những cấp độ giữa các đoạn, trong một khổ, trong dòng thơ. Câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” cũng vậy. Ba chữ “dữ oai hùm” đứng riêng chứa đựng sức mạnh nhưng khi đứng trong cấu trúc này, nó kết tụ thành một sức mạnh ẩn chứa một vẻ đẹp giàu chất sử thi – cái thần thái oai phong, lẫm liệt làm ngời lên vẻ đẹp tinh tế, kiêu hùng, kiêu dũng của những người lính Tây Tiến. Tạo nên sự tương phản giữa vẻ ngoài với vẻ đẹp sức mạnh tinh thần bên trong “oai phong” đầy dũng khí, Quang Dũng làm cho những người lính Tây Tiến toát lên vẻ đẹp đậm chất sử thi hào hùng. Nhưng đó chưa phải thử thách khốc liệt nhất với người chiến sỹ.
Cuộc trường chinh về Miền Tây khiến những người lính đối mặt với thử thách khốc liệt nhất – cái chết. Quang Dũng ghi lại hình ảnh đồng đội mình ngã xuống mang âm điệu ngậm ngùi:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những câu thơ gợi lên hình ảnh rùng rợn, hãi hùng của chiến trường. Ta hình dung đây đó những nấm mồ hoang lạnh nơi đất khách, xứ người. Nó như truyền đến ta những cảm giác lạnh rợn từ những lời thơ Đoàn Thị Điểm:
“Hồn tử sỹ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu sỹ tử mấy người
Nào ai mặc mặc, nào ai gọi hồn”
Viết về chiến tranh trong thơ ca cách mạng, mấy ai dám đưa những hình ảnh thê lương ấy vào trang văn, trang thơ bởi có một thời người ta ngỡ rằng những hình ảnh ấy khiến người đang sống chùn bước, nhụt ý chí nhưng Quang Dũng lại dám viết bởi nhà thơ có lối nói riêng. Xuất phát từ những cảm xúc rất thật của mình, tài năng, thành công của Quang Dũng là ở chỗ nhà thơ chiến sỹ ấy viết về nó để làm ngời lên vẻ đẹp hào hùng của hình tượng mình đang khắc họa. Ngay sau dòng thơ này, Quang Dũng đẩy vẻ kiêu dũng của đồng đội đến cực điểm:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Ở đây, Quang Dũng chọn lối viết tả thực bởi nếu vậy câu thơ sẽ phải là:
“Áo sờn thay chiếu anh vùi đất”
Thay vào đó là hình ảnh “áo bào”, “về đất” được bao bọc trong nguồn xúc cảm đầy chất lãng mạn. “Áo bào” là kết quả sự tái tạo một thi liệu cổ điển, giúp Quang Dũng tô đậm vẻ đẹp tráng sỹ trượng phu của người lính Tây Tiến ngã xuống như những dũng tướng, vẫn oai phong, lẫm liệt, kiêu dũng. Chữ “về”, sản phẩm của cách nói giảm, nói tránh diễn tả tư thế ngạo nghễ, tâm thế thản nhiên, thư thái của người lính Tây Tiến khi đón nhận cái chết, không còn mang nét nghĩa nặng nề bi thương, mất mát của sự tổn thất mà hàm chứa niềm tự hào của những con người ý thức rằng: hoàn thành nhiệm vụ với đất nước, tổ quốc, nếu có ngã xuống cũng là được trở về với đất mẹ, sống trong vòng tay bao dung yêu thương của đất mẹ: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Quang Dũng là cây bút giỏi dùng từ chỉ địa danh. Qua hồn thơ của ông, mỗi địa danh khơi dậy một chất thơ bí ẩn mà dường như chỉ hồn thơ lãng mạn, tài hoa như Quang Dũng mới nắm bắt được và đưa vào thơ như một ngôn từ đắc dụng. Con sông mã lần hai xuất hiện trở lại. Lần một nó gợi nhớ, gợi thương, lần hai nó được chọn để khép lại khúc độc hành về những người lính Tây Tiến khi hóa thành con chiến mã gầm lên khúc ca bi tráng oai linh tiễn đưa người lính Tây Tiến về với đất mẹ. Lời thơ gợi không khí chiến trận của bản anh hùng ca trong lời thơ cổ. Câu thơ nói cái bi mà vẫn hùng.
Với những câu thơ thấm đẫm cảm xúc lãng mạn, bi tráng, Quang Dũng làm hiện lên hình tượng người lính Tây Tiến trong vẻ đẹp chói ngời lí tưởng cứu nước, tinh thần quả cảm khi đối mặt với thử thách nơi chiến trường. Đó thực sự là những con người làm chủ hoàn cảnh. Không chỉ vậy, họ còn là những con người tiềm tàng khả năng cải tạo hoàn cảnh.
Những người lính Tây Tiến là tượng đài nghệ thuật lãng mạn thấm đẫm chất bi tráng, giàu chất hiện thực về người lính vệ quốc trong kháng chiến chống Pháp. Đó là biểu tượng về vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam trong những năm tháng ấy. Quang Dũng kế thừa thành tựu nghệ thuật của thơ ca Trung đại, lãng mạn trong việc khắc họa những con người lý tưởng của thời đại. Hình tượng người lính Tây Tiến vừa hào hoa, anh hùng, vừa bi tráng. Họ là những con người vĩ đại nhưng rất bình thường. Có lẽ vậy hình tượng thơ mới tạo được sức sống lâu bền trong dòng chảy của thời gian, lịch sử.