Trang Dimple

New member
Xu
38
Nền văn minh Trung Quốc bắt nguồn tại các khu vực thung lũng dọc theo Hoàng Hà và Trường Giang trong Thời đại đồ đá mới, nhưng cái nôi của nền văn minh Trung Quốc được cho là tại Hoàng Hà. Với hàng ngàn năm lịch sử tồn tại và phát triển, đây là một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới. Các văn bản ghi chép lịch sử của Trung Quốc được tìm thấy có niên đại cổ nhất là từ đời nhà Thương(khoảng 1700-1046 TCN), mặc dù một vài văn bản khác như Sử ký (khoảng 100 TCN) và Trúc thư kỷ niên khẳng định rằng triều đại nhà Hạ đã tồn tại trước nhà Thương Một số phong tục văn hóa, văn học và triết học được phát triển mạnh trong suốt thời kỳ nhà Chu.

Năm 221 trước Công nguyên được coi là năm Trung Quốc bắt đầu thống nhất trở thành một đế chế rộng lớn, với vị Hoàng đế Tần Thủy Hoàng cai trị, đánh dấu sự khởi đầu của đế quốc Trung Hoa. Vào thời kỳ này, Tần Thủy Hoàng cho xây dựng Vạn lý trường thành để bảo vệ đất nước khỏi các tộc người phương Bắc. Ông cho thống nhất chữ viết, các đơn vị đo lường và tiền tệ.

Trải qua hơn 3.000 năm đế chế (khoảng 2000 TCN - 1912 SCN), văn minh Trung Hoa phát triển rực rỡ, với những thành tựu đáng nể, gồm các phát minh vĩ đại như giấy, nghề in, la bàn... Trong thời gian này, có hai nền đế chế trên toàn Trung Quốc phụ thuộc vào các tộc người ngoại tộc, là người Mông Cổ lập nên nhà Nguyên và người Mãn Châu lập nên nhà Thanh.



3._luoc_do_trung_quoc_co_dai_500.jpg

1. Ðiều kiện thiên nhiên và cư dân ở Trung Quốc thời cổ.

Nước Trung Quốc vĩ đại ngày nay, dất rộng người đông, về thời thượng cổ, chỉ chiếm một dải dất tương đối hẹp, người thưa, nằm ở vùng hạ lưu hai con sông Hoàng Hà và Trường Giang. Hai con sông này đã giữ một vai trò trọng yếu trong đời sống của người Trung Quốc từ thời xa xưa. Ðặc biệt là sông Hoàng Hà, nước lũ dâng lên cao, nhiều lần làm thay đổi cả dòng sông, gây nên thủy tai khủng khiếp.

Nhưng mặt khác, đất phù sa do hai con sông bồi đắp thành một miền đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu, rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp.

Căn cứ vào kết quả các cuộc khai quật khảo cổ do giao sư Bùi Văn Trung, tiến hành trong khoảng từ năm 1927 đến năm 1937, ở vùng Chu-khẩu-điếm, phía tây Nam Bắc Kinh, người ta biết rằng độ 60 vạn năm về trước, trên lãnh thổ Trung Quốc đã có loài người sinh sống và lao động. Ðó là giống người vượn Trung quốc (sinanthropus), cũng còn gọi là người vượn Bắc kinh

2. Những Truyền thuyết về Hoàng Ðế và Nghiêu, Thuấn, Vũ.

Vào khoảng cách đây chừng năm hoặc sáu nghìn năm, tổ tiên người Trung Quốc đã biết cải tiến công cụ lao động.

Người ta đã phát hiện ra hai nền văn hòa quan trọng vào cuối thời đại đồ đá mới, trên lưu vực Hoàng Hà, nền văn hóa Ngưỡng thiều và nền văn hóa Long Sơn.

Hai nền văn hóa trên phản ảnh được tình hình phát triển của sức sản xuất, tình hình sinh hoạt vật chất của người Trung Quốc sống ở giai đoạn cuối của xã hội thị tộc.

Những truyền thuyết cổ đại Trung quốc về Tam hoàng, Ngũ đế có nhiều ý nghĩa lịch sử đối với giai đoạn công xã thị tộc này.

Tục truyền rằng Hoàng đế, tổ tiên lỗi lạc của nhân dân lưu vực Hoàng Hà. Theo thuyết truyền, rất nhu\iều sáng chế, phát minh quan trọng của Trung Quốc cổ đại đều quy vào Hoàng Ðế, như việc làm nhà cửa, may quần áo, đóng xe, đóng thuyền, trồng dâu, nuôi Tầm, dệt vải. Nuôi tầm lấy tơ là một cống hiến lớn lao của nhân dân lao động Trung Quốc cho nền văn hóa thế giới. Một phát minh quan trọng nữa ở thời Hoàng đế và chữ viết.

Sau Hoàng đế, trải qua mấy đời, có ba vị thủ lĩnh kế tiếp nhau đứng đầu liên minh bộ lạc: đó là Nghiêu, Thuấn, Vũ.

Thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ là thời kỳ tan ra của xã hội thị tộc ở Trung quốc

II. SỰ RA ÐỜI NHÀ NƯỚC CHIẾM HỮU NÔ LỆ TRUNG QUỐC. NHÀ HẠ - NHÀ THƯƠNG


1. Sự thành lập nhà Hạ. Sự hưng khởi nhà Thương

Nhà Hạ thành lập vào khoảng thế kỷ XXI trước công nguyên. Nhà Hạ mở đầu xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc.

Thế kỷ XVII trước công nguyên, vua cuối cùng của nhà Hạ là Kiệt cùng với bọn quý tộc nhà Hạ, vựa vào vũ lực, bạo ngược vô đạo, bóc lột nhân dân rất tàn khốc.

Thời bấy giờ, có bộ lạc Thương ở hạ lưu Hoàng Hà, dưới sự lãnh đạo của người thủ lĩnh của minh là Thành Thang, đã dần dần lớn mạnh lên, rồi lần lượt đánh bại các bộ lạc liên minh với Hạ, sau đó lại tấn công vua Kiệt nhà Hạ.

Khoảng thế kỹ XIV trước công nguyên, vua Thương là Bàn Canh dời đô đến đất Ân (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Do đó về sau, nhà Thương vẫn còn gọi là nhà Ân Thương.

2. Sinh hoạt kinh tê, xã hội, văn hoá đời Thường:

Khoảng năm 1899, tại huyện An-Dương thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, người ta đã tìm thấy rất nhiều mai rùa và xương thú có khắc chữ ở di tích Ấn Khư, kinh đô của nhà Ân. Những bản ghichép đó gọi là Văn Lư giáp cốt (có nghĩa là chữ khắc trên xương thú hoặc mai rùa). Qua đó, người ta có thể phán đoán được một cách tương đối chính xác những nét lớn về tình hình sinh hoạt xã hội đời Ân - Thương.

Thời Ân - Thương, nông nghiệp trở thành ngành sản xuất chủ yếu trong xã hội.

Thời bấy giờ, việc đúc đồ đồng thau đã đạt tới trình độ kỹ thuật cao.

Người ta đã thấy sinh hoạt bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã hội chiếm hữu nô lệ thời Thương. Trong mộ của qui tộc, chôn theo rất nhiều đồ tùy táng,, cả nô. Trong mộ nô lệ thì không có gì vì người ta cho rằng nô lệ chết rồi cũng vẫn là nô lệ, chỉ mang theo hai bàn tay trắng để làm việc cho chủ nô quý tộc đã chết.

Người thời Thường tin vào sức mạnh của tự nhiên, cho rằng nó có thể đem lại đều lành, điều dữ cho họ. Quí tộc tế trời, đất núi, sông, đặc biệt tế thần sông Hoàng Hà.

Tóm lại, những di tích phát hiện ở Ân Khư cho chúng ta biết rằng ở thời Ân - Thương, xã hội Trung Quốc là một Xã hội chiếm hữu nô lệ tương đối phát triển và nền văn hóa Ân - Thương, cũng gọi là văn hóa Ân Khư, là một nên văn hóa đặt cơ sở vững chắt cho sự phát triển của xã hội Trung quốc về sau này.

III. TÂY CHU


1. Sự hình thành nhà Tây Chu

Ở phía tây đồng bằng Hoa Bắc rộng lớn, thời bấy giờ tại lưu vực sông Kinh và sông Vị thuộc tỉnh Thiểm-tây ngày nay, co bộ tộc Chu đã sống lâu đời ở đây. Ðó là một vùng cao nguyên có chất đất vàng phì nhiêu, rất thuận lợi cho tộc Chu phát triển nghề nông của mình.

Trong lúc bộ tộc Chu đang lớn mạnh không ngừng, thi mâu thuẫn trong nội bộ nhà Ân - Thương ngày càng sâu sắc. Vua cuối cùng của nhà Ân - Thương là Trụ Vương, một tên bạo quân nổi tiếng bóc lột nhân dân rất tàn khốc.

Thủ lỉnh người Chu là Chu Văn Vương được sự ủng hộ của bộ tộc mình , thừa cơ nhà Thương suy yếu, phát triển thế lực về phía đông đánh chiếm nhiều đấ đai của nhà Thương. Con của Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương tấn công kinh đô nhà Thương.

Diệt xong nhà Thương, Chu vũ Vương đóng đô ở Hạo Kinh ( phía Tây thành phố Tây An ngày nay), và dựng lên nhà Chu, trong lịch sử gọi là Tây Chu.

2. Sự thống trị của nhà Chu:

Sau khi đông chinh thắng lợi, vua nhà Chu đã thực hành một số biện pháp nhằm tăng cường nền thống trị của mình ở miền Ðông. Trước hết, vua nhà Chu quyết định xây nhiều thành quách ở miền Ðông để tăng cương sức khống chế đối với người Ân. Nhà Chu cho xây dựng Lạc ấp (thuộc Hà Nam ngày nay) theo qui mô lớn.

Ðể củng cố nền thống trị của mình, hoà hoãn mâu thuẫn nội bộ, vua nhà Chu đã phân phong cho anh em, họ hàng và công thần làm chư hầu để họ dựng nước và trị dân ở các nơi, hình thành một số chư hầu như nước Lỗ, nước Tấn, nước Yên, nước Tề... là một chế độ thống trị dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống của dòng họ, gọi là chế độ tông pháp.

+ Về kinh tế: Thời Tây Chu tồn tại chế độ tỉnh điền. Chế độ tỉnh điền là chế đô chiếm hữu và sử dụng ruộng đất đã có từ trước, đến thời Tây chu mới được mở rộng. Ðồng thời đó cũng là một chế độ nghĩa vụ ü quân sự.

+ Về xã hội: xã hội thời Chu những giai cấp bị áp bức bóc lột là nô lệ và nông dân công xã.

Quý tộc thời Tây Chu có đủ các đặc quyền, đặc lợi. Lập được chiến công hay có công lao gì khác, thì họ thường được vua nhà Chu hay chư hầu ban thưởng ruộng đất và nô lệ. Quý tộc bóc lột nông dân công xã và và nô lệ rất nặng nề.

3. Sự suy vong của nhà Tây Chu

Ðến đời Chu Lê Vương, mâu thuẫn trong nội bộ nhà Chu càng thêm sâu sắc. Kết quả là năm 841 trước công nguyên nhân dân dưới sự lãnh đạo của quý tộc tên là Công Bá Hòa, tấn công cung điện nhà vua, đuổi Lê vương, cử ra một hôi nghị quí tộc tạm thời chấp chính, thay thế vua. Trong lịch sử thời đó gọi là thời "cộng hòa", tồn tại trong 14 năm (841-828 trước công nguyên).

Ðến năm 827 trước công nguyên, sau khi Chu Lê Vương chết, con là Tuyên vương khôi phục lại được ngôi vua thì cuộc đấu tranh trong nội bộ nhà vua mới tạm dứt; nhưng chiến tranh lại xảy ra giữa nhà Chu với các tộc ngoài biên cương phía Tây và phía Bắc, chủ yếu là với các tộc, Nghiễm Doãn, Tây, Nhung, làm tiêu hao mất nhiều nhân lực, vật lực trong nhân dân và làm cho mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ nhà Chu lại trở nên gay gắt.

Tình hình chinh chiến đó làm cho sức sản xuất trong nước bị đình đốn một cách nghiêm trọng; xã hội phân hóa một cách kịch liệt, vàmâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt.

Năm 781 trước công nguyên, quân Tây Nhung công hãm Hạo Kinh, thiêu hủy kinh đô nhà Chu, bắt giết U Vương dưới chân núi Ly Sơn. Bọn thân hầu lập thái tử Nghi Câu lên làm vua, hiệu là Chu Bình Vương (771 trước công nguyên).

Căn cứ đị Thiểm Tây của nhà Chu đã ở vào tình thế bị Nghiễm Doãn và Tây nhung uy hiếp mạnh, nên năm sau, Chu Bình Vương phải dời đô sang Ðông, đến Lạc- ấp (Lạc dương, tỉnh Hà-nam bây giờ), đem căn cứ địa phía Tây tặng cho một quý tộc, là Tần Tướng Công.

Sau khi nhà Chu dời đô sang Ðông thì sử gọi là Ðông Chu.

Từ đó lịch sử Trung quốc bước vào thời đại mới: Thời Xuân thu -Chiến quốc.

IV. THỜI KỲ XUÂN THU - CHIÊN QUỐC


THỜI KỲ XUÂN THU (770-475 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN)

Từ khi Chu Bình Vương dời đô sang Lạc-ấp năm 770 cho đến năm 475 trước công nguyên là thời kỳ Xuân Thu :

1. Sự phát triển của sức sản xuất hiện chế độ tư hữu về ruộng đất:

Từ thời Xuân thu trở đi, công cụ sản xuất nói chung, nhất là nông cụ, đều làm bằng sắt.. Việc sử dụng công cụ bằng đất trong sản xuất nông nghiệp không những tạo điều kiện thuận lợi mới cho việc khai khẩn đất hoang, mà tạo điều kiện mới cho việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Do đó dần dần người ta thấy không cần thiết chia ruộng đất theo định kỳ, chế độ tỉnh điền dần dần tan rã. Chế độ tư hữu về ruộng đất xuất hiện và ngày càng phát triển.

2. Cục diện Ngũ bá thời Xuân Thu.

Ðến thời Xuân thu, nhiều nước chư hầu mượn tiếng ủng hộ địa vị tông chủ của nhà Chu, đề ra khẩu hiệu "tôn vương, bài Dị" để mở rộng thế lực và đất đai, thay nhà Chu chiếm lấy bá quyền. Vì thế các chư hầu gây chiến tranh thôn tính liên miên. Mở đầu thời kỳ các nước lớn tranh nhau bá quyền. Các nước ở miền Sơn -đông thì bị Tề thôn tính; các nước ở miền Tây-bắc thì bị Tần thôn tính; các nước ở miền Giang, Hán, Hoài, thì bị Sở thôn tính. Những nước chưa bị thôn tính cũng rất suy nhược, nhưng chỉ vì chúng ở vào thế hoãn xung giữa các nước các nướcclớn nên tạm thời giữ lại. Vì thế, nếu đầu thời Chu có vào khoảng trên dưới một nghìn nước chư hầu, thì đến thời Xuân thu chỉ còn lại hơn trăm nước, và tương đối lớn thì chỉ có 14 nước: Tần, Tấn, Tề, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh, Ngô, Việt, trong đó lớn mạnh nhất là Tề, Tấn, Tần, ở, Tống, về sau có Ngô và Việt.

3. Ðời sống của nhân dân.

Thời kỳ Xuân-thu, các nước lớn không ngừng gây chiến tranh cướp đoạt các nước nhỏ. Ðể thỏa mản tham vọng các nước lớn dùng phương pháp "triều sính" và "minh hội". "Triều sính" là nước lớn cưỡng bức nước nhỏ phải cống nạp sản vật cho mình. "Minh hội" là các nước lớn hội nghị với nhau dể bàn cách giải quyết vấn đề cống nạp của các nước nhỏ.

Lúc bấy giơ,ì nhân dân nghèo khổ, đói kém, buộc phải vay nợ của bọn quý tộc, nhà giàu cho vay nặng lãi, nên đời sống rơi vào cảnh cùng cực. Tình hình nước Tề,"tam lão (thường dân)chết đói chết rét"; tình hình nước Tấn, "thấy chết đói đầy đường". Tấn, tề là những nước lớn mà nhân dân còn như thế thì tình cảnh ở các nước nhỏ lại càng bi thảm biết dường nào!

THỜI CHIẾN QUỐC (475-221 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN)

1. Sự Phát triển kinh tế thời chiến quốc.

Trong thời chiến Quốc, ngoài cuộc đấu tranh thường xuyên xảy ra giữa các nước, trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc đấu tranh giữa các bọn quý tộc với nhau để tranh giành đất đai và quyền thống trị nhân dân. Ở nước Tấn, năm 403 trước công nguyên, có ba dòng họ lớn là Hàn, Triều, Ngụy chia nhau đất nước, rồi không bao lâu phế truất vua Tấn. Lúc đó Trung Quốc đã bước vào thời kỳ Chiến Quốc. Bấy giờ chỉ còn lại bảy nước lớn và một số ít nước nhỏ. Trong số bảy nước lớn, thì Tề, Sở, Yên, Tần, đã có từ thời Xuân Thu; Hàn, Triệu, Ngụy, là những nước mới tách ra từ nước Tấn. Bảy nước đó tạo thành cục diện Thất hùng thời Chiến quốc.

Thời Chiến quốc, Trung Quốc có những biến đổi lớn lao hơn về mặt kinh tế. Ðặc biệt, nghề luyện sắt và kỹ thuật luyện sắt phát phát triển cao hơn, và đồ dùng bằng sắt được phổ biến rộng rãi hơn so với thời Xuân thu.

Ðể đáp ứng nhu cầu phát triển thương nghiệp, các thành thị lớn đều tự chế ra tiền tiền tệ kim loại đã xuất hiện thời Xuân thu, đến thời Chiến quốc đã thịnh hành. Những thương nhân lớn có thế lực về kinh tế, thường có nhiều tham vọng chính trị. Ví như nhà buôn lớn Lã bất Vi đã tung của cải ra để thao túng chiïnh quyền nưới Tần, hay như Mạnh Thường Quân, Quý tộc nước Tề, làm nghề cho vay nặng lãi, đã đưa vào thế lực tiền tài để củng cố quyền chình trị của mình.

Thời Chiến quốc,tuy sản xuất nông nghiệp bị chiến tranh phá hoại rất nghiêm trọng, nhưng nhờ việc sử dụng phổ biến nông cụ bằng sắt nên nói chung, công tác thủy lợi và việc canh tác nông nghiệp ở các nước đều có phát triển trong chừng mực nhất định.

2. Những biến đổi lớn trong thời Chiến quốc:

Thời Chiến quốc, chiến tranh còn nhiều hơn, quy mô lớn hơn và tàn khốc hơn thời Xuân thu.

Hồi ấy kẻ sĩ là tầng lớp hoạt động sôi nổi nhất về chính trị. Tầng lớp sĩ có tri thức văn hóa, có kinh nghiệm đấu tranh chính trị và thủ đoạn chính trị nhân dân hoặc có tài thuyết khách và tài thao lược nên vua chúa và quý tộc vào thời bấy giờ đã dời họ về làm quan lại, tướng tá,. Mưu sĩ hay "thực khách".

Do sự phát triển của sức sản xuất, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, do chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên, tổ chức công xã nông thôn (chế độ tỉnh điền) bị phá hoại. Trong thôn xã có sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ, một số nhỏ nông dân giàu có trở thành địa chủ, phú nông, đa số nông dân mất ruộng đất, phải đi cấy rẽ, cày thuê, trở thành tá điền, cố nông. Quan hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện và dần dần chiếm ưu thế trong nông nghiệp. Nô lệ từ nay thu hẹp trong sản xuất thủ công, hầm mỏ và phục vụ trong nhà.

Thời Chiến quốc những sự biến đổi lớn lao về kinh tế, xã hội và chính trị nói trên được phản ảnh trong phong trào "biến pháp", tức là phong trào cải cách được tiến hành ở nhiều nước.

3. Cải cách của Thương Ưởng và hưng thịnh của nước Tần. Nhà Tần thống nhất Trung Quốc.

Trong Thất hùng thời Chiến Quốc, Tần là một nước tương đối lạc hậu. Ðến năm 362 trước công nguyên, Tần Hiếu Công lên ngôi, dùng Thương Ưởng, một nhà chính trị có tài, làm Tể tướng để thực hành cải cách, tích cực làm cho nước giàu, dân mạnh, mưu đồ cạnh tranh với 6 nước miền Ðông.

Cải cách Thương Ưởng bị quý tộc nhà Tần phản đối dữ dội. Do Tần Hiếu Công thẳng tay đàn áp mọi sự phản kháng, cải cách Thương Ưởng mới được tiến hành thuận lợi. Cải cách của Thương Ưởng đã đặt cơ sở vật chất cho nước Tần thống nhất Trung Quốc.

Sự cường thịnh của nước Tần ngày càng uy hiếp dữ dội 6 nước miền Ðông.

Năm 246, trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính lên ngôi. Bây giờ lãnh thổ của nước Tần đã rộng lớn, Tần tự thấy đã có đầy đủ lực lượng để thực hiện âm mưu chinh phục 6 nước. Chỉ trong vòng 10 năm từ năm 230-221 trước công nguyên - nước Tầnnđã lần lượt tiêu diệt 6 nước: Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên và Tề, thống nhất lãnh thổ Trung Quốc, chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài thời Xuân thu - Chiến quốc lập ra đế quốc Tần, đế quốc thống nhất đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Trung quốc.

Việc nhà Tần thống nhất Trung Quốc là một việc phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội thời bấy giờ, bởi gì chỉ có thống nhất đất nước mới có thể chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài, mới có đủ sức mạnh chóng nội xâm, mới tạo điều kiện cho việc mở mang và thống nhất quản lý công trình thủy lợi nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp và công thương nghiệp trên qui mô toàn quốc, đem lại đời sống hòa bình, yên vui cho nhân dân.
 
Sửa lần cuối:
CẢI CÁCH CỦA THƯƠNG ƯỞNG
một vị học giả đã từng nói: “Nếu tôi coi Thương Ưởng là anh hùng của dân tộc, là người có công đầu của dân tộc Trung Hoa, có thể còn có người phản đối. Nhưng nếu tôi nói, Thương Ưởng là người có công trong sự nghiệp thống nhất Trung Quốc thì chắc không ai có thể chối cãi”.


Giúp đời không chỉ có một con đường, trị nước không cần theo cách cũ

Năm Tần Hiếu Công nguyên niên (361 trước công nguyên), Hiếu Công hạ lệnh cầu hiền, tìm những nhân tài hiến kế để nước Tần trở nên hùng mạnh. Lệnh cầu hiền được ban ra, tiếng vang đến một người ở nước Vệ.Ông chính là Thương Ưởng, nhà cải cách vào khoảng giữa thời Chiến Quốc.

Thương Ưởng yêu cầu để thích ứng với hoàn cảnh chính trị kinh tế xã hội phải xuất phát từ luận điểm “giúp đời không chỉ có một con đường, trị nước không cần theo cách cũ”, nhấn mạnh đến cải cách giáo dục, cho rằng cái căn bản của việc trị nước là phải coi trọng nông và binh, muốn dân giàu nước mạnh phải tuyên truyền pháp chế, bồi dưỡng nhân tài pháp trị. Thương Ưởng bài xích nội dung giáo dục của Nho gia, chỉ chú ý đến “thi”, “thư”, “lễ”, “nhạc”, chủ trương bỏ thi thư mà chú trọng đến luật pháp, phải khuyến khích giáo dục pháp trị trong nông nghiệp và chiến đấu thay cho “tiên vương chi giáo” (lời dạy của đời trước), coi pháp trị là căn bản của đức trị, luật pháp phải “minh bạch dị tri” (rõ ràng và dễ hiểu), phải coi pháp quan là thầy, phải giải thích luật pháp cho dân chúng, làm cho dân chúng tất cả đều hiểu biết pháp luật, coi giáo dục là công cụ để tuyên truyền pháp luật và bồi dưỡng nhân tài trị nước bằng pháp luật.

Trung Quốc cổ đại là một xã hội mang tính bảo thủ rất nặng, người muốn thực hiện biến pháp duy tân cần là người phải làm đến cùng. Con người này chính là Thương Ưởng.

Thương Ưởng là một công tộc của nước Vệ, từ nhỏ đã coi Lý Khôi là thầy, giỏi về pháp luật. Sau khi học thành tài, ban đầu ông đến nước Nguỵ, được Công Thúc Toà ở nước Nguỵ coi là

môn khách. Trước khi chết, Công Thúc Toà tiến cử Thương Ưởng với Nguỵ Huệ Vương, nói con người này tuy còn ít tuổi nhưng tài năng kỳ lạ, có thể dùng vào việc lớn, nếu không dùng thì phải giết đi, không cho sang nước khác. Nguỵ Huệ Vương thấy Công Thúc Toà bệnh nặng cho rằng đó là những lời mê sảng. Cuối cùng, Nguỵ Huệ Vương không dùng, cũng không giết mà cho Thương Ưởng sang nước Tần. Thương Ưởng mang theo cuốn “Pháp kinh” của Lý Khôi rời nước Nguỵ sang phía tây đến nước Tần, ra mắt Hiếu Công. Khi mới gặp Hiếu Công, Thương Ưởng trước hết hiến kế làm vua ba đời, sau lại hiến kế bá đạo của Tề Tuyên, Tấn Văn, tất cả đều không hợp với ý của Hiếu Công. Hiếu Công cho rằng nếu thực hiện “đế vương chi đạo” hoặc “bá đạo” thì cần thời gian rất dài, không thể nhanh chóng thay đổi tình hình lạc hậu của nước Tần. Thương Ưởng hiểu được ý muốn của Hiếu Công, mới hiến “cường quốc chi thuật” (thuật làm cho nước mạnh), Hiếu Công hiểu ra, vì thế dùng Thương Ưởng. Đến năm thứ ba (359 trước công nguyên) Thương Ưởng đã nắm vững được tình hình nước Tần, tâu với Hiếu Công thay đổi phép trị nước, dù gặp rất nhiều trở ngại, nhưng Thương Ưởng tranh luận bảo vệ ý kiến đến cùng, kiên trì chủ trương “trị thế bất nhất đạo, sử quốc bát pháp cổ” (giúp đời không chỉ có một con đường, trị nước không cần theo cách cũ), trải qua luận chiến rất quyết liệt, Thương Ưởng đã giành được phần thắng, biến pháp của ông được thông qua, sau ba năm thì thực hiện biến pháp, năm năm được làm Tả thứ trưởng, mười năm làm Đại lương đạo.

Sau hai mươi hai năm, Thương Ưởng đã buộc nước Nguỵ phải hiến đất ở phía tây cho nước Tần để giữ bang giao, Nguỵ Huệ Vương đến lúc này mới tỉnh ngộ, vội than rằng: “Quả nhân tự giận mình vì đã không nghe theo lời của Công Thúc Toà!” Tất nhiên cống hiến của Thương Ưởng không phải là dùng binh mà chính là do ông dùng biến pháp. Trong hơn hai mươi năm ở Tần, ông đã hai lần biến pháp, làm cho Tần quật khởi từ phía tây, hùng mạnh ở trong nước, làm cơ sở cho sự nghiệp thống nhất Trung Quốc sau này.

Thực hiện những biến pháp quan trọng như vậy không phải là việc dễ. Để chế định luật pháp mới một cách chính xác, Thương Ưởng trước hết phải giành được lòng tin của vua. Để thuyết phục Hiếu Công, Thương Ưởng đã cùng Cam Long, Đỗ Chí và các yếu thần tiến hành nhiều cuộc tranh luận hết sức gay gắt. Trước những lập luận rất nhàm chán của Cam Long, Đỗ Chí, Thương Ưởng đã tổng kết những kinh nghiệm của lịch sử “tam đại bất đồng lễ nhi vương, ngũ bá bất đồng pháp nhi

bá”, lại nói rõ “người theo pháp luật là người yêu dân, người theo lễ là người theo sự việc”.

Ý nghĩa hiện thực của những lời đó “là thánh nhân muốn nước mạnh không thể không có pháp luật, muốn dân có lợi, không tuân theo lễ”, từ đó cuối cùng đã giành được sự tín nhiệm của Hiếu Công.

Để đảm bảo việc thực hiện pháp luật mới một cách chính xác, Thương Ưởng không chỉ lấy lòng tin của vua, mà còn muốn được lòng tin của dân. Trước khi ban bố pháp luật mới, ở cửa nam của quốc đô, Thương Ưởng cho dựng một cây cột gỗ cao ba trượng, thông báo cho mọi người: ai vác được cây cột đó đến cửa bắc, sẽ được thưởng mười lạng vàng. Người xúm quanh cây cột rất đông, không khí rất ồn ào bàn tán, nhưng không ai làm vì không tin là có thể được nhiều vàng như thế! Thấy vậy, Thương Ưởng lại dứt khoát nâng mức thưởng lên năm mươi lạng. Cuối cùng một người đã thử mang cây cột đó đến cửa bắc và quả thật anh ta đã được thưởng năm mươi lạng vàng. Việc ấy được loan truyền đi khắp cả nước Tần, mọi người bắt đầu tin vào biến pháp của Thương Ưởng nội dung chủ yếu đầu tiên ở chỗ thưởng việc tốt, phạt việc ác.

Thương Ưởng phát hiện đất đai và sức lao động ở nước Tần chưa được sử dụng một cách tốt nhất. Nước Tần đất rộng, người ít, rất nhiều đất hoang không được khai khẩn; nhưng ở trong nước những người du đãng, ăn không ngồi rồi rất đông, đặc biệt là các nhà quý tộc có chức quan cao, nhiều bổng lộc, nuôi một bọn người không tham gia sản xuất nông nghiệp mà lại chiếm rất nhiều ruộng đất. Thương Ưởng cho rằng chính bọn người “ăn không ngồi rồi” này đã làm cho sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng, khiến cho nước yếu đi. Ông cho rằng đất nước muốn giàu mạnh cần phải dựa vào nông dân và binh lính, phải tuyệt đối cấm bọn người “ăn không ngồi rồi” để dốc toàn bộ sức lực vào sản xuất nông nghiệp và chiến đấu bảo vệ đất nước, đây là yếu tố căn bản của việc trị nước. Để có chế độ ràng buộc giới quý tộc vào ruộng đất để phát triển sản xuất và hạn chế tình trạng dân có thói quen phiêu bạt,

Thương Ưởng xác lập kế hoạch khuyến khích nông dân và binh lính, đánh mạnh vào bọn người sống phiêu bạt, từng bước thực hiện cải cách.

Đầu tiên là “tu hình” (sửa đổi hình pháp), đảm bảo cho việc thực hiện biến pháp. Ông thay đổi quan niệm cũ “hình bất thượng đại phu” (không thực hiện luật pháp với tầng lớp trên) thành “pháp bất a quý” (pháp luật không trừ người quyền quý), “hình vô đẳng cấp” (hình phạt không kể đẳng cấp), từ

đó tước đoạt đặc quyền chính trị của giới quý tộc, đưa địa vị của họ xuống ngang hàng với người bình dân. Ông còn chế định phép tội nhẹ nhưng hình phạt nặng, chỉ phạm tội làm rối loạn trên đường phố cũng bị phạt “kình” (thích chữ vào mặt), từ đó quyền uy của biến pháp càng mạnh, đảm bảo thực hiện biến pháp một cách triệt để.

Sau đó, ông đưa ra chính sách cấm các đại gia không được sống tập trung, xây dựng chế độ thập ngũ liên. Pháp lệnh này cấm cha con, anh em không được sống cùng trong một nhà, bất cứ nhà nào có từ hai người đàn ông có sức lao động đều phải tách hộ, thành những hộ độc lập, chính sách này đã đánh mạnh vào tầng lớp ăn không ngồi rồi của giới quý tộc. Đồng thời, về mặt quân sự, tổ chức biên chế lại lực lượng cả nước, năm nhà thành một ngũ, mười nhà thành một thập, không ai được tự ý dời chỗ ở, các nhà phải cùng nhau giám sát, tố cáo lẫn nhau, nếu không thực hiện, mười nhà phải liên đới chịu trách nhiệm. Những quy định chặt chẽ này đã ràng buộc nông dân vào với ruộng đất, không còn có người sống phiêu bạt, quốc gia kiểm soát được sức lao động của cả nước, bào đảm việc thu tô thuế.

Thương Ưởng còn thủ tiêu nguyên tắc thế tập quan lộc, quy định nếu có quân công sẽ được hưởng hai mươi quan tước để khuyến khích nông dân và binh lính. Tiếp theo ban bố tước vị gắn liền với quân công, bất cứ ai phải lập được quân công mới được hưởng tước vị, có tước vị sẽ được ban hưởng đất đai và có thể làm quan. Có tước được coi là lương dân, không có tước là tiện dân. Nô lệ nếu chiến đấu dũng cảm, cũng được ban tước và trở thành lương dân, chém đầu được một cấp sẽ được ban thưởng một cấp, ruộng một khoảnh, vườn chín mẫu, nông nô một người. Cố gắng trong sản xuất nông nghiệp, nộp nhiều lương thực cho nhà nước, cũng được coi là quân công. Những kẻ bỏ sản xuất nông nghiệp đi buôn, lười biếng mà thành nghèo đói, không nộp tô thuế bị tước đoạt ruộng đất để thưởng cho những người có công.

Năm 350 trước công nguyên, nước Tần dời đô về Thành Dương thực hiện chế độ huyện. Thương Ưởng đem nhiều làng, ấp hợp lại thành huyện, cả nước có tất cả 31 huyện, Huyện trưởng do trung ương bổ nhiệm, trực thuộc Quốc quận, lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc xây dựng chế độ trung ương tập quyền theo chủ nghĩa chuyên chế. Nó tăng cường sự thống trị với nông dân, đánh một đòn mạnh vào tầng lớp quý tộc và dân tự do.

Cuối cùng, Thương Ưởng thực hiện tước đoạt ruộng đất của dân tự do để khuyến khích cho nông dân và binh lính có công, hình thành một tầng lớp địa chủ và nông dân mới, ông xoá bỏ các ranh giới ruộng đất của quý tộc (địa điền giới) và các bờ ruộng (tiểu điền giới) thu về cho nhà nước, sau đó phân phối cho những người có quân công, tước lộc, cưỡng bức quý tộc và nông dân đều phải chịu tô thuế và đóng góp khác cho nhà nước, tước đoạt đặc quyền kinh tế “bất khoá bất nạp” (không khai không nộp) của họ. Để bảo đảm việc thu tô thuế bình quân, Thương Ưởng đồng thời ban bố tiêu chuẩn dụng cụ đo lường, thống nhất loại cân.

Việc thực hiện cải cách của Thương Ưởng đã thúc đẩy sức sản xuất của xã hội phát triển, khiến cho nước Tần nhanh chóng trở nên giàu mạnh, làm cơ sở để Tần Thuỷ Hoàng sau này bình định sáu nước. Năm 338 trước công nguyên, Hiếu Công chết, Thương Ưởng gặp phải sự phản đối quyết liệt, những chính kiến quan trọng của ông được người sau chỉnh lý thành “Thương quân thư” gồm 29 thiên, được ghi lại trong “Hán thư. Nghệ văn chí”, nay còn 24 thiên.

Người Tần không đồng tình

Trong lịch sử, bất cứ một cuộc biến pháp đổi mới nào đều không chỉ nhằm lựa chọn đổi mới cách trị nước mà còn là điều chỉnh quan hệ giữa các lợi ích, đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu tạo nên những trở ngại mà cải cách gặp phải. Việc Thương Ưởng bãi bỏ chế độ tỉnh điền, thực hiện khuyến khích nông dân và binh lính đã xâm phạm đặc quyền lũng đoạn vốn có của tầng lớp quý tộc về ruộng đất và quan chức , vì thế ông đã gặp phải sự phản đối quyết liệt của tập đoàn thống trị mà người đứng đầu là Thái tử do lợi ích bị ảnh hưởng . Nhưng Thương Ưởng không bị những người có quyền có thế này đe doạ, ông cho rằng chế định của pháp luật không phải chỉ dùng để ngăn cản dân chúng, từ xưa, “pháp chi bất hành, tự thượng phạm chi” (pháp luật không được thi hành là do từ người trên), như vậy, việc đầu tiên là trừng phạt hai người đã xúi giục Thái tử phản kháng ông thầy của biến pháp. Kết quả là mặt của Công Tôn Cổ bị thích chữ, còn Công Tôn Kiền dù được cảnh cáo nhưng không sửa nên bị cắt mũi. Thương Ưởng làm việc này có tác dụng “giết gà doạ khỉ”. Mọi người thấy, dù là thầy của Thái tử cũng không thể ngăn cản pháp luật, vì thế cũng không ai dám trông chờ vào sự may mắn. Trải qua sự cố gắng của Thương Ưởng, Tân pháp “thực hiện được mười năm, dân chúng rất tán thưởng. Trên đường không ai nhặt của rơi, trên núi không có đạo tặc, trong nhà mọi người đều đầy đủ, người dũng cảm thì chiến đấu vì việc nước, kẻ nhát gan thì lo công việc riêng”.

Nhưng thực tiễn xã hội việc gì cũng phải trả giá, biến pháp duy tân cũng không ngoài quy luật đó. Tần Hiếu Công chết, Thương Ưởng mất đi chỗ dựa quyền lực, Thái tử nối ngôi lại được sự ủng hộ của phái bảo thủ, đã thực hiện hành động trả thù điên cuồng. Họ không chỉ vu cáo hãm hại là Thương Ưởng mưu phản mà còn dùng bạo hành tàn khốc, bắt ông chịu hình phạt ngũ mã phân thây (năm ngựa xé xác). Thương Ưởng tuy gặp thảm hoạ nhưng biến pháp của ông là một sự nghiệp to lớn, đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử, không thế lực nào có thể đảo ngược, cuối cùng đã có những ảnh hưởng vô cùng to lớn thúc đẩy sự nghiệp thống nhất của triều Tần.

Tất nhiên, từ góc nhìn của ngày hôm nay, cách mà Thương Ưởng đã dùng “nội hành đao chính, ngoại dùng giáp binh” (đối nội dùng tra tấn, đối ngoại dùng giáp binh), mang tư tưởng coi trọng bạo lực, coi thường giáo hoá, cũng có những giới hạn lịch sử nhất định. Ông đã sử dụng thủ đoạn chính trị thô bạo giản đơn để giải quyết những vấn đề thuộc hình thái ý thức, thiêu huỷ “thi”, “thư” thực hành chính sách ngu dân và chủ nghĩa chuyên chế về văn hoá, thậm chí dùng cả phép liên đới dùng hình phạt cả với những người vô tội, đã làm nảy sinh những vấn đề nhất định. Cũng chính do những ảnh hưởng này ông đã bị tầng lớp quý tộc trả thù bằng cái chết bi thảm, thậm chí không được Tư Mã Thiên và nhiều nhà sử học đánh giá thoả đáng, thật đáng tiếc lắm thay!
 

TẦN THỦY HOÀNG THỐNG NHẤT TRUNG QUỐC

Trước khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, tuy các triều đại Hạ, Thương, Chu cũng có danh nghĩa là quốc gia thống nhất, nhưng hình thái dân tộc, cơ cấu chính trị, hình thức kinh tế xã nhội còn chưa đạt tới một quốc gia thống nhất đúng nghĩa của nó là một đế quốc lớn trung ương tập


quyền theo chủ nghĩa chuyên chế. Sự hình thành của đế quốc Trung Hoa xưa mở đầu từ thời Tần Thuỷ Hoàng. Từ đó, quốc gia phong kiến này đã tồn tại suốt hai nghìn năm, cho tới khi kết thúc triều

“Đức biên Tam Hoàng, công quá Ngũ Đế”

(Đức sánh với Tam Hoàng, công hơn Ngũ Đế)

Tần Thuỷ Hoàng là Hoàng đế mở đầu cho vương triều Tần thống nhất Trung Quốc, ông họ Doanh, tên là Chính, con của Tần Trang Tương Vương. Năm 13 tuổi đã nối ngôi, năm 39 tuổi xưng đế.

Cuối thời Chiến Quốc, nước Tần rất mạnh, đã chuẩn bị điều kiện để thôn tính sáu nước. Tần Vương Chính khi mới lên ngôi, việc nước do Tướng quốc Lã Bất Vi lo liệu. Năm 238 trước công nguyên, ông tự tay nắm việc nước, bãi bỏ chức tước của Lã Bất Vi, dùng Uý Liêu, Lý Tư. Từ năm 230 đến 221 trước công nguyên, ông lần lượt diệt sáu nước Hàn, Nguỵ, Sở, , Yên, Triệu, Tề , cuối cùng xây dựng triều Tần – quốc gia thống nhất đầu tiên, đa dân tộc theo chế độ trung ương tập quyền, chuyên chế.

Tần Thuỷ Hoàng xây dựng được chính quyền tập quyền trung ương, là ông đã thực hiện được việc làm chưa từng có – thôn tính được sáu nước. Sau khi thống nhất Trung Quốc, từ cơ cấu tổ chức của một quốc gia phong kiến cát cứ, không đáp ứng được nhu cầu của tình hình mới, Tần Thuỷ Hoàng đã điều chỉnh lại toàn bộ, hoàn thiện và tăng cường sự thống nhất chế độ trung ương tập quyền.

Đầu tiên, ông đổi “Vương” thành “Đế”. Người thống trị tối cao của thời Xuân Thu Chiến Quốc xưng là Vương, nhưng sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng thấy mình “Đức biên Tam Hoàng, Công quá Ngũ Đế” (Đức có thể sánh với Tam Hoàng, Công còn hơn Ngũ Đế), “Vương” đã không còn biểu hiện đầy đủ sự tôn quý, bèn lệnh cho hạ thần lấy hiệu là “Đế”. Các đại thần cùng thương nghị, cuối cùng cho rằng “Xưa có Thiên Hoàng, có Địa Hoàng, nay có Tần Hoàng, Tần Hoàng tối quý”. Vì thế tôn hiệu là Tần Hoàng. Nhưng Tần Thuỷ Hoàng vẫn chưa vừa ý chỉ một chữ “Hoàng”, ông đồng thời còn muốn dùng chữ “Đế”, hiệu viết “Hoàng Đế”. Từ đó, chữ “Hoàng Đế” thay thế cho chữ “Vương”, trở thành tên gọi của người thống trị tối cao. Tần Thuỷ Hoàng chính là Hoàng Đế thứ nhất, nên xưng là Thuỷ Hoàng Đế, sắp xếp để sau khi chết , con cháu nối ngôi, đời sau sẽ xưng là “Nhị Thế,”, “Tam thế”, cho đến “Vạn thế” truyền đi mãi mãi.

Để biểu thị uy danh và sự khác biệt với những đời trước của Hoàng Đế, từ đời Tần bắt đầu quy định khuôn mẫu mới, như mệnh của Hoàng Đế gọi là “chế”, lệnh gọi là “chiếu”, trong văn tự không dùng chữ Hoàng Đế. Hoàng Đế tự xưng là “Trẫm”, ấn chương gọi là “Tỷ”, dân chúng không được dùng hai chữ “Trẫm” và “Tỷ”. Ngoài ra, còn quy định chế độ phục sức. Sau nữa, để tăng cường tổ chức trung ương tập quyền, chính quyền trung ương của vương triều Tần từ trước được tiếp tục duy trì và mở rộng, nhưng tên gọi và quyền lực của quan chức có nhiều thay đổi: người thống trị tối cao là Hoàng Đế, ngoài Hoàng Đế, quan chức quan trọng nhất là Tam công, tức Thừa tướng, Thái uý, Ngự sử.

Thừa tướng: Nước Tần thời Chiến Quốc đã có Tướng, Tướng quốc, sau khi thống nhất toàn quốc, gọi là Thừa tướng, Lý Tư là Thừa tướng đầu tiên, đứng đầu bách quan. Thừa tướng “dây buộc kim ấn màu tím, thừa lệnh Thiên tử, trợ giúp mọi việc.” Thái uý: nguyên gọi là Uý, Quốc uý, sau khi thống nhất cả nước gọi là Thái uý “dây buộc kim ấn màu tím, nắm việc Võ”, “làm chủ Ngũ binh”, đứng đầu các quan Võ. Ngự sử đại phu: Nước Tần vốn có Ngự sử, sau gọi là Ngự sử đại phu “dĩ nhị vu

tướng” (dùng hai người ở dưới trướng). Ngự sử đại phu nắm việc giám sát, “dây kim ấn màu xanh, nắm quyền phó Thừa tướng”, ngôi vị sau Thừa tướng.

Dưới “Tam công”, tuy gọi là “Cửu khanh”, thực tế không phải chỉ có chín, phần lớn đã có từ trước, có một số ít mới có sau khi Tần thống nhất. Phụng thường: nắm lễ nghi nơi tông miếu, Hữu thừa.

Lang trung lệnh: phụ trách bảo vệ và truyền đạt mệnh của Hoàng Đế, dưới có Đại phu, Lang trung, Yết giả. Vệ uý: nắm đội cảnh vệ của Hoàng cung, Hữu thừa. Thái phó: nắm đông mã của Hoàng thất.

Đình uý: nắm hình phạt là quan tư pháp tối cao của cả nước, có Chính, Tả, Hữu giám.

Điển khách: quản lý về các dân tộc thiểu số dưới vương triều Tần.

Tông chính: nắm mọi việc trong tông thất thân thuộc, có lưỡng thừa. Trị túc nội sử: nắm về lúa gạo, có lưỡng thừa. Thiếu phủ: nắm về tô thuế của Hoàng thất.

Trung uý: phụ trách bảo vệ kinh đô, có Lưỡng thừa. Chủ tước trung uý: nắm các chư hầu.

Thời kỳ Tần Thuỷ Hoàng thống trị, đặc điểm quan trọng của chế độ trung ương tập quyền, là đại quyền quân sự chính trị đều nằm trong tay Hoàng Đế. Để đảm bảo đại quyền không bị rơi vào tay người khác, Thừa tướng, Thái uý, Ngự sử đại phu chia nhỏ đại quyền để giám sát, cùng phụ thuộc lẫn

nhau. Như Thừa tướng nắm việc tập hợp các bản tấu, giúp Hoàng Đế xử lý công việc hàng ngày, thu duyệt những “thượng kế” của các địa phương.

Nhưng quyền cai quản việc quân lại do Thái uý, Ngự sử đại phu cũng có quyền phúc tra các bản tấu của đại thần và “thượng kế” của các địa phương. Thái uý tuy danh nghĩa là chỉ huy quân sự tối cao, nhưng thực tế chỉ nắm quyền chỉ huy chứ không có quyền điều động quân đội. Vì thế, Tam công

phụ thuộc lẫn nhau, người quyết định cao nhất tất cả mọi việc đều tập trung vào trong tay Hoàng Đế.

Thứ ba là việc điều chỉnh tổ chức chính quyền địa phương. Tổ chức chính quyền địa phương sau khi được thống nhất, chủ yếu là thực hiện tổ chức hành chính thành bốn cấp quận, huyện, hương, đình. Khi mới thống nhất, nhà Tần chia thiên hạ thành 36 quận, sau đó điều chỉnh dựa trên cơ sở thực tế biên giới được mở rộng nên số quận tăng lên thành 46. Quan lại cấp quận có Thủ, Uý, Giám. Thủ cai trị dân, Uý phụ trách quân sự, Giám ngự sử phụ trách giám đốc dân chúng và quan lại, chức vụ loại này dựa vào Ngự sử đại phu ở trung ương. Quận thủ, Quận uý và Giám ngự sử phân công trách nhiệm rõ ràng theo nguyên tắc của việc phân chia Tam công ở cấp trung ương. Dưới quận là huyện, quan huyện trưởng là Huyện lệnh, giúp việc Huyện lệnh có Thừa.

Dưới Huyện là Hương, Đình là đơn vị “Khoảng mười dặm là một Đình, Đình có Trưởng. Mười Đình là một Hương, Hương có Tam lão, Hữu trật, Sắc phu, Du khiếu”. Chức trách của Hương tam lão,

Sắc phu và Du khiếu, cũng giống như Thủ, Uý, Giám của Quận, “Tam lão nắm việc giáo hoá; chức Sắc phu coi việc kiện tụng, thu tô thuế; Du khiếu coi việc tuần phòng chống đạo tặc”. Dưới Hương là Đình. Dưới triều Tần, Đình là tổ chức hạ tầng quan trọng ở địa phương. Đình có Đình trưởng, Đình phụ nhiệm vụ khi thời bình là luyện tập ngũ binh, tiếp đãi quan sứ qua lại, quản lý vận chuyển, thu mua của chính phủ, truyền đạt giấy tờ, văn thư,…

Vương triều Tần thực hiện chế độ quan liêu phong kiến, là chế độ chính trị tiến bộ nhất của Trung Quốc, nó không chỉ thay đổi chế độ thế tập mà còn thủ tiêu chế độ “thực ấp”, “thực phong”, quy định rõ bổng lộc của mỗi quan chức từ Thừa tướng đến quan chức ở cấp thấp nhất, từ “hai nghìn thạch”

đến “đấu lương”. Chế độ này từ sau khi Tần thống nhất đã thực hiện trên cả nước, qua hai nghìn năm chế độ phong kiến vẫn không thay đổi.

Thứ tư, dùng thuyết “Ngũ đức chung thuỷ ” để tăng cường vũ khí tư tưởng của tầng lớp thống trị. Tầng lớp thống trị Tần để ức hiếp nhân dân, để tìm cơ sở cho việc nhất thống thiên hạ của bản thân đã lợi dụng “Ngũ đức chung thuỷ thuyết”, tuyên dương Tần thay thế Chu là thay thế thuỷ đức bằng hoả đức. Căn cứ vào thuyết Ngũ đức “cánh mệnh hà viết đức thuỷ, dĩ chung thập nguyệt vi niên thủ, sắc thượng hắc, độ dĩ lục vi danh, âm thượng đại lã, sự thống thượng pháp.” “Y phục mạo tinh tiết kỳ giai thượng hắc”, “số dĩ lục vi ký”, “phù pháp quán giai lục thốn, nhi dư lục xích. Lục xích vi bộ, thừa lục mã.” “Xa đồng quỹ, thư đồng văn”

Ngoài việc xây đựng chế độ Hoàng đế về chính trị, xây dựng chế độ chuyên chế trung ương tập quyền, về kinh tế, văn hoá, Tần Thuỷ Hoàng cũng đã thực hiện một số thống nhất.

Ban bố luật lệ bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến. Năm Tần Thuỷ Hoàng thứ ba mươi mốt (216 trước công nguyên), ban bố luật lệnh “sử kiềm thủ tự luật lệnh” (bắt dâb đen tự giữ lấy đất), lệnh cho địa chủ và nông dân đang chiếm một số đất cày cấy phải trình báo cho nhà nước, đây chính là biểu hiện sự thừa nhận quyền tư hữu về ruộng đất, cho tự bảo hộ. Thực hiện chính sách trọng nông khinh thương, “thượng nông trừ mạt” (qu‎ trọng nghề nông, trừ bọn buôn bán) đả kích những hoạt động phi sản xuất, chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp. Thực hiện những điều này là để bảo hộ chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến có tác dụng quan trọng phát triển kinh tế phong kiến.

Thống nhất tiền tệ, đo lường và văn tự: Trước khi Tần thống nhất, tiền tệ rất phức tạp, không những hình dáng, to nhỏ, nặng nhẹ khác nhau mà đơn vị tính toán cũng không thống nhất. Tất cả có đến bốn loại tiền bố tiền, đao tệ, viên tiền và Dĩnh ái. Trừ Dĩnh ái được lưu hành ngoài nước Sở, Bố tiền lưu thông ở các nước Hàn, Triệu, Nguỵ; Đao tệ lưu thông ở Tề, Yên, Triệu, Viên tiền lưu thông ở các nước Tần, Đông Chu, Tây Chu và Nguỵ, Triệu, sau khi Tần thống nhất, Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh thống nhất toàn bộ tiền tệ, lấy vàng làm thượng tệ, dật làm đơn vị, để sử dụng rộng rãi lấy Viên tiền làm hạ tệ, lấy nửa lượng làm đơn vị, gọi là tiền “bán lượng”. Loại Viên tiền này đã sử dụng qua hai nghìn năm.

Trước khi Tần thống nhất toàn quốc, tình trạng đo lường cũng chẳng khác gì tình trạng tiền tệ, vô cùng hỗn loạn. Thương Ưởng đã quy định thống nhất tiêu chuẩn đo lường. Sau khi toàn quốc thống nhất, chính phủ Tần đã lấy chế độ của nước Tần cũ làm cơ sở, hạ lệnh thống nhất đo lường, đem chiếu thư khắc ở phủ quan quy định việc làm dụng cụ cân đo, phát hành toàn quốc trở thành cân tiêu chuẩn.

Thời Chiến Quốc là thời kỳ đất nước chia cắt lâu dài, tiếng nói khác thanh, chữ viết khác hình, chữ của sáu nước phía đông rất khó viết, khó đọc, ghi chép tuỳ tiện, phải trái, trên dưới không theo một quy luật nhất định, gây trở ngại nghiêm trọng cho lưu thông văn hoá. Năm 221 trước công nguyên, Tần Thuỷ Hoàng đã chế định tiểu triện làm cơ sở cho văn tự lưu hành trong nước Tần ban hành cả nước.

Lại dùng thuyết Ngũ đức chung thuỷ của Âm Dương gia thời Chiến Quốc, lấy Tần làm đức thuỷ, thuỷ ứng với màu đen, với số sáu, vì thế quy định y phục, cờ xí đều màu đen, phù hiệu, pháp quán, dư thừa đều lấy số sáu. Thuỷ lấy âm làm chủ, âm đại biểu cho hình sát vì thế dựa vào đó mà tăng cường hình

phạt nghiêm khắc. Năm Tần Thuỷ Hoàng thứ 34, vua lại hạ lệnh thiêu huỷ “Thi”, “Thư”, Bách gia ngữ trong dân gian, cấm trường học tư. Sau đó lại nhân cầu thuốc tiên để trường sinh, Hầu sinh và Lư sinh bỏ trốn, liên quan đến các Nho sinh, phương sĩ hơn bốn trăm người, tất cả đều bị giết ở Hàm Dương.

Tu sửa đường sá. Thời Chiến Quốc, các nước chư hầu ở các địa phương đã tu sửa rất nhiều thành trì, đồng thời quy cách đường sá cũng không thống nhất, ảnh hưởng đến việc giao thông qua lại.

Tần Thuỷ Hoàng đã ra lệnh phá dỡ các công trình làm cản trở giao thông. Năm 220 trước công nguyên, xây dựng đường sá lấy kinh đô Hàm Dương làm trung tâm. Năm 212 trước công nguyên Tần Thuỷ Hoàng lại hạ lệnh xây dựng một con đường từ Hàm Dương thẳng lên phương bắc, gọi là Trực đạo, lại đắp một con đường rộng năm xích đến biên cương tây nam qua các vùng nay là Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, lại xây dựng Tân đạo tạo thành một mạng lưới giao thông từ Hàm Dương làm trung tâm đi bốn phương tám hướng. Sau đó lại thống nhất chiều rộng của đường và trục xe, khiến việc giao thông qua lại được tiện lợi. Thực hiện những việc đó sau khi thống nhất, Tần Thuỷ Hoàng đã thủ tiêu chế độ cát cứ phong kiến, tăng cường trung ương tập quyền, củng cố sự thống nhất của quốc gia đa dân tộc, phát triển kinh tế và văn hoá phong kiến, có ảnh hưởng to lớn và lâu dài về sau.
 
Nền văn minh Trung Quốc bắt nguồn tại các khu vực thung lũng dọc theo Hoàng Hà và Trường Giang trong Thời đại đồ đá mới, nhưng cái nôi của nền văn minh Trung Quốc được cho là tại Hoàng Hà. Với hàng ngàn năm lịch sử tồn tại và phát triển, đây là một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới. Các văn bản ghi chép lịch sử của Trung Quốc được tìm thấy có niên đại cổ nhất là từ đời nhà Thương(khoảng 1700-1046 TCN), mặc dù một vài văn bản khác như Sử ký (khoảng 100 TCN) và Trúc thư kỷ niên khẳng định rằng triều đại nhà Hạ đã tồn tại trước nhà Thương Một số phong tục văn hóa, văn học và triết học được phát triển mạnh trong suốt thời kỳ nhà Chu.

Năm 221 trước Công nguyên được coi là năm Trung Quốc bắt đầu thống nhất trở thành một đế chế rộng lớn, với vị Hoàng đế Tần Thủy Hoàng cai trị, đánh dấu sự khởi đầu của đế quốc Trung Hoa. Vào thời kỳ này, Tần Thủy Hoàng cho xây dựng Vạn lý trường thành để bảo vệ đất nước khỏi các tộc người phương Bắc. Ông cho thống nhất chữ viết, các đơn vị đo lường và tiền tệ.

Trải qua hơn 3.000 năm đế chế (khoảng 2000 TCN - 1912 SCN), văn minh Trung Hoa phát triển rực rỡ, với những thành tựu đáng nể, gồm các phát minh vĩ đại như giấy, nghề in, la bàn... Trong thời gian này, có hai nền đế chế trên toàn Trung Quốc phụ thuộc vào các tộc người ngoại tộc, là người Mông Cổ lập nên nhà Nguyên và người Mãn Châu lập nên nhà Thanh.


1. Ðiều kiện thiên nhiên và cư dân ở Trung Quốc thời cổ.

Nước Trung Quốc vĩ đại ngày nay, dất rộng người đông, về thời thượng cổ, chỉ chiếm một dải dất tương đối hẹp, người thưa, nằm ở vùng hạ lưu hai con sông Hoàng Hà và Trường Giang. Hai con sông này đã giữ một vai trò trọng yếu trong đời sống của người Trung Quốc từ thời xa xưa. Ðặc biệt là sông Hoàng Hà, nước lũ dâng lên cao, nhiều lần làm thay đổi cả dòng sông, gây nên thủy tai khủng khiếp.

Nhưng mặt khác, đất phù sa do hai con sông bồi đắp thành một miền đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu, rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp.

Căn cứ vào kết quả các cuộc khai quật khảo cổ do giao sư Bùi Văn Trung, tiến hành trong khoảng từ năm 1927 đến năm 1937, ở vùng Chu-khẩu-điếm, phía tây Nam Bắc Kinh, người ta biết rằng độ 60 vạn năm về trước, trên lãnh thổ Trung Quốc đã có loài người sinh sống và lao động. Ðó là giống người vượn Trung quốc (sinanthropus), cũng còn gọi là người vượn Bắc kinh

2. Những Truyền thuyết về Hoàng Ðế và Nghiêu, Thuấn, Vũ.

Vào khoảng cách đây chừng năm hoặc sáu nghìn năm, tổ tiên người Trung Quốc đã biết cải tiến công cụ lao động.

Người ta đã phát hiện ra hai nền văn hòa quan trọng vào cuối thời đại đồ đá mới, trên lưu vực Hoàng Hà, nền văn hóa Ngưỡng thiều và nền văn hóa Long Sơn.

Hai nền văn hóa trên phản ảnh được tình hình phát triển của sức sản xuất, tình hình sinh hoạt vật chất của người Trung Quốc sống ở giai đoạn cuối của xã hội thị tộc.

Những truyền thuyết cổ đại Trung quốc về Tam hoàng, Ngũ đế có nhiều ý nghĩa lịch sử đối với giai đoạn công xã thị tộc này.

Tục truyền rằng Hoàng đế, tổ tiên lỗi lạc của nhân dân lưu vực Hoàng Hà. Theo thuyết truyền, rất nhu\iều sáng chế, phát minh quan trọng của Trung Quốc cổ đại đều quy vào Hoàng Ðế, như việc làm nhà cửa, may quần áo, đóng xe, đóng thuyền, trồng dâu, nuôi Tầm, dệt vải. Nuôi tầm lấy tơ là một cống hiến lớn lao của nhân dân lao động Trung Quốc cho nền văn hóa thế giới. Một phát minh quan trọng nữa ở thời Hoàng đế và chữ viết.

Sau Hoàng đế, trải qua mấy đời, có ba vị thủ lĩnh kế tiếp nhau đứng đầu liên minh bộ lạc: đó là Nghiêu, Thuấn, Vũ.

Thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ là thời kỳ tan ra của xã hội thị tộc ở Trung quốc

II. SỰ RA ÐỜI NHÀ NƯỚC CHIẾM HỮU NÔ LỆ TRUNG QUỐC. NHÀ HẠ - NHÀ THƯƠNG


1. Sự thành lập nhà Hạ. Sự hưng khởi nhà Thương

Nhà Hạ thành lập vào khoảng thế kỷ XXI trước công nguyên. Nhà Hạ mở đầu xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc.

Thế kỷ XVII trước công nguyên, vua cuối cùng của nhà Hạ là Kiệt cùng với bọn quý tộc nhà Hạ, vựa vào vũ lực, bạo ngược vô đạo, bóc lột nhân dân rất tàn khốc.

Thời bấy giờ, có bộ lạc Thương ở hạ lưu Hoàng Hà, dưới sự lãnh đạo của người thủ lĩnh của minh là Thành Thang, đã dần dần lớn mạnh lên, rồi lần lượt đánh bại các bộ lạc liên minh với Hạ, sau đó lại tấn công vua Kiệt nhà Hạ.

Khoảng thế kỹ XIV trước công nguyên, vua Thương là Bàn Canh dời đô đến đất Ân (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Do đó về sau, nhà Thương vẫn còn gọi là nhà Ân Thương.

2. Sinh hoạt kinh tê, xã hội, văn hoá đời Thường:

Khoảng năm 1899, tại huyện An-Dương thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, người ta đã tìm thấy rất nhiều mai rùa và xương thú có khắc chữ ở di tích Ấn Khư, kinh đô của nhà Ân. Những bản ghichép đó gọi là Văn Lư giáp cốt (có nghĩa là chữ khắc trên xương thú hoặc mai rùa). Qua đó, người ta có thể phán đoán được một cách tương đối chính xác những nét lớn về tình hình sinh hoạt xã hội đời Ân - Thương.

Thời Ân - Thương, nông nghiệp trở thành ngành sản xuất chủ yếu trong xã hội.

Thời bấy giờ, việc đúc đồ đồng thau đã đạt tới trình độ kỹ thuật cao.

Người ta đã thấy sinh hoạt bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã hội chiếm hữu nô lệ thời Thương. Trong mộ của qui tộc, chôn theo rất nhiều đồ tùy táng,, cả nô. Trong mộ nô lệ thì không có gì vì người ta cho rằng nô lệ chết rồi cũng vẫn là nô lệ, chỉ mang theo hai bàn tay trắng để làm việc cho chủ nô quý tộc đã chết.

Người thời Thường tin vào sức mạnh của tự nhiên, cho rằng nó có thể đem lại đều lành, điều dữ cho họ. Quí tộc tế trời, đất núi, sông, đặc biệt tế thần sông Hoàng Hà.

Tóm lại, những di tích phát hiện ở Ân Khư cho chúng ta biết rằng ở thời Ân - Thương, xã hội Trung Quốc là một Xã hội chiếm hữu nô lệ tương đối phát triển và nền văn hóa Ân - Thương, cũng gọi là văn hóa Ân Khư, là một nên văn hóa đặt cơ sở vững chắt cho sự phát triển của xã hội Trung quốc về sau này.

III. TÂY CHU


1. Sự hình thành nhà Tây Chu

Ở phía tây đồng bằng Hoa Bắc rộng lớn, thời bấy giờ tại lưu vực sông Kinh và sông Vị thuộc tỉnh Thiểm-tây ngày nay, co bộ tộc Chu đã sống lâu đời ở đây. Ðó là một vùng cao nguyên có chất đất vàng phì nhiêu, rất thuận lợi cho tộc Chu phát triển nghề nông của mình.

Trong lúc bộ tộc Chu đang lớn mạnh không ngừng, thi mâu thuẫn trong nội bộ nhà Ân - Thương ngày càng sâu sắc. Vua cuối cùng của nhà Ân - Thương là Trụ Vương, một tên bạo quân nổi tiếng bóc lột nhân dân rất tàn khốc.

Thủ lỉnh người Chu là Chu Văn Vương được sự ủng hộ của bộ tộc mình , thừa cơ nhà Thương suy yếu, phát triển thế lực về phía đông đánh chiếm nhiều đấ đai của nhà Thương. Con của Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương tấn công kinh đô nhà Thương.

Diệt xong nhà Thương, Chu vũ Vương đóng đô ở Hạo Kinh ( phía Tây thành phố Tây An ngày nay), và dựng lên nhà Chu, trong lịch sử gọi là Tây Chu.

2. Sự thống trị của nhà Chu:

Sau khi đông chinh thắng lợi, vua nhà Chu đã thực hành một số biện pháp nhằm tăng cường nền thống trị của mình ở miền Ðông. Trước hết, vua nhà Chu quyết định xây nhiều thành quách ở miền Ðông để tăng cương sức khống chế đối với người Ân. Nhà Chu cho xây dựng Lạc ấp (thuộc Hà Nam ngày nay) theo qui mô lớn.

Ðể củng cố nền thống trị của mình, hoà hoãn mâu thuẫn nội bộ, vua nhà Chu đã phân phong cho anh em, họ hàng và công thần làm chư hầu để họ dựng nước và trị dân ở các nơi, hình thành một số chư hầu như nước Lỗ, nước Tấn, nước Yên, nước Tề... là một chế độ thống trị dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống của dòng họ, gọi là chế độ tông pháp.

+ Về kinh tế: Thời Tây Chu tồn tại chế độ tỉnh điền. Chế độ tỉnh điền là chế đô chiếm hữu và sử dụng ruộng đất đã có từ trước, đến thời Tây chu mới được mở rộng. Ðồng thời đó cũng là một chế độ nghĩa vụ ü quân sự.

+ Về xã hội: xã hội thời Chu những giai cấp bị áp bức bóc lột là nô lệ và nông dân công xã.

Quý tộc thời Tây Chu có đủ các đặc quyền, đặc lợi. Lập được chiến công hay có công lao gì khác, thì họ thường được vua nhà Chu hay chư hầu ban thưởng ruộng đất và nô lệ. Quý tộc bóc lột nông dân công xã và và nô lệ rất nặng nề.

3. Sự suy vong của nhà Tây Chu

Ðến đời Chu Lê Vương, mâu thuẫn trong nội bộ nhà Chu càng thêm sâu sắc. Kết quả là năm 841 trước công nguyên nhân dân dưới sự lãnh đạo của quý tộc tên là Công Bá Hòa, tấn công cung điện nhà vua, đuổi Lê vương, cử ra một hôi nghị quí tộc tạm thời chấp chính, thay thế vua. Trong lịch sử thời đó gọi là thời "cộng hòa", tồn tại trong 14 năm (841-828 trước công nguyên).

Ðến năm 827 trước công nguyên, sau khi Chu Lê Vương chết, con là Tuyên vương khôi phục lại được ngôi vua thì cuộc đấu tranh trong nội bộ nhà vua mới tạm dứt; nhưng chiến tranh lại xảy ra giữa nhà Chu với các tộc ngoài biên cương phía Tây và phía Bắc, chủ yếu là với các tộc, Nghiễm Doãn, Tây, Nhung, làm tiêu hao mất nhiều nhân lực, vật lực trong nhân dân và làm cho mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ nhà Chu lại trở nên gay gắt.

Tình hình chinh chiến đó làm cho sức sản xuất trong nước bị đình đốn một cách nghiêm trọng; xã hội phân hóa một cách kịch liệt, vàmâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt.

Năm 781 trước công nguyên, quân Tây Nhung công hãm Hạo Kinh, thiêu hủy kinh đô nhà Chu, bắt giết U Vương dưới chân núi Ly Sơn. Bọn thân hầu lập thái tử Nghi Câu lên làm vua, hiệu là Chu Bình Vương (771 trước công nguyên).

Căn cứ đị Thiểm Tây của nhà Chu đã ở vào tình thế bị Nghiễm Doãn và Tây nhung uy hiếp mạnh, nên năm sau, Chu Bình Vương phải dời đô sang Ðông, đến Lạc- ấp (Lạc dương, tỉnh Hà-nam bây giờ), đem căn cứ địa phía Tây tặng cho một quý tộc, là Tần Tướng Công.

Sau khi nhà Chu dời đô sang Ðông thì sử gọi là Ðông Chu.

Từ đó lịch sử Trung quốc bước vào thời đại mới: Thời Xuân thu -Chiến quốc.

IV. THỜI KỲ XUÂN THU - CHIÊN QUỐC


THỜI KỲ XUÂN THU (770-475 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN)

Từ khi Chu Bình Vương dời đô sang Lạc-ấp năm 770 cho đến năm 475 trước công nguyên là thời kỳ Xuân Thu :

1. Sự phát triển của sức sản xuất hiện chế độ tư hữu về ruộng đất:

Từ thời Xuân thu trở đi, công cụ sản xuất nói chung, nhất là nông cụ, đều làm bằng sắt.. Việc sử dụng công cụ bằng đất trong sản xuất nông nghiệp không những tạo điều kiện thuận lợi mới cho việc khai khẩn đất hoang, mà tạo điều kiện mới cho việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Do đó dần dần người ta thấy không cần thiết chia ruộng đất theo định kỳ, chế độ tỉnh điền dần dần tan rã. Chế độ tư hữu về ruộng đất xuất hiện và ngày càng phát triển.

2. Cục diện Ngũ bá thời Xuân Thu.

Ðến thời Xuân thu, nhiều nước chư hầu mượn tiếng ủng hộ địa vị tông chủ của nhà Chu, đề ra khẩu hiệu "tôn vương, bài Dị" để mở rộng thế lực và đất đai, thay nhà Chu chiếm lấy bá quyền. Vì thế các chư hầu gây chiến tranh thôn tính liên miên. Mở đầu thời kỳ các nước lớn tranh nhau bá quyền. Các nước ở miền Sơn -đông thì bị Tề thôn tính; các nước ở miền Tây-bắc thì bị Tần thôn tính; các nước ở miền Giang, Hán, Hoài, thì bị Sở thôn tính. Những nước chưa bị thôn tính cũng rất suy nhược, nhưng chỉ vì chúng ở vào thế hoãn xung giữa các nước các nướcclớn nên tạm thời giữ lại. Vì thế, nếu đầu thời Chu có vào khoảng trên dưới một nghìn nước chư hầu, thì đến thời Xuân thu chỉ còn lại hơn trăm nước, và tương đối lớn thì chỉ có 14 nước: Tần, Tấn, Tề, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh, Ngô, Việt, trong đó lớn mạnh nhất là Tề, Tấn, Tần, ở, Tống, về sau có Ngô và Việt.

3. Ðời sống của nhân dân.

Thời kỳ Xuân-thu, các nước lớn không ngừng gây chiến tranh cướp đoạt các nước nhỏ. Ðể thỏa mản tham vọng các nước lớn dùng phương pháp "triều sính" và "minh hội". "Triều sính" là nước lớn cưỡng bức nước nhỏ phải cống nạp sản vật cho mình. "Minh hội" là các nước lớn hội nghị với nhau dể bàn cách giải quyết vấn đề cống nạp của các nước nhỏ.

Lúc bấy giơ,ì nhân dân nghèo khổ, đói kém, buộc phải vay nợ của bọn quý tộc, nhà giàu cho vay nặng lãi, nên đời sống rơi vào cảnh cùng cực. Tình hình nước Tề,"tam lão (thường dân)chết đói chết rét"; tình hình nước Tấn, "thấy chết đói đầy đường". Tấn, tề là những nước lớn mà nhân dân còn như thế thì tình cảnh ở các nước nhỏ lại càng bi thảm biết dường nào!

THỜI CHIẾN QUỐC (475-221 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN)

1. Sự Phát triển kinh tế thời chiến quốc.

Trong thời chiến Quốc, ngoài cuộc đấu tranh thường xuyên xảy ra giữa các nước, trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc đấu tranh giữa các bọn quý tộc với nhau để tranh giành đất đai và quyền thống trị nhân dân. Ở nước Tấn, năm 403 trước công nguyên, có ba dòng họ lớn là Hàn, Triều, Ngụy chia nhau đất nước, rồi không bao lâu phế truất vua Tấn. Lúc đó Trung Quốc đã bước vào thời kỳ Chiến Quốc. Bấy giờ chỉ còn lại bảy nước lớn và một số ít nước nhỏ. Trong số bảy nước lớn, thì Tề, Sở, Yên, Tần, đã có từ thời Xuân Thu; Hàn, Triệu, Ngụy, là những nước mới tách ra từ nước Tấn. Bảy nước đó tạo thành cục diện Thất hùng thời Chiến quốc.

Thời Chiến quốc, Trung Quốc có những biến đổi lớn lao hơn về mặt kinh tế. Ðặc biệt, nghề luyện sắt và kỹ thuật luyện sắt phát phát triển cao hơn, và đồ dùng bằng sắt được phổ biến rộng rãi hơn so với thời Xuân thu.

Ðể đáp ứng nhu cầu phát triển thương nghiệp, các thành thị lớn đều tự chế ra tiền tiền tệ kim loại đã xuất hiện thời Xuân thu, đến thời Chiến quốc đã thịnh hành. Những thương nhân lớn có thế lực về kinh tế, thường có nhiều tham vọng chính trị. Ví như nhà buôn lớn Lã bất Vi đã tung của cải ra để thao túng chiïnh quyền nưới Tần, hay như Mạnh Thường Quân, Quý tộc nước Tề, làm nghề cho vay nặng lãi, đã đưa vào thế lực tiền tài để củng cố quyền chình trị của mình.

Thời Chiến quốc,tuy sản xuất nông nghiệp bị chiến tranh phá hoại rất nghiêm trọng, nhưng nhờ việc sử dụng phổ biến nông cụ bằng sắt nên nói chung, công tác thủy lợi và việc canh tác nông nghiệp ở các nước đều có phát triển trong chừng mực nhất định.

2. Những biến đổi lớn trong thời Chiến quốc:

Thời Chiến quốc, chiến tranh còn nhiều hơn, quy mô lớn hơn và tàn khốc hơn thời Xuân thu.

Hồi ấy kẻ sĩ là tầng lớp hoạt động sôi nổi nhất về chính trị. Tầng lớp sĩ có tri thức văn hóa, có kinh nghiệm đấu tranh chính trị và thủ đoạn chính trị nhân dân hoặc có tài thuyết khách và tài thao lược nên vua chúa và quý tộc vào thời bấy giờ đã dời họ về làm quan lại, tướng tá,. Mưu sĩ hay "thực khách".

Do sự phát triển của sức sản xuất, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, do chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên, tổ chức công xã nông thôn (chế độ tỉnh điền) bị phá hoại. Trong thôn xã có sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ, một số nhỏ nông dân giàu có trở thành địa chủ, phú nông, đa số nông dân mất ruộng đất, phải đi cấy rẽ, cày thuê, trở thành tá điền, cố nông. Quan hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện và dần dần chiếm ưu thế trong nông nghiệp. Nô lệ từ nay thu hẹp trong sản xuất thủ công, hầm mỏ và phục vụ trong nhà.

Thời Chiến quốc những sự biến đổi lớn lao về kinh tế, xã hội và chính trị nói trên được phản ảnh trong phong trào "biến pháp", tức là phong trào cải cách được tiến hành ở nhiều nước.

3. Cải cách của Thương Ưởng và hưng thịnh của nước Tần. Nhà Tần thống nhất Trung Quốc.

Trong Thất hùng thời Chiến Quốc, Tần là một nước tương đối lạc hậu. Ðến năm 362 trước công nguyên, Tần Hiếu Công lên ngôi, dùng Thương Ưởng, một nhà chính trị có tài, làm Tể tướng để thực hành cải cách, tích cực làm cho nước giàu, dân mạnh, mưu đồ cạnh tranh với 6 nước miền Ðông.

Cải cách Thương Ưởng bị quý tộc nhà Tần phản đối dữ dội. Do Tần Hiếu Công thẳng tay đàn áp mọi sự phản kháng, cải cách Thương Ưởng mới được tiến hành thuận lợi. Cải cách của Thương Ưởng đã đặt cơ sở vật chất cho nước Tần thống nhất Trung Quốc.

Sự cường thịnh của nước Tần ngày càng uy hiếp dữ dội 6 nước miền Ðông.

Năm 246, trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính lên ngôi. Bây giờ lãnh thổ của nước Tần đã rộng lớn, Tần tự thấy đã có đầy đủ lực lượng để thực hiện âm mưu chinh phục 6 nước. Chỉ trong vòng 10 năm từ năm 230-221 trước công nguyên - nước Tầnnđã lần lượt tiêu diệt 6 nước: Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên và Tề, thống nhất lãnh thổ Trung Quốc, chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài thời Xuân thu - Chiến quốc lập ra đế quốc Tần, đế quốc thống nhất đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Trung quốc.

Việc nhà Tần thống nhất Trung Quốc là một việc phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội thời bấy giờ, bởi gì chỉ có thống nhất đất nước mới có thể chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài, mới có đủ sức mạnh chóng nội xâm, mới tạo điều kiện cho việc mở mang và thống nhất quản lý công trình thủy lợi nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp và công thương nghiệp trên qui mô toàn quốc, đem lại đời sống hòa bình, yên vui cho nhân dân.

Trung Quốc cổ đại có 4 tên gọi: Thần Châu, Cửu Châu, Hoa Hạ, Trung Nguyên

1) Thần Châu (神州): Các nhà hiền triết cổ đại lấy Thần Châu là trần cực, dưới là địa tâm, thường được gọi là “Thần Châu đại địa”.

2) Hoa Hạ (華夏): Ban đầu bao gồm khu vực Trung Nguyên, sau bao gồm toàn bộ lãnh thổ.

3) Cửu Châu (九州): Người Trung Quốc cổ đại phân chia như sau: Kí, Duyên, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Lương, Ung, và Dự Châu.

4) Trung Nguyên (中原): Nơi sản sinh của nền văn minh Trung Hoa, trong thời cổ đại được dân tộc Hoa Hạ coi là trung tâm của thiên hạ.
 
Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử là một nước lớn ở Đông Á. Trên lãnh thổ Trung Quốc có hai con sông lớn chảy qua, đó là Hoàng Hà (dài 5.464 km) ở phía Bắc và Trường Giang (dài 6.300 km) ở phía Nam. Hoàng Hà từ xưa thường gây ra lũ lụt, nhưng do đó đã bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy nơi đây trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc.

Khi mới thành lập nước (vào khoảng thế kỷ XXI TCN) địa bàn Trung Quốc chỉ mới là một vùng nhỏ ở trung lưu lưu vực Hoàng Hà. Từ đó lãnh thổ Trung Quốc được mở rộng dần, nhưng cho đến thế kỷ III TCN, tức là đến cuối thời cổ đại, phía Bắc của cương giới Trung Quốc chưa vượt quá dãy Vạn lý trường thành ngày nay, phía Tây mới đến Đông nam tỉnh Cam Túc và phía Nam chỉ bao gồm một dải đất nằm dọc theo hữu ngạn Trường Giang mà thôi.

Từ cuối thế kỷ III TCN Trung Quốc trở thành một nước phong kiến thống nhất. Từ đó nhiều triều đại của Trung Quốc đã chinh phục các nước xung quanh, do đó có những thời kỳ cương giới của Trung Quốc được mở ra rất rộng. Đến thế kỷ XVIII, lãnh thổ Trung Quốc về cơ bản được xác định như hiện nay.

Kipkis.com-Lich-su-van-minh-the-gioi-15.jpeg

Trung Quốc là một trong những nơi từ rất sớm đã có loài người cư trú. Năm 1929, ở Chu Khẩu Điếm (ở Tây Nam Bắc Kinh) giới khảo cổ học Trung Quốc đã phát hiện được xương hóa thạch của một loại người vượn sống cách đây khoảng 400.000 năm. Những xương hóa thạch của người vượn được phát hiện sau đó trên lãnh thổ Trung Quốc đã cung cấp những niên đại xưa hơn, đặc biệt người vượn Nguyên Mưu (Vân Nam) phát hiện năm 1977 có niên đại đến 1.700.000 năm.

Về mặt chủng tộc, cư dân ở lưu vực Hoàng Hà thuộc giống Mông Cổ, đến thời Xuân Thu được gọi là Hoa Hạ, nói tắt là Hoa hoặc Hạ. Đó là tiền thân của Hán tộc sau này. Còn cư dân ở phía Nam Trường Giang thì khác hẳn cư dân vùng Hoàng Hà về ngôn ngữ và phong tục tập quán, tục cắt tóc, xăm mình, đi chân đất. Đến thời Xuân Thu, các tộc này cũng bị Hoa Hạ đồng hóa.

Dưới thời quân chủ, ở Trung Quốc, tên nước được gọi theo tên triều đại. Đồng thời, từ thời cổ đại, người Trung Quốc cho rằng nước họ là một quốc gia văn minh ở giữa, xung quanh là các tộc lạc hậu gọi là Man, Di, Nhung, Địch, vì vậy đất nước của họ còn được gọi là Trung Hoa hoặc Trung Quốc. Tuy vậy các danh từ này chỉ dùng để phân biệt với các vùng xung quanh chứ chưa phải là tên nước chính thức. Mãi đến năm 1912 khi triều Thanh bị lật đổ, quốc hiệu Đại Thanh bị xóa bỏ, cái tên Trung Hoa mới trở thành tên nước chính thức nhưng thông thường người ta quen gọi là Trung Quốc.

2. Sơ lược lịch sử cổ trung đại Trung Quốc
a) Thời kỳ cổ đại
Trung Quốc đã trải qua xã hội nguyên thủy. Theo truyền thuyết, thời viễn cổ ở Trung Quốc có một thủ lĩnh mà đời sau thường nhắc đến gọi là Phục Hy. Đến nửa đầu thiên kỷ III TCN, ở vùng Hoàng Hà xuất hiện một thủ lĩnh bộ lạc gọi là Hoàng Đế. Hoàng Đế họ Cơ, hiệu là Hiên viên, được coi là thủy tổ người Trung Quốc. Đến cuối thiên kỷ III TCN, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Hạ Vũ đều là dòng dõi của Hoàng Đế. Nghiêu và Thuấn tuy chỉ là những thủ lĩnh liên minh bộ lạc nhưng đời sau cho họ là những ông vua tốt nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Tương truyền rằng, năm Nghiêu 72 tuổi, Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn, đến khi Thuấn già, Thuấn lại nhường ngôi cho Vũ. Nhưng sau khi Vũ chết con của Vũ là Khải được tôn lên làm vua, Trung Quốc bắt đầu bước vào xã hội có nhà nước.

Thời cổ đại ở Trung Quốc có ba vương triều nối tiếp nhau là Hạ, Thương, Chu.

Hạ (khoảng thế kỷ XXI đến XVI TCN)

Tuy Vũ chưa xưng vương nhưng ông được coi là người đặt cơ sở cho triều Hạ. Thời Hạ, người Trung Quốc chỉ mới biết đồng đỏ, chữ viết cũng chưa có. Sau 4 thế kỷ, đến thời vua Kiệt, bạo chúa nổi tiếng đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, triều Hạ diệt vong.

Thương (còn gọi là Ân, thế kỷ XVI-XII TCN).

Người thành lập nước Thương là Thang. Nhân khi vua Kiệt tàn bạo, nhân dân oán ghét, Thang đem quân diệt Hạ, thời Thương, người Trung Quốc đã biết sử dụng đồng thau, chữ viết cũng đã ra đời. Đến thời vua Trụ (cũng là một bạo chúa nổi tiếng), Thương bị Chu tiêu diệt.

Kipkis.com-Lich-su-van-minh-the-gioi-16.jpeg

Chu (thế kỷ XI-III TCN).

Người thành lập triều Chu là Văn vương. Trong hơn 8 thế kỷ tồn tại, triều Chu chia làm hai thời kỳ là Tây Chu và Đông Chu. Từ khi thành lập đến năm 771 TCN, triều Chu đóng đô ở Cảo Kinh ở phía Tây nên gọi là Tây Chu. Nói chung, Tây Chu là thời kỳ xã hội Trung Quốc tương đối ổn định. Từ năm 770 TCN, vua Chu dời đô sang Lạc Ấp ở phía Đông từ đó gọi là Đông Chu. Thời Đông Chu tương đương với hai thời kỳ Xuân Thu (722-481 TCN) và Chiến Quốc (403-221 TCN). Đây là thời kỳ nhà Chu ngày càng suy yếu. Trong khi đó, giữa các nước chư hầu diễn ra cuộc nội chiến triền miên để giành quyền bá chủ, tiến tới tiêu diệt lẫn nhau để thống nhất Trung Quốc, thời Xuân Thu đồ sắt bắt đầu xuất hiện, đến thời Chiến Quốc thì được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội.

b) Thời kỳ trung đại
Thời kỳ trung đại nói chung là thời kỳ thống trị của các vương triều phong kiến trên đất nước Trung Quốc thống nhất.

Thời kỳ này bắt đầu từ năm 221 TCN tức là từ khi Tần Thủy Hoàng thành lập triều Tần cho đến năm 1840 tức là năm xảy ra cuộc chiến tranh Thuốc phiện giữa Trung Quốc và Anh làm cho Trung Quốc từ một nước phong kiến trở thành một nước nửa phong kiến nửa thuộc địa.

Trong thời gian hơn 2.000 năm đó, Trung Quốc đã trải qua các triều đại sau đây:

Tần (221-206 TcN)

Tây Hán (206 TCN - 8 TCN)

Tân (9-23)

Đông Hán (25-220)

Thời kỳ Tam quốc: Ngụy, Thục, Ngô (220-280)

Tấn (265-420)

Thời kỳ Nam Bắc triều (420-581)

Tùy (581-618)

Đường (618-907)

Thời kỳ Ngũ đại Thập quốc (907-960)

Tống (960-1279), chia thành 2 thời kỳ:

Bắc Tống (960-1127)

Nam Tống (1127-1279)

Nguyên (1271-1368)

Minh (1368-1644)

Thanh (1644-1911)

Trong thời trung đại, Hán, Đường, Tống, Minh là những vương triều lớn, đó cũng là những thời kỳ Trung Quốc rất cường thịnh và phát triển về mọi mặt, Nguyên và Thanh cũng là hai triều đại lớn, nhưng triều Nguyên do người Mông Cổ thành lập, triều Thanh do tộc Mãn Châu lập nên, trong xã hội tồn tại mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt do đó đã hạn chế sự phát triển về văn hóa, triều Thanh tuy tồn tại đến năm 1911, nhưng từ năm 1840, tính chất của xã hội Trung Quốc đã thay đổi nên đã chuyển sang thời kỳ lịch sử cận đại.

Nguồn : Lịch sử văn minh thế giới-Tác giả: Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc Bảo -nhà xuất bản Giáo dục
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top