Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Nền văn minh Trung Quốc bắt nguồn tại các khu vực thung lũng dọc theo Hoàng Hà và Trường Giang trong Thời đại đồ đá mới, nhưng cái nôi của nền văn minh Trung Quốc được cho là tại Hoàng Hà. Với hàng ngàn năm lịch sử tồn tại và phát triển, đây là một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới. Các văn bản ghi chép lịch sử của Trung Quốc được tìm thấy có niên đại cổ nhất là từ đời nhà Thương(khoảng 1700-1046 TCN), mặc dù một vài văn bản khác như Sử ký (khoảng 100 TCN) và Trúc thư kỷ niên khẳng định rằng triều đại nhà Hạ đã tồn tại trước nhà Thương Một số phong tục văn hóa, văn học và triết học được phát triển mạnh trong suốt thời kỳ nhà Chu.
Năm 221 trước Công nguyên được coi là năm Trung Quốc bắt đầu thống nhất trở thành một đế chế rộng lớn, với vị Hoàng đế Tần Thủy Hoàng cai trị, đánh dấu sự khởi đầu của đế quốc Trung Hoa. Vào thời kỳ này, Tần Thủy Hoàng cho xây dựng Vạn lý trường thành để bảo vệ đất nước khỏi các tộc người phương Bắc. Ông cho thống nhất chữ viết, các đơn vị đo lường và tiền tệ.
Trải qua hơn 3.000 năm đế chế (khoảng 2000 TCN - 1912 SCN), văn minh Trung Hoa phát triển rực rỡ, với những thành tựu đáng nể, gồm các phát minh vĩ đại như giấy, nghề in, la bàn... Trong thời gian này, có hai nền đế chế trên toàn Trung Quốc phụ thuộc vào các tộc người ngoại tộc, là người Mông Cổ lập nên nhà Nguyên và người Mãn Châu lập nên nhà Thanh.
1. Ðiều kiện thiên nhiên và cư dân ở Trung Quốc thời cổ.
Nước Trung Quốc vĩ đại ngày nay, dất rộng người đông, về thời thượng cổ, chỉ chiếm một dải dất tương đối hẹp, người thưa, nằm ở vùng hạ lưu hai con sông Hoàng Hà và Trường Giang. Hai con sông này đã giữ một vai trò trọng yếu trong đời sống của người Trung Quốc từ thời xa xưa. Ðặc biệt là sông Hoàng Hà, nước lũ dâng lên cao, nhiều lần làm thay đổi cả dòng sông, gây nên thủy tai khủng khiếp.
Nhưng mặt khác, đất phù sa do hai con sông bồi đắp thành một miền đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu, rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp.
Căn cứ vào kết quả các cuộc khai quật khảo cổ do giao sư Bùi Văn Trung, tiến hành trong khoảng từ năm 1927 đến năm 1937, ở vùng Chu-khẩu-điếm, phía tây Nam Bắc Kinh, người ta biết rằng độ 60 vạn năm về trước, trên lãnh thổ Trung Quốc đã có loài người sinh sống và lao động. Ðó là giống người vượn Trung quốc (sinanthropus), cũng còn gọi là người vượn Bắc kinh
2. Những Truyền thuyết về Hoàng Ðế và Nghiêu, Thuấn, Vũ.
Vào khoảng cách đây chừng năm hoặc sáu nghìn năm, tổ tiên người Trung Quốc đã biết cải tiến công cụ lao động.
Người ta đã phát hiện ra hai nền văn hòa quan trọng vào cuối thời đại đồ đá mới, trên lưu vực Hoàng Hà, nền văn hóa Ngưỡng thiều và nền văn hóa Long Sơn.
Hai nền văn hóa trên phản ảnh được tình hình phát triển của sức sản xuất, tình hình sinh hoạt vật chất của người Trung Quốc sống ở giai đoạn cuối của xã hội thị tộc.
Những truyền thuyết cổ đại Trung quốc về Tam hoàng, Ngũ đế có nhiều ý nghĩa lịch sử đối với giai đoạn công xã thị tộc này.
Tục truyền rằng Hoàng đế, tổ tiên lỗi lạc của nhân dân lưu vực Hoàng Hà. Theo thuyết truyền, rất nhu\iều sáng chế, phát minh quan trọng của Trung Quốc cổ đại đều quy vào Hoàng Ðế, như việc làm nhà cửa, may quần áo, đóng xe, đóng thuyền, trồng dâu, nuôi Tầm, dệt vải. Nuôi tầm lấy tơ là một cống hiến lớn lao của nhân dân lao động Trung Quốc cho nền văn hóa thế giới. Một phát minh quan trọng nữa ở thời Hoàng đế và chữ viết.
Sau Hoàng đế, trải qua mấy đời, có ba vị thủ lĩnh kế tiếp nhau đứng đầu liên minh bộ lạc: đó là Nghiêu, Thuấn, Vũ.
Thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ là thời kỳ tan ra của xã hội thị tộc ở Trung quốc
II. SỰ RA ÐỜI NHÀ NƯỚC CHIẾM HỮU NÔ LỆ TRUNG QUỐC. NHÀ HẠ - NHÀ THƯƠNG
1. Sự thành lập nhà Hạ. Sự hưng khởi nhà Thương
Nhà Hạ thành lập vào khoảng thế kỷ XXI trước công nguyên. Nhà Hạ mở đầu xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc.
Thế kỷ XVII trước công nguyên, vua cuối cùng của nhà Hạ là Kiệt cùng với bọn quý tộc nhà Hạ, vựa vào vũ lực, bạo ngược vô đạo, bóc lột nhân dân rất tàn khốc.
Thời bấy giờ, có bộ lạc Thương ở hạ lưu Hoàng Hà, dưới sự lãnh đạo của người thủ lĩnh của minh là Thành Thang, đã dần dần lớn mạnh lên, rồi lần lượt đánh bại các bộ lạc liên minh với Hạ, sau đó lại tấn công vua Kiệt nhà Hạ.
Khoảng thế kỹ XIV trước công nguyên, vua Thương là Bàn Canh dời đô đến đất Ân (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Do đó về sau, nhà Thương vẫn còn gọi là nhà Ân Thương.
2. Sinh hoạt kinh tê, xã hội, văn hoá đời Thường:
Khoảng năm 1899, tại huyện An-Dương thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, người ta đã tìm thấy rất nhiều mai rùa và xương thú có khắc chữ ở di tích Ấn Khư, kinh đô của nhà Ân. Những bản ghichép đó gọi là Văn Lư giáp cốt (có nghĩa là chữ khắc trên xương thú hoặc mai rùa). Qua đó, người ta có thể phán đoán được một cách tương đối chính xác những nét lớn về tình hình sinh hoạt xã hội đời Ân - Thương.
Thời Ân - Thương, nông nghiệp trở thành ngành sản xuất chủ yếu trong xã hội.
Thời bấy giờ, việc đúc đồ đồng thau đã đạt tới trình độ kỹ thuật cao.
Người ta đã thấy sinh hoạt bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã hội chiếm hữu nô lệ thời Thương. Trong mộ của qui tộc, chôn theo rất nhiều đồ tùy táng,, cả nô. Trong mộ nô lệ thì không có gì vì người ta cho rằng nô lệ chết rồi cũng vẫn là nô lệ, chỉ mang theo hai bàn tay trắng để làm việc cho chủ nô quý tộc đã chết.
Người thời Thường tin vào sức mạnh của tự nhiên, cho rằng nó có thể đem lại đều lành, điều dữ cho họ. Quí tộc tế trời, đất núi, sông, đặc biệt tế thần sông Hoàng Hà.
Tóm lại, những di tích phát hiện ở Ân Khư cho chúng ta biết rằng ở thời Ân - Thương, xã hội Trung Quốc là một Xã hội chiếm hữu nô lệ tương đối phát triển và nền văn hóa Ân - Thương, cũng gọi là văn hóa Ân Khư, là một nên văn hóa đặt cơ sở vững chắt cho sự phát triển của xã hội Trung quốc về sau này.
III. TÂY CHU
1. Sự hình thành nhà Tây Chu
Ở phía tây đồng bằng Hoa Bắc rộng lớn, thời bấy giờ tại lưu vực sông Kinh và sông Vị thuộc tỉnh Thiểm-tây ngày nay, co bộ tộc Chu đã sống lâu đời ở đây. Ðó là một vùng cao nguyên có chất đất vàng phì nhiêu, rất thuận lợi cho tộc Chu phát triển nghề nông của mình.
Trong lúc bộ tộc Chu đang lớn mạnh không ngừng, thi mâu thuẫn trong nội bộ nhà Ân - Thương ngày càng sâu sắc. Vua cuối cùng của nhà Ân - Thương là Trụ Vương, một tên bạo quân nổi tiếng bóc lột nhân dân rất tàn khốc.
Thủ lỉnh người Chu là Chu Văn Vương được sự ủng hộ của bộ tộc mình , thừa cơ nhà Thương suy yếu, phát triển thế lực về phía đông đánh chiếm nhiều đấ đai của nhà Thương. Con của Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương tấn công kinh đô nhà Thương.
Diệt xong nhà Thương, Chu vũ Vương đóng đô ở Hạo Kinh ( phía Tây thành phố Tây An ngày nay), và dựng lên nhà Chu, trong lịch sử gọi là Tây Chu.
2. Sự thống trị của nhà Chu:
Sau khi đông chinh thắng lợi, vua nhà Chu đã thực hành một số biện pháp nhằm tăng cường nền thống trị của mình ở miền Ðông. Trước hết, vua nhà Chu quyết định xây nhiều thành quách ở miền Ðông để tăng cương sức khống chế đối với người Ân. Nhà Chu cho xây dựng Lạc ấp (thuộc Hà Nam ngày nay) theo qui mô lớn.
Ðể củng cố nền thống trị của mình, hoà hoãn mâu thuẫn nội bộ, vua nhà Chu đã phân phong cho anh em, họ hàng và công thần làm chư hầu để họ dựng nước và trị dân ở các nơi, hình thành một số chư hầu như nước Lỗ, nước Tấn, nước Yên, nước Tề... là một chế độ thống trị dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống của dòng họ, gọi là chế độ tông pháp.
+ Về kinh tế: Thời Tây Chu tồn tại chế độ tỉnh điền. Chế độ tỉnh điền là chế đô chiếm hữu và sử dụng ruộng đất đã có từ trước, đến thời Tây chu mới được mở rộng. Ðồng thời đó cũng là một chế độ nghĩa vụ ü quân sự.
+ Về xã hội: xã hội thời Chu những giai cấp bị áp bức bóc lột là nô lệ và nông dân công xã.
Quý tộc thời Tây Chu có đủ các đặc quyền, đặc lợi. Lập được chiến công hay có công lao gì khác, thì họ thường được vua nhà Chu hay chư hầu ban thưởng ruộng đất và nô lệ. Quý tộc bóc lột nông dân công xã và và nô lệ rất nặng nề.
3. Sự suy vong của nhà Tây Chu
Ðến đời Chu Lê Vương, mâu thuẫn trong nội bộ nhà Chu càng thêm sâu sắc. Kết quả là năm 841 trước công nguyên nhân dân dưới sự lãnh đạo của quý tộc tên là Công Bá Hòa, tấn công cung điện nhà vua, đuổi Lê vương, cử ra một hôi nghị quí tộc tạm thời chấp chính, thay thế vua. Trong lịch sử thời đó gọi là thời "cộng hòa", tồn tại trong 14 năm (841-828 trước công nguyên).
Ðến năm 827 trước công nguyên, sau khi Chu Lê Vương chết, con là Tuyên vương khôi phục lại được ngôi vua thì cuộc đấu tranh trong nội bộ nhà vua mới tạm dứt; nhưng chiến tranh lại xảy ra giữa nhà Chu với các tộc ngoài biên cương phía Tây và phía Bắc, chủ yếu là với các tộc, Nghiễm Doãn, Tây, Nhung, làm tiêu hao mất nhiều nhân lực, vật lực trong nhân dân và làm cho mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ nhà Chu lại trở nên gay gắt.
Tình hình chinh chiến đó làm cho sức sản xuất trong nước bị đình đốn một cách nghiêm trọng; xã hội phân hóa một cách kịch liệt, vàmâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt.
Năm 781 trước công nguyên, quân Tây Nhung công hãm Hạo Kinh, thiêu hủy kinh đô nhà Chu, bắt giết U Vương dưới chân núi Ly Sơn. Bọn thân hầu lập thái tử Nghi Câu lên làm vua, hiệu là Chu Bình Vương (771 trước công nguyên).
Căn cứ đị Thiểm Tây của nhà Chu đã ở vào tình thế bị Nghiễm Doãn và Tây nhung uy hiếp mạnh, nên năm sau, Chu Bình Vương phải dời đô sang Ðông, đến Lạc- ấp (Lạc dương, tỉnh Hà-nam bây giờ), đem căn cứ địa phía Tây tặng cho một quý tộc, là Tần Tướng Công.
Sau khi nhà Chu dời đô sang Ðông thì sử gọi là Ðông Chu.
Từ đó lịch sử Trung quốc bước vào thời đại mới: Thời Xuân thu -Chiến quốc.
IV. THỜI KỲ XUÂN THU - CHIÊN QUỐC
THỜI KỲ XUÂN THU (770-475 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN)
Từ khi Chu Bình Vương dời đô sang Lạc-ấp năm 770 cho đến năm 475 trước công nguyên là thời kỳ Xuân Thu :
1. Sự phát triển của sức sản xuất hiện chế độ tư hữu về ruộng đất:
Từ thời Xuân thu trở đi, công cụ sản xuất nói chung, nhất là nông cụ, đều làm bằng sắt.. Việc sử dụng công cụ bằng đất trong sản xuất nông nghiệp không những tạo điều kiện thuận lợi mới cho việc khai khẩn đất hoang, mà tạo điều kiện mới cho việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Do đó dần dần người ta thấy không cần thiết chia ruộng đất theo định kỳ, chế độ tỉnh điền dần dần tan rã. Chế độ tư hữu về ruộng đất xuất hiện và ngày càng phát triển.
2. Cục diện Ngũ bá thời Xuân Thu.
Ðến thời Xuân thu, nhiều nước chư hầu mượn tiếng ủng hộ địa vị tông chủ của nhà Chu, đề ra khẩu hiệu "tôn vương, bài Dị" để mở rộng thế lực và đất đai, thay nhà Chu chiếm lấy bá quyền. Vì thế các chư hầu gây chiến tranh thôn tính liên miên. Mở đầu thời kỳ các nước lớn tranh nhau bá quyền. Các nước ở miền Sơn -đông thì bị Tề thôn tính; các nước ở miền Tây-bắc thì bị Tần thôn tính; các nước ở miền Giang, Hán, Hoài, thì bị Sở thôn tính. Những nước chưa bị thôn tính cũng rất suy nhược, nhưng chỉ vì chúng ở vào thế hoãn xung giữa các nước các nướcclớn nên tạm thời giữ lại. Vì thế, nếu đầu thời Chu có vào khoảng trên dưới một nghìn nước chư hầu, thì đến thời Xuân thu chỉ còn lại hơn trăm nước, và tương đối lớn thì chỉ có 14 nước: Tần, Tấn, Tề, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh, Ngô, Việt, trong đó lớn mạnh nhất là Tề, Tấn, Tần, ở, Tống, về sau có Ngô và Việt.
3. Ðời sống của nhân dân.
Thời kỳ Xuân-thu, các nước lớn không ngừng gây chiến tranh cướp đoạt các nước nhỏ. Ðể thỏa mản tham vọng các nước lớn dùng phương pháp "triều sính" và "minh hội". "Triều sính" là nước lớn cưỡng bức nước nhỏ phải cống nạp sản vật cho mình. "Minh hội" là các nước lớn hội nghị với nhau dể bàn cách giải quyết vấn đề cống nạp của các nước nhỏ.
Lúc bấy giơ,ì nhân dân nghèo khổ, đói kém, buộc phải vay nợ của bọn quý tộc, nhà giàu cho vay nặng lãi, nên đời sống rơi vào cảnh cùng cực. Tình hình nước Tề,"tam lão (thường dân)chết đói chết rét"; tình hình nước Tấn, "thấy chết đói đầy đường". Tấn, tề là những nước lớn mà nhân dân còn như thế thì tình cảnh ở các nước nhỏ lại càng bi thảm biết dường nào!
THỜI CHIẾN QUỐC (475-221 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN)
1. Sự Phát triển kinh tế thời chiến quốc.
Trong thời chiến Quốc, ngoài cuộc đấu tranh thường xuyên xảy ra giữa các nước, trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc đấu tranh giữa các bọn quý tộc với nhau để tranh giành đất đai và quyền thống trị nhân dân. Ở nước Tấn, năm 403 trước công nguyên, có ba dòng họ lớn là Hàn, Triều, Ngụy chia nhau đất nước, rồi không bao lâu phế truất vua Tấn. Lúc đó Trung Quốc đã bước vào thời kỳ Chiến Quốc. Bấy giờ chỉ còn lại bảy nước lớn và một số ít nước nhỏ. Trong số bảy nước lớn, thì Tề, Sở, Yên, Tần, đã có từ thời Xuân Thu; Hàn, Triệu, Ngụy, là những nước mới tách ra từ nước Tấn. Bảy nước đó tạo thành cục diện Thất hùng thời Chiến quốc.
Thời Chiến quốc, Trung Quốc có những biến đổi lớn lao hơn về mặt kinh tế. Ðặc biệt, nghề luyện sắt và kỹ thuật luyện sắt phát phát triển cao hơn, và đồ dùng bằng sắt được phổ biến rộng rãi hơn so với thời Xuân thu.
Ðể đáp ứng nhu cầu phát triển thương nghiệp, các thành thị lớn đều tự chế ra tiền tiền tệ kim loại đã xuất hiện thời Xuân thu, đến thời Chiến quốc đã thịnh hành. Những thương nhân lớn có thế lực về kinh tế, thường có nhiều tham vọng chính trị. Ví như nhà buôn lớn Lã bất Vi đã tung của cải ra để thao túng chiïnh quyền nưới Tần, hay như Mạnh Thường Quân, Quý tộc nước Tề, làm nghề cho vay nặng lãi, đã đưa vào thế lực tiền tài để củng cố quyền chình trị của mình.
Thời Chiến quốc,tuy sản xuất nông nghiệp bị chiến tranh phá hoại rất nghiêm trọng, nhưng nhờ việc sử dụng phổ biến nông cụ bằng sắt nên nói chung, công tác thủy lợi và việc canh tác nông nghiệp ở các nước đều có phát triển trong chừng mực nhất định.
2. Những biến đổi lớn trong thời Chiến quốc:
Thời Chiến quốc, chiến tranh còn nhiều hơn, quy mô lớn hơn và tàn khốc hơn thời Xuân thu.
Hồi ấy kẻ sĩ là tầng lớp hoạt động sôi nổi nhất về chính trị. Tầng lớp sĩ có tri thức văn hóa, có kinh nghiệm đấu tranh chính trị và thủ đoạn chính trị nhân dân hoặc có tài thuyết khách và tài thao lược nên vua chúa và quý tộc vào thời bấy giờ đã dời họ về làm quan lại, tướng tá,. Mưu sĩ hay "thực khách".
Do sự phát triển của sức sản xuất, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, do chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên, tổ chức công xã nông thôn (chế độ tỉnh điền) bị phá hoại. Trong thôn xã có sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ, một số nhỏ nông dân giàu có trở thành địa chủ, phú nông, đa số nông dân mất ruộng đất, phải đi cấy rẽ, cày thuê, trở thành tá điền, cố nông. Quan hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện và dần dần chiếm ưu thế trong nông nghiệp. Nô lệ từ nay thu hẹp trong sản xuất thủ công, hầm mỏ và phục vụ trong nhà.
Thời Chiến quốc những sự biến đổi lớn lao về kinh tế, xã hội và chính trị nói trên được phản ảnh trong phong trào "biến pháp", tức là phong trào cải cách được tiến hành ở nhiều nước.
3. Cải cách của Thương Ưởng và hưng thịnh của nước Tần. Nhà Tần thống nhất Trung Quốc.
Trong Thất hùng thời Chiến Quốc, Tần là một nước tương đối lạc hậu. Ðến năm 362 trước công nguyên, Tần Hiếu Công lên ngôi, dùng Thương Ưởng, một nhà chính trị có tài, làm Tể tướng để thực hành cải cách, tích cực làm cho nước giàu, dân mạnh, mưu đồ cạnh tranh với 6 nước miền Ðông.
Cải cách Thương Ưởng bị quý tộc nhà Tần phản đối dữ dội. Do Tần Hiếu Công thẳng tay đàn áp mọi sự phản kháng, cải cách Thương Ưởng mới được tiến hành thuận lợi. Cải cách của Thương Ưởng đã đặt cơ sở vật chất cho nước Tần thống nhất Trung Quốc.
Sự cường thịnh của nước Tần ngày càng uy hiếp dữ dội 6 nước miền Ðông.
Năm 246, trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính lên ngôi. Bây giờ lãnh thổ của nước Tần đã rộng lớn, Tần tự thấy đã có đầy đủ lực lượng để thực hiện âm mưu chinh phục 6 nước. Chỉ trong vòng 10 năm từ năm 230-221 trước công nguyên - nước Tầnnđã lần lượt tiêu diệt 6 nước: Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên và Tề, thống nhất lãnh thổ Trung Quốc, chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài thời Xuân thu - Chiến quốc lập ra đế quốc Tần, đế quốc thống nhất đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Trung quốc.
Việc nhà Tần thống nhất Trung Quốc là một việc phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội thời bấy giờ, bởi gì chỉ có thống nhất đất nước mới có thể chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài, mới có đủ sức mạnh chóng nội xâm, mới tạo điều kiện cho việc mở mang và thống nhất quản lý công trình thủy lợi nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp và công thương nghiệp trên qui mô toàn quốc, đem lại đời sống hòa bình, yên vui cho nhân dân.
Năm 221 trước Công nguyên được coi là năm Trung Quốc bắt đầu thống nhất trở thành một đế chế rộng lớn, với vị Hoàng đế Tần Thủy Hoàng cai trị, đánh dấu sự khởi đầu của đế quốc Trung Hoa. Vào thời kỳ này, Tần Thủy Hoàng cho xây dựng Vạn lý trường thành để bảo vệ đất nước khỏi các tộc người phương Bắc. Ông cho thống nhất chữ viết, các đơn vị đo lường và tiền tệ.
Trải qua hơn 3.000 năm đế chế (khoảng 2000 TCN - 1912 SCN), văn minh Trung Hoa phát triển rực rỡ, với những thành tựu đáng nể, gồm các phát minh vĩ đại như giấy, nghề in, la bàn... Trong thời gian này, có hai nền đế chế trên toàn Trung Quốc phụ thuộc vào các tộc người ngoại tộc, là người Mông Cổ lập nên nhà Nguyên và người Mãn Châu lập nên nhà Thanh.
Nước Trung Quốc vĩ đại ngày nay, dất rộng người đông, về thời thượng cổ, chỉ chiếm một dải dất tương đối hẹp, người thưa, nằm ở vùng hạ lưu hai con sông Hoàng Hà và Trường Giang. Hai con sông này đã giữ một vai trò trọng yếu trong đời sống của người Trung Quốc từ thời xa xưa. Ðặc biệt là sông Hoàng Hà, nước lũ dâng lên cao, nhiều lần làm thay đổi cả dòng sông, gây nên thủy tai khủng khiếp.
Nhưng mặt khác, đất phù sa do hai con sông bồi đắp thành một miền đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu, rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp.
Căn cứ vào kết quả các cuộc khai quật khảo cổ do giao sư Bùi Văn Trung, tiến hành trong khoảng từ năm 1927 đến năm 1937, ở vùng Chu-khẩu-điếm, phía tây Nam Bắc Kinh, người ta biết rằng độ 60 vạn năm về trước, trên lãnh thổ Trung Quốc đã có loài người sinh sống và lao động. Ðó là giống người vượn Trung quốc (sinanthropus), cũng còn gọi là người vượn Bắc kinh
2. Những Truyền thuyết về Hoàng Ðế và Nghiêu, Thuấn, Vũ.
Vào khoảng cách đây chừng năm hoặc sáu nghìn năm, tổ tiên người Trung Quốc đã biết cải tiến công cụ lao động.
Người ta đã phát hiện ra hai nền văn hòa quan trọng vào cuối thời đại đồ đá mới, trên lưu vực Hoàng Hà, nền văn hóa Ngưỡng thiều và nền văn hóa Long Sơn.
Hai nền văn hóa trên phản ảnh được tình hình phát triển của sức sản xuất, tình hình sinh hoạt vật chất của người Trung Quốc sống ở giai đoạn cuối của xã hội thị tộc.
Những truyền thuyết cổ đại Trung quốc về Tam hoàng, Ngũ đế có nhiều ý nghĩa lịch sử đối với giai đoạn công xã thị tộc này.
Tục truyền rằng Hoàng đế, tổ tiên lỗi lạc của nhân dân lưu vực Hoàng Hà. Theo thuyết truyền, rất nhu\iều sáng chế, phát minh quan trọng của Trung Quốc cổ đại đều quy vào Hoàng Ðế, như việc làm nhà cửa, may quần áo, đóng xe, đóng thuyền, trồng dâu, nuôi Tầm, dệt vải. Nuôi tầm lấy tơ là một cống hiến lớn lao của nhân dân lao động Trung Quốc cho nền văn hóa thế giới. Một phát minh quan trọng nữa ở thời Hoàng đế và chữ viết.
Sau Hoàng đế, trải qua mấy đời, có ba vị thủ lĩnh kế tiếp nhau đứng đầu liên minh bộ lạc: đó là Nghiêu, Thuấn, Vũ.
Thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ là thời kỳ tan ra của xã hội thị tộc ở Trung quốc
II. SỰ RA ÐỜI NHÀ NƯỚC CHIẾM HỮU NÔ LỆ TRUNG QUỐC. NHÀ HẠ - NHÀ THƯƠNG
1. Sự thành lập nhà Hạ. Sự hưng khởi nhà Thương
Nhà Hạ thành lập vào khoảng thế kỷ XXI trước công nguyên. Nhà Hạ mở đầu xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc.
Thế kỷ XVII trước công nguyên, vua cuối cùng của nhà Hạ là Kiệt cùng với bọn quý tộc nhà Hạ, vựa vào vũ lực, bạo ngược vô đạo, bóc lột nhân dân rất tàn khốc.
Thời bấy giờ, có bộ lạc Thương ở hạ lưu Hoàng Hà, dưới sự lãnh đạo của người thủ lĩnh của minh là Thành Thang, đã dần dần lớn mạnh lên, rồi lần lượt đánh bại các bộ lạc liên minh với Hạ, sau đó lại tấn công vua Kiệt nhà Hạ.
Khoảng thế kỹ XIV trước công nguyên, vua Thương là Bàn Canh dời đô đến đất Ân (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Do đó về sau, nhà Thương vẫn còn gọi là nhà Ân Thương.
2. Sinh hoạt kinh tê, xã hội, văn hoá đời Thường:
Khoảng năm 1899, tại huyện An-Dương thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, người ta đã tìm thấy rất nhiều mai rùa và xương thú có khắc chữ ở di tích Ấn Khư, kinh đô của nhà Ân. Những bản ghichép đó gọi là Văn Lư giáp cốt (có nghĩa là chữ khắc trên xương thú hoặc mai rùa). Qua đó, người ta có thể phán đoán được một cách tương đối chính xác những nét lớn về tình hình sinh hoạt xã hội đời Ân - Thương.
Thời Ân - Thương, nông nghiệp trở thành ngành sản xuất chủ yếu trong xã hội.
Thời bấy giờ, việc đúc đồ đồng thau đã đạt tới trình độ kỹ thuật cao.
Người ta đã thấy sinh hoạt bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã hội chiếm hữu nô lệ thời Thương. Trong mộ của qui tộc, chôn theo rất nhiều đồ tùy táng,, cả nô. Trong mộ nô lệ thì không có gì vì người ta cho rằng nô lệ chết rồi cũng vẫn là nô lệ, chỉ mang theo hai bàn tay trắng để làm việc cho chủ nô quý tộc đã chết.
Người thời Thường tin vào sức mạnh của tự nhiên, cho rằng nó có thể đem lại đều lành, điều dữ cho họ. Quí tộc tế trời, đất núi, sông, đặc biệt tế thần sông Hoàng Hà.
Tóm lại, những di tích phát hiện ở Ân Khư cho chúng ta biết rằng ở thời Ân - Thương, xã hội Trung Quốc là một Xã hội chiếm hữu nô lệ tương đối phát triển và nền văn hóa Ân - Thương, cũng gọi là văn hóa Ân Khư, là một nên văn hóa đặt cơ sở vững chắt cho sự phát triển của xã hội Trung quốc về sau này.
III. TÂY CHU
1. Sự hình thành nhà Tây Chu
Ở phía tây đồng bằng Hoa Bắc rộng lớn, thời bấy giờ tại lưu vực sông Kinh và sông Vị thuộc tỉnh Thiểm-tây ngày nay, co bộ tộc Chu đã sống lâu đời ở đây. Ðó là một vùng cao nguyên có chất đất vàng phì nhiêu, rất thuận lợi cho tộc Chu phát triển nghề nông của mình.
Trong lúc bộ tộc Chu đang lớn mạnh không ngừng, thi mâu thuẫn trong nội bộ nhà Ân - Thương ngày càng sâu sắc. Vua cuối cùng của nhà Ân - Thương là Trụ Vương, một tên bạo quân nổi tiếng bóc lột nhân dân rất tàn khốc.
Thủ lỉnh người Chu là Chu Văn Vương được sự ủng hộ của bộ tộc mình , thừa cơ nhà Thương suy yếu, phát triển thế lực về phía đông đánh chiếm nhiều đấ đai của nhà Thương. Con của Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương tấn công kinh đô nhà Thương.
Diệt xong nhà Thương, Chu vũ Vương đóng đô ở Hạo Kinh ( phía Tây thành phố Tây An ngày nay), và dựng lên nhà Chu, trong lịch sử gọi là Tây Chu.
2. Sự thống trị của nhà Chu:
Sau khi đông chinh thắng lợi, vua nhà Chu đã thực hành một số biện pháp nhằm tăng cường nền thống trị của mình ở miền Ðông. Trước hết, vua nhà Chu quyết định xây nhiều thành quách ở miền Ðông để tăng cương sức khống chế đối với người Ân. Nhà Chu cho xây dựng Lạc ấp (thuộc Hà Nam ngày nay) theo qui mô lớn.
Ðể củng cố nền thống trị của mình, hoà hoãn mâu thuẫn nội bộ, vua nhà Chu đã phân phong cho anh em, họ hàng và công thần làm chư hầu để họ dựng nước và trị dân ở các nơi, hình thành một số chư hầu như nước Lỗ, nước Tấn, nước Yên, nước Tề... là một chế độ thống trị dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống của dòng họ, gọi là chế độ tông pháp.
+ Về kinh tế: Thời Tây Chu tồn tại chế độ tỉnh điền. Chế độ tỉnh điền là chế đô chiếm hữu và sử dụng ruộng đất đã có từ trước, đến thời Tây chu mới được mở rộng. Ðồng thời đó cũng là một chế độ nghĩa vụ ü quân sự.
+ Về xã hội: xã hội thời Chu những giai cấp bị áp bức bóc lột là nô lệ và nông dân công xã.
Quý tộc thời Tây Chu có đủ các đặc quyền, đặc lợi. Lập được chiến công hay có công lao gì khác, thì họ thường được vua nhà Chu hay chư hầu ban thưởng ruộng đất và nô lệ. Quý tộc bóc lột nông dân công xã và và nô lệ rất nặng nề.
3. Sự suy vong của nhà Tây Chu
Ðến đời Chu Lê Vương, mâu thuẫn trong nội bộ nhà Chu càng thêm sâu sắc. Kết quả là năm 841 trước công nguyên nhân dân dưới sự lãnh đạo của quý tộc tên là Công Bá Hòa, tấn công cung điện nhà vua, đuổi Lê vương, cử ra một hôi nghị quí tộc tạm thời chấp chính, thay thế vua. Trong lịch sử thời đó gọi là thời "cộng hòa", tồn tại trong 14 năm (841-828 trước công nguyên).
Ðến năm 827 trước công nguyên, sau khi Chu Lê Vương chết, con là Tuyên vương khôi phục lại được ngôi vua thì cuộc đấu tranh trong nội bộ nhà vua mới tạm dứt; nhưng chiến tranh lại xảy ra giữa nhà Chu với các tộc ngoài biên cương phía Tây và phía Bắc, chủ yếu là với các tộc, Nghiễm Doãn, Tây, Nhung, làm tiêu hao mất nhiều nhân lực, vật lực trong nhân dân và làm cho mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ nhà Chu lại trở nên gay gắt.
Tình hình chinh chiến đó làm cho sức sản xuất trong nước bị đình đốn một cách nghiêm trọng; xã hội phân hóa một cách kịch liệt, vàmâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt.
Năm 781 trước công nguyên, quân Tây Nhung công hãm Hạo Kinh, thiêu hủy kinh đô nhà Chu, bắt giết U Vương dưới chân núi Ly Sơn. Bọn thân hầu lập thái tử Nghi Câu lên làm vua, hiệu là Chu Bình Vương (771 trước công nguyên).
Căn cứ đị Thiểm Tây của nhà Chu đã ở vào tình thế bị Nghiễm Doãn và Tây nhung uy hiếp mạnh, nên năm sau, Chu Bình Vương phải dời đô sang Ðông, đến Lạc- ấp (Lạc dương, tỉnh Hà-nam bây giờ), đem căn cứ địa phía Tây tặng cho một quý tộc, là Tần Tướng Công.
Sau khi nhà Chu dời đô sang Ðông thì sử gọi là Ðông Chu.
Từ đó lịch sử Trung quốc bước vào thời đại mới: Thời Xuân thu -Chiến quốc.
IV. THỜI KỲ XUÂN THU - CHIÊN QUỐC
THỜI KỲ XUÂN THU (770-475 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN)
Từ khi Chu Bình Vương dời đô sang Lạc-ấp năm 770 cho đến năm 475 trước công nguyên là thời kỳ Xuân Thu :
1. Sự phát triển của sức sản xuất hiện chế độ tư hữu về ruộng đất:
Từ thời Xuân thu trở đi, công cụ sản xuất nói chung, nhất là nông cụ, đều làm bằng sắt.. Việc sử dụng công cụ bằng đất trong sản xuất nông nghiệp không những tạo điều kiện thuận lợi mới cho việc khai khẩn đất hoang, mà tạo điều kiện mới cho việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Do đó dần dần người ta thấy không cần thiết chia ruộng đất theo định kỳ, chế độ tỉnh điền dần dần tan rã. Chế độ tư hữu về ruộng đất xuất hiện và ngày càng phát triển.
2. Cục diện Ngũ bá thời Xuân Thu.
Ðến thời Xuân thu, nhiều nước chư hầu mượn tiếng ủng hộ địa vị tông chủ của nhà Chu, đề ra khẩu hiệu "tôn vương, bài Dị" để mở rộng thế lực và đất đai, thay nhà Chu chiếm lấy bá quyền. Vì thế các chư hầu gây chiến tranh thôn tính liên miên. Mở đầu thời kỳ các nước lớn tranh nhau bá quyền. Các nước ở miền Sơn -đông thì bị Tề thôn tính; các nước ở miền Tây-bắc thì bị Tần thôn tính; các nước ở miền Giang, Hán, Hoài, thì bị Sở thôn tính. Những nước chưa bị thôn tính cũng rất suy nhược, nhưng chỉ vì chúng ở vào thế hoãn xung giữa các nước các nướcclớn nên tạm thời giữ lại. Vì thế, nếu đầu thời Chu có vào khoảng trên dưới một nghìn nước chư hầu, thì đến thời Xuân thu chỉ còn lại hơn trăm nước, và tương đối lớn thì chỉ có 14 nước: Tần, Tấn, Tề, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh, Ngô, Việt, trong đó lớn mạnh nhất là Tề, Tấn, Tần, ở, Tống, về sau có Ngô và Việt.
3. Ðời sống của nhân dân.
Thời kỳ Xuân-thu, các nước lớn không ngừng gây chiến tranh cướp đoạt các nước nhỏ. Ðể thỏa mản tham vọng các nước lớn dùng phương pháp "triều sính" và "minh hội". "Triều sính" là nước lớn cưỡng bức nước nhỏ phải cống nạp sản vật cho mình. "Minh hội" là các nước lớn hội nghị với nhau dể bàn cách giải quyết vấn đề cống nạp của các nước nhỏ.
Lúc bấy giơ,ì nhân dân nghèo khổ, đói kém, buộc phải vay nợ của bọn quý tộc, nhà giàu cho vay nặng lãi, nên đời sống rơi vào cảnh cùng cực. Tình hình nước Tề,"tam lão (thường dân)chết đói chết rét"; tình hình nước Tấn, "thấy chết đói đầy đường". Tấn, tề là những nước lớn mà nhân dân còn như thế thì tình cảnh ở các nước nhỏ lại càng bi thảm biết dường nào!
THỜI CHIẾN QUỐC (475-221 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN)
1. Sự Phát triển kinh tế thời chiến quốc.
Trong thời chiến Quốc, ngoài cuộc đấu tranh thường xuyên xảy ra giữa các nước, trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc đấu tranh giữa các bọn quý tộc với nhau để tranh giành đất đai và quyền thống trị nhân dân. Ở nước Tấn, năm 403 trước công nguyên, có ba dòng họ lớn là Hàn, Triều, Ngụy chia nhau đất nước, rồi không bao lâu phế truất vua Tấn. Lúc đó Trung Quốc đã bước vào thời kỳ Chiến Quốc. Bấy giờ chỉ còn lại bảy nước lớn và một số ít nước nhỏ. Trong số bảy nước lớn, thì Tề, Sở, Yên, Tần, đã có từ thời Xuân Thu; Hàn, Triệu, Ngụy, là những nước mới tách ra từ nước Tấn. Bảy nước đó tạo thành cục diện Thất hùng thời Chiến quốc.
Thời Chiến quốc, Trung Quốc có những biến đổi lớn lao hơn về mặt kinh tế. Ðặc biệt, nghề luyện sắt và kỹ thuật luyện sắt phát phát triển cao hơn, và đồ dùng bằng sắt được phổ biến rộng rãi hơn so với thời Xuân thu.
Ðể đáp ứng nhu cầu phát triển thương nghiệp, các thành thị lớn đều tự chế ra tiền tiền tệ kim loại đã xuất hiện thời Xuân thu, đến thời Chiến quốc đã thịnh hành. Những thương nhân lớn có thế lực về kinh tế, thường có nhiều tham vọng chính trị. Ví như nhà buôn lớn Lã bất Vi đã tung của cải ra để thao túng chiïnh quyền nưới Tần, hay như Mạnh Thường Quân, Quý tộc nước Tề, làm nghề cho vay nặng lãi, đã đưa vào thế lực tiền tài để củng cố quyền chình trị của mình.
Thời Chiến quốc,tuy sản xuất nông nghiệp bị chiến tranh phá hoại rất nghiêm trọng, nhưng nhờ việc sử dụng phổ biến nông cụ bằng sắt nên nói chung, công tác thủy lợi và việc canh tác nông nghiệp ở các nước đều có phát triển trong chừng mực nhất định.
2. Những biến đổi lớn trong thời Chiến quốc:
Thời Chiến quốc, chiến tranh còn nhiều hơn, quy mô lớn hơn và tàn khốc hơn thời Xuân thu.
Hồi ấy kẻ sĩ là tầng lớp hoạt động sôi nổi nhất về chính trị. Tầng lớp sĩ có tri thức văn hóa, có kinh nghiệm đấu tranh chính trị và thủ đoạn chính trị nhân dân hoặc có tài thuyết khách và tài thao lược nên vua chúa và quý tộc vào thời bấy giờ đã dời họ về làm quan lại, tướng tá,. Mưu sĩ hay "thực khách".
Do sự phát triển của sức sản xuất, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, do chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên, tổ chức công xã nông thôn (chế độ tỉnh điền) bị phá hoại. Trong thôn xã có sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ, một số nhỏ nông dân giàu có trở thành địa chủ, phú nông, đa số nông dân mất ruộng đất, phải đi cấy rẽ, cày thuê, trở thành tá điền, cố nông. Quan hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện và dần dần chiếm ưu thế trong nông nghiệp. Nô lệ từ nay thu hẹp trong sản xuất thủ công, hầm mỏ và phục vụ trong nhà.
Thời Chiến quốc những sự biến đổi lớn lao về kinh tế, xã hội và chính trị nói trên được phản ảnh trong phong trào "biến pháp", tức là phong trào cải cách được tiến hành ở nhiều nước.
3. Cải cách của Thương Ưởng và hưng thịnh của nước Tần. Nhà Tần thống nhất Trung Quốc.
Trong Thất hùng thời Chiến Quốc, Tần là một nước tương đối lạc hậu. Ðến năm 362 trước công nguyên, Tần Hiếu Công lên ngôi, dùng Thương Ưởng, một nhà chính trị có tài, làm Tể tướng để thực hành cải cách, tích cực làm cho nước giàu, dân mạnh, mưu đồ cạnh tranh với 6 nước miền Ðông.
Cải cách Thương Ưởng bị quý tộc nhà Tần phản đối dữ dội. Do Tần Hiếu Công thẳng tay đàn áp mọi sự phản kháng, cải cách Thương Ưởng mới được tiến hành thuận lợi. Cải cách của Thương Ưởng đã đặt cơ sở vật chất cho nước Tần thống nhất Trung Quốc.
Sự cường thịnh của nước Tần ngày càng uy hiếp dữ dội 6 nước miền Ðông.
Năm 246, trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính lên ngôi. Bây giờ lãnh thổ của nước Tần đã rộng lớn, Tần tự thấy đã có đầy đủ lực lượng để thực hiện âm mưu chinh phục 6 nước. Chỉ trong vòng 10 năm từ năm 230-221 trước công nguyên - nước Tầnnđã lần lượt tiêu diệt 6 nước: Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên và Tề, thống nhất lãnh thổ Trung Quốc, chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài thời Xuân thu - Chiến quốc lập ra đế quốc Tần, đế quốc thống nhất đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Trung quốc.
Việc nhà Tần thống nhất Trung Quốc là một việc phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội thời bấy giờ, bởi gì chỉ có thống nhất đất nước mới có thể chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài, mới có đủ sức mạnh chóng nội xâm, mới tạo điều kiện cho việc mở mang và thống nhất quản lý công trình thủy lợi nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp và công thương nghiệp trên qui mô toàn quốc, đem lại đời sống hòa bình, yên vui cho nhân dân.
Sửa lần cuối: