Bút Nghiên

ButNghien.com
Thuật ngữ “triết học” bao hàm nghĩa gì ?

Hình như triết học không có một chủ đề xác định nào như trong các khoa học và các nghiên cứu kinh viện. Phải chăng triết học bao gồm mọi lĩnh vực tri thức? Hay nó chỉ đơn thuần là tư tưởng, không có một đối tượng riêng biệt nào? Triết học có phải là một khoa học mang đến cho ta tri thức chắc chắn và chính xác, hay chỉ là nghệ thuật suy nghĩ? Tại sao chúng ta không thể đồng thuận với nhau về mục đích của một nỗ lực mà nhân loại theo đuổi hàng ngàn năm nay?

Sở dĩ khó định nghĩa triết học là vì có quá nhiều cái nhìn khác nhau về nội dung và sứ mệnh của triết học. Một mặt, nó được trình bày như là tri thức nền tảng về bản chất của vạn vật; mặt khác, như là sự hướng dẫn đến một đời sống tốt đẹp. Thời Trung Cổ triết học bị xem như con sen của thần học; thời nay, nhiều người vẫn xem nó như một trợ thủ cho khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.

dan-lon-trong-tranh-Dong-Ho- dien dan but nghien.jpg

Triết học là một loại tri thức đặc biệt có tính minh triết. Nó đem đến cho ta minh triết về bản chất con người, về thế giới, về Thượng Đế, về đời sống tốt đẹp và xã hội tốt đẹp.

Thuật ngữ “triết học” theo nghĩa đen là lòng yêu mến đối với sự minh triết, theo đó, triết học là một tham vọng tìm kiếm hơn là một cái kho chứa đựng tri thức tìm được và có thể truyền giao được. Socrates chỉ rõ rằng triết gia là người yêu mến sự minh triết, chứ không sở hữu nó.

Socrates còn làm cho cung cách của triết gia thêm cụ thể khi nói rằng một đời sống không được khảo chứng thì không đáng sống và chúng ta nên theo đuổi mọi chứng lý đến bất cứ nơi đâu khi chưa ngã ngũ. Luôn luôn tìm kiếm, luôn luôn nghi vấn là thái độ căn bản trong sinh hoạt triết học. Nó cũng cho thấy một ý hướng luân lý của một đời sống tốt đẹp vốn là điều cần nhấn mạnh luôn mãi trong triết học.

Aristotle trình bày nội dung của triết học bằng một khối lượng tác phẩm phong phú đồ sộ. Ông phân chia triết học thành những chuyên ngành khác nhau. Đứng trên tất cả là “đệ nhất triết học”, hay Siêu hình học, vốn là tri thức về những nguyên lý và những nguyên nhân tối hậu. Sự nhấn mạnh Siêu hình học như vậy cũng đóng vai trò chính yếu trong triết học.

Vào thời hiện đại, bản chất của tri thức và cơ cấu của tâm trí được coi là quan trọng hàng đầu. Immanuel Kant(1), người đi đầu theo đường hướng này, phân biệt một bên là tri thức thực nghiệm có sẵn đối với khoa học tự nhiên và một bên là tri thức thuần lý chỉ có thể đạt được bằng triết học. Hiện nay người ta bàn cãi rất nhiều về vai trò tương đối của triết học và khoa học. Chính là với khoa học, chứ không phải triết học, mà người ta đi tìm tri thức căn bản. Một trong những trường phái triết học mạnh mẽ nhất, chủ nghĩa Thực chứng, cho rằng chỉ có những khoa học thực nghiệm mới là tri thức thực sự, và rằng triết học chỉ còn đóng vai trò giải nghĩa và phê phán các khoa học này.

Quan điểm của tôi là, triết học là một loại tri thức đặc biệt có tính minh triết. Nó đem đến cho ta minh triết về bản chất con người, về thế giới, về Thượng Đế, về đời sống tốt đẹp và xã hội tốt đẹp. Nó đem ra ánh sáng thắc mắc căn bản về yếu tính của vạn vật và cứu cánh cuộc đời. Do đó, nó đứng trên khoa học, cả về lý thuyết lẫn thực hành, vì khoa học chỉ đề cập đến những vấn đề bên ngoài và kém quan trọng hơn.

Theo quan điểm này, triết học là mối bận tâm của tất cả mọi người. Nó không phải là một ngành học đặc biệt, đòi hỏi phải tinh thông một phương pháp luận phức tạp, toán học cấp cao, hoặc máy móc tinh vi. Triết gia đích thực là một con chim lạ hiếm, đó là vì ông ta đã dâng hiến hết mình và suốt đời cho việc theo đuổi minh triết giữa một thế giới đầy sự xao lãng. Tuy nhiên mọi người có thể đáp lại tiếng gọi này, vì chỉ có hai điều duy nhất mà một người cần có để trở thành triết gia, đó là trí tuệ được Thượng Đế ban cho và một niềm khát khao muốn biết chân lý tối hậu.

Những gì tôi vừa trình bày trên đây gợi lên những giải đáp cho tất cả các câu hỏi của bạn. Triết học không phải là một khoa học thực nghiệm theo nghĩa của Vật lý học, Hóa học, và Sinh lý học; mà nó là một khoa học thuần lý, và như toán học, nó phát triển bằng suy tư và phân tích có hệ thống. Nhà toán học lẫn nhà triết học đều không viện dẫn bất kỳ sự kiện đã quan sát được nào cả, ngoại trừ những sự kiện thuộc kinh nghiệm thông thường của mọi người. Cả hai đều tiến hành những khám phá của mình ngay tại bàn giấy; cả hai đều là những nhà tư tưởng xa-lông.

Triết học không phải là một nghệ thuật, nhưng nó sử dụng các môn học lý thuyết, đặc biệt là nghệ thuật suy luận biện chứng. Nó không phải là thần học, vì trong khi thần học lấy niềm tin tôn giáo làm khởi điểm của mình thì triết học lại bắt đầu bằng sự phán đoán thực tế, nó nỗ lực làm rõ và đào sâu sự hiểu biết về một thế giới còn ẩn tàng trong phán đoán thực tế đó.

Hoàn toàn không đến trước khoa học, triết học đến sau khoa học. Mặc dù, như lịch sử cho thấy, sự tra hỏi triết lý bắt đầu từ rất lâu trước thí nghiệm khoa học, nó cũng sẽ tiếp tục lâu dài sau khi chúng ta đã đạt đến những giới hạn của tri thức thực nghiệm. Các khoa học thực nghiệm đã hoàn thiện rồi, và có những biểu hiện cho thấy ở những thời điểm nào đó chúng đã đi xa đến mức có thể. Nhưng triết học vẫn còn ở tuổi ấu thơ của nó. Sự phát triển đầy đủ của nó nằm ở nhiều thiên niên kỷ phía trước.

---------------------
(1) Immanuel Kant 1724 – 1804): Triết gia Đức, là người làm đảo lộn đường hướng triết học Tây phương với tác phẩm Critique of Pure Reason (“Phê phán Lý tính thuần túy”; 1781)

( Nguồn: NXB VHTT)
--------------------
1. Các vấn đề của Triết học


Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.
Socrates

Triết học đưa ra các câu hỏi về bản thể, nhận thức, chân lý, đạo đức, thẩm mỹ. Các vấn đề cơ bản của triết học là:

Vấn đề về bản thể: vật chất và ý thức là gì? Mối quan hệ giữa chúng như thế nào?

Vấn đề về chân lý: làm thế nào để xác định được một luận cứ đi từ tiền đề đến kết luận có hiệu lực hay không? Làm thế nào để biết được một phát biểu là đúng sai? Ta có thể trả lời những loại câu hỏi nào?

Vấn đề về nhận thức: quá trình nhận thức diễn ra thế nào? Chúng ta có thể nhận thức chính xác thế giới khách quan hay không? Thực tại là gì? Chúng ta nhận thức thực tại như thế nào, có nhận thức toàn bộ thực tại hay không?

Vấn đề về đạo đức: thế nào là "tốt", thế nào là "xấu" (hoặc thế nào là "giá trị", thế nào là "phi giá trị")? Sự khác biệt giữa tốt và xấu? Hành động như thế nào là đúng? Các giá trị có tính chất tuyệt đối hay tương đối? Thế nào là các quy tắc tự nhiên? Hạnh phúc là gì?
Vấn đề về thẩm mỹ: đẹp là gì, xấu là gì? Nghệ thuật là gì?

Thời kỳ triết học Hy lạp cổ đại, năm vấn đề cơ bản trên tương ứng với năm nhánh của triết học là siêu hình học, lôgic, nhận thức luận, luân lý học, và mỹ học. Tuy nhiên đối tượng của triết học còn mở rộng đến chính trị học, vật lý học, địa chất học, sinh học, khí tượng học, và thiên văn học. Bắt đầu từ Socrates, các nhà triết học Hy Lạp đã phát triển triết học theo hướng phân tích, tức là, phân chia vật thể thành các thành phần nhỏ hơn để nghiên cứu. Triết học cổ Hy Lạp thường được coi là cơ sở của triết học phương Tây.

Các nền triết học khác không phải luôn luôn phân chia, hoặc nghiên cứu theo cách của người Hy Lạp. Triết học Ấn Độ có nhiều điểm tương tự như triết học phương Tây. Trước thế kỷ thứ 19, trong ngôn ngữ của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc Trung Quốc, không có từ "triết học" mặc dù nền triết học của các nước này đã phát triển từ lâu rồi. Đặc biệt là các nhà triết học Trung Hoa sử dụng các phạm trù hoàn toàn khác người Hy Lạp. Các định nghĩa không dựa trên các đặc điểm chung mà thường có tính ẩn dụ và để chỉ một vài đối tượng cùng một lúc.[1]. Biên giới giữa các phạm trù không rõ ràng như trong triết học phương Tây.
2 Các học thuyết triết học

2.1 Chủ nghĩa duy vật
2.1.1 Triết học Marx-Lenin
2.2 Chủ nghĩa duy tâm
2.3 Chủ nghĩa hiện thực
2.4 Chủ nghĩa duy danh
2.5 Chủ nghĩa duy lý
2.6 Chủ nghĩa kinh nghiệm
2.7 Chủ nghĩa hoài nghi
2.8 Chủ nghĩa lý tưởng
2.9 Chủ nghĩa thực dụng
2.10 Hiện tượng học và thuyên thích học 
2.11 Chủ nghĩa hiện sinh
2.12 Triết học phân tích

3 Triết học phương Tây

3.1 Triết học Hy Lạp - La Mã
3.2 Triết học thời Trung cổ
3.3 Triết học phương Tây hiện đại
3.4 Triết học phân tích và triết học lục địa
3.4.1 Triết học phân tích
3.4.2 Triết học lục địa
3.5 Đạo đức học và triết học chính trị ở phương Tây
3.5.1 Bản chất con người và tính hợp pháp chính trị
3.5.2 Chủ nghĩa nhân quả, đạo nghĩa luận, và đức hạnh học

4 Triết học phương Đông

4.1 Triết học Ba Tư
4.2 Triết học Ấn Độ
4.3 Triết học Trung Quốc

-------

Triết học Mác - Lê Nin
Là một trong ba bộ phận lý luận cấu thành Chủ nghĩa Mác-Lênin, Triết học Mác Lênin là một môn học hết sức quan trọng, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo, không ngừng nâng cao chất lượng từ khâu biên soạn giáo trình, giảng dạy, học tập, nghiên cứu trong hệ thống giáo dục của nước ta. Triết học Mác-Lênin đã và đang đuợc tuổi trẻ học đường, cán bộ, đảng viên và toàn dân ta tiếp đón nhiệt tình, say mê học tập và nghiên cứu nghiêm túc.

Trước đòi hỏi nhu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục - đào tạo và nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy, học tập Triết học Mác-Lênin trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay theo tinh thần "từng bước chuẩn hoá giáo trình quốc gia" của môn học. Trên thực tế, quá trình giảng dạy, học tập Triết học Mác-Lênin không thuộc chuyên ngành triết học hiện nay ở các trường đại học và cao đẳng cũng có những khó khăn, nhất là giáo trình, tài liệu tham khảo.

Chính vì vậy, cuốn: “Triết học Mác-Lênin - Đề cương bài giảng và hướng dẫn ôn tập” của tập thể các tác giả là các giảng viên triết học ở các trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh, do TS. Đào Duy Thanh chủ biên là một nỗ lực rất đáng hoan nghênh.

Trên cơ sở kế thừa, tiếp tục nâng cao, đổi mới và từng buớc cụ thể hoá giáo trình quốc gia môn Triết học Mác-Lênin, cuốn sách này thể hiện kết quả tinh thần làm việc khoa học nghiêm túc của các tác giả. Trong quá trình biên soạn các tác giả đã tham khảo, chọn lọc nhiều tài liệu và cũng đã tuân thủ nguyên tắc trình bày rõ ràng, lôgíc các nguyên lý triết học cơ bản của Triết học Mác-Lênin phù hợp với giáo trình quốc gia dưới dạng hệ thống các câu hỏi và trả lời. Vì vậy, có thể nói đây là một tài liệu khoa học, hệ thống và cơ bản, hữu ích trong việc phục vụ học tập, nghiên cứu của sinh viên và bạn đọc.

Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia, trân trọng giới thiệu cuốn sách: “Triết học MácLênin - Đề cương bài giảng và hướng dẫn ôn tập” của tập thể các tác giả do TS. Đào Duy Thanh chủ biên đến đông đảo bạn đọc.

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
 

Đính kèm

Chủ nghĩa duy vật

Chủ nghĩa duy vật là một hình thức của chủ nghĩa duy vật lý (physicalism) với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết tự nhiên phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát được trong thiên nhiên được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân tự nhiên mà không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại của cái siêu nhiên. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm.

Triết học Marx-Lenin
Karl Marx

Triết học Marx - Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của Chủ nghĩa Marx – Lenin; đầu tiên là Triết học Marx, do Marx và Engels sáng lập ra, được Lenin và các nhà Marxist khác phát triển thêm. Triết học Marx ra đời vào những năm 40 thế kỉ 19 và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa học và tình hình xã hội phương Tây thế kỷ 19. Triết học Marx là triết học duy vật. Nhưng Marx và Engels không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mang đặc điểm máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. Các ông đã khắc phục những đặc điểm đó bằng cách tiếp thu một cách có phê phán những thành quả của triết học cổ điển Đức, nhất là phép biện chứng trong hệ thống triết học của Hegel. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel là phép biện chứng duy tâm, vì vậy, Marx và Engels đã cải tạo nó, đặt nó trên lập trường duy vật. Chính trong quá trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hegel và phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, trên cơ sở khái quát hoá những thành tựu của khoa học tự nhiên và thực tiễn xã hội phương Tây cho đến giữa thế kỉ 19, Marx và Engels đã tạo ra triết học của mình. Triết học ấy sau này đã được Lenin phát triển thêm và trở thành Triết học Marx - Lenin. Triết học Marx - Lenin là triết học duy vật biện chứng triệt để. Một số người phê phán chủ nghĩa Marx cho rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng không thể giải thích được hay giải thích đúng sự vận động của thế giới, chủ nghĩa duy vật lịch sử không giải thích đúng mọi hiện tượng lịch sử. Lenin hy vọng khắc phục được những đặc điểm của chủ nghĩa duy vật trước Marx. Trong Triết học Marx - Lenin, các quan điểm duy vật về tự nhiên và về xã hội, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau thành một hệ thống lý luận thống nhất. Nội dung cơ bản của lý luận đó gồm:

Thứ nhất, đó là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật đã được giải thích một cách biện chứng. Theo các nguyên lý này, "Trong thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động, và vật chất đang vận động không thể vận động như thế nào khác ngoài vận động trong không gian và thời gian". Còn ý thức chỉ là sản phẩm của bộ óc con người và là sự phản ánh tự giác, tích cực các sự vật, hiện tượng và quá trình hiện thực của thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Như vậy trong quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái thứ nhất, cái quyết định và tồn tại độc lập với ý thức, còn ý thức là cái thứ hai, cái có sau. Tuy nhiên khác với chủ nghĩa duy vật trước Marx, Triết học Marx - Lenin, một mặt khẳng định sự phụ thuộc vào vật chất, coi ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, mặt khác lại thừa nhận tác dụng tích cực trở lại của ý thức đối với vật chất. Thông qua hoạt động của con người, ý thức có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất ấy.
Thứ hai, các nguyên lý của phép biện chứng trong hệ thống triết học Hegel đã được cải tạo và xây dựng lại trên lập trường duy vật. Theo các nguyên lý đó:

Theo định nghĩa của Lenin, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh và nó tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Mỗi kết cấu vật chất có muôn vàn mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện tượng, quá trình khác của hiện thực.

Tất cả các sự vật cũng như sự phản ánh của chúng trong óc con người đều ở trong trạng thái biến đổi phát triển không ngừng. Nguồn gốc của sự phát triển đó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật. Phương thức của sự phát triển đó là sự chuyển hoá những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất và ngược lại. Còn chiều hướng của sự phát triển này là sự vận động tiến lên theo đường xoáy trôn ốc chứ không phải theo đường thẳng. Nội dung của hai nguyên lý trên đây được thể hiện trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật (quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; quy luật về sự chuyển hoá những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất và ngược lại; quy luật phủ định cái phủ định) và trong hàng loạt quy luật về mối quan hệ qua lại biện chứng giữa cái chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực, v.v...

Triết học Marx - Lenin còn bao gồm lý luận nhận thức và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhận thức là sự phản ánh giới tự nhiên bởi con người, nhưng đó không phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn toàn, mà là một quá trình nhờ đó tư duy mãi mãi và không ngừng tiến đến gần khách thể. Sự tiến đến gần đó diễn ra theo con đường mà Lenin đã tổng kết: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan". Cơ sở, động lực và mục đích của toàn bộ quá trình này là thực tiễn. Thực tiễn cũng đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý. Triết học Marx - Lenin không chỉ dừng lại ở những quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên mà còn mở rộng những quan điểm đó vào việc nhận thức xã hội và nhờ đó thế giới quan duy vật biện chứng trở thành toàn diện và triệt để. Áp dụng và mở rộng quan điểm duy vật biện chứng vào nghiên cứu xã hội, Marx đã đưa ra được quan niệm duy vật về lịch sử, chỉ ra con đường nghiên cứu những quy luật của sự phát triển xã hội, sự phát triển đó, cũng như sự phát triển của tự nhiên, không phải do ý muốn chủ quan mà do những quy luật khách quan quyết định. Sự ra đời của Triết học Marx - Lenin đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu lịch sử và đời sống xã hội thực sự có tính chất khoa học.

Theo Marx: "Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ."[2]. Tồn tại xã hội của con người trước hết là phương thức sản xuất của cải vật chất xã hội. Đó là nhân tố, xét đến cùng, quyết định toàn bộ đời sống của xã hội, quyết định sự phát triển của xã hội. Ý thức xã hội không có gì khác hơn là sự phản ánh tồn tại xã hội. Trong khi khẳng định nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, Triết học Marx - Lenin cũng thừa nhận tính độc lập tương đối trong sự phát triển của ý thức xã hội và vai trò tích cực của tư tưởng, lý luận tiên tiến trong sự phát triển của xã hội.

Với những quan điểm triết học nêu trên, khi nghiên cứu kinh tế chính trị Marx nhận thấy trong quá trình sản xuất xã hội, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên những hình thái ý thức xã hội làm nền tảng cho cấu trúc thượng tầng pháp lý và chính trị. Tới một giai đoạn phát triển nhất định, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, mà trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy đã trở thành những xiềng xích của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn này được giải quyết khi có một quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất đã lớn mạnh. Quan hệ sản xuất thay đổi thì những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó cùng với những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay đổi kéo theo sự thay đổi hệ thống pháp lý và chính trị.

Marx - Lenin cũng chỉ rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự phát triển của lịch sử. Quan niệm đó đã dẫn đến chỗ khẳng định vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân hiện đại trong cuộc đấu tranh giải phóng loài người, trong việc xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Marx - Lenin nghiên cứu xã hội với tính cách là một thể thống nhất, hoàn chỉnh và vạch ra những quy luật chung và những động lực của sự phát triển xã hội, chỉ ra vị trí và vai trò của mỗi mặt đời sống xã hội trong hệ thống xã hội nói chung, vạch ra những nét cơ bản của các giai đoạn phát triển xã hội loài người, từ đó chứng minh sự tiến hóa của xã hội loài người đến chủ nghĩa cộng sản là tất yếu.

Chủ nghĩa duy tâm

Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng mọi thứ đều tồn tại bên trong tâm thức và thuộc về tâm thức. Là một cách tiếp cập tới hiểu biết về sự tồn tại, chủ nghĩa duy tâm thường được đặt đối lập với chủ nghĩa duy vật, cả hai đều thuộc lớp bản thể học nhất nguyên chứ không phải nhị nguyên hay đa nguyên.

Chủ nghĩa duy tâm có hai khuynh hướng:

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan và coi nó là một cái gì đó hoàn toàn do tính tích cực của chủ thể quy định.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận ý thức và tinh thần là thuộc tính thứ nhất (có trước), vật chất là thuộc tính thứ hai (có sau), và coi cơ sở tồn tại không phải là tâm thức con người theo như quan niệm của Chủ nghĩa duy tâm chủ quan mà là một tâm thức nào đó ở bên ngoài thế giới như "tinh thần tuyệt đối", "lý tính thế giới", v.v...

Cách tiếp cận tới chủ nghĩa duy tâm của các triết gia phương Tây khác với cách tiếp cận của các nhà tư tưởng phương Đông. Trong nhiều tư tưởng phương Tây, (tuy không có trong tư tưởng của một số triết gia lớn của phương Tây như Plato và Hegel) ý niệm có quan hệ với tri thức trực tiếp của các hình ảnh hoặc quan niệm trí óc chủ quan. Khi đó nó thường được đặt cạnh chủ nghĩa hiện thực mà trong đó sự thực được xem là có sự tồn tại tuyệt đối trước tri thức của ta và độc lập với tri thức của ta. Các nhà duy tâm nhận thức luận có thể khẳng định rằng những thứ duy nhất mà có thể được "biết chắc" một cách trực tiếp là các ý niệm. Trong tư tưởng phương Đông, như được phản ánh trong chủ nghĩa duy tâm Ấn Độ giáo, khái niệm chủ nghĩa duy tâm sử dụng ý nghĩa ý thức, về cốt yếu là ý thức sống động của một Thượng đế có mặt ở mọi nơi, làm nền tảng cho mọi hiện tượng. Một kiểu chủ nghĩa duy tâm châu Á là chủ nghĩa duy tâm Phật giáo.

Chủ nghĩa kinh nghiệm

Nói chung, chủ nghĩa duy lý thường đối lập với chủ nghĩa kinh nghiệm, một học thuyết dựa trên cơ sở kiến thức về năm giác quan của con người chúng ta. John Locke, một triết gia theo chủ nghĩa kinh nghiệm đầu tiên của Anh quốc, đưa ra quan điểm chủ nghĩa kinh nghiệm cổ điển trong tác phẩm An Essay Concerning Human Understanding vào năm 1689, phát triển một dạng tự nhiên chủ nghĩa và kinh nghiệm chủ nghĩa trên cơ sở các nguyên tắc gần như khoa học.

Trong suốt kỷ nguyên này, những ý tưởng tôn giáo đóng vai trò hỗn hợp trong những nỗ lực của triết học thế tục. Bài phản bác nổi tiếng của giám mục Berkeley bài xích Isaac Newton theo cách của chủ nghĩa lý tưởng là một thí dụ về một triết gia trong trào lưu Khai sáng, (một giai đoạn trong lịch sử). Họ đúc kết khá nhiều từ những ý tưởng tôn giáo. Các triết gia tôn giáo có sức ảnh hưởng khác gồm có Blaise Pascal, Joseph Butler và Jonathan Edwards. Những triết gia lớn khác như Jean-Jacques Rousseau và Edmund Burke, đã chọn con đường hơi khác. Việc nhiều triết gia thời bấy giờ chỉ tập trung quan tâm những vấn đề được giới hạn đã dự báo cho sự phân chia ra và chuyên môn hoá nhiều lĩnh vực triết học trong thế kỷ 20.

Chủ nghĩa duy lý
René Descartes

Chủ nghĩa duy lý nhấn mạnh vai trò của lý trí con người. Chủ nghĩa duy lý cực đoan tìm mọi cách để gán tất cả kiến thức con người lên nền tảng độc nhất là lý trí. Kiểu lý luận điển hình của chủ nghĩa duy lý bắt đầu bằng những tiên đề không thể chối cãi rành rọt được, để từ đó, bằng các bước logic, diễn dịch ra mọi đối tượng kiến thức có thể có.

Parmenides (sinh năm 510 TCN) được cho là nhà triết học duy lý đầu tiên, người đã tranh luận về việc suy nghĩ thực sự có xảy ra là không thể hồ nghi, mà việc suy nghĩ phải có đối tượng suy nghĩ, do đó, một sự vật phải thật sự tồn tại. Parmenides diễn dịch rằng những gì thật sự tồn tại phải có những tính chất nhất định thí dụ như, nó không thể bắt đầu tồn tại hoặc chấm dứt tồn tại, nó là một chỉnh thể trọn vẹn, nó giữ nguyên bản chất vĩnh viễn (đúng hơn là tồn tại hoàn toàn bên ngoài thời gian). Zeno (sinh năm 489 TCN) là học trò của Parmenides, đã tranh luận rằng sự vận động là bất khả thi, và chứa đựng sự mâu thuẫn.

Plato (427-347) cũng bị ảnh hưởng bởi Parmenides, nhưng ông đã kết hợp chủ nghĩa duy lý với một dạng của chủ nghĩa hiện thực. Triết gia này đã cất công xem xét sự tồn tại và bản chất của sự vật. Ông kết luận đặc tính của những bản chất sự vật là chúng mang tính chung trên toàn cầu. Bản chất của một con người, của một hình tam giác, của một cái cây có thể áp dụng cho tất cả con người, tất cả hình tam giác và tất cả các loại cây. Plato tranh luận rằng những bản chất này là những hình thái không phụ thuộc vào trí não, rằng con người có thể biết đến chúng bằng lý trí và bằng cách làm ngơ trước những thứ làm phân tâm do giác quan gây ra.

Chủ nghĩa duy lý hiện đại bắt đầu với René Descartes (1596-1690). Nghiền ngẫm về bản chất của trải nghiệm tri giác, cũng như những khám phá khoa học trong sinh lý học và quang học, Descartes (và cả John Locke) đã đi đến quan điểm rằng chúng ta trực tiếp ý thức được ý nghĩ, chứ không phải sự vật. Quan điểm này làm nảy sinh ba vấn đề.

Có phải các ý nghĩ là bản sao thực thụ của những sự vật, sự việc mà chúng đại diện? Cảm giác không phải là sự tương tác trực tiếp giữa các vật thể và ý thức của ta, mà nó là quá trình sinh lý bao hàm sự đại diện (thí dụ như, một hình ảnh trên võng mạc). Locke nghĩ rằng một "tính chất phụ", như cảm giác thấy màu xanh lục, không thể nào giống sự sắp xếp các phân tử vật chất sinh ra cảm giác đó, dù là ông cũng nghĩ "những tính chất chính" như hình dạng, kích thước, con số, thực sự có trong các sự vật.

Ta vẫn chưa rõ làm thế nào những vật thể tự nhiên như bàn, ghế hoặc ngay cả những quá trình sinh lý trong não bộ có thể sản sinh ra những thứ thuộc về tinh thần như ý nghĩ. Điều này là một trong những vướng mắc của một vấn đề triết học nổi tiếng, vấn đề tinh thần-cơ thể.
Nếu tất cả những gì chúng ta ý thức được chỉ là ý nghĩ, vậy làm sao ta có thể biết được có thứ gì khác tồn tại ngoài ý nghĩ ra?

Descartes nỗ lực giải quyết vấn đề cuối cùng bằng lý luận. Ông đã bắt đầu bằng một nguyên lý mà ông nghĩ là không thể bắt bẻ hiệu quả được: Tôi "biết suy nghĩ", do đó tôi "tồn tại". Từ nguyên lý này, Descartes tiến hành xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh về kiến thức (trong đó ông chứng minh sự tồn tại của Thượng đế, bằng một dạng bản thể luận). Quan điểm của ông đã thu hút được những triết gia như Baruch Spinoza, Gottfried Leibniz và Christian Wolff.

Chủ nghĩa hoài nghi


Chủ nghĩa hoài nghi là một quan điểm triết học nghi vấn khả năng đạt được "bất kì" một loại kiến thức nào. Nó được phổ biến bởi Pyrrho, người tin rằng tất cả mọi thứ đều có thể bị nghi ngờ ngoại trừ "vẻ bề ngoài". Sextus Empirius (thế kỉ 1) miêu tả chủ nghĩa hoài nghi như là một "khả năng đưa ra một phản đề, trong bất kì cách thức nào, về vẻ ngoài và các đánh giá, và do đó... để đến một trạng thái không còn đánh giá thứ gì nữa và sau đó là sự bình an của tinh thần"[3]. Chủ nghĩa hoài nghi hiểu theo cách như vậy không chỉ đơn thuần là việc sử dụng sự hoài nghi, mà là việc sử dụng tính hoài nghi cho một mục đích đặc biệt: một sự bình an của tâm hồn, hay là ataraxia. Chủ nghĩa hoài nghi là một thách thức cho chủ nghĩa giáo điều, hay là cho những người nghĩ rằng họ đã tìm ra sự thật[4].

Sextus chú ý rằng độ tin cậy của sự cảm nhận có thể bị nghi vấn, bởi vì đó là một đặc tính riêng của người cảm nhận. Vẻ bề ngoài của những vật riêng rẽ có thể thay đổi phụ thuộc vào việc nó có xuất hiện cùng với một nhóm hay không: ví dụ, vỏ bào của sừng dê có vẻ như là màu trắng khi được cạo và tách ra riêng, thế nhưng sừng khi còn nguyên vẹn là màu đen. Một thanh bút chì, khi nhìn theo chiều dài, giống như là một que dài; nhưng khi được nhìn từ đầu mũi, nó chỉ giống như một hình tròn.

Chủ nghĩa hoài nghi được hồi sinh trong giai đoạn hiện đại bởi Michel de Montaigne và Blaise Pascal. Tuy nhiên người tiêu biểu nhất và ủng hộ mạnh mẽ chủ nghĩa này nhất là David Hume. Hume lý luận rằng chỉ có hai loại lý luận, là có khả năng xảy ra và có luận chứng (probable/demonstrative) (xem Cái nĩa của Hume). Cả hai dạng lý luận này đều không thể đưa chúng ta đến niềm tin về sự tồn tại liên tục của một thế giới bên ngoài. Lý luận có luận chứng không thể nào làm điều này, bởi vì chỉ có luận chứng thôi không đủ để thiết lập sự đồng nhất của tự nhiên (chẳng hạn như là nắm bắt được bởi các quy luật và định luật khoa học). Lý luận suông không thể thiết lập được rằng tương lai sẽ giống như quá khứ. Chúng ta có một số niềm tin nhất định về thế giới (ví dụ như là Mặt Trời sẽ mọc ngày mai), nhưng những niềm tin này là sản phẩm của thói quen và truyền thống, và không phụ thuộc vào lý luận. Thế nhưng lý luận về khả năng xảy ra, mà mục đích là đưa chúng ta đi từ những điều quan sát được đến những điều không quan sát được, cũng không thể làm được điều này, bởi vì nó cũng phụ thuộc vào tính đồng nhất của tự nhiên, và không thể nào chứng minh mà không thể đi vào lý luận vòng quanh bằng cách viện dẫn sự đồng nhất. Hume kết luận rằng không có lời giải đáp cho các lý luận hoài nghi ngoại trừ việc mặc kệ nó[5].

Nhiều triết gia đã nghi vấn các lập luận hoài nghi như vậy. Câu hỏi liệu là chúng ta có thể đạt được kiến thức, tức là "kiến thức của thế giới bên ngoài", là dựa trên dựa trên một tiêu chuẩn cao thế nào mà chúng ta muốn đánh giá. Nếu chúng ta đặt ra một tiêu chuẩn cao, thì chỉ những điều không còn nghi ngờ gì được và những điều không sai lầm mới đưa lại kiến thức. Nếu chúng ta đặt tiêu chuẩn quá thấp, thì chúng ta chấp nhận những điều điên rồ và những ảo tưởng trở thành những "kiến thức" của chúng ta. Tuy nhiên, ngay cả khi những vấn đề này đã được giải quyết, trong mọi trường hợp, chúng ta phải hợp thức hóa các tiêu chuẩn cho việc hợp thức hóa, dẫn đến việc thoái lui vô hạn (được biết đến như là "chủ nghĩa hoài nghi thoái lui")[6].

Chủ nghĩa thực dụng
William James

Vào cuối thế kỷ 19, hai triết gia Mỹ, Charles Peirce và William James, đã đồng sáng lập ra học thuyết "chủ nghĩa thực dụng" (pragmatism). Về sau học thuyết này được John Dewey phát triển thành thuyết công cụ (instrumentalism). Những người theo chủ nghĩa thực dụng cho rằng chân lý của đức tin không nằm trong sự tương hợp của họ với thực tại mà nằm ở sự hữu ích và hiệu quả. Bởi lẽ, sự hữu ích của bất kỳ đức tin nào, trong bất kỳ thời điểm nào, có thể phụ thuộc vào hoàn cảnh. Peirce và James đã khái niệm hóa chân lý cuối cùng là cái chỉ được thiết lập trong tương lai, tức cái được đúc kết bởi tất cả các quan điểm. Những nhà phê bình buộc tội chủ nghĩa thực dụng là sự sai lầm của tư duy, vì cách nghĩ này đã quá tin vào cái gì đó chứng tỏ được là có ích và sự hữu ích này là nền tảng cho chân lý của nó. Những nhà tư tưởng trong tín ngưỡng chủ nghĩa thực dụng gồm có John Dewey, George Santayana và C. I. Lewis. Gần đây, chủ nghĩa thực dụng đã dung nạp thêm những chiều kích mới của Richard Rorty và Hilary Putnam.

Theo wiki
 
Những câu nói thông tuệ của nhà triết học lỗi lạc Socrates
socrates-1496403788486-9-0-254-460-crop-1496403797830-1497146699832.jpg


Socrates là 1 triết gia Hy Lạp, một vĩ nhân đã mang đến những quy chuẩn hoàn toàn mới cho nền triết học Tây phương. Những chuẩn mực, lý lẽ, nhân sinh quan được ông đưa ra khiến ông trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều người dù họ chỉ ngẫu nhiên được nghe các bài giảng của ông và cũng chính là những điều khiến ông bị buộc tội, sau cùng là bị hành quyết.

Socrates nổi tiếng bởi luôn đặt ra câu hỏi cho mọi điều về cuộc sống và thế giới.

Ông không bao giờ chấp nhận những câu trả lời mập mờ mà luôn tìm kiếm bản chất của vấn đề. Socrates đã sống 1 cuộc đời rất nghèo khổ. Dù là 1 nhân vật lớn của triết học nhưng Socrates lại không trực tiếp để lại bất kì 1 từ nào. Mọi thứ mà chúng ta biết về ông đều là qua trung gian.

Hầu hết chúng đến từ các cuộc nói chuyện của Plato và Xenophon cùng với vở kịch của Aristophanes. Những cuộc nói chuyện theo ghi chép của Plato được cho là khá chính xác bởi Xenophone cũng trở thành 1 triết gia và có xu hướng đưa những lý thuyết của ông vào các đoạn hội thoại.

Socrates bị buộc tội và hành quyết vào năm 399 trước công nguyên, khi ông 70 tuổi. Phiên tòa này diễn ra bởi theo những người buộc tội ông, Socrates đã "từ chối chấp những vị chúa đã được chính quyền chấp nhận" và "làm hư hỏng thanh niên". Ông có 3 giờ để tranh biện và bảo vệ mình nhưng thay vào đó, Socrates đã thuyết trình về những ý tưởng triết học mà 500 thành viên của hội đồng xử tội từ chối chấp nhận. Ông cũng được lựa chọn trục xuất khỏi Athens nhưng ông từ chối. Socrates sau đó tự hành quyết bằng 1 ly thuốc độc.

Dưới đây là 24 câu nói nổi tiếng và đầy trí tuệ của ông:

1. "Hiểu biết đích thực là biết rằng mình không biết gì cả".
2. "Một cuộc sống mà không không có thử thách là một cuộc sống không đáng để sống".
3. " Điều tốt đẹp duy nhất là kiến thức, điều xấu xa duy nhất là sự thờ ơ".
4. "Tôi không thể dạy ai một thứ gì. Tôi chỉ có thể khiến họ suy nghĩ".
5. "Đối xử tốt với mỗi người bạn gặp là một trận chiến khó khăn".

6. "Những bộ óc lớn thảo luận về những ý tưởng, bộ óc trung bình bàn luận về những sự kiện còn những bộ óc non yếu chỉ nói chuyện về con người".
7. "Dù sao thì một khi đã kết hôn, nếu lấy được người vợ hiền thì bạn sẽ hạnh phúc; nếu không, bạn sẽ trở thành một triết gia".
8. "Người không hài lòng với những gì anh ta có cũng sẽ không hài lòng với những gì ảnh ta sẽ có".
9. "Nếu bạn không có được những gì mình muốn, bạn phải khó chịu; nếu bạn có được những gì bạn không muốn bạn cũng khó chịu; ngay cả khi bạn có được những gì mình muốn thì vẫn khó chịu vì không thể giữ được mãi mãi. Tâm trí của bạn là vật cản lớn nhất. Nó muốn một cuộc sống tự do, không có sự thay đổi, không có sự đau đớn, và cũng không có cái chết. Nhưng sự thay đổi là một điều luật và không có sự giả dối nào có thể thay đổi thực tế đó".
10. "Đôi khi bạn dựng lên những bức tường không phải để ngăn cách với mọi người, mà để xem ai đủ quan tâm phá bỏ nó".

11. "Trí tuệ bắt nguồn từ những điều kì diệu".
12. "Để tìm thấy chính mình, hãy biết cách suy nghĩ độc lập".
13. "Giáo dục nhen nhóm ngọn lửa chứ không phải chỉ đổ đầy con tàu".
14. "Hãy tự hiểu chính mình".
15. "Hãy để người đàn ông có thể chuyển dời thế giới tự dịch chuyển anh ta trước".

16. "Bí mật của hạnh phúc, bạn thấy đấy, không thể tìm thấy khi tìm kiếm nhiều hơn mà trong việc phát triển khả năng hưởng thụ ít hơn".
17. "Bí mật của sự thay đổi là tập trung tất cả năng lượng của bạn, không phải để chiến đấu với cái cũ mà là xây dựng nên cái mới".
18. "Tôi không phải là một người Athen hay một người Hy Lạp mà tôi là một công dẫn của thế giới này".
19. "Lựa chọn kiến thức thay vì sự giàu có, với 1 số người chỉ là nhất thời, nhưng với một số người khác lại là mãi mãi".
20. "Hiểu được câu hỏi là đã tìm ra được một nửa đáp án".
21. "Khôn ngoan thực sự là khi nhận thức được kiến thức ít ỏi mà chúng ta có về cuộc sống, về bản thân chúng ta và về thế giới xung quanh chúng ta".
22. "Sự hài lòng là tài sản tự nhiên, sự xa xỉ là nghèo đói giả tạo".
23. "Để trở thành một cái gì đó thì phải hành động trước tiên".
24. "Tâm trí là mọi thứ bạn cần; điều bạn nghĩ ra là điều bạn sẽ trở thành".

 
15 câu nói nổi tiếng nhất của Einstein khiến bạn nhận ra ý nghĩa thực sự về cuộc sống.

1. Về thuyết tương đối
Khi một người đàn ông ngồi cạnh một cô gái xinh đẹp một giờ, dường như nó chỉ kéo dài một phút. Nhưng nếu để anh ta ngồi cạnh một bếp lò nóng trong một phút, thì thời gian đó lại còn dài hơn cả một giờ. Đấy là thuyết tương đối.

2. Về hạnh phúc
Một con người hạnh phúc luôn hài lòng với hiện tại thay vì lo lắng về tương lai.

3. Về giáo dục
Hầu hết giáo viên đều lãng phí thời gian bằng cách đặt ra những cậu hỏi chỉ để kết luận rằng học sinh của họ không thể trả lời câu hỏi đó. Trong khi nghệ thuật đích thực của việc đặt câu hỏi là để phát hiện ra học sinh biết gì hoặc chúng có khả năng biết điều gì.

4. Về sự tán dương
Cách duy nhất để thoát khỏi hiệu ứng mua chuộc của lời tán dương là tiếp tục làm việc không ngừng nghỉ

5. Về vẻ ngoài
Nếu tôi bắt đầu quan tâm đến việc chải chuốt, tôi sẽ không còn là chính mình nữa

6. Về vai trò của khoa học
Có một điều mà tôi đã học được trong cả cuộc đời: Rằng khoa học của chúng ta, khi đem đo lường với thực tại, là rất thô sơ và ngô nghê – nhưng nó lại là điều quý giá nhất mà chúng ta có.

7. Về việc tuân theo nguyên tắc
Tôn trọng quyền lực duy lý là kẻ thù lớn nhất của sự thật.

8. Về lẽ thường
Lẽ thường chẳng khác nào một khoản định kiến đã nằm sẵn trong tâm trí từ trước khi bạn đủ 18 tuổi.

9. Về sự bí ẩn
Trải nghiệm tuyệt vời nhất mà chúng ta có chính là sự bí ẩn, không ai có thể đoán được nó, đặt câu hỏi về nó hay ngạc nhiên về nó. Nó bí ẩn cho đến khi chúng ta chết đi.

10. Về bí mật vật lý
Bí mật bất diệt của thế giới chính là sự dễ hiểu. Đơn giản bởi sự thật luôn luôn dễ hiểu.

11. Về cái ác
Thay đổi tính chất hóa học của plutonium dễ hơn rất nhiều so với việc thay đổi bản tính ác trong con người.

12. Về hiểu biết về thời gian của con người
Chúng ta đều biết rằng sự phân biệt được tạo ra từ quá khứ, hiện tại và tương lai; chứ không phải sự cố chấp, ảo tưởng cứng đầu.

13. Về trí tưởng tượng
Tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức. Kiến thức luôn bị giới hạn như trí tưởng tượng là vòng tròn bao quanh thế giới.

14. Về chính trị
Chủ nghĩa dân tộc là một căn bệnh của trẻ con. Nó giống như bệnh lên sởi ở con người.

15. Về sự khiêm nhường
Mỗi người trong chúng ta đều được trời phú cho trí tuệ cần thiết để nhìn nhận và đánh giá mọi thứ xung quanh theo cách của riêng mình; chứ không phải trí tuệ để hài lòng với mọi thứ đã có sẵn.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top