Chia Sẻ Tổng hợp các đề văn về tác phẩm "Vợ nhặt" (Kim Lân)

dunghoi

New member
Xu
0
Bút nghiên xin tổng hợp sưu tầm một số đề văn về tác phẩm Vợ nhặt của kim Lân cho các bạn tham khảo. Hi vọng sẽ giúp ích cho các bạn.
VỢ nHẶT.jpg

Đề 1: Phân tích giá trị độc đáo của tình huống truyện Vợ Nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân .

- Bàn về tình huống là gì?
- Bối cảnh để xuất hiện tình huống: nạn đói 1945
- Những biểu hiện cụ thể của tình huống.



Bài làm:

1.Mở bài :

Kim Lân viết truyện ngắn không nhiều nhưng được coi là một trong những cây bút tài năng để lại những áng văn đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại, ông rất sành về cảnh quê, người quê và thế giới của hương đồng gió nội . Trên 50 năm lao động nghệ thuật , ông chỉ có hai tập truyện ngắn ít ỏi .

Vợ Nhặt là một chương được viết lại của truyện dài Xóm ngụ cư mà ông đã làm thất lạc 1946. Hòa bình 1954 được lập lại , theo đơn “ đặt hàng” của báo Văn nghệ nhân kỉ niệm Cách mạng tháng Tám , tác giả đã công bố truyện Vợ Nhặt. Như vậy, truyện ngắn này nó có được cái độ chín của một quá trình nghiền ngẫm lâu dài và kĩ lưỡng về mặt nghệ thuật.

2.Thân bài:

Khi đề cập đến truyện ngắn , người ta thường quan tâm tới ba yếu tố: tình huống truyện ; nhân vật của truyện, giọng điệu trần thuật của tác giả. Có nhiều truyện ngắn sự sáng tạo tình huống đóng vai trò then chốt, đặt vào trong tình huống ấy, nhân vật truyện thường bộc lộ sâu sắc , tâm lí và tính cách ; tư tưởng nghệ thuật của thiên truyện cũng nhờ thế mà đậm đà ; các chi tiết xoay quanh tình huống ấy trở lên hấp dẫn và giàu ý nghĩa. Phát hiện ra tình huống trong cuộc sống đời thường chằng chịt nhiều mối quan hệ đã là rất khó , thế nhưng, giải quyết tình huống ấy lại cần đến tài năng, bản lĩnh nghệ thuật và quan trọng nhất là tấm lòng người viết. Chỉ có vậy thì tình huống ấy, nhân vật ấy mới trở thành điển hình nghĩa là rất cá biệt , rất lạ đồng thời cũng nói lên được bản chất sâu sắc của cuộc sống.

- Bối cảnh rộng lớn nhất để cho một tình huống này xuất hiện chính là nạn đói khủng khiếp 1945 và qua đây ta thấy được số phận bi thảm của con người . Chính Kim Lân đã công khai ý đồ sáng tác của mình “ trong sự túng đói quay quắt , trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui để mà hi vọng( Báo Văn nghệ- số 19-1993).

Vợ nhặt đã nói lên cái hình tượng nghệ thuật về một sự thực lịch sử là nạn đói 1945 từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói ( Tuyên ngôn Độc lập, cái nạn đói mà trong Đôi mắt của Nam Cao, nhân vật Độ đã hồi tưởng “ Cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000 , con cái chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình” 2 triệu người quằn quại chết trên tổng dân số 20 triệu người không phải là con số ít ỏi. Bóng đen chết chóc đã phủ xuống xóm làng Việt Nam. Cái đói “ đã tràn đến” quả là hình bóng của thần chết đang lạnh lùng đi gây niềm kinh hoàng cho người dân nước Việt , tràn đến gợi đến những cơn đại hồng thủy, gợi một sự tàn diệt không thể tránh khỏi của con người. Tác giả đã gây ra một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh con người năm đói và hoàn cảnh không gian của nạn đói . Tất cả đều đầy âm khí chết chóc. “ Những gia đình từ những vùng Nam Định , Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt nhau lên, xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ . Người chết như ngã rạ , không buổi sáng nào không gặp 3, 4 cái thây nằm chòng queo bên đường” Kim Lân gọi họ là những bóng ma vật vờ trên dương thế . “ Bóng những người đói dật dờ đi lặng lẽ như những bóng ma”. Con người và bóng ma; cái ăn và cái đói, sự sống và cái chết , chỉ là một lằn ranh như sợi tóc . Tất cả đang bước về phía ma.

Miền trần gian ta cứ ngỡ là miền địa ngục. Trong thế giới của những xác người ngổn ngang ta nghe được ban ngày tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết cùng với mùi gây của xác người ; ban đêm tiếng khóc hờ của người sống , với người chết và gây gây bởi đống rấm đốt đồ người chết. Tất cả được chụp bởi vung trời mùa đông xám xịt lặng lẽ - Người chết đã đành, những người sắp chết thật bi thảm có thể thấy điều này qua nhân vật cô gái vô danh sẽ là một người vợ nhặt cũng vô danh của nhân vật Tràng . Cái đói đã làm cho thị rách rưới như tổ đỉa và cái mặt của cô ta trở nên gầy guộc khô lạnh như lưỡi cày . Cô sẵn sàng sà xuống quán ăn liền tù tì một lúc 4 bát bánh đúc và sau đó lon ton chạy theo một người đàn ông không quen để làm vợ với mục đích khỏi chết đói.
Đầy liều lĩnh, buồn vui , lo âu, hi vọng.


a) Trước hết ta ngẫm nghĩ về cái tên của tác phẩm: Người ta thường nói vợ đẹp, vợ hiền, vợ như tiên không ai lại để ở một động từ phía sau để định danh, để xác định một phẩm chất. Vợ nhặt có nghĩa là cô vợ ấy được một người đàn ông nhặt về như một thứ đồ rơi, như một vật thể người ta vứt bỏ mà mình còn tận dụng . Vợ nhặt còn có thể hiểu đó là người vợ không ra gì, giá trị của cô ta chỉ ngang bằng với những gì của một đồ vật “ xí được” . Không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân để cho cô vợ nhặt ấy đi hết tác phẩm vẫn không có một cái tên, Kim Lân đã cắt nghĩa “ Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói 1945 người dân lao động thường dường như khó ai thoat khỏi cái chết . Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Tuy hoàn cảnh ấy giá trị của một con người thật vô cùng rẻ rúng . Người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ - Đúng là nhặt được vợ như tôi đã nói trong truyện”. Như vậy , cái thiêng liêng là “ vợ” đã trở thành cái rẻ rúng ( nhặt) . Cái tên vợ nhặt đã cung cấp cho người đọc theo dõi một tình huống độc đáo.

b) Nhân vật Tràng và người vợ nhặt:

Khi đến bước đường cùng người ta thường liều lĩnh. Tràng đùa nhưng cô gái sắp chết đói thì làm thật. Cô xin ăn và theo không anh về nhà là hành động liều.

Cũng liều nhắm mắt đưa chân.
Mà xem con Tạo xoay vần ra sao


Dù sao, thì Tràng cũng là người vui tính xởi lởi. Anh là niềm vui của bọn trẻ con xóm ngụ cư , cứ mỗi lúc cái anh chàng vừa thô, vừa xấu vừa dở hơi về làng là bọn trẻ con cứ đu lấy anh mà trêu chọc cười đùa. Khi nhận cô gái về làm vợ, Tràng thấy “ chợn” nhưng rồi anh cũng chậc lưỡi đánh liều. Hai cái liều gặp nhau để định hướng vấn đề rất nghiêm túc. Đó là chuyện lập gia đình, đó là cơ hội duy nhất để Tràng vứt bỏ cái dở hơi của mình. Đúng như bà cụ Tứ nghĩ “ Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có vợ được”. Nhân vật Tràng trên đường đưa vợ về nhà thấy mọi người nhìn ngó đã lấy đó làm niềm tự hào “ Cái mặt cứ vênh lên tự đắc” với mình niềm vui lấn át nỗi lo. Anh không hiểu nổi tại sao vợ lại buồn , mẹ lại khóc , “ Chán quá chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”. Tràng bỗng nhiên nhặt được vợ , hạnh phúc của Tràng quá lớn và quá đột ngột mãi đến sáng hôm sau Tràng vẫn thấy “ Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui ấy, Tràng ý thức rõ rệt hơn về trách nhiệm với tổ ấm gia đình . Anh yêu thương, anh muốn gắn bó với mẹ mình, với vợ mình, với cái nhà, cái sân mảnh vườn của mình “Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng bây giờ hắn mới thấy hắn lên người”, hi vọng đã nhen lên. Ở phần cuối tác phẩm Tràng đã nhớ ra “ Cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp “ để phá kho thóc của Nhật” Tràng tự dưng thấy ân hận , tiếc rẻ vẩn vơ khó hiểu, khi nghĩ đến chiếc xe thóc mà mình vẫn đẩy lên làm công cho Liên Đoàn. Biến cố Cách mạng tháng Tám đang đến gần, lá cờ đỏ sao vàng đang phấp phới bay trong óc Tràng sẽ cho hai cái liều của vợ chồng Tràng thoát hiểm, có hi vọng, có tương lai.

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ mà tràng nhặt được. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng phó thác cả đời mình cho người đàn ông mà mình yêu kính. Thế mà cô vợ của Tràng hoàn toàn đi theo tiếng gọi của cái ăn, không phải đáp ứng nhu cầu của trái tim mà là phải giải quyết quyền lợi của bao tử. Người phụ nữ này không biết Tràng xấu tốt thế nào, chỉ một câu hò bâng quơ và mấy chiếc bánh đúc riêu cua là cô nàng theo không về nhà. Người đọc cảm thấy ghê sợ đến tởm lợm một nhân cách mà là nhân cách phụ nữ: cái ăn đã hạ thấp nhân phẩm; cái ăn khiến cho ta thấy cái nhục kèm theo, cái ăn đã tước đoạt luôn giới tính ngàn đời phụ nữ Việt Nam. Người đàn bà trơ tráo , nhâng nháo không biết đến sĩ diện chút nào!. Sự xấu hổ và ý thức tự trọng đã không còn chút mảy may trong tính cách của người đàn bà nhặt được này. Hoàn toàn có thể hiểu được , khi người ta tự coi mình là cái rơm cái rác mà ai cũng có thể nhặt đầu đường xó chợ. Tuy nhiên trên con đường đi về nhà chồng người vợ nhặt đã lầm lũi lấy nón che mặt như sợ người ta phát hiện mình là một kẻ tội phạm. Cái hành động chào đến ba lần người mẹ của Tràng cụ mới nghe được cùng với cái chi tiết lặng im “ mân mê tà áo đã rách bợt” cho thấy ý thức về bổn phận, ý thức mình là dâu, là vợ đã trở về với cô gái mà mới đây thôi “ đanh đá, ngoa ngoắt chỏng lỏn”. Chính cái việc phục hồi lại nhân phẩm cho mình và những hành động dọn dẹp nhà cửa của người vợ nhặt đã nhen lên một niềm hi vọng, gia đình Tràng có thể hạnh phúc nếu cái đói không cướp đi sinh mạng của họ.

c) Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ khi đón nhận nàng dâu

- Quá trình tâm lí ở bà cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu nhân vật Tràng đang say trong niềm vui của một chàng rể tràn trề hạnh phúc ,tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng thì ở mẹ Tràng tâm lí có kiểu gấp khúc bởi người mẹ này cả cuộc đời đã đổ nhiều nước mắt, đã có nhiều nghiệm sinh. Vì thế, trong chiều sâu của người từng trải và nhân hậu này có bao nhiêu niềm trắc ẩn.

Trước hết là bà cụ rất ngỡ ngàng. Người con trai của bà ngỡ ngàng về một cái đã biết, còn bà cụ thì ngỡ ngàng trước một cái điều dường như không sao hiểu nổi. Đột nhiên có một cô gái xuất hiện trong túp lều của mình, bà cụ Tứ có hàng loạt các câu hỏi thắc mắc.

“ Quái sao lại có người đàn bà nào trong ấy nhỉ? Người đàn bà này lại đứng ngay đầu giường của con trai mình thế kia” và thật lạ kì sao lại chào mình bằng u, “ ai thế nhỉ” thậm chí càng nghi vấn bà càng bối rối ngỡ ngàng “ Ô hay thế là thế nào nhỉ?”. Đối với một người mẹ rất nhân hậu, dành tất cả đời mình lo cho con, dĩ nhiên trong trường hợp này sẽ rất nhạy cảm , có thể bà mẹ sẽ ngạc nhiên nhưng rồi sẽ định thần ngay không hiểu ra làm sao nữa. Hoàn toàn Kim Lân không có ý thức “ kịch hóa” để tạo cái chi tiết này. Đây chính là một nỗi đau thăm thẳm nó xuất phát từ một cái hiện thực: Chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đáng lẽ rất dễ dàng nhận biết đó. Sau sự ngỡ ngàng nhân vật Tràng đi thẳng tới cái hạnh phúc của mình, bà mẹ thì dích dắc hơn, sau khi “ hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số phận đứa con mình” bà lão “ cúi đầu im lặng”. Đó là nỗi xót xa lo thương lẫn lộn , tình thương của người mẹ nhân hậu ấy mới bao dung làm sao, một câu hỏi nữa được đặt ra chứa đựng nỗi lo âu “ Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau , sống qua được cơn đói khát này không”. Vậy là người mẹ không chỉ chấp nhận cái hành động anh con trai mà đã mở tấm lòng người mẹ, đã chấp nhận người con dâu. Cụ Tứ sử dụng từ “ chúng nó” hết sức bình dị trong ngôn ngữ người bình dân nhưng Kim Lân đã cho ta thấy sau giây phút im lặng cúi đầu ấy đã nói ra cái điều không phải là không trăn trở. Bởi cái cúi đầu ấy bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng cái kinh nghiệm sống, bằng cái sự trả giá cho chuỗi đời nặng nhọc và bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh của nạn đói. Từ tình thương bà cụ Tứ đã chuyển sang nỗi lo để tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà không nghĩ đến mình, không nghĩ đến cái việc có nàng dâu được lợi gì, mà chủ yếu dòng ý nghĩ này của người mẹ là quan tâm tới bổn phận làm mẹ chưa tròn của mình. Bà lão nghĩ đến ông lão, đến con gái út, đến nỗi khổ đời mình và nghĩ đến tương lai của con, tâm trạng rất phức tạp vừa đầy lo âu buồn tủi lại vừa sung sướng tự động viên mình, coi con dâu như một ân nhân của mình đã làm cho bổn phận người mẹ được hoàn thành “ người ta gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ”. Thôi bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo lắng gì được cho con, nghĩ vậy nên cuối cùng dồn tụ trong bao nhiêu lo lắng yêu thương ở câu nói giản dị “ chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Như vậy , trên những bề bộn ngổn ngang buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn ánh lên, và tỏa hơi ấm kì diệu từ …nồi cháo cám. Nỗi hân hoan của mẹ được thốt lên như tiếng reo hạnh phúc của đứa trẻ, “ chè đây – bà lão múc ra một bát – chè khoán đây ngon đáo để”. Rõ ràng, bà lão rất tin cái nồi cháo cám này là ngon. Chúng ta cần cảm nhận tiếng “ ngon” này trong ý nghĩa về tinh thần hơn là về vật chất . Bà mẹ rất tin vào hạnh phúc của con nên cái đắng chát của nồi cháo cám đã trở thành cáu ngọt ngào của hạnh phúc, của tinh thần. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cái chất người: Trong bất kì hoàn cảnh nào tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người vẫn muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện cách sống tình nghĩa và hi vọng. Tuy nhiên Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của bà cụ Tứ vẫn là một niềm vui tội nghiệp bởi hiện tại vẫn là nghiệt ngã: Nồi cháo cám vẫn “ đắng chát” và “nghẹn bử”. Như vậy trong tình huống của câu chuyện nhặt vợ đã có ba nhân vật liên đới. Cả ba đều bị hung thần Đói đe dọa, khi cả ba sống rời rạc như những hình nhân dật dờ không có cơ hội để nhen lên những đốm sáng của chất người, tình người. Thế nhưng khi cả ba chụm lại , thì nó đã nên hòn núi cao của tình người. Giữa cái đói , nhặt vợ về để mưu cầu hạnh phúc,cả ba con người hồi sinh để làm người , chính là tình huống đặc biệt để làm sáng ngời tinh thần nhân đạo. cái vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ, cái thế vượt hoàn cảnh ấy chính là nội dung nhân đạo độc đáo rất cảm động.Nó đem đến cho người đọc nhiều suy nghĩ.

3. Kết luận

Rất nhiều các nhà văn lớn đã viết về bài ca của con người, nhưng bài ca lớn nhất , âm vang nhất vẫn là sức mạnh tinh thần có thể giúp con người phá vỡ hoàn cảnh bế tắc để thoát hiểm, để hi vọng và để xứng đáng với danh dự làm người. Kim Lân đã góp thêm cho bài ca ấy, bài ca con người, một điệu nhạc buồn nhưng trong những dòng nước mắt lặng lẽ, trong cái u ám tối trời, tối đất của nan đói vẫn ánh lên những đốm lửa của hi vọng, của tương lai. Không hiểu sao gấp trang sách lại , toi thấy cái logic của dòng nước mắt, của hành động thắp đèn trong đêm tân hôn, của lá cờ đỏ phấp phới trong óc Tràng và tôi tin, gia đình người nông dân xóm ngụ cư này sẽ vượt qua cái thời tao loạn của nạn đói khủng khiếp này. Họ sẽ hạnh phúc bởi vì chỉ cần một bước nữa thôi Cách mạng tháng Tám 1945 sẽ thành công…

(Sưu tầm)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Đề 2: Một trong những sáng tạo đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ Nhặt là đã xây dưng được tình huống độc đáo và hấp dẫn . Hãy phân tích truyện Vợ nhặt để chứng minh cho ý kiến đó.

Hướng dẫn làm bài

1 . Đối với nghệ thuật truyện ngắn, tạo được một tình huống độc đáo , mới lạ để làm nổi bật chủ đề , nhân vật, tâm trạng là một điều có ý nghĩa then chốt . Bởi vì tình huống trong truyện cũng có giá trị như cấu tứ ở trong thơ. Đó là cách tổ chức các tình tiết chi tiết biến cố xoay quanh một tình thế, một nghịc cảnh làm nổi bật các quan hệ và làm kết cấu thêm chặt chẽ. Vợ nhặt của Kim Lân đã tạo được sức hấp dẫn với độc giả bằng một tình huống như vậy.

2.
Cái độc đáo hấp dẫn của tình huống mà Kim Lân tạo cho Vợ nhặt là một anh dân nghèo xấu xí ế vợ lại “ nhặt” được vợ một cách dễ dàng ngay giữa năm đói khủng khiếp nhất chỉ bằng mấy bát bánh đúc riêu cua, một vài câu đùa ỡm ờ mà có vợ theo về. Một tình huống như vậy vừa rất éo le, vừa lạ, vừa khó tin, nhưng lại rất thật và gợi lên nhiều ý nghĩa sâu xa về con người và số phận con người.

2.1.
Một tình huống oái oăm, éo le:

Tràng đã nhặt được vợ một cách dễ dàng giữa năm đói khủng khiếp. Sự việc này không biết là nên vui hay nên buồn ? Mừng hay lo? May hay rủi? Dại hay khôn…?


Nghèo khổ, xấu xí, ế ẩm và bỗng nhiên có vợ đúng là đáng vui , đáng mừng. Nhưng giữa nạn đói khủng khiếp đang đe dọa mọi người, nuôi sống một thân mình đã khó. Tràng phải nuôi thêm mẹ già nay lại đèo bòng thêm một người giữa đường giữa chợ, càng khó hơn. Biết lấy gì nuôi nhau? Tình huống ấy khiến bà mẹ lo lắng, những người hàng xóm lo lắng. Người “ vợ nhặt” thì cùng đường nên cũng liều nhắm mắt đưa chân , nghĩa là cũng lo. Còn bản thân Tràng , anh chàng cũng thấy “ chợn”. Lại nghĩ “ thóc gạo thế này đến cái thân mình chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bồng”?. Trong hoàn cảnh ấy , hỏi không lo sao được.

Nhưng nếu không phải vào năm đói chắc chẳng ai thèm lấy Tràng. Tràng “ nhặt” được vợ giữa đường nên không cần cheo , cưới; năm đói thế nào cũng xong, có như vậy Tràng mới lấy được vợ và như thế là may. Lấy vợ năm đói, cả nhà lễnh lãng mỗi người một lưng cháo rồi thì phải ăn cám trong lặng câm ngượng ngập. Đó là rủi. Rủi cho cô dâu mà cũng là rủi cho cả nhà chồng. Thật là thương cảm những ngày hạnh phúc đầu tiên của đôi vợ chồng mới diễn ra trong sự xáo trộn buồn vui mừng tủi lo sợ, trong một không khí ảm đạm thê lương. Thỉnh thoảng lại “ có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”. Tóm lại, cái oái oăm éo le ở đây là con người được đặt vào một hoàn cảnh mà không biết là nên vui hay buồn, nên mừng hay lo, là may hay là rủi.

2.2.
Một tình huống lạ khó tin nhưng rất thật:

Chuyện xảy ra đúng là lạ và khó tin. Thế nên ai cũng cảm thấy ngạc nhiên. Cả cái xóm ngụ cư Tràng ở, già trẻ lớn bé đều ngạc nhiên. Người ta ngạc nhiên là phải. Ngạc nhiên không chỉ vì người như Tràng mà cũng lấy được vợ mà còn vì ai lại dẫn thêm một miếng ăn về nhà giữa ngày đói gieo giắt như thế.

Bà mẹ của Tràng có lẽ là ngạc nhiên hơn cả. Nghe người “ vợ nhặt” chào u, người ấy lại ngồi trên cái chõng con trai cả, bà không tin vào mắt mình, tai mình, cứ tưởng là mắt mình bị “ nhoèn” , nhìn gà hóa cuốc. Nhưng việc con trai của bà “ nhặt” được vợ là có thật. Điều đó thật lạ đời.

Người ngoài cuộc, ngạc nhiên đã đành , chính người trong cuộc như Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Anh ta lâm vào một tình trạng tâm lí ngạc nhiên khó tả . Chính Tràng tự thú nhận : “ Nhìn thị… ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Như vậy cái độc đáo hấp dẫn ở đây chính là ở cái cảnh ngộ éo le , khó tin, đáng ngạc nhiên song lại có thật.

2.3.
Ý nghĩa giá trị của tình huống “ Nhặt vợ”

a) Đặt nhân vật người phụ nữ và nhân vật Tràng vào tình huống ấy , mới thấy cái bi đát nhếch nhác, rẻ rúng, liều lĩnh, đáng thương của con người.

Hoàn cảnh mất nước, đói kém, mất mùa con người không bằng con vật , có thể “ nhặt” giữa đường giữa chợ như cái rơm cái rác… là chuyện rất thực.

Tình huống này tự nó có ý nghĩa tố cáo phê phán xã hội thực dân phong kiến và bọn phát xít Nhật đã đẩy người nông dân vào nạn đói khủng khiếp mà đến “ năm hai ngàn”, con cháu còn phải kể cho nhau nghe.

Tình huống cũng bộc lộ một ý nghĩa nhân bản cảm động, sâu sắc của Kim Lân . Thì ra trong bất kì tình huống nào, ngay cả khi sống giữa sự bao vây của cái chết, con người vẫn không hoàn toàn tuyệt vọng. Những con người như Tràng, vợ Tràng vẫn khao khát tình thương, tổ ấm gia đình, vẫn tin và hi vọng vào tương lai.

b) Cũng đặt hình tượng người mẹ vào tình huống của truyện, Kim Lân đã thể hiện được một tấm lòng, một tình thương con của bà mẹ nghèo thật cảm động. Tình thương ấy thật xót xa, thật tôi nghiệp và cũng thật chứa chan mãnh liệt!

------

Xem thêm:

3. Vợ nhặt là một tác phẩm độc đáo đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Người ta, ai đã đọc Vợ nhặt dù chỉ một lần, thì cũng không thể nào quên được cái tình huống “ nhặt vợ” lạ kì ấy. Thành công đó khiến truyện ngắn của Kim Lân sống được với thời gian. Cái nạn đói năm 1945 hơn 2 triệu người chết đói ấy, rồi một lúc nào đó có thể lùi vào dĩ vãng. Nhưng câu chuyện “ nhặt vợ” của anh cu Tràng thì vẫn sống cùng tâm hồn, cùng nỗi đau và niềm tin của người Việt Nam ta trên hành trình đi tới hạnh phúc, ấm no.
 
Đề 3: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt ( Kim Lân)

Gợi ý làm bài

Các ý chính:

1. Giới thiệu vắn tắt về Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt
Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn đặc sắc cuae nhà văn Kim Lân , in trong tập Con chó xấu xí. Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư – viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo chưa in thì bị thất lạc, sau này được tác giả viết lại.

2. Giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ nhặt

- Bối cảnh của truyện ngắn Vợ nhặt là khung cảnh nông thôn Việt Nam vào một thời kì ngột ngạt và đen tối nhất- đó là nạn đói năm Ất Dậu 1945. Bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật buộc người nông dân phải nhổ lúa và hoa màu để trồng đay, phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Người dân các tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ lâm vào nạn đói khủng khiếp, gần hai triệu người chết đói. Hiện thực đau thương đó đã được phản ánh trong nhiều truyện của Nguyên Hồng, Tô Hoài và thơ của Văn Cao… Nhà văn Kim Lân cũng góp tiếng nói tố cáo của mình trong tác phẩm Vợ nhặt.

- Đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Kim Lân trong tác phẩm Vợ nhặt là mặc dù không có một dòng nào tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật, hình ảnh của chúng cũng không một lần xuất hiện, nhưng tội ác của chúng vẫn hiện lên một cách rõ nét. Khung cảnh làng quê ảm đạm, tối tăm. Những căn nhà úp súp . Những xác chết nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…

- Cuộc sống của người nông dân bị đẩy đến bước đường cùng. Tính mạng của con người lúc này thật rẻ rúng, người ta “ nhặt” được vợ giống như nhặt cái rơm, cái rác ở bên đường. Thông qua tình huống truyện lấy vợ của Tràng, Kim Lân không chỉ nói lên được thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam trước Cách mạng , mà còn thể hiện được thân phận đói nghèo, bị rẻ rúng của người nông dân trong chế độ xã hội cũ ( Chú ý phân tích cảnh bữa cơm đón nàng dâu mới ở nhà Tràng vào thời điểm đói kém: giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo…rồi nồi “ chè khoán” nấu bằng cám.) Ở phần cuối của tác phẩm, những nhân vật nghèo khó này cũng khao khát sự đổi thay về số phận. Chúng ta cũng thấy thoáng hiện lên niềm dự cảm của tác giả về tương lai, về cách mạng( qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và những đoàn người đi phá kho thóc của Nhật).

3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ nhặt

- Kim Lân đã viết về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trước cách mạng với một niềm đồng cảm, xót xa, day dứt. Nếu không có một tình cảm gắn bó thực sự với người nông dân , không trải qua những năm tháng đen tối ấy, không dễ gì viết nên được những trang sách xúc động và thấm thía đến thế.

- Giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ, nhà văn đã phát hiện và miêu tả những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặc dù bị xô đẩy đến bước đường cùng, mấp mé bên cái chết, nhưng những người nông dân vẫn cưu mang, giúp đỡ nhau, chia sẻ cho nhau miếng cơm, manh áo. Hiện thực cuộc sống càng đen tối bao nhiêu ( chú ý phân tích cảnh bà cụ Tứ chấp nhận cô con dâu mới trong lúc gia đình cãng đang rất khó khăn, không biết sống chết lúc nào, đê làm nổi rõ tình người của họ).

- Kim Lân cũng thể hiện một sự trân trọng đối với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và mái ấm gia dình của người nông dân.

Trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng bà cụ Tứ và vợ chồng Tràng vẫn luôn hướng tới một cuộc sống gia đình đầm ấm, hạnh phúc ( cần chú ý những chi tiết diễn tả tâm trạng bà cụ Tứ, thái độ của Tràng, vợ Tràng trong bữa ăn, rồi nhà cửa , sân vườn đều được quét tước , thu dọn sạch sẽ, gọn ghẽ).Một cái gì mới mẻ, khác lạ đang đến với mỗi thành viên trong gia đình bà cụ Tứ và hé mở trước họ một niềm tin về tương lai.

4. Kết luận

Vợ nhặt là một tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Qua tác phẩm này, chúng ta không chỉ nhận thấy tài năng của nhà văn, sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ của ông về cuộc sống của người nông dân, mà điều quan trọng hơn đó chính là cái tâm, cái tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng của Kim Lân đối với những người lao động nghèo khó trước Cách mạng.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
đề 4 Phân tích hình ảnh gia đình có người vợ nhặt trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân

Gợi ý trả lời:

Gia đình có người vợ nhặt

a. Anh Tràng

- Hình dáng: xấu (bộ mặt thô kệch, đầu trọc nhẵn...).

- Hoàn cảnh: quá nghèo (mặc cái áo nâu cũ nát, ở cái nhà rúm ró với tấm phên rách trong nhà và những bụi cỏ dại ngoài vườn...), lại là dân ngụ cư (thường bị khinh rẻ).

- Tâm trạng: khá phức tạp. Chợt vui, chợt buồn (Vui khi đưa về qua lối xóm: mặt phớn phở, hai mắt sáng lấp lánh. Trước đó, khi chưa “nhặt” được vợ thì hai con mắt gà gà đắm vào bóng chiều. Buồn khi đưa vợ về đến nhà thấy cảnh nhà quạnh vắng, bừa bộn xơ xác). Tràng vui vì hoàn cảnh bản thân gia đình như vậy mà bỗng dưng có vợ. Nhưng anh cũng buồn vì không biết bà mẹ có chấp nhận không và liệu có vượt qua được cái đói, cái nghèo không.

Rồi tâm trạng Tràng chuyển biến: Anh thấy yêu thương, vui sướng và điều quan trọng hơn, anh thấy mình “nên người”. Sự gắn bó trong cảnh khổ, mối yêu thương, hạnh phúc gia đình khiến Tràng có cuộc sống của một con người có trách nhiệm (Trước đó chắc hẳn Tràng thường uống rượu mỗi ngày thể hiện trong dáng đi “ngật ngưỡng”, và cũng chẳng gắn bó vun vén gì với cái nhà rách nát, cô quạnh của mình). Từ đây, con người lao động nghèo cực này hướng tới một tương lai biến đổi tốt lành (Trong óc anh, hai lần hiện ra lá cờ đỏ rất to, rất đẹp và đám người đi phá kho thóc). Chiều xuống, xu thế tất yếu Tràng là nhập vào đám người cùng khổ đó.

b. Người vợ

Từ chỗ bốp chát, khá chua ngoa đã trở nên hiền hậu, chịu thương chịu khó trong vai trò nàng dâu mới.

c. Bà mẹ Tràng

Khi biết con có vợ, bà đã ai oán xót thương (không biết có sống được qua cơn đói khát này). Rồi bà cụ mừng vì con có gia đình và mở rộng lòng thương yêu đùm bọc (qua lời chấp nhận con dâu và khuyên nhủ hai con). Hơn thế nữa, người mẹ giàu lòng nhân hậu này còn vui sướng khác thường (qua vẻ tươi tỉnh và khuôn mặt vốn bủng beo, u ám đã rạng rỡ hẳn lên). Từ đó giữa hiện tại xám xịt, bà cụ Tứ đã hình dung ra một tương lai khá hơn (qua lời bàn chuyện mua đôi gà và sẽ có đàn gà).

Tóm lại, chớm vào hạnh phúc nghiệt ngã, bà mẹ già mừng mừng tủi tủi, muốn vun vén trong cảnh nghèo còn người con trai dường như lại hướng tới cuộc đấu tranh. Truyện thể hiện tính nhân đạo độc đáo: trong đói khổ cận kề với cái chết, con người vẫn thương yêu đùm bọc nhau, vẫn muốn gây dựng hạnh phúc. Tính nhân đạo sâu xa còn ở chỗ: sự đùm bọc con người đã biến đổi con người, làm con người NGƯỜI hơn và muốn thay đổi hoàn cảnh, cuộc đời. Cuộc khởi nghĩa của Việt Minh, của những người như vợ chồng Tràng cấp bách phải đến (Đến một bà già nông dân cũng hiểu tội ác của bọn xâm lược bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, bắt đóng thuế; một phụ nữ ít học - người vợ nhặt - cũng biết đến việc phá kho thóc, đến Việt Minh).
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Đề 5: Phân tích giá trị độc đáo của tình huống mà Kim Lân đã tạo dựng trong tác phẩm Vợ nhặt

Gợi ý trả lời:

Nói đến nghệ thuật truyện ngắn, người ta thường coi ba yếu tố sau đây là cơ bản nhất : tình hướng truyện, nhân vật truyện và cách trần thuật. Có nhiều truyện ngắn, sự sáng tạo tình huống đóng vai trò then chốt. Đặt vào tình huống ấy, nhân vật truyện bộc lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Tư tưởng của thiên truyện cũng nhờ thế mà được thể hiện đậm đà. Và xoay quanh tình huống ấy, các tình tiết cũng trở nên hấp dẫn.

Truyện Vợ nhặt của Kim Lân thuộc loại tác phẩm như thế.

Tình huống của vợ nhặt thể hiện ngay ở tên truyện. Một anh nông dân nhặt được vợ. Mà nào anh ta có bảnh bao hấp dẫn gì: vừa nghèo, vừa xấu trai , lại là dân ngụ cư. Vậy mà chỉ tầm phơ tầm phào mấy câu mà có vợ theo về.

Sự hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Như một nghịch lý, nó gây ngạc nhiên cho mọi người trong xóm ngụ cư, cho là bà cụ Tứ, mẹ Tràng , và cho cả bản thân Tràng là kẻ đã nhặt được vợ.

…người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán...” Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì cười lên rung rúc’’ Người lại lo dùm cho anh ta “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?"

Bà cụ Tứ hiểu tình cảnh con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng có vợ. Thấy có người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà cụ cứ ngơngác tự hỏi: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Bà cụ làm sao hiểu nổi. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ được. Vả lại trời làm đói khát thế này, nuôi thân chẳng nổi, lấy gì nuôi vợ nuôi con?

Bản thân Tràng cũng lấy làm lạ cho mình. Nhìn vợ, ngồi ngay giữa nhà, anh ta “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư"

Đúng là một tình huống thật lạ. Nhưng khi hiểu ra rồi thì lại thấy có gì đáng ngạc nhiên đâu. Cái lí do dễ hiểu biết bao, nhưng cũng buồn tủi biết bao, tội nghiệp biết bao! Điều này, bà cụ Tứ gần hết đời người phải làm bạn với cái nghèo mới thật sự thấm thía: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số phận đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt tèm nhem của bà cụ rỉ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau cho sống qua được cơn đói khát này không?”

Lòng bà cụ ngổn ngang trăm mối: vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Mừng vui vì dù sao con mình cũng có vợ, điều mà bổn phận làm mẹ bà đã không lo nổi cho con: “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...". Nhưng lo buồn, tủi nhục vì “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được...”.

Như thế là tình huống truyện đã làm bộc lộ sâu sắc tâm trạng, tính cách các nhân vật. Bà cụ Tứ do từng trải nhiều nên tâm lí diễn biến phức tạp hơn cả. Còn Tràng thì lo ít, vui nhiều. Mới đầu cũng “chợn”, nhưng liền sau đó chặc lưỡi "kệ!”. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, "hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”. Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc: Chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”.

Bỗng nhiên “nhặt” được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận về trách nhiệm đối với cái tổ ấm của mình, cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người với cái nhà, cái sân, khoảnh vườn của mình một cách lạ lùng, “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”.

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt” được. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng là sự phó thác cả cuộc đời mình cho người đàn ông mà mình yêu quý. Vậy mà chị ta nào có biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào đâu. Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy cái bát bánh đúc riêu cua là theo ngay về. Cái đó đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể “nhặt” được nơi đầu đường, xó chợ...

Tác giả Vợ nhặt quả đã sáng tạo được một tình huống truyện thật độc đáo. Một tình huống vừa rất hiện thực, vừa mang nhiều ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

Lên án tội ác của bọn đế quốc Nhật, Pháp đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng khiếp mùa xuân năm 1945, đã là đề tài của hàng loạt tác phẩm thơ văn sau Cách mạng tháng Tám 1945 (Thơ Văn Cao, truyện ngắn, tiểu thuyết của Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi...). Với Vợ nhặt, Kim Lân đã giải quyết đề tài ấy một cách vừa riêng vừa vô cùng cảm động, vừa buộc người đọc phải suy nghĩ nhức nhối, day dứt mãi, lớp thanh thiếu niên ngày nay đọc chắc không thể tưởng tượng nổi cái giá của con người đã có lúc rẻ mạt đến thế Nghĩa là không bằng con vật. Cái Tí của chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố vẫn còn cao giá hơn nhiều. Chỉ vài bát bánh đúc mà thành vợ hẳn hoi, thân phận con người như thế có hơn gì cỏ rác. Bọn phát xít thực dân đã từng đẩy nhân dân ta đến nông nỗi như thế đấy. Lời kết tội của Vợ nhặt thật là ngắn gọn sâu sắc, thấm thía biết bao!

Nhưng chủ đề của Vợ nhặt không chỉ có thế. Tình huống truyện đã đặt nhân vật kề bên nanh vuốt của cái chết. Một không khí chết chóc cứ len lỏi trong tác phẩm với mùi khói khét lẹt của những đống rấm trong nhà có người chết lan tới và tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ... Nhưng qua tâm trạng của các nhân vật, nhất là Tràng và bà cụ Tứ, thấy người dân lao động tin ở sự sống, vẫn hi vọng ở tương lai, cũng khao khát một tổ ấm gia đình để được thương yêu nhau và cùng chia sẻ vui buồn, để có bổn phận với nhau cũng như có trách nhiệm với đời...

Đó là bản chất lạc quan của nhân dân lao động. Một chủ nghĩa lạc quan không có căn cứ gì rõ rệt “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời" vẫn tồn tại dai dẳng những con người luôn sống hết mình với cuộc sống trong lao động và đấu tranh để sinh tồn. Niềm tin tưởng lạc quan ấy cuối cùng đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh bay phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ của dân tộc đang sắp sửa đến.

Đề 6 : Nêu tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân, từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn đối với con người và thực trạng xã hội đương thời được bộc lộ qua tình huống truyện độc đáo này.

Gợi ý trả lời:

Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn sắc nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Với một vốn sống phong phú về nông thôn và người nhà quê, với một tấm lòng nhân hậu bao dung, câu chuyện anh trai cày thô kệch “nhặt” được vợ, đã được tác giả kể lại một cách cảm động, đậm đà. Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật và xây dựng tình tiết - cốt truyện đầy kịch tính là giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực được thể hiện qua tình huống “nhặt” của anh cu Tràng.

1. Tóm tắt tình huống “nhặt” vợ

Anh cu Tràng, mồ côi bố, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo xe bò thuê. Con mắt “nhỏ tí”, bộ mặt “thô kệch”, cái đầu “trọc nhẵn lại có tật “vừa đi vừa nói lảm nhảm...”. Cứ tưởng rằng hắn sẽ nằm suông đến già. Ai ngờ, chỉ “tầm phơ tầm phào đâu có hai bận”, một câu hò rất phong tình, bốn bát bánh đúc ngoài chợ tình, chẳng cưới cheo gì thế mà hắn “nhặt” được vợ. Đó là một cô gái, áo quần rách như tổ đỉa, nhưng đã “liếc cười tít” làm cho Tràng “thích lắm”.

Tràng “nhặt” được vợ khi trận đói đã và đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đổ như ngả rạ. Từ đám người chạy đói “xanh xám như những bóng ma”. Mùi gây của xác người... Quạ bay vẫn trên nền trời như những đám đen, “cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Xóm ngụ cư "xác xơ heo hút”. Tràng “nhặt” vợ mà cảm thấy “chợn” vì giữa trận đói, nuôi cái thân mình còn khó mà còn đèo bòng". Trên đường dẫn “vợ mới vợ miếc” về nhà, hắn “phớn phơ" thường, “tủm tỉm cười nụ”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh...” còn thị thì thẹn hay đáo để”. v

Tràng “nhặt” được vợ đã làm cho cả xóm ngụ cư ngạc nhiên. Lũ tre con cong cổ gào lên: “Chông vợ hài”. Có người “thở dài”, có người “thì thầm”. Lại có người “cười lên rung rúc”. Có người lo và thương cho Tràng: “Giời này còn rước cái của nợ đời về”. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên thấy một người đàn bà xa lạ “đứng ngay đầu giường” thằng con trai mình vừa tủi thân, vừa mừng vừa lo: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được cơn đói khát này không”. Tối “tân hôn” của Tràng đã có hai hào dầu sáng, những “tiếng khóc hờ tỉ tê” của những gia đình mới có người chết nghe càng rõ trong đêm khuya.

Mẹ chồng chỉ có một nồi cháo cám ăn mừng nàng dâu mới. Tiếng thúc thuê vẫn dội lên “dồn dập vội vã”. Và trên đê Sộp những người đói ầm ầm kéo nhau đi, phía trước có lá cờ đỏ to lắm!

2.Thái độ của nhà văn

Tình huống “nhặt” vợ đã được Kim Lân sáng tạo nên bằng cảm hứng nhân văn sâu sắc.

a. Ông đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ, hoạn nạn. Ông xót thương nỗi đau khổ của dân tộc trước thảm họa năm Ất Dậu “người chết như ngả rạ”. Ông ái ngại cho một cô gái bị nạn đói cướp đi gần hết. Không còn tên tuổi. Không còn bố mẹ, anh chị em. Không gia đình quê hương. Mặt “xám xịt”, người “gầy sọp”, áo quần rách như tổ đỉa. Đói quá mất đi vẻ duyên dáng, “cầm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc”. Giá trị phẩm giá của người con gái trở nên rẻ rúng đáng thương! Trước mắt thị là vực thẳm là chết đói, thì phải “theo trai”, phải lấy Tràng...

Kim Lân nhân hậu lắm. Ông đã tả cặp mắt, nụ cười của Tràng rất đẹp, rất vui. Ông đã phát hiện ra chút duyên thầm, nét nữ tính của thị. Cái “liếc mắt cười tít", câu mắng yêu và cái củng vào trán Tràng của thị trong tối tân hôn, được nhà văn diễn tả đầy ý vị. Hạnh phúc đến với Tràng, tuy muộn mằn, tuy phải “nhặt” mới có vợ. nhưng đáng tự hào và trân trọng biết bao. Anh đã mua hai hào dầu thắp sáng tối tân hôn, để xua tan cái tối tăm, nghèo khổ, cô độc, để mừng “vợ mới vợ miếc”, để soi sáng hạnh phúc tương lai. Tình tiết hai hào dầu rất giàu ý nghĩa nhân đạo.

Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Ông đã tả giọt nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người mẹ nghèo khi nhận nàng dâu mới. Niềm tin "ai giàu ba họ, ai khó ba đời’’: nồi cháo cám đắng chát mà người mẹ già gọi là “chè khoáng ngon đáo để”, những câu chuyện vui, chuyện sau này của người mẹ chồng nói với con trai và con dâu lúc ăn cháo cám. Tất cả thể hiện một cách cảm động tình thương người, niềm tin đối với con người của tác giả “vợ nhặt”.

b. Đối với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống Tràng “nhặt" vợ, Kim Lân căm thù lên án và vạch trần tội ác của Nhật - Pháp đã bắt dân ta nhổ trồng đay, vơ vét sưu thuế, gây ra trận đói kinh khủng năm Ất Dậu 1945, làm hai triệu đồng bào ta bị chết đói! Nạn đói đã hạ thấp giá trị con người. Chẳng cheo cưới, chỉ cần bốn bát bánh đúc mà người ta có thể’ "nhặt” được vợ.

Qua tình tiết khi trống thúc thuế dồn dập dội lên, thì nàng dâu mới loan tin ở mạn Bắc Giang, Thái Nguyên, người ta không chịu đóng thuế, còn phá kho thóc của Nhật - chỉ cho người đói... Và đám người đói kéo đi trên đê Sộp, phía trước là lá cờ đỏ to lắm bay phấp phới. Kim Lân đã thể hiện rất hay tình cảm của hàng triệu nông dân Việt Nam hướng về cách mạng. Cứu đói, cứu khổ, cứu đời và đem đến độc lập, tự do cho dân tộc chính là sự xuất hiện lá cờ đỏ ấy. Qua hình anh lá cờ đỏ, cảm hứng nhân đạo của truyện vợ nhặt đã được nhân lên thành cảm hứng nhân văn tuyệt đẹp.
 
Đề 7 Có ý kiến cho rằng: Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt là xây dựng một tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn”. Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt để chứng minh ý kiến trên.

Gợi ý trả lời:

Vợ nhặt là một tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Lân. Thành công của tác phẩm này một phần quyết định là do nhà văn đã sáng tạo được một tình huống độc đáo. Đó là tình huống một anh dân nghèo tên là Tràng, xấu trai, lại “nhặt" được vợ trong một vụ đói khủng khiếp ở miền Bắc nước ta vào tháng ba năm 1945.

1. Tình huống này đã gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và cả bản thân Tràng nữa, vì hai lí do:

Một là, một người nghèo túng, xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh thường) xưa nay con cái không ai thèm để ý đến, vả lại cũng không có tiền cưới vợ, vậy mà lại tự dưng có vợ, lại là vợ theo hẳn hoi.

Hai là, giữa lúc đói kém này, người như Tràng, đến nuôi thân còn khó lại còn đèo bồng vợ với con. Cho nên khi Tràng và một người đàn bà lạ mặt về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác, không hiểu thế nào. Họ chưa thể nghĩ đấy là vợ anh ta và anh ta lại dám lấy vợ vào lúc này.

Đây là đoạn đối thoại thì thầm của những người trong xóm khi nhìn theo Tràng và người đàn bà lạ:

Ai đấy nhi?... Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên

- Chả phải, từ ngày còn mồ mả ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.

- Quái nhỉ?

Im một lúc, có người bỗng cười lên:

- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để.

- Ơi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau qua cái thì này không?

Họ cùng im lặng

Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, lại còn ngạc nhiên hơn nữa khi trông thấy người đàn bà kia ở trong nhà với con mình: “Quái sao có người đàn bà ở trong ấy nhì?... Sao lại chào mình bằng u?... ơ hay, thế là thế nào”.

Đến ngay chính Tràng cũng ngạc nhiên: "Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đây ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phà tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng".

Thậm chí sáng hôm sau ngày có vợ, anh ta vẫn chưa hết bàng hoàng: việc hắn có vợ đến hôm nay vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.

2. Đây là một tình huống oái oăm, không biết nên vui hay buồn, không biết mừng hay lo. Mọi người đều có tâm trạng ấy, từ những người dân xóm ngụ cư đến chính Tràng nữa: "anh chàng cũng chợt nghĩ: thóc gạo này ngay cả đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.

Đặc biệt là cụ Tứ với tâm trạng đầy mâu thuẫn vì “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự”:một mặt cũng tủi vì gặp phải lúc đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, đồng thời lại rất lo vì: "biết chúng có nuôi nhau qua cơn đói khát này không”. “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này thương quá. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng.

3. Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật được nhiều ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình.

- Một là, không cần đến những lời kếi tội to mà vẫn tố cáo được tội ác của bọn phát xít Nhậi và tay sai của chúng đã gây ra nạn đói khủng khiếp 1945. Người dân lao động dường như không ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối phủ xuống mọi xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị một con người thật rẻ rúng. Người ta có thể có vợ chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ. Đúng là “nhặt" được vợ như cách nói của tác giả.

- Hai là, tâm trạng của bà mẹ nghèo thật tội nghiệp: không ai hiểu con, thương con và lo cho con bằng người mẹ, nhưng vì nghèo khổ nên thương con mà chẳng làm được gì cho con.

- Ba là, người dân lao động, dù ở tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào cuộc sống và vẫn hi vọng ở tương lai. Giữa lúc đói kém, vợ chồng Tràng đã lấy nhau vì thế bà cụ Tứ tuy đầy lo lắng, nhưng niềm vui vẫn nở trên khuôn mặt. “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời", bà cụ tin như thế. Và bà cụ trở nên “nhẹ nhõm", tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa. "Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có khấm khá hơn.”

Đó là ý nghĩa nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

Đề 8 Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân để làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện ngắn này.

Gợi ý trả lời:

Vợ nhặt kể chuyện một người nghèo “nhặt" được vợ trong năm đói. Tác phẩm được xây dựng theo diễn biến tâm lí của ba nhân vật chính xoay quanh cái tình huống khác thường đã gắn kết thân phận họ với nhau.

Giá trị hiện thực:

Qua truyện Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã phản ánh tình cảnh khôn cùng của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 và xu hướng theo cách mạng của họ.

a) Hình ảnh xóm ngụ cư trong nạn đói, một cuộc sống mấp mé bờ vực cái chết “Người đói như những bóng ma nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, “người chết như ngả rạ, thây nằm cong queo bên đường, tiếng quạ, tiếng hờ khóc, mùi xác chết... ”

b) Trong tình cảnh đó, việc Tràng đưa người đàn bà đói về làm vợ khiến cái xóm làng và bà mẹ của anh ngạc nhiên, không dám tin mà cả chính anh cũng thầm lo âu “vì anh chỉ là người đẩy xe nghèo khó, nhà cũ rách nát”, “đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không”, người đàn bà vợ nhặt của Tràng, rách rưới, đói sắp chết sau khi được cho ăn bốn bát bánh đúc, theo về làm vợ một người đàn ông xa lạ như anh, trước hết chỉ để khỏi đói. Nhưng xem ra cái đói không thể trách khỏi: bữa đầu tiên của chị ở nhà chồng thật thảm hại, chẳng đủ cháo loãng để húp mà phải ăn cháo cám.

c) Qua câu chuyện của ba mẹ con trong bữa ăn, bức tranh nông thôn miền Bắc ngày đói dần đã được mở rộng: “xóm ta khối nhà còn chẳng có cám mà ăn", "đằng thì nó bất trồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này chưa chắc đã sống qua nổi”. Nhưng cũng có tin trên miệt Thái Nguyên, Bắc Giang người ta “không chịu đóng thuế nữa”, “còn phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo”. Truyện kết thúc bằng hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc ngày càng rõ rệt, đầy sức vẫy gọi trong tâm trí Tràng.

- Tóm lại, bằng những chi tiết về một ngày đời thường trong gia đình Tràng sau khi anh nhặt được vợ, Kim Lân đã phản ánh khái quát mà sinh động, đầy ám ảnh tình cảnh của đât nước năm đói lịch sử 1945, tố cáo tội ác kẻ thù thật mạnh mẽ mà không cần đao to búa lớn. Vợ nhặt được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám, lại được tác giả sửa chữa, cho in sau ngày hòa bình lập lại. Kim Lân có điều kiện thể hiện được xu thế tất yếu của quần chúng lao khổ và hướng về ngọn cờ cách mạng, chỉ có cách mạng mới cứu họ thoát khỏi đói nghèo, chết chóc.

2.Giá trị nhân đạo:

Trong truyện Vợ nhặt, Kim Lân đã khám phá và thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người lao động: trong bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào họ vẫn yêu thương, cưu mang lẫn nhau và khát khao hi vọng ở tương lai hạnh phúc

a) Chuyện “nhặt" vợ, với Tràng, đầu tiên chỉ là đùa cợt, sau “chặc lưỡi", liều, nhưng rồi nhanh chóng nảy sinh tình nghĩa, một tình cảm "mới mẻ”, dịu dàng, gắn bó anh với người đàn bà ấy đem lại hạnh phúc, thăng hoa tâm hồn Tràng. "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người" thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn", “thấy có bổn phận lo cho vợ con sau này". Từ người đàn ông thô tháp đầu tác phẩm, Tràng như thành một người khác hẳn, với tình yêu và trách nhiệm.

b) Người đàn bà “vợ nhặt" của Tràng thoạt tiên chao chát, trơ trẽn, dám lấy Tràng chỉ vì đói. Thấy cảnh nhà túng quẩn của Tràng, chị không giấu nổi vài biểu hiện thất vọng thầm kín. Nhưng bù lại, chị cảm thấy tình cảm mà Tràng và bà mẹ dành cho mình, nên chị trở thành "người đàn bà hiền hậu, đúng mực", chăm lo cho tổ ấm mới của mình bằng sự vun vén khéo léo và tình yêu của người phụ nữ.

c) Bà cụ thấy con mình mang về người “vợ nhặt” đã đi từ ngạc nhiên đến vừa mừng vừa tủi, vừa thương vừa lo lắng bằng tất cả trái tim của người mẹ yêu con, thương người đồng thời bằng những kinh nghiệm của người lao động nghèo từng trải. Nhưng niềm vui vẫn nhiều hơn, bà nói đến những ước mơ, dự định tương lai sáng sủa, động viên con trai và con dâu.

- Tóm lại, tình thương, sự thông cảm đã khiến những người xa lạ xích lại gần nhau, đùm bọc cưu mang lẫn nhau; mẹ - con, chồng - vợ thêm gắn bỏ trong hoàn cảnh khó khăn bi đát, vẫn còn đó đói nghèo nhưng tình thương khiến họ ấm áp hơn và thêm chỗ dựa, thêm sức mạnh để tin và hi vọng vào tương lai. Đây chính là tia sáng lên giữa cuộc sống tối tăm.

3. Kết luận:

Nguyên nhân cho thành công của Vợ nhặt “giá trị hiện thực và nhân đạo" là ở sự gắn bó, hiểu biết, lòng đồng cảm sâu sắc của Kim Lân với “đời” với “ người ”, với cái “thuần hậu nguyên thủy” của đời sống nông dân.
 
Đề 9 Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Gợi ý trả lời:

Trước và sau Cách mạng tháng Tám, dù viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một nhà văn chân chất vốn là đứa con của đồng ruộng. Trong bối cảnh của nạn đói năm 1945, Kim Lân viết truyện ngắn Vợ nhặt. Tác phẩm là một đóng góp xuất sắc cho nền văn xuôi dân tộc. Với một cốt truyện đơn giản nhưng tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Vợ nhặt đề cập đến một vấn đề lớn có tính hiện thực và nhân đạo sâu sắc; những con người Việt Nam lương thiện, trong tai họa đói kém khủng khiếp do thực dân, phát xít gây ra, đã cưu mang đùm bọc nhau và hi vọng, trông chờ vào sức mạnh giải phóng của cách mạng. Ấn tượng sâu đậm của người đọc với tác phẩm có lẽ là tấm lòng đáng quý của mẹ con Tràng và cũng là tâm lòng thật đáng quý của nhà văn đối với những người lao động nghèo khổ.

Anh Tràng có vợ trong một hoàn cảnh không bình thường. Không phải anh Tràng cưới vợ, cũng không phải là lấy vợ theo nghĩa thông thường mà là "nhặt vợ”, nói như người miền Trung và miền Nam là “lượm vợ" ở ngoài đường. Nhưng việc làm đó lại có ý nghĩa nhân ái của một lấm lòng nhân hậu. Thấy người đàn bà đói quá anh sẵn sàng cho ăn dù chẳng dư dật gì. Thấy người đàn bà quyết tâm theo mình, dù cũng sợ cho tương lai, anh vẫn không nỡ nào từ chối. Tràng dắt vợ về nhà trong một tâm trạng vừa lo lắng bâng quơ và sung sướng một cách mới mẻ, lạ lẫm...

Nhân vật thứ hai của câu truyện, bà cụ Tứ, mẹ Tràng không được tác giả nói đến nhiều nhưng qua những nét đặc tả và tâm lý tính cách rất chân thật sinh động, nhân vật đã tạo được một sự cảm thông sâu sắc với người đọc. Cũng như Tràng, người mẹ khốn khổ, già yếu sống trong một xóm ngụ cư vất vưởng ấy một người đàn bà nhân hậu.

Vừa về đến nhà, thấy một người đàn lạ, bà cụ Tứ “đứng sững lại” hết sức ngạc nhiên, “thế là thế nào". Bà không thể tin rằng con mình lấy vợ trong hoàn cảnh này. Nhưng khi hiểu ra cớ sự, “bà lão cúi đầu nín lặng”, bà hờn tủi xót thương cho số kiếp của đứa con mình và cho thân phận của mình. "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Rồi bà cảm thấy khổ tâm, nghèo quá lấy gì để ra mắt bạn bè lối xóm. “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà quá nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái úc này... chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá". Và nỗi khổ tâm đau xót ấy cô đọng lại, biến thành những “dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng” thật tội nghiệp. Trong truyện ngắn Một đám cưới của Nam Cao cảnh đời đã khổ (phải rước dâu vào ban đêm để mọi người khỏi thấy cô dâu rách rưới, nhờ có đám cưới con, cha mẹ mới được một bữa ăn no), ở chuyện này, cái khổ nhiều hơn gấp bội. Bữa ăn đầu tiên của gia đình thay cho đám cưới là một bữa “chè cám”.

Đem một người đàn bà xa lạ về làm vợ trong một hoàn cảnh như vậy, mẹ nghĩ thế nào? Tràng lo lắm chứ. Khi biết mẹ đồng ý trước một sự việc đã rồi "Tràng thở phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi". Bởi người mẹ ấy có quyền không đồng tình, có quyền trách mắng Tràng. Nhưng vì thương con bà cụ cũng thương dâu. Bà hiểu ra rằng dù sao người ta chịu lấy con mình cũng là điều đáng quý. Với những người già cả, trong môi trường xã hội phong kiến khắt khe, không phải ai cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Bà “nghĩ đến cuộc đời cơ cực khổ dài dằng dặc của mình" rồi nhìn đứa con dâu cũng cực khổ như mình “lòng đầy thươg xót". Trong không khí ngại ngùng, lúng túng của mọi người, bà đã có thái độ tế nhị, quan tâm đầy nhân hậu.

Bà nói đỡ cho cô dâu còn xấu hổ: “Con ngồi xuống đáy, ngồi xuống đây cho đỡ mỗi chân". Bà lưu tâm ý tứ đến tình cảm riêng tư của con: “Hôm nào nghĩ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ”.

Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng quý. Không lo nổi vợ cho con, nay nó có vợ thì bà cũng mừng và thấy phải có trách nhiệm với nó. Bà cố nén nỗi buồn, nỗi lo, động viên con tin ở sự sống và tương lai bằng việc làm chăm sóc của mình. Bà cùng cô dâu mới sửa sang dọn dẹp lại nhà cửa, động viên nhau bằng những chuyện vui, chuyện tương lai sáng sủa: Khi nào có tiền mua lấy đôi gà…này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”. Trước cái hạnh phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của bà mẹ dường như cũng được đổi khác, bà “cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thương, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Từ thái độ bao dung ấy, hạnh phúc đơn sơ nhưng tấm lòng đã đến với mọi người. Nhân vật bà cụ Tứ đã mang được một ý nghĩa khái quát lớn: ở thời đại nào, hoàn cảnh nào tâm trạng của những bà mẹ nghèo cũng thật tội nghiệp, họ hiểu con, thương con, lo lắng cho con nhưng vì nghèo khổ họ phải chịu đắng cay, chua xót.

Với một cốt truyện đơn giản nhưng tính cách nhân vật được xây dựng tinh tế, truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề có tính nhân bản sâu sắc. Con người lao động dù ở tình huống bi thảm đến đâu vẫn khao khát hạnh phúc và họ chí tìm thấy khi biết cưu mang giúp đỡ lẫn nhau. Cảm động biết bao, dưới cái nhìn nhân ái của nhà văn, những con người khốn khổ ấy đã có thể tìm thấy những hạnh phúc, dù nhỏ nhoi trong cuộc đời.

Vợ nhặt của Kim Lân như một sự tiếp nối tất yếu của những tác phẩm hiện thực phê phán của Nam Cao, Tô Hoài từ trước Cách mạng tháng Tám. Cảnh đời cũng vẫn là tối tăm, ngột ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Và chắc chắn cuộc đời sẽ được đổi khác, hình ảnh cuối cùng của tác phẩm “lá cờ đỏ bay phất phới" thể hiện niềm tin đó.

Đề 10: Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân ( bài 2).

Gợi ý trả lời:

Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú “phong lưu đồng ruộng". “Nên vợ nên chồng” và "Con chó xấu xí” là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn. Vợ nhặt - một truyện ngắn độc đáo rút trong tập “Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962. Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Bối cảnh của truyện là trận đói kinh khủng năm 1945. Nhà văn kể về chuyện anh cu Tràng “nhặt" được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như rạ. Trong ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ - mẹ anh cu Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.

Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng ... Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh “đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những cái bụi cỏ dại". Sau tấm phên rách nát là những “niêu bát, sống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất". Người mẹ già nghèo khổ “hung hắng ho" chẳng khác nào một chiếc bóng “lọng khọng đi vào ngõ". Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão "đứng sững lại ”, càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn tự hỏi: "Sao lại chào mình bằng u? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhi?". Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình “nhoèn ra", ... rồi “lập cập" bước vào nhà. Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão “băn khoăn" ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết! Sau khi nghe Tràng giới thiệu người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân. Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiêu đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay đắng, chua xót: “Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy... vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình". Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn ủi. Tiếng than, tiếng thở dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy cay đắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì...”

Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: “Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không!". Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con gái chết theo. Bà sống với đứa con trai thô kệch “mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra” lại có tật vừa đi vừa lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy con". Bà mẹ già càng thấy buồn, lo vô hạn. Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ ngay đến cái may của gia đình mình: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được". Hạnh phúc đến với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là “con" rồi xưng một cách thân tình, ruột thịt: “Ừ! Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm. Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.

Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: “cốt làm sao cho chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...’’.

Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người mẹ già lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng lòng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: "rồi ra may mà ông trời cho khá... biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau...”

Bữa cơm đón nàng dâu mới sau “tối tân hôn" của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu tình nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rồi và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất vui. Trong bữa bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng này. Bà gọi nồi cháo cám “đắng chát” là "chè khoán", rồi rít khen ngon đáo để,ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và nàng dâu: “Cám đấy mày ạ! ngon đáo để, cứ thủ ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy!”.

Mượn ngoại cảnh, sự việc để phô diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của Kim Lân khi khắc họa tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: “hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hốt sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm như tổ đĩa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã được đem ra phơi…”. Nhà cửa, sân ngõ được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu “lúi húi" giẫy cỏ... Cuộc đời của bà, của con bà, gia đình bà bắt đầu đổi thay. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói. Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng hà “không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc". Trên cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng đi tới... để khẳng định niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...”

Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã có hai hào dầu thắp đèn, bong tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.

Trong bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng”, Tố Hữu viết:

"Đời ta gương vỡ lại lành

Cây khô cây lại đâm cành nở hoa"

Cuộc đời của mẹ con Tràng nhất định sẽ “đâm cành nở hoa". Có biết trận đói năm Ất Dậu 1945, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt này.

Đề 11 Hãy tóm tắt truyện Vợ nhặt - Kim Lân. Từ đó phân tích những điểm nội dung và nghệ thuật chủ yếu của tác phẩm này.

Gợi ý trả lời:

Tràng là một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư. Một ngày kia, trong buổi chiều, trong không khí thê thảm, ảm đạm vì đói, Tràng dẫn về một người phụ nữ. Đó là vợ anh - người vợ nhặt. Tràng đã bắt gặp vợ tương lai của mình đang cảnh đói rách, mời ăn hai bát bánh đúc kèm theo lời nói đùa vui. Bà mẹ già của Tràng đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu trong mối đau đớn và thương cảm. Tràng cảm thấy con người mình đổi khác. Từ chút đùa đến thoáng lo, bây giờ Tràng thấy niềm vui thành người có trách nhiệm, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng son qua đi trong không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai oán.

Bà mẹ nghèo đãi hai con ít cháo và nồi chè đặc biệt. Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong óc anh hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phất phới.

Qua tóm tắt, ta thấy Vợ nhặt là một tác phẩm có giá trị của Kim Lân. Truyện hình thành từ lâu, nhưng sau năm 1945 mới ra đời. Nó đóng phần hoàn hiện chân dung người nghèo trong giai đoạn Cách mạng tháng Tám.

Về nội dung Vợ nhặt đã đi thêm một bước quan trọng so với Chí Phèo (Nam Cao), Tắt đèn (Ngô Tất Tố) hay Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, ở đấy tương lai của hai vợ chồng Tràng hé mở; đã xuất hiện hình ảnh lá cờ đỏ. Kết thúc truyện toát lên vẻ tươi sáng so với cảnh đất trời mịt mù, tăm tối ở phần đầu truyện và so với các tác phẩm hiện thực phê phán trước đây. Nếu Vợ nhặt ra đời sớm hơn thì giá trị tăng hơn nhiều; tuy nhiên vào thời điểm sau 1945, ý nghĩa nội dung này cũng đáng kể. Giá trị hiện thực của truyện ngắn gắn liền với giá trị nhân đạo. Trong hoàn cảnh tối tăm, đói khổ ấy, dường như Tràng mang chút ít dáng dấp của một Chí Phèo làng Vũ Đại. Tràng cũng say, cũng đang ngập ngưỡng, cũng ngoại hình dễ sợ. Con người ấy dễ dàng có thể lưu manh hóa trong cảnh bần cùng, bế lắc. Kim Lân đã thổi tình người vào đúng lúc. Tình người làm sống dậy tình người trong nhân vật, chuyển biến nhân vật anh Tràng. Nhờ người đàn bà thuận theo không anh, tạo cho anh một chỗ dựa cậy tạm coi là yên tâm, Tràng đã trở thành con người khác. Tràng vui sướng thấy mình “nên người", thấy không chỉ sống cho mình và còn có bổn phận với vợ con. Giá trị sâu sắc của tác phẩm là ở chỗ tin yêu vào con người, tha thiết với tình người.

Vợ nhặt cũng là bức tranh tố khổ cho người nghèo. Tuy không dữ dội khốc liệt và dồn ép cay đắng như "Chí Phèo" hay "Tắt đèn" nhưng lại nổi bật lên một khía cạnh nhức nhối: nạn đói đe dọa nhiều người, do giặc Pháp và Nhật gây nên. Kim Lân góp phần hoàn tất bức tranh hiện thực về đời sống cũ đồng thời mở ra một hướng mới với tương lai đấu tranh mà chắc chắn những người như Tràng sẽ bước tới.

Bên cạnh đó, giá trị nghệ thuật của Vợ nhặt chứng tỏ một tài năng chín tới một cách hồn nhiên của Kim Lân. Câu truyện đã dựng được hoàn cảnh tiêu biểu, làm sống dậy cả một quãng thời gian đau thương của dân tộc, xây dựng được các nhân vật tiêu biểu. Trước hết tác giả tái tạo không khí truyện rất đạt, đó là không khí những ngày đói khủng khiếp. Trời đất xóm thôn lúc nào cũng chạng vạng, u tối, đầy tiếng quạ kêu, tiếng người khóc. Các nhân vật của truyện đã đến mức dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma. Trong bối cảnh ấy người vợ nhặt hay bà mẹ Tràng đều là các số phận điển hình. Tất cả được dắt dẫn sống động, rất chân thực với các chi tiết rất đắt “chi tiết mấy đĩa bánh mà nên vợ nên chồng...”. Chỉ thông qua cách nói chuyện của đôi vợ chồng mới nhà văn dường như đưa nhân vật sống ngoài đời vào thẳng tác phẩm. Họ đối đáp chỏng lỏn, câu cú không đầu không đuôi, lời ít đến mức tối thiểu. Điều đó thể hiện con người bình dân của họ, thể hiện cái tâm lí e ngại, thẹn thùng, chưa hiểu biết nhiều về nhau của “cô dâu, chú rể".

Nét đặc sắc nhất trong thành công nghệ thuật của Kim Lân là ở chỗ ông đi sâu vào tâm lí nhân vật, miêu tả được diễn biến tâm trạng nhân vật một cách tự nhiên, hợp lí sâu sắc. Len lỏi vào, đột phá qua lớp vỏ bề ngoài với con mắt ti hí, cái đầu trọc, thân hình thô kệch của Tràng, tác giả thấu hiểu và dẫn giải nhân vật với những diễn biến tâm lí logic, rất người. Dưới ngòi bút Kim Lân, một mơ ước thầm kín về một hạnh phúc đơn sơ, nhỏ nhoi; sự yêu thương, có trách nhiệm, khiến ta cảm động. Cả người Vợ nhặt lẫn bà mẹ già nghèo khổ cũng biến chuyển, họ trở nên tốt hơn, hiền hậu hơn và phần nào tin ngày mai sẽ khác.

Hai mặt nội dung và nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn đã tạo nên thành công cho Vợ nhặt. Một câu chuyện thấm thía, một cách kể chuyện đặc sắc (tên chuyện cũng thật độc đáo), đặt ra những vấn đề giàu ý vị nhân sinh.

Đế 12 Hãy phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.

Gợi ý trả lời:

1. Nêu thời điểm sáng tác, chủ đề của truyện ngắn Vợ nhặt để giới thiệu nhân vật Tràng - nhân vật trung tâm của câu truyện.

Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân ban đầu có tên là Xóm ngụ cư. Truyện được Kim Lân viết sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng mãi đến khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân mới sửa lại và đưa in chính thức. Truyện ngắn Vợ nhặt vừa tố cáo xã hội đẩy con người đến nạn đói khủng khiếp, khiến mạng người trở nên rẻ rúng như rơm rác; vừa có ý nghĩa nhân bản sâu sắc.

Trong truyện ngắn này, nhà văn Kim Lân muốn nói với chúng ta một vấn đề, đó là người dân lao động trong bất kì tình huống nào cũng khao khát tình yêu thương, khao khát hạnh phúc gia đình và vẫn tin vào cuộc sống tương lai Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của câu truyện, thể hiện khá sâu sắc chủ đề của truyện ngắn này.

2. Gợi ý phân tích.

a) Tóm tắt nội dung câu chuyện:

Truyện ngắn Vợ nhặt kể về một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư tên là Tràng. Một buổi chiều kia trong không khí thê lương, ảm đạm "vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, bởi “người chết như ngả rạ” vì đói khát, Tràng dẫn về một người phụ nữ. Đó là vợ anh - người vợ mà

Tràng nhặt được trong cảnh đói kém, do mời ăn bốn bát bánh đúc, kèm theo lời nói đùa vui mà thuận theo anh về nhà, làm vợ anh. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng - lúc đầu không ngờ con lấy vợ nên không hiểu người đàn bà ở trong nhà mình là ai, vì bà cụ nghĩ tình cảnh con mình làm sao lấy được vợ, nhất là giữa nạn đói khủng khiếp này. Nhưng khi biết con mình “nhặt" được vợ về thì lòng bà mẹ nchèo khổ “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự”: buồn lo, tủi cực, ai oán xót thương. Bà cụ thương con nên cũng thương dâu. Bà đã nhận người đàn bà ấy làm con dâu trong nỗi đau đớn và thương cảm. Để động viên hai con, bà nói toàn về những chuyện vui.

Tràng cảm thấy con người mình đổi khác. Từ niềm vui đến nỗi lo âu và Tràng thấy mình cần phải có trách nhiệm trong cuộc sống gia đình hiện tại và tương lai, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng trẻ qua đi trong không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai.

Bà mẹ Tràng đãi hai con ít cháo và “nồi chè đặc biệt". Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng mọi người đều thoáng thấy có một niềm vui. Cả mẹ con đều bắt tay vào việc dọn dẹp, quét tước nhà cửa, vườn tược cho quang quẻ, hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong óc Tràng hiện ra đám người phá kho thóc của Nhật và lá cờ đỏ sao vàng bay phất phới.

b) Phân tích hình tượng nhân vật Tràng:

Tràng là một con người lao động nghèo khổ, hởi bất bình thường lại có ngoại hình xấu xí "hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ gì vừa lí thú, vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”. Cuộc sống lao động vất vả, nghèo đói đã in hằn dấu ấn trên từng bước đi của hắn đè nặng xuống cái lưng to nặng của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng, như lưng gấu của hắn". Trong hoàn cảnh ấy, Tràng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện mình sẽ có vợ. Nhưng rồi một hôm “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc". Hắn hò rằng:

Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!...

Thế mà lại có một người phụ nữ ra đẩy xe với hắn. Rồi mấy hôm sau gặp lại, hắn đãi người phụ nữ ấy bốn bát bánh đúc và người phụ nữ ấy đồng ý theo hắn về làm vợ hắn. Và “việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng".

Trước tình cảnh ấy, lúc đầu Tràng đâm lo, đâm sợ nhưng rồi cái khát vọng về một mái ấm gia đình, một cuộc sống hạnh phúc bừng dậy mãnh liệt trong lòng Tràng, xua tan bao nỗi lo sợ ấy. Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. "Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng”.

Tràng đã tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc bên người “vợ nhặt” của mình. Khuôn mặt của Tràng bây giờ tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” mặc dù cái đêm đầu tiên với người “vợ nhặt" ấy đi qua trong “tiếng hờ khóc tỉ tê" và "diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết" như tiếng gọi của thần chết. Và sáng ra, Tràng "bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng...". Tràng nhìn người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ, nhìn vợ quét lại cái sân. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đã gợi lên trong lòng Tràng một sự thấm thía cảm động. Tràng như chợt hiểu ra thế nào là hạnh phúc? Trong lòng Tràng lại dậy lên một lòng yêu thương, gắn bó với người vợ Tràng, với gia đình Tràng. Tràng lại nghĩ về tương lai và thấy rõ cái bổn phận và trách nhiệm của mình trong việc tạo lập cuộc sống hạnh phúc cho tương lai: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưu che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này ...”.

Bữa ăn ngày đói trông thật thảm hại, chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt" - miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Tràng cảm thấy một nỗi xót xa tủi hờn len vào trong tâm trí, nhưng rồi “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới”.

Điều đó cho ta thấy dù trong hoàn cảnh khó khăn, đói kém, niềm khao khát về một cuộc sống hạnh phúc gia đình vẫn không hề mờ đi trong tâm hồn Tràng và vẫn bùng lên mãnh liệt.

3.Đánh giá khái quát lại hình tượng nhân vật Tràng.

Tóm lại, Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Tràng là nhân vật điển hình cho người nông dân lao động nghèo khổ, dù bất cứ trong hoàn cảnh đen tối nào vẫn luôn luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc gia đình và tin vào cuộc sống ở tương lai. Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Tràng. Ông đã mô tả tâm lí nhân vật thật sâu sắc. Ông đã đi sâu vào bên trong tâm hồn của mỗi nhân vật trong truyện nói chung và đối với nhân vật Tràng nói riêng, để phát hiện và mô tả những tình tiết cảm động và khát vọng mãnh liệt của những con người nghèo khổ về một cuộc sống hạnh phúc. Những tình tiết xoay quanh hình tượng nhân vật Tràng được nhà văn sắp xếp một cách chặt chẽ hợp lí, tập trung biểu hiện rõ chủ đề của câu chuyện.

Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn khá thành công của Kim Lân. Truyện vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân đạo sâu sắc.


 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top