Chia Sẻ Tìm hiểu về tác giả Nguyễn Thi

Bút Nghiên

ButNghien.com
Trước khi trở thành nhà văn, tôi đã là người lính, nếu gặp lúc gay go tôi có thể cho cây bút vào túi áo, tay cầm lấy súng và bóp cò. Tôi cần cái không khí của chiến dịch, những cái mà mắt tôi nhìn được, tai tôi nghe được.Trước sự kiện lịch sử trọng đại như thế này, nhà văn không thể đứng ngoài mà ngó...



Nguyễn THi.jpg
I- TIỂU SỬ VÀ CON NGƯỜI:

1. Tiểu sử Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, sinh ngày 15-5-1928 tại xã Quần Phương Thượng, Hải Hậu, Nam Ðịnh. Cha: hương sư Nguyễn Bội Quỳnh, sau bị thải hồi vì những hoạt động yêu nước và Cách mạng. Mẹ: bà Thành Thị Du (vợ hai). Khi cảnh gia đình sa sút, phải sống trong hoàn cảnh thật éo le, nơm nớp lo sợ những trận đòn ghen từ người vợ cả. Tuổi thơ cậu bé Nguyễn Hoàng Ca, từ đó, bắt đầu những ngày tháng bất hạnh; có lúc phải tự kiếm sống như một đứa trẻ lang thang. Nguyễn Hoàng Ca theo một người bà con vào Nam từ trước Cách mạng tháng Tám. Bắt đầu tham gia Cách mạng năm 17 tuổi; làm thơ, viết văn với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn; là đội viên đội Cảm tử quân trong những ngày tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn; được kết nạp Ðảng năm 1947 (19 tuổi). Năm 1953, Nguyễn Ngọc Tấn cưới vợ. Sau đó, tập kết ra Bắc, công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (để lại miền Nam người vợ trẻ đang mang thai). Tháng 5-1962, Nguyễn Ngọc Tấn xung phong vào Nam, đổi bút danh thành Nguyễn Thi (tên của đứa con trai, với người vợ sau, ở miền Bắc). Là thành viên tích cực của lực lượng Văn nghệ Quân Giải phóng. Tháng 5-1968, theo một đơn vị pháo binh tham dự đợt tổng tiến công Mậu Thân đợt 2 và đã anh dũng hy sinh trên chiến trường vào ngày 09-5-1968 (tại đường Minh Phụng, quận 11 - Sài Gòn). Trong 06 năm ở miền Nam, Nguyễn Thi có mặt tại hầu hết những điểm nóng của chiến sự: Ấp Bắc, Củ Chi, Bến Tre,...

2. Con người Nguyễn Thi tính tình nóng nảy, sinh ra mang sẵn trong mình nhiều lạnh lùng kín đáo hơn cởi mở hân hoan; thường khi tỏ ra cực đoan (Bản thân nhà văn cũng nhận ra và rất buồn vì sự khó tính của mình). Ðây chính là dấu vết khó lòng gột rửa, do trong những năm tháng lang thang kiếm sống cậu bé Ca đã phải gai góc, ngang ngạnh để tự vệ, để tồn tại. Nguyễn Thi có một năng khiếu nghệ thuật thật đa dạng. Ở Tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng, ông viết diễn ca, vẽ bìa, vẽ minh họa rồi dạy múa, dạy hát; tự mình có thể diễn kịch, múa lân,... *** Nguyễn Thi là một nhà văn có ý thức trách nhiệm rất cao đối với ngòi bút. Chỉ mới học hết bậc tiểu học, do đó, ông phải tập viết rất công phu, khổ luyện. Cuộc đời riêng tuy gặp nhiều éo le, trắc trở nhưng không bao giờ khuất phục trước hoàn cảnh, ông như con trai, biết nén nước mắt vào bên trong phong kín nỗi đau, làm nên hạt ngọc cho đời !

II- SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TẤN - NGUYỄN THI: Có thể tìm hiểu theo hai thời kỳ chính: -Từ 1950 đến 1962: sáng tác trên miền Bắc, với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Các tác phẩm tiêu biểu: tập thơ Hương đồng nội, hai tập truyện ngắn: Trăng sáng, Ðôi bạn. -Từ 1963 đến 1968: sáng tác ở miền Nam, với bút danh Nguyễn Thi. Những tác phẩm tiêu biểu ở các thể loại: ký, truyện ngắn, truyện ký, tiểu thuyết được tập hợp trong Truyện và ký Nguyễn Thi".

1. Ở chặng đầu sáng tác, Nguyễn Ngọc Tấn vừa làm thơ vừa viết truyện. Ở chặng đầu sáng tác, Nguyễn Ngọc Tấn vừa làm thơ vừa viết truyện. Ðầu 1950, tập thơ Hương đồng nội ra đời, gồm 20 bài. Ðây là tiếng lòng của một người đang chập chững trên bước đường văn chương, tập quan sát, miêu tả và tự thể hiện - như một cậu học trò tập làm luận- nên giá trị nghệ thuật chưa cao. Hai tập truyện ngắn Trăng sáng, Ðôi bạn tập trung vào ba mảng đề tài khá quen thuộc bấy giờ: tấm lòng Nam-Bắc trong chia cắt, tình nghĩa quân dân (giữa đồng bào miền Bắc với bộ đội miền Nam đi tập kết), tội ác của Mỹ Ngụy. Mỗi tập gồm 07 truyện. Thời kỳ này, truyện của Nguyễn Ngọc Tấn không có gì đặc biệt về đề tài. Sự kiện được phản ánh cũng chưa mang tầm vóc lớn lao của lịch sử. Nhà văn chưa có ý định, chưa đủ sức vẽ những bức hoành tráng về dân tộc và kháng chiến. Tuy nhiên, những trang viết ban đầu ấy vẫn mang sức hấp dẫn, thuyết phục riêng có được từ những đặc sắc nghệ thuật. Nguyễn Ngọc Tấn đặc biệt chú ý thể hiện nội tâm nhân vật và nội tâm của chính mình. Nhiều chi tiết có ý nghĩa tự truyện. Hiện thực chủ yếu là hiện thực tâm hồn, rất chân thực, gần gũi. Văn phong giàu chất trữ tình, chất thơ; ít hành động, sự việc, giàu tâm tình. Kết hợp với những hình ảnh so sánh thông minh, độc đáo tạo nên những hứng thú thẩm mỹ bất ngờ: Sự nóng ruột giấu ở trong đôi mắt đảo lia đảo lịa của cô tưởng có thể tóm ra mà đặt xuống bàn được (Một chuyến về phép); Tin ấy như con rắn luồn từ ngõ này sang ngách khác (Về Nam). *** Tuy chưa phản ánh được thật đầy đủ những phương diện chủ yếu của hiện thực đời sống với tầm khái quát cao, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tấn đã là những dấu hiệu tốt đẹp của một tài năng đầy triển vọng, là những nét cơ bản đã định hình về một phong cách nghệ thuật lớn. Phong cách ấy sẽ được hoàn thiện và khẳng định trong thực tế sáng tác, thực tế chiến đấu ác liệt ở miền Nam những năm về sau.

2. Truyện và ký Nguyễn Thi: Ðây là một trong những thành tựu xuất sắc của nền văn học Cách mạng miền Nam, gồm 11 tác phẩm (4 truyện ngắn, 1 tiểu thuyết, 2 ký, 1 ghi chép và 3 tùy bút).

a. Nguyễn Thi viết truyện ngắn không nhiều nhưng truyện nào cũng có giá trị, đặc biệt: truyện về những nhân vật thanh thiếu niên và người phụ nữ. Bối cảnh là nông thôn Nam Bộ những năm tháng ngột ngạt trước xuân Mậu Thân 1968. Ở đó, một khi tội ác giặc càng chồng chất thì lòng căm thù và quyết tâm trả thù càng ngùn ngụt bốc cao. - Chuyện xóm tôi (1964): Sáng tác đầu tiên với bút danh Nguyễn Thi. Nhân vật chính là hai đứa trẻ tên Ðực và Bỉnh, sống chung trong một xóm nhỏ vùng Mỏ Cày, Bến Tre. Cả hai có chung mối thâm thù: hai người cha đều bị tên ác ôn Tổng Phòng giết cùng một ngày. Qua câu chuyện giữa hai đứa trẻ, tác giả muốn đi tìm căn nguyên sâu xa sức mạnh quật khởi của người Việt Nam; tất cả bắt đầu từ lòng căm thù và quyết tâm trả thù nhà, đền nợ nước. - Mùa xuân (1964): Như viết tiếp Chuyện xóm tôi, vẫn những nhân vật và bối cảnh cũ nhưng không khí khởi nghĩa đã khẩn trương hơn nhiều với cảnh bộ đội về làng, thanh niên nô nức lên đường tòng quân,... Truyện có cái nhìn bao quát hơn về tình thế Cách mạng, về vai trò và khả năng của quần chúng. - Những đứa con trong gia đình (1966): Chuyện về hai chị em Chiến và Việt - tiêu biểu cho thế hệ trẻ miền Nam - trong cuộc đối đầu tưởng chừng không cân sức với giặc Mỹ và bọn tay sai ác ôn. Nặng thù nhà nợ nước, cả hai tranh nhau lên đường tòng quân và đã trở thành những anh hùng trẻ tuổi. Truyện có nhiều trang chân thực, cảm động (đêm trước ngày hai chị em lên đường; lúc Việt bị trọng thương, một mình trên chiến trường; cảnh chị em khiêng bàn thờ Ba Má qua gửi nhà chú Năm...). Kết cấu, ngôn ngữ khá tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Thi. - Mẹ vắng nhà : Viết sau khi Người mẹ cầm súng ra đời, vẫn dựa trên những tính cách của đám con chị Út Tịch. Nguyễn Thi muốn bổ sung thêm việc miêu tả tính cách, sinh hoạt của chúng để cắt nghĩa những băn khoăn của độc giảí: vì sao một người mẹ đông con như vậy lại có thể rảnh rang, bình tỉnh theo du kích đánh giặc suốt ngày đêm ? Truyện cho thấy: những đứa trẻ đã sống thật ấm áp trong sự đùm bọc, cưu mang đầy tình nghĩa và trách nhiệm của bà con lối xóm, dù Ba Má chúng luôn vắng nhà.

b. Ký: được viết dưới nhiều dạng: ghi chép, tùy bút, truyện ký. - Tùy bút: thường ngắn gọn, súc tích chứ không tài hoa uyên bác như Nguyễn Tuân, cũng không rắn rỏi hào hùng như Nguyễn Trung Thành. Câu văn bình dị, thân mật, khiêm tốn; giọng điệu thiết tha; có sức vang vọng sâu xa trong tâm hồn người đọc: Chúng phải chết trên những hố bom do chúng gây ra, trên những căn hầm chúng lùa hơi độc, trên những vòm cây chúng làm trụi lá, trên những bờ kinh xanh biếc này. Tùy bút Nguyễn Thi đề cập và giải quyết hàng loạt mối quan hệ thuộc về thế giới quan, nhân sinh quan thời chiến: sống - chết; riêng - chung; sướng - khổ; thể hiện tấm lòng yêu nước và thủy chung của đồng bào Nam bộ; khẳng định sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam. Sức sống ấy bắt nguồn từ truyền thống nhân nghĩa, vì: Khi nhân nghĩa bị xúc phạm thì nhân nghĩa lại mang sức quật khởi ghê gớm...Một sự đổ nát trỗi dậy trăm vạn niềm tin. Những tùy bút tiêu biểu: Ðại hội anh hùng, Những câu nói trong đại hội, Dòng kinh quê hương. - Bút ký tiêu biểu: Những sự tích ở đất thép, tập trung thể hiện sự bình tỉnh, gan dạ của chúng ta giữa sự lồng lộn tuyệt vọng của kẻ thù ở đất thép Củ Chi. Nhà văn hình như không bằng lòng với thuyết lý chung chung về chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, nên đã xông xáo đi tìm hiểu và thể hiện thật cụ thể, sinh động nhận thức của chính mình bằng hình tượng nghệ thuật. - Truyện ký tiêu biểu: Người mẹ cầm súng, Uớc mơ của đất. Người mẹ cầm súng: tác phẩm được Hội đồng Văn học nghệ thuật của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tặng giải chính thức giải thưởng văn học Nguyễn Ðình Chiểu năm 1960-1965. Nguyễn Thi viết tác phẩm này nhằm hai mục đích. Thứ nhất, tập trung lý giải mối quan hệ giữa tư cách công dân (phải đảm bảo chức năng xã hội) với tư cách người mẹ, người vợ (phải đảm bảo chức năng gia đình). Ngay tiêu đề Người mẹ cầm súng cũng đã toát lên ý đồ nghệ thuật của tác giả. Thứ hai, lý giải nguồn gốc tạo nên người anh hùng và quá trình phát triển hợp lý những tính cách anh hùng: từ tự phát đến tự giác. Ðặc sắc nghệ thuật của tác phẩm là điển hình hóa với chất Uït Tịch - điển hình tính cách Nam bộ, tức là sức mãnh liệt đến hồn nhiên của cá tính, thể hiện ở những hoàn cảnh, việc làm, câu nói không lẫn với ai khác (ném ớt bột vào mặt con gái địa chủ, trèo lên ngọn dừa cao đái xuống; những câu nói nổi tiếng như: còn cái lai quần cũng đánh, đánh Tây sướng bằng tiên chứ cực gì,...) Ước mơ của đất: những trang viết cuối cùng của nhà văn, kể lại cuộc đời người nữ anh hùng Nguyễn Thị Hạnh. Tác phẩm còn ở dạng bản thảo.

- Tiểu thuyết: Nguyễn Thi thường viết nhiều tác phẩm cùng một lúc nên hầu hết đều dở dang khi nhà văn hy sinh. Tuy nhiên, với dung lượng hiện thực ngồn ngộn phong phú, tươi rói sức sống cộng với tài năng đang độ sung sức của tác giả- những tác phẩm dở dang ấy vẫn mang giá trị văn học to lớn. Các tác phẩm tiêu biểu: Ở xã Trung Nghĩa, Sen trong đồng, Cô gái đất Ba Dừa. Ở xã Trung Nghĩa viết về vùng đất sẽ là chiếc nôi cho phong trào Ðồng Khởi sau này. Tác phẩm tuy mới 3 chương, chưa có đầu đề, nhưng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thi. Nó đánh dấu một chặng đường mới, khi mà nhà văn tích lũy dồi dào vốn sống, thuộc lòng tính cách Nam bộ, bắt đầu triển khai những chất liệu ấy trong một hình thức, một thể loại quy mô hơn. Ở xã Trung Nghĩa thể hiện tính hoành tráng của cả một giai đoạn lịch sử. Không khí truyện được tập trung xây dựng ngay từ đầu, đó là sự căng thẳng trong cái thế tức nước, báo hiệu cơn giông tố lịch sử tất yếu phải đến. Nhân vật truyện gồm nhiều tuyến tương phản nhau, rất đa dạng. Những nhân vật chính được chạm khắc thành hình tượng khó quên (ông Tư Trầm, chị Hai Khê, những tên quỷ sứ như đại diện Hiếm, cảnh sát Âu). Nhà nghiên cứu Vũ Ðức Phúc có nhận xét: Cuốn tiểu thuyết viết dở Ở xã Trung Nghĩa có thể so sánh với Tắt đèn. Lời văn của anh nhẹ nhàng, giàu chất thơ mà rất sâu sắc, mỗi trang đều lôi cuốn người đọc. Sen trong đồng cũng là một truyện dài dở dang. Nhân vật chính: cô Sáu giao liên. Từ trong mất mát, tù đày và những khắc nghiệt của hoàn cảnh, trên con đường gian khổ tìm đến với Cách mạng- phẩm chất anh hùng, bất khuất của người phụ nữ Nam bộ được khẳng định: Mười tám tuổi, xa nhà đi tìm đến với Cách mạng. Mang theo trong hành trang một trái thơm, một buồng chuối chín, một bộ đồ phèn trên ngươiì và một bộ nữa rách te tua bỏ trong một cái tụng bàng. Cô gái đất Ba Dừa tập trung khắc họa phẩm chất trung hậu, đảm đang của người phụ nữ Việt Nam. Nhân vật chính: cô Ba. Bằng tính cách mạnh mẽ và tinh thần của người Ðảng viên, cô đã vượt qua những khó khăn lớn trong cuộc sống gia đình để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. *** Nhận xét: Truyện và ký của Nguyễn Thi là bản án đanh thép tố cáo chế độ Mỹ Ngụy dã man, một dự báo của cuộc Cách mạng tất yếu xảy đến. Hình ảnh người nông dân Nam bộ, đặc biệt là phụ nữ, được khắc họa bằng những nét điển hình đẹp đẽ; dân tộc mà rất hiện đại, phù hợp với yêu cầu mới của Cách mạng. Trang viết Nguyễn Thi góp vào văn học Cách mạng miền Nam một hương sắc riêng, độc đáo.

III- ÐẶC ÐIỂM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT:

1. Ở Nguyễn Thi, có sự hài hòa tuyệt vời giữa sống - chiến đấu - sáng tác. Khuynh hướng sử thi ảnh hưởng quyết định, tạo nên nét gần gũi giữa phong cách Nguyễn Thi với phong cách thời đại. Suốt đời, nhà văn tự nguyện sáng tác bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu từ trái tim mình để ngợi ca chủ nghĩa anh hùng Cách mạng miền Nam. Trang viết Nguyễn Thi thể hiện thái độ dứt khoát, lập trường tư tưởng vững vàng: tất cả vì nhân dân, vì tổ quốc. Nguyễn Thi thành công nổi bật khi xây dựng những điển hình nông dân Nam bộ, đặc biệt là nhân vật trẻ con và phụ nữ. Hình như ở đó luôn gửi gắm thật nhiều tâm sự, tâm huyết của nhà văn.

2. Sắc thái đặc biệt trong phong cách Nguyễn Thi còn là sự hài hòa giữa nhiều mặt đối lập về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật. Luôn có sự cân đối, phù hợp giữa chất thơ trong sáng trữ tình với một hiện thực đồ sộ, có tính sử thi, giữa hình thức bên ngoài ngắn gọn với nội dung bên trong phong phú, dồi dào.

3. Nguyễn Thi có sở trường về phân tích tâm lý, nội tâm nhân vật - như một nhà văn hiện thực. Mỗi nhân vật của ông mang một thế giới nội tâm mênh mông, hấp dẫn người đọc. Tính cách nhân vật càng phong phú hơn khi được khảo sát giữa nhiều mối quan hệ phức tạp (địch-ta, bạn bè, làng xóm, vợ chồng, mẹ con,...). Hệ thống chi tiết trong tác phẩm Nguyễn Thi rất đa dạng, độc đáo, nhiều sáng tạo nghệ thuật; thể hiện năng lực quan sát sắc sảo. (Cảnh gặp gỡ của một đôi trai gái thời chiến: Chiều chiều Má đi làm mướn về, vì không tiền đi đò nên vẫn lấy nón lá làm phao lội qua sông. Ba hồi đó còn là trai, cầm tầm vông đứng gác bến đò. Một buổi Má xin giang xuồng, Ba nhất định không cho, Má liền phóng xuống sông, lội. Xuồng Ba cập bến thì Má cũng lội tới bờ. Hai bên giáp mặt, Ba cười hề hề, nhưng Má chẳng thèm dòm, hai mắt hứ một cái cóc rồi đi thẳng. Vậy mà nên vợ nên chồng. Bởi vì chiều hôm đó, Má gánh cơm đi tặng bộ đội tầm vông thì lại gặp Ba trong hàng ngũ đó).

IV- KẾT LUẬN CHUNG:

Nguyễn Thi sống không lâu, viết không nhiều nhưng cuộc đời với sức vươn lên bằng khổ luyện và những di sản của ông đã khẳng định đóng góp quý báu vào thời đại, vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Bằng lao động nghệ thuật quên mình, trang viết Nguyễn Thi đã thể hiện được sức sống mãnh liệt, sức quật khởi phi thường của con người Việt Nam trước những thử thách sống còn của lịch sử; làm dấy lên niềm tin và lòng tự hào dân tộc, củng cố nhận thức, khẳng định tư thế chính nghĩa trong chiến đấu. Sáng tác của Nguyễn Thi góp phần làm phong phú, rạng rỡ diện mạo văn học Việt Nam thời chống Mỹ.
(Sưu tầm)
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
1. Bốn mươi năm về trước, trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân, Nguyễn Thi đi theo một cánh quân đánh vào Sài gòn với hy vọng là để lấy thêm tài liệu cho mấy cuốn tiểu thuyết còn dang dở. Cũng không loại trừ miền đất ấy đã ghi dấu nhiều kỷ niệm của đời ông, nơi lúc bấy giờ đứa con gái mà ông chưa biết mặt đang sống. Sáu năm ở chiến trường Nam bộ vào thời kỳ cuộc chiến tranh đang diễn ra đầy cam go đó, với Nguyễn Thi lại là quãng thời gian ông thực hiện được nhiều nhất cho những dự định về nghề nghiệp. Nhưng ông đã không trở về. Ông đã ngã xuống ở ngay cửa ngõ thành phố trong một cuộc chiến đấu không cân sức...

2. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Thi được mở đầu bằng giải thưởng văn học Cửu Long năm 1951 cho tập thơ Hương đồng nội với bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Cho đến nay hầu như rất ít người biết đến thơ ông, có thể vì chất lượng nghệ thuật của nó. Nhưng cũng vào thời điểm đó ông bắt đầu chuyển sang viết văn xuôi và càng ngày ông càng nghiệm ra rằng mọi thành quả của lao động, ý nghĩa của cuộc đời ông chỉ thật sự có khi ông gắn mình với cuộc sống của nhân dân và chiến sỹ. Năm 1954, tập kết ra Bắc và trước khi trở lại chiến trường miền Nam năm 1962, ông có hai tập truyện ngắn Trăng sáng và Đôi bạn.

Cũng như mọi tác phẩm văn học khác ra đời vào thời điểm bấy giờ, hai tập truyện ngắn Trăng sáng và Đôi bạn đã nhập vào dòng chảy chung của văn học hướng về cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Tình cảm đối với quê hương trong tấm lòng của những người con miền Nam tập kết và của chính những người dân miền Bắc là một thứ tình cảm đặc biệt, là động cơ cho mỗi người trong công việc hàng ngày đã được ông thể hiện khá tinh tế trong các truyện như Quê hương, Đôi bạn, Xuống núi... Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, chi phối mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của xã hội lúc bấy giờ. Dưới nét bút "ký họa" của ông, bức tranh cuộc sống miền Bắc đã góp phần tạo lòng tin cho con người vào tương lai phía trước: đó là tâm thế của những con người được sống trong hoàn cảnh không bị o ép, được cách mạng giải phóng và tự giải phóng mình ra khỏi những ràng buộc do thói quen sinh hoạt lâu trong chế độ cũ. Những truyện ngắn thời kỳ này của Nguyễn Ngọc Tấn có thể nói như một sự tìm đường cho ngòi bút của mình. Mặc dù cốt truyện còn đơn giản, tình huống truyện chưa có sự đặc sắc nhưng ở đây, mạch văn của ông đã thể hiện sắc thái trữ tình đậm nét. Cả trong hai tập Trăng sáng và Đôi bạn, dẫu cùng nằm trong tình hình chung của truyện ngắn miền Bắc thời kỳ này là còn sơ lược, một chiều thì Nguyễn Ngọc Tấn ít nhiều vẫn bộc lộ năng lực của một cây bút truyện ngắn qua một số truyện. Tính "mơ hồ" trong cách gọi tên nhân vật, trong việc thể hiện tâm lý của cô gái nông thôn trẻ có chồng hy sinh đã mấy năm giờ đang có một cuộc sống mới nơi công trường, đang có tình cảm với một chàng trai quê xa, với nỗi chộn rộn náo nức của kẻ đang yêu không thể giấu, lại không hẳn đã quên hình ảnh người chồng cũ, là những phác thảo tâm lý khá tinh tế của ông trong truyện ngắn Đôi bạn. Câu chuyện tình cảm riêng tư trong truyện Quê hương được "thuật lại" từ một điểm nhìn tự phát: đó là câu chuyện giữa hai người phụ nữ không có tên riêng mà nhân vật "tôi" nghe được một cách tình cờ trên một chuyến xe khách từ Hà Nội vào giới tuyến Vĩnh Linh. Từ điểm nhìn đó, việc lồng ghép và gắn kết một cách hợp lý các mối tình cảm riêng chung, đặc biệt là tình cảm đối với quê hương, ý thức trách nhiệm đối với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước đã được ông thể hiện khá đặc sắc. Chủ đề hướng về miền Nam ruột thịt còn được thể hiện trong một số truyện ngắn khác như Trăng sáng, Mặt trận, Món quà tết. Thời kỳ này cách mạng miền Nam đang chịu những tổn thất nặng nề do sự trả thù những người kháng chiến cũ của Mỹ - Diệm. Truyện ngắn Im lặng của ông viết về một người bộ đội miền Nam phát bệnh điên khi nghe tin vợ con ở quê nhà đã bị kẻ thù sát hại, phần nào cũng nói lên sự nhận thức buổi đầu của ông về tính chất khốc liệt trong cuộc chiến đấu không cân sức để bảo vệ bản thân và bảo vệ thành quả của cuộc kháng chiến ở miền Nam. Đây là một sự nhận thức không dễ nhận được sự đồng thuận của nhiều người nhưng với Nguyễn Ngọc Tấn thì đây là một sự mở đầu và điều đó càng biểu hiện rõ hơn trong ý thức nghệ thuật của ông sau khi trở lại chiến trường miền Nam: mặc dù văn mạch trữ tình đã trở thành chủ đạo trong nhiều truyện ngắn và tùy bút nhưng chính sự nhận thức này đã quy định tính nghiêm nhặt trong bút pháp hiện thực trong Ở xã Trung Nghiã và một số ghi chép khác. Đó là lý do khiến cho mặc dù sống và làm việc trong điều kiện hết sức gian khổ ở chiến trường lúc bấy giờ, với bút danh mới: Nguyễn Thi, ông vẫn ghi được hàng ngàn trang tư liệu và viết được một số tác phẩm đặc sắc về cuộc sống và con người miền Nam trong một thời kỳ lịch sử cam go. Những gì còn lại trong di cảo của Nguyễn Thi đã thể hiện sức thanh xuân của một ngòi bút giàu tiềm năng sáng tạo.

3. Trong thời gian sống ở chiến trường Nguyễn Thi là một trong những người chịu trách nhiệm tổ chức tờ Văn nghệ Quân giải phóng và bản thân ông cũng là một cây bút chủ lực của tờ báo này. Ông quan niệm nhà văn cũng như văn chương là phải phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Cho nên ông đã làm tất cả những gì mà một tờ báo ra đời trong hoàn cảnh thiếu thốn của đời sống chiến tranh lúc bấy giờ đang cần; và đặt ra như một thứ kỷ luật cho mình là đi và viết. "Ở chiến trường là phải làm liền, không viết nhanh thì việc mới người mới ào tới, chuyện sự vụ chồng chất, cuối cùng tất cả sẽ mãi mãi chỉ là những dự định". Ông tranh thủ mọi thời gian để ghi chép. Đặc biệt là sau những chuyến đi công tác ở Mỹ Tho, Bến Tre, đi dự Đại hội anh hùng miền Nam về, ông ghi được hàng ngàn trang tư liệu vô cùng quý giá về các sự kiện, con người, về văn hoá dân gian... trong đó có những tư liệu như đã là phác thảo khá hoàn hảo cho những cuốn tiểu thuyết, những truyện ký. Những sáng tác của ông phần lớn được ra đời trong ý thức công dân - nghệ sỹ, trong ý muốn từ bầu nhiệt huyết của mình để có thể truyền ngọn lửa yêu nước đến với người đọc nhất là khi văn học nhận về mình trách nhiệm làm vũ khí chiến đấu và nhà văn là chiến sỹ. Đó là những ghi chép kịp thời dường như còn mang hơi thở nóng hổi của một cuộc sống chiến đấu đầy khẩn trương như Những sự tích đất thép, Đại hội anh hùng, Dòng kinh quê hương, Những câu nói trong đại hội. Cùng với những tác phẩm khác, những sáng tác này ra đời trong cảm hứng sâu sắc của ông về ý thức, về lòng quyết tâm đánh Mỹ của mọi lớp người trên đất miền Nam. Với giọng điệu tráng ca, những bài ký của Nguyễn Thi đã đốt lên trong lòng người đọc ngọn lửa của lòng yêu nước, của ý thức quyết tâm đánh Mỹ đến cùng để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc qua những câu nói từng là phương châm sống của nhân vật: "Đừng lo tôi chết, cứ để tôi ở đây sống với đồng bào" (Nguyễn Thị Hạnh), "Chết, chết thẳng đứng còn hơn sống quỳ" (Nguyễn Văn Quang), "Cứ đánh, trước khó sau quen" (Phạm Văn Cội)...

Một trong những đặc điểm của văn xuôi giải phóng là nhà văn viết từ cảm hứng anh hùng và các tác phẩm thường ra đời trên cơ sở người thật việc thật. Nói như Nguyễn Minh Châu là các tác phẩm "thường ra đời cùng với các bản tin chiến sự" và là kết quả của các chuyến đi thâm nhập vào thực tế cuộc sống chiến đấu anh hùng của các nhà văn. Phần lớn những sáng tác của Nguyễn Thi, trong đó bao gồm những tác phẩm đã hoàn thiện và cả những tác phẩm chưa hoàn thiện là kết quả của những tháng ngày đi và viết. Nhất quán với mình và cùng nằm trong dòng chảy chung của nền văn học cách mạng lúc bấy giờ, cảm hứng anh hùng là nguồn cảm hứng chính trong sáng tạo nghệ thuật của ông và điều đó đã được thể hiện qua việc lựa chọn đối tượng thẩm mỹ và cách tiếp cận đối tượng. Nguồn cảm hứng đó không chỉ thể hiện ở việc ông dành trọn tâm sức của mình để viết về cuộc sống anh hùng với những người anh hùng có thật ngoài đời mà còn là ở chỗ ông dồn nguồn tình cảm đó của mình để xây dựng nên kiểu nhân vật anh hùng trong cuộc sống chiến tranh, thể hiện con đường đi đến với cách mạng của nhân dân cũng như những khó khăn gian khổ mà cách mạng đã trải qua, đã được nhân dân đùm bọc, che chở. Trong các tác phẩm của ông nhân vật phụ nữ bao giờ cũng là những nhân vật ông dành nhiều tâm huyết nhất.

Anh hùng Quân giải phóng miền Nam Nguyễn Thị Út - thường gọi là Út Tịch - là nhân vật chính trong tập truyện ký Người mẹ cầm súng tác phẩm được giải chính thức Giải thưởng văn học nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu (1960-1965) do Hội đồng Nghệ thuật của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trao tặng. Chị Út là một người phụ nữ mà từ lúc còn đi ở đợ chị đã bộc lộ phẩm chất của một con người không chịu sống trong áp bức khi phản ứng một cách mạnh mẽ cách đối xử tàn tệ của Hàm Giỏi và Hội đồng Thanh. Với bản tính như vậy cho nên chị đã đến với cách mạng một cách tự giác và con đường từ một phụ nữ yêu nước bình thường để trở thành một người nổi tiếng về tài đánh giặc với tư tưởng "còn cái lai quần cũng đánh" đối với trường hợp chị cũng không đến nỗi khó cắt nghĩa. Nguyễn Thi không viết nhiều về những sự thật trần trụi chiến tranh nhưng âm hưởng của Người mẹ cầm súng vẫn là không khí của một đời sống khốc liệt và dữ dội. Truyền thống yêu nước của dân tộc đã được Nguyễn Thi đặt trong mối quan hệ giữa hiện tại với quá khứ và tương lai qua hình ảnh một cô bé đi ở đợ dám chống lại sự áp bức trước đây của chủ nhà và hình ảnh đứa con gái của chị Út Tịch "giống hệt mẹ nó hơn hai mươi năm về truớc" khi đeo khẩu súng quần vo quá gối tiễn mẹ đi dự Đại hội anh hùng hôm nay. Giữa hai hình ảnh này là hình ảnh một "người mẹ cầm súng"- một người phụ nữ coi việc đánh giặc cũng là tất yếu như việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Mối quan hệ này càng được khẳng định thêm trong một truyện ngắn khác, rất giàu chất thơ: Mẹ vắng nhà. Hình ảnh một người phụ nữ đông con nhưng vẫn thu xếp tốt công việc gia đình và dũng cảm, nhiệt tình, hiệu quả trong công việc đánh giặc, một đàn con trẻ biết cắt đặt công việc gia đình để cho mẹ yên tâm đi đánh giặc, qua ngòi bút trữ tình đặc sắc của Nguyễn Thi, quả đã có sức lay động mạnh đến tâm hồn độc giả khi các sáng tác này xuất hiện trong đời sống xã hội lúc bấy giờ.

Cảm hứng anh hùng không chỉ đã cho Nguyễn Thi viết nên thiên truyện ký Người mẹ cầm súng lấy cảm hứng từ người anh hùng Nguyễn Thị Út mà nguồn cảm hứng đó còn tiếp tục nuôi dưỡng ngòi bút của ông qua Ước mơ của đất - tác phẩm cuối cùng cũng ra đời từ cảm hứng về anh hùng Nguyễn Thị Hạnh, người phụ nữ đã vượt qua muôn vàn tình huống ngặt nghèo để móc nối, tổ chức cuộc đấu tranh phá ấp chiến lược vào thời điểm cuối những năm năm mươi. Rồi Sáu (Sen trong đồng ), cô gái đến với cách mạng một cách hồn nhiên khi nhận rõ sự khác nhau trong bản chất giữa ta và địch nên đã vượt qua được những trận đòn ghê rợn của kẻ thù. Một nghịch lý mà kẻ thù không ngờ được là khi các ngón đòn của chúng càng tinh vi và dã man thì lòng tin của nhân dân càng tỏ ra vững vàng. Đó còn là cô gái đất Ba Dừa tham gia cách mạng với một thái độ nhiệt tình hăng hái, chủ động và tự tin trong công việc. Cái giống nhau giữa những người phụ nữ này là trước khi đến với cách mạng, họ là những người nghèo. Từ những hoàn cảnh khác nhau nhưng cùng có chung một xuất phát điểm là không chịu sống quỳ, là nhu cầu cơm ăn áo mặc, họ đã gặp gỡ với cách mạng rồi càng ngày càng gắn bó hơn với cách mạng. Nguyễn Thi đã miêu tả các ngả đường đến với cách mạng từ tự phát đến tự giác của những người phụ nữ nông dân. Có thể sự miêu tả quá trình đó còn có phần phẳng phiu nhưng điều mà Nguyễn Thi muốn gửi gắm, khẳng định đó là con đường không thể khác.

Viết về chiến công đánh giặc của nhân vật anh hùng trong đời sống hiện tại nhưng Người mẹ cầm súng đã vượt ra khỏi lối truyện ký thông thường vẫn bám chặt vào các sự kiện, bị lệ thuộc vào sự kiện. Nguyễn Thi đã sử dụng lợi thế của khoảng cách sử thi để tạo điều kiện cho những yếu tố huyền thoại xuất hiện trong tác phẩm một cách hợp lý tạo sự gần gũi giữa nhân vật và người đọc và gây được hiệu ứng nghệ thuật: anh hùng Nguyễn Thị Út đã từ cuộc đời bước vào trang sách rồi từ tài hoa, tâm huyết của Nguyễn Thi, hình tượng chị Út có một sức sống mới, tiếp tục đi trở lại đời sống. Cũng như Anh Đức đã sáng tạo ra một nhân vật chị Sứ đặc sắc trong tiểu thuyết Hòn Đất xuất phát từ một nguyên mẫu có thật ngoài đời. Hai hình tượng nhân vật phụ nữ, qua hai bút pháp của Nguyễn Thi và Anh Đức, ở hai thể loại, tuy mang hai tính cách khác nhau nhưng cùng đạt đến mức độ điển hình trong văn học Giải phóng những năm sáu mươi. Bên cạnh đó Ước mơ của đất, Sen trong đồng, Cô gái đất Ba Dừa, kết hợp kể và tả, ông đã thuyết phục người đọc bằng lối viết mộc mạc và sức thuyết phục của những sáng tác này lại nằm ở câu chuyện cuộc đời của nhân vật.

Nếu như bối cảnh của Người mẹ cầm súng là bối cảnh của thời kỳ Đồng khởi và quá khứ của nhân vật như một sự nối dài hiện tại nhằm khẳng định phẩm chất anh hùng của nhân vật thì Ước mơ của đất (và cả Sen trong đồng, Cô gái đất Ba Dừa) Nguyễn Thi đã cắt nghĩa sức mạnh nội lực để những người phụ nữ này có thể làm được những điều mà một người bình thường không thể làm. Lý giải điều này ông cho đó là lòng tin vào con đường mà nhân vật đã chọn. Ước mơ của đất vì thế có ý nghĩa là ước mơ của những con người gắn bó với mảnh đất đó, sống chết với mảnh đất đó. Đó là ước mơ giải phóng, không chỉ ra khỏi ấp chiến lược mà cao hơn, ra khỏi mọi sự áp bức.

So với Người mẹ cầm súng, những sáng tác khác trong di cảo của Nguyễn Thi có xu hướng nghiêng về hiện thực khi tác giả đặt họ vào một đời sống được miêu tả thô ráp và trần trụi hơn. Dĩ nhiên đây là truyện ký, ghi chép viết theo xu hướng sử thi, lại chưa được hoàn thiện nên việc tác giả không đi sâu vào diễn giải các trạng thái tâm lý hoặc mô tả tỉ mỉ sự ác liệt của các trận chiến đấu cũng là điều có thể lý giải được. Tuy nhiên ở Sen trong đồng khi xây dựng nhân vật Sáu như một hình mẫu đẹp đẽ về niềm tin trong sáng của quần chúng nhân dân đối với cách mạng, Nguyễn Thi đã xử lí thành công sự chiến thắng của lòng tin trong sáng ở cô trong bối cảnh kẻ thù giở mọi mánh khóe mưu mẹo lừa gạt, đánh vào chỗ yếu nhất của cô: tri thức khoa học. Những trang viết về trạng thái tâm lí của nhân vật khi vào tù, khi bị tra tấn, khi chứng mắt trông thấy sự phản bội của những người cách mạng, sự hoang mang khi những kẻ chiêu hồi chơi đòn hiểm đánh vào tâm lí của một người trung thành nhưng ít học... là những trang viết đặc sắc. Có thể nói Sen trong đồng là một trong số không nhiều những tác phẩm đã xử lý một cách nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa cách mạng và quần chúng.

Bên cạnh chị Út, Hạnh - những con người anh hùng đi từ cuộc đời vào tác phẩm, Sáu là hình ảnh về một người phụ nữ miền Nam kiên trung bất khuất, là hình ảnh về cô gái đất Ba Dừa với vẻ đẹp của sự mạnh mẽ, năng động, tự tin. Trong những trang viết đó, Nguyễn Thi đã nhìn ra những vấn đề, những mâu thuẫn nảy sinh ngay trong nội bộ và cuộc đấu tranh này cũng gian khổ không kém. Không chỉ là sự phản bội của những người vốn có chung một lý tưởng như ở trong Sen trong đồng, trong Cô gái đất Ba Dừa còn là thói, ganh ghét, coi thường phụ nữ. Cũng qua ghi chép này ông đã cảnh báo về sự tan vỡ hạnh phúc gia đình có thể xảy ra ở những người phụ nữ tham gia công tác khi mà dưới con mắt của họ tiêu chí về con người xã hội trở thành thước đo đầu tiên, quan trọng nhất đối với chồng; khi mà niềm say mê công việc chung lấn át thời gian và tình cảm dành cho riêng tư...

Biết nắm bắt và chắt lọc những điển hình trong cuộc sống, Nguyễn Thi còn là cây bút có khả năng thổi hồn cho nhân vật cuộc đời như chị Út, chị Nguyễn Thị Hạnh trở thành những hình tượng văn học. Những tác phẩm này của Nguyễn Thi, đứng về mặt thể loại, là những đóng góp suất sắc của ông cho thể truyện ký - một trong những thể loại mang tính đặc thù của một thời kỳ lịch sử. Đó là lịch sử đất nước những năm chiến tranh, văn học với yêu cầu là "tấm gương soi lịch sử" về một cuộc chiến tranh nhân dân, lịch sử về sứ mạng của nhà văn là chiến sỹ trên mặt trận của Đảng. Trong những ngày lăn lộn với cuộc sống đó, một mặt ông vừa có những sáng tác kịp thời, mặt khác ông còn có sự chuẩn bị song hành cho những dự định dài hơi. Đây là một công việc khó khăn mà nếu nhà văn không có tư chất đích thực của một nghệ sỹ thì trong hoàn cảnh ấy tư chất công dân dễ lấn át, nổi trội và rồi nhà văn sẽ chỉ có những sáng tác mang tính kịp thời. Ở xã Trung Nghĩa, tiểu thuyết duy nhất dẫu chưa hoàn thiện vẫn là một sự chuẩn bị, một bứt phá của tư chất nghệ sỹ ở Nguyễn Thi. Trên nền sự hiểu biết thông thuộc về đời sống và vấn đề cốt lõi của cuộc cách mạng miền Nam, Nguyễn Thi đã thể hiện một cách đặc sắc hiện thực nông thôn miền Nam những năm sau hiệp định Giơnevơ qua bút pháp hiện thực nghiêm nhặt, dự báo một cây bút tiểu thuyết tài năng .

Chọn bối cảnh lịch sử của Ở xã Trung Nghĩa vào thời kỳ những năm sau Hiệp định Giơnevơ - một thời kỳ mà cách mạng miền Nam ở vào tình thế gay go nhất, Nguyễn Thi đã chọn cho tác phẩm một tình huống đắt giá để nhân vật được đặt vào những cuộc đụng độ, những thử thách. Lúc này lực lượng kháng chiến phần lớn đã tập kết ra miền Bắc, một bộ phận còn lại rút vào bí mật. Miền Nam thuộc quyền kiểm soát của đối phương. Tính chất căng thẳng của cuộc đối đầu ngay từ những trang viết đầu tiên đã toát ra từ không khí của làng xã từ dáng vẻ, cử chỉ và những câu đối thoại giữa đại diện Hiếm và ông Tư Trầm. Không khí ấy càng trở nên oi ngột hơn sau khi ông Tư Trầm biết Hai Khê đã bị bắt và vợ Hai Khê trong nơm nớp lo ngại có kẻ nhìn thấy cuộc đến thăm của ông. Độ căng của không khí oi ngột càng dữ dội hơn khi ngòi bút tác giả đã miêu tả cảnh vợ chồng ông Tư Trầm trò chuyện trong đêm người nói chỉ nói ra một phần nhỏ điều mình nghĩ, còn người nghe thì đang cố đoán ra những gì mà người nói chưa nói hết trong cảnh "tiếng chó sủa lúc gần lúc xa, đầy rẫy sự ngờ vực đinh tai nhức óc". Tất cả những sự kiện đó dồn dập xảy ra trong một không gian làng chật hẹp, trong không gian tâm tưởng của Tư Trầm. Cảm giác bất an về một tai họa như đang treo lơ lửng trên đầu khi trước mắt, những nhu cầu thiết yếu của đời sống như cơm ăn áo mặc, mà trước mắt là sự giao lưu tối thiểu của người dân đang bị tước đoạt.

Đặc sắc của ngòi bút Nguyễn Thi được thể hiện trong việc cho người đọc nhận diện nhân vật qua thần sắc dung mạo, qua ngôn ngữ và thái độ giao tiếp. Đại diện Hiếm luôn cố giữ một vẻ ngoài lịch sự để lấy lòng dân nhưng khi đối diện với Tư Trầm, một gia đình thuộc diện bảng đen thì hắn đã bộc lộ mình trong màn độc diễn: "vừa mới sởi lởi chào" "mặt bỗng lạnh lại như mặt người chết" với nụ cười "vụt nở như miệng cua". Cho hắn có một hình thể quá đặc biệt, một lối nói chuyện, vào chuyện cũng rất đặc biệt, Nguyễn Thi đã tạo sự nhất quán trong việc thể hiện bản chất con người hắn: "vũ không dũng thì phải có mưu, tay không tinh thì miệng phải giỏi, có gan thì lộc nhuận mới đến nhà". Và Nguyễn Thi đã tiếp tục một bước khác trong việc hoàn thiện chân dung nhân vật này khi chị Hai Khê bế đứa con còn đỏ hỏn lên công sở xin hắn cái giấy đi thăm chồng, trong sự bố trí màn kịch để bắt bà Tư Trầm khi bà sang thăm chị Hai Khê vừa đẻ dậy. Đặc tả của Nguyễn Thi về chân dung của đại diện Hiếm còn được tiếp tục thể hiện trong thế tương hỗ với cảnh sát Âu trong sự đua tranh quyền lực thông qua hai phương tiện đi lại hàng ngày của chúng. Hay như tính cách của nhân vật Ba Sồi không chỉ đặc biệt ở ngoại hình con mắt chột mà qua cả thái độ của mụ với cái "mặt mũi phừng phừng", "đôi lông mày nhướng lên quá trán", qua "cái dáng như điên như dại của mụ" mỗi khi mụ chửi bới, khi việc "ngày ngày người ta nghe tiếng mụ xa xả ở đầu xã, cuối xã, giống như những con quạ đói vẫn kêu vang lên mỗi buổi chiều tối ngoài gò mả". Cung cách đó là cung cách của những mụ đàn bà nanh nọc; như Hàm Giỏi trong Người mẹ cầm súng từng "quyết đánh Út cho lòi thịt lòi cá ra" chỉ vì Út đói quá nên đã trót ăn ít thức ăn của con mụ. Chỉ với "cái lưng cong như trái me đen cháy" với "đôi bàn chân mang màu phèn mốc" và "áo vắt vai lưng quần lá nem vận một nùi dưới lớp da bụng bèo nhèo" Nguyễn Thi đã chứng tỏ kỹ năng chạm trổ tinh vi trong khắc họa dung mạo nhân vật. Tuy nhiên, với nhân vật người nông dân, Nguyễn Thi chú trọng nhiều hơn ở phần bản lĩnh, tình nghĩa và tính cách nhân vật cũng hiện lên ở khía cạnh đó. Khác với chị Dậu chỉ vùng lên trong thế tức nước vỡ bờ, chị Hai Khê là người chủ động khi nhịn miệng nuôi con chứ không chịu cho con đi ở đợ và chống trả mụ Ba Sồi quyết liệt khi mụ đến đuổi nhà. Cũng như bà Tư Trầm chấp nhận việc đi thăm chị Hai Khê tức là chấp nhận sự rủi ro sẽ đến và khi nó đến rồi thì bà chỉ có lo cho mẹ con chị hơn là lo cho bản thân mình. Có thể nói đã tùy theo nhân vật mà Nguyễn Thi có cách chiếu điểm nhìn để phát hiện ra các điểm sáng trong từng tính cách.

Để thể hiện một cách đắc địa tính chất ác liệt của một cuộc đối đầu thầm lặng, Nguyến Thi đã sử dụng trong Ở xã Trung Nghĩa nhiều giọng điệu khác nhau. Trước đây ta gặp một giọng điệu sử thi bao trùm lên hầu hết các sáng tác của ông, đặc biệt là những truyện ký được in trước khi ông mất. Nhưng với tác phẩm này ông đã sử dụng hai giọng điệu mới. Đó là giọng điệu giễu nhại và giọng điệu trắc ẩn. Ngay trong những trang mở đầu, giọng điệu giễu nhại đã được ông thể hiện trong việc miêu tả cái trụ sở làm việc của chính quyền đến chân dung các vị chức sắc, từ việc thể hiện thói đạo đức giả của đại diện Hiếm, thói học đòi nhưng nhiều khi "phép lịch sự không thắng nổi cái cốt du côn gác chợ" của cảnh sát Âu, đến thói phàm ăn của thứ "gà què ăn quẩn cối xay" ở Ba Kỳ, thói "hễ thấy hơi đồng thì mê" của vợ chồng Ba Sồi. Sử dụng giọng điệu này là một cách để cho người đọc nhận diện nhân vật kẻ địch của Nguyễn Thi. Thế nhưng khi trở lại với nhân vật người nông dân Nguyễn Thi lại sử dụng giọng điệu trắc ẩn, xót xa thấm từ lời dẫn chuyện đến việc miêu tả tình cảm, qua hình dáng, cử chỉ đến tâm trạng. Duy nhất một lần Nguyễn Thi nói một cách đặc sắc về cảm giác ngỡ ngàng sung sướng của vợ chồng ông Tư Trầm suốt một đời đi làm thuê, nay được chia ruộng đất. Còn khi miêu tả tâm trạng họ trong nỗi lo nguy cơ bị cướp ruộng thì giọng văn của ông u ẩn và đau xót: hai người già cả đơn côi cô quạnh với tâm trạng nặng nề trong khung cảnh một đêm sâu với một không gian có vầng trăng đỏ tứa, có tiếng chó sủa rộ, tiếng mõ báo động... Mô tả cảnh bọn địch ập vào nhà Hai Khê bắt quả tang việc các gia đình bảng đen đi lại với nhau, Nguyễn Thi đã sử dụng cả hai giọng chủ âm của tác phẩm. Đó là giọng châm biếm trong khi vạch trần các vai diễn vụng trong một lớp kịch xoàng của cái gọi là đại diện cho chính quyền, nhưng lại sử dụng giọng điệu cảm phục, trân trọng trước nghĩa khí của những người nông dân nghèo trong cơn hoạn nạn. Sự pha trộn giọng điệu này còn được tiếp tục trong phần ông viết về cảnh những người dân Trung Nghĩa đi tập trung làm khu trù mật. Bên giọng điệu khinh bạc đối với lũ ăn tham vô học đang tạm thời nắm giữ quyền hành, là giọng điệu hài hước qua những câu chuyện đậm chất dân gian của Ba Lung, bên giọng điệu mỉa mai riễu cợt khi kể lại buổi lễ khánh thành con đường đến khu trù mật là giọng điệu xót thương khi viết về câu chuyện lấy vợ tậu nhà của vợ chồng hai Rô và cảnh ông Tư Trầm lên đòi trả vợ về. Những giọng điệu đó đan xen với nhau tạo nên một hiệu quả đặc sắc trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả.

Chỉ mới 3 chương nhưng Ở xã Trung Nghĩa đã thể hiện được những gì tinh túy nhất có trong văn tài của cây bút chiến sỹ này. Với những câu văn chắc nịch và đầy sức gợi cảm Nguyễn Thi đã trở lại một đề tài không mới nhưng không hề cũ, kể cả cho đến thời điểm này. Đối với người nông dân ruộng đất vẫn là vấn đề quan trọng nhất. Cho nên đem lại ruộng đất cho người nông dân cũng có nghĩa là Cách mạng đem lại cho họ cuộc sống và Bảy Kiệt, Ba Sồi cấu kết với đại diện Hiếm, cảnh sát Âu âm mưu cướp lại ruộng đất của họ cũng có nghĩa là đẩy họ vào tình thế buộc phải đứng lên cầm súng. Từ xuất phát điểm đó, Nguyễn Thi đã có một cách lý giải đặc sắc con đường đi đến với cách mạng cho nhân vật của mình. Và ông đã kết hợp hài hòa lòng yêu quê hương xứ sở với lòng yêu cách mạng của những con người vốn trọng tình, trọng nghĩa. Đặt Ở xã Trung Nghĩa vào trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Thi, chúng ta nhận ra được sự liền mạch của ông trong những vấn đề nóng sốt của cách mạng, đồng thời cũng thấy sự vượt lên của ông trong việc chuẩn bị cho những bước đi lâu dài...

Những tháng năm ở chiến trường Nguyễn Thi đã làm việc hết mình và có nhiều đóng góp của ông cho nền văn học Giải phóng, nền văn học ra đời trong chiến tranh và phục vụ cho cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc. Ngoài những truyện ký nói trên Nguyễn Thi còn có nhiều truyện ngắn khác thể hiện được những thế mạnh của một cây bút trữ tình mà tiêu biểu là Mẹ vắng nhà và Những đứa con trong gia đình. Những sáng tác này đặt vào trong thế giới nghệ thuật của ông là một thứ bổ sung hoàn hảo cho tinh thần của một cuộc chiến tranh nhân dân. Sinh thời Nguyễn Thi đã từng "im lặng mà viết, im lặng mà đọc sách, im lặng mà suy nghĩ, im lặng để rất ít nói về mình" (Nguyễn Trọng Oánh). Dẫu rằng bốn mươi năm về trước, Nguyễn Thi đi vào cõi vĩnh hằng mà không kịp nói lời vĩnh biệt thì những sáng tác mà chúng ta có được từ hôm nay đã nói về ông rất nhiều. Những bi kịch trong đời sống tình cảm riêng tư mà một cá tính Nguyễn Thi từng chịu đựng, vượt qua và coi việc "đi, viết, ghi chép" như một lẽ đương nhiên không thể khác khiến chúng ta càng cảm phục nghị lực phi thường của ông.

Ông hy sinh vào tuổi bốn mươi, tuổi mà năng lực sáng tạo đang ở vào độ chín. Sau chiến tranh, không ai biết đích xác mộ phần ông nằm ở đâu dù biết nơi ông hy sinh là đường Minh Phụng. Giờ, con đường ấy được mang tên ông. Trong sự nghiệp văn học cách mạng, nhà văn - liệt sỹ Nguyễn Thi là một hình ảnh đẹp. Tên tuổi của ông xứng đáng đứng vào hàng ngũ những nhà văn tiêu biểu của nền văn học chống Mỹ.

PGS.TS. Tôn Phương Lan
 
Phân tích bài thơ


Nguyễn Đình Thi sáng tác bài thơ Đất nước bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành vào năm 1955, sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Bài thơ gồm hai phần. Phần đầu được hình thành trên cơ sở những đoạn trích từ hai bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949). Phần sau được viết năm 1955. Đất nước được nhìn qua một không gian – thời gian độc đáo: mùa thu với mốc son lịch sử là sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tuy được viết trong những thời gian khác nhau nhưng cảm hứng thơ vẫn liền mạch và bài thơ là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh.

Nguyễn Đình Thi đã đúc kết những cảm xúc và suy ngẫm của mình về đất nước trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng thơ của tác giả kéo dài theo suốt hành trình kháng chiến, được nối kết với lịch sử oai hùng bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước và liên tưởng mở rộng tới tương tai tươi sáng của cách mạng. Đó chính là cảm hứng về một đất nước vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần được triển khai theo hướng từ cụ thể đến khái quát.

Trong bài thơ này, Nguyễn Đình Thi đã thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình về đất nước bằng hình ảnh mùa thu xưa, mùa thu nay và hình ảnh đất nước đau thương, bất khuất, anh hùng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thông qua đó, nhà thơ bày tỏ tình yêu đất nước, lòng căm thù giặc, niềm tự hào, niềm tin son sắt vào tương lai tươi sáng của dân tộc và đất nước.

Bài thơ chia làm hai đoạn: đoạn thứ nhất từ đầu đến …vọng nói về, đoạn thứ hai là phần còn lại. Mạch cảm xúc và suy tưởng cũng là kết cấu cơ bản của bài thơ. Khởi đầu là cảm xúc về một sớm mùa thu ở chiến khu Việt Bắc gợi nhớ về mùa thu đã xa của Hà Nội. Nỗi nhớ về mùa thu xưa dẫn dắt cảm xúc về mùa thu nay, mùa thu cách mạng với niềm tự hào của người công dân được làm chủ đất nước. Cảm xúc nâng cao, mở rộng về đất nước trong đau thương, căm hờn đã vùng lên chiến đấu bất khuất và chiến thắng vẻ vang : Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

Mở đầu bài thơ là cảm giác lâng lâng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời mùa thu Việt Bắc, gợi nhớ về những ngày thu đã xa của Hà Nội mến yêu:

Sáng mát trong như sáng năm xưa,
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

Chỉ bằng vài nét gợi tả mà tác giả đã thể hiện được không gian, thời gian, màu sắc, hương vị của mùa thu : không khí mát trong, gió thổi phảng phất mùi hương cốm mới, kết tinh của hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu. Hình ảnh mùa thu trong quá khứ và thực tại đan xen trong tâm tưởng của nhà thơ.
Mùa thu Hà Nội với những nét đặc trưng của khung cảnh thiên nhiên và con người hiện ra thật cụ thể, sinh động:

Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Làn gió heo may se lạnh thổi dọc lòng những con phố nhỏ, làm xao xác hàng cây, với những thềm nắng lá rơi đầy. Ẩn sau những câu thơ tả cảnh là Hà Nội thanh lịch có bề dày bốn nghìn năm lịch sử với Hồ Tây, Hồ Gươm, đền vua Lê, Tháp Bút, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc… Những di tích, danh lam thắng cảnh ấy là niềm tự hào to lớn của bao thế hệ người Hà Nội. Mùa thu Hà Nội giống như một bức tranh với đường nét mềm mại, màu sắc và ánh sáng hòa hợp gây ấn tượng sâu đậm, chất chứa tâm trạng. Trên cái nền phong cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh những chiến sĩ hào hoa, dũng cảm, tạm xa Thủ đô thân yêu để lên đường kháng chiến. Người ra đi đầu không ngoảnh lại đầy ý chí và quyết tâm nhưng lòng thì vẫn vấn vương, vẫn cảm nhận được bằng cả tâm hồn cái sắc vàng xao xuyến : Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. Câu thơ vừa thực vừa ảo. Tình thơ vương bao nhiêu lưu luyến bên trong. Nhịp thơ ngập ngừng, bâng khuâng như lòng người bâng khuâng, quyến luyến. Thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là bóng dáng khách chinh phu dứt áo ra đi vì nghĩa lớn : Tráng sĩ nhất khứ bất phục phản (Tráng sĩ một đi không trở lại). Cái không khí chớm lạnh, cái sắc nắng thu vàng một màu li biệt càng làm tăng thêm phong vị cổ điển của câu thơ, cảnh thu Hà Nội đẹp nhưng buồn vắng đến nao lòng.

Có thể nói bốn câu thơ miêu tả mùa thu Hà Nội là những câu thơ gây ấn tượng nhất trong bài. Nó phản ánh tâm hồn tinh tế và ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Thi. Dường như nỗi buồn, sự lưu luyến, xao xuyến, nhớ nhung của nhà thơ, vương vấn trong cái chớm lạnh của buổi đầu thu, trong xao xác hơi may, trong khung cảnh thềm nắng lá rơi đầy. Đặt tính từ xao xác trước hơi may là tác giả có ý nhấn mạnh đến nét đáng yêu, đáng nhớ nhất của gió thu và âm thanh tiêu biểu nhất của mùa thu. Nhịp điệu, âm hưởng thơ mang nỗi buồn man mác, hợp với khung cảnh huyền ảo của mùa thu Hà Nội. Nhà thơ đã phác họa nên bức tranh mùa thu Hà Nội với những đường nét mềm mại, màu sắc trong sáng làm xúc động lòng người, để lại ấn tượng khó phai. Đây cũng chính là biểu hiện của tình yêu Hà Nội thiết tha, say đắm và tình yêu ấy khiến cho cảm hứng của thi sĩ thăng hoa.

Đang hồi tưởng về một mùa thu đã xa của Hà Nội, cảm xúc của tác giả bỗng chuyển hướng sang mùa thu hiện tại bằng một câu thơ ngắn, âm điệu dứt khoát như một lời khẳng định:

Mùa thu nay khác rồi

Mùa thu nay là mùa thu thứ hai ở chiến khu Việt Bắc (1948) tràn đầy khí thế sau chiến thắng Thu Đông 1947. Ở đoạn thơ đầu, tiết tấu chậm, âm hưởng trầm lắng hợp với dòng hoài niệm, hợp với cảnh thu buồn và tâm trạng bâng khuâng, da diết. Đến đoạn này, những câu thơ được viết theo thể tự do, nhịp điệu sôi nổi, phóng khoáng; cảm xúc rạo rực, phấn khích, rộn rã, tươi vui:

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.

Bức tranh mùa thu nay hiện ra với những chi tiết, hình ảnh bình dị, dân dã, khỏe khoắn và tươi sáng. Giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, bao la của núi rừng Việt Bắc, hòa lòng mình vào cuộc kháng chiến thần thánh của toàn dân tộc, tâm trạng của chủ thể trữ tình có sự biến đổi rất rõ. Từ tâm trạng phảng phất buồn khi hoài niệm về mùa thu Hà Nội năm xưa đã chuyển sang tâm trạng hào hứng, sối nổi, tràn ngập niềm vui trước khung cảnh mùa thu ở chiến khu Việt Bắc. “Cái tôi trữ tình” cũng chuyển thành “cái ta” Nhà thơ không chỉ nhân danh cá nhân mà còn nhân danh cộng đồng để nói lên niềm tự hào chính đáng và ý thức làm chủ non sống, đất nước, cảm hứng về mùa thu của Nguyễn Đình Thi gắn liền với cảm hứng về đất nước trong từng thời kì lịch sử, mùa thu đất trời gắn liền với mùa thu cách mạng. Đất nước được nhìn ngắm, suy ngẫm từ một sự kiện lịch sử đáng nhớ: mùa thu 1945 cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Niềm vui mới to lớn tràn ngập lòng người, tràn ngập đất trời chiến khu Việt Bắc. Hình ảnh trong đoạn thơ này tươi mát, sống động. Từ ngữ được sử dụng rất chọn lọc nhằm nhấn mạnh cái khác của thu nay. Mùa thu với ngọn gió phóng khoáng thổi ào ào làm cả rừng tre phấp phới như bay như mua trên cái nền trong biếc của trời thu thay áo mới, trong biếc ở con mắt nhìn cảnh vật, giữa tiếng nói cười thiết tha rộn ràng của con người.

Đây là nét nghệ thuật độc đáo mà Nguyễn Đình Thi đã đem đến cho những bài thơ viết về mùa thu, thực sự thổi một luồng gió mới vào đề tài mùa thu trong thơ ca Việt Nam. Cái buồn, cái lạnh của thu xưa dường như đã lùi xa. Mùa thu nay đẹp đẽ, trong sáng bởi tâm hồn, đôi mắt của thi nhân đầy phấn chấn và tin tưởng. Sự tinh tế trong cảm xúc của tác giả thể hiện ở sự cảm nhận được nét riêng của không gian mùa thu: tiết trời êm ả, ánh nắng vàng dịu, bầu trời dường như xanh cao hơn, không khí như nhẹ hơn và mọi âm thanh cũng trở nên ngân xa, vang vọng. Từ cảm xúc về mùa thu đất nước dẫn đến tình cảm mến yêu tha thiết và lòng tự hào về đất nước, nhà thơ ngắm nhìn cảnh vật với tâm hồn phơi phới lạc quan, yêu đời. Niềm vui tràn ngập lòng người, tràn ngập đất trời.

Cội nguồn của niềm vui ấy thật to lớn, sâu xa. Đó là do đất nước sau Cách mạng tháng Tám đã về tay nhân dân. Đó là hạnh phúc lớn lao của dân tộc, của đất nước đã dành được chủ quyền thiêng liêng độc lập, tự do. Đoạn thơ với nhịp điệu rộn ràng, hào hứng và những hình ảnh đẹp đẽ, tươi mát đã thể hiện vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của đất nước thân yêu. Nhà thơ như reo như hát lên niềm hạnh phúc bất tận ấy:

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

Với nhạc điệu rộn ràng, náo nức, hình ảnh nối tiếp hình ảnh, quấn quýt hòa quyện vào nhau, đoạn thơ tạo nên vẻ đẹp của đất nước Việt Nam sau ngày độc lập. Âm hưởng đoạn thơ mênh mang bởi những âm tiết ngân vang: ta, thơm mát, bát ngát, phù sa… Các dòng thơ liên kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau để làm nổi bật ý thơ.

Điệp khúc là của chúng ta cứ ngân nga, vang vọng giữa đất trời, sông núi. Tất cả những gì thân yêu, quen thuộc trên đất nước này đều là của chúng ta. Còn gì sung sướng hơn, tự hào hơn bốn tiếng ấy sau hàng trăm năm nô lệ, dân tộc ta phải đổ bao xương máu mới giành được quyền làm chủ. Cũng nguồn cảm hứng say sưa, dạt dào như thế, nhà thơ Tố Hữu đã thốt lên: của ta, trời đất, đêm ngày ; Núi kia, đồi nọ, sống này của ta ! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên).

Cái thế đứng của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ là thế đứng của con người tự do kiêu hãnh ngẩng cao đầu, cảm hứng mở ra, vẽ ra những hình ảnh thân thương của đất nước với chiều rộng, chiều dài và sắc màu của bầu trời, núi rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông… Trời thu thay áo mới, Những cánh đồng thơm mát, Những ngả đường bát ngát, Những dòng sông đỏ nặng phù sa… càng trở nên bội phần đẹp đẽ vì đã về tay chúng ta.

Sắc đỏ của phù sa gợi liên tưởng tới những chiến sĩ đã hi sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ non sông. Chữ nặng không chỉ diễn tả lượng phù sa trong nước của dòng sông mà còn đặc tả bề dày của dòng chảy bốn nghìn năm lịch sử. Nước không chỉ đỏ nặng phù sa màu mỡ mà còn cuồn cuộn dòng máu quật cường. Những liên tưởng sâu xa ấy khiến cho cảm xúc thơ trở nên trầm lắng, thiết tha. Ý thơ đi từ những hình ảnh cụ thể, hữu hình, đến sự cảm nhận cái vô hình là truyền thống, là hồn thiêng đất nước. Nhà thơ suy ngẫm về chiều sâu, về bề dày của lịch sử để từ đó đúc kết thành chân lí:

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Không chỉ những sự vật hữu hình như bầu trời, cánh đồng, núi rừng, dòng sông… mà còn cả những yếu tố vô hình làm nên đất nước. Nước chúng ta – giản đơn ba chữ mà chất chứa tình cảm thiêng liêng pha lẫn tự hào. Câu thơ nước những người chưa bao giò khuất là lời khẳng định như chân lí bất di bất dịch về một thực tế hiển nhiên. Suốt chiều dài lịch sử bốn ngàn năm, trải qua bao phen chống ngoại xâm, có thắng có bại nhưng đất nước này, dân tộc này chưa bao giờ khuất phục trước bạo lực của quân thù. Truyền thống bất khuất ấy truyền từ đời này sang đời khác. Nhà thơ lắng nghe tiếng nói quật cường vọng lên từ lòng đất. Đất, qua tâm hồn nhà thơ và tâm hồn chúng ta, không chỉ xanh tốt những vạt rừng, thơm mát những cánh đồng, bát ngát những ngả đường, đỏ nặng phù sa của những dòng sông mà còn rì rầm tiếng nói đấu tranh bao đời không bao giờ tắt. Câu thơ trở nên trang trọng, trầm lắng khi nói đến tiếng vọng thiêng liêng của ngàn xưa rì rầm trong tiếng đất.

Tiêng đất là tiếng của lịch sử, là tiếng của hồn thiêng sông núi tự ngày xưa đang vọng nói về hiện tại. Mồ hôi, xương máu của tổ tiên, ông cha thấm vào lòng đất đã bao đời, thành tiếng đất luôn nhắc nhở các thế hệ con cháu hãy giữ lấy giang sơn gấm vóc của tổ tiên. Từ đó, nhà thơ suy nghĩ về đất nước trong chiến tranh giải phóng, trong đau thương căm hờn đứng lên chiến đấu bất khuất anh hùng.

Có thể nói ít có hình ảnh nào thể hiện nỗi đau thương tang tóc của dân tộc và đất nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lại cô đọng, hàm súc và gây ám ảnh sâu sắc như những hình ảnh trong hai câu thơ:

Ôi những cảnh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Dấu ấn khốc liệt của chiến tranh bao phủ khắp nơi. Đạn bom quân thù cày nát mặt đất, triệt hạ sự sống. Ánh hoàng hôn đỏ hắt xuống khiến những cánh đồng quê như chảy máu. Hàng rào dây thép gai quanh đồn bốt giặc tua tủa chĩa lên như muốn đâm nát trời chiều vốn tĩnh lặng, bình yên. Cả hai chiều không gian đều in đậm bóng dáng sự tàn phá, chết chóc của chiến tranh. Từng chữ, từng câu thơ oằn nặng bởi cảm xúc đau thương, căm giận.
Các hình ảnh trong đoạn thơ này hoàn toàn tương phản với hình ảnh trong đoạn thơ trên. Những cánh đồng quê chảy máu thay cho những cánh đồng thơm mát. Trời chiều bị dây thép gai đâm nát thay thế cho sắc trời thu trong biếc thanh bình. Cuộc sống êm ả xưa kia giờ không còn nữa. Đâu đâu cũng là cảnh tang tóc, đau thương. Bao nhiêu máu xương đã đổ xuống mảnh đất này.

Trên cái nền là đất nước đau thương ấy, nhà thơ khắc họa nổi bật hình ảnh và tâm trạng người chiến sĩ:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Nhà thơ cảm nhận sâu sắc những rung động tinh tế trong tâm hồn mỗi người lính ra trận. Đó là tâm trạng cháy bỏng yêu thương nhân dân và nung nấu hờn căm quân cướp nước. Mối căm thù sôi sục trong tim, thôi thúc những đêm dài hành quân không nghỉ. Mối căm thù dồn lên mũi lê, đầu súng nhằm thẳng quân thù. Nhưng chính lúc ấy cũng thấp thoáng hiện lên trong nỗi nhớ đôi mắt của người yêu chờ đợi khiến tâm hồn chiến sĩ ta bồn chồn, xao xuyến.

Hay nhất trong phần sau của bài thơ có lẽ là khổ thơ này. Phải là người từng trải, có vốn sống phong phú và trái tim dạt dào tình cảm nhân ái thì tác giả mới có cách diễn đạt tự nhiên về sự hài hòa giữa tình cảm riêng chung, giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước của người chiến sĩ.

Ở đoạn thơ cuối, tác giả dồn hết tâm huyết để tô đậm hình ảnh đất nước từ trong đau thương đã anh dũng đứng lên chiến đấu. Đó là hình tượng cao đẹp về đất nước muôn đời, về sự vươn mình vĩ đại của đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới:

Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ đứa lột da.

Nỗi đau xót như thấm sâu vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh tiêu biểu tạo nên ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Đặc biệt hình ảnh Bát cơm chan đầy nước mắt, Bay còn giằng khỏi miệng ta nói lên tột cùng tội ác của quân thù và tột cùng sự tủi cực của nhân dân ta trong vòng nô lệ. Nhưng bạo lực của kẻ thù đã không thể bắt chúng ta phải khuất phục:

Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước, thương nhà
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người ảo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng

Từ thực tế kháng chiến gian nan và hào hùng, Nguyễn Đình Thi đã viết nên những câu thơ khái quát về sự mất mát, hi sinh của đất nước cùng quyết tâm giành lại chủ quyền độc lập tự do của dân tộc ta. cả dân tộc đoàn kết thành một khối thống nhất, trán đẫm mồ hôi và mắt ngời hi vọng, rắn rỏi mạnh mẽ bước tới tương lai:

Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Cái hay của đoạn thơ này chính là âm điệu thơ hào hùng, sảng khoái. Tiếng nói trữ tình của nhà thơ mang âm vang tiếng nói của cả dân tộc đang hướng tới tương lai. Nhân dân ta đứng dậy giữ nước không chỉ bằng sức mạnh tình cảm mà còn bằng sức mạnh lí trí, có ánh sáng cách mạng soi dường và niềm tin vào tương lai tươi sáng.

Kết thúc bài thơ là hình ảnh đất nước từ trong đau thương, căm hận và máu lửa chiến tranh đã hiên ngang đứng dậy, tự khẳng định mình trước lịch sử và nhân loại:

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lừa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

Âm hưởng hào hùng, sảng khoái của đoạn thơ được tạo nên từ thể thơ sáu chữ với tiết tấu nhanh, mạnh, dồn dập cùng với hàng loạt hình ảnh đậm chất anh hùng ca lấy từ thực tế của chiến trường Điện Biên Phủ ác liệt mà nhà thơ đã trực tiếp tham gia và được tận mắt chứng kiến: “Tổ trông thấy các anh – Nguyễn Đình Thi kể – mình mẩy đầy bùn, nhưng khi nhảy lên trên mặt đất, các anh hiện lên chói lòa trong ánh nắng”. Tác giả đã tạo nên hình tượng thơ đẹp đẽ, hào hùng từ hình ảnh rất chân thực: trong máu lửa, bùn lầy, giữa tiếng đại bác rền vang rung trời chuyển đất, chiến sĩ ta từ các chiến hào ào ạt xông lên như nước vỡ bờ. Hình ảnh của họ nổi lên trên nền trời như một tượng đài kì vĩ của chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng.

Sau: Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, Máu trộn bùn non, Gan không núng, chí không mòn! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu), quân dân ta đã chiến thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chín năm trường kì gian khổ chống thực dân Pháp, mở ra một trang sử mới, khẳng định vị trí và tên tuổi của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

Đất nước là một bài thơ góp phần làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Thi trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ này tiêu biểu cho suy ngẫm sâu sắc của tác giả về đất nước. Với cảm hứng thơ lúc trầm lắng lúc sối trào, cùng với nhịp thơ biến đổi vô cùng linh hoạt, hình ảnh đất nước cứ ngời lên trong khổ đau, gian nan, vất vả. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ của đất nước trong đau thương. Ý tưởng về một đất nước đau thương mà hào hùng, bất khuất không phải chỉ Nguyễn Đình Thi mới có, nhưng do hình tượng trong thơ ông thấm đẫm cảm xúc bỉ tráng, gắn với những ấn tượng sâu sắc nên Đất nước là một tác phẩm xuất sắc, đủ sức vượt qua mọi thử thách của thời gian để sống mãi trong lòng người đọc.

Sưu tầm
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top