Tuyển tập truyện ngắn Trần Thùy Mai

Ngọc Suka

Cộng tác viên
images


Thị Trấn Hoa Quỳ Vàng

Bây giờ, Ng. cũng không nhớ tại sao hai người lại chọn cái thị trấn xơ xác ấy làm nơi gặp gỡ. Mười năm trước họ không biết gì về nó, ngoài địa danh bất chợt nhặt ra từ trí nhớ mông lung, địa danh mơ hồ, gợi lên một vùng đất xa xôi ven biển. Dường như sự lựa chọn ấy cũng có tiền định, vì trong những giấc mơ cản đường thoáng của mình. Ng. luôn luôn thấy người ấy hiện ra trước mắt nàng giữa tiếng sóng gầm dữ dội. Biển. Biển sôi trào, và trái tim nàng cũng sôi lên như biển.

Trong mười năm trời, năm nào họ cũng gặp nhau vào ngày tháng ấy, bên chân sóng ấy. Lần này Ng lại đến, y như trong lần đầu nàng bước xuống xe và ngơ ngác nhìn ánh nắng hoe vàng, lấm tấm bụi. Mỗi năm, thị trấn mỗi khác đi, những ngôi nhà như sinh nở thêm, mái tôn, mái ngói xúm xít quanh bến xe. Mấy chiếc dù hoa sặc sỡ vừa mọc đây đó, như những chấm màu vui vui trên khung cảnh lộn xộn của một vùng nửa thôn quê, nửa phố xá. Chỉ có ngọn gió thổi qua đỉnh rặng phi lao là vẫn thế, đẫm mùi nước mặn, mùi nồng nàn của ngàn khơi.

Ng. gọi một chiếc xe ngựa, người xà ích khẽ lắc đầu, tiếp tục dong cương. Tiếng vó lách cách trên đường một điệp khúc đều đặn buồn. Ng. nhìn theo một lát mới nhớ ra bây giờ xe ngựa chỉ dùng để thồ gạch đá. Tuyến xe lam vừa thành lập đã lấy hết khách đi lại trong thị trấn. Ng. lau mồ hôi trên trán, đặt chiếc túi xách xuống vệ đường. Nàng tiếc nuối cái ý nghĩ sẽ đi ngựa đến nơi hẹn bên kia bờ biển, y hệt như khi nàng đến lần đầu, bao nhiêu năm nay nàng vẫn lặp lại đúng như thế, như thể cử hành một nghi lễ thiêng liêng đã thành truyền thống. Khi đó nàng mặc chiếc áo đẹp nhất của mình, mớ tóc dài bay theo gió, đôi giày păng túp trắng, ngồi một mình sau lưng bác xà ích, tiếng vó ngựa gõ rộn ràng như nhịp tim sôi nổi trẻ thơ. Chiếc xe đi qua những con đường bụi bặm, những con đường toát lên mùi tỉnh lẻ, với những hoa quỳ vàng mọc ngơ ngác từ lùm bụi, ven đường. Ngay lần đầu đến đấy, nàng đã tìm ra một địa danh mới: Thị trấn hoa quỳ vàng. Từ đó mãi mãi nàng chỉ dùng cái tên ấy khi muốn nói về hành tinh nhỏ bé mà hai người đã chọn.

Thị trấn hoa quỳ vàng. Lúc đó, nàng cũng mặc áo vàng, và giờ phút họ gặp nhau bên bờ biển, mặt trời chiếu những tia vàng chói lọi xuống mặt sóng xanh. Người đàn ông muốn giữ Ng. lại trong tay, nhưng nàng né tránh và chạy vòng quanh các gềnh đá. ”Em không mong gặp anh ư?“ Ng. nghe những lời ấy lẫn trong tiếng rì rào của biển, tiếng nói trầm, ấm làm nàng hồi nhớ một tuổi thơ không thường được dỗ dành và chợt rưng rưng nước mắt. Nàng vừa gật đầu vừa dụi mắt vào vai người đàn ông ”Thế tại sao?“ ”Em cũng không hiểu. Dường như những gì em quá đỗi trông chờ, khi hiện đến, đều làm em hoảng sợ“. Nàng thì thầm, và cảm thấy mình run rẩy. Người đàn ông bật cười, tiếng cười nghe rất xa vì bạt đi trong gió. Ngoài những ngọn đèn đánh cá bắt đầu sáng lên, và cả hai người trong phút lơ đãng xuất thần, đều ngỡ rằng những vì sao vừa đột ngột rơi xuống mặt nước. Một đứa bé có khuôn mặt màu đồng hun, tay bưng một rổ đầy cua, dừng lại trước hai người mời mọc. Ng. chọn một con lớn nhất và tháo lại buộc cho nó bò về biển. Ðứa bé tròn mắt nhìn, rồi bỡ ngỡ cười ngây ngô, còn người đàn ông thì hiểu rằng đấy là một tục lệ tôn giáo mà Ng. đem theo từ thành phố cổ xưa nơi nàng ở vào một ngày vui trọng đại, người ta có thói quen chia sẻ niềm hạnh phúc của mình với tạo hoá bằng cách đem lại cho những con vật sống mà tưởng chừng chúng đã mất. Ng. nghịch ngợm xoè bàn tay che trước mặt mình khi khuôn mặt người đàn ông ghé sát gần bên. Nàng thì thầm qua khẽ tay:
- Nó bắt đầu cuộc sống lần thứ hai, cũng như em hôm nay.
”Anh cũng vậy“. Người đàn ông nói, dứt khoát kéo hai bàn tay nàng xuống và ngạc nhiên thấy chúng mềm như lá cỏ. Họ hôn nhau lần đầu, hệt như trong giấc mơ. Sóng gầm lên trong bóng tối, và biển cũng rối tung theo gió.

Họ ở lại một lữ quán nhỏ hẹp mang cái tên rực rỡ. Hướng Dương. Cái tên quá đẹp, quá sang trọng so với căn phòng trống trải, chiếc ghế tựa cũ kỹ và ngọn đèn trần đã cháy từ lâu. Nhưng thật kỳ lạ, cả hai người chẳng hề thấy vẻ khập khiễng đó. Khi ấy, họ tràn ngập niềm tin mãnh liệt rằng tình yêu của mình có thể biến mọi xó xỉnh nghèo hèn thành thiên đường trên mặt đất. Chính ở căn phòng đơn sơ còn thoảng chút ẩm mốc đó, lần đầu tiên trong đời họ nhận ra linh hồn cũng như thân thể của mình là một thứ nhạc cụ kỳ lạ, chỉ vang ngân dưới bàn tay sinh ra để dành riêng cho nó. Gió biển thổi lồng lộng qua cửa sổ, tấm drap trải giường được phủ sơ sài bồng bềnh những đợt sóng. Trăng cũng vào theo cửa sổ. Có vị mặn của biển và có vị mặn của da thịt; có cái dịu ngọt của trăng, và nỗi dịu ngọt của vuốt ve. Bắt đầu từ phút đó cả hai không nói một lời nào, đều hiểu mình đã thành hai nửa của một con người duy nhất.

Sau này, năm nào trở lại thị trấn hoa quỳ vàng, họ cũng gặp nhau, nơi lữ quán ấy, căn phòng ấy. Nơi mà họ đã đắm mình trong khúc hát địa đàng, lần đầu tiên và mãi mãi. Suốt năm này qua năm khác, khúc nhạc ấy hoài vang vọng trong ký ức rất riêng của hai người, như một tiếng gọi tỉ tê, lặng lẽ, đau đớn, không ngừng thôi thúc họ đạp lên những vành đai để quay trở lại.

Và bây giờ, Ng. đang đứng một mình trước thị trấn cũ. Cảm giác say sóng làm Ng. váng vất trước ánh sáng lúc sắp trưa. Dù rất mệt, nàng nhất định khước từ chuyến xe lam ồn ĩ và chất chồng quang gánh. Do không thể tìm lại chuyến xe thổ mộ và con ngựa bờm vàng mọi năm. Ng. đã nảy ra ý muốn ngông cuồng là sẽ đi bộ, từng bước, từng bước lặng lẽ đến nơi vùng biển cũ. Nhưng Ng. không đi đến được cuối đường, mặc dù nàng đã thấy hiện ra dưới chân dốc bãi cát dài trắng xoá, với những ghềnh đá đen nhám lỗ chỗ vết hàu. Ðôi chân phù nề chợt nhói lên đau nhức, khiến Ng. phải dừng lại ở một khách sạn trong lòng dãy phố chính của thị trấn.

Khách sạn mới xây, khá tiện nghi, ở đó những người phục vụ đã đem đến cho Ng. nước nóng và muối để ngâm đôi bàn chân sưng phồng dị dạng. Ngồi trong phòng, Ng. nghe tiếng di chuyển bàn ghế, tiếng nhân viên đi lại rộn rịp, tiếng tính toán chi phí vọng lại từ phía hội trường. Hình như ngày mai là ngày chính thức khai trương khách sạn. Hoá ra Ng. là một trong những người khách đầu tiên. Cô bé bồi phòng với đôi mắt ửng đỏ đưa cuốn sổ lưu niệm đến cho Ng. viết cảm tưởng. Ng. mỉm cười ghi và ký tên, không nghĩ ngợi:
”Tôi đã đến. Tôi ở lại. Và tôi mong muốn được quay trở lại“

Ng. gập cuốn sổ lại, mường tượng nhớ một hôm nào từ lâu lắm rồi, vào một năm nào đó không rõ, khi cùng với người ấy đi dọc theo bãi biển hoàng hôn, nàng đã nghe dân chài nói với nhau về một lời sấm đang lan truyền trong dân gian. Lời sấm tiên báo rằng cái thị trấn nhỏ đáng thương này được thành lập trên một doi cát phù du đang bị xói lở dần dần và chỉ trong thời gian ngắn sẽ hoàn toàn sụp đổ. Ngày hôm ấy ở bến xe, các tiệm phở, các quán ăn người ta xôn xao về điềm báo khủng khiếp ấy. Mặc dù biết rất rõ những lời đồn thường không có gốc rễ, không hiểu sao, tối hôm ấy Ng. cảm thấy bầu trời dường như nặng nề hơn. Khi dừng lại trên ghềnh đá, nàng xiết chặt tay quanh lưng người đàn ông yêu dấu, như thể anh sắp bị cuốn đi cùng với doi đất mỏng manh.
- Rồi tất cả sẽ sụt lở hết, và mình chẳng bao giờ gặp nhau lần nữa Ng. thì thầm. Gió biển thổi tan tác những âm thanh trên môi nàng run rẩy.
”Không thể có điều đó. Với anh sẽ chẳng bao giờ có kết thúc cả, cho dù mình sẽ già đi, sẽ không còn nữa“. Người đàn ông trả lời sau khi hôn nàng rất lâu- Anh hiểu câu nói của nàng theo nghĩa khác. Buổi chiều ấy anh cũng chọn một con cua biển và thả cho nó đi theo con của Ng. xuống chân sóng với hy vọng đôi tình nhân sẽ bắt đầu lại cuộc sống, không cô đơn, và sẽ gây dựng nên một vương quốc của loài cua bên dưới những ghềnh đá này.

Ng. duỗi thẳng những ngón chân tê dại trong nước, mỉm cười. Bây giờ có lẽ cả những sinh vật mà họ thả hàng năm xuống biển đang sinh sống nơi miền rong rêu ấy, phía xa kia, chúng đang góp phần chứng minh bãi biển ấy, ghềnh đá ấy là vĩnh viễn. Ðôi chân Ng. như dịu lại trong nước muối mặn. Cách đây ba hôm, rất đột ngột, cơn phù xuất hiện, có lẽ là dấu hiệu của bệnh suy tim hay suy thận gì đấy như nhiều người phỏng đoán. Lẽ ra Ng. nên đi khám và nghỉ ngơi vài hôm. Nhưng ngày ấy đã đến và Ng. không thể không lên đường. Nàng không thể bỏ một cuộc gặp gỡ đã thành điều giao ước thiêng liêng, vào giờ đó, ngày đó; ngày giờ ấy, nơi chốn ấy đã trở thành điền lễ, với sự chứng kiến của lữ quán nghèo nàn và thơ mộng. Trên đường đi, Ng. cảm thấy đôi chân sưng tấy trong đôi giày nhỏ. Nàng can đảm chịu đựng nỗi đau nhức trong hồi ức về chuyến đi đầu tiên mười năm về trước. Mười năm về trước, xe tàu cực kỳ khó khăn như thể hai bến xe nằm ở hai hành tinh khác nhau. Chiếc xe đưa Ng. đi trong khói than mù mịt, tiếng máy nổ ì ạch mệt mề, vượt năm trăm cây số trong vòng hai ngày đêm; trên băng ghế chật chội, Ng. ngồi im lặng, hai chân tụ đầy máu. Hồi ấy Ng. mạnh khoẻ, vô bệnh và suốt hành trình nàng vừa chịu đựng đôi chân đau nhức vừa nhớ lại câu chuyện nàng Maryushka đi tìm người yêu mòn dập hết ba đôi giày sắt. Lần đầu tiên đến vườn địa đàng của mình, trong hạnh phúc nàng không nhớ gì về cơn đau nữa, nhưng lúc nửa đêm về sáng, nàng đã phải nén tiếng rên rỉ để khỏi làm kinh động giấc mộng tuyệt đẹp còn vương vấn đâu đó trên những chăn nệm bồng bềnh gió biển.

Và bây giờ, cũng cơn gió ấy, ngọn gió vĩnh viễn thổi qua đây, lần này lại thổi rối mái tóc Ng. khi nàng ngồi soi lại dung nhan bên cửa sổ. Với hai ngón tay, nàng xoa nhẹ khắp khuôn mặt; lần đầu tiên Ng. nhận ra thứ kem thường ngày hình như đã biến chất, không ăn da như mọi lần. Nàng xoa rất lâu và cuối cùng lại dùng khăn ướt lau sạch tất cả, vì thấy chẳng thà để làn da trần như thế trông lại được mặt hơn. Một chút hồng cam trên môi, một chút xanh trên mi mắt làm khuôn mặt nàng tươi lên và thoáng vẻ trẻ thơ kỳ quặc. Gió, gió và gió, Ng. chải lại mái tóc rối, dùng chiếc khăn mỏng buộc chặt lại, theo cầu thang bước xuống đường. Trời vẫn nắng một thứ nắng hư ảo, chập chờn theo lối mòn dẫn ra bờ biển cũ.

Ng. bước đi, bàn chân nàng vùi sâu vào lòng cát nóng ấm. Nàng ngạc nhiên, hơi bâng khuâng khi thấy hai bên vệ đường vắng bóng những bông quỳ vàng. Từ nơi nào đấy, vẳng lại âm điệu của một bài hát buồn xa xưa. Ði theo tiếng nhạc Ng. tìm đến một quán cà phê ven đường quán cà phê mà mỗi năm nàng đều nhìn thấy từ trên ban công nhỏ bé của lữ quán. Nhưng lần này, không hiểu sao đã đến đây, nàng vẫn không tìm được trong những dãy phố lố nhố đối diện tấm bảng hiệu quen thuộc- Tấm bảng đề hai chữ Hướng Dương với một bông quỳ vàng rất to làm nền- Dấu hiệu thường năm vẫn cho hai người biết cuộc hành trình đã đến, họ đã trở về điểm xuất phát đó để có nhau sau một năm lăn lội trên trần gian. Vào lần gặp gỡ năm ngoái, màu sơn vàng của bông hoa đã phai gần hết và tấm bảng gỗ cũng nứt nẻ. Có thể người ta đã thay đổi nó bằng tấm bảng khác và nhân đó, đổi luôn cả tên để hy vọng thay đổi luôn số phận ế ẩm của lữ quán. Thuở đó đã nhiều lần người đàn ông bảo Ng: ”Anh tin là có định mệnh trong cuộc gặp gỡ tay ba này. Anh, em và Hướng Dương. Em thấy không, nó giống mình một cách kỳ lạ“. Ng. chỉ cười, trong niềm hân hoan say đắm của hạnh ngộ nàng trở nên lơ đãng đến nỗi chẳng hiểu người yêu muốn nói gì. Mãi hôm sau khi ngồi trên chuyến xe rời thị trấn, nàng đắm chìm trong những hồi tưởng dịu ngọt và chợt cảm thấy cũng như cái lữ quán, cuộc đời hai người luôn luôn có hai thực tại, một thực tại mỗi ngày, tầm thường, bất lực, cay đắng va thực tại trong khát vọng, huy hoàng, rực rỡ, không bến bờ. Ng. trực nhận vì sao hai người lại gắn bó với nhau như thế, cả hai đều muốn vươn tới cái gì đó bên ngoài cuộc sống đầy giới hạn này. Tại đây, trong căn phòng ấy, họ đến với nhau, kể cho nhau nghe tất cả những cuộc phiêu lưu trong một năm ròng. Chỉ một đêm thôi họ đã sống cho đủ ba trăm sáu mươi lăm ngày, và chẳng bao giờ dám ở lại lâu hơn, bởi vì cũng như tất cả những kẻ không đầy đủ trên đời, họ cảm nhận hạnh phúc như một thứ bánh thánh chỉ có thể kính cẩn đụng môi đến một lần mỗi kỳ rước lễ.

Bao giờ cũng vậy, buổi sáng người đàn ông dậy sớm, thu xếp hành lý và lặng lẽ ra đi, trong lúc Ng. nằm quay mặt vào vách giả vờ như còn ngủ. Họ đã giao ước với nhau không bao giờ nói lời từ biệt, để suốt năm sau đó vẫn mãi mãi sống cùng nhau trong ký ức. Một đôi lần, không tự chủ được, người đàn ông xoay mặt Ng. lại trong đôi bàn tay để hôn nàng trước khi ra đi, người Ng. nằm yên, bất động mắt nhắm nghiền. Khi tiếng chân đã xa rồi. Ng. mở mắt, những giọt mặn rơi xuống hai bên thái dương nóng hổi, những giọt nước mắt đẫm mùi gió biển. Adam và Eva còn có nhau khi bị đuổi ra khỏi địa đàng, còn Ng. chỉ có một mình khi từ giã căn phòng đầy gió.


° ° °

Bây giờ căn phòng đầy gió ấy ở đâu. Tại sao tôi có thể quên được căn nhà thiết thân dường ấy chỉ vì nó thiếu đi một tấm bảng, một cái tên. Dù sao thì cũng không phải chỉ duy nhất trí nhớ của Ng. Có lỗi. Ðúng là đã có sự thay đổi, từ bao giờ, nàng không biết. Có lẽ sự thay đổi ấy có dần dần từ rất lâu nhưng đến bây giờ Ng. mới thực sự nhận ra. Trong ánh sáng chập chờn- Thứ ánh sáng kỳ lạ có màu của ráng chiều và bọt nước- Ng. rẽ thẳng ra bờ biển. Sóng ào ào xô vào ghềnh đá. Một cô gái dân chài đi ngược lại phía Ng. đầu đôi thúng nặng, đôi má màu nâu hồng. Thân thể thiếu nữ khoẻ mạnh căng tròn làm Ng. không nhận ra đó là đứa bé mọi năm- Mùa đông qua, cô bé gái đã lớn phổng lên đến mức không ngờ. Ðiều an ủi Ng. là cô ta vẫn nhận ra nàng mặc dù ánh mắt thật lạ kỳ, chiếu vào khuôn mặt Ng. soi mói như thể nàng đang mang một vết nhọ trên muĩ. Ng. mỉm cười nhớ lại những con cua biển khi nghe chất giọng địa phương lơ lớ quen thuộc- Giọng nói mà thuở xưa nàng nghe lạ tại đến nỗi tưởng mình đang tiếp xúc với một thứ thổ ngữ xa lạ. Ng. hỏi thăm về lữ quán Hướng Dương và được cô gái cho biết nó không còn nữa. Lữ quán bé nhỏ và nghèo nàn không còn khách tới kể từ khi thị trấn mọc thêm nhiều khách sạn có cửa kính, có bàn ghế kiểu mới và những ngọn đèn trần luôn cháy sáng. Cô gái chỉ nhớ có thế, còn lữ quán thực sự chấm dứt vào ngày nào, bây giờ biến dạng ra sao, nhữnng người trong lữ quán đi đâu thì cô không biết rõ. Giờ đây, từ bờ biển nhìn lên, trong dãy phố mới lô nhô, không ai xác định nổi căn nhà nào thực sự là Hướng Dương ngày xưa. Nó đã tự biến đi, tự xoá tên trong cái trí nhớ của người qua lại.

Ng. quay đi. Nàng chợt nhớ mình quên không cầm theo chiếc kính mát. Gió chiều thổi mạnh, mắt nàng bắt đầu nheo lại trước những đợt cát biển. Biển, biển và biển. Mặt trời đã xuống rất thấp, những đám mây hình thù quái dị sáng rực lên trên mặt sóng. Ng. nhìn thấy trong màu vàng của mây những hình ảnh quá khứ, rõ ràng, lặng lẽ. Ðã có một lần thôi, hai người đã phá lệ và ở lại với nhau dưới vòm trời ấy hơn một ngày một đêm. Chiều hôm trước, con cua biển trước khi trở về với sóng đã hốt hoảng kẹp vào tay nàng. Vết kẹp sưng lên và sáng hôm sau khi xoay mặt nàng ra khỏi vách tường để giã từ, người đàn ông nhận ra Ng. bị sốt. Nàng đẩy hai bàn tay anh ra và bảo hãy đi đi, nhưng anh không đi. Trong vòng tay của anh, nàng lại chạnh nhớ một tuổi thơ không mấy khi được vỗ về và chợt thút thít khóc như đứa trẻ.

”Anh đi đi“. Ng. cố gắng nói một lần nữa. Trong trí óc đầy những huyền tưởng và chuyện thần tiên, nàng vẫn thường bị ám ảnh bởi lời của bà tiên dặn cô bé lọ lem không được vui chơi quá nửa đêm. Cô bé đã quên và đã trở về với y phục tả tơi rách nát. Những phép màu của bà tiên thời tuổi nhỏ nay nàng đã hiểu là phép màu của tình yêu. Nàng tự biết người đàn ông của mình là một luồng gió ngang ngược không chịu dừng lại trong bất kỳ thung lũng nào, nên đã quyết tâm cầm giữ anh bằng sự vô hạn của cả vòm trời. Nhưng ngày hôm đó khi bàn tay anh đặt lên vầng trán hâm hấp sốt của Ng. nàng chợt thấy lòng dấy lên một ước muốn rồ dại, được giữ chàng lại trong vòng aty mình vĩnh viễn.

Dĩ nhiên điều đó không thể được. Nàng vốn đã biết điều đó không thể được. Gió biển mặn thổi vào mắt nàng cay nồng.


° ° °

Giờ đây mắt nàng cũng một cảm giác cay nồng như thế. Anh, em và Hướng Dương, bộ ba không còn nguyên vẹn. Rất có thể chiều nay, người đàn ông sẽ đến, như đã mười năm nay anh vẫn đến vào ngày ấy, giờ ấy, với chiếc túi bạt trên vai, mái tóc dầy rậm và đôi mắt nâu lơ đãng quen thuộc. Rất có thể hai người sẽ lạc nhau trong thị trấn nhỏ xíu này, khi cùng đi tìm một địa chỉ không còn nữa.

Ng. đã quay về đến vùng phố xưa kia có Hướng Dương. Nàng bước vào quán cà phê với ý định ngồi đấy để nhận ra người đàn ông khi anh đi qua. Tiếng bản nhạc xa xưa vẫn vọng ra từ chiếc Stereo kiểu mới có ghi chữ Autoreverse trên bộc băng: Suốt buổi chiều băng nhạc được quay đi, quay lại trong một vòng tròn âm thanh khép kín. Ng. bước tới chiếc bàn con ngoài cùng, ngồi xuống. Có một người cùng ngồi xuống với Ng. Ðó là bóng nàng trong chiếc gương dài trên vách. Ng. tỉ mẩm soi mình trong thời gian trống rỗng. Ðôi chân phù nề. Khuôn mặt mệt mòi. Nàng nhận ra màu áo vàng không còn thích hợp. Ng. muốn về lại khách sạn để thay chiếc áo khác dễ nhìn hơn nhưng chợt thấy một cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng. Nàng đột nhiên nghĩ đến ánh mắt của cô gái bán cua. Cô ta vừa nhận ra, vừa không nhận ra nàng nữa.
Ng. ngồi im trong quán nhìn ra xa rất xa. Biển. Biển và biển.Những đám mây quái dị đủ màu đang sà sát xuống mặt sóng.

Nửa giờ sau nàng lặng lẽ ra khỏi quán. Người đàn ông không đến. Hướng Dương không còn, chàng không còn. Và tôi cũng không còn. Với đôi chân phù nề. Ng. trở về khách sạn. Gió thổi bay nhoà những dấu chân nàng trên cát.

Ngày mai khách sạn sẽ làm lễ khai trương. Hội trường trang trí đủ màu sắc xanh đỏ. Cuốn sổ lưu niệm Ng. vừa viết hồi sáng đang nằm trên chiếc bàn phủ khăn ren. Ng. băng qua hành lang để trở về phòng: Nàng thu dọn quần áo son phấn cho vào túi du lịch. Trong khi kiểm tra lại họp kem thường dùng, nàng đã phát hiện ra không phải là kem đã biến chất mà chính làn da mệt mỏi của nàng đã khô lại sau một chuyến đi xa.

Nằm một lát, Ng. trở dậy mở cửa sổ nhìn ra phía biển, nơi đã từng có một lữ quán Hướng Dương dưới ánh mặt trời. Một bóng người đang đi đi lại lại trên con đường ven biển. ở rất xa, nhưng Ng. vẫn thấy rõ dáng đi quen thuộc ấy, với chiếc túi bạt trên vai, và dầu tất cả đường nét đều xa mờ, nàng lại thấy từ ký ức mái tóc rậm và đôi mắt nâu lơ đãng. Ðôi mắt ấy đang tìm cái bảng có vẽ bông quỳ vàng. Bông quỳ vàng chỉ còn trong tưởng nhớ. Bông quỳ vàng...

Ng. gục xuống thành cửa sổ. Lúc ngẩng lên, mặt trời đã biến mất, những đám mây đột ngột xám lại như màu tro. Ng. thấy người đàn ông của mình ngồi trên ghềnh đá nhìn ra khơi. Anh đã kiếm tìm và đã thất vọng, như bao nhiêu người đi tìm điều gì đấy không có trên đời. Sóng quật trắng xoá vào những hòn đá đen trơn nhẵn. Phía dưới những hòn đá ấy, có lẽ vẫn tồn tại cả một vương quốc của loài cua biển đang góp phần chứng minh rằng doi đất ấy không bao giờ sụt lở như lời sấm vu vơ một thuở nào xa lắm.

Ng. ngồi lặng im cho đến lúc quanh nàng chỉ còn đêm tối. Tôi đã đến, đã hạnh phúc và đã đến lúc ra đi. Hãy ra đi không từ giã, bởi trong giao ước của chúng ta, không có lời giã từ.

Sáng hôm sau, trên chuyến xe rời thị trấn Ng. mệt mỏi thiếp đi, nàng mơ thấy hai người gặp nhau trên ghềnh đá cũ. Gió thổi tóc nàng rối tung bên vai người đàn ông, và nàng thấy hai bàn tay mình chợt mềm như lá cỏ, nàng thấy nắng chiều chiếu những tia vàng chói lọi trên mặt sóng xanh. Nàng thấy lại vòng tay ấm và cái hôn vị mặn- Giây phút của phép lành đã ban cho nàng sự sống lần thứ hai trong đời. Ðúng vào lúc ấy, ngọn gió lốc chợt thổi lên, cuốn xiết; mặt biển tở nên một vực xoáy khổng lồ; trong tiếng cát bay dữ dội, doi đất cong cùng thị trấn hoa quỳ vàng từ từ bị cuốn theo dòng cuồng lưu vô tận. Ng. thanh thản mỉm cười và nép mình trong vòng tay người yêu dấu trong khi cả hai cùng với ghềnh đá trôi theo một hành trình xa hút. Hành trình ấy dẫn đến một xứ sở rất xa, xa hơn mọi ánh sáng mặt trời- Bởi vì chính mặt trời cũng không vĩnh cửu.
 
Trăng Nơi Đáy Giếng

"Tôi xin mình, mình dẹp giùm tôi mấy cái bàn thờ này đi. Chuyện mê tín dị đoan, đâu hay ho gì".

Giọng thầy Phương vẫn từ tốn như thường lệ, nhưng đôi bàn tay liên tục gõ xuống bàn chứng tỏ tâm trạng thầy đang bức xúc. Cô Hạnh chỉ lặng lẽ nhìn: người đàn ông này đã là người cô thương yêu, tôn thờ cho đến nửa đời người. Trước đây, mỗi cái nhìn của ông là mệnh lệnh đối với cô, vậy mà nay cô phải trái ý ông. Ý NGHĨ ĐÓ LÀM CÔ RƠM RỚM nước mắt.

Hơn mười mấy năm, họ đã sống chung nơi căn hộ bé nhỏ này. Mỗi sáng, người trong xóm đều thấy cô Hạnh xách tô ra đầu ngõ mua bún cho chồng. Những hôm mưa lâm thâm, cái dáng gầy của cô co ro, tay cô cầm chiếc nón cố che cho kín tô bún, chứ chẳng nhớ che đầu. Thầy Phương người nho nhã, mảnh mai, trắng trẻo. Vốn là con nhà dõng dõi, lại được cưng từ nhỏ nên thầy kén ăn, phải chăm từng li từng tí.

Nói là kén ăn, không phải là thầy đòi hỏi cao lương mỹ vị, mà chỉ cần những thứ đơn giản thôi, nhưng phải biết ý mới chiều được. Bữa ăn không cần thịt cá, đôi khi chỉ cần đĩa bông bí chấm nước tôm kho đánh, nhưng nước tôm phải thật sánh, thật thơm, đỏ rực. Thịt bò thì nhất định phải nấu canh với hoa thiên lý, tô canh dìu dịu mùi hương ngọt ngào. Ðêm khuya ngồi đọc sách, chỉ cần ăn củ khoai bồi dưỡng, nhưng khoai phải ngọt, dẻo, hấp với lá dứa. Chiều thì vài lóng mía tiện thật sạch sẽ, ửng màu đỏ cầm rượu.

Căn nhà nhỏ không có đồ đạc gì xa hoa, nhưng sạch như lau như li. Tính thầy Phương rất sợ bẩn. Trong bếp, phòng tắm, những cái chậu đủ màu được cô Hạnh đặt đúng vị trí của chúng, tất cả đều khô ráo, sạch sẽ. Cái chậu rửa mặt ấy còn tinh tươm quá, này coi chứ chứ... chậm con là vì quá sạch đấy" - các bà hàng xóm đùa. Trong khu tập thể này, các bà đều là cán bộ, việc cơ quan, việc nhà cứ ùn lên, ai cũng bết bát, chẳng có thời giờ nào mà chiều chồng. Các ông chồng trong xóm nào là chẻ củi, đi chợ, đón con, chẳng từ một việc gì, chỉ riêng thầy Phương được hưởng ngoại lệ. Thực ra, đâu có phải vì thế mà hơn mười năm không có con. Cô Hạnh thừa biết điều đó nên nghe người ta đùa, cô chỉ cười...

Ở đầu ngõ, ngay cổng vào khu tập thể là nhà bà Thu, thư kí công đoàn trường Thuận Ðạt. Ngày ấy, bà Thu hội ý xong với Ban chấp hành Công đoàn trường và quyết định đến thăm chính thức cô Hạnh. Vì lý do tế nhị của cuộc thăm viếng, bà đã cẩn thận chờ cho đến lúc thầy Phương đạp xe ra khỏi, bà mới vào. Bà tìm cách nói với cô Hạnh: "Cô Hạnh này, người ta đồn anh Phương có vợ nhỏ, Công đoàn và Ðảng uỷ đã tiến hành kiểm tra, thật đáng tiếc, việc này hoàn toàn chính xác". Cô Hạnh nghe, ngồi nhìn thẳng vào mắt bà Thu, không tỏ vẻ ngạc nhiên. Trái lại, bà Thu kinh ngạc đến hụt hẫng trước vẻ bình thản của người vợ bất hạnh: bà cứ tưởng cô Hạnh sẽ ngất đi, hoặc ít ra cũng níu lấy bà mà hỏi vặn đủ điều. Nhưng không, cô cứ lặng lẽ, dịu dàng, dường như cố nén nỗi khó chịu vì bị quấy rầy!

Chờ mãi không nghe nói gì, bà Thu phát cáu: Chuyện đến thế, chị tính sao? Chị phải có thái độ đi chứ? Hay chị là Phật đất? Cô Hạnh thở dài: Hoàn cảnh em không có con, dù anh ấy có thế, em cũng chẳng oán trách. - Nói thế nghĩa là chị biết anh ấy phản bội chị mà cố tình giấu giếm tổ chức? Anh ấy không phản bội tôi - cô Hạnh ngẩng phắt lên. Vâng, dù rằng ông Phương đã có một người đàn bà khác, có một đứa con không do cô sinh ra, ông vẫn là vị Thánh sống đối với cô. Cô không cho phép ai nặng lời khi nói về ông ấy. Bởi tất cả những chuyện này là do cô: cô đã tự tay sắp đặt, chỉ vì không chịu nổi vẻ buồn thầm lặng trên khuôn mặt ông.

"Không phải dễ dàng mà thuyết phục được anh ấy - Bởi vì anh ấy quá thương tôi. Hơn nữa, là người có chức trách, anh không dám. Tôi phải năn nỉ, ép uổng, hứa giữ bí mật cho anh ấy..." Bà Thu cau mày: "Sao chị lại làm thế? Chị có biết như vậy là phong kiến cổ hủ không? Chính chị đã đẩy anh ấy vào con đường hủ hoá!"

Cô Hạnh khóc. "Vâng. Có thể là như vậy, nhưng lúc ấy tôi không nghĩ gì hết. Tôi chỉ muốn anh ấy sung sướng". Vâng, khi người ta thực lòng thương yêu nhau, có điều gì mà không thể hy sinh. Một cô gái quê bỗng chốc được cô Hạnh chăm lo từng li từng tí: từng chục trứng gà, từng chai mật ong được chuyển về làng để tẩm bổ cái thai mới thành hình. Rồi đến ngày cô được đền bù: Ðứa con trai ra đời, cô Hạnh bế lấy nó, đỏ hỏn trong lớp tã. Ông Phương quàng vai cô, vỗ về: Con của em đó. Nghe chồng nói, cô ứa nước mắt vì sung sướng...

Nhưng giờ đây, ngồi trước mặt bà Thu, cô mới thấy chuyện đời không đơn giản. Sắp đến kỳ bầu tín nhiệm hiệu trưởng rồi... Ông Phương bảo: Chức hiệu trưởng là cái gì... Bỏ, bỏ hết. Với tôi, chỉ cần mình vui lòng. Tôi chấp nhận mất tất cả.

Ông nói thế, nhưng rồi không giấu được vẻ buồn. Lại cái vẻ buồn trầm lặng làm xót lòng cô. Cả đời ông sống nghiêm nghị, không để ai nói tiếng nặng tiếng nhẹ bao giờ. Giờ đây, tưởng tượng tới khuôn mặt những người lâu nay vẫn đố kị với ông... Họ sẽ hả hê biết bao trước cái tội lỗi rành rành của vị Thủ trưởng đáng kính. Họ sẽ rung đùi, cười khẩy chờ ông đứng lên nhận tội... Ðể rồi khoái trá xúm lại tố khổ ông, như bầy sói túm lại xé con mồi...

Quả thật, cái tin "ông Phương hai vợ" vừa được tung ra, đã có vài ba người rắp ranh ngắm nghé cái ghế ông đang ngồi. Cuộc bầu tín nhiệm được tổ chức vào đầu tháng 3, được dự kiến như là ngày chôn vùi luôn sự nghiệp của ông hiệu trưởng nổi tiếng quản lý giỏi, đã đưa trường Thuận Ðạt thành một trường tiên tiến dẫn đầu tỉnh trong hơn năm năm. Người ta chờ ông Phương đứng dậy rút lui và tự kiểm điểm, nhưng sao lâu quá chẳng thấy động tĩnh gì... Sốt ruột quá, một vị đứng dậy cắt ngang lời ông Phương khi ông còn đang trình bày "chương trình hoạt động" mà ông dự kiến sẽ thực hành trong thời gian tới:

- Chuyện năng lực của anh Phương thì còn gì phải bàn nữa, dài dòng làm chi mất thời gian. Chỉ có điều, dư luận đang râm ran chuyện gia đình anh, anh em tui rất hoang mang. Vì, lãnh đạo thì không chỉ có tài mà phải có đức...

Ông Phương không nói, chỉ lặng yên bình thản nhìn kẻ địch thủ đang hân hoan, đắc thắng, rồi lại bình thản nhìn cái vẻ hân hoan, đắc thắng đó xẹp xuống, nhăn nhúm lại như một quả bóng xì xuống thất vọng. Bởi vì cô Hạnh đã đứng dậy đưa ra trước Hội đồng tờ giấy chứng nhận ly hôn giữa cô và ông Phương cùng tờ giấy đăng ký kết hôn giữa ông Phương với vợ mới. Lúc đó cả hội trường mới biết rằng, trên pháp luật, ông Phương chẳng có lỗi gì... Nghĩa là cái chức hiệu trưởng của ông, lấy búa tạ mà nện cũng không thể nào rung rinh nổi.

Không rung rinh nổi, nhưng người ta vẫn cứ tìm cách nện. Lòng người đầy ham muốn, đâu có buông tha cho ông Phương qua cửa ải một cách dễ dàng như thế. Vì vậy, trọn năm sau, ông Phương quả là lao tâm khổ tứ, ở không yên ổn, ngồi không vững vàng.

Lại một lần nữa, bà Thu phải đến thăm riêng cô Hạnh. "Khổ thân chị, tôi tìm mọi cách trấn an dư luận để bảo vệ chị, nhưng mà người ta không thể thông cảm như tôi. Nói chị đừng buồn, hoàn cảnh chị rất gay. Chị đã phạm pháp mà không biết: sống chung như vợ chồng với chồng của người khác!

Cô Hạnh sững sờ. Giờ đây ông Phương có còn là chồng của cô nữa đâu? Cô nhìn thằng bé đang thiêm thiếp ngủ trong tay run rẩy. Cô biết, người ta đang lôi tuột ông ra khỏi tay cô. Cô sẽ phải xa ông, bất giác, cô ôm chặt lấy cu Nhứt, như cố níu giữ cái phiên bản của người đàn ông mà cô tôn thờ...

***
Lại một lần nữa, tôi phải năn nỉ anh. Tôi không đành lòng thấy anh cứ gầy rộc đi, mắt hõm, râu mọc xanh cả cằm. "Quân tử ứ hự đã đau, Tiểu nhân dùi đục đập đầu như không". Anh vẫn thường nói thế. Con người anh tinh tế, tự trọng, chịu sao nổi bao nhiêu lời ong tiếng ve. Ðành lòng dốc hết tiền của góp nhóp trong người mười mấy năm mua một căn nhà ở ngoại ô cho anh ấy đưa cô Thắm lên. Lúc ấy, Thắm lại đang có thai. Thương tôi, anh ấy không chịu rời đi, tôi phải cắn răng làm mặt giận, cấm lửa nhịn đói suốt mấy ngày...

Anh đi rồi, căn nhà trống đến khủng khiếp. Ði làm về, tiếng mở cửa tiếng bước chân tôi cứ vang lên lạnh lẽo như từ thế giới nào. Vào đến gian bếp, nhìn thấy chiếc may ô của anh còn sót lại trên dây phơi, tôi sụp xuống, nức nở khóc...

Thỉnh thoảng anh cũng về thăm tôi. Nhưng anh về một chút rồi lại đi. Tôi không dám trách. Sắp đến đại hội chi bộ, phải giữ gìn. Anh có muốn nấn ná tôi cũng giục anh đi cho được. Anh bảo: "Mình đừng buồn. Tôi nói với mình đinh ninh từ khi chưa ly hôn. Nay cũng thế, tôi ở bên ấy nhưng thực ra chỉ có mình mới là vợ của tôi". Tôi nghe, chỉ biết khóc. Vợ chồng mà gặp nhau lén lút như thế này, cái số tôi sao mà trớ trêu? Có hôm bị bệnh nằm một mình không dám nhắn chồng, tôi đành nhắn người mời bà đồng Thơi đến chích lễ giải cảm. Bà Thơi vừa nặn máu cho tôi vừa bảo: "Khí đen tụ ở giữa hai chân mày. Cái uất nén trong lòng mà thành bệnh". Tôi lắc đầu: "Tôi không uất, không phiền. Chỉ vì mệt mỏi quá". Cô Thơi sửa lại áo khăn thắp nén hương giữa trời. Hôm ấy rằm, trăng sáng. Cô Thơi niệm khấn rồi cầm chén nước trong bảo tôi uống. "Ðể tôi xin cho chị một quẻ Thánh". Cô Thơi xủ quẻ rồi nói: "Quẻ của chị là quẻ lộng giả thành chân. Ðêm trăng nơi đáy giếng, thấy bóng chẳng thấy hình. Cứ theo quẻ này giả hoá thực, thực hoá giả, giả thực thực giả khó lường". Tôi cũng không tin mấy, chỉ cảm thấy dễ chịu vì có người quan tâm. "Việc gì thực hay giả, mà giả thực liên quan gì đến bệnh cảm của tôi?". Cô Thơi nghiêng đầu như làm duyên, cặp môi son hé cười: "Lời Thánh sâu sa, nhiều khi đến việc mới hiểu".

Ðại hội Chi bộ đã qua, anh lại được tín nhiệm cao. Tôi mừng. Tôi nhắn Thắm chăm sóc anh cho chu đáo. Không có ai khó chăm như anh. Cái gì cũng phải sạch, phải tinh tươm. áo quần gấp xong nhớ đặt vào tủ, ngay ngắn, bộ nào sắp mặc thì đặt cuối giường chứ đừng đặt đầu giường. Chỗ anh ấy ngồi viết thì phải tinh tấn, ngăn nắp, đừng qua lại nhiều làm phiền anh. Tôi dặn gì, Thắm cũng nhất nhất vâng dạ. Thấy Thắm ngoan, tôi mừng.

Tết đến, tôi lo mua nếp gói bánh. Năm nay nhà đông phải gói nhiều. Ðang loay hoay tìm mua lá dong, chợt nghe nói bà Thu sắp có dịp về quê, tôi lật đật sang nhờ bà ấy mua giúp. Vào đến cửa, tôi chững lại khi nghe tiếng anh Phương, rồi tiếng Thắm. Một giỏ quà, ý chừng đồ đi tết, đang nằm trên ghế. Bà Thu cười: Không có tôi thì anh chị còn mỗi người một nơi đến bao giờ? Nhưng mà nói vậy chứ không nhận quà này nhé. Bày vẽ làm gì, cái tình với nhau là chính". "ấy, chút quà xin chị nhận cho, của thảo lòng thành". Tôi rụng rời, không nhận ra được giọng cô gái quê thơ ngây chất phác sáu năm về trước... Bà Thu ngọt ngào: "Cái cô Thắm này khéo thật, chả trách bà Hạnh cất công tìm tòi chọn lựa mãi". Tiếng Thắm cười: "Chị ấy tưởng thế thôi chứ thực ra trước khi bà thím giới thiệu với chị thì anh Phương đã gặp em mấy lần khi về quê ăn giỗ". "Quả là chồng khéo vợ khéo, trách gì chẳng thành đôi". Họ cười, tiếng cười vui vẻ râm ran trong đêm yên ả...

Tôi rút lui, suýt ngã khi xuống thềm. Rồi cứ đi trong đêm như người ngây, mãi đến lúc bước vào một ngôi nhà, ngửi thấy mùi nhang trong không gian, và nhận ra mình không hiểu từ lúc nào đã đến nhà cô đồng Thơi. Tôi ngồi sụp xuống nền nhà mà khóc, nhớ lại lời cô nói với tôi đêm trăng hôm nào. "Nín đi em. Em giỏi nín đi. Rồi cô soi cho, cho thấy hết tiền oan nghiệp chướng". Tôi cứ tỉ tê khóc, cô nạt: "Sao lại khóc? Mất gì đâu mà khóc. Cái mất, thực ra đã mất từ lâu rồi. Chừ còn ôm huyễn mộng mà kêu trời như con đười ươi ôm cái ống tre rỗng mà cười một mình giữa núi". Lời cô Thơi làm tôi tỉnh ra. "Tôi sai rồi, còn oán ai. Người ta là vợ chồng, đã có con cái. Còn tôi... tôi chỉ là một vật thừa..." Cô Thơi hứ một tiếng, đỏng đảnh: "Ðã thương thì thương cho trót, đã vót thì vót cho tròn. Ðã giữ thì giữ riết luôn, đã cho thì cho đứt". Tôi bỗng ngượng ngùng, không khóc được nữa. ừ, đã cho thì cho đứt luôn, sao tôi đã nói hy sinh mà còn tiếc nuối. Nhưng là người có máu có thịt, làm sao bỗng chốc cắt lìa? Tôi đâu có phải Thánh mà một phút dứt bỏ nửa cuộc đời... Không, không phải nửa cuộc đời, anh là cả cuộc đời tôi...

Tết năm ấy, tôi sốt li bì, suốt ba tuần rụng gần nửa đầu tóc. Chiều mồng ba tết, mở mắt ra, thấy anh Phương và Thắm ngồi trước giường. Tôi thở dài, se sắt. Tôi mong gặp một mình anh, một lần. Ðể tôi mơ ước được mạnh trở lại, được để dành cho anh cái thau sạch, cái khăn sạch, lựa cho anh củ khoai thật bùi thơm ăn khuya, đọc sách. Nhưng anh không dám đến đây một mình... Tôi ứa nước mắt nhìn hai vợ chồng - vâng, họ mới là hai vợ chồng. "Tôi hiểu cả rồi. Hai người không phải lo cho tôi. Cho thằng cu sang đây với tôi là đủ. Có nó là tôi sống được". Thắm giặt khăn lau mặt cho tôi. Anh Phương không nói gì, cũng chẳng dám tỏ thái độ gì. Tôi cố bình thản che nỗi xót xa. Tôi mất anh rồi, sự thực đã như thế từ lâu mà giờ này tôi mới bẽ bàng nhận ra...

Tháng sau, Thắm sinh con thứ hai, lần này là con gái. Cu Nhứt về ở với tôi, thằng bé bồng theo một con chó con. Căn nhà tưng bừng lên vì tiếng trẻ con cười, tiếng chó gâu ăng ẳng. Tôi như người sống lại. Thằng bé gọi tôi là mẹ Cả. Tiếng gọi thật ngọt ngào. Tôi rất muốn thằng bé gọi tôi chỉ là "Mẹ" thôi. "Như thế thì cu lầm với mẹ hai. Ba bảo cu: Mẹ cả, mẹ hai, hai mẹ đều là mẹ cả, mà!". Tôi bật cười. Cu Nhứt thông minh y như ba nó. Cái mắt sáng, cái da trắng, cái chân mày nét ngang, tất cả đều là của anh. Mặc thằng bé gọi tôi bằng gì đi nữa, nó vẫn là con tôi. Tôi lại trồng khoai, lại nuôi gà, lại để dành từng quả trứng. Thằng bé ăn, tôi thấy ngon. Ðêm nó ngủ dụi đầu vào lòng tôi. Tôi đã có con, tạ ơn trời, giờ đây tôi không cần gì hơn nữa...

Lại tháng chạp, tôi đến cô Thơi xin cho cu Nhứt cái bùa đeo cổ để đeo đi chơi tết. Cô Thơi mới tạc pho tượng ông hoàng đứng trên mây, vừa rước lên bàn, thắp nhang xong thì quay ra thấy tôi. Ðưa bùa cho tôi xong, cô bấm quẻ dịch rồi bảo: Chiều lòng chị thì rước cho chị, chứ chị xin nhằm giờ không vong, vật tuy có nhưng mà vô dụng.

Tôi băn khoăn về nhà. Ngày xưa, anh Phương thường trách tôi mê xem bói. Anh không biết đó là chỗ dựa tinh thần của những người đàn bà hay bối rối như tôi... Ðến cửa, tôi giật mình khi thấy Thắm. Cu Nhứt quấn mẹ đẻ, cười rúc rích. Thắm khẽ khàng thưa gửi:
- Trình chị, em đã cai bú cho bé, nay xin chị cho cu Nhứt về nhà ăn tết với em.
Tôi khựng lại, đau đớn. Một lát sau tôi đeo cái bùa vào cổ cho cu Nhứt:
- Ðeo cho em kẻo đi đường gió máy. Mà ăn tết xong mồng mấy mới cho em về?
Thắm không nói gì, chỉ nhìn tôi, một cái nhìn khó hiểu.
Thằng bé đi rồi, còn lại con chó con luẩn quẩn với tôi. Ðã một năm, giờ nó đã choai choai, láng mượt. Cu Nhứt dặn: "Mẹ cả nuôi cẩn thận cho cu". Bao nhiêu thứ dành cho thằng bé, giờ xẻ hơn nửa cho nó. Thui thủi vào ra, chỉ có nó và tôi.

Từng ngày, tôi chờ con trở về, càng ngày càng trông càng ngóng. Nhiều hôm, nghe tiếng thằng Tèo nhà bên cạnh gọi: "Mẹ ơi!" giọng trẻ con sao mà giống nhau, tưởng con về, đang làm gì tôi cũng vứt hết chạy ra. Chỉ thấy sân hiên vắng lặng, không một bóng người...

Rằm tháng giêng. Con chó đột nhiên bỏ đi đâu mất. Tôi tìm ngất ngơ quanh xóm chẳng thấy. Lòng cồn cào lại càng nhớ, càng thương cu Nhứt. Góp được một chục trứng gà, tôi lững thững đạp xe đi thăm con. Lâu lắm mới đến nhà mới, tôi ngạc nhiên vì nó lạ hẳn so với cái thời hai vợ chồng đến mua. Cây cỏ mọc xanh trong sân, một mái hiên rộng được cơi thêm ra, thoáng mát. Tôi từ từ bước, phân vân như đi vào một ngôi nhà lạ.

Cu Nhứt đang chơi ở hiên sau. Vừa đùa với quả bóng, thằng bé vừa hát: "Trên trời cao, có muôn ngàn ánh sao... Nhưng mặt trời chỉ có một mà thôi. Và mẹ em chỉ có một trên đời. ..". Thấy tôi, thằng bé reo lên, chạy ùa vào lòng tôi... Nhưng nó bỗng khựng lại, đưa mắt nhìn vào trong, rồi cầm tay, thỏ thẻ: "Mẹ Thắm bảo con, thời này mà còn mẹ cả, mẹ hai, nghe cổ hủ lắm. Vậy con gọi bằng gì?". Tôi ôm cái đầu nhỏ bé vào lòng, chỗ có trái tim phập phồng đau đớn. "Thôi thì... Con hãy gọi bằng bác... Bác tệ quá, hôm qua đã làm mất con CHÓ CÚN CỦA CON". "Ồ, không mất, bác ơi, nó đây này!". Con cún từ sau vườn chạy tới, nhảy lon ton, vẫy đuôi rối rít. Ôi, cả con chó cũng bỏ tôi tìm về đây mất rồi!

Bàng hoàng, tôi đứng dậy, bước đi. Rỗi bỗng quay lui, tôi dạo một vòng sau nhà, như muốn nhìn tận mắt cái thế giới đang hút về tất cả những gì yêu quý nhất của một đời tôi... Sau sân, anh Phương ngồi bên vòi nước, đang lúi húi giặt một đống quần áo đủ loại, đánh đánh chà chà trên sân xi măng. Chưa bao giờ thấy anh trong tư thế như vậy nên tôi sững sờ, ngẩn cả người không sao nói một lời. Không hiểu sao đã chịu đựng bao nhiêu điều nặng nề, mà giờ đây tôi lại không kham nổi cái cảnh tượng hết sức bình thường thế này? Thắm đang ngồi dỗ con, thấy tôi vào chỉ cười, hất hàm về phía đức ông chồng: "Làm trai, học sẩy học sàng. Ðến khi vợ đẻ thì làm mà ăn". Tôi ngẩn ngơ như người mất hồn, lẩn thẩn nói: "Ngày trước ở với tôi, anh ấy chẳng phải động tay tới việc gì. Tôi đi vắng mà trời mưa, anh ấy cũng chỉ lôi giùm tôi cái áo trên dây phơi, chứ cái quần để mặc cũng không hề đụng đến". Thắm khủng khỉnh: "Em thấy chị cũng sạch chứ đâu có bẩn. Mà người quân tử có sợ bẩn thì dùng khoèo mà khoèo, rồi dùng xà phòng mà rửa khoèo cũng được chứ sao? Tôi cảm thấy như có quả đấm giáng vào giữa mặt, lảo đảo, trời đất chung quanh tối sầm. Cố gắng về đến nhà, tôi lăn ra mà khóc, khóc thảm thiết. Láng giềng nghe tiếng hờ trời hờ đất chạy sang hỏi: "Ai chết thế?". Tôi không nói được gì, không nghĩ được gì, trong tâm trí chỉ có mỗi một hình ảnh: thần tượng của tôi, vị thánh sống của tôi ngồi chò hỏ giặt đồ bên bể nước. Những bọt trắng xà phòng bay, bay tấp tới, nhận chìm tôi, tức tưởi, mê man...

Lại một lần nữa, tôi ốm nặng, tóc rụng lả tả trên gối, nhưng không báo với ai để khỏi ai bận lòng.

Ðấy là chuyện đời chồng trước của tôi...

***
Người trong xóm cứ tưởng cô Hạnh phen này chết vì mấy lần cô bắt chuồn chuồn, cấm khẩu. Họ ngạc nhiên khi thấy cô không thuốc men gì mà lại đi đứng như thường. Cô xin về hưu non, cuốc đất, làm vườn, lại sống cái đời cần cù và đạm bạc như thuở nào. Sáng sáng, họ lại thấy cô mua bún bò, bưng vào ngược con ngõ, những bữa trời mưa lâm thâm cô kéo chiếc nón che tô bún, quên cả che đầu.

Rồi trước hiên nhà lại xuất hiện những cái áo nho nhỏ màu đỏ, màu xanh phơi trên dây. Ai đi ngang hỏi, cô cười HIỀN LÀNH: "ÁO THẰNG CU. May cho cu mặc tết".

Nếu ai tò mò đi theo cô vào căn nhà vắng lặng, có thể thấy ngay giữa nhà là một bàn thờ đồ sộ mà cô gia công trang hoàng như một cung điện rực rỡ vàng son. Giữa bàn thờ là tượng một người đàn ông đẹp đẽ phương phi, tay cầm kiếm, chân đạp lên mấy tầng mây. Có hỏi thì cô thì thầm: "Ông Hoàng Bảy, trấn thủ tỉnh Thừa Thiên".

Rằm, mồng một, cô chất hương hoa đầy thánh điện của cô, rồi ra nhà bà đồng Thơi lễ bái. Nghe đâu bà đồng Thơi bảo rằng số cô Hạnh không theo ông Phương được trọn đời vì người âm ưng, mà người âm này vai vế lớn lắm, con thứ bảy của Ðức Mẫu, quyền sinh sát cả một giang sơn. Lâu nay, ông với cô Hạnh đã được một con trai ở cõi vô hình, mà cô Hạnh đâu có hay.

"Nhờ có Thánh cứu, chứ không thì mấy trận đau, hắn đã chết trọc óc chứ mô còn tới chừ". Bà Thơi nói. Cô Hạnh cười, vẫn cái cười dịu dàng, không còn buồn thảm như xưa, mà phảng phất một vẻ mơ màng - vẻ mơ màng thường thấy trên gương mặt những người lãng trí. "Sắp tới tháng Ba rồi, phải không chị? Tháng Ba ni chị cho em đi về chầu điện Hòn Chén". Bà Thơi nghe cô Hạnh nói, hài lòng GẬT ĐẦU. "Ừ, THÁNG BẢY giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ. Lễ hội tháng Ba này em cũng nên về chầu Ðức Mẫu cho phải đạo dâu con".

Ðầu tháng Ba, ông Phương bỗng về thăm vợ cũ. Từ đó, người ta thấy ông qua lại luôn. "Năm lần bảy lượt tôi nói với mình, mình dẹp cái trò mê tín đó đi giùm tôi. Vì cái chuyện đồng bóng lễ bái của mình mà tôi mang tiếng nhiều lắm rồi, dù gì thì mình cũng là vợ cũ của tôi, một hiệu trưởng, một đảng viên...". Cô Hạnh chẳng nói gì, đang lo đặt đĩa khoai luộc nóng hổi lên bàn thờ. Trông dáng vẻ cô ân cần chẳng khác gì trước đây chăm chút cho ông. Cử chỉ đó làm ông Phương thêm bực tức . "Mình muốn trách khéo tôi phải không? Mình biết là đâu phải tôi muốn thế, chính mình đã muốn hy sinh cho tôi... Tôi xin mình, hãy vì tôi lần nữa...".

Cô Hạnh đã đặt xong đĩa muối chấm khoai, thủng thỉnh ngồi xuống, nhìn ông Phương với đôi mắt rộng lượng như thể từ trên cõi tiên nhìn xuống thế giới nhỏ bé của loài người. "Hôm qua ông đã gặp bà Thơi phải không? Thảo nào bà ấy bảo tôi có muốn quay về với ông thì để bà ấy xin cho cái lễ chẻ đôi chiếc đũa đồng tiền, li dị với ông Hoàng...".

"Mình đừng giận tôi, thuở ấy người ta còn khắt khe, mình cũng biết hơn ai hết. Giờ đây quan niệm về đời tư cũng cởi mở hơn trước, thỉnh thoảng tôi lại về thăm mình. Ðể mình thui thủi thế này tôi cũng chẳng đành lòng".

Cô Hạnh nhìn ông Phương một lát rồi cười. Cái cười mơ màng lâu nay vẫn ẩn hiện trên gương mặt cô. "Ông à, thực ra tôi không giận ông. Nhưng chuyện ông nói thì không thể được. Tôi đã vì ông đến nửa đời người, nay ông yên phận rồi, hãy để cho tôi yên phận tôi. Xưa tôi là vợ mình, chỉ biết có mình, nay đã là vợ ông Hoàng, chỉ biết có ông Hoàng. Tôi đã nói với bà Thơi, tôi không cúng, không chẻ đũa, bẻ tiền chi hết, tôi không bỏ ông Hoàng vì ông ấy đỡ đần tôi khi thập tử nhất sinh, ông ấy không bỏ tôi, không ruồng rẫy tôi bao giờ...".

"Nhưng làm gì có cái gọi là ông Hoàng, làm gì có cái bóng ma ấy, nó chỉ có trong trí tưởng tượng của bà thôi, bà có biết không?". Ông Phương phát thịnh nộ, không tự chủ được nữa, đập mạnh tay xuống bàn mà nói như quát. Cô Hạnh đứng bật dậy, run bần bật như bị xúc phạm nặng nề. Hai hàm răng cô đánh lập cập vào nhau, rồi bỗng cô thình lình vớ lấy cả cái khay ấm chén trước mặt, ném vào người chồng cũ. Ðến lúc ấy ông Phương vẫn không nhận ra rằng từ khi bị cô Hạnh bắt gặp ngồi giặt đồ bên bể nước, trong mắt cô, ông chỉ còn là một tượng thần đã mất hết linh thiêng.

Người trong xóm thấy ông Phương phóng xe ra ngược con ngõ, áo và tóc ướt từng vạt nước trà vàng vàng, mặt bừng bừng lửa giận. Hai hôm sau, việc đến tai bà Thu. Bà lắc đầu an ủi: "Chị ấy tốt bụng nhưng lý trí không vững nên tâm nó loạn. Trước đã bày ra chuyện phong kiến cổ hủ, nay lại sinh ra trò mê tín dị đoan. Thôi thì mặc ý chị ấy, tôi cũng hết phép".

Cô Hạnh chẳng quan tâm đến ai, cứ vào ra trong ngôi nhà vắng tanh với nụ cười mãn nguyện của một người đàn bà hạnh phúc. Chiều hôm ấy cô thung dung đi chợ chọn mua vải may chiếc áo dài mới để tháng Ba này ngược sông Hương trảy hội mùa xuân.
 
Mưa ở Strasbourg

Tôi sang Pháp với Miên và ông Tú. Tham dự một chương trình giao lưu văn hóa trong vòng mười ngày, đối với tôi chẳng có gì quan trọng, ông Tú cũng vậy. Tới ngày đi, quơ vội mấy bộ quần áo bỏ vào vali là xong.

Cả hai chúng tôi đều đi nước ngoài đã nhiều lần. Nhưng với Miên là lần đầu, mới được một giải thưởng diễn viên xuất sắc nên được chọn đi. Cô hào hứng, hồi hộp, cứ vài hôm lại điện cho tôi, hỏi xem nên đem cái gì, khí hậu bên đó ra sao. Gọi nhiều đến nỗi tôi phát bực. Được cái may, cô có giọng nói thật dễ thương, không thì tôi đến chết vì stress.

Ông Tú hoàn toàn không nói được tiếng Pháp, còn tiếng Anh thì chỉ biết “very good” và “number one”. Miên có chịu khó học nói năm ba câu bập bẹ nhưng nghe thì chưa rèn luyện gì cả nên xem như điếc đặc. Tôi phải gánh trách nhiệm làm tai nghe miệng nói cho cả đoàn. Ông Tú là trưởng đoàn, tôi tất nhiên phải lo phục vụ ông rồi; còn Miên biết thân phận mình nên lo o bế tôi rất sớm. “Qua đó có gì khó khăn là Miên nhờ anh đó nghe!”.

Biết tôi ghiền thuốc lá nên Miên ưu ái tặng tôi luôn hai tút “con mèo”. Ai đã đi nước ngoài đều biết mấy thứ này đắt hơn hẳn trong nước và chưa chắc kiếm được thứ mình thường dùng, hay hơn hết là đem theo cho chắc. Tôi cảm động, món quà rất đúng ý, người tặng quà lại nhỏ nhẹ dễ thương. Tôi cố giữ vẻ mặt lầm lì (từ ngày vào nghề đạo diễn, tôi đã tập cho được cái vẻ hắc ám nặng nề này để các cô nàng diễn viên phải sợ mà nghe lời răm rắp). Cầm hai tút thuốc, lòng âm thầm rung động nhưng tôi vẫn lạnh lùng, buông hai tiếng cụt lủn: “Bày đặt!”.

Sân bay Charles de Gaulle đông nghịt người, cứ như một mê cung, hết đường rẽ này lại lối ngoặt kia. Ông Tú đủng đỉnh mặc tôi xoay mọi việc, còn Miên thì cứ bíu lấy tôi, tay và vai đầy những hành lý. Cái vali của nàng to thế, lại thêm hai cái túi du lịch khổng lồ. Tôi mặc kệ, tảng lờ. Mấy cô gái trẻ này lúc nào cũng tính chuyện nhờ vả người này người kia nên cứ đóng hành lý vô tư, chẳng cần đếm xỉa đến qui định của sân bay mà cũng chẳng màng nghĩ xem mình có đủ sức mang vác không. Tôi nhủ thầm thế nào mình chẳng phải đỡ Miên một tay, nhưng trước hết hãy cứ để mặc nàng xoay xở cho biết thân một lúc cái đã.

Miên cũng biết thân thật nên không dám kêu ca, cứ một tay kéo cái vali và cái túi, tay kia mang một túi kếch sù khác, trông vẻ mặt cam chịu đến cả đá nhìn thấy cũng mủi lòng. Ông Tú hết nhìn Miên ái ngại lại nhìn tôi, ý muốn tôi giúp nàng nhưng ngần ngừ không dám mở miệng. Tôi đang định qua khỏi khúc quanh này sẽ ra tay nghĩa hiệp thì bỗng một người đàn ông tóc nâu xuất hiện.

“Tôi là Claude Vallons, chào các bạn”. Vừa dứt câu chào anh ta liền ôm hôn thắm thiết hết ông Tú đến tôi, rồi đến Miên, Miên vội vã thụt lùi tránh cái ôm hôn của ông Tây. Claude nhớ ra, vội bảo: “Xin lỗi”, rồi nhanh nhẹn cúi xuống hai tay đỡ lấy cả hai cái túi Miên đang vác nặng. Miên mừng quá, ấp úng nói: “Merci”.

Tôi hơi ngượng, vội đưa tay kia ra cầm luôn cái vali Miên đang kéo. Miên tung tẩy hai tay đi tung tăng, vừa đi vừa nói như có ý cho tôi nghe: “Ông Tây này tử tế quá!”. Hơi chột dạ, nhưng để tạo không khí cởi mở bước đầu, tôi nhanh nhẩu dịch ngay câu nói của Miên cho Claude Vallons nghe. Claude hai vai khoác hai cái túi nhẹ nhàng như không, nghe tôi nói liền quay lại cười. Miên lúng túng đỏ mặt, lần đầu tiên tôi thấy nàng thật dễ thương.

Sau một giờ trên chuyến bay nội địa, Vallons đưa chúng tôi đến Strasbourg. Một thành phố đẹp tuyệt với những con đường xinh xắn và những trụ đèn viền đầy hoa leo. Bữa ăn đầu tiên, Claude hỏi tôi muốn đến quán Việt Nam hay quán ăn Pháp. Miên láu táu:
- Sang đây thì ăn thử đồ Tây cho biết chứ thức ăn Việt Nam thì muốn ăn lúc nào chẳng được.
Tôi vừa dịch vừa biên tập câu của Miên: “Cô Miên đây ngỏ ý muốn thưởng thức những món ăn độc đáo và tìm hiểu văn hóa ẩm thực của người Pháp”. Khuôn mặt tươi vui của người đang tiếp khách phương xa càng tươi thêm, lập tức Claude đưa chúng tôi đến nhà hàng Cheval Blanc - tuy tên là nhà hàng Ngựa Trắng nhưng bốn phía vách lại trang trí đầy những hình vịt bay, dấu hiệu đặc trưng của thiên nhiên vùng Alsace. Chiều hôm đó, sau cuộc đi thăm Bảo tàng Strasbourg, Miên nhăn nhó bảo tôi:
- Lúc trưa em sai lầm quá. Không ngờ đồ ăn Tây khó ăn đến thế. Em ăn chẳng được mấy miếng, bây giờ đói lả người.
Ông Tú nghe vậy gật gù góp thêm:
- Mình cũng vậy, nhất là lúc anh chàng Claude giới thiệu các món phó mát đặc biệt quý hiếm làm bằng sữa dê núi, mình không tài nào nuốt được.
Tôi cười khinh khỉnh:
- Bởi vậy đừng có láu táu, muốn ăn gì, mua gì thì hỏi tôi đây này. Đã dặn rồi mà lại...
Miên cười như biết lỗi:
- Em quên! Mà thôi tối nay đừng ra ăn quán nữa, để em lo...

Miên đem theo trong vali cả một túi gạo mười cân, cả nồi cơm điện, cả ruốc, nước mắm, chà bông, tôm rim ngọt. Phút chốc phòng Miên trở thành phòng ăn cho cả đoàn. Ông Tú được bữa cơm hợp khẩu vị, hớn hở ra mặt. Miên bô bô: “Đấy, dân mít nhà ta, không có nước mắm và bột ngọt thì dù cao lương mỹ vị cũng không nuốt nổi, phải không anh?”.

Tôi làm mặt nghiêm nhưng rồi cũng phải gật gù tán thưởng vì Miên nấu ăn ngon thật. Ông Tú bảo nhỏ tôi: “Này, cậu vẫn còn độc thân phải không? Cô bé này hay đấy, cứ tưởng chỉ biết văn nghệ văn gừng, không ngờ đảm đang nhanh nhẹn thế!”.

Người ta bảo đường vào trái tim người đàn ông phải thông qua dạ dày, quả đúng thật. Bữa cơm ngon làm tôi quên gần hết những ấn tượng bực bội khi phải vừa dịch vừa biên tập những câu nói quê mùa của nàng.
***
Claude đến đón Miên rất sớm, từ trước tám giờ là giờ mà ở đây người ta mới lò mò xuống phòng ăn để điểm tâm. Miên mặt tái lét chạy qua gõ cửa phòng tôi:
- Anh đi với em, chứ em biết gì mà nói năng.
- Có cần nói năng gì đâu, hôm nay vì em phải diễn cho nên Claude đưa em tới nhà hát trước để chuẩn bị mà. Anh đi thì bỏ ông Tú cho ai.
- Anh thì chỉ lo cho sếp thôi, không quan tâm tới phụ nữ... - Miên ấm ức - Đi một mình với ông Tây em sợ lắm.
- Ông ấy không ăn thịt em thì thôi, sợ cái gì?
Miên năn nỉ quá, rồi tôi cũng mềm lòng đi với nàng, thật là mệt vì thế có nghĩa là đưa Miên đến nơi xong lại phải hộc tốc quay về để tháp tùng ông Tú. Thấy tôi chịu đi Miên mừng quá, hấp tấp nhảy lên ôtô, xui xẻo đầu va mạnh vào cửa xe, cô ngã ngồi xuống nệm choáng váng. Claude vội lấy tay xoa đầu Miên, miệng không ngớt hít hà. Đau quá nên Miên quên cả rụt rè, cứ để mặc cho Claude xoa chỗ đầu u.
Thấy Claude galăng với Miên như vậy bỗng nhiên tôi hơi khó chịu. Hình như máu ích kỷ của người đàn ông núp dưới chiêu bài dân tộc nổi lên trong tôi. Claude bảo Miên:
- Cái cửa xe thật đáng trách, làm đau một phụ nữ xinh đẹp thế này.
Mặt Miên ngớ ra, quay sang nhìn tôi. Tôi bỗng bực mình vô cớ, bảo:
- Ông ấy bảo cô này chắc không mấy khi đi ôtô, thật tội nghiệp.
Đã đau lại còn xấu hổ, Miên tự ái quay đi nơi khác, mắt bắt đầu đỏ lên. Thấy vậy, Claude chẳng hiểu chuyện gì, càng lộ vẻ lo lắng. Vẻ quan tâm này thì không cần dịch, Miên có thể cảm thấy được. Tự nhiên tôi tức anh ách, không hiểu vì sao.
Sau một tuần Miên đã biết tự mình đi xe điện về quảng trường L homme de Fer để vào siêu thị Printemps mua sắm với cái vốn tiếng Pháp bập bẹ của nàng. Đi đâu tôi cũng đi theo giúp đỡ Miên chỉ trừ vào Printemps. Nguyên tắc của tôi là không bao giờ cùng đi với các người đẹp vào những nơi mua sắm. Hơn nữa, hệ thống siêu thị này, với cái tên có nghĩa là mùa xuân, đã nổi tiếng vì lời nhận xét của chính dân Pháp: mùa xuân của quý bà nhưng là mùa đông của quý ông!
Một chiều, đang tập trung trí óc để sửa chữa phần kịch bản chuẩn bị phối kết với kịch bản của Claude Vallons, tôi tình cờ nhìn qua cửa sổ thấy Miên dạo phố vừa về, không phải từ hướng có đường xe điện mà từ trên ôtô của Claude bước xuống. Tôi bỏ bút, chú ý nhìn, quan sát vẻ mặt tươi roi rói của hai người; trời đang mưa phùn, Claude hai tay xách hai túi còn Miên thì cố nhón cao lên để cầm dù che hộ Claude, coi bộ yêu đời lắm.
Một lát sau Miên đập cửa phòng tôi, khoe mấy cái áo da vừa mua ở siêu thị. Tôi lầm lì nhìn lướt qua rồi bảo:
- Người phương Tây rất thoải mái trong quan hệ nam nữ, nhưng phong tục Việt Nam mình nó khác em ạ! Nhất là trong khi mình đang đi trong một đoàn công tác, ít nhiều cũng là đại diện của nước mình...
Miên ngớ ra nhìn tôi, rồi chợt hiểu, cô hỉnh mũi:
- Anh coi em là hạng người nào mà nói thế? Em đi từ Printemps ra gặp Claude đậu xe trước mặt đường. Ông ấy chở hộ em một đoạn, có gì đâu, anh đừng hiểu lầm em.
- Lẽ ra em phải từ chối mới phải. Một mình lên xe của người đàn ông mới quen đâu phải là cách xử sự của người phụ nữ Việt Nam.
Miên đang cầm cái áo da trên tay, ném phịch xuống ghế:
- Thì bữa trước anh bảo em ông ấy có ăn thịt em đâu mà sợ.
Tôi bí nhưng cũng không chịu thua:
- Trước khác, bây giờ khác! Trước là đi làm việc, có lộ trình đàng hoàng. Bây giờ là đi tự do...
Miên phụng phịu:
- Vậy thôi, từ nay chỉ khi nào có anh em mới gặp ông ấy để anh khỏi hiểu lầm.
Nghe vậy tôi vừa ý lắm, dù hơi ép Miên một chút, may mà nàng cũng ngoan.
Chiều hôm sau tôi và Claude cùng nhau phối kết kịch bản. Một kịch bản được hình thành từ hai câu chuyện cổ một Việt, một Pháp xen kẽ nhau. Cuối buổi làm việc, Claude lộ vẻ buồn ra mặt, hỏi tôi:
- Hôm nay sao không thấy cô Miên đến.
Tôi giải thích với Claude là các buổi diễn của Miên đã xong rồi nên nàng không phải tham dự nữa. Đưa tôi về, chàng ta dừng xe nhìn lên lancan tầng ba, một cái nhìn xao xuyến lặng lẽ. Khi bắt tay tạm biệt, chợt Claude bảo tôi:
- Cô Miên diễn thật tuyệt. Hình ảnh Mỵ Châu qua vai diễn của cô ấy làm tôi xúc động vô cùng. Tôi gần như bị ám ảnh về sự chân thành và trong trắng của người phụ nữ Việt Nam...
Tôi siết chặt tay Claude cảm ơn, tảng lờ như không biết đến những gì khắc khoải đằng sau lời tán thưởng rất thành tâm đó.
Nhưng Claude nói tiếp:
- Tôi có ý định mời cô Miên ở lại ít lâu để trao đổi kinh nghiệm với các diễn viên nhà hát trẻ ở đây. Tôi có thể giúp cô ấy xin gia hạn visa...
Lại còn thế nữa! Rắc rối thật rồi. Tôi cố tìm cách lịch sự để giải thích cho Claude hiểu là tôi có nhiệm vụ đưa cả đoàn đi đến nơi, về đến chốn theo ngày qui định. Tôi cũng nói thêm nhận xét của riêng tôi là Miên vẫn còn non nớt chưa có nhiều kinh nghiệm lắm, ở đoàn kịch của tôi còn nhiều diễn viên khác có thể đóng góp hữu hiệu hơn cho các chương trình giao lưu...
***
Tôi chẳng nói gì với ông Tú nên ông chẳng biết gì về đề xuất của Claude. Mà có biết chắc chắn ông cũng nói như tôi hoặc là chỉ ừ hử rồi đẩy sang cho tôi giải quyết. Sau mấy buổi gặp mặt và tiếp tân lúc mới sang, giờ đây ông khá nhàn, đang trông cho mau đến cuối tuần để đến ngày kết thúc chuyến thăm Pháp, ông sẽ bay sang Đức thăm con đang học bên ấy.
Ngày cuối cùng, đang đóng gói hành lý tôi nghe tiếng chuông điện thoại reo. Claude gọi tôi, giọng tha thiết:
- Ông Vinh, nhờ ông dịch ra tiếng Việt cho Miên hiểu. Tôi muốn nói như thế này: “Cô Miên, nếu tôi không được gặp lại cô thì tôi chết mất!”.
Tôi quay qua Miên. “Claude gọi em đấy”. “Ông ấy nói gì, hở anh?” - Miên hỏi, vẻ thờ ơ, nàng đang bận nhét các thứ quà cáp mua được vào đáy chiếc vali chật hẹp. Tôi cố vắt óc để bịa: “Ông ấy nói những buổi diễn của em như vậy xem như tạm được, mong lần sau em sẽ khá hơn và không sai sót nữa”. Miên hỉnh mũi: “Cái ông Claude này hay nhỉ, nói năng cứ như là ông nội người ta không bằng. Nhờ anh dịch giùm: “Bái bai, chẳng có lần sau đâu nhé!”.
Lẽ nào dịch thế được, chắc chắn tôi chẳng muốn chọc giận đối tác của mình. “Claude, Miên bảo cô ấy sẽ nhớ mãi Strasbourg, nước Pháp và những ngày làm việc với ông. Cô ấy sẽ không bao giờ quên ông...”.
Tôi thực tình hào phóng những lời lẽ tình cảm với Claude. Sợ gì đâu, ngày mai tôi đã đưa Miên về nước rồi.
***
Ông Tú bay sang Đức lúc 8 giờ sáng, tôi phải đưa ông lên sân bay và lo các thủ tục cho ông, vì vậy tôi bảo Miên chuẩn bị hành lý lên Charles de Gaulle cùng một lúc, mặc dù phải đến 12 giờ máy bay về Việt Nam mới cất cánh.
Như mọi lần, nàng ngoan ngoãn nghe lệnh tôi, không dám kêu ca gì. “Mình chưa chào ông Claude, thế có phải không?” - Miên hỏi. Tôi nghiêm nghị: “Hôm qua anh đã đại diện cả đoàn tạm biệt ông ấy rồi. Vậy là đủ”.
Ông Tú vào phòng cách ly rồi, tôi và Miên ngồi chờ làm thủ tục về Việt Nam. Tôi đọc báo còn Miên uể oải thỉnh thoảng lại che miệng ngáp vặt. Thời gian trống trải làm tôi bỗng nhiên thèm thuốc chi lạ. Vẫn còn mấy điếu con mèo, tôi nhìn quanh, tìm phòng dành cho người hút thuốc. Miên bảo:
- Anh hút thuốc dữ quá, hại phổi lắm.
Tôi cười, chống chế:
- Không sao, anh sắp bỏ rồi.
Từ phòng hút thuốc bước ra, tôi nhìn về phía lối vào, chợt ồ lên một tiếng! Claude xuất hiện, tay cầm vali:
- Tôi có kế hoạch đi nghỉ ở Thái Lan nhưng nay tôi đổi ý, muốn đi Việt Nam. Tôi cần có thêm chi tiết, không khí và cảm hứng cho vở kịch sắp tới...
Mặt tôi tươi cười nhưng trong bụng thầm rủa: “Quỉ tha ma bắt!”. Claude bước vào quầy làm thủ tục, nói gì đó với cô nhân viên sân bay, cô liền rà lại trên sơ đồ ghế ngồi. Tôi hiểu là Claude đã yêu cầu sắp chỗ cho ba chúng tôi ngồi bên nhau.
Mười tám giờ đồng hồ ngồi trên máy bay đối với tôi thật dài. Claude ngồi giữa tôi và Miên. Tôi thấp thỏm không sao ngủ được. Trước khi đi Đức, ông Tú đã giao cho tôi trách nhiệm thay ông làm trưởng đoàn. Tôi phải chịu trách nhiệm với đoàn viên đến cùng. Suốt đêm tôi ngồi không ngủ, mặc dù tiếp viên đem đến nào gối nào mền... Claude cũng mở mắt yên lặng, chỉ có Miên ngủ say vặt vẹo trên ghế cho đến mãi khi máy bay hạ cánh xuống Bangkok.
Sân bay Bangkok mới xây lại, lộn xộn, khác hẳn quang cảnh lúc chúng tôi transit lần đi. Tôi lấy hành lý từ băng chuyền, chất lên xe đẩy. Phía sau tôi, Miên chới với theo mấy túi hàng, Claude nhanh tay lấy hết giúp nàng, chất lên xe đẩy của mình. Miên hai tay thong thả, vừa bước theo Claude vừa cười bảo tôi:
- Có ông Tây này đỡ quá.
Tôi nhủ thầm: ”Mình sơ ý thật!”. Bám sát theo Claude, tôi quyết tâm thực hành chức năng giám sát của trưởng đoàn. Claude và Miên bắt đầu nói chuyện với nhau, theo kiểu ông nói gà bà nói vịt. Tôi chú tâm nghe hai người nói chuyện, bụng mừng thầm: chẳng cần phải giữ, rào cản ngôn ngữ đã bảo vệ Miên cho tôi rồi. Chợt cơn thèm thuốc lại nổi lên, tôi phải vào phòng hút thuốc.
Chỉ trong thời gian hút chừng nửa điếu thuốc mà không ngờ Claude và Miên đã bỏ tôi một đoạn khá xa. Quỉ thật, sao Miên dám không đứng lại chờ tôi. Đẩy xe đến chỗ tập kết chờ check in đi Việt Nam, tôi thấy hai người đã ngồi đấy rồi. Miên bảo như phân trần:
- Túi xách của em ở trên xe đẩy của Claude. Em ra hiệu bảo chờ anh nhưng Claude bảo anh biết chỗ này rồi.
Tôi khịt mũi. “Claude nói gì làm sao Miên hiểu được?”. Thấy tôi lạnh tanh, Miên lo lắng, nói lí nhí:
- Em cũng thử nói chuyện với Claude một chút. Câu nào không hiểu thì đoán mò...
- Việc gì phải thế. Cứ chờ anh cùng đi, cần nói gì anh sẽ giúp cho.
Miên “Dạ”. Lại yên lặng. Cân hành lý xong, ba người ngồi yên, không ai nói với ai câu nào. Sao lạ thế?
Tôi nhìn đồng hồ. Lại thèm thuốc. Cơn thèm thuốc mạnh hơn nỗi phập phồng về trách nhiệm trưởng đoàn. Vào phòng kín, tôi gắng hút nhanh nửa điếu còn lại rồi vội ra. Claude và Miên đâu mất, ngẩng cổ nhìn lên, tôi thấy hai người đã ở trên băng chuyền lên phòng cách ly. Miên đứng bậc thang phía trên quay xuống, Claude đứng phía dưới, hai khuôn mặt nhìn vào nhau, bốn bàn tay múa liên tục. Tưởng đang phác họa một tiết mục gì, hóa ra họ đang nói chuyện. Trong bụng tôi cười thầm...
Vào máy bay. Tôi làm thủ tục sau nên ngồi một mình. Trước đó ba hàng ghế, Miên ngồi gần Claude. Bốn bàn tay vẫn liên tục ra hiệu, không im lìm như lúc có tôi lúc nãy.
Hai giờ đồng hồ sau, máy bay đáp xuống Nội Bài.

Tôi đi rất vội mới bắt kịp hai người ở băng chuyền nhận hành lý. Claude có vẻ hớn hở như người vừa trúng cá cược, còn Miên thì hai mắt đỏ hoe.
- Sao vậy em? Em có sao không?
Tôi lo lắng hỏi Miên, lần đầu tiên trút bỏ được cái vẻ lầm lì quan trọng để thốt lên với nàng một lời thật âu yếm.
Miên nắm lấy tay tôi:
- Em không ngờ anh ạ, lúc ở Pháp nhiều khi em thấy Claude thật chán vậy mà thực ra anh ấy lại là người rất có tâm hồn... Cảm ơn anh thật nhiều, anh không đề xuất em đi chuyến này thì em không gặp được con người dễ thương như vậy.
Mặt tôi từ tái chuyển sang đỏ, rồi tím lịm đi.

Claude thì đang mải lo nhặt những gói hành lý của Miên đặt lên xe đẩy của mình. Tôi hậm hực nghĩ: làm sao Miên hiểu hắn ta nói gì mà dám quả quyết là có tâm hồn hay không!
Bên ngoài đang mưa, những hạt bụi li ti bay khắp trời. Bỗng chợt nhớ câu thơ của Trần Dần:
Mưa rơi
Không cần phiên dịch!
 
Lời Hứa
Trần Thùy Mai

Dù đã thấy nhau trên webcam nhiều lần, song Miên không thể không lúng túng khi lần đầu gặp Bent. Trong webcam anh trông trẻ hơn bên ngoài. Khi đối diện, nhìn những nếp nhăn nhỏ trên trán, Miên đoán chừng anh cũng phải lớn hơn mình đến chục tuổi.

"Sao anh đến mà không báo, làm em không kịp mua hoa?", "Anh muốn dành cho em một ngạc nhiên bất ngờ. Vậy mà em vẫn biết". Bent cười, ôm choàng lấy Miên... Miên lúng túng bởi thấy mọi người đang quay lại nhìn mình. Đây là sân bay một thành phố nhỏ, rất nhiều người quen... Mà mình có giữ ý thái quá chăng, đây đâu phải một người lạ. Con người này và mình đã hiểu nhau từng li từng tí hơn một năm nay rồi.

Tự nhủ mình thế nên khi taxi đi được ba phần tư con đường từ sân bay vào thành phố thì Miên đã xua được gần hết cảm giác ngại ngùng. Miên nhớ lại lời cô bạn tham mưu: "Tất cả những ai quen nhau trên mạng khi lần đầu gặp gỡ đều cảm thấy một chút thất vọng. Ai vượt qua được cảm giác ban đầu đó thì còn, mà không được, thì coi như tiêu luôn". Liếc nhìn Bent, Miên thấy sau phút nồng hậu ban đầu, giờ anh cũng đang ngồi im, đôi mắt xanh lơ bối rối. Biết đâu chừng anh ấy cũng đang thất vọng... Bỗng cảm giác thân quen từ hơn ba trăm bức email chợt tràn ngập trong Miên, cô rụt rè đưa tay cầm lấy tay Bent... Anh quay lại, mỉm cười thật hiền, thế là phút lóng ngóng ban đầu đã qua đi.

Xe dừng trước khách sạn, Bent nhìn Miên, ngạc nhiên. Như đã nói trong email, anh tính sẽ ở lại nhà Miên. Trong không gian mạng anh đã đánh thức Miên dậy mỗi buổi sáng, uống cà phê với cô, đưa cô đến sở làm. Buổi tối Miên nấu cơm đợi anh về, anh vừa ăn vừa luôn miệng khen ngon... Ăn xong anh còn làm việc thêm ba tiếng đồng hồ trên máy tính, đêm nào Miên cũng phải nhắc anh đi ngủ sớm.

Vậy mà bây giờ Miên đưa anh đến một khách sạn! Miên lúng túng giải thích: Ở đây không giống trên mạng. Muốn được ở chung một nhà thì còn phải qua nhiều công đoạn lắm.

***
Khách sạn Hoa Tím nằm bên sông, nhỏ xinh và sạch sẽ, xây dựng đơn giản nhưng đẹp nhờ cảnh thiên nhiên bao quanh. Chọn khách sạn này, Miên đã hỏi thăm thông tin từ nhiều bạn bè trong ngành du lịch. Theo lời các bạn Miên, khách sạn này trông có vẻ giống một nơi ở ẩn, không có tiếng gõ cửa lúc đêm khuya. Trong lúc chờ Bent lên phòng cất hành lý và tắm, Miên đọc lại thực đơn để đặt bữa tối. "Theo em thì chị đừng gọi món vả chua. Sợ người nước ngoài chưa quen bụng với đồ ăn lên men của xứ mình". Cô gái ở khách sạn e dè đề nghị. Miên nghĩ cô ta có lý, nhưng món ăn này cô đã nhiều lần tả với Bent trong những bữa ăn chung trên mạng. Anh vẫn thường hỏi mỗi khi ngồi vào bàn ăn tưởng tượng giữa hai người. Vậy hôm nay cũng nên để anh nếm thử một chút, Miên tự nhủ, mình sẽ cẩn thận bảo anh ăn ít thôi.

Bữa ăn tối tuyệt vời. Một dĩa nhạc Schubert nhẹ nhàng tha thiết. Bàn ăn đặt bên cửa sổ. Xa xa là nhịp cầu lấp lánh đèn soi bóng trên sông. Bent ăn ngon miệng, anh đánh sạch cả dĩa vả chua. Đúng là bên ngoài trông anh hơi thô, bụng đã hơi mập, không lung linh như trong trí tưởng tượng của Miên. Nhưng cái quan trọng là mình phải biết mình muốn gì!

Ba mươi sáu tuổi, Miên không còn trẻ. Cuộc hôn nhân đầu đời đổ vỡ làm cô trở thành lầm lì khép kín hơn mười năm. Hơn mười năm sau khi chia tay Tuấn, Miên không quen thân được với một người đàn ông nào, chỉ vì luôn bị ám ảnh: họ lại sắp nói dối, sắp nói dối...

Sau này, khi công tác ở bộ phận đối ngoại có lần Miên nghe một khách nước ngoài than vãn: "Ở đây thật lạ, đôi khi chỉ một chuyện đơn giản, lý do đi trễ chẳng hạn người ta cũng không chịu nói thật". Ấn tượng về Tuấn bỗng quay lại, Miên bất giác lạnh người. Mười năm trước, điện thoại di động chưa phổ biến như bây giờ. Lần nào cô đi công tác, Tuấn cũng gọi điện cho cô mỗi đêm. "Anh đang ở đâu?". "Ở nhà, xem tivi, nhớ em lắm!". Miên xuýt xoa khuyên chồng đi ngủ sớm... Một hôm tình cờ nghe lọt vào trong điện thoại một âm thanh lạ, cô tò mò kiểm tra tổng đài, phát hiện ra số điện từ đó Tuấn gọi là số điện của một hộp đêm... Lúc đó, cô lạnh da gà, mỗi chân lông đều sởn ốc.

Từ đó Miên thận trọng, thận trọng thái quá đến nỗi chẳng tìm được cho mình một người đàn ông nào khác. "Muốn có tình yêu thì phải mở lòng ra chứ" - Bạn gái khuyên. Họ giới thiệu Bent. "Anh ấy là người tốt. Những người Việt qua bên đó công tác đều được Bent giúp đỡ. Thật thà như đếm và dễ tính vô cùng". Mấy dòng lý lịch trích ngang đó làm Miên tạm yên tâm. Khoảng cách xa làm Miên không bị ám ảnh bởi nỗi sợ đàn ông, rồi sự cô đơn làm cho trò chơi lứa đôi trên mạng dần dần trở nên một nửa cuộc sống.

Bây giờ Bent ngồi đây. Miên bắt đầu thôi không nhìn thấy cái bụng đã hơi mập, mái tóc bắt đầu thưa và những nếp nhăn nhỏ trên trán. Bây giờ cô thấy ánh mắt anh cởi mở, miệng cười thân thiện, những câu nói đùa hóm hỉnh thật dễ thương, đúng là hình ảnh đã thấy qua những bức thư. Những bức thư luôn kết thúc bằng dòng chữ ấm áp: "Lots of love from Bent" rồi "Lots of kisses from Bent "- rất nhiều tình yêu và cái hôn từ Bent.

"Anh muốn đến thăm nhà em, nơi anh đã đến nhiều lần lắm rồi". Bent bảo. Miên do dự. Bây giờ trời đã tối. Hàng xóm sẽ nghĩ sao khi thấy cô đột ngột xuất hiện với một ông Tây cao lêu đêu.
"Để mai đi anh", Miên hẹn. Miên đưa Bent đến một quán cà phê nhạc để anh có thể nghe Beethoven và uống một ly Brandy như anh vẫn thường miêu tả về những buổi tối một mình. Một nghệ sĩ vĩ cầm đang chơi nhạc cạnh cái lò sưởi cũ hắt lên một thứ ánh sáng ấm áp. Khi nghe hết bài Sonate moonlight, Bent đặt tay lên vai Miên, rồi cánh tay anh quàng quanh vai cô.
Họ chưa dám nói gì về tương lai, bởi cả hai đều cảm thấy trước hết phải làm sao cho những gì trong không gian mạng bước ra ngoài cuộc đời. Họ tiếp tục câu chuyện thường nói: những món ăn, thời tiết, những bộ phim rồi những dự tính cho tương lai, những kỷ niệm trong quãng đời quá khứ...
Miên bất giác bật ra một câu từ đâu đó sâu trong tâm tưởng: "Em chỉ mong lúc nào anh cũng nói thật với em về mọi chuyện". Bent mỉm cười: "Tất nhiên. Nói dối là một tội trọng, anh sẽ không bao giờ hạ mình làm chuyện đó".

***
Một tuần sau Bent đi. Miên hỏi cảm tưởng, Bent cười: "More than I can dream" - Còn hơn những gì anh có thể mơ. Anh ôm Miên thật chặt khi chia tay, lần này Miên không còn thấy ngượng ngùng nữa. "Anh sẽ quay lại chứ?". "Tất nhiên" Anh cúi xuống hôn từ biệt. Miên vòng hai tay quanh người anh siết chặt, cái bụng hơi cồm cộm của anh chạm vào dưới ngực, một cảm giác ngộ nghĩnh và thân thương. Bent chỉ vắng có hai hôm đi đường, sau đó lại trở về ngay với Miên... trên mạng. Những bức thư lại tiếp tục. Bây giờ hơi khác đi, những bức thư kết thúc bằng "Warmest hugs from Bent" - Bent ôm hôn thắm thiết. Sao thế, Miên cười thầm, bây giờ anh đã nhiễm ngôn ngữ chính trị rồi chắc?

Bốn tháng sau, đột nhiên Bent gửi mail hỏi Miên về giá đất, giá nhà. "Anh định sống ở đây sao?", "Tại sao không? Đi đi về về giữa hai châu lục, đó là cuộc sống mà ở đây nhiều người mơ ước". Một tháng trời, Miên đi hỏi rồi mail cho Bent cả một danh sách giá cả đủ loại đất từ mặt tiền đường phố đến đất rẻo ở ven sông.

Bent thì miệt mài làm việc. Bây giờ anh làm việc đến mười ba giờ một ngày, nhiều đêm ngủ gật bên máy tính. Kể với Miên, Miên xót cả ruột. Miên chẳng biết làm gì để giúp anh ngoài những lời chăm sóc. Nhớ ăn nhiều trái cây, ăn nhiều cá, nhớ cẩn thận khi lái xe trên đường. Thư của anh thưa hơn trước. Hai hôm một bức, rồi ba bốn hôm. Chỉ vì muốn có một chỗ ở đẹp mà anh phải hy sinh nhiều thế... Mỗi lần mở hộp thư không thấy Bent, Miên buồn hẫng cả người. "Bent, không cần phải vất vả thế, mình có thể ở trong căn nhà nhỏ của em mà!". Nhưng Bent bảo: "My dear do not be sad, we have to see what the future has in mind for us" - Đừng buồn em ạ, hãy chờ xem tương lai... Vậy là Miên lại thấy tin tưởng, lại vui...

***
Rồi tháng chín đến, mùa du lịch bắt đầu và bỗng nhiên đèn nickname của Bent tắt hẳn trên mạng. Trước đó Bent đã nói với Miên dự định tháng chín này về Huế. Hay là anh đã lên đường? Nhưng sao anh không nói gì với Miên? Anh muốn dành một ngạc nhiên bất ngờ?

Lòng Miên tưng bừng vui, cô lau dọn căn nhà nhỏ, mua thức ăn chất đầy tủ lạnh rồi dạo phố sắm cho mình vài bộ cánh mới. Lần này không phải quá e dè nữa, có thể để Bent về đây ăn cơm với mình, anh có vẻ thích hợp với cơm Á Đông, món vả chua anh còn xơi được cả dĩa nữa là.
Chuông điện thoại reo. Miên cầm máy, chắc chắn là Bent, ai có thể gọi vào giờ khuya khoắt như thế này.

"Cám ơn chị...", đó là tiếng bà chủ miếng đất - một trong những miếng đất mà Miên đã đi hỏi cách đây mấy tháng. "Tôi đã bán được miếng đất nặng vía cho ông Tây đó rồi, muốn gặp chị để gửi chút hoa hồng...".

Sao có thể như vậy được? Vậy là Bent đã về, nhưng đang ở đâu?

Miên gọi điện đến khách sạn Hoa Tím. Liên tục nghe trả lời: "Ông Bent Johnson có ở đây, nhưng ông ấy đi chưa về". Một cuốc taxi đến khách sạn, Miên được cô gái ở quầy tiếp tân mời ngồi chờ. Một tiếng, hai tiếng. Đây là lần đầu Miên ngồi đây vào buổi tối. Trông vẻ căng thẳng của Miên, cô gái làm ở khách sạn đến ngồi cạnh cô, bắt chuyện.

Miên nhìn kỹ cô gái: Đây chính là cô gái lần trước đã góp ý về món vả chua... Hôm ấy thu mình trong chiếc áo dày cộp trông cô có vẻ chất phác, nhưng giờ này với chiếc áo hai dây mềm mại trông cô thật sexy với khuôn mặt tuổi hai mươi và khóe môi đầy nhục cảm. Nghe Miên bảo là cùng làm việc với Bent, cô tâm sự:

"Chị làm việc được với Bent thật giỏi... Chưa thấy ai kỹ tính như anh ấy. Khiếp, mua có miếng đất nhỏ tẹo mà cũng hỏi lui hỏi tới giá cả, thuê phiên dịch đọc giấy tờ, lại còn bảo đã tham khảo nhiều nguồn tin... Em bực mình, dọa bỏ luôn, ảnh mới chịu dứt khoát ký giấy".

Mười ngày sau Bent làm đám cưới với cô dâu nhỏ hơn chú rể hơn ba mươi tuổi. Miên cũng nhận được thiếp mời. Dù vẫn còn khản giọng, sưng mắt, trán còn chưa hết mùi dầu gió, Miên cũng mặc chiếc áo đầm mới mua đi dự tiệc. Dù sao đi nữa, cũng đến để chúc mừng Bent quả thực đã được "nhiều hơn mơ ước", bởi dù sao, anh đã giữ lời, anh không hề nói dối khi bảo Miên: "Hãy chờ xem tương lai...".
 
Thương nhớ Hoàng Lan
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?" Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: "Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại." Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.

Lớn lên, tôi giống cha như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hòa trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Ðề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Ðại Ðức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay thưa trước sư cụ trụ trì:

- Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ

Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Ðã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi:

- Mấy con ếch lạy khéo không thua thầy M.H.

Rồi bà cười hả hả:

- Ði tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da.

Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm...

Cô ruột tôi giận lắm bảo:

- Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng

Ai cũng khuyên đăng báo tìm nhưng cha tôi chỉ nói:

- Ðừng!

Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?

Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại cho khu vườn sáng sủa:

- Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.

Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào bối tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...

Năm tôi mười tuổi, có vị Ðại Ðức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Dế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo:

- Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?

Tôi chỉ lắc đầu...

Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi:

- Bạch thầy, Ðăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà-phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác.

Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp vào tụng kinh, tôi biện bạch:

- Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi dễ, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời làm sao hiểu đời đục mà tránh?

Thầy hỏi:

- Ai bảo con là đời đục? Ðời không đục, không trong.

Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì?

Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu, nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào đến tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng:

- Ðây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải mầu vàng.

Cô chìa hai bàn tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày:

- Này, đừng nghịch.

Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi.

- Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan.

Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại:

- Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai, vừa quậy.

Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh:

- Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đọa địa ngục hử?

Tôi cự:

- Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ.

Từ đó, vài ba hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đấy là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Ðiểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió. Lan phụng phịu:

- Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có.

Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng cười hồn nhiên như trẻ thơ. Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi.

Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo:

- Không can gì.

- Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?

Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu:

- Ðây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó

Tôi động lòng, hỏi:

- Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong.

Thầy cười:

- Ðúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Ðến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên đến chín tầng mây.

Tôi vái thầy mà thưa:

- Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa.

Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi.

- Anh không thích phong lan nữa sao?.

- Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoa hoàng lan.

Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như mầu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ sắp rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm ngây ngất. Lan bảo:

- Thích ghê, em chưa thấy bao giờ.

Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...

Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo, người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra.

- Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường.

Tôi nghe tiếng quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo:

- Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng.

Tôi hãi hồn, vội nói:

- Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây.

Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu:

- Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa.

Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan còn cô bé chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt...

Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.

Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh, bệnh sợ đàn ông. Ðếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà.

Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó.

Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà-phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức.

Tôi im lặng, một lát sau mới bảo:

- Khó tin.

- Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra. - Bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn.

Ðạp xe về đã đến quá lăng Tự Ðức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi:

- Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi.

Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu:

- Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt dài quá, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Ðấy là tướng hồng nhan mệnh yểu...

Trời nhập nhoạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống. Lan lắc đầu. Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn.

- Ðồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi.

Quay sang Lan, tôi nạt:

- Ði về!

Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực, chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của con thú mất mồi...

Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi khóc:

- Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?.

Tôi cau mặt:

- Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?.

- Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến.

- Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Ðừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn.

Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ bên đường. Lan ngồi bên tôi.

- Ðêm nào cũng nằm mơ thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?.

Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa...

- Em có thích nghe chuyện cổ tích không?.

- Thích.

Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ:

- Sao có người làm được như thế?.

Tôi gật đầu:

- Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư trả lời: “Bệ hạ đã hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống, thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua.”

Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạnh lùng.

- Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?.

Tôi bảo:

- Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con.

Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay là không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá.

- Thôi, về đi em.

Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp lóa những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...

Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo:

- Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu.

- Không có lửa, sao có khói, ¡n ốc, đánh lộn, giành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên.

Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức:

- Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?

Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.

Con ma nữ đã uống hai mươi viên thuốc ngủ, may sao nhà biết được chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát:

- Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con.

Tôi cuống quýt:

- Bác bảo con làm sao được?.

- Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra.

Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ.

- Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng.

Tôi thở dài:

- Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thủy Sám.

Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi...

Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo:

- Sao con bỏ học?.

Tôi nói:

- Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng.

Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy:

- Bạch thầy.

Thầy tôi bảo:

- Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn.

Tôi nói:

- Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An.

Thầy lặng lẽ một lúc, rồi bảo tôi:

- Tâm không an, có cầu cũng vô ích.

Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió.

- Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?.

Thầy nhìn vào mắt tôi:

- Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình.

Tôi lắc đầu:

- Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi.

o O o
Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.

Ðang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến.

- Chú Ninh.

Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan.

- Bác lên chùa cầu cho em đi bình an. Có cái này, em nó gửi lại....

Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.

Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan.

“Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Ðã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan...

Người ta cứ bảo là em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi....”

Bất giác, tôi òa khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng.

- Cứ khóc đi con! - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ.

Tôi nức nở:

- Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?

Thầy bảo:

- Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?

Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.

Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.

Tôi cầm lòng, thôi thương, thôi nhớ.
 
Biển đời người

Bim mười lăm tuổi, người lép kẹp như con cá măng, mùa lạnh thì mũi lúc nào cũng ướt. Vậy mà cô Hạnh cứ làm như con cô là tiên. Mỗi lần tôi đến, cô lại trách: " Vì mày mà sau này em Bim không đi thi hoa hậu được. Lớn lên lo mà đền cho nó" . Tôi rụt cổ, gãi tai, biết là cô đang muốn nhắc đến những cái sẹo to trên người Bim. Mẹ tôi bảo: " Một cái là do Măng rủ nó trèo cây đào. Một cái là Măng chơi u, xô nó té từ trên gác xuống. Một cái là do cô Hạnh sai Măng bưng bát canh, đi đến cửa nóng tay quá Măng hắt tung vào người nó" . Nghe kể, tôi ân hận. Thật may là Bim chẳng trách bao giờ. Cứ thấy tôi là Bim nhảy lê: " Anh Tuấn, cho em hai ngàn đi chơi điện tử". Thế rồi, bẵng đi một dạo, mỗi lần tôi sang, Bim lơ đẹp. Tính tình khác, thân thể cũng khác xưa, cao hẳn lên, ngực lờ mờ hai chóp tròn mềm mại sau tấm áo.

Trời mưa đột ngột xối xả vào xế trưa. Đến chiều, con nước dâng nhanh chẳng mấy chốc ngập lòng đường, tiến vào nhà, treo lên phủ ngập giường chiếu. Cả vùng thành nội ngập tràn nước trắng xoá. Bơi đến trước sân, tôi cố vượt dòng tiến vào sát cửa. Cửa đóng, lại cài then phía trong.

"Bim ơi! Bim ơi!". Tôi cố gào át tiếng mưa. Tiếng Bim khóc nức nở gọi mẹ trong nhà vọng ra. Cố sức day cửa không được, tôi đành gắng trèo lên mái nhà dở ngói, lần xuống. Bim ngồi co trên bàn, thấy người leo vào nhà thì hét toáng lên, sau đó nhận ra tôi. "Anh Tuấn! Em tưởng kẻ cắp sợ quá. Mẹ bảo đóng cửa, ai gọi cũng đừng mở" . Tôi lội đến gần Bim: "Đồ ngu. Khi mẹ dặn thì trời chưa lụt" . "Mẹ về ngoại từ sớm chưa về, có sao không anh ơi" . "Mẹ không quay lại vào giờ này được đâu. Nước lên nhanh lắm, công an cấm không ai được vào cổng thành" . "Sao anh vào được?" . "Trèo qua mặt thành. Anh mà không tới kịp, nước lên ngập đầu thì Bim thành bèo" . Mới trao đổi có mấy câu, nhìn lại, nước đã vượt quá lên mấy tấc. "Trèo lên gác thôi em". Bim đứng dậy, nhưng sụm xuống, hai chân tê cóng vì ngâm nước lạnh. Tôi cầm hai tay Bim, kéo vòng qua cổ: "Bám chặt lấy, anh cõng". Tôi trèo từng bậc một lên thang, một tay quàng ra sau giữ cho Bim khỏi rơi xuống nước...

Trời sập tối, hai đứa ngồi thu lu trong gác hẹp. Tôi sợ nước lên nữa không còn lối thoát, thò tay lên dở ngói, bẻ một khoảng rui lớn, phòng có nguy thì trèo qua mái nhà. Bim khóc rấm rứt một lúc rồi thiếp đi. Hơi thở Bim nóng như sôi phập phồng qua má tôi. Bim sốt rồi. Tôi hốt hoảng. Trời tối thui, chỉ nghe tiếng mưa ào ào trên mái, sát bên tai.

May sao trên gác có tấm chăn cũ. Tôi lần lần cởi chiếc áo ướt cho Bim lấy chăn quàng lại. Cả đêm tôi ngồi ôm cô bé như ôm món quà gói kỹ trong chăn. Cầu cho trời mau sáng, lại cầu cho đêm cứ dài mãi ra vô tận. Sờ thấy áo khô, lại mặc vào cho Bim, trời tối, tôi chẳng nhìn thấy gì, cũng chẳng dám chạm mạnh, vậy mà người cứ run run. Bim thì cứ mê sảng, hết gọi mẹ lại đến sợ chuột.

Mãi đến trưa mai, nước mới xuống. Cô Hạnh thuê đò chống vào đến ngõ, thấy nước ngập tràn đến mái nhà, cô khóc váng lên: "Con ơi là con" . Thấy tôi thò đầu ra khỏi lỗ ngói, cô trợn tròn mắt như quỷ thần. Tôi bơi ra, kéo đò vào, chỉ cho cô Bim nằm mê man. Cô lại khóc rống lên, lần này vì mừng. " Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Măng ơi! Tao cho mày con Bim" .

Hai ngày sau, Bim tỉnh lại. Cô Hạnh đút cháo. Nằm trên giường, Bim bảo: " Anh Tuấn phá mái, bẻ rui nhà em, em bắt đền" . Lại bắt đền! Tôi cởi trần, hì hục dọn hàng tấn bùn non ngập đầy sân.

Từ đó, năm nào cũng vậy, trời mới mưa to tôi đã trực ở nhà cô Hạnh rồi. Số Bim là số sướng, mười bảy tuổi rồi mà chưa động tay dọn lũ lấy một lần. Mẹ tôi bảo: " Sao mà ai cũng thích đẻ con trai. Ăn cơm nhà, vác ngà voi thì nó là số một. Lo kiếm việc làm ăn đi con ạ, cả ngày hết đàn hát lại xách xe đi chùi bóng mặt đường, con gái nó không ưa đâu" .

Nhìn tôi trong bộ đồng phục công nhân màu xanh, Bim lo lắng: "Rồi ai chở em đi học?" . Tôi dỗ dành: "Chịu khó đi xe đạp, hôm nào về sớm anh chở đi buổi chiều đỡ nắng" . Ngày đầu đi làm, nhìn ra cả vùng đồng nước Vân Cù mênh mông, thấy cột điện chữ A mọc lên giữa những giường ruộng ngang dọc, tôi ngớ ngẩn hỏi: Người ta dùng máy gì mà đưa mấy cái cột nặng thế này ra đến đó?" . Anh Hạp, tổ trưởng của tôi cười: "Cái xác mày khênh ra, chứ máy gì mà thi công được ở đây?" . Tôi nhìn, phát hoảng. Lần đầu tiên được giao khiêng bộ chân tó để dựng cột, tối về tôi ngủ mơ, nói sảng: "Mẹ ơi, núi đổ, lôi con ra, lôi ra" . Mẹ lay mãi, tôi mới tỉnh, mồ hôi ướt dầm mình.

Dần dần, tôi mạnh lên, cơ bắp nổi đầy tay, lên rừng xuống biển cũng không còn sợ nữa. Đi đâu thì đi, chiều đến về nhà, việc đầu tiên là tắm gội cạo rửa tinh tươm, đến trường đón Bim về. Có hôm thấy Bim chờ một mình vắng ngắt: "Bạn em đâu cả?" . "Tụi nó rủ nhau đi ăn chè" . "Lần sau em cứ đi với bạn, nhắn lại với bà hàng nước cho anh biết chỗ đến tìm là được" . Bim cười, ngúc ngắc hai đuôi sam: "Ai lại thế, anh đi làm mệt cả ngày, về mà không thấy Bim, anh có buồn không?" . Lòng tôi như chao đi, lần đầu tiên thấy trên khuôn mặt Bim nét dịu dàng thiếu nữ. Bim của tôi lớn rồi và biết nghĩ, không còn ngốc nghếch ham chơi như tôi tưởng. Bất giác, tôi ôm Bim vào lòng. Bim cười nhắm mắt, rúc vào ngực tôi hít một cái thật dài rồi chuồi người, đẩy tôi ra. "Sao thế?" . " Người ta cười" . "Đồ sợ chết" .

Một buổi sáng chủ nhật bên suối Trà Am, lần đầu tiên Bim cho tôi ôm trong tay... Bim cười, ghé cái tai nhỏ hồng sát ngực tôi, lắng nghe tim đập. " Nhè nhẹ thôi, anh siết mạnh em đâu cả người" . " Bim ơi!" . "Gì anh?" . Tôi bồi hồi nhớ lại cái đêm trời lụt. "Cho anh cõng Bim đi xem suối" . Chân tôi đi qua những mỏm đá trơn. "Em sợ anh cõng em nặng, té gãy cổ cả hai đứa" . Tôi giữ chặt Bim sau lưng. "Đừng lo. Hai bộ xà sứ vừa nặng vừa cứng anh còn cõng qua suối Nam Đông, bây giờ cõng Bim nhẹ và mềm như con gấu bông, anh đi lên thấu trời" . Bim cười, tiếng cười như suối. Tôi đặt Bim ngồi trên cành cây ươi đổ ngang, giữa những cánh hoa nhung đỏ hé mở. "Anh Tuấn ơi! Con muỗi!" . Tôi định đập, Bim bỗng xua cho nó bay đi. "Tội nghiệp, tha cho nó anh ạ!. Bắp tay Bim sưng lên một đốm hồng. Tôi gãi cho Bim, Bim nũng nịu: "Tuấn không có móng tay, gãi bằng cục chai trong lòng bàn tay ấy..." .

Cô Hạnh than thở với tôi: "Em nó ăn nhiều mà sao vẫn xanh. Hay là có giun?". Tôi chạy mua thuốc xổ. Lại mua cho Bim một đôi giày vải. Sáng sớm tôi đến, gõ cửa, dựng Bim dậy. Bim mắt nhắm mắt mở, chạy thể dục với tôi từ Tây Linh ra đến Tây Lộc rồi lại theo đường vòng quay về. Bữa đầu, Bim khóc mếu: "Tuấn độc tài" . Dần dần quen, sáng nào tôi không ra, Bim giận lẫy. Tôi hỏi Bim: "Có muốn học bơi không, sáng ra bến Me bơi mát lắm, anh tập cho" . Bim lắc đầu quầy quậy: " Mắc cỡ lắm". Tôi chợt nhớ, chân Bim có sẹo. Chẳng hiểu sẹo ra sao? Nếu giờ mà lại có một đêm lụt như đêm nào, tôi sẽ đếm lại những cái sẹo trên người Bim, tôi sẽ đền cho Bim bằng cả đời tôi...

Cái tin Bim đi thi người đẹp làm tôi ngạc nhiên. Cô Hạnh hớn hở: "Chương trình có phần thi mặc áo tắm, nhưng toàn thể phụ huynh đều phản đối, dọa nếu thi áo tắm thì đem con về. Thế là Ban tổ chức phải chịu" . Tôi cười: "Chắc cô Hạnh là người phản đối mạnh nhất" . "Nghe nói giải thưởng mười triệu cháu ạ" . Nghe giọng cô hí hửng như trẻ con, tôi cười thầm. Hy vọng Bim của tôi trúng giải quá mong manh, nhưng thôi cứ để cho cô tha hồ bay bổng.

Những ngày sau đó tôi quay như cái vụ. Nào chở Bim ra tiệm Mỹ Trang thuê áo soiree. Nào chở Bim đi may áo dài. Tối lại ra nhà Bim đàn cho Bim tập đi. Rồi lại phải chọn áo. Tôi ngắm lui ngắm tới Bim của tôi trong hơn hai chục cái váy. Cuối cùng chọn được một cái soiree màu lam óng ánh, vải dịu và mềm. Bim giãy nảy: " Cái này cũ rồi" . "Nhìn ban ngày cũ thế, nhưng dưới ánh đèn nó sẽ đẹp rực lên. Còn những cái kia trông huy hoàng nhưng lên sân khấu sẽ cải lương hết sức, rồi em xem". Nói mà Bim không nghe, tôi lại giở thói " độc tài" . "Còn thi ứng xử nữa, em nói kém lắm làm sao thi đây". Tôi kiếm một cuốn sổ nhỏ, lần giở sách báo, tìm những câu châm ngôn sắc sảo ghi vào. Câu nào cũng ngọt ngào bay bổng, toàn những lời có cánh về tình yêu, tình bạn, sắc đẹp, vân vân và vân vân...

Đêm thi đã đến, cô Hạnh lo lắng nhịn cả bữa ăn chiều. Tôi cũng đã xin nghỉ phép hai hôm. Giờ đây, trong tiếng nhạc đánh chậm bài La Paloma, Bim đang xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu. "Vũ Tuý Diễm, nữ sinh lớp 10 trường..." . Tôi dụi mắt. Có phải là Bim của tôi đây không? Tôi bỗng nhớ đến những trái táo trên sạp hàng trái cây của mẹ tôi, vốn tầm thường khiêm tốn, chỉ cần lấy khăn lau một lượt, phun nước lên, bỗng bóng loáng, chín ửng, ai nhìn cũng muốn cắn. "Vũ Tuý Diễm năm nay mười bảy tuổi, sở thích đọc truyện, ca hát, nấu ăn..." . Hừ, Bim có nấu ăn bao giờ đâu, thoáng nghĩ thế nhưng chẳng nghĩ được lâu vì tôi còn bận dán mắt vào cô gái trên sân khấu, cô gái vốn là Bim của tôi. Một chút ngập ngừng làm tăng vẻ quyến rũ thơ ngây trong dáng đi uyển chuyển. Chiếc soiree màu lam bạc ôm khít lấy tấm thân mảnh mai nẩy nở, lớp váy trong rất ngắn cho thấy đôi chân dài thẳng băng, trắng muốt. Lớp váy ngoài xẻ bốn đường rất cao, ôm rất khéo, làm dáng người đài các, thướt tha. Bim đang cười... đôi môi tô son màu hồng, sống mũi cao mềm mại thanh tú, đường nét nào cũng sắc sảo, rực rỡ hơn hẳn thường ngày. Chỉ có đôi mắt là vẫn mở to, ngơ ngơ dưới cặp lông mày cong như trăng hạ huyền. Bên cạnh tôi, cô Hạnh hể hả: " Đi lùng suốt ba bữa mới mua được đôi tất ngoại mỏng đẹp như vậy đó. Cháu thấy chưa, tôn tạo lên một chút là ăn đứt... ủa Tuấn, làm chi mà sững ra rứa, con Bim chứ ai xa lạ?" .

Điểm ngoại hình Bim cao nhất tất cả thí sinh. Tiếc rằng Bim chẳng nhớ câu nào trong số những câu tôi đã tủ cho cô bé. Ban Giám khảo hỏi: "Em nghĩ gì về ngày 8 tháng 3?" . Bim đứng ngẩn một lúc: " Em nghĩ... 8 tháng 3 là một ngày nhộn nhịp..." . Biển người lố nhố làm Bim hốt hoảng. Sau này, Bim bảo: " Em quớ quá, nhìn xuống mà chẳng thấy Tuấn đâu. Chỉ thấy tay với đầu người, hàng vạn cái" . Cô Hạnh cứ tiếc mãi: " Giá nó trả lời được, thì đã là hoa khôi xứ Huế" . Bim được danh hiệu Á khôi thứ nhất. Với tôi, thế cũng danh giá quá rồi. Đi đâu người ta cũng trầm trồ thằng Tuấn tốt số, có người yêu đẹp lắm trúng giải nhì kỳ thi Duyên dáng cố đô.

"Ngày nhộn nhịp" đã tới. Tôi xin nghỉ, nhưng anh Hạp không cho. "Hôm nay thay gấp đường dây ở đường Huyền Trân Công Chúa. Thương tình mày chưa vợ cho nghỉ buổi chiều thôi" . Tôi lắp bộ xà sứ trên đỉnh cột, vừa vặn ốc vít vừa nhìn ra xa, thấy có mấy gánh hàng hoa đang bán. Có hoa hồng nhung đỏ thắm, hay quá, Bim rất thích hoa hồng ở Huế vì nó nhỏ hơn nhưng nở tự nhiên, chứ những búp hồng từ xa chở đến đẹp thì có đẹp nhưng do bị phun thuốc nên chẳng bao giờ nở. Làm xong, quần áo còn lấm lem, tôi phóng tới ngồi lựa hoa. Mấy cô giáo mặc áo dài đang trả tiền hoa nhìn tôi mỉm cười: "Cô nào may mắn mới gặp anh này" . Tắm xong, mặc bộ đồ bảnh nhất, tôi phóng đến Bim. Trên bàn một lẵng hoa vừa to vừa đẹp, hoa hồng Đà Lạt đỏ tươi xen lẫn hoa thạch thảo lấm tấm trắng. Tôi khựng lại. Cô Hạnh hể hả: "Tuấn này, bây giờ văn minh thật, người ta tặng nguyên cả lẵng hoa, cứ thế mà đặt trên bàn chẳng mất công cắm tỉa gì nữa" . Tôi ngồi yên, rầu rầu. Bim từ trong phòng đi ra: "Hoa 8 tháng 3 của em đâu?" . Thấy vẻ mặt tôi, như hiểu ý, Bim giải thích: "Không phải của ai đâu. Đó là quà tặng của Hội Phụ nữ, khen tặng thành tích đóng góp..." . Tôi tươi lên như cây héo được tưới nước. Chiều đó, dắt Bim đi ăn kem, tôi khoe đã được thao tác trên cột, lắp đặt xà sứ thành thạo. Bim cầm bàn tay tôi, áp những cục chai to vào má: " Tuấn nhớ làm việc cho giỏi, sau này nuôi Bim" . " Ừ, ba năm nữa là Tuấn vững rồi, Bim thích gì Tuấn cũng mua" . Bim cười, nét mặt giờ đây lại mộc mạc như những trái táo chưa chùi bóng: " Bim chỉ cần ăn cơm có cá, và mỗi tuần được đi ăn kem như thế này" . Tôi trêu: "Em bây giờ là á khôi xứ Huế rồi, phải kiêu lên đi chứ" .

Tháng năm, thành phố cử Bim đi Sài Gòn dự thi hoa hậu. Cô Hạnh khoe: "Kinh phí hạn chế nên ngoài hoa khôi, chỉ có á khôi thứ nhất mới đi được" . Ngày Bim đi, tổ tôi thi công lắp đặt đường dây số 6 ở trạm Nong. Bim dặn lui dặn tới: "Bốn giờ chiều là tàu đi ngang qua ga Hương Thuỷ. Tuấn nhớ chạy qua ga, Bim thò đầu ra cửa sổ, cầm cái khăn màu xanh, chào Tuấn một cái rồi Bim đi" . Nghe tiếng còi tàu, tôi ba chân bốn cẳng phóng xe. Tàu đi ngang, lừ lừ một chút phóng nhanh, mất hút. Tôi đứng bần thần ngẩn ngơ trên sân. Lủi thủi về trạm, tôi đọc mấy dòng chữ trên máy nhắn tin của anh Hạp: " uấn ơi đừng chờ nữa. Bim đi máy bay rồi" .

Tối đó đến thăm cô Hạnh, cô liến thoắng: "Có người Mạnh Thường Quân có lòng ủng hộ quê hương, bỏ tiền ra lo đi lại, ăn ở cho thí sinh Huế..." . Tôi nhìn cô. Thảo nào, mẹ tôi vẫn gọi cô là Hạnh tồ.

Cả hai cô gái đều phải về sớm không dự kỳ thi hoa hậu được vì ai cũng thiếu một phân chiều cao. Cô Hạnh thất vọng. Giờ đây, tôi đã biết ích kỷ. Sau khi Bim nhận giải 5 triệu ở kỳ thi Duyên dáng cố đô, căn nhà nhỏ đã được lát gạch hoa láng bóng. Buổi trưa, Bim vác gối ra nằm, đi ngoài đường nhìn vào thấy cô nàng nằm khoanh trên sàn như con chó Nhật. " Vào trong mà ngủ, không được nằm đây" . "Trong kia nóng lắm" . "Nóng thì mở quạt. Con gái nằm ngay giữa cửa để phơi cho thiên hạ nhìn à?" . Bim ấm ức: " Tuấn độc tài. Sau này chỉ có hành hạ Bim!" .

Tổ tôi nhận thi công đường dây Bắc Hải Vân, cả mấy tháng đi liên miên. Cuối tuần mới về chở Bim đi chơi Trà Am. Tôi nói với Bim tôi làm việc khéo nhất trong tổ. Anh Hạp đề nghị tăng lương sớm cho tôi... Bim chỉ bảo: "Thế à?" . Hai đứa đi men theo con suối: "Tuấn cõng Bim nhé?". " Thôi, lớn rồi, cõng như con nít ấy, kỳ lắm" . Bim ngồi dưới bóng cây ươi, giữa những bông hoa nhung đỏ. Muỗi từ ven suối bay lên, Bim tự đập bép bép liên hồi, không nhờ tôi... Tôi ngửa lòng tay nhìn những cục chai to, ngó vu vơ lên trời...

Rồi tôi gặp người đàn ông ấy, một tối trời trăng. Gã ngồi song song với Bim, nơi chỗ tôi thường ngồi. Thấy tôi vào, Bim chào, ngượng ngùng. Cô Hạnh bảo: "Đây là Tuấn, cháu cưng của cô. Năm nào trời lụt cũng nhờ một tay nó" . Gã chào tôi qua loa rồi nhìn lên trần nhà. "Chỗ này chỉ cần bỏ vào chừng năm ngàn đô, lên thêm một tầng kiên cố thì chẳng lo gì lụt" . Tôi về nhà, ngồi nhìn ra cửa sổ, châm thuốc hút. Mẹ tôi hỏi: "Măng, con sao vậy?" . "Có gì đâu?" . "Sao con ngậm ngược điếu thuốc?" . Lúc bấy giờ tôi mới nhìn thấy cái đót thuốc đang cháy phừng phừng. Tôi ngước lên nhìn mẹ. Cái nhìn của người vừa bị dao đâm. Mẹ tôi đỏ mắt: "Chuyện con Bim phải không? Lâu nay mẹ nghe đồn..." . Bà nổi tam bành: "Đồ tham vàng bỏ ngãi. Cái năm trời lụt to, không có Măng thì còn đâu mà gả đi Tây đi Tàu" . Tôi quờ tay ngăn lại: "Thôi mẹ ơi. Chuyện xưa rồi, đừng nhắc" .

Tôi biết, Bim của tôi từ nhỏ loanh quanh nơi cái xóm thấp như rún biển, cả đời mới ra khỏi thành phố một lần. Gã phương xa kia với Bim là cả một chân trời. Cũng phải thôi. Ai muốn giam mình trong ao, mà chẳng muốn vươn ra ngoài biển rộng?

Mai lại, đang làm việc, tôi nháng một nhát búa vào tay. Ngón cái dập nhỏ máu. Anh Hạp nhìn tôi thẫn thờ: "Công anh xúc tép nuôi cò, cò ăn cho lớn, cò dò cò đi" . Thằng Tín cầm lấy cái búa đứng thay vào chỗ tôi, trêu già: " Cò khôn, cò ăn cơm Tây. Ăn chi tôm tép ruộng lầy quê ta..." . Tôi trừng mắt: "Chó chết. Câm!". Trở về, tôi sốt cao, vết thương sưng húp. Mẹ tôi lo cơm cháo hơn một tuần. Bim không biết tôi ốm, có lẽ còn lo cho ngày đi...

Ba năm sau. Tôi đã lên bậc, tăng lương hai lần. Làm được bao nhiêu tiền nướng hết vào thuốc lá. Tính lầm lì, cả ngày chỉ biết làm.

Đi làm về, chưa thay áo, tôi nghe mẹ nói:
- Con Bim mới về, có bồng con qua đây thăm.
- ...
- Lấy chồng Việt kiều, đi Tây về mà không mập, lại còn gầy đi nữa chớ.
- ...
- Sao Măng im như thóc không nói gì cả vậy?
- Thì có gì đâu mà nói. - Tôi ư hử.
Mẹ tôi im. Nửa như cụt hứng, nửa lại như mừng thầm. Mừng cho con trai đã quên khuấy chuyện xưa.
Hơn tuần sau, Bim gọi điện cho tôi.
- Nghe mẹ nói lụt năm nào anh cũng vào dọn cho mẹ, em cảm ơn anh nhiều lắm!
Lâu lắm mới nghe Bim nói - giờ giọng Bim khác xưa, từ tốn, buồn buồn. Cái vẻ buồn làm lòng tôi bỗng chùng xuống. Muôn vàn điều muốn nói mà sao chẳng nói được gì. Lâu quá lầm lì đã thành thói quen, phản xạ nói năng hầu như chẳng có. Mãi mới kiếm được một câu để nói:
- Em gắng giúp mẹ sửa cái nhà. Ở có một mình mà năm nào cũng vất vả.
Bim ấp úng:
- Thương mẹ lắm mà chưa làm sao được anh ạ. Tiền chồng, chồng giữ, tiền vợ, vợ giữ, em mới sang đâu làm được bao nhiêu..." .
Tôi thở dài:
- Nghe mẹ anh nói, em gầy hơn trước?
- Dạ, em đi làm xa lắm, mỗi ngày đi về phải ngồi trên xe điện ngầm hơn bốn tiếng đồng hồ. Ngồi trên xe chẳng biết làm gì, cứ nhớ nhà, nhớ hồi xưa..." .

Hai tiếng " hồi xưa" nghe sao mà âm vang. Tôi lặng yên, bồi hồi lắng nghe tiếng rung ngân của hai chữ đơn sơ ấy.
- Hồi xưa, anh tốt với em nhiều lắm. Khi ra đi, em cứ nghĩ sau này giàu có sẽ đền công anh...
Giọng Bim nghẹn như sắp nức nở. Bỗng dưng, nước mắt tôi ràn ra không giữ nổi.
- Bim ơi, lớn rồi, sao còn nói ngơ ngơ?

Chiều đó, tôi về lại Trà Am, ngồi một mình dưới gốc cây ươi bên suối. Nước cứ chảy xuôi, chảy mãi. Bim ơi, biết nơi đâu là biển của đời người.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top